Tài liệu Luận văn Nghiên cứu đầu tư phát triển nông nghiệp Hà Tây: LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI: “Đầu tư phát triển nông
nghiệp Hà Tây”
Mục lục Trang
Lời nói đầu 1
Chương I. Những vấn đề về lí luận chung 3
I. Bản chất và vai trò của đầu tư đối với nền kinh tế 3
1.Các khái niệm chung 3
2. Phân loại hoạt động đầu tư 4
3.Vai trò của đầu tư đối với nền kinh tế 5
3.1Tác động tới tổng cung và tổng cầu 5
3.2 Ảnh hưởng hai mặt đến sự ổn định kinh tế 6
3.3 Tác động tới tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế 6
3.4 Nhân tố quan trọng tác động đến quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế 7
3.5 Nâng cao trình độ khoa học công nghệ và giải quyết việc làm 8
4.Quản lí hoạt động đầu tư 9
4.1Khái niệm 9
4.2 Mục tiêu của quản lí đầu tư 9
4.3 Nguyên tắc 9
5.Kế hoạch hoá đầu tư 10
5.1 Nguyên tắc 10
5.2 Trình tự lập kế hoạch đầu tư 11
5.3 Điều kiện để dự án được ghi vào kế hoạch 11
II. Đầu tư- nhân tố quyết định đối với phát triển nông nghiệp 11
1.Giới thiệu về nông ngiệp 11
1.1.Khái niệm nông nghiệp 12
1.2Đặc điểm nông ngh...
91 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 989 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nghiên cứu đầu tư phát triển nông nghiệp Hà Tây, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI: “Đầu tư phát triển nông
nghiệp Hà Tây”
Mục lục Trang
Lời nói đầu 1
Chương I. Những vấn đề về lí luận chung 3
I. Bản chất và vai trò của đầu tư đối với nền kinh tế 3
1.Các khái niệm chung 3
2. Phân loại hoạt động đầu tư 4
3.Vai trò của đầu tư đối với nền kinh tế 5
3.1Tác động tới tổng cung và tổng cầu 5
3.2 Ảnh hưởng hai mặt đến sự ổn định kinh tế 6
3.3 Tác động tới tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế 6
3.4 Nhân tố quan trọng tác động đến quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế 7
3.5 Nâng cao trình độ khoa học công nghệ và giải quyết việc làm 8
4.Quản lí hoạt động đầu tư 9
4.1Khái niệm 9
4.2 Mục tiêu của quản lí đầu tư 9
4.3 Nguyên tắc 9
5.Kế hoạch hoá đầu tư 10
5.1 Nguyên tắc 10
5.2 Trình tự lập kế hoạch đầu tư 11
5.3 Điều kiện để dự án được ghi vào kế hoạch 11
II. Đầu tư- nhân tố quyết định đối với phát triển nông nghiệp 11
1.Giới thiệu về nông ngiệp 11
1.1.Khái niệm nông nghiệp 12
1.2Đặc điểm nông nghiệp nói chung 12
1.3Đặc điểm nông nghiệp Việt Nam 15
1.4. Vai trò của nông nghiệp 17
2.Đầu tư- nhân tố quyết định đối với phát triển nông nghiệp 19
3. Đặc trưng đầu tư trong nông nghiệp 22
4. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư trong nông nghiệp 24
Chương II. Thực trạng đầu tư phát triển nông nghiệp Hà Tây 26
I.Những nguồn lực cho sự phát triển nông nghiệp Hà Tây 26
1.Giới thiệu các nguồn lực Hà Tây 26
1.1 Điều kiện tự nhiên 26
1.2 Dân số và lao động 29
2.Những thuận lợi và thách thức. 30
2.1Thuận lợi 30
2.2Thách thức 31
II.Tổng quan về tình hình đầu tư tỉnh Hà Tây (giai đoạn 1996 - 2000) 31
1.Theo nguồn vốn 31
2.Theo cơ cấu ngành kinh tế 34
3.Theo cấp quản lí 35
III. Tình hình đầu tư phát triển nông nghiệp Hà Tây
( giai đoạn 1996- 2000) 37
1.Theo cơ cấu vốn đầu tư 37
1.1Vốn ngân sách nhà nước 39
1.2 Vốn từ thuế nông nghiệp 42
1.3 Vốn tự cân đối 46
1.4 Vốn tín dụng ưu đãi 48
2.Theo cơ cấu lĩnh vực đầu tư 49
3.Theo vùng lãnh thổ 52
IV. Kết quả và hiệu quả đầu tư vào nông nghiệp tỉnh Hà Tây 54
1.Kết quả đầu tư 54
1.1Ảnh hưởng chung tới sự phát triển kinh tế toàn tỉnh 54
1.2Đối với sản xuất nông nghiệp 56
1.3Tác động đến cơ cấu nông nghiệp 59
1.4Đối với hệ thống thuỷ lợi 63
2.Hiệu quả đầu tư 64
2.1Chỉ tiêu GDP/GO 64
2.2Chỉ tiêu GDP/Vốn đầu tư 65
2.3Chỉ tiêu GDP tăng thêm/ vốn đầu tư 65
2.4Chỉ tiêu Bình quân lương thực qui thóc 66
2.5 Chỉ tiêu Hiệu quả lao động 66
Chương III. Phương hướng và giải pháp cho đầu tư phát triển
nông nghiệp Hà Tây 68
I.Định hướng phát triển nông nghiệp 68
1.Định hướng chung của Đảng và nhà nước 68
2.Định hướng phát triển nông nghiệp của tỉnh Hà Tây 69
II .Những vấn đề tồn tại trong thời gian qua 70
III. Một số giải pháp cho đầu tư phát triển nông nghiệp 71
1 .Giải pháp về chính sách đầu tư 71
1 .1Chính sách của các cấp chính quyền 71
1. 2 Qui hoạch đầu tư trong nông nghiệp khoa học và hợp lí. 73
1. 3 Đầu tư nông nghiệp đi liền với đầu tư cho công nghiệp chế biến 75
2.Giải pháp về huy động vốn 75
2.1 Đối với vốn đầu tư của doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư 76
2.2 Đối với nguồn vốn nước ngoài 77
2.3 Có những chính sách ưu tiên đối với đầu tư và sản xuất
trong nông nghiệp 78
3.Quản lí hoạt động đầu tư 79
IVKiến nghị 82
Kết luận 83
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
1
Lời nói đầu
Công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước là đòi hỏi tất yếu của các quốc
gia đang phát triển trên thế giới trong quá trình phát triển kinh tế xã hội hiện
nay nhưng phát triển một nền nông nghiệp vững mạnh và ổn định là không thể
thiếu được. Nước Việt Nam chúng ta có truyền thống về nông nghiệp thì để
tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá chỉ thu được thành công khi chúng ta
đã đảm bảo an toàn về lương thực thực phẩm- tức có ngành nông nghiệp phát
triển.
Như vậy đối với một tỉnh nông nghiệp như Hà Tây, bên cạnh việc chú ý
phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ , phát triển nông nghiệp vẫn là ưu
tiên số một trong quá trình phát kinh tế xã hội của mình. Do vậy đầu tư sẽ là
nhân tố cực kì quan trọng tạo nên sự phát triển mạnh ngành nông nghiệp . Vì
thế ,có thể nói trong thời gian vừa qua ngành nông nghiệp tỉnh Hà Tây nhờ có
sự đầu tư mạnh mẽ của nhà nước ,của toàn tỉnh nên có sự phát triển vượt bậc.
Bởi vì đầu tư không những tạo ra cơ sở hạ tầng hiện đại cho nông nghiệp mà
còn giúp nông nghiệp có những giống mới ,những phương tiện sản xuất mới
tiên tiến và các phương thức sản xuât mới.
Nghiên cứu về đầu tư và tìm ra những giải pháp để thu hút vốn đầu tư ,nâng
cao hiệu quả đầu tư là một trong những vấn đề trọng tâm của tỉnh Hà Tây và
luôn được quan tâm chú ý. Trên cơ sở nghiên cứu về tình hình đầu tư nông
nghiệp Hà Tây trong giai đoạn 1996 -2000,về những phương hướng và giải
pháp cho đầu tư trong thời gian tới, cũng như muốn đóng góp một phần vào
công cuộc đầu tư ngành nông nghiệp ; tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu:
"Đầu tư phát triển nông nghiệp Hà Tây”
Nội dung chính gồm các phần chủ yếu sau :
Chương I. Những vấn đề lí luận chung
Chương II. Thực trạng đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hà Tây
ChươngIII. Phương hướng và giải pháp cho đầu tư phát triển nông
nghiệp Hà Tây
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
2
Do trình độ còn hạn chế cũng như tài liệu thu thập còn chưa đầy đủ nên
trong quá trình viết bài sẽ không tránh khỏi những thiếu xót hạn chế . Tôi
mong nhận được sự góp ý của thầy cô cũng như bạn đọc để giúp tôi hoàn thiện
hơn nữa
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo : Nguyễn Thị Thu Hà đã tận tình
giúp đỡ trong quá trình hoàn thiện đề tài
Cháu cũng xin chân thành cảm ơn các bác ,các cô chú và các anh chị phòng
Thẩm định- Xây dựng cơ bản và phòng Tổng hợp Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh
Hà Tây đã cung cấp tài liệu và tận tình hướng dẫn.
Sinh viên thực hiện
Trương Bá Hiển
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
3
Chương I. Những vấn đề về lí luận chung
I. Bản chất và vai trò của đầu tư đối với nền kinh tế
1. Các khái niệm.
*Khái niệm chung về đầu tư
+Xét trên góc độ tiêu dùng: Đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện tại
để thu được mức tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai
+Xét trên góc độ tài chính: Đầu tư là một chuỗi các hoạt động chi tiêu để
chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn và sinh lời.
Khái niệm trình bày ở trên về đầu tư được xem xét ở hai khía cạnh khác
nhau, do vậy rất khó cho việc nghiên cứu và hiểu chính xác về nó . Chính vì
vậy, các nhà kinh tế đã đưa ra khái niệm trung nhất về đầu tư.
Đầu tư : là sự bỏ vốn ra cùng với các nguồn lực khác( như tiền của, sức lao
động, trí tuệ...) trong hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó hoặc tạo ra
hay khai thác sử dụng một tài sản nào đó ngằm thu về các kết quả có lợi trong
tương lai.
*Khái niệm đầu tư phát triển:
Trong đầu tư thì người ta lại chia thành các loại đầu tư cụ thể như sau:
+ Đầu tư thương mại
+Đầu tư tài chính
+Đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ vốn ra để tiến
hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế làm tăng tiềm lực
sản xuấ kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo
việc làm và nâng cao đời sống của người dân trong xã hội.
*Khái niệm vốn đầu tư.
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
4
Trong đầu tư người ta cũng hay đề cập đến một thuật ngữ là vốn đầu tư, đây
chính là yếu tố quyết định tính chất qui mô của dự án.
+ Dưới hình thái tiền tệ : Vốn đầu tư là khoản tiền tích luỹ của xã hội ,của
các cơ sở sản xuất kinh doanh , dịch vụ; là tiền tiết kiệm của dân và huy động
từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội
nhằm duy trì các tiềm lực sẵn có vào tạo ra những tiềm lực mới cho nền kinh
tế.
+ Dưới hình thái vật chất : Vốn đầu tư bao gồm các loại máy móc thiết bị,
nhà xưởng ,các công trình hạ tầng cơ sở, các loại nguyên liệu ,vật liệu,các sản
phẩm trung gian khác...
Vốn đầu tư là yếu tố không thể thiếu được của các công cuộc đầu tư.Trong
nền kinh tế phát triển , vai trò của vốn đầu tư là tối quan trọng, nó góp phần tạo
sự phát triển mạnh cho nền kinh tế
*Khái niệm hoạt động đầu tư :là việc sử dụng vốn đầu tư để phục hồi năng lực
sản xuất và tạo ra năng lực sản xuất mới, đó là quá trình chuyển hoá vốn thành
các tài sản phục vụ cho quá trình sản xuất.
2.Phân loại hoạt động đầu tư.
Hoạt động đầu tư có thể được phân chia theo nhiều cách khác nhau, phụ
thuộc vào mục đích của người nghiên cứu và các nhà quản lí đầu tư. Sau đây là
một số cách phân loại chính:
Theo đối tượng đầu tư :
+ Đầu tư vật chất ( đầu tư tài sản vật chất hoặc tài sản thực như nhà xưởng
,máy móc thiết bị...)
+ Đầu tư tài chính :
Theo cơ cấu sản xuất :
+ Đầu tư chiều rộng: nhằm mở rộng sản xuất ,đòi hỏi lượng vốn lớn có
tính chất kĩ thuât phức tạp trong thời gian dài
+ Đầu tư chiều sâu : nhằm nâng cao trình độ khoa học công nghệ, lượng
vốn không lớn và tính chất kĩ thuật không phức tạp, và thời gian không
dài...
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
5
Theo phân cấp quản lí
+ Dự án nhómA do thủ tướng quản lí
+Dự án nhóm B,C do bộ ,cơ quan ngang bộ hoặc UBND các tỉnh, thành
phố quản lí
Theo nguồn vốn huy động
+ Vốn huy động trong nước
+Vốn huy động từ nước ngoài.
Theo thời gian :
+ Đầu tư ngắn hạn
+ Đầu tư trung hạn
+ Đầu tư dài hạn
Theo vùng lãnh thổ: phản ánh tình hình đầu tư của từng vùng kinh tế, từng
tỉnh
Ngoài các hình thức phân loại trên , còn có các hình thức phân loại khác mà
không được nêu trong bài này. Do vậy tuỳ theo mục đích mà người ta có thể
lựa chọn sử dụng từng cách phân loại cho phù hợp
3.Vai trò của đầu tư đối với nền kinh tế
Từ trước tới nay khi nói về đầu tư, không một nhà kinh tế học nào và
không một lí thuyết kinh tế nào lại không nói đến vai trò to lớn của đầu tư đối
với nền kinh tế . Có thể nói rằng đầu tư là cốt lõi là động lực cho sự tăng
truởng và phát triển nền kinh tế
3.1 Tác động tới tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế.
Đầu tư tác động mạnh tới tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế. Mức độ
tác động cũng như thời gian ảnh hưởng là khác nhau.
Đối với tổng cầu: Đầu tư là một yếu tố cực kì quan trọng cấu thành tổng
cầu. Bởi vì , đầu tư một mặt tạo ra các sản phẩm mới cho nền kinh tế mặt
khác nó lại tiêu thụ và sử dụng một khối lượng lớn hàng hoá và dịch vụ trong
quá trình thực hiện đầu tư. Do vậy, xét về mặt ngắn hạn đầu tư tác động trực
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
6
tiếp tới tổng cầu theo một tỉ lệ thuận- Mỗi sự thay đổi của đầu tư đều ảnh
hưởng tới ổn định của tổng cầu nền kinh tế.
Đối với tổng cung: Ta biết rằng,tiến hành một công cuộc đầu tư đòi hỏi
một nguồn lực, một khối lượng vốn lớn , thành quả (hay các sản phẩm và dịch
vụ mới của nền kinh tế) của các công cuộc đầu tư đòi hỏi một thời gian khá
dài mới có thể phát huy tác dụng . Do vậy, khi các thành quả này phát huy tác
dụng làm cho sản lượng của nền kinh tế tăng lên. Như vậy , đầu tư có tính
chất lâu dài và nó sẽ làm cho đường tổng cung dài hạn của nền kinh tế tăng lên
.
Qua sự phân tích trên ta thầy rằng , đầu tư ảnh hưởng mạnh tới cả tổng
cung và tổng cầu. Bởi vì, xét về mặt cầu thì đầu tư tiêu thụ một khối lượng lớn
hàng hoá và dịch vụ cho nền kinh tế nhưng đứng về mặt cung thì nó làm cho
sản xuất gia tăng, giả cả giảm, tạo công ăn việc làm và làm tăng thu nhập từ đó
kích thích tiêu dùng. Mà sản xuất phát triển chính là nguồn gốc của phát triển
kinh tế xã hội, là điều kiện để cải thiện đời sống con người.Như vậy đầu tư là
nhân tố cho sự tăng trưởng và phát triển một nền kinh tế.
3.2 Ảnh hưởng hai mặt tới sự ổn định nền kinh tế.
Khi nghiên cứu về đầu tư ai cũng hiểu rằng đầu tư luôn có một độ trễ nhất
định, tức là "đầu tư hôm nay , thành quả mai sau”. Ngoài ra do đầu tư có ảnh
hưởng tới tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế không ăn khớp về thời gian do
vậy nó có thể phá vỡ sự ổn định của một nền kinh tế.Nếu đầu tư tốt nó có thể
giúp cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển . Ví dụ như các nước NICs, do
có đầu tư hiệu quả nên từ những nước còn nghèo đã trở thành những nước
công nghiệp với nền kinh tế công nghiệp tương đối phát triển.
Giả sử bây giờ ta tăng đầu tư trong nước, khi đó làm cho nhu cầu tiêu thụ
hàng hoá và dịch vụ liên quan đến công cuộc đầu tư như máy móc , thiết bị sức
lao động, nguyên vật liệu... tăng theo . Điều đó làm cho tổng cầu của nền kinh
tế của những loại hàng hoá này tăng lên, theo qui luật cung cầu của kinh tế dẫn
đến giả cả của những hàng hoá này cũng tăng lên một cách mạnh mẽ, và đến
một mức độ nào đó có thì dẫn tới lạm phát ,với tỷ lệ có thể là rất cao. Khi lạm
phát xảy ra, giá cả tăng vọt, dẫn đến các chi phí đầu vào cho sản xuất tăng lên
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
7
dấn đến sản xuất bị đình trệ, và người lao động thất nghiệp , nền kinh tế bị
giảm thu nhập và đời sống của các tầng lớp dân cư bị gảm sút. Tất cả những
điều đó làm cho nền kinh tế lâm vào khủng hoảng trì trệ và làm giảm tốc độ
phát triển. Tuy nhiên nếu các quốc gia điều tiết đầu tư thì không những khắc
phục được những ảnh hưởng tiêu cực mà còn làm cho nó trở thành động lực
cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
3.3 Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển nền kinh tế .
Ta thấy rõ rằng đầu tư có ảnh hưởng đến tổng cung và tổng cầu và tác
động đến sự ổn định của nền kinh tế . Như vậy, sự tăng trưởng và phát triển
của nền kinh tế sẽ chịu ảnh hưởng rất lớn của đầu tư .
Để xem xét cụ thể ta có thể sử dụng hàm Harrod- Domar để minh hoạ mối
quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và vốn đầu tư .
i
k = -----------
g
Trong đó: + k: hệ số gia tăng vốn trên sản lượng hay hệ số ICOR
+ i: Vốn đầu tư
+ g: Mức tăng GDP
i
Từ đó suy ra : g = -------------
k
Như vậy, nếu ICOR không đổi thì tốc độ tăng trưởng GDP hoàn toàn phụ
thuộc vào vốn đầu tư hay nói cách khác đầu tư quyết định sự tăng truởng của
nền kinh tế.
Đối với mỗi quốc gia khác nhau ICOR cũng khác nhau ,nó tuỳ thuộc
vào trình độ phát triển kinh tế xã hội và cơ chế chính sách của nhà nước .Đối
với các nước đang phát triển có ICOR thấp còn các nước phát triển ngược lại .
Đồng thời chỉ số ICOR của nhiều ngành kinh tế là khác nhau , trong đó ICOR
trong nông nghiệp thường là rất thấp tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp cũng
không cao.
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
8
Ngoài ra đầu tư còn làm tăng năng suất lao động,chất lượng sản phẩm
,năng lực sản xuất do vậy thay đổi tốc độ phát triển kinh tế . Vì vậy đối với mỗi
quốc gia cần có một chính sách thích hợp để huy động vốn và đầu tư có hiệu
quả nhằm nâng cao tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế nước mình .
3.4 Đầu tư tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế .
Một quốc gia được coi là phát triển khi cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp -dịch vụ -nông nghiệp trong đó công nghiệp và dịch vụ chiếm một tỷ lệ
cao trong GDP của nước đó . Bởi vì nông nghiệp do nhiều hạn chế về điều kiện
tự nhiên và khả năng sinh học của cây trồng vật nuôi nên chỉ có tốc độ tăng
trưởng tối đa từ 5-6% .Do vậy khi công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ lệ cao , nó
có khả năng đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước đó lên cao 9-10% năm .
Muốn vậy chúng ta phải chính sách đầu tư thoả đáng .Mỗi nước cần tăng
cường tỷ lệ đầu tư cho công nghiệp và dịch vụ và có nhiều chính sách phát huy
hiệu quả của đầu tư có vậy thì mới có công nghiệp và dịch vụ phát triển .
Trong nông nghiệp ta cũng nên đầu tư nhiều hơn cho chăn nuôi bởi chăn
nuôi thường có tỷ lệ tăng trưởng mạnh hơn trồng trọt .
Còn đối với cơ cấu vùng lãnh thổ một quốc gia phát triển thường có cơ cấu
kinh tế lãnh thổ cân đối và đồng đều giữa các vùng trong cả nước .Do vậy bên
cạnh việc đầu tư trọng điểm để phát triển thành thị và các vùng đồng bằng
chúng ta cũng cần có chính sách để đầu tư phát triển kinh tế các vùng núi và
nông thôn để vừa phát triển kinh tế xã hội vừa tạo sự cân bằng ổn định trong
nước.
3.5. Đầu tư góp phần nâng cao trình độ khoa học công nghệ :
Ta biết rằng khoa học công nghệ là trung tâm của đời sống kinh tế xã hội
hiện đại. Một đất nước, một quốc gia chỉ phát triển được khi có khoa học công
nghệ tiên tiến và hiện đại. Ở các nước phát triển, họ có mức đầu tư lớn, có quá
trình phát triển lâu dài nên trình độ khoa học công nghệ của họ hơn hẳn các
nước khác trên thế giới. Khi họ áp dụng các thành tựu này làm cho nền kinh tế
có mức độ tăng trưởng mạnh mẽ, đời sống nhân dân nâng cao. Còn đối với các
nước đang phát triển, do công nghệ nghèo làn, lạc hậu lại không có điều kiện
để nghiên cứu phát triển khoa học kĩ thuật nền kinh tế phát triển rất thấp, sản
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
9
xuất kém phát triển và bị phụ thuộc vào các nước công nghiệp . Muốn thoát
khỏi tình trạng này thì các nước phải tăng cường đầu tư và tìm cách thu hút đầu
tư từ bên ngoài vào trong nền kinh tế. Đầu tư ở đây được hiểu là các nước này
thu hút công nghệ hiện đại bên ngoài phù hợp đồng thời tổ chức nghiên cứu để
phát minh ra các công nghệ mới hiện đại hơn. Quá trình công nghiệp hoá hiện
đại của các nước này có thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào việc
đầu tư phát triển khoa học công nghệ.Có thể khẳng định rằng đầu tư khoa học
công nghệ là một chính sách cực kì quan trọng trong quá trình phát triển kinh
tế xã hội.
Ngoài các vai trò chính yếu trên,đầu tư còn có một vài vai trò khác như
làm tăng ngân sách cho chính phủ, góp phần làm ổn định đất nước, mở
rộng ảnh hưởng của quốc gia...
Qua việc phân tích trên ta có thể khẳng định rằng đầu tư là chìa khoá
cho sự phát triển của mỗi quốc gia và cho toàn thế giới.
4.Quản lí đầu tư.
Đây là hoạt động có ảnh hưởng rất mạnh tới kết quả và hiệu quả đầu tư của
một đất nước nói chung, của một ngành kinh tế nói riêng
4.1 Khái niệm
Quản lí đầu tư chính là sự tác động liên tục , có tổ chức, có định hướng
quá trình đầu tư ( bao gồm công tác chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận
hành kết quả đầu tư cho đến khi thanh lí tài sản do đầu tư tạo ra ) bằng một hệ
thống đồng bộ các biện pháp kinh tế xã hội và tổ chức kĩ thuật cùng các biện
pháp khác nhằm đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao trong những điều kiên cụ
thể và trên cơ sở vận dụng sáng tạo những qui luật kinh tế.
4.2 Mục tiêu của quản lí đầu tư : được xem xét dưới hai góc độ
Vĩ mô:
+ Đáp úng tốt nhất việc thực hiện các mục tiêu của chiến lược phát triển
ngành trong từng thời kì nhất định
+ Huy động tối đa và sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực trong và ngoài
nước
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
10
+ Đảm bảo quá trình thực hiện đầu tư xây dựng các công trình theo đúng
qui hoạch, kiến trúc định ra
Vi mô
Đó là việc đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất với chi phí bỏ ra thấp
nhất trong một giai đoạn nhất định. Mục tiêu này được cụ thể trong từng giai
đoạn của quá trình đầu tư . Mục tiêu này ở các cơ sở, nếu thực hiện tốt sẽ làm
cho các công cuộc đầu tư của nó đạt kết quả cao và thúc đẩy cơ sở đó đi lên
4.3 Các nguyên tắc
Thống nhất giữa lãnh đạo chính trị, kinh tế; kết hợp hài hoà giữa hai mặt
kinh tế và xã hội. Nguyên tắc này đòi hỏi ngành kinh tế vừa phải phát triển
nhưng mặt khác nó phải theo định hướng chung của Đảng và nhà nước và
tạo công ăn việc làm , tăng thu nhập cho người lao động
Tập trung dân chủ:Đòi hỏi mỗi ngành kinh tế phải được đạt dưới một sự
lãnh đạo thống nhất của nhà nước nhưng những ddịnh hướng , chiến lược
chúng phải nhận được sự đóng góp của cấp dưới. Bên cạnh hướng phát
triển chung thì mỗi ngành kinh tế ở mỗi địa phương có thể tuỳ theo đặc
điểm của mình mà có những chính sách phát triển phù hợp
Quản lí theo ngành kết hợp với quản lí theo địa phương , vùng lãnh thổ.
Đòi hỏi tại mỗi địa phương , từng ngành phải phát triển trong tổng thể chung
của địa phương đó, dảm bảo sự phát triển toàn diện các ngành kinh tế ở địa
phương.
Kết hợp hài hoà giữa các loại lợi ích : nó đòi hỏi mỗi công cuộc đầu tư
không chỉ đáp ứng đơn thuần là lợi ích tài chính mà còn phải đáp ứng cả
lợi ích xã hôi, lợi ích cộng đồng.
Tiết kiệm và hiệu quả: đòi hỏi một ngành với vốn đầu tư nhất định, ít các
chi phí mà thu được hiệu quả cac nhất
Phải đảm bảo thực hiện đúng trình tự đầu tư và xây dựng
Quản lí hoạt động đầu tư có vai trò quan trọng đối với sự thanh công của
các công cuộc đầu tư ở mỗi ngành, mỗi địa phương và trên cả đất nước.
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
11
5. Kế hoạch hoá đầu tư :
Nó vừa là nội dung, vừa là một công cụ để quản lí hoạt động đầu tư. Công tác
kế hoạch hoá đầu tư có tính chất hướng dẫn ,địn hướng cho việc thực hiện đầu
tư sau đó
5.1 Các nguyên tắc
+ Kế hoạch đầu tư của ngành phải xuất phát từ yêu cầu chung của đường lối
phát triển ngành đó, của cả nền kinh tế và nhu cầu của thị trường trong và
ngoài nước.
+ Phải đảm bảo qui luật khách quan, khoa học và tính hiện thực của các
phương án.
+ Kết hợp tốt về các mặt trong ngành kinh tế đó: tạo điều kiện khai thác hết
các tiềm năng của ngành, để nó phát triển toàn diện hơn
+Kế hoạch hoá ở cấp cao sẽ mang tính định hướng, kế hoạch ở các địa phương
sẽ cụ thể hoá , thực hiện đường lối đó: Điều này sẽ bảo đảm kế hoạch được
thực hiện thống nhất từ trên xuống và không bị chồng chéo
+ Phải có độ tin cậy cao va tối ưu
5.2 .Trình tự lập kế hoạch đầu tư:
Kế hoạch đầu tư ở đây được lập chủ yếu cho ngân sách nhà nước đầu tư vào
ngành kinh tế; theo trình tự sau
-Xác định nhu cầu về chủng loại và khối lượng sản phẩm . dịch vụ cho sản
xuất và tiêu dùng của kỳ kế hoạch mà ngành kinh tế phải đảm nhiệm
- Xác định khả năng đáp ứng nhu cầu của với các điều kiện hiện có ở đầu kì
kế
hoạch để xem khả năng của ngành đó ra sao
- Xác định các năng lực và dịch vụ mới cần tăng thêm trong kì
- Tiến hành lập kế họch đầu tư để đáp ứng năng lực mới tăng thêm cho kì kế
hoạch thông qua các dự án đầu tư. Việc lập kế hoạch đầu tư theo dự án lại được
tiến hành theo các bước sau đây:
+ Kế hoạch cho điều tra, khảo sát
+ Kế hoạch chuẩn bị đầu tư
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
12
+ Kế hoạch chuẩn bị thực hiện dự án đầu tư
+ Kế hoạch thực hiện dự án.
5.3 Các điều kiện được ghi dự án vào kế hoạch đầu tư:
+ Phải nằm trong qui hoạch ngành
+ phải có quyết định đầu tư ( mới được ghi vào kế hoạch chuẩn bị thực hiện
dự án)
+ Phải có thiết kế kĩ thuật và tổng dự toán hay thiết kế kĩ thuât và dự toán cho
các giai đoạn đầu tư đối với các công trình lớn.
II. Đầu tư- nhân tố quyết định đối với sự phát triển nông nghiệp
1. Giới thiệu về nông nghiệp
1.1 Khái niệm.
Con người sinh ra trên đời không thể không ăn mà vẫn có thể tồn tại và
phát triển được,cho nên nhu cầu về lương thực thực phẩm là nhu cầu cấp thiết
của loài người. Muốn có lương thực và thực phẩm phải hình thành và phát triển
ngành nông nghiệp.Do vậy mà nông nghiệp xuất hiện từ rất sớm trong đời sống
loài người. Trong suốt một thời gian dài lịch sử nhân loại, ở phương Đông
cũng như phươngTây,nông nghiệp là một ngành cực kì quan trọng, không một
ngành nào có thể sánh được. Ngày nay, nông nghiệp không còn có được vị trí
như trước nữa và cũng là ngành có trình độ phát triển thấp kém hơn so với các
ngành khác trong nền kinh tế vì vậy phát triển nền nông nghiệp mạnh vẫn là
đòi hỏi thiết yếu của hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Nông nghiệp hiểu theo nghĩa rộng nhất bao gồm nông - lâm- ngư nghiệp,
phát triển nông nghiệp cũng có nghĩa là phát triển nông - lâm - ngư nghiệp.
Ngoài ra phát triển nông nghiệp còn gắn liền với phát triển nông thôn và nâng
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
13
cao các điều kiện sinh hoạt ở nông thôn. Nông nghiệp được hiểu theo nghĩa
hẹp chỉ bao gồm hai nghành trồng trọt và chăn nuôi.
Việt Nam chúng ta là một nông nghiệp lâu đời với truyền thống hàng
nghìn năm trồng lúa nước .Có thể nói nước ta có nhiều điều kiện về tự nhiên và
con người rất thuân lợi cho việc phát triển một nền nông nghiệp vững mạnh..
Tuy rằng, nông nghiệp chiếm một vị trí ngày càng thấp kém trong nền kinh tế
nhưng trong giai đoạn này nó vẫn là một ngành kinh tế quan trọng , góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xuất khẩu và thu ngoại tệ cho đất nước, cải thiện
đời sống nhân dân... Phát triển nông nghiệp là yêu cầu cấp thiết của đất nước
trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước
1.2 Đặc điểm của nông nghiệp nói chung
Từ việc nghiên cứu tình hình thực tế và những kinh nghiệm của người đi
trước, người ta thấy rằng ngành nông nghiệp có một vài đặc điểm sau:
a.Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu.
Đây là một đặc điểm cực kì quan trọng và khác biệt của nông nghiệp.
Trong nông nghiệp, đặt biệt trong trồng trọt thì đất là một yếu tố sản xuất
không thể thiếu được, đất vừa là nơi sản xuất cũng chính là yếu tố quyết định
cho sự sinh tồn của cây trồng , như vậy đất là không thể thiếu cho nông nghiệp.
Cùng với các yếu tố khác như sự chăm sóc của con người, tưới tiêu và thời
tiết, chất lượng đất đai có ảnh hưởng mạnh tới năng suất chất lượng sản phẩm
nông nghiệp và thành quả lao động của người nông dân, Vì thế , muốn nông
nhgiệp đạt kết quả cao thì phải có những biện pháp tác động và đất đai.Tuy
nhiên đất là do tự nhiên tạo ra cho nên ta không thể thay đổi hoàn toàn những
điều kiện của đất. Do đặc điểm này mà mức độ tác động của con người trong
sản xuất nông nghiệp là rất hạn chế, mức độ áp dụng tiến bộ khoa học cũng
không thật nhiều nên nông nghiệp là ngành có tốc độ phát triển không cao và
nhanh như các ngành kinh tế khác.Tuy vậy, đối với một số lĩnh vực chăn nuôi
đất đai cũng chỉ là mặt bằng để tiến hành sản xuất như các ngành kinh tế khác
và nó không chịu nhiều ảnh hưởng của đất.
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
14
b.Đối tượng sản suất là những cơ thể sống
Một đặc điểm khác nữa của nông nghiệp so với các ngành kinh tế khác là
đối với các ngành này thì đối tượng sản xuất là những sản phẩm hàng hoá còn
đối tượng sản xuất nông nghiệp là những cơ thể sống , đó là nhưng cây trồng
vật nuôi có sẵn trong tự nhiên được con người đem về thuần dưỡng. Những đối
tượng này thường có những qui luật tăng trưởng và phát triển nhất định, mặc
dù đã được con người thay đổi ít nhiều, chúng cũng chịu ảnh hưởng rất mạnh
mẽ của các điều kiện tự nhiên và cũng không thể tăng trưởng quá mức cho
phép của qui luật tự nhiên. Vì những đặc trưng trên mà ngành nông nghiệp có
tốc độ tăng trưởng thấp hơn so với các ngành kinh tế khác. Tuy nhiên ,tốc độ
tăng trưởng nông nghiệp có thể đạt cao hơn nếu con người tác động vào các cơ
thể sống này thông qua việc phát triển công nghiệp sinh học để tạo ra những
giống cât trồng mới với năng suất và chất lượng sản phẩm cao hơn. Chúng ta
cũng cần tìm hiểu các qui luật phát triển của các đối tượng sống này để tìm ra
các biện pháp chăm sóc kịp thời và có các loại phân bón tốt nhất vào các thời
điểm cụ thể.
c.Nông nghiệp là ngành sản xuất chịu ảnh hưởng mạnh của các điều kiện tự
nhiên.
Do vậy mỗi sự thay đổi nhỏ của tự nhiên đều ảnh hưởng tới nông nghiệp;
đối với các ngành kinh tế khác, thì mức độ phụ thuộc này là không lớn; như
công nghiệp,thì dù trời có đổ mưa hay có gió lớn thì người ta vẫn tiến hành sản
xuất bình thường và sự thay dổi trong kế hoạch sản xuất là không đáng kể.
Nhưng đối với ngành nông nghiệp thì khác hẳn, mọi sự thay đổi đều có ảnh
hưởng, như đất tốt hay xấu đều ảnh hưởng tới năng suất chất lượng sản phẩm.
Nếu thời tiết tốt, phù hợp với yêu cầu , chúng ta đạt được một vụ mùa bội thu
còn nếu thời tiết xấu thì ngược lại. Vì vậy trong nông nghiệp chúng ta cần hạn
chế các ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên hoặc phải có những biện pháp khai
thác tự nhiên tốt nhất thì chúng ta với thu được các kết quả cao và giúp cho sản
xuất nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định.
d.Sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ cao.
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
15
Bởi lẽ đối với những loại cây trồng vật nuôi trong nông nghiệp ,chúng
không thể phát triển quanh năm mà chúng cần có một thời gian phù hợp nhất
định trong năm để sinh trưởng và phát triển tốt. Mặt khác,do trong nông nghiệp
thời gian lao động không hoàn toàn ăn khớp với thời gian sản xuất . Những đặc
điểm này làm cho sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ . Để khắc phục được
tình trạng này thì chúng ta cần phải xây dựng một hệ thống cơ sở hạ tầng thuận
tiện, hiện đại và phù hợp để có thể phục vụ tốt nhất cho công cuộc sản xuất .
e.Nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng thấp
Đây là một thiệt thòi của ngành nông nghiệp có so với các ngành công
nghiệp và dịch vụ. Người ta thấy rằng dù nông nghiệp có điều kiện sản xuất
thuận lợi đến mấy đi nữa thì nông nghiệp cũng chỉ đạt tốc độ tăng trưởng tối đa
từ 5 - 6 % năm trong khi ngành công nghiệp đạt tốc độ tăng truởng 10 % trở
lên là bình thường. Kết quả thấp kém của sản xuất nông nghiệp chính là hệ
quả tất yếu của những đặc điểm trên của ngành nông nghiệp.
Dựa trên việc nghiên cứu các đặc điểm trên của ngành nông nghiệp , chúng
ta sẽ có những ý tưởng , những sáng kiến trong việc lập kế hoạch sản xuất, tiến
hành đầu tư và có những biện pháp cần thiết cho phát triển sản xuất nông
nghiệp.
1.3. Đặc điểm nông nghiệp Việt Nam
Dù đang trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước nhưng
Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp và trình độ phát triển của ngành nông
nghiệp vẫn ở mức rất thấp. Vì thế nghiên cứu rõ đặc điểm của nền nông nghiệp
này sẽ giúp cho chúng ta có những chính sách đầu tư phát triển phù hợp nhằm
thúc đẩy nền nông nghiệp nước ta từng bước đi lên, theo kịp tiến trình phát
triển của cả nước. Có thể nói nền nông nghiệp nước ta ngoài những đặc điểm
chung như nêu ở trên thì có những đặc điểm riêng sau:
Nền nông nghiệp Việt Nam vẫn mang tính truyền thông sâu sắc, chưa có
những thay đổi lớn so với những năm trước đây.Trong suốt thời kì vừa qua ,
nông nghiệp được Đảng và nhà nước quan tâm và đầu tư thoả đáng nên đã có
những bước phát triển mạnh cả về năng suất , chất lượng. Nhưng nhìn chung
thì sản xuất nông nghiệp vẫn mang tính cá thể và đơn lẻ; mức độ áp dụng khoa
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
16
học kĩ thuật công nghệ vào nông nghiệp là rất ít, đồng thời mức độ cơ giới hoá
trong nông nghiệp là không cao. Thậm chí ở nhiều vùng quê ,sản xuất nông
nghiệp vẫn ở trong tình trạng " con trâu đi trước, cái cày theo sau”. Còn về vấn
đề cây trồng thì trong trồng trọt vẫn ở dạng độc canh cây lúa, trong khi nhiều
nơi thích hợp cho phát triển nhiều loại cây khác lại chưa có chính sách khuyến
khích thoả đáng. Ngoài ra chăn nuôi là ngành sẽ giúp cho nông nghiệp có tốc
độ tăng trưởng cao hơn thì chúng ta vẫn chưa có những chính sách đầu tư phát
triển thích hợp cho nên tỷ lệ chăn nuôi trong toàn ngành nông nghiệp vẫn ở
mức thấp.Trong khi đó hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp, một số vùng nếu có thì đã quá lạc hậu hoặc thiếu đồng bộ còn lại là
rất thiếu. Tất cả những điều này ảnh hưởng rất lớn đối với sản xuất nông
nghiệp
Đất nước ta được chia ra làm 3 miền Bắc - trung - nam với khí hậu và
địa hình rất phức tạp và khác biệt. Nước ta còn có tỉ lệ đồi núi chiếm tới hơn 70
% lãnh thổ, do vậy mà sản xuất nông nghiệp chỉ ở trong những khoảng không
gian nhỏ và khó cho việc áp dụng máy móc .Các vùng đồng bằng có điều kiện
cũng không giống nhau, như đồng bằng sông Cửu Long có độ phù sa lớn, có
thể canh tác 3 - 4 vụ trong năm lại phải chịu lũ lụt hàng năm ; đồng bằng sông
Hồng chỉ có thể sản xuất hai vụ do có mùa đông giá rét. Khí hậu, thời tiết khát
phức tạp; trong khi miền bắc có mùa đông rét và lạnh, thích hợp cho việc sản
xuất một số nông sản mùa đông, ở Miền nam , gần miền xích đạo nên thời tiết
nóng quanh năm nên chỉ cho phép phát triển những cây mùa hè. Chính sự phức
tạp , đa dạng này đã tạo cho sản xuất nông nghiệp nước ta không không thống
nhất và đồng bộ giữa các miền, và khó cho việc áp dụng những giống cây trồng
vật nuôi đại trà trong cả nước. Nhưng lại tạo ra cho nước ta thuận lợi trong việc
phát triển đa dạng những sản phẩm nông nghiệp
Nông nghiệp nước ta hiện nay được phát triển trong điều kiện đất nước
đang tiến hành quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Chính vì vậy mà nó
nhận đước sự quan tâm lớn của toàn xã hội, mức độ công nghiệp hoá nông
nghiệp và nông thôn sẽ được tiến hành nhanh hơn và rộng hơn trên cả nước,
đồng thời sự áp dụng những tiến bộ khoa học kĩ thuất cũng nhiều hơn và tốt
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
17
hơn. Tuy vậy thì nông nghiệp lại chịu một sự thiệt thòi lớn là tỷ lệ đầu tư của
nhà nước và xã hội cho nông nghiệp sẽ ngày càng giảm sút
Hiện nay nền nông nghiệp chúng ta đã có một khối lượng rất lớn hàng
nông lâm thuỷ sản xuất khẩu, chiếm một tỉ lệ cao trong giá trị xuất khẩu của cả
nước. Nhưng có một thực tế ngược lại là tuy sản lượng tăng mạnh, năng suất
lao động lại chưa cao , hơn nhiều so với các nước khác. Như ở Thái Lan, năng
suât lúa của họ thường đạt trên 8 tấn / ha tại Việt Nam năng suất chỉ khoảng 6
tấn / ha, như vậy là rất thấp và không có nhiều tiến bộ so với trước.Chất lượng
hàng nông sản của chúng ta cũng không cao do vậy mà giá trị của chúng trên
thị trường cũng thấp.Vì thế ,trong thời gian tới chúng ta cần có những biện
pháp đầu tư để tạo ra những giống mới và có những cách thức sản xuất mới
nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp.
Tóm lại , ngành nông nghiệp nước ta tuy có nhiều tiến bộ trong những
năm gần đây vẫn còn yếu kém và lạc hậu ;do vậy cần nhận được sự đầu tư
toàn diện và sâu rộng, của Đảng, của nhà nướcvà của toàn xã hội để nó có
thể phát triển tương xứng với tiềm năng vốn có.
1.4Vai trò của nông nghiệp.
Chưa khi nào trong lịch sử loài người mà nông nghiệp lại không được coi
trọng. Thế giới dù có hiện đại , dù có phát triển đến mấy thì nông nghiệp vẫn
giữ những vị trí hết sức then chốt và cực kì quan trọng.Sở dĩ nông nghiệp có
được vị trí như vậy vì ngành này có những vai trò sau:
Thứ nhất, nông nghiệp là ngành cung cấp lương thực thực phẩm duy nhất
cho cả xã hội loài người. Đây là vai trò nổi bật của nông nghiệp.Với vai trò này
nông nghiệp quyết định sự ổn định và phát triển của xã hội loài người. Khi mỗi
con gnười được sinh ra trên đời thì họ không thể không ăn mà có thể lao động,
học tập và cống hiến tài năng của mình cho xã hội. Bởi vì có ăn , chúng ta mới
có thể có đủ năng lượng cung cấp cho cơ thể hoạt động. Xã hội phát triển càng
cao , càng văn minh thì đòi hỏi của con người về lương thực và thực phẩm
ngày cao về lượng và đặc biệt là về chất. Muốn vậy ,đòi hỏi ngành nông nghiệp
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
18
phải không ngừng đầu tư phát triển để nâng cao năng xuất lao động trong sản
xuất nông nghiệp và chất lượng của nông sản.
Thứ hai, đối với nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát
triển thì nông nghiệp vẫn là một ngành kinh tế tạo ra một khối lượng lớn công
ăn việc làm và tạo thu nhập cho người dân. Như ở Việt Nam, hiện nay vẫn có
tới khoảng 70% dân số sống ở nông thôn và cũng một tỉ lệ tương tự làm việc
trong ngành nông nghiệp. Tuy nhiên ,lực lượng lao động trong nông nghiệp
này có trình độ còn thấp kém và mức thu nhập của họ cũng rất thấp.Nhưng
trong tương lai đây là lượng lao động chủ yếu cho nền kinh tế . Vì vậy ,để thúc
đẩy nền kinh tế phát triển nói chung ,cũng như giúp cho nông nghiệp nói riêng
thì chúng ta cần có những chính sách về giáo dục và đào tạo nhằm đào tạo
nghề và nâng cao trình độ cho người nông dân.Với một lượng lớn dân số sống
ở các vùng nông thôn và làm việc trong ngành nông nghiệp nên những đối
tượng này sẽ là lực lượng tiêu dùng rất lớn cho nền kinh tế .Đây là một thị
trường tiêu thụ tiềm năng cho các nhà sản xuất trong nước.Khai thác và sử
dụng hiệu quả thị trường này sẽ giúp cho các nhà sản xuất thu lợi nhuận tăng
cường thị trường của mình và đồng thời góp phần tăng trưởng và phát triển nền
kinh tế đất nước.
Thứ ba , nông nghiệp còn có vai trò khá quan trọng đối với một số ngành
kinh tế khác như công nghiệp chế biến. Có thể nói ngành công nghiệp chế biến
nông sản phụ thuộc rất nhiều vào nông nghiệp. Bởi nông nghiệp là ngành kinh
tế cung cấp đầu vào cho sản xuất công nghiệp chế biến.Trong các nước đang
phát triển thì ngành công nghiệp chế biến chiếm một vai trò khá quan trọng, nó
là lĩnh vực thúc đẩy phát triển kinh tế trong giai đoạn đầu của quá trình công
nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Để ngành này muốn hoạt động tốt thì đòi
hỏi ngành nông nghiệp phải phát triển ổn định và thường xuyên cung cấp các
đầu vào rẻ và có chất lượng cao. Như vậy nông nghiệp qui định sự phát triển
ngành công nghiệp chế biến. Ngoài ra một số nông sản còn là những đặc sản
trong hoạt động du lịch và dịch vụ ăn uống nhằm thu hút khách hàng, nên nông
nghiệp cũng là nhân tố thúc đẩy du lịch
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
19
Thứ tư, đối với các nước đang phát triển , nông nghiệp đóng vai trò cực kì
quan trọng, góp một tỷ lệ lớn vào giá trị hàng hoá xuất khẩu và thu ngoại tệ cho
đất nước đồng thời cũng chiếm một vị trí khá cao trong GDP của đất nước.
Như ở Việt Nam, xuất khẩu hàng nông sản và sản phẩm chế biến từ nông sản
thu được hàng tỷ Đôlla, chiếm một tỉ lệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu; các
mặt hàng như gạo , cà phê.. có giá trị xuất khẩu lớn.Do vậy mà chúng ta cần
tăng cường hơn nữa xuất khẩu loại hàng hoá này để thúc đẩy phát triển nông
nghiệp và đất nước. Tuy nhiên , các sản phẩm xuất khẩu lại chủ yếu dưới dạng
thô, do vậy giá trị hàng hoá rất thấp ,rất bất lợi cho người nông dân. Thêm vào
nữa là nông nghiệp chiếm tỷ lệ khoảng hơn 30% GDP của các nước đang phát
triển, đây là một tỷ lệ khá cao và cho thấy nông nghiệp có ảnh hưởng mạnh tới
sự tăng trưởng kinh tế của các nước này. Tuy nhiên đây là một dấu hiệu không
đáng mừng , bởi lẽ một đất nướcđược coi có nền kinh tế phát triển và hiện đại
khi có tỷ lệ nông nghiệp trong GDP là thấp ( khoảng dưới 15 % ). Vì thế các
nước này cần có những biện pháp đầu tư ,một mặt vẫn giúp cho nông nghiệp
có tốc độ tăng trưởng cao nhưng mặt khác phải nâng cao tỷ trọng trong GDP
của các ngành công nghiệp và dịch vụ.
Thứ năm , nông nghiệp là ngành kinh tế đóng vai trò như một nhân tố tạo
vốn, lao động và thị trường cho thời kì đầu của quá trình công nghiệp hoá -
Hiện đại hoá ở các nước đang phát triển. Một nước chỉ có thể tiến hành thành
công công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước khi có đủ vốn và các
nguồn lực. Trong giai đoạn đầu này, công nghiệp và dịch vụ vẫn chưa phát
triển, thì nông nghiệp với ưu thế là ngành truyền thống sẽ tạo được một khối
lượng lớn nông sản có giá trị cao và có thể xuất khẩu ;từ đó tạo ra một nguồn
vốn khá lớn cho ngành công nghiệp. Nông nghiệp cũng là ngành cung cấp đầu
vào cho công nghiệp chế biến. Với lực lượng lao động đông đảo trong ngành
nông nghiệp sẽ là những công nhân với trình độ tay nghề khá cao ( nếu được
chú ý đào tạo và bồi dưỡng hợp lí ) có sự cần cù chăm chỉ ,giá nhân công lại rẻ
, điều này sẽ tạo thuận lợi lớn cho ngành công nghiệp phát triển. Như vậy nông
nghiệp là ngành kinh tế tạo những tiền đề , cơ sở ban đầu cho sự công nghiệp
hoá và hiện đại hoá đất nước.
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
20
Tóm lại, nông nghiệp đối với những nước đang phát triển nói chung và
Việt Nam nói riêng vẫn là ngành kinh tế có vai trò quan trọng trong đời sống
kinh tế xã hội . Đầu tư phát triển ngành nông nghiệp là đòi hỏi tất yếu của nền
kinh tế đất nước hiện nay.
2. Đầu tư - nhân tố quyết định tới sự phát triển nông nghiệp
Có thể khẳng định rằng , tất cả các ngành các lĩnh vực muốn có sự tăng
trưởng và phát triển thì cần phải có đầu tư , không có đầu tư thì không có sự
phát triển. Ngành nông nghiệp cũng không nằm ngoài qui luật này. Chính đầu
tư là nhân tố quyết định những sự biến đổi vượt bậc của ngành nông nghiệp.
Đầu tư chính là đòn bẩy, là động lực cho sự phát triển .
Thứ nhất ,đầu tư tạo cho nông nghiệp một hệ thống cơ sở hạ tầng hiện
đại và có qui hoạch, tập trung. Ta biết rằng nông nghiệp chỉ có thể tiến hành
sản xuất có kết quả tốt khi được cung cấp các yếu tố đầu vào đầy đủ như : điện
,nước, phân bón, hệ thống nhà kho...Muốn có được những yếu tố quan trọng
này thì chúng ta phải xây dựng và củng cố các hệ thống trạm bơm, các kênh
mương, các mạng lưới điện, phát triển và nâng cấp hệ thống đường giao thông.
Khi những hệ thống này hoạt động tốt sẽ rất thuận lợi cho sản xuất.Tuy nhiên
những cơ sở hạ tầng này không tự nhiên có mà cần phải có sự đầu tư tiền và
các nguồn lực khác . Việc đầu tư này cần phải được qui hoạch tổng thể , tránh
hiện tượng đâu tư dàn trải, không trọng điểm. Khi đã có đầu tư và đầu tư hiệu
quả thì chúng ta sẽ có một hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại, sẽ giúp cho nông
nghiệp có thể tiến hành những phương thức sản xuất mới, có thể tiễn hành
thâm canh tăng vụ, người nông dân cũng có thể chủ động trong quá trình sản
xuất.. những thuận lợi này sẽ làm cho sản lượng ngành nông nghiệp tăng cao
và chất lượng nông sản cũng tốt hơn.
Thứ hai,trong thế giới hiện nay, một nền nông nghiệp hiện đại , có năng
suất , hiệu quả cao khi nó được cơ giới hoá , công nghiệp hoá một cách cao độ.
Hay nói rõ hơn là sản xuât nông nghiệp được áp dụng máy móc một cách phổ
biến và đại trà trong mọi khâu và mọi lĩnh vực và góp phần giải phóng sức lao
động của con người. Nhờ có những chính sách hỗ trợ mà đặc biệt là do có các
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
21
nguồn đầu tư hữu ích của xã hội mà ngành nông nghiệp có được những loại
máy móc hiện đại ,tiên tiến như máy cày máy kéo, máy gặt đập, máy xay xát,
các loại xe chuyên chở ...thay thế cho sức người và súc vật trong quá trình sản
xuất. Do có những loại máy móc này mà sản xuất nông nghiệp có thể tiến hành
trên diện rộng và hàng loạt, đồng thời làm tăng năng suất cây trồng vật nuôi lên
rất nhiều lần so với trước đây. Như vậy đầu tư máy móc thiết bị nông nghiệp là
nhân tố thúc đẩy sản suất nông nghiệp ; vì thế chúng ta nên quan tâm và coi
trọng đầu tư cho nông nghiệp một cách thoả đáng. Ở Việt Nam , ngành nông
nghiệp còn sử dụng sức người và súc vật trong khi làm việc là chủ yếu, áp
dụng máy móc trong sản xuất nông nghiệp còn rất hạn chế và ở qui mô nhỏ.
Đầu tư mua sắm những phương tiện này là đỏi hỏi cấp thiết của nền nông
nghiệp. Tuy nhiên chúng ta phải căn cứ vào điều kiện cụ thể của từng địa
phương ,từng lĩnh vực mà mua những máy móc cho thích hợp nhất.
Thứ ba , đầu tư vào lĩnh vức khoa học công nghệ sẽ góp phần tạo ra cho
nông nghiệp những giống cây trồng vật nuôi mới hiệu quả hơn. Mà ta biết
giống là một yếu tố quyết định sự tăng trưởng và phát triển ngành nông nghiệp
.Mỗi người đều hiểu rằng khoa học công nghệ là động lực cho sự phát triển các
ngành kinh tế và no vẫn là nhân tố quan trọng cho sự phát triển mạnh sản xuất
nông nghiệp. Ngày nay, công nghệ sinh học đang phát triển mạnh mẽ và chiếm
một vị trí ngày càng quan trọng trong đời đời sống kinh tế thế giới. Công nghệ
sinh học ngày càng có những thành công to lớn hơn và là lĩnh vực liên quan
khá chặt chẽ với ngành nông nghiệp.Một phần công nghệ này sẽ được áp dụng
vào sản xuất nông nghiệp. Ở mức độ quốc gia chúng ta cần đầu tư mạnh để
phát triển công nghệ này , đồng thời cần có những chính sách khác để khuyến
khích động viên những nhà khoa học giỏi nghiên cứu và từ đó áp dụng triệt để
những thành quả của nó.Mặt khác, chúng ta nên xây dựng những trung tâm
giống cây trồng vật nuôi với những cán bộ khoa học giỏi về chuyên môn
nghiệp vụ để nghiên cứu ra những giống mới từ kết quả của công nghệ sinh
học . Vì vậy,chúng ta nên có những chính sách để thu hút các nguồn lực trong
và ngoài nước đầu tư vào công nghệ này và thành lập những trung tâm nghiên
cứu áp dụng những kĩ thuật tiên tiến của thế giới và trong nước. Tóm lại , đầu
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
22
tư góp phần vào việc tạo ra cho nông nghiệp một sức phát triển mới thông qua
đầu tư cho công nghệ phục vụ sản xuất.
Thứ tư , đầu tư là đã góp phần tạo ra cho nông nghiệp một lực lượng lao
động hùng hậu có tay nghề chuyên môn và trình độ kĩ thuất cao. Dù máy móc
có hiện đại và phù hợp đến đâu, hay một phương thức sản xuât mới có tiên tiến
đến mấy nhưng nếu lao động trong nông nghiệp không có trình độ để nắm bắt
và sử dụng thì những thứ trên đều là vô dụng, bỏ đi. Nhờ có một khối lượng
lớn đầu tư vào lĩnh vực giáo dục đào tạo thông qua việc xây dựng các trung
tâm dạy nghề , các chương trình phổ biến kiến thức nông nghiệp mới cho
người nông dân mà họ ngày càng nắm bắt được những kiến thức mới , thiết
thực cho việc trồng trọt và chăn nuôi : biết cách thâm canh, biết điều khiển
máy móc , biết làm kinh tế Vac...Điều này cũng sẽ giúp họ hiểu rõ hơn về các
đặc tính và quá trình sinh trưởng của từng loại cây trồng vật nuôi để họ có
những biện pháp chăm sóc tốt hơn. Khi người nông dân có trình độ càng cao sẽ
càng thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp trong việc sử dụng những kĩ
thuật mới và giúp cho ngành này có sự tăng trưởng cao.
Thứ năm , đầu tư góp phần tạo cho nông nghiệp một cơ cấu trồng trọt và
chăn nuôi hợp lí hơn với tỷ trong chăn nuôi chiếm ngày càng cao trong tổng
giá trị ngành nông nghiêp. Bởi vì, trong nông nghiệp , chăn nuôi là lĩnh vực có
tốc độ tăng trưởng cao hơn nhiều so với trồng trọt, muốn phát triển ngành nông
nghiệp thì phải đầu tư phát triển lĩnh vực chăn nuôi. Như trước đây, trồng trọt
chiếm vai trò chủ yếu nên ngành nông nghiệp có tốc độ phát triẻn không cao,
kể từ khi đầu tư mạnh hơn vào chăn nuôi thì nông nghiệp đã có những sự phát
triển vượt bậc. Đây là hướng đi đúng của nhiều nước đi trước mà những nước
đi sau như Việt Nam cần học tập và phát huy.
Nói chung, đầu tư còn góp phần cải thiện đời sống người nông dân, cải cách
phương thức tổ chức quản lí nông thôn ... Tóm lại, đầu tư có vai trò quyết định
sự tiến bộ đi lên không ngừng của nông nghiệp. Khi nền kinh tế càng hiện đại,
nông nghiệp càng không thể không có đầu tư.
3. Đặc trưng của đầu tư trong nông nghiệp
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
23
Nông nghiệp là một ngành kinh tế dặc thù với những đặc điểm riêng biệt,
vì vậy mà đầu tư trong nông nghiệp cũng có những nét đặc trưng riêng, không
giống bất cứ một ngành kinh tế nào trong nền kinh tế.
Đặc trưng thứ nhất là đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp là quá trình thực
hiện một công cuộc đầu tư cũng như việc thu hoạch những kết quả của nó chịu
ảnh huởng nhiều của các điều kiện tự nhiên. Điều đặc trưng này là do đặc điểm
ngành nông nghiệp chi phối. Đầu tiên, khi đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, do
đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu nên chúng ta phải nghiên cứu rất kĩ về các
điều kiện của đất , chất lượng và đặc điểm của đất và đặc điểm về địa hình. Bởi
vì đất tốt hay xấu ảnh hưởng rất mạnh tới quá trình thực hiện đầu tư và thành
quả thu được. Nếu đất tốt thì cây trồng phát triển thuận lợi, có xây dựng hạ
tầng cơ sở thì cũng giảm chi phí và ngược lại. Nghiên cứu về đất còn cho
chúng ta biết nên trồng loại cây nào, nên nuôi loại động vật gì, để từ đó có kế
hoạch sản xuất.Địa hình cũng có ảnh hưởng tới đầu tư, nếu địa hình bằng
phẳng thì có thể đầu tư nhiều loại cây trồng, vật nuôi thích hợp cho vùng đồng
bằng, đỡ tốn công san lấp và thuận lợi về giao thông do vậy vận chuyển các
nông sản mang ra thị trường nhanh và đảm bảo tươi sống. Khi đầu tư dựa vào
điều kiện của địa hình để có những chính sách đầu tư phù hợp nhất.
Khí hậu cũng ảnh hưởng tới quá trình đầu tư,khi đầu tư người ta thường
phải nghiên cứu rõ điều kiện khí hậu, bởi nó có ảnh hưởng mạnh tới kết quả
của sản xuất nông nghiệp hay kết quả đầu tư. Ví dụ như khi tiến hành đầu tư
xây dựng hệ thông thuỷ lợi thì thường tiến hành vào mùa nước cạn, bởi khi
nước lên thì việc xây dựng rất khó và cực kì tốn kém. Hoặc khi ta đầu tư một
loại cây lương thực náo đó, chẳng hạn như cây lúa, ta không thể trồng lúa vào
mùa đông lạnh ,bởi lúa là cây không thích hợp với điều kiện giá rét , do vậy mà
đầu tư không thu được lợi ích tốt. . Do vậy mà khi đầu tư vào nông nghiệp các
nhà đầu tư phải nghiên cứu rất kĩ đặc điểm tự nhiên của từng vùng để có thể có
những công cuộc đầu tư mang hiệu quả cao hoặc có những biện pháp phòng
tránh ảnh hưởng xấu của tự nhiên hữu hiệu.
Do sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ nên đầu tư trong nông nghiệp
cũng mang tính thời vụ khá rõ rệt. Rất nhiều hoạt động đầu tư trong nông
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
24
nghiệp phải nghiên cứu thời điểm đầu tư và chọn khu vực điểm điểm đầu tư.
Bởi vì, trồng trọt và chăn nuôi không thể tiến hành quanh năm cho nên chọn
thời điểm để sản xuất là rất cần thiết.Do vậy khi đầu tư vào một loại đối tượng
nào đó thì ta chỉ có thể bắt đầu đầu tư tại một thời gian rõ ràng và cố định trong
năm, như trồng cây thì thường phải vào mùa xuân. Tuy nhiên , với trình độ
khoa học phát triển chúng ta có thể đầu tư đa dạng và với khoảng thời gian
rộng hơn.
Một đặc trưng nổi rõ của đầu tư trong nông nghiệp đó là nó đỏi hỏi một
lượng vốn đầu tư khá lớn, có độ rủi ro cao nhưng tỷ suất lợi nhuận lại thấp hơn
nhiều so với các ngành , lĩnh vực khác.Cụ thể, khi ta tiến hành đầu tư vào hệ
thống cơ sở hạ tầng( như hệ thống thuỷ lợi ) hay khoa học công nghệ thì lượng
vốn đầu tư thất không nhỏ chút nào. Ví dụ như để phát hiện ra một loại giống
mới cho sản xuất nông nghiệp thì lượng vốn bỏ ra và số nhà khoa học cần cho
nghiên cứu không thua kém để cho một sản phẩm công nghiệp mới ra đời.
Hoặc chi phí để xây một hệ thống thuỷ lợi cũng không kém việc xây dựng một
nhà máy hay một khách sạn du lịch. Vì vậy mà khi đầu tư , đỏi hỏi các nhà đầu
tư phải có những chính sách biện pháp huy động đủ vốn và kịp tiến độ.
Đầu tư trong nông nghiệp có độ rủi ro cao, đây là vấn đề thiệt thòi cho nông
nghiệp. Sở dĩ rủi ro cao vì đầu tư trong ngành nông nghiệp một mặt chịu những
rủi ro chung của các công cuộc đầu tư mặt khác nó còn chịu ảnh hưởng cực
mạnh của những biến đổi tự nhiên xấu. Ngoài ra việc kiểm soát và hạn chế
những loại rủi ro này là rất khó, đôi khi không thể ngăn chặn nổi. Một thiệt thòi
lớn của đầu tư là tỷ suất lợi nhuận của hoạt động đầu tư trong nông nghiệp rất
thấp thường chỉ vài phần trăm một năm trong khi các ngành khác đạt hơn 10 %
, do nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng không cao.Khi đầu tư thời gian thu hồi
vốn cũng rất lâu. Còn một số công trình đầu tư trong nông là hoà vốn, thậm chí
nhiều công trình không thu đủ số vốn đầu tư ban đầu bỏ ra.
Tóm lại , hoạt động đầu tư trong nông nghiệp có những nét riêng, chính vì
những nét này mà các nhà đầu tư thường không muốn bỏ vốn của mình đầu tư
vào ngành nồng nghiệp, hoặc có thì cũng rất ít. Do vậy để thúc đẩy nền nông
nghiệp phát triển thì đòi hỏi chính phủ mỗi nước phải có những chính sách
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
25
khuyến khích , hỗ trợ đầu tư nhằm thu hút vốn đầu tư và bản thân nhà nước
phải bỏ vốn đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở.
4. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư trong nông nghiệp
Để xem xét thành quả hay mức độ thành công của các công cuộc đầu tư
, của một ngành của một tỉnh hay của cả nước ; ngoài chỉ tiêu kết quả đầu tư
người ta còn phải sử dụng chỉ tiêu hiệu quả đầu tư để tính. Ngành nông nghiệp,
do có những đặc điểm cũng như do đầu tư trong nông nghiệp có các đặc trưng
riêng nên trong nông nghiệp người ta có thể sử dụng những chỉ tiêu hiệu quả
sau:
a.Chỉ tiêu :GO tăng thêm/ Vốn đầu tư và GDP tăng thêm/ Vốn đầu tư
Trong đó :+ GO: giá trị sản xuất
+ GDP : tổng sản phẩm
+ Vốn đầu tư : là số vốn đầu tư của một dự án, của nhiều dự án
đầu tư hay của cả một tỉnh, một nước trong một năm hoặc một thời kì nhất định
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn đầu tư bỏ ra thì tạo ra bao nhiêu giá trị
hàng hoá và dịnh vụ. Chỉ tiêu này, càng cao thì chứng tỏ công cuộc đầu tư càng
thành công. Trong các chỉ tiêu tính hiệu quả đầu tư trong nông nghiệp thì đây
là chỉ tiêu dễ tính nhất cũng như đơn giản nhất bởi lẽ các số liệu thu thập về
GO ,GDP cũng như về vốn đầu tư là tương đối dễ.
b. Thời hạn thu hồi vốn đầu tư: là thời gian mà các kết quả của quá trình đầu tư
cần hoạt động để có thể thu hồi vốn đã bỏ ra từ lợi nhuận thu được
Công thức tính: Ivo
T = ------------
Wpv
Trong đó : Wpv là lợi nhuận thu được bình quân một năm hoặc
T
Wipv Ivo
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
26
i=0
T và T : là thời gian thu hồi vốn đầu tư tính theo tháng ,quí ,năm
Thời hạn T thường được tính cho một dự án. Nó phản ánh phần nào mức độ
hiệu quả của dự án. Đối với những dự án tương tự nhau thì dự án có thời gian
thu hồi vốn đầu tư càng nhỏ càng tốt. Tuy nhiên đối với nhiều dự án của một
tỉnh, một giai đoạn thì T rất khó tính, thậm chí là không tính được. Trong nông
nghiệp có nhiều dự án khó tính được thời gian T bởi vì đầu tư trong nông
nghiệp mang tính xã hội cao, nhiều khi không có lợi nhuận, nên nó không được
sử dụng nhiều
c. Hệ số hoàn vốn nội bộ: là tỷ suất lợi nhuận mà nếu được sử dụng để tính
chuyển các khoản thu chi của toàn bộ công cuộc đầu tư về mặt bằng thời gian ở
hiện tại sẽ làm cho tổng thu cân bằng với tổng chi. Công cuộc đầu tư được coi
là có hiệu quả khi :
IRR IRR định mức
Trong đó IRR định mức có thể là lãi suất đi vay nếu ta phải vay vốn để đầu tư,
có thể là tỷ suất lợi nhuận định mức do nhà nước qui định nếu vốn đầu tư do
ngân sách cấp , có thể là tỷ suât lợi nhuận bình quân hoặc là chi phí cơ hội của
vốn tự có...
Để tính IRR của một dự án người ta có thể tình bằng nhiều cách khác
nhau: như bằng máy tính, bằng phương pháp nội suy, ngoại suy... Chỉ tiêu IRR
rất quan trọng trong việc tính hiệu quả dự án đầu tư. Nói chung dự án có IRR
càng lớn càng tốt . Trong ngành nông nghiệp, do dặc trưng của đầu tư trong
ngành nên các công cuộc đầu tư thường có IRR là tương đối thấp. Đây là công
thức có thể tính được nếu công tác thống kê thu thập làm tốt.
d. Chỉ tiêu số lao động tăng thêm từng năm của dự án.
Số việc làm = Số lao động Số lao động
tăng thêm thu hút thêm mất việc làm
Số lao động tăng thêm nói lên sự đóng góp của dự án đối với nền kinh tế xã
hội. Số lao động tăng thêm nói chung là tương đối dễ tính tuy nhiên trong
ngành nông nghiệp, người nông dân dù có thêm hay giảm đầu tư thì họ vẫn
phải làm nông nghiệp, nên trong nông nghiệp tính không phải là dễ. Còn số lao
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
27
động tăng thêm càng nhiều ,dự án đó càng hiệu quả ( nhưng ta còn phải xem
xét thêm thu nhập của người lao động tư dự án như thế nào)
e .Giá trị sản phẩm thuần tuý tăng thêm( NVA):
Đây là chỉ tiêu cơ bản phản ánh hiệu quả kinh tế xã hội ở tầm vĩ mô của
đầu tư. NVA là mức chênh lệnh giữa giá trị đầu ra và giá trị đầu vào.
Công thức tính: NVA = O - (MI + Iv)
Trong đó : - NVA là giá trị sản phẩm thuần tuý tăng thêm do đầu tư đem lại
- O : là giá trị đầu ra của công cuộc đầu tư ( doanh thu)
- MI: là giá trị đầu vào của vật chất thường xuyên và các dịch vụ
mua ngoài theo yêu cầu để đạt được đầu ra trên đây( năng
lượng, nhiên liệu, giao thông ...)
- Iv: vốn đầu tư hoặc khấu hao
Trong ngành nông nghiệp ,chỉ tiêu này rất phù hợp bởi nhiều dự án nông
nghiệp mang tính lợi ích xã hội hơn là lợi nhuận. Nếu tính theo chỉ tiêu này thì
mức lợi ích của đầu tư trong nông nghiệp là tương đối cao. Tuy nhiên, đây lại
là chỉ tiêu rất khó tính được chính xác. NVA còn có thể tính cho từng năm hoặc
tính cho nhiều dự án trong một thời kì nhất định
f.Chỉ tiêu GO/GDP
Trong đó: GO giá trị sản xuất của
: GDP = GO - chi phí trung gian
Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả của vốn đầu tư, nói trung nó có giá trị càng gần
1 càng tốt. Nếu gần 1, tức sẽ giảm tối thiểu các chi phi trung gian không cần
thiêt, những kết quả thu được từ đầu tư chính là sự gia tăng giá trị cho xã hội
g. Chỉ tiêu công bằng xã hội :chỉ tiêu này xem xét mức độ bình đẳng của người
dân trong xã hội, mức độ phân phối thu nhập từ công cuộc đầu tư...
Trên đây là một vài chỉ tiêu tiêu biểu phản ánh hiệu quả đầu tư trong nông
nghiệp. Muốn tính hiệu quả đầu tư chính xác ta nên kết hợp chúng với nhau .
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
28
Chương II. Thực trạng đầu tư phát triển nông nghiệp Hà Tây
I.Các nguồn lực cho đầu tư phát triển
1. Giới thiệu các nguồn lực Hà Tây
1.1 Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lí:
Hà Tây là một tỉnh vừa mới tái lập gồm hai tỉnh Hà Đông và Sơn Tây
hợp thành. Hà Tây có diện tích chung là 2147 km2, nằm trong vùng đồng Bằng
Bắc Bộ; phía đông nằm ngay tiếp giáp Thủ đô Hà Nội, phía bắc giáp với Vĩnh
Phúc, Phía Tây và Nam tiếp với hai tỉnh Hải Dương và Hoà Bình. Như vậy, Hà
Tây là cửa ngõ nối Thủ đô Hà Nội với các tỉnh Tây Bắc và đặc biệt là các tỉnh
phía Nam và Hà Tây nằm trên nhiều đường giao thông quan trọng huyết mạch
của đất nước như đường quốc lộ 1, 6 và 32 , đường thuỷ sông Hồng chạy qua
nên rất có điều kiện phát triển kinh tế xã hội.
Hơn nữa , Hà Tây còn nằm gần khu tam giác kinh tế trọng điểm không
những của phía bắc và cả nước: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Như vậy
tỉnh sẽ chịu ảnh hưởng mạnh của sự phát triển của các tỉnh này.
Khí hậu
Có thể nói, Hà Tây nằm ở vùng Đông Bắc nên có khí hậu nhiệt đới gió
mùa ẩm với mùa đông nhiệt độ thấp lạnh, có gió mùa đông bắc rét, hanh khô
còn mùa hè nóng và mưa nhiều. Lượng mưa trung bình hàng năm vào khoảng
1800 - 2000 mm.Do diện tích không lớn, nên khí hậu Hà Tây không có sự khác
biệt lớn giữa các huyện thị trong tỉnh. Với loại khí hậu này , Hà Tây có thể phát
triển đa dạng các loại cây trồng vật nuôi. Tuy nhiên , Hà Tây cũng có bất lợi về
mùa mưa chịu ảnh hưởng của lượng mưa lớn còn mùa khô thiếu nước nên đòi
hỏi đầu tư lớn cho hệ thống thuỷ lợi để điều hoà tưới tiêu. Ngoài ra một số
vùng Hà Tây còn chịu ảnh hưởng kế hoạch phân lũ Sông Hồng, nên có thể ảnh
hưởng tới sản xuất nông nghiệp.
Địa hình
Hà Tây là một tỉnh với nhiều loại địa hình đa dạng và cũng tương đối phức
tạp.
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
29
+ Với phía Tây là vùng đồi núi chiếm 1/3 diện tích lãnh thổ toàn tỉnh. với diện
tích vùng núi là 70.400 ha.
+ Vùng đồi với độ cao khoảng dưới 100 m, chủ yếu là đồi thấp với diện tích
53.400 ha
+Phía đông là vùng đồng bằng với diện tích khoảng 144.450 ha, chiếm 2/3
diện tích toàn tỉnh. Vùng đồng bằng với bề mặt tương đối bằng phẳng lại ven
một số con sông lớn như sông Hồng, sông Đáy..Trong vùng đồng bằng có hai
nơi trũng nhất là Mỹ Đức và vùng Ứng Hoà ,Thường Tín ... Với kiểu địa hình
này, Hà Tây có thể trồng đa dạng các loại cây, đồng thời có thể tiến hành thâm
canh tăng vụ hoặc cũng có thể ứng dụng nhiều mô hình kinh tế nông nghiệp
như VAC hay phát triển kinh tế trang trại.
Tài nguyên đất
Đây là tỉnh có vùng đồng bằng có diện tích khá lớn, nằm ở một trong
những đồng bằng phì nhiêu và tốt nhất nước. Nên đất ở đây cũng tương đối
màu mỡ và phì nhiêu ,giàu chất phù sa. Các vùng đất này có thể nằm trong đê
hoặc ngoài đê thường xuyên được phù sa các con sông bồi đắp.Vì vậy mà đất
ngày càng trở nên tốt và hiệu quả đối với trồng trọt.
Vùng đồng bằng này có các loại đất chủ yếu như sau:
+ Đất phù sa bồi: diện tích 17.038 ha ( chiếm 8 %)
+ Đất phù sa không bồi : diện tích 51.392 ha ( chiếm 24 % )
+ Đất phù sa Gley : diện tích 51.551 ha ( chiếm 24 % )
Như vậy diện tích đất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp của Hà Tây là
rất lớn và khá đa dạng. Tuy vậy việc sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên này
cũng chưa thật cao. Thể hiện ,Hà Tây chủ yếu là độc canh cây lúa trong trồng
trọt nhưng năng suất cũng chưa cao và hiệu suất sử dụng đất trong năm
khoảng hơn hai lần là tương đối thấp.
Hà Tây còn có một vùng đồi núi với các loại đất khá phong phú:
+ Đất nâu vàng trên phù sa cổ: diện tích 20. 603 ha ( chiếm 10 % )
+ Đất đỏ vàng trên đá phiến sét : 10.783 ha ( chiếm 5 % )
+ Còn lại là các loại đất khác.
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
30
Các loại đất này chủ yếu dùng để phát triển cây lương thực ngắn ngày hoặc
thích hợp cho việc trồng cây công nghiệp, không thật phù hợp cho cây lương
thực. Tuy nhiên trong vùng đất này ta có thể tiến hành chăn nuôi gia súc như
trâu bò, dê hoặc phát triển kinh tế trang trại với các cây ăn quả là rất thích hợp.
Tài nguyên nước
Là một tỉnh có nhiều con sông lớn chảy qua như sông Hồng bao bọc ở phía
Đông, sông Đà ở phía Bắc, Sông Đáy ở phía Nam và còn cả một hệ thống sông
nội địa như sông Nhuệ... Như vậy mật độ nước ở tỉnh Hà Tây là khá dàyvà
chiếm một diện tích không nhỏ. Các con sông này có lưu lượng nước hàng năm
là rất lớn, với lượng nước hàng năm vào khoảng 180 - 200 tỷ m3. Cùng với
nước là hàng ngàn tấn phù sa các loại luôn bồi đắp cho các vùng đồng bằng. Ở
Hà Tây còn có một trữ lượng nước ngầm khá lớn chưa được khai thác hiệu
quả. Với lượng nước đồi dào nay thì vấn đề tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp
là cực kì thuận lợi; để khai thác tốt lợi thế này , cần phải xây dựng hoàn thiện
hệ thống thuỷ lợi.
1.2 .Dân số và lao động
Vào năm 1996, dân số Hà Tây là 2328 triệu người; nhưng đến năm 2000
dân số của tỉnh là 2423 triệu người với tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm
trong giai đoạn 1996- 2000 là 1.1 % năm, là một tỷ lệ tăng khá thấp so với
trung bình toàn quốc.Với diện tích là 2147 km2 , năm 2000 mật độ dân số là
1084 người / km2, trong đó vùng đồng bằng có mất độ khá cao là 1305 người /
km2. Có thể nói mật độ dân số Hà Tây là rất cao, như vậy đây là một tỉnh đông
dân . Trong số dân này, có đến 90% dân số sồng ở các cùng đồng bằng, trong
khi các vùng núi có tiềm năng số dân lại ít ỏi.Và cũng một tỉ lệ đó dân sô sống
ở các vùng nông thôn . Mặc dù là một tỉnh giáp với thủ đô, một trung tâm lớn
của cả nước nhưng số dân thành thị của Hà Tây lại thấp. Nhìn chung đây vẫn là
một tỉnh đông dân, sống phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp với dân số lại
tương đối trẻ và sung sức.
Với lực lượng lao động là 1276. 3 triệu người ( chiếm 52.6% dân số ), thì Hà
Tây có đội ngũ lao động hùng hậu với tốc độ tăng bình quân là 2% năm . Trong
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
31
số này thì hơn 70% laođộng tập trung trong sản xuất nông nghiệp.Người lao
động trong nông nghiệp rất khoẻ, cần cù chịu khó lại có trình độ văn hoá
tương đối khá, họ còn là những người có kinh nghiệm trong trồng trọt và chăn
nuôi. Tuy nhiên lực lượng lao động trong nông nghiệp chủ yếu là thuần nông
và thiếu ngành nghề phụ để sinh sống .Dọ vậy cần phải mở các lớp dạy nghề và
nâng cao kiến thức cho người nông dân.
Trong những năm gần đây , lực lượng lao động trí thức của Hà Tây đã có
bước phát triển đáng kể cả về chất lượng và số lượng, nhưng tập trung chủ yếu
ở thành thị, tuy vậy việc làm của họ chưa thật ổn định.
2. Những lợi thế và thách thức.
2.1 Lợi thế.
Nhìn vào các nguồn lực cho phát triển trên ta thấy , Hà Tây có rất nhiều
thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội nói chung và phát triển nông nghiệp nói
riêng.
- Gần thủ đô Hà Nội, nằm trong vùng đồng bằng Bắc Bộ, lên có diện
tích đồng bằng khá lớn, có chất lượng đất tốt nên thuận lợi cho trồng trọt .
Ngoài ra , Hà Tây còn có thể tiếp nhận những giống cây trồng vật nuôi mới
được phát triển từ các trung tâm nghiên cứu ở thủ đô. Sản phẩm nông sản của
tỉnh còn có một thị trường tiêu thụ rộng lớn.Nằm ở vị trí này cũng dễ nhận
được sự quan tâm và đầu tư của Đảng và nhà nước cũng như của nhiều thành
phần kinh tế xã hội.
- Với lượng mưa lớn, nguồn nước dồi dào, nếu sử dụng tốt ngành nông
nghiệp sẽ được đảm bảo thuận lợi về tưới tiêu
- Hà Tây có lực lượng lao động đông đảo, có nhiều đặc tính nổi bật lại tập
trung hơn 70 % cho sản xuất nông nghiệp.
- Hệ thống cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh và đang được đầu tư
- Khí hậu đa dạng phong phú và thay đổi giữa các mùa và địa hình thì
không đồng nhất
- Đất nước đang trong qua trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nên toàn
dân hăng hái sản xuất xây dựng đất nước.
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
32
- ...
2.2 Những thách thức
Bên cạnh những lợi thế ,sự phát triển nông nghiệp của tỉnh cũng gặp nhiều
khó khăn và thách thức.
+ Đất nước đang trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nên sự quan
tâm và đầu tư của các cấp chính quyền cũng như của các tầng lớp dân cư cho
nông nghiệp sẽ kém hơn trước, cho nên nhiều yếu tố thuận lợi không còn
+ Mùa mưa với lượng nước lớn thường gây úng ngập ở nhiều vùng trong tỉnh.
Một số huyện nằm trong vùng phân lũ của sông Hồng cho nên gây khó khăn
cho sản xuất nông nghiệp vào mùa mưa
+ Dân số tăng nhanh trong khi đất nông nghiệp có hạn dẫn đến bình quân m2
đất trên đầu người giảm, đất nông nghiệp cũng bị thu hẹp để phục vụ cho mục
đích khác.
+ Lực lượng lao động tuy đông nhưng trình độ còn thấp , chủ yếu là lao động
thuần nông nên chưa đủ kiến thức để tiếp thu những tiến bộ mới trong nông
nghiệp
+ Cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp đã quá cũ và hỏng nhiều, tuy có đầu tư
những vẫn chưa khắc phục được
+ ...
Tóm lại , Quá trình phát triển nông nghiệp của toàn tỉnh Hà Tây có nhiều cơ
hội cũng như gặp nhiều thách thức.Do vậy để có được một nền nông nghiệp
mạnh thì toàn tỉnh phải cố gắng nỗ lực phấn đẫu hơn nữa để phát huy hết
những lợi thế đồng thời phải vượt qua những khó khăn thử thách.
II.Tổng quan về tình hình đầu tư Hà Tây trong giai đoan 1996- 2000
Hà Tây là tỉnh nằm ở một vị trí hết sức thuận lợi cho phát triển
kinh tế xã hội lại nhận được nhiều sự quan tâm của Đảng , nhà nước và các
tầng lớp dân cư và các thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh nên kinh tế Hà
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
33
Tây đã có sự phát triển mạnh mẽ trong thời gian qua . Cùng với bước phát
triển đó, các nguồn vốn đầu tư vào Hà Tây cũng tăng lớn rất mạnh với nhiều
dự án có vốn đầu tư khá lớn và hoạt động mang lại hiệu quả cao. Nó đã góp
phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế tỉnh.
1.Phân theo nguồn vồn đầu tư
Căn cứ vào cách chia của địa phương , đầu tư vào tỉnh Hà Tây theo các
nguồn cụ thể sau:
Bảng1. Bảng cơ cấu vốn đầu tư phân theo nguồn vốn
Giai đoạn1996- 2000
Đơn vị 1996 1997 1998 1999 2000
Ngân sách nhà
nước
Tỷ trọng
Tỉ đồng
%
96.4
14.46
152.9
17.83
149.8
18.73
536.2
46.12
500.4
44.24
Vốn tín dụng
Tỷ trọng
Tỉ đồng
%
14.3
2.14
12
1.4
23
2.88
28.0
2.4
30.0
2.65
Vốn đầu tư
doanh nghiệp
Tỷ trọng
Tỉ đồng
%
30.1
4.51
28. 2
3.29
32
4
24.0
2.06
25.4
2.24
Vốn tư nhân và
dân cư
Tỷ trọng
Tỉ đồng
%
450.4
67.56
577.5
67.34
525.3
65.7
515.0
44.29
520.5
46.01
Vốn khác
Tỷ trọng
Tỉ đồng
%
75.5
11.32
87
10.14
69.5
8.69
59.5
5.12
55
4.86
Tổng
Tỷ trọng
Tỉ đồng
%
666.7
100
857.6
100
799.6
100
1162.7
100
1131.2
100
( Nguồn : Biểu số liệu kèm theo báo cáo thực hiện kinh tế - xã hội nhiệm vụ
1996- 2000 và phương hướng nhiệm vụ 5 năm 2001 - 2005 tỉnh Hà Tây)
Như trên đã trình bày , tổng vốn đầu tư toàn tỉnh Hà Tây không ngừng
tăng lên; theo cơ cấu này các nguồn vốn đầu tư có sự biến đổi khác nhau. Theo
bảng trên , cơ cấu vốn đầu tư tỉnh Hà Tây có nhiều điểm nổi bật nhưng lại có
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
34
nhiều điểm chưa hợp lí.Vốn đầu tư của doanh nghiệp trong giai đoạn này
chiếm tỷ trọng khá thấp trong tổng vốn đầu tư trong khi vốn đầu tư của tư nhân
và các tầng lớp dân cư lại chiếm tỷ lệ cao.
Trong từng năm của giai đoạn 1996- 2000, vốn đầu tư doanh nghiệp chỉ
chiếm tỉ lệ khá nhỏ trong khi vốn đầu tư tư nhân -dân cư chiếm một tỉ lệ rất
cao. Điều này chứng tỏ Hà Tây có nhiều chính sách hợp lí để thu hút vốn nhàn
rỗi trong dân, nhưng mặt khác cho thấy đầu tư ở Hà Tây chủ yếu vào các dự án
có qui mô vốn nhỏ, mang tính cá thể. Trong khi đó vốn đầu tư doanh nghiệp
thấp cho thấy hoạt động của các doanh nghiệp trên địa bàn là yếu hay thiếu
năng động trong việc tìm cơ hội đầu tư. Không những thế vốn đầu tư của các
doanh nghiệp lại giảm như 30.1 tỉ đồng năm 1996 xuống còn 24 tỉ năm 1999
và 25.4 tỉ năm 2000. Có thể giải thích là do xu hướng chung của nền kinh tế
nhưng với một tỉnh giàu tiềm năng như Hà Tây mà tỉ trọng vốn đầu tư của các
doanh nghiệp chiếm tỉ lệ không cao là chưa thật thuyết phục. Vì vậy tỉnh nên
có những biiện pháp cải tổ và khuyến khích đầu tư từ khu vực này . Bởi vì vốn
đầu tư của doanh nghiệp là động lực quan trọng nhất cho sự phát triển kinh tế
xã hội của tỉnh
Trong bảng cho thấy là vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước ngày càng lớn và
tăng dần theo các năm. Năm 1996 la 96.4 tỉ ; đến năm 1997 là 152.9 tỉ đồng,
tăng 58.61%; Năm 2000 là 500,4 tỉ đồng, thấp hơn năm cao nhất là 536.2 tỉ
đồng ( năm 1999 ), nhưng so với các năm trước là cao hơn nhiều, như so với
năm 1996 , nó gấp 5.2 lần.Không những thế, tỷ trọng vốn đầu tư từ ngân sách
còn chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong tổng vốn đầu tư; năm 1999 nguồn
vốn này có giá trị cao nhất trong tổng vốn đầu tư. Điều này chứng tỏ Đảng, nhà
nước và các cấp chính quyền của tỉnh chú ý tới việc đầu tư cơ sở hạ tầng cho
nền kinh tế nhằm khuyến khích và thu hút các nguồn vốn khác phục vụ phát
triển kinh tế.
Về nguồn vốn tín dụng cũng có tỷ trọng thấp nhưng điều đáng mừng là
khối lượng vốn nay ngày càng tăng , và năm sau cao hơn năm trước. Năm 1999
là 28 tỉ đồng tăng 96.97 % so với năm 1996, năm 2000 là 30 tỉ đồng tăng so
với năm 1999 là7.14 %. Trong số vốn này đã có một khối lượng vốn cho vay
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
35
ưu đãi đối với hộ nông dân để họ xoá đói giảm nghèo và phát triển sản xuất
nông nghiệp.
Tóm lại , nguồn vốn cho đầu tư phát triển của Hà Tây là rất phong phú và
đa dạng, đã góp phần khai thác được các thế mạnh của tỉnh. Tuy vậy, để có
một nền kinh tế mạnh đỏi hỏi tỉnh phải có những biện pháp huy động nhiều
hơn nữa mọi nguồn và cân đối một cách hợp lí.
2.Theo cơ cấu ngành kinh tế
Để phân tích đánh giá vốn đầu tư Hà Tây theo cơ cấu kinh tế, do không có
điều kiện xem xét tổng các nguồn vốn ,ta có thể lấy vốn đầu tư từ ngân sách
của tỉnh và từ nguồn thuế nông nghiệp để xem xét đánh giá. Do Hà Tây là một
tỉnh nông nghiệp và ngành nông nghiệp đóng góp một tỉ trọng cao trong ngân
sách tỉnh cho nên vốn đầu tư cho nông nghiệp của tỉnh cũng chiểm tỉ trọng cao.
Bảng 2.Bảng cơ cấu đầu tư từ ngân sách theo ngành kinh tế .
Giai đoạn 1996- 2000
Đơn vị 1996 1997 1998 1999 2000
1. Nông nghiệp
Tỷ trọng
Tỉ đồng
%
13.406
21.4
20.42
25.6
17.552
20.5
28.9
27.1
29.03
32.84
2. Công nghiệp
Tỷ trọng
Tỉ đồng
%
17.68
28.2
17.32
21.7
20.74
24.2
16
15
18
20.28
3.Thương mại- du lịch
Tỷ trọng
Tỉ đồng
%
2
3.2
6
7.5
1
1.17
3
2.8
2
2.25
Tổng vốn ngân sách
Tỷ trọng
Tỉ đồng
%
62.57
100
79.76
100
85.6
100
106.3
100
88.4
100
( Nguồn: Báo cáo kết quả thực hiện vốn đầu tư xây dựng cơ bản giai đoạn
1996-2000.)
Ngoài các ngành trên, vốn ngân sách tỉnh còn phải đầu tư cho nhiều
ngành khác như : giáo dục và đào tạo, y tế, văn hoá xã hội, thể dục thể thao...
Nhìn vào số liệu từ bảng trên ta nhận thấy rằng, vốn đầu tư của tỉnh Hà
Tây cho hai ngành công nghiệp và dịch vụ là tương đối thấp so với vị trí và khả
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
36
năng của hai ngành kinh tế này. Như ngành công nghiệp, Hà Tây là tỉnh gần
Hà Nội, đây là một thị trường có sức tiêu thụ lớn, ngày càng phát triển, các sản
phẩm công nghiệp của Hà tây dễ tiêu thụ. Tỉnh chỉ đầu tư rất khiêm tốn cho
công nghiệp, năm cao nhất là năm 1996 với 17.68 tỉ đồng( chiếm tỷ trọng 28.2
%) nhưng về các năm sau sau lại có xu hướng giảm hơn so với đầu thời kì,
năm 1999 là 16 tỉ đồng(chiếm 15%)và năm 2000 là 18 tỉ đồng(chiếm 20.28 %)
, nếu chỉ đầu tư nhỏ cho công nghiệp thì khó phát triển được công nghiệp và
khai thác thị trường trên
Trong vùng Đồng Bằng Bắc Bộ , Hà Tây là một vùng có nhiều danh thắng
cảnh nổi tiếng và đẹp, lại có một thị trường rộng lớn cho du lịch như Hà Nội,
Hải Dương...trong khi các công ty ngoài quốc doanh chưa phát triển trong
ngành này thì đầu tư của ngân sách sẽ đóng vai trò quan trọng. Nhưng thực tế
thì nguồn vốn này lại rất thấp, chiếm tỷ trọng chưa đầy 10 % , do đó cần phải
khắc phục và điều chỉnh kịp thời.
Trong giai đoạn này, tín hiệu đáng mừng nhất là đối với ngành nông nghiệp;
Vốn đầu tư cho ngành nông nghiệp có tỷ trọng tương đối cao và về số lượng
ngày càng tăng lên So với năm 1996(vốn đầu tư :13.406 tỉ đồng) năm
1997(với 20.42 tỉ đồng )tăng 52.3 %, năm 1999 tăng hơn năm 1998 là
(84.65% ), năm 2000 là cao nhất với số vốn đầu tư 29.03 tỉ đồng. Tuy vậy năm
1998 lại thấp hơn năm 1997 với vốn đầu tư 17.55 tỉ đồng.Vốn đầu tư cho nông
nghiệp trong giai đoạn này tăng vì tỉnh Hà Tây tập trung mạnh đầu tư để nâng
cấp và hoàn thiện hệ thống thuỷ lợi: các trạm bơm, cống... như dự án tưới tiêu
Đồng Mô( Sơn Tây), trạm bơm Ngọ Xá ( Ứng Hoà) với số vốn hàng tỷ đồng;
hoặc cùng với trung ương đầu tư cho hệ thống đê điều và phân lũ sông Hồng.
3.Phân theo cấp quản lí.
Xét theo cấp quản lí , vốn đầu tư của Hà Tây được chia theo hai cấp
:Cấp trung ương và cấp địa phương. Cấp trung ương quản lí các dự án có qui
mô lớn hoặc đầu tư hợp tác với nước ngoài; cấp địa phương quản lí các dự án
nhỏ hơn.
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
37
Bảng 3. Bảng cơ cấu vốn đầu tư phân theo cấp quản lí
Giai đoạn 1996 - 2000
Đơn vị 1996 1997 1998 1999 2000
1.Trung ương
Tỷ trọng
Tỉ đồng
%
13.6
2.04
58.3
6.8
55.6
6.95
426.9
36.72
390
34.48
2.Địa phương
Tỷ trọng
Tỉ đồng
%
653.1
97.96
799.3
93.2
744.0
93.05
735.8
63.28
741.2
65.52
Tổng
Tỷ trọng
Tỉ đồng
%
666.7
100
857.6
100
799.6
100
1162.7
100
1131.2
100
( Nguồn : Biểu số liệu kèm theo báo cáo thực hiện kinh tế - xã hội nhiệm vụ
1996- 2000 và phương hướng nhiệm vụ 5 năm 2001 - 2005 tỉnh Hà Tây)
Qua bảng trên có thể nhận thấy rằng vốn đầu tư do địa phương quản lí
luôn chiếm tỉ lệ cao trong tổng vốn đầu tư tỉnh Hà Tây trong những năm vừa
qua. Theo qui định ,vốn đầu tư do tỉnh quản lí thường là các dự án nhỏ, vốn
đầu tư không cao; với một tỉnh nhỏ như Hà Tây điều này cũng tương đối hợp
lí. Đi vào phân tích kĩ ta thấy vốn đầu tư của nguồn này là tương đối ổn định,
với mức độ tăng giảm không đáng kể. Năm có giá trị cao nhất là năm 1997
với số vốn đầu tư là 799.3 tỉ đồng chênh lệch không nhiều so với năm 1996 là
653.1 tỉ đồng ; các năm còn lại tương đối đồng đều. Nguồn vốn này luôn
chiếm tỉ lệ cao cũng chứng tỏ Hà Tây chú trọng tới việc thu hút các nguồn vốn
nhỏ trong tỉnh cho phát triển kinh tế.
Trong khi đó , nguồn vốn do trung ương quản lí có những sự tăng đột ngột
và mạnh mẽ trong hai năm gần đây cả về giá trị tuyệt đối lẫn tỉ trọng. Cụ thể
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
38
năm 1997, vốn đầu tư là 58.3 tỉ đồng( chiếm 6.8% ), năm 1998 là 55.6 tỉ đồng
( chiếm 6.95% ), đến năm 1999 là 426.9 tỉ đồng( chiếm 36.68%) tăng vọt so
với năm 1998 là 668%, năm 2000 nguồn vốn này cũng cao. Vốn trung ương
quản lí các dự án đầu tư vào tỉnh có qui mô lớn, lượng vốn này tăng cao cho
thấy có nhiều dự án lớn : như dự án đầu tư cải tạo hệ thống đê điều, nước sạch
nông thôn , nhà máy xi măng Tiên Sơn, sân gold Đồng Mô... đầu tư vào Hà
Tây .Đây là một dấu hiệu đáng mừng đối với sự phát triển kinh tế của tỉnh.
Tóm lại, dù có phân chia vốn đầu tư theo cách nào, dựa trên các số liệu
,ta có thể khẳng định rằng tình hình đầu tư của Hà Tây trong thời gian vừa qua
là rất tích cực và có chiều hướng tăng lên theo thời gian. Từ đó ta thấy kinh tế
xã hội của tỉnh đang trong xu hướng tăng trưởng và phát triển
III.Thực trạng đầu tư phát triển nông nghiệp HàTây.giai đoạn 1996- 2000
Hà Tây, như đã nói ở trên là một tỉnh nông nghiêp, ngành nông nghiệp
vẫn chiếm một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội của tỉnh. Vì
vậy phát triển một ngành nông nghiệp vững mạnh, đảm bảo cung cấp đầy đủ
lương thực , thực phẩm cho người dân và có thể xuất khẩu là một đòi hỏi thiết
yếu của tỉnh Hà Tây.Vì vậy mà trong thời gian qua, ngành nông nghiệp Hà
Tây luôn được toàn tỉnh quan tâm và đầu tư thích đáng và trong các ngành
kinh tế thì nông nghiệp có một tỷ trọng khá cao trong tổng vốn đầu tư.
1.Theo cơ cấu vốn đầu tư
Nguồn vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp Hà tây là phong phú và đa
dạng,như vốn đầu tư do trung ương cấp, vốn của dân , vốn tín dụng...Cụ thể
các nguồn vốn trong bảng dưới đây.
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
39
Bảng 4. Bảng cơ cầu vốn đầu tư cho nông nghiệp Hà Tây phân theo
nguồn vốn đầu tư . Giai đoạn 1996 -2000
Đơn vị 1996 1997 1998 1999 2000
I. Vốn NSTƯ cấp
Tỷ trọng
Tỉđồng
%
20.264
34.43
50.84
45.9
57.43
51
52.7
49
52.29
54.59
1.Bộ quản
Tỷ trọng
Tỉđồng
%
14.415
24.5
36.44
32.9
41
36.45
39.9
37.16
31.85
32.77
2 .Tỉnh quản
Tỷ trọng
Tỉđồng
%
5.849
9.93
14.4
13
16.43
14.55
12.8
11.84
20.44
21.82
II.Vốn từ thuế nông
nghiệp để lại
Tỷ trọng
Tỉđồng
%
8.257
14
16.4
14.8
20.55
18.27
21.09
19.64
11
11.49
III. Vốn tự cân đối
Tỷ trọng
Tỉđồng
%
24.5
41.6
25.85
23.36
25.14
22.35
25.22
23.48
24.495
25.57
1.Trích từ thuỷ lợi phí
Tỷ trọng
Tỉđồng
%
17
28.9
19.5
17.62
19
16.89
18.65
17.37
18
18.79
2.Dân tự làm
Tỷ trọng
Tỉđồng
%
7.5
12.7
6.35
5.74
6.14
5.46
6.57
6.11
6.495
6.78
IV.Vốn tín dụng ưu đãi
Tỷ trọng
Tỉđồng
%
5.818
9.97
17.56
15.94
9.36
8.38
8.36
7.8
8
8.35
Tổng vốn đầu tư
Tỷ trọng
Tỉđồng
%
58.839
100
110.65
100
112.48
100
107.37
100
95.785
100
(Nguồn: Báo cáo kết quả thực hiện vốn đầu tư XDCB giai đoạn 1996-2000)
Nhìn vào tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp Hà Tây, thấy rằng nguồn vốn
đầu tư cho ngành này là khá đa dạng và biến động khá phức tạp. Những nguồn
vốn này đầu tư cho cả nông nghiệp và phát triển nông thôn. Ta có thể thấy
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
40
rằng vốn đầu tư cho nông nghiệp của Hà Tây là tương đối cao và luôn ở một
mức độ tương đối ổn định. So với năm 1996 ,đầu thời kì những năm tiếp theo
cao hơn rất nhiều, thậm chí có năm cao gấp đôi. Trong dòng vốn đầu tư này ,
ta nhận thấy năm có giá trị vốn đầu tư cao nhất là năm 1998 với vốn đầu tư
112.48 tỉ đồng, so với năm 1996 với vốn đầu tư 58.839 tỉ đồng tăng 91.16
%. Các năm còn lại đều có vốn đầu tư là khá cao với giá trị khoảng 100 tỉ
đồng. Nhìn vào đây ta cũng thấy là mức độ gia tăng vốn đầu tư là không đồng
đều. Trong khi năm 1998 tăng 1.65% so với năm 1997, năm 1999 lại giảm
4.5% so với năm 1998, còn năm 2000 cũng giảm đáng kể. Từ tình hình đầu tư
trên ta thấy, nông nghiệp Hà Tây trong giai đoạn vừa qua đã có những tiến bộ
trong việc thu hút vốn đầu tư, để có thể phát triển hơn và thu hút được nhiều
lượng vốn đầu tư ,ngành nông nghiệp cũng như tỉnh Hà Tây phải có những cố
gắng nhiều hơn nữa trong chính sách cũng như chiến lược thu hút vốn đâù tư
từ nhiều nguồn khác nhau.
Trên đây là một vài phân tích về tổng vốn đầu tư , nhưng để có thể đánh
giá chính xác và chi tiết về thực trạng đầu tư nông nghiệp Hà Tây , ta còn phải
đi sâu hơn nữa vào các nội dung sau.
1.1 Vốn ngân sách trung ương
Đây là nguồn vốn do nhà nước đầu tư cho tỉnh Hà Tây hoặc bổ sung vào
ngân sách tỉnh để đầu tư nông nghiệp của tỉnh. Giá trị nguồn vốn này phản ánh
phần nào sự quan tâm của Đảng và nhà nước cho phát triển kinh tế xã hội nói
chung và ngành nông nghiệp nói riêng.
Xem xét cả về tỷ trọng và khối lượng vốn ,ta thấy rằng nguồn vốn này tăng
khá đều qua các năm và luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn đầu tư. Nguồn
vốn này biến đổi thay đổi khá ổn định. Ta thấy rằng năm 1996, năm đầu của
thời kì phát triển kinh tế 1996 -2000, là năm có giá trị thấp nhất là 20.264 tỉ
đồng , nhưng cũng cao hơn so với giá trị bình quân giai đoạn 1991 -1995.
Đến năm 1997 giá trị nguồn vốn này tăng vọt, với giá trị là 50.84 tỉ đồng , tăng
lên 150.8 % so với năm 1996. Đây là con số rất cao, sở dĩ như vậy vì giai đoạn
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
41
này nhà nước chú trọng đầu tư cho các công trình lớn tỉnh Hà Tây nhằm hiện
đại hoá cơ cấu hạ tầng nông nghiệp và nông thôn.Năm 1998 là năm còn có giá
trị cao hơn năm 1997 và là năm đạt giá trị cao nhất trong thời kì này với tỷ
trọng 51 % trong tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp. Trong hai năm tiếp ,nguồn
vốn này có xu hướng giảm do các công trình ở Hà Tây xây dựng hạ tầng đã
hoàn thành và ngành nông nghiệp tỉnh đã khá phát triển.
Nguồn vốn trung ương này được chia làm hai phần: nguồn vốn do các bộ
quản ( thường với các công trình có qui mô lớn và có ý nghĩa quan trọng ...) và
nguồn vốn do tỉnh quản lí ( với các dự án có qui mô nhỏ hơn). Hai nguồn này
luôn hỗ trợ và tương hỗ lẫn nhau trong việc đầu tư cho ngành nông nghiệp
nhưng không phải chúng có xu hướng vận động như nhau mà sự biến động
của chúng là khá phức tạp
* Vốn do bộ quản
Nguồn vốn do bộ quản có thể nói luôn chiếm một vị trí cao không những
trong tổng vốn ngân sách trung ương cấp mà còn trong cả vốn đầu tư cho nông
nghiệp Hà Tây. Trong vốn trung ương thường thì nguồn vốn này luôn chiếm
khoảng hơn hai phần ba, và trong thời kì vừa qua nó tăng khá .Năm 1996 là
năm có giá trị vốn đầu tư thấp nhất , nhưng từ năm 1997 trở đi, vốn đầu tư
luôn ở mức cao và cao hơn rất nhiều so với năm 1996, thường gấp từ hai lần
trở lên so với năm 1996. Nguồn vốn này tăng, và chiếm tỷ lệ cao do trong
thời kì này nhà nước tập trung đầu tư các dự án lớn cho tỉnh Hà Tây như dự án
đầu tư nâng cấp hệ thống sông Nhuệ với số vốn hàng chục tỷ đồng , hay dự án
cải tạo hồ chứa nước Quan Sơn, dự án cống Bến mắm ở Sơn Tây với vốn thực
hiện là 21 tỉ đồng, hay như dự án bãi Xuân Phú với số vốn đầu tư 19 tỉ đồng
,đều bắt đầu từ năm 1997 và kéo dài trong nhiều năm tiếp theo, như dự án
sông Nhuệ thậm chí còn kéo dài sang cả những năm của thế kỉ 21.Quan trọng
trong nguồn vốn này là nguồn vốn đầu tư cho hệ thống đê điều và dự án phân
lũ sông Hồng vào một số huyện thị của tỉnh Hà Tây. Những năm trong giai
đoạn này có vốn đầu tư thấp bởi lẽ hệ thống cơ sở hạ tầng ở nông nghiệp Hà
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
42
Tây như các trạm bơm , các kênh mương cấp I, nhiều hệ thống tưới tiêu đã cũ
và xuống cấp khá trầm trọng cần và đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn của nhà
nước và của tỉnh.
Đi vào phân tích kĩ từng năm, năm 1998 có giá trị cao nhất với số vốn 41
tỉ đồng, năm này có giá trị cao bởi nhiều dự án bắt đầu từ năm 1997 đi vào
thực hiện ở giai đoạn quan trọng và trọng điểm do vậy đòi hỏi lượng vốn rót
cho các công trình khá lớn ,đồng thời năm 1998 cũng bắt đầu một vài dự án
khá quan trọng như trạm bơm An Vọng( Chương Mĩ ). Đến năm 1999 ,một vài
dự án đã hoàn thành do vậy vốn do bộ quản đã giảm đi chút ít . Còn năm 2000
hàng loạt các công trình hoàn thành như bãi Xuân phú, bến Mắm ( Sơn Tây )...
Trong khi các dự án mới ít và vốn không lớn do vậy mà năm 2000 vốn giảm
sút rất nhiều , so với năm 1999 thì nó giảm tới 20.1 %. Như vậy nguồn vốn bộ
quản trong thời kì vừa qua tăng giảm không đều nhưng nó góp phần cực kì
quan trọng vào quá trình phát triển nông nghiệp Hà Tây.
*Vốn do tỉnh quản
Trong khi nguồn vốn do bộ quản có xu hướng giảm trong thời gian gần
đây thì nguồn vốn ngân sách trung ương do tỉnh quản lại có xu hướng gia tăng.
Nguồn vốn này thể hiện sự quan tâm của trung ương đối với những dự án nhỏ
,các dự án liên quan hỗ trợ cho các dự án lớn . Như vậy nhà nước không chỉ
quan tâm ở tầm vĩ mô mà còn ở tầm vi mô. Bởi lẽ các dự án nhỏ có qui mô
nhỏ , vốn ít đầu tư chi tiết do vậy mà bộ không thể quan tâm được hết và như
vậy lại tốn chi phí quản lí. Trong khi đó, do nắm vững tình hình phát triển của
ngành nông nghiệp do vậy mà chính quyền địa phương dễ nắm bắt các khu
vực nhỏ cần đầu tư ,do vậy giao một phần vốn cho tỉnh quản là hợp lí ;đồng
thời tăng cường tính tự chủ của địa phương. Các dự án đầu tư thuộc nguồn vốn
này chủ yếu để xây dựng và phát triển trạm bơm, kiên cố hoá các kênh mương
cấp II ,phát triển hệ thống giống, bảo vệ thực vật...Nhìn vào vốn đầu tư ta thấy
rằng năm 1996 là năm có giá trị thấp nhất, đến năm 1998 vốn này cũng đạt giá
trị cao, với vốn đầu tư là 16.43 tỉ đồng, tương ứng với mức vốn ngân sách
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
43
trung ương đầu tư cho tỉnh ở mức cao.Như vậy bên cạch đầu tư cho các dự án
lớn tỉnh cũng phát triển đồng bộ các dự án nhỏ khác để các công cuộc đầu tư
đạt hiệu quả cao.Đến năm 2000 , vốn do tỉnh quản cao hơn hẳn và là năm cao
nhất với vốn đầu tư 20.44 tỉ đồng tăng 59.68 % so với năm 1999, do được bổ
sung một phần khá lớn vốn đầu tư trong đợt giữa năm và các dự án nhỏ cần
được đầu tư để khai thác các dự án lớn do trung ương đầu tư đã hoàn
thành.Nguồn vốn này tuy không có giá trị cao nhưng nó góp phần cực kì quan
trọng trong việc phát triển nông nghiệp từng huyện thị xã.
Tóm lại, nguồn vốn ngân sách trung ương đóng vai trò then chốt trong vốn
đầu tư cho nông nghiệp.Các dự án đầu tư của nó không những tạo ra cơ sở hạ
tầng cực kì quan trọng cho phát triển nông nghiệp mà còn góp phần tạo nền
tảng ban đầu để thu hút các nguồn vốn đầu tư khác. Khai thác và sử dụng
nguồn vốn này sẽ rất hữu ích đối với sự phát triển của ngành nông nghiệp tỉnh
Hà Tây .
1.2 Vốn từ thuế nông nghiệp
Nguồn vốn này có được do việc thu thuế sử dụng đất nông nghiệp và
một số loại thu khác ... và được nhà nước giao cho tỉnh một phần. Cụ thể,
theo qui định của nhà nước Việt Nam, các tỉnh thành phố trong cả nước có
quyền giữ lại một phần hoặc toàn bộ nguồn thuế nông nghiệp này và năm đầu
tiên áp dụng chính sách này là năm 1996. Trong năm 1996, tỉnh Hà Tây được
phép giữ lại 45 % thuế nông nghiệp và mỗi năm có những sự thay đổi khác
nhau , riêng năm 1999 ,tỉnh được phép giữ lại toàn bộ nguồn thuế này phục
vụ đầu tư phát triển,năm 2000 có tỷ lệ để lại nhỏ hơn. Với chủ trương này,
nhà nước đã tạo điều kiện cho chính tỉnh đó lấy vốn từ thuế để đầu tư cho
chính mình, như vậy là rất thiết thực đối với người dân.
Nguồn vốn đầu tư từ thuế nông nghiệp được trao cho chính địa phương
quản lí, do vậy nó cũng nằm trong ngân sách tỉnh hàng năm . Nhìn vào bảng 4
,ta thấy rằng nguồn vốn này không chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn đầu tư
và giá trị cũng tương đối thấp. Nhưng nó lại tạo ra một khối lượng không nhỏ
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
44
các dự án đầu tư phát triển hạ tầng nông nghiệp. Nói chung ,nguồn vốn này
thường không hình thành các dự án đầu tư độc lập mà nó thường kết hợp với
vốn ngân sách do địa phương quản lí và vốn tự cân đối để tiến hành đầu tư.
Xem bảng 4, ta thấy trong thời kì 1996 -2000 nguồn vốn đầu tư từ thuế
nông nghiệp có xu hướng tăng ,phù hợp với xu thế đưa vốn trở lại chính nơi
xuất phát để đầu tư cho hiệu quả. Với năm 1999, là điển hình, giá trị vốn lên
đến 20.14 tỉ đồng, chiếm tới 19,64 % tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp . Năm
1999 có giá trị cao như vậy bởi năm này theo xu hướng chung là cần đầu tư
cho những dự án có vốn nhỏ và cũng là năm tỉnh được nhà nước cho phép giữ
lại 100% thuế nông nghiệp cho đầu tư.Nếu xét cả quá trình từ năm 1996 -
1999, năm 1997 cao hơn năm 1996 là 98.6%, năm 1998 lại cao hơn năm 1997
là 25.3%, còn năm 1999, cao nhất tăng hơn năm 1998 là 2.6 %, như vậy xu
hướng tăng vốn chậm dần. Nguyên nhân vốn tăng chậm không phải là do nhu
cầy đầu tư cho nông nghiệp giảm xuống mà do nguyên nhân khách quan: đất
nông nghiệp thì diện tích luôn cố định nên số thuế không thể tăng liên tục
cao được, do vậy dù nhà nước có để lại cho tỉnh hết cũng không cao hơn
nữa. Riêng năm 2000,ta thấy vốn đầu tư cho nông nghiệp tư thuế nông
nghiệp giảm sút mạnh chỉ có 11tỉ đồng; tuy nhiên lí do giảm không phải là
thuế nông nghiệp thu ít hay nhà nước để lại cho tỉnh không nhiều mà do tỉnh
tập trung vốn lớn để đầu tư cho việc xây dựng hệ thống kênh mương huyện
Phúc Thọ dài 73.6 km vào cuối năm với tổng vốn đầu tư là 11.5 tỉ đồng
nhưng chưa được tính vào vốn đầu tư năm 2000.
Nguồn vốn đầu tư từ thuế nông nghiệp nói chung được sử dụng khá đa
dạng trong việc đầu tư cho nông nghiệp.
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
45
Bảng 5.Bảng cơ cấu đầu tư từ nguồn thuế nông nghiệp.
Đơn vị :tỉ đồng
1996 1997 1998 1999 2000
1. Trạm bơm 1.1 0.96 1 1.24 3.3
2. Kiên cố hoá
kênh mương
- 3.8 4. 4.05 3
3.Nâng cấp hệ
thống giống
1.088 2.7 5.75 6.2 3.2
4.Nâng cấp hệ
thống thú y
0.63 1.25 2.5 1.89 0.75
5. Nâng cấp hệ
thống BVTV
1.139 1.8 2.05 1.5 0.75
6.Khuyến nông 1.3 2.5 2.75 2.81 -
Kí hiệu - : không có vốn đầu tư
(Nguồn : Báo cáo tình hình thực hiện các dự án đầu tư các ngành kinh tế các
năm từ 1996 -2000 của tỉnh Hà Tây.)
Năm 1996 như đã trình bày là năm đầu tiên thực hiện chích sách để tiền
thu được từ thuế nông nghiệp cho công cuộc đầu tư của từng địa phương . Do
vậy năm này, nguồn vốn đầu tư là thấp về cả giá trị và tỷ trọng vốn đầu tư; cho
nên nó chỉ góp phần vào các công cuộc đầu tư thông qua bổ sung và kết hợp
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
46
với vốn ttừ ngân sách. Tuy vậy năm 1996 , vốn đầu tư này vẫn đóng góp quan
trọng vào sự phát triển nông nghiệp và sơ sở hạ tầng nông nghiệp. Nguồn vốn
này được sử dụng một phần nhằm kiên cố hoá hệ thống kênh mương, phát triển
và nâng cấp hệ thống thú y, hệ thống giống và bảo vệ thực vật....Năm 1996
cũng có một vài dự án từ nguồn vốn này như xây dựng trạm bơm tiêu Phụng
Châu(Thường Tín ) với vốn đầu tư 1 tỷ đồng.
Sang năm 1997, vốn đầu tư từ thuế nông nghiệp bắt đầu tăng lên, cơ cấu
vốn đã đa dạng và phức tạp hơn trước. Trong cơ cấu vốn năm 1997, thì vốn
đầu tư cho nâng cấp hệ thống và kiên cố hoá kê mương chiếm một phần khá
cao trong tổng vốn đầu tư. Điều này cho thấy tỉnh đã chú trọng đầu tư vào hệ
thống cơ sở hạ tầng và vào công nghệ giống, những nhân tố quyết định phần
lớn năng xuất của sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra ,các lĩnh vực khác của nguồn
này cũng cao hơn so với năm 1996. Trong năm 1997, số dự án từ nguồn này
cũng tăng lên rõ rệt và ngày càng quan trọng hơn.; như dự án xây dựng hệ
thống trạm trại nông nghiệp trên toàn tỉnh với vốn 1.5 tỉ đồng hoặc góp một
phần vốn là 1 tỉ đồng vào dự án trạm bơm tiêu hạ du Đồng Mô. Như vậy năm
1997 đánh dấu sự biến chuyển tích cực của nguồn vốn đầu tư này.
Trong hai năm tiếp theo, cùng với việc nhà nước trao cho tỉnh nhiều hơn nữa
tiền thu được từ thuế nông nghiệp nên trong hai năm 1998, 1999 tổng vốn đầu
tư từ thuế và tững cơ cấu lĩnh vực đều tăng , trong đó năm 1999 cao hơn năm
1998 về mọi mặt.Trong hai năm 1998, 1999 vốn đầu tư cho hệ thống giống và
cho việc kiên cố hoá hệ thống kênh mương vẫn tăng và chiểm tỷ lệ cao ( với tỷ
trọng tương ứng năm 1998 là 28.75 % và năm 1999: 48.81 % ). So với năm
1997, thì vốn đầu tư năm 1998 cho hệ thống giống tăng 112.96 % , năm 1999
lại tăng so với năm 1998 là 7.8 % .Việc tăng đầu tư cho giống trong thời gian
này là do tỉnh bắt đầu chú trọng hơn đến các loại giống cho ngành chăn nuôi,
dặc biệt là giống về lợn và tỉnh cũng thử nghiệm các loại cây trái có thể đem lại
hiệu quả cao trong mô hình kinh tế trang trại ở các vùng đồi núi. Cùng với đó
là nâng cấp hệ thống thú y và phát triển các chương khuyến nông cũng nhận
được sự đầu tư trợ giúp lớn nhằm đáp ứng chủ trương phát triên chăn nuôi và
khuyến khích làm kinh tế mới. Như vậy trong hai năm này ,nguồn vốn đầu tư
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
47
từ thuế nông nghiệp đạt tới giá trị cao nhất. Trong thời gian này cũng có nhiều
dự án lớn như dự án Hệ thống tưới tiêu đồng Mô, vốn là 1 tỉ đồng năm 1998 và
tiếp tục sang năm 1999 với vốn 1 tỉ đồng , dự án cải tạo bãi Phướn Ba Vì với
vốn 1.5 tỉ đồng, hoặc như dự án trại giống lợn Thanh Hưng với vốn đầu tư 2.5
tỉ đồng...Có thể nói các dự án trên là thiết thực với sự phát triển nông nghiệp
Hà Tây.
Năm 2000 tỉnh vẫn được nhà nước cho phép giữ lại phần lớn thuế nông
nghiệp. Nhìn chung năm 2000, tỉnh vẫn tập trung đầu tư mạnh cho hệ thống
kênh mương và các trạm bơm được đầu tư cao hơn trước trong khi đầu tư cho
các lĩnh vực khác giảm hẳn thậm chí chương trình khuyến nông không nhận
được vốn đầu tư .Có thể giải thích cho vốn trong năm này cho các lĩnh vực
giảm do các năm trước đã được đầu tư thích đáng và phần nào đã đáp ứng được
nhu cầu của tỉnh.Năm 2000, đầu tư cho hạ tầng nông nghiệp, qua các dự án
như trạm bơm Ngọ Xá 2 với vốn từ thuế nông nghiệp 2.8 tỉ đồng( trong tổng
vốn đầu tư 3.8 tỉ đồng), hay dự án kênh mương Phúc Thọ( đã trình bày ở trên).
Việc đầu tư mạnh này là do chủ chương vừa phát triển nông nghiệp vừa kích
thích đầu tư và tăng tiêu dùng trong nền kinh tế để kích cầu đầu tư và tiêu dùng
của toàn tỉnh.
Có thể khẳng định rằng , vốn đầu tư từ thuế nông nghiệp chiếm một vai trò
khá quan trọng trong vốn đầu tư cho nông nghiệp.Khai thác nguồn vốn này
hiệu quả là yêu cầu cho sự phát triển nông nghiệp tỉnh Hà Tây.
1.3 Vốn tự cân đối
Nguồn vốn này ở đây được hiều là vốn huy động trong nội bộ tỉnh từ các
doanh nghiệp, từ nhân dân...bao gốm một phần thuỷ lợi phí( khác với thuế
nông nghiệp) và vốn do dân đóng góp; nó không thuộc phạm vi quản lí của
chính quyền cũng như phải nộp vào ngân sách theo như những qui định của
nhà nước và pháp luật. Ta biết rằng để phát triển một nền kinh tế, một ngành
nhất định thì vốn từ các tầng lớp dân cư và doanh nghiệp mới là quyết định cho
quá trình đầu tư phát triển, trong khi vốn ngân sách nhà nước và vốn ngân sách
địa phương chỉ là nguồn vốn tiền đề ,nền tảng để từ đó có thể kêu gọi các
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
48
nguồn vốn đầu tư khác. Như vậy ngành nông nghiệp tỉnh Hà Tây muốn phát
triển thì phải có khối lượng vốn từ các doanh nghiệp của ngành và từ dân cư
phải có giá trị lớn. Tuy nhiên ,đặc trưng của đầu tư trong nông nghiệp có tỷ
suất lợi nhuận thấp có độ rủi ro cao nên ít người dân dám đàu tư ; vì vậy nguồn
vốn đầu tư này khônglớn. Nhưng ta cũng không thể phủ nhận những đóng góp
của nó vào quá trình phát triển ngành nông nghiệp của tỉnh .Đây là nguồn vốn
rất rải rác ,nhỏ, lẻ nên việc thu thập số liệu và thống kê là rất khó khăn. Do vậy
các con số về đầu tư về nguồn vốn này chỉ là ước tính bình quân và mang tính
tương đối nhưng nó cũng có thể phản ánh tương đối chính xác về tình hình đầu
tư.
Trong tổng vốn đầu tư trong ngành nông nghiệp trong giai đoạn 1996- 2000
thì nguồn vốn này luôn chiếm tỷ trong khoảng 20 % và trong đó đầu tư từ thuỷ
lợi phí chiếm 3/4 trong số này.Ta thấy rằng nguồn vốn đầu tư trong thời kì
1996 -2000 là tương đối ổn định và không có nhiều sự biến động lớn, với số
vốn bình quân khoảng 25 tỉ đồng , trong đó năm cao nhất 1997 có giá trị vốn
đầu tư 25.85 tỉ đồng tăng hơn so với năm thấp nhất 1996 ( với vốn đầu tư 24.5
tỉ đồng ) là 5.5 %. Đi vào phân tích kĩ hơn thì nguồn vốn này được sử dụng tập
trung chủ yếu để đầu tư vào hệ thống thuỷ lợi: như kiên cố hoá kênh mương
cấp III( các kênh mương nhỏ ,trong địa bàn một xã). Nhờ có nguồn vốn này mà
nhiều công trình xây dựng được hoàn thành và hoạt động tốt phục vụ cho sản
xuất nông nghiệp . Nhưng kể từ năm 1997 trở về năm 2000 vốn đầu tư có xu
hướng giảm, năm sau thấp hơn so với năm trước; điển hình là năm 2000 có vốn
đầu tư thấp nhất. đây là một dấu hiệu không tốt. Việc giảm sút này do các
công trình lớn kêu gọi được nhiều các nguồn vốn đầu tư phù hợp trong khi các
công trình đầu tư nội đồng cũng đã giảm nhiều. Nhưng nguyên nhân giảm chủ
yếu là do công tác thu thuỷ lợi phí và kêu gọi nhân dân đóng góp có nhiều điều
khúc mắc và bất cập khiến cho người dân không đồng tình và họ không chịu
góp vốn.Vì vậy để không ngừng nâng cao khối lượng vốn đầu tư cho những
công trình thiết thực cho sản xuất nông nghiệp, đòi hỏi các cấp chính quyền
phải rõ ràng minh bạch trong quá trình sử dụng vốn và thực hiện đầu tư. Tóm
lại đây là một nguồn vốn đầu tư có nhiều tiềm năng lớn chưa được khám phá
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
49
và khai thác triệt để. Vì vậy thu hút và kêu gọi nhiều hơn nữa nguồn vốn này
sẽ góp phần không nhỏ vào công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hóa nông
nghiệp. Điều này đòi hỏi các cấp chính quyền tỉnh Hà Tây cần cố gắng và nỗ
lực hơn nhằm để cho người dân tin và hiểu như vậy họ sẽ đóng góp nhiều hơn
cho những chương trình đầu tư ở địa phương.
1.4 Vốn tín dụng ưu đãi.
Do đầu tư trong nông nghiệp có lợi nhuận thấp, nên không thu hút được
nhiều nhà đầu tư, mặt khác những người nông dân sống trong khu vực này chủ
yếu là những người có thu nhập thấp, đời sống khó khăn vì thế họ rất thiếu vốn
sản xuất. Trong khi đó nhiều địa phương như Hà Tây lại không giàu có, cơ sở
hạ tầng cho nông nghiệp lại đang ở tình trạng xuống cấp. Do vậy bên cạnh
nguồn vốn đầu tư của nhà nước thì rất cần sự trợ giúp của ngân hàng và các tổ
chức tín dụng thông qua các chương trình cho vay vốn với lãi suất ưu đãi cùng
các điều kiện vay thuận lợi , dễ dàng. Nếu như các ngân hàng và các tổ chức tín
dụng thực hiện tốt chương trình này sẽ giúp cho người nông dân gia tăng sản
xuất và nâng cao đời sống của họ đồng thời làm cho những tiềm năng của tỉnh
Hà Tây được khai thác phục vụ cho phát triển kinh tế.
Trong tổng vốn đầu tư giai đoạn 1996 -2000 , vốn đầu tư từ tín dụng có giá
trị thấp và chiếm tỷ trọng không lớn. Cụ thể như năm 1997 là năm có khối
lượng vốn đầu tư lớn nhất , với 17.56 tỉ đồng , cũng chỉ chiếm 15.84 % trong
tổng vốn đầu tư cùng năm đó.; các năm khác thấp hơn nhiều.Không những thế
nguồn vốn đầu tư này còn giảm đi trong những năm gần đây, năm 1998 với
vốn 9.36 tỉ đồng , năm 1999 với 8.36 tỉ đồng , giảm 11.69 % so với năm 1998,
còn năm 2000 thấp hơn nữa với vốn 8 tỉ đồng.
Vốn đầu tư cho nông nghiệp thấp là do ngân hàng và các tổ chức tín dụng tỉnh
chưa thật sự nhiệt tình trong việc giúp đỡ các hộ nông dân vốn cho sản xuất,
đồng thời các thành phần kinh tế trong tỉnh chưa năng động trong việc tìm
kiếm và phát hiện các cơ hội đầu tư để vay vốn .
Nguồn vốn đầu tư này nói chung không chỉ bao gồm ngành nông
nghiệp thuần tuý mà nó còn tính cả vốn đầu tư cho cả các ngành lâm nghiệp,
thuỷ sản. Trong giai đoạn 1996 -2000 , nguồn vốn này cũng góp phần đáng kể
LuËn v¨n tèt nghiÖp §Çu t K39
50
vào việc phát triển nông nghiệp và nông thôn thông qua các dự án như:dự án
chuyển dịch cơ cấu kết hợp nuôi trồng thuỷ sản du lịch ở Mĩ Đức ( vốn 11.43
tỷ đồng ) , đề án cấp nước và vệ sinh môi truờng nông thôn (vốn 3.62 tỷ đồng),
hay như dự án nâng cấp hệ thống giống cây trồng Thường tín ( vốn 1.21 tỷ
đồng).
Tóm lại , đầu tư đã đóng góp quan trọng vào quá trình công nghiệp háo
và hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Theo cơ cấu nguồn vốn đầu tư
ta thấy vốn từ ngân sách nhà nước đóng vai trò quan trọng nhất trong khi
cácnguồn vốn khác chưa thể hiện được vai trò của mình. Vì vậy trong thời
gian, tỉnh một mặt phải nâng cao hơn nữa hiệu quả vốn đầu tư ngân sách ,
mặt khác phải có những biện pháp chính sách nhằm huy động nhiều hơn
các nguồn vốn khác phục vụ phát triển.
2.Cơ cầu lĩnh vực đầu tư
Hà Tây là một tỉnh không có tiềm lực kinh tế mạnh, phụ thuộc nhiều vào
nông nghiệp; trong khi đó các điều kiện cho phát triển nông nghiệp như cơ sở
hạ tầng, giống ... yếu kém và chưa đáp ứng được đòi hỏi của sản xuất. Vì vậy
để phát triển một nền nông nghiệp vững mạnh thì tỉnh đã đầu tư nhiều cho
nông nghiệp và có định hướng đầu tư hợp lí cho những lĩnh vực cần thiết.
Bảng 6.Bảng cơ cấu đầu tư theo lĩnh vực ngành nông nghiệp.
Giai đoạn 1996 -2000
Đơn vị 1996 1997 1998 1999 2000
1. Đê điều
Tỷ trọng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn Đầu tư phát triển nông nghiệp Hà Tây.pdf