Luận văn Nghiên cứu cập nhật hệ thống chỉ tiêu phát triển dân cư, xã hội theo vùng và vận dụng trong dạy học Địa lí 9

Tài liệu Luận văn Nghiên cứu cập nhật hệ thống chỉ tiêu phát triển dân cư, xã hội theo vùng và vận dụng trong dạy học Địa lí 9: Số húa bởi Trung tõm Học liệu – Đại học Thỏi Nguyờn ĐẠI HỌC THÁI NGUYấN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ TRANG NHUNG Nghiờn cứu cập nhật hệ thống chỉ tiờu phỏt triển dõn cư, xó hội theo vựng và vận dụng trong dạy học Địa lớ 9 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Thái Nguyên - 2009 Số húa bởi Trung tõm Học liệu – Đại học Thỏi Nguyờn Đại học Thái Nguyên Tr•ờng Đại học s• phạm Nguyễn Thị Trang Nhung Nghiờn cứu cập nhật hệ thống chỉ tiờu phỏt triển dõn cư, xó hội theo vựng và vận dụng trong dạy học Địa lớ 9 Chuyờn ngành : Lý luận và phương phỏp Giỏo dục Mó ngành : 60 -14 -10 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Người hướng dẫn khoa học : TS Vừ Như Võn Thỏi Nguyờn - 2009 T Số húa bởi Trung tõm Học liệu – Đại học Thỏi Nguyờn THAI NGUYEN UNIVERSITY THAI NGUYEN UNIVERSITY OF EDUCATION NGUYEN THI TRANG NHUNG TO STUDY REFRESHING SYSTEMS OF REGIONAL SOCIO- POLATION INDICATORS WITH THE AIMES OF TEACHING LOWER SECONDERY 9-TH GRADE GEOGRAPHY EDUCA...

pdf127 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1085 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nghiên cứu cập nhật hệ thống chỉ tiêu phát triển dân cư, xã hội theo vùng và vận dụng trong dạy học Địa lí 9, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ TRANG NHUNG Nghiên cứu cập nhật hệ thống chỉ tiêu phát triển dân cư, xã hội theo vùng và vận dụng trong dạy học Địa lí 9 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Th¸i Nguyªn - 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên §¹i häc Th¸i Nguyªn Tr•êng §¹i häc s• ph¹m NguyÔn ThÞ Trang Nhung Nghiên cứu cập nhật hệ thống chỉ tiêu phát triển dân cư, xã hội theo vùng và vận dụng trong dạy học Địa lí 9 Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp Giáo dục Mã ngành : 60 -14 -10 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Người hướng dẫn khoa học : TS Võ Như Vân Thái Nguyên - 2009 T Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên THAI NGUYEN UNIVERSITY THAI NGUYEN UNIVERSITY OF EDUCATION NGUYEN THI TRANG NHUNG TO STUDY REFRESHING SYSTEMS OF REGIONAL SOCIO- POLATION INDICATORS WITH THE AIMES OF TEACHING LOWER SECONDERY 9-TH GRADE GEOGRAPHY EDUCATIONAL SCIENCES MASTER THESIS METHODOLOGY AND METHODS OF TEACHING GEOGRAPHY CODE : 60 - 14 - 10 SCIEANTIPHICAL GUIDED BY DR.PH. VU NHU VAN THAI NGUYEN - 9 / 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Lời cam đoan Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Mọi kết quả nghiên cứu của Đề tài là trung thực và chưa ai công bố Thái Nguyên, ngày 28 / 9 / 2009 Ký tên Nguyễn Thị Trang Nhung Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên MỤC LỤC Më ®Çu 8 1. Lí do chọn đề tài..................................................................................... 8 2. Mục đích yêu cầu................................................................................... 9 3. NhiÖm vô nghiªn cøu……………………………………………………... 10 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu................................................................. 10 5. Tình hình nghiên cứu đề tài................................................................... 11 6. Phương pháp nghiên cứu........................................................................ 14 7. Cấu trúc luận văn................................................................................... 14 Néi dung vµ kÕt qu¶ nghiªn cøu Chương 1 : Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài.................................. 15 1.1. Cơ sở nhận thức luận ……………………………………………... 15 1.2.1. Chất và Lượng……………………………………………………. 15 1.2.2. Thời gian và Không gian…………………………………………. 16 1.2.3. Vận động và Phát triển……………………………………………. 17 1.2. Chỉ tiêu : Diễn giải, cấu trúc, phương pháp xử lí dữ liệu……….. 19 1.2.1. Nội hàm và ngoại diên khái niệm………………………………… 19 1.2.2. Diễn giải và cấu trúc ……………………………………………... 20 1.2.3. Phương pháp xử lí dữ liệu ………………………………………... 21 1.3. Tiêu chí hóa trong nghiên cứu vùng lãnh thổ dân cư, xã hội… 30 1.3.1. Trong nghiên cứu vùng địa lí tự nhiên……………………………. 30 1.3.2. Trong nghiên cứu vùng địa lí dân cư, xã hội …………………….. 33 1.4. Chỉ tiêu hóa trong dạy học Địa lí 9 theo hướng tích cực hóa …... 37 1.4.1. Nội dung dạy học phần vùng trong CT & SGK Địa lý 9………… 37 1.4.2. Nội dung dạy học Mục III : Đặc điểm dân cư, xã hội theo vùng trong SGK Địa lý 9…………………………………………………….... 38 1.5. Tiêu chí hóa trong nghiên cứu tái định dạng Địa - Kinh tế…….. 41 1.5.1. Nội dung tổng quát……………………………………………….. 41 1.5.2. Một số khái niệm cơ bản…………………………………………. 43 Tiểu kết chương 1……………………………………………………… 44 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Chương 2 : Cập nhật hệ thống chỉ tiêu phát triển dân cư, xã hội theo vùng lãnh thổ trong Địa lí 9………………………. 46 2.1. Nhận thức chung về cơ sở vùng của các chỉ tiêu dân cư, xã hội .. 46 2.1.1. Quan niệm về vùng……………………………………………….. 46 2.1.2. Phân hóa vùng dưới tác động của quá trình CNH-HĐH…………. 47 2.2. Quan điểm và nguyên tắc chung…………………………………. 52 2.2.1.Quan điểm ………………………………………………………… 52 2.2.2. Các nguyên tắc cập nhật………………………………………….. 53 2.3. Cập nhật nội dung theo các chỉ tiêu phát triển DCXH…. 55 2.3.1. Mật độ dân số …………………………………………………… 55 2.3.2. Tỉ lệ gia tăng tự nhiên của dân số ………………………………... 58 2.3.3. Tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị / thiếu việc làm ở nông thôn ……… 60 2.3.4. Tỉ lệ hộ nghèo và vấn đề xóa đói giảm nghèo……………………. 62 2.3.5. Đánh giá sự phát triển con người các chỉ số HDI.......................... 63 2.3.6. Thu nhập bình quân đầu người...................................................... 65 2.3.7. Tỉ lệ người lớn biết chữ (%)……………………………………… 67 2.3.8. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam (năm)………………….. 68 2.3.9. Tỉ lệ dân thành thị / nông thôn (%)……………………………….. 70 2.4. Cập nhật các chỉ tiêu phát triển dân cư, xã hội theo vùng…….. 71 2.4.1. Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ……………………………… 71 2.4.2. Vùng Đồng bằng sông Hồng........................................................... 73 2.4.3. Vùng Bắc Trung Bộ........................................................................ 76 2.4.4. Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ...................................................... 78 2.4.5. Vùng Tây Nguyên………………………………………………… 80 2.4.6. Vùng Đông Nam Bộ........................................................................ 82 2. 4.7. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long................................................... 84 2.4.8. Cập nhật hệ thống chỉ tiêu phát triển DCXH vùng Biển - Đảo Việt Nam............................................................. 86 Tiểu kết Chương 2 91 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Chương 3. Thực nghiêm sư phạm…………………………………………. 92 3.1. Các nguyên tắc chung…………………………………………… 92 3.1.1. Mục đích và đối tượng thực nghiệm ……………………………... 92 3.1.2. Nhiệm vụ của thực nghiệm sư phạm……………………………... 92 3.1.3. Nguyên tắc tiến hành thực nghiệm………………………………. 92 3.2. Đối tượng và Phương pháp thực nghiệm ……………………..... 93 3.2.1. Phương pháp thực nghiệm sư phạm……………………………… 93 3.2.2. Các bước thực nghiệm sư phạm………………………………….. 94 3.2.2.1. Chọn trường, chọn giáo viên, chọn lớp thực nghiệm…………... 94 3.2.2.2. Điều tra cơ bản, đánh giá và chiến lược………………………... 94 3.2.2.3. Thiết kế kịch bản tích hợp hệ thống chỉ tiêu …………………… 96 3.3. Triển khai và đánh giá …………………………………………… 100 3.3.1. Triển khai thực nghiệm.................................................................... 100 3.3.2. Phương pháp đánh giá ……………………………………. .……. 101 3.3.3. Phân tích kết quả thực nghiệm……………………………………. 101 Tiểu kết Chương 3 104 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ……………………………………………………… 106 Tài liêu tham khảo…………………………………………………….. 109 Phụ lục………………………………………………………………….. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên DANH MỤC KÊNH SỐ, KÊNH HÌNH 1. KÊNH SỐ STT Tên gọi Trang 1 Bảng 2.1. Một số chỉ tiêu phát triển dân cư, xã hội cả nước và theo vùng ở Việt Nam 48 2 Bảng 2.2. Một số chỉ tiêu phát triển DCXH ở vùng Đồng bằng sông Hồng 73 3 Bảng 232. Một số chỉ tiêu phát triển dân cư, xã hội ở Trung du và miền núi Bắc Bộ (Đông Bắc, Tây Bắc) 75 4 Bảng 2.4. Một số chỉ tiêu phát triển dân cư, xã hội ở Bắc Trung Bộ 78 5 Bảng 2.5. Một số chỉ tiêu phát triển dân cư, xã hội ở Duyên hải Nam Trung Bộ 80 6 Bảng 2.6. Một số chỉ tiêu phát triển dân cư, xã hội ở Tây Nguyên 82 7 Bảng 2.7. Một số chỉ tiêu phát triển dân cư, xã hội ở Đông Nam Bộ 84 8 Bảng 2.8. Một số chỉ tiêu phát triển dân cư, xã hội ở Đồng bằng sông Cửu Long 86 9 Bảng 2. 9. Diện tích, dân số, chỉ số HDI của 28 tỉnh / thành phố có biển 88 10 Bảng 2.10 : Các tỉnh / TP ở ĐBSCL có nguy cơ ngập chìm do biến đổi khí hậu toàn cầu 90 11 Bảng 3.1. Các trường THCS và GV tham gia thực nghiệm 94 12 Bảng 3.2. Kết quả sau khi thu về phiếu điều tra ở các cơ sở thực nghiệm 95 13 Bảng 3.3. Tỷ lệ GTTN của DS các vùng năm 2009 97 14 Bảng 3.4. Kết quả thực nghiệm theo kịch bản 1 với bài 2 102 15 Bảng 3.5. Kết quả thực nghiệm theo kịch bản 2 với bài 2 102 16 Bảng 3.6. Kết quả thực nghiệm theo kịch bản 1 với bài 20 102 17 Bảng 3.7. Kết quả thực nghiệm theo kịch bản 2 với bài 20 102 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2. KÊNH HÌNH STT Tên gọi Trang 1 Hình 2.1 : Theo dự báo, nhiều vùng thuộc ĐBSH như Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình sẽ ngập chìm từ 2-4 m trong vòng 100 năm tới (Nguồn: ICEM) 89 2 Hình 2.2. Theo dự báo, nhiều vùng thuộc ĐBSCL như An Giang, Đồng Tháp, Tiền Giang, Vĩnh Long, Cà Mau sẽ ngập chìm từ 2- 4m trong vòng 100 năm tới (Nguồn: ICEM) 89 3 Hình 3.1. Đánh giá tổng hợp kết quả thực nghiệm sư phạm 103 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ADB Ngân hàng Phát triển Châu Á CT&SGK Chương trình và Sch giáo khoa BTB Bắc Trung Bộ CN Công nghiệp DCXH Dân cư, xã hội DHNTB Duyên hải Nam Trung Bộ ĐBSH Đồng bằng sông Hồng ĐB Đông Bắc ĐNB Đông Nam Bộ ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long GV Giáo viên GDP Thu nhập quốc dân sản xuất HS Học sinh HDI Chỉ số phát triển con người HPI Chỉ số nghèo tổng hợp IMF Quĩ Tiền tệ quốc tề KTXH Kinh tế - xã hội KTTĐ Kinh tế trọng điểm LHQ Liên hợp quốc NLN Nông lâm ngư nghiệp TDMN Trung du và miền núi TB Tây Bắc TN Tây Nguyên WB Ngân hàng Thế giới Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Vùng là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia hoạt động như một hệ thống các mối quan hệ tương tác giữa các thành phần cấu tạo nên trong không gian và thời gian. Với quan niệm đó, vùng là một hệ thống các mối liên hệ của các bộ phận cấu thành với các dạng liên hệ dân cư, xã hội bên trong cũng như bên ngoài hệ thống. Vùng tồn tại do yêu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân, tính khách quan của bản thân vùng được cụ thể hóa trên cơ sở nhận thức thực tiễn. Và do đó, công việc phân vùng cũng như các tiêu chí phát triển vùng là sản phẩm phát triển trí tuệ, trình độ nhận thức của con người. Để có được năng lực và phẩm chất đó, vai trò của giáo dục hết sức quan thông qua Địa lí Việt Nam trong hệ thống giáo dục quốc dân, mà khâu quan trọng là các chương mục phân hóa vùng trong SGK Địa lí 9. Sau khi nghiên cứu hệ thống các chỉ tiêu phát triển DCXH trong các phần Địa lí Dân cư và Địa lí kinh tế, đặc biệt là phần Sự phân hóa vùng kinh tế, HS đã thấy được đặc điểm phát triển của các yếu tố sự phát triển dân cư, xã hội ở từng vùng, so sánh với các vùng và cả nước nói chung. Do đó, việc nghiên cứu vùng thông qua hệ thống các chỉ tiêu phát triển DCXH là cần thiết, đặc biệt với HS cuối cấp THCS cần trang bị cho mình những hiểu biết về các vùng của Việt Nam, nhằm chuẩn bị hành trang hiểu biết về đất nước, khi vào cuộc sống cũng như chuyển tiếp lên các bậc học cao hơn. Tuy nhiên trong quá trình dạy học theo SGK Địa lí 9 lại nảy sinh vấn đề do số liệu biểu đạt các chỉ tiêu phát triển DCXH dựa chủ yếu và kết quả thống kê năm 1999. Đến nay đã 10 năm, nhiều vấn đề và số liệu không phù hợp. GV và HS luôn đặt ra câu hỏi phải cung cấp vấn đề, số liệu và nhận định Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 mới về tình hình hiện nay của đất nước. Điều đó đòi hỏi GV dạy học Địa lí 9 phải có khả năng cập nhật vấn đề và số liệu trong hệ thống các chỉ tiêu phát triển dân cư, xã hội theo vùng hướng tới mục đích tích cực hóa trong việc dạy học đối với GV và học tập đối với HS. Qua thực tế trực tiếp dạy học Địa lí 9 chúng tôi nhận thức được tầm quan trọng của việc cập nhật hóa hệ thống các chỉ tiêu phát triển DCXH theo vùng. Với tầm quan trọng nói trên, chúng tôi đã chọn đề tài : "Nghiên cứu cập nhật hệ thống chỉ tiêu phát triển dân cư, xã hội theo vùng và vận dụng trong dạy học Địa lí 9" Trong tiến trình triển khai đề tài dưới sự hướng dẫn của TS Vũ Như Vân, chúng tôi nhận được sự quan tâm giúp đỡ của các thầy cô giáo giảng dạy Hệ cao học thạc sĩ, chuyên ngành Lí luận và phương pháp dạy học Địa lí tại Khoa Địa lí Trường ĐHSP Thái Nguyên, đồng thời nhận được sự hỗ trợ có hiệu quả của các đồng nghiệp làm việc tại một số trường THCS ở thành phố Thái Nguyên. 2. Mục đích yêu cầu - Cập nhật hệ thống chỉ tiêu phát triển DCXH theo vùng và vận dụng trong dạy học Địa Lí 9, với mục đích nâng cao chất lượng dạy học theo chương trình và SGK Địa lí 9, trước hết là phần hệ thống chỉ tiêu phát triển DCXH theo vùng của Việt Nam. - Yêu cầu cần đạt được là tìm hiểu cơ sở phương pháp luận, phương pháp và cách tiếp cận trong việc cập nhật các vấn đề và các đại lượng thước đo trong hệ thống các chỉ tiêu, tập trung chủ yếu vào phần địa lí dân cư và phần phân hóa lãnh thổ theo vùng. - Sản phẩm nghiên cứu là hệ thống các chỉ tiêu phát triển DCXH theo vùng được đổi mới theo thời điểm đến năm 2009. Sản phẩm nghiên cứu có Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 thể sử dụng trong dạy học Địa lí 9 trong các trường THCS, đặc biệt tại các địa phương thuộc vùng Trung du miền núi Bắc Bộ. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu - Thu thập tài liệu về lí luận, quan điểm, phương pháp và cách tiếp cận cập nhật phù hợp với yêu cầu của CT&SGK, năng lực nhận thức, tiếp thu của HS lớp 9 và điều kiện dạy học tại các địa phương, trước hết là vùng Trung du miền núi Bắc Bộ. - Tiến hành cập nhật nội dung và số liệu trong hệ thống chỉ tiêu phát triển DCXH theo các vùng kinh tế, kể cả vùng biển - đảo. - Thử nghiệm sư phạm các kết quả cập nhật tại một số trường THCS để kiểm tra đánh giá các giả thiết lí luận và kiến nghị cập nhật thống chỉ tiêu theo vùng, kể cả vùng dân cư và vùng kinh tế. - Hoàn chỉnh sản phẩm nghiên cứu và khuyến nghị sử dụng trong dạy học Địa lí 9, trước hết là cho bản thân người nghiên cứu, cũng như cho các đồng nghiệp dạy Địa lí 9 các trường THCS trong thành phố Thái Nguyên nói riêng và tỉnh Thái Nguyên nói chung. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu - Về nội dung định chất, tập trung nghiên cứu cập nhật các chỉ tiêu phát triển dân cư tại phần Địa lí dân cư, hệ thống các chỉ tiêu theo 7 vùng kinh tế + vùng biển đảo tương thích với kết cấu nội dung trong CT&SGK Địa lí 9; - Về nội dung định lượng, xác định thước đo bằng số tương đối (%), tuyệt đối (các đơn vị đo lường theo 9 chỉ tiêu chủ yếu); - Về thời gian (giá trị thời hiệu) các vấn đề và số liệu (định chất và định lượng) chủ yếu là từ nguồn tài liệu cũng như số liệu trong các niên giám thống kê và các nguồn nghiên cứu chuyên khảo xuất bản mới nhất, đặc biệt là trong năm 2009; Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 - Về Không gian (địa bàn) nghiên cứu thực nghiệm, chủ yếu tại một số trường THCS trên địa bàn thành phố Thái Nguyên. 5. Tình hình nghiên cứu đề tài Hệ thống chỉ tiêu phát triển DCXH theo vùng là bộ phận không thể thiếu trong lí luận và thực tiễn phân vùng kinh tế và qui hoạch không gian vùng. Điều này bắt nguồn từ trường phái vùng địa lí kinh tế Nga - Liên Xô trước đây. Theo tư tưởng của V.I. Lênin, Kế hoạch điện khí hóa toàn Nga được soạn thảo, nước Nga được chia thành 8 vùng với hai tiêu chí trụ cột là : có giai cấp vô sản mạnh, có trung tâm năng lượng mạnh - chủ yếu là điện khí hóa. Mỗi tiêu chí trong Kế hoạch này gồm hai phần : định chất - số dân, chất lượng của giai cấp vô sản Nga; định lượng - diện tích, số dân, cở sở năng lượng, trình độ điện khí hóa. Kế hoạch GOELRO được đưa vào giảng dạy trong nhà trường, thông qua môn Địa lí kinh tế xã hội nước Nga. Tiếp thu tinh hoa của Địa lí Liên Xô trước đây, các nhà địa lí Việt Nam đã tiến hành phân vùng kinh tế đất nước dựa trên hệ thống các tiêu chí tổng hợp, gồm hệ thống tiêu chí về địa lí tự nhiên, địa lí KTXH, trong đó có hệ thống tiêu chí phát triển DCXH. [1],[2],[3]. Gần đây, dựa trên hệ thống tiêu chí kinh tế, dân cư, xã hội, Viện Chiến lược phát triển - Bộ KH&ĐT đã nghiên cứu đề xuất đổi mới hệ thống vùng kinh tế thời kì CNH - HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế [4]. Sơ đồ phân vùng KTXH được đưa vào CT&SGK Địa lí phổ thông, trước hết là Địa lí 9 và Địa lí 12. Trong CT&SGK Địa lí phổ thông trước đây, phần vùng kinh tế thường được tiếp cận định tính có minh chứng kèm theo các giá trị định lượng. Các tác giả biên soạn SGK Địa lí 9 mới đã tiến bước xa hơn với việc nghiên cứu nội dung phân hóa lãnh thổ đất nước bằng hệ thống chỉ tiêu phát triển DCXH dựa trên số liệu và dữ kiện năm 1999 [4]. Do đặc điểm thay đổi nhanh chóng số liệu và vấn đề thực tiễn trong SGK Địa lí 9, và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 nói chung của các tài liệu bộ môn Địa lí KTXH Việt Nam, là nếu không kịp thời cập nhật, thì vấn đề sẽ trở nên nhàm chán, kém hấp dẫn, không đáp ứng yêu cầu dạy học theo hướng tích cực. Như vậy vấn đề đặt ra là cập nhật hệ thống chỉ tiêu phát triển DCXH đã được đặt ra, và đúng lúc, trong xu thế chung của kinh tế học phát triển trên phạm vi toàn thế giới. Đi đầu theo hướng này là WB, IMF, UNESSCO, ADB với nhiều công trình nghiên cứu, tiêu biểu là các ấn phẩm của WB về hệ thống các chỉ báo phát triển thế giới (World Development Indicator, 2003, 2007) [12]. Điều lí thú nhất là Năm 2009, WB công bố Báo cáo Phát triển thế giới với chuyên đề : Tái định dạng Địa - Kinh tế (Reshaping Economic Geography) với khối lượng đồ sộ hệ thống chỉ báo phát triển kinh tế, dân cư và xã hội của các quốc gia và lãnh thổ thành viên WB [13]. Thêm nữa, giải thưởng Nobel năm 2008 của Paul Krugman về học thuyết Thương mại mới và Địa - Kinh tế mới (New trade and Neww Economic Geography Consepts) với chủ thuyết về Hiệu ứng tiết kiệm do qui mô lớn (Economic of scale effect Principle ), làm cho việc nghiên cứu hệ thống các chỉ báo phát triển DCXH trở nên sinh động và hấp dẫn. Vấn đề Con người là trung tâm, chủ thể phát triển vốn rất trừu tượng, có thể nói là khó nghiên cứu nhất, thì từ cuối những năm 90 thế kỉ XX, do đề xuất của một nhà kinh tế Pakistan, Chỉ số phát triển nhân văn - HDI (Human Development Index) được thừa nhận làm cơ sở để xây dựng các báo cáo thường niên của UNDP về Phát triển con người. Theo đó các quốc gia và lãnh thổ thành viên LHQ soi xét lại mình, đặt ra mục tiêu nỗ lực phấn đấu nhằm cải thiện và nâng cao trình độ phát triển con người theo hệ thống chỉ số tiêu biểu.[13]. Với sự nhạy bén cái mới, đồng thời trong khuôn khổ hợp tác với các tổ chức UNDP, WB, ADB, IMF và nhiều tổ chức phi chính phủ thuộc LHQ, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam đã công bố Báo cáo Phát triển con người Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 Việt Nam năm 2001 và Phát triển con người Việt nam 1999 - 2004 với chủ đề Những thay đổi và xu hương chủ yếu. [21], [22]. Nhà xuất bản Thống kê trong các Niên giám thống kê thường niên đã cung cấp một khối lượng thông tin rất lớn về tình hình và các chỉ số phát triển DCXH Việt Nam [16]. Đón đầu xu thế phát triển chung này, Viện Chiến lược phát triển thuộc Bộ KH&ĐT đã công bố hệ thống các chỉ tiêu phát triển kinh tế, dân cư, xã hội trong Qui hoạch phát triển KTXH : Một số vấn đề lí luận và thực tiễn [21]. Vấn đề nghiên cứu hệ thống các chỉ tiêu phát triển DCXH đứng trước cơ hội mới từ các văn bản pháp qui của Nhà nước, như : Bộ tiêu chí Phân định vùng dân tộc thiểu số và miền núi theo trình độ phát triển (Quyết định số 393/2005/ QĐ/UBDT, ngày 29/8/2005 của Bộ trưởng - Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc) [1] ; và mới đây nhất Bộ Tiêu chí quốc gia về nông thôn mới (Ban hành kèm theo Quyết định 491/ QĐ-TTg, ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ) [2]. Cơ hội mới của việc cập nhật các chỉ tiêu phát triển DCXH là kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 1 tháng 4 năm 2009 với nhiều tư liệu thông tin phong phú và toàn diện. Nắm bắt được xu phát triển chung của tiêu chí hóa các công trình nghiên cứu về địa lí DCXH, các tác giả biên soạn Địa lí 9 đã tích hợp các bảng chỉ tiêu phát triển dân cư xã hội vào mục III trong các bài học về phần Phân hóa lãnh thổ theo vùng (Bài 1- 4 và các Bài từ 17 -37) [4]. Việc nghiên cứu cập nhật hệ thống chỉ tiêu phát triển DCXH phục vụ mục đích dạy học Địa lí ở trường phổ thông có được cơ hội quan trọng nhờ các công trình đã xuất bản và sử dụng rộng rãi trong các trường cao đẳng và đại học trong nước, đặc biệt của các nhà khoa học địa lí sư phạm đầu ngành. [8][10][11][13][19][20][24]. Vấn đề đặt ra đối với chúng tôi là nghiên cứu cập nhật các chỉ tiêu mới năm 2009 thay cho các vấn đề và số liệu năm 1999 trong SGK Địa lí 9 dựa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 trên số liệu mới với cách nhìn mới trong khuôn khổ hợp lí, nhằm đảm bảo tính hệ thống, vừa sức và đạt hiệu quả cao và thiết thực trong dạy học Địa lí 9 theo hướng tích cực hóa đối với GV và HS THCS. 6. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu lí thuyết chủ yếu gồm : - Phương pháp lịch sử; - Phương pháp hệ thống; - Phương pháp phân tích tổng hợp; - Phương pháp so sánh. Phương pháp nghiên cứu thực tế bao gồm: - Phương pháp điều tra quan sát; - Phương pháp thống kê; - Ứng dụng phần mềm tin học; - Phương pháp thực nghiệm sư phạm. 7. Cấu trúc luận văn Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục; nội dung luận văn gồm các chương : Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài; Chương 2: Cập nhật hệ thống chỉ tiêu phát triển dân cư, xã hội theo vùng ở Việt Nam; Chương 3: Thực nghiệm sư phạm. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. CƠ SỞ NHẬN THỨC LUẬN Địa lí học là khoa học nghiên cứu mối quan hệ Tự nhiên - Con người - Xã hội, xét về bản chất đây là mối quan hệ của xã hội loài người, và do đó mang tính triết học. Do vậy, vấn đề chỉ số hóa cần được nghiên cứu trên bình diện : Chất - Lượng / Thời gian - Không gian / Vận động - Phát triển. 1.2.1. Chất - Lƣợng (C-L) Đây là cặp phạm trù triết học phản ánh những mặt quan trọng của hiện thực khách quan. Thế giới không phải bao gồm những sự vật có sẵn, hoàn chỉnh mà là tổng hợp những quá trình trong đó các sự vật không ngừng xuất hiện, biến đổi, nhưng từ đó không nên cho rằng chúng không có những hình thức tồn tại nhất định, hoàn toàn không ổn định và không khác nhau. Mặc dù các sự vật có thay đổi đến đâu, nhưng hễ nó vẫn còn tồn tại là sự vật này, chứ không phải là sự vật khác, thì vẫn có một đối tượng được qui định về chất. Tính qui định về chất của các sự vật và các hiện tượng là cái làm cho chúng ổn định, phân biệt với nhau và tạo nên tính muôn vẻ vô tận của thế giới. Chất của sự vật không phải là qui về từng đặc tính của nó, gắn với sự vật như một tổng thể, bao quát toàn bộ sự vật, không tách khỏi sự vật. Do đó, khái niệm chất gắn liền với sự tồn tại của sự vật. Sự vật trong khi là bản thân nó thì không thể mất chất của nó. Các đặc tính khác nhau của sự vật biểu hiện trong các quan hệ của sự vật này với sự vật khác; theo nghĩa đó, có thể nói rằng các sự vật và các hiện tượng có nhiều chất. Bên cạnh tính qui định về chất, mọi sự vật đều có tính qui định về lượng : đại lượng, số lượng nhất định, nhịp độ diễn biến nhất định, trình độ phát triển nhất định của các quá trình, trình độ phát triển nhất định của các đặc tính, v.v.. Lượng là một thuộc tính Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 qui định của sự vật mà nhờ đó (trên thực tế hoặc trong tư duy), ta có thể phân chia nó thành những bộ phận cùng loại và có thể tập hợp các bộ phận đó lại làm một. Tính cùng loại (tương tự, giống nhau) của các bộ phận hay của các sự vật là dấu hiệu tiêu biểu của lượng. Sự khác nhau giữa các sự vật không giống nhau thì mang tính chất, còn sự khác nhau giữa các sự vật giống nhau thì mang tính lượng. Khác với chất, lượng không gắn chặt với sự tồn tại của sự vật; những biến đổi về lượng không lập tức dẫn tới chỗ thủ tiêu hoặc tới thủ tiêu hoặc tới sự biến đổi chủ yếu của sự vật. Chỉ sau khi đã đạt được những giới hạn nhất định đối với từng sự vật, thì những biến đổi về lượng làm nảy sinh những biến đổi về chất. Theo nghĩa đó, tính qui định về lượng, khác tính qui định về chất, được đặc trưng bằng mối quan hệ bên ngoài với bản chất của sự vật. Vì vậy, trong quá trình nhận thức (ví dụ như trong toán học), nó có thể tách khỏi nội dung như tách khỏi một cái gì không quan trọng đối với sự vật. Khả năng áp dụng hết sức rộng rãi các lí luận toán học vào các lĩnh vực khác nhau của khoa học tự nhiên và kĩ thuật, kể cả Địa lí học là do chỗ Toán học nghiên cứu chủ yếu các quan hệ lượng. Chất không thể qui về lượng, như các nhà siêu hình học mưu toan làm. Không có sự vật nào lại chỉ có mặt lượng , mỗi sự vật đề là sự thống nhất của một chất và một lượng nhất định (độ); nó là một đại lượng về chất lượng (lượng), và là một chất được qui định về lượng. Nếu phạm vi đến độ sẽ dẫn tới sự thay đổi bản thân sự vật hoặc hiện tượng, tới chỗ biến nó thành một sự vật hoặc một hiện tượng khác (chuyển hóa những biến đổi về lượng thành những biến đổi về chất). 1.2.2. Thời gian và không gian (TG - KG) Là các hình thức tồn tại phổ biến của vật chất ; không gian là hình thức tồn tại của các khách thể và các quá trình vật chất được đặc trưng bằng cấu trúc và quảng tính của các hệ thống vật chất; còn thời gian là hình thức thay thế tiếp nhau của các hiện tượng và các trạng thái của vật chất được đặc trưng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 bằng độ dài tồn tại của chúng. TG-KG đều có tính khách quan, không tách rời vật chất, gắn với vận động và với nhau, vô tận về số lượng và chất lượng. Đặc tính phổ biến của thời gian là độ dài, tính không lặp đi lặp lại, tính chất không quay ngược trở lại. Đặc tính phổ biến của không gian là quảng tính, sự thống nhất của tính liên tục và tính đứt đoạn. Không gian có ba chiều, còn thời gian chỉ có một chiều. Kết luận chủ yếu của thuyết tương đối A. Einstein chính là xác định rằng TG - KG không tự nó tồn tại, tách rời vật chất, mà nằm trong mối quan hệ qua lại phổ biến, trong đó chúng mất đi tính độc lập và xuất hiện như là những mặt tương đối của TG - KG thống nhất và không thể phân chia. Đồng thời khoa học còn chứng minh rằng thời gian và quảng tính của các vật thể phụ thuộc vào tốc độ vận động của các vật thể ấy, và kết cấu của continum 4 chiều (3 chiều không gian và 1 chiều của thời gian) - một hệ thống 4 biến số cần thiết để xác định một hiện tượng và các khối lượng vật chất và trường hấp dẫn do chúng tạo ra. Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng - chứ không phải là duy vật địa lí - nhận thức của con người ngày càng nhận thức sâu sắc hơn và đúng đắn hơn về tính hiện thực khách quan của TG - KG. 1.2.3. Vận động và phát triển (VĐ - PT) Là thuộc tính quan trọng nhất, phương thức tồn tại của vật chất, bao hàm tất cả những quá trình diễn ra trong tự nhiên và xã hội. Dưới hình thức chung nhất, vận động là sự biến đổi nói chung, là mọi sự tác động qua lại giữa các khách thể vật chất. Trong thế giới, không có vật chất nào không vận động, cũng như không thể có vận động mà không có vật chất. Vận động của vật chất là tuyệt đối; vật chất tự thân vận động, không do tác động từ bên ngoài, nguồn gốc của tự thân vận động là mâu thuẫn bên trong của sự vật và hiện tượng; cũng như vật chất, vận động không ai sáng tạo ra và không bị tiêu diệt. Vận động được bảo toàn cả về lượng và chất. Như vậy vật chất chỉ có thể tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động nó biểu hiện sự tồn tại của nó; còn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 bất cứ sự đứng yên nào cũng chỉ là tương đối và là một trong những yếu tố của vận động. Một vật thể đang đứng yên so với Trái đất, cũng đang vận động cùng với Trái đất quanh Mặt trời, cùng với Mặt trời quay chung quanh trung tâm Thiên hà, v.v… Thế giới là vô tận, cho nên mọi vật thể đều tham gia vào vô số hình thức vận động. Tính bền vững về vật chất của các vật thể và tính ổn định của những đặc tính của vật thể cũng là kết quả của sự vận động của các hạt vi mô. Như vậy, vận động quyết định những đặc tính, tổ chức kết cấu và tính chất tồn tại của vật chất. Sự vận động của vật chất là nhiều vẻ theo những biểu hiện của nó và tồn tại dưới những hình thức khác nhau. Trong quá trình phát triển của vật chất, xuất hiện những hình thức vận động phức tạp và mới về chất. Nếu sự vận động của hệ thống vật chất phục tùng một qui luật thống nhất nào đó là quá trình phát triển của hệ thống. Với sự phát triển đi lên, thì các mối liên hệ, cơ cấu và các hình thức vận động của các khách thể vật chất ngày càng phức tạp thêm, xuất hiện những kiến tạo tiến hóa từ thấp lên cao. Ngược lại, sự phát triển đi xuống thể hiện sự sa sút và suy sụp của hệ thống. Vận động là khái niệm chung hơn so với phát triển, vì vận động bao hàm mọi sự thay đổi, trong đó có cả thay đổi bề ngoài và ngẫu nhiên không phù hợp với qui luật phát triển bên trong của hệ thống. Vận động chính là mọi sự biến đổi nói chung, kể từ sự thay đổi vị trí trong không gian cho đến tư duy. Theo F.Enghen, có 5 hình thức vận động khác nhau về vật chất và trình độ cao thấp theo thứ tự : cơ học, vật lí, hóa, sinh vật, xã hội. Các hình thức này có quan hệ chặt chẽ với nhau. Hình thức vận động này luôn có khả năng chuyển hóa thành hình thức vận động khác trong những điều kiện cụ thể. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 1.2. CHỈ TIÊU: DIỄN GIẢI, CẤU TRÚC, PHƢƠNG PHÁP XỬ LÍ DỮ LIỆU 1.2.1. Nội hàm và ngoại diên của khái niệm Chỉ tiêu phát triển DCXH là khái niệm cơ bản, tuy không quá mới mẻ, nhưng lần đầu tiên được đưa vào CT&SGK Địa lí 9, do đó, được coi là khái niệm khung, làm cơ sở để nhận thức các đặc trưng phân hóa lãnh thổ theo vùng của Việt Nam. Khái niệm này là sản phẩm tư duy, kết quả của việc nắm vững các dấu hiệu cơ bản, đặc thù của đối tượng vùng, là hình ảnh khách quan về sự khác biệt giữa các vùng. Với tư cách là một khái niệm, chỉ tiêu phát triển DCXH bao gồm hai bộ phận : nội hàm và ngoại diên. Nội hàm của khái niệm này là tập hợp các dấu hiệu bản chất được phản ánh một cách khách quan. Dấu hiệu bản chất của khái niệm này là những cái tồn tại đặc trưng dùng để so sánh với các chỉ tiêu khác. Đến lượt nó, các dấu hiệu được phân thành dấu hiệu cơ bản và dấu hiệu không cơ bản. Các dấu hiệu cơ bản qui định bản chất bên trong, đặc trưng về định chất của các vùng lãnh thổ; dấu hiệu không cơ bản không biểu thị bản chất, không có tính qui định định lượng của sự vật và hiện tượng. Ngoại diên của khái niệm chỉ tiêu phát triển DCXH chứa đựng những dấu hiệu có trong nội hàm. Nội hàm và ngoại diên của khái niệm liên hệ chặt chẽ, biểu thị tính thống nhất trong phản ánh tập hợp các đối tượng có dấu hiệu cơ bản chung. Là một khái niệm có tính địa lí, chỉ tiêu phát triển DCXH được coi là khái niệm tập hợp, phản ánh các yếu tố đặc trưng về định chất và định lượng, bao gồm 9 nhóm khái niệm chung : Mật độ dân số / Sự gia tăng tự nhiên của dân số, Tỉ lệ hộ nghèo / Tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị / Tỉ lệ thiếu việc làm ở nông thôn / Thu nhập bình quân đầu người / Tỉ lệ người lớn biết chữ / Tuổi thọ trung bình (kì vọng sống) / Tỉ dân số thành thị. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 Nội hàm của mỗi khái niệm nêu trên được định nghĩa hoặc diễn giải về nội dung và thước đo định lượng. Ví dụ, chỉ tiêu về mật độ dân số ở ĐBSH năm 2009 là 432 người / km2, bao gồm 3 yếu tố ngoại diên : (1) định vị không gian : ĐBSH ; (2) Định vị thời gian : năm 2009; (3) Định lượng : 432 người trên km 2 . Theo toàn quốc và 7 vùng kinh tế, nội hàm của các chỉ tiêu phát triển DCXH được định nghĩa đồng nhất về định chất, định lượng, thời gian và không gian. Đem so sanh với mức chung toàn quốc và với từng vừng hoặc nhiều vùng, người ta có được ngoại diên rộng lớn, làm cơ sở để phân tích và so sánh sự vận động và phát triển vùng kinh tế lãnh thổ. Nội hàm và ngoại diên của khái niệm chỉ tiêu phát triển DCXH về bản chất là khái niệm nền tảng trong nhận thức cũng như trong dạy học Địa lí, đúng như Đặng Văn Đức nhận định: " Khái niệm là nội dung của bài học và là đối tượng của sự lĩnh hội bởi học sinh, nó là một trong hai yếu tố khách quan, quyết định logic của bản thân quá trình dạy học" [10], [11]. Mỗi khái niệm luôn gắn với một sự vật, hiện tượng cụ thể - định vị không gian, thời gian; và như vậy việc gắn khái niệm vùng lãnh thổ, chỉ tiêu phát triển DCXH mang tính địa lí sâu sắc. Tuy nhiên, đây là khái niệm phức tạp, do đó, người ta cần tới sự diễn giải với mục đích làm dễ hiểu hơn các dấu hiệu bản chất, qua đó nhận thức sâu hơn về nội hàm và ngoại diên của khái niệm này. 1.2.2 Diễn giải và cấu trúc Tiêu chí là các đại lượng biểu thị và chất là lượng của một sự vật và hiện tượng địa lí, bao gồm các thuộc tính cơ bản về không gian và thời gian, trong đó không gian địa lí được thể hiện qua lãnh thổ có giới hạn của sự vận động (có diện tích, các đường viền phạm vi), qua các hướng vận động - gọi chung là vec tơ, thường mặc định là không gian địa lí. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 Cấu trúc một tiêu chí bao gồm hai phần chính : - Phần đính chất, thường là tiêu chí hay là chỉ dẫn địa lí của chỉ số. Ví dụ, tiêu biểu trong địa lí tự nhiên, đó là chỉ số khô hạn; trong Địa lí kinh tế - xã hội, đó là mật độ dân số, chỉ số phát triển dân cư; trong nghiên cứu sự phát triển con người, đó là chỉ số phát triển nhân văn - HDI; - Phần định lượng là đơn vị đo tương ứng theo không gian / lãnh thổ và theo thời gian. Trong nhiều nguồn tài liệu nghiên cứu, người ta thường sử dụng các thuật ngữ khác nhau : Trong các báo cáo hàng năm của mình WB thường dùng thuật ngữ chỉ báo; Niên giám thống kê của Tổng cục Thống kê sử dụng rộng rãi các thuật ngữ : chỉ số - thường đo bằng %. Vị dụ : Chỉ số tăng trưởng kinh tế, chỉ số phát triển GDP,…Trong các báo cáo về kế hoạch phát triển KTXH ngắn hạn, trung hạn dài hạn người ta sử dụng thuật ngữ chỉ tiêu. Nhìn tổng quan, cấu trúc của một TIÊU CHI / CHỈ SỐ / CHỈ TIÊU nói chung và địa lí nói riêng thường bao gồm hai phần : (1) Tên gọi và / (2) Thước đo, trong đó kèm theo hai thuộc tính bắt buộc, đó là thời gian : theo năm / tháng và theo lãnh thổ, đó là các đơn vị hành chính hoặc các đơn vị lãnh thổ địa lí, cũng có thể nói đó là chỉ dẫn địa lí. 1.2.3. Phƣơng pháp xử lí số liệu Đây là một khái niệm ra đời vào những năm cuối của thập kỷ 80. Nó bao hàm một loạt các kỹ thuật nhằm phát hiện ra các thông tin có giá trị tiềm ẩn trong các tập dữ liệu lớn (các kho dữ liệu). Về bản chất, khai phá dữ liệu liên quan đến việc phân tích các dữ liệu và sử dụng các kỹ thuật để tìm ra các mẫu hình có tính chính quy (regularities) trong tập dữ liệu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 Năm 1989, Fayyad, Piatestsky-Shapiro và Smyth đã dùng khái niệm Phát hiện tri thức trong cơ sở dữ liệu (Knowledge Discovery in Database – KDD) để chỉ toàn bộ quá trình khám phá các tri thức có ích từ các tập dữ liệu lớn. Trong đó, khai phá dữ liệu là một bước đặc biệt trong toàn bộ quá trình, sử dụng các giải thuật để chiết xuất ra các mẫu (pattern) (hay các mô hình) từ dữ liệu. Các bước thực hiện khai thác dữ liệu : Các giải thuật khai phá dữ liệu thường được mô tả như những chương trình hoạt động trực tiếp trên file dữ liệu. Với các phương pháp toán học và thống kê trước đây, thường thì bước đầu tiên là các giải thuật nạp toàn bộ file dữ liệu vào trong bộ nhớ. Khi chuyển sang các ứng dụng công nghiệp liên quan đến việc khai phá các kho dữ liệu lớn, mô hình này không thể đáp ứng được. Không chỉ bởi vì nó không thể nạp hết dữ liệu vào trong bộ nhớ mà còn vì khó có thể chiết xuất dữ liệu ra các file đơn giản để phân tích được. Quá trình khai phá dữ liệu bắt đầu bằng cách xác định chính xác vấn đề cần giải quyết. Sau đó sẽ xác định các dữ liệu liên quan dùng để xây dựng giải pháp. Bước tiếp theo là thu thập các dữ liệu có liên quan và xử lý chúng thành thích hợp sao cho giải thuật khai phá dữ liệu có thể hiểu được. Về lý thuyết thì có vẻ rất đơn giản nhưng khi thực hiện thì đây thực sự là một quá trình rất khó khăn, gặp phải nhiều vướng mắc như: các dữ liệu phải được sao ra nhiều bản (nếu được chiết xuất vào các tệp), quản lý các tệp dữ liệu, phải lặp đi lặp lại nhiều lần toàn bộ quá trình (nếu mô hình dữ liệu thay đổi). Sẽ là quá cồng kềnh với một giải thuật khai phá dữ liệu nếu phải truy cập vào toàn bộ nội dung của cơ sở dữ liệu và làm những việc như trên. Có rất nhiều các giải thuật khai phá dữ liệu thực hiện dựa trên những thống kê đơn giản của cơ sở dữ liệu, khi mà toàn bộ thông tin trong cơ sở dữ liệu là quá dư thừa đối với mục đích của việc khai phá dữ liệu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23 Bước tiếp theo là chọn thuật toán khai phá dữ liệu thích hợp và thực hiện việc khai phá dữ liệu để tìm được các mẫu (pattern) có ý nghĩa dưới dạng biểu diễn tương ứng với các ý nghĩa đó (thường thì được biểu diễn dưới dạng các luật xếp loại, cây quyết định, phát sinh luật, biểu thức hồi quy,…). Các phương pháp khai phá dữ liệu (data mining) : Quá trình khai phá dữ liệu là quá trình phát hiện mẫu trong đó giải thuật khai phá dữ liệu tìm kiếm các mẫu đáng quan tâm theo dạng xác định như các luật, cây phân lớp, hồi quy, phân nhóm,… Một cơ sở dữ liệu là một kho thông tin nhưng các thông tin quan trọng hơn cũng có thể được suy diễn từ kho thông tin đó. Có hai việc chính để thực hiện việc này là suy diễn và quy nạp. Phương pháp suy diễn : Nhằm rút ra thông tin là kết quả logic của các thông tin trong cơ sở dữ liệu. Ví dụ như toán tử liên kết áp dụng cho hai bảng quan hệ, bảng đầu chứa thông tin về các nhân viên và các phòng ban, bảng thứ hai chứa thông tin về các phòng ban và các trưởng phòng. Suy ra mối quan hệ giữa các nhân viên và trưởng phòng. Phương pháp suy diễn dựa trên các sự kiện chính xác để suy ra các tri thức mới từ các thông tin cũ. Mẫu chiết xuất được bằng cách sử dụng phương pháp này thường là các luật suy diễn. Phương pháp quy nạp : Phương pháp quy nạp là cơ sở để khai thác các thông tin được sinh ra từ cơ sở dữ liệu. Có nghĩa là nó tự tìm kiếm, tạo mẫu và sinh ra tri thức chứ không phải bắt đầu với các tri thức đã biết trước. Các thông tin mà phương pháp này đem lại là các thông tin hay các tri thức cấp cao diễn tả về các đối tượng trong cơ sở dữ liệu. Phương pháp này liên quan đến việc tìm kiếm các mẫu trong cơ sở dữ liệu. Trong khai phá dữ liệu, quy nạp được sử dụng trong cây quyết định và kết đoán / nhận định Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 Cây quyết định: Cây quyết định là một mô tả tri thức dạng đơn giản nhằm phân các đối tượng dữ liệu thành một số lớp nhất định. Các nút của cây được gắn nhãn là tên các thuộc tính, các cạnh được gán các giá trị có thể của các thuộc tính, các lá miêu tả các lớp khác nhau. Các đối tượng được phân lớp theo các đường đi trên cây, qua các cạnh tương ứng với giá trị của thuộc tính của đối tượng tới lá. Kết đoán và nhận định : Các kết đoán và nhận định được tạo ra nhằm suy diễn một số mẫu dữ liệu có ý nghĩa về mặt thống kê. Các luật có dạng : Nếu P thì Q với P là mệnh đề đúng với phần dữ liệu trong cơ sở dữ liệu, Q là mệnh đề dự đoán. Ví dụ ta có một mẫu phát hiện được bằng phương pháp tạo luật: Nếu giá 1 kg táo < 5000 đồng thì số lượng táo bán ra sẽ tăng 5%. Những hệ luận như thế này được sử dụng rất rộng rãi trong việc miêu tả tri thức trong hệ chuyên gia. Chúng có thuận lợi là dễ hiểu đối với người sử dụng. Cây quyết định và luật có ưu điểm vì là hình thức miêu tả đơn giản, mô hình suy diễn khá dễ hiểu đối với người sử dụng. Tuy nhiên, giới hạn của nó là miêu tả cây và luật chỉ có thể biểu diễn được một số dạng chức năng và vì vậy giới hạn cả về độ chính xác của mô hình. Cho đến nay, đã có rất nhiều giải thuật suy diên sử dụng các luật và cây quyết định được áp dụng trong khoa học thống kê. Phương pháp này nhằm phát hiện ra các luật kết hợp giữa các thành phần dữ liệu trong cơ sở dữ liệu. Mẫu đầu ra của giải thuật khai phá dữ liệu là tập luật kết hợp tìm được. Ta có thể lấy một số ví dụ đơn giản về luật kết hợp như sau: Sự kết hợp giữa hai thành phần A và B có nghĩa là sự xuất hiện của A trong bản ghi kéo theo sự xuất hiện của B trong cùng bản ghi đó: A  B. Cho một lược đồ R = {A1,…Ap} các thuộc tính với miền giá trị {0,1}, và một quan hệ r trên R. Một tập luật kết hợp trên r được mô tả dưới dạng X  Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 B với X  R và BR\X. Về mặt trực giác, ta có thể phát biểu ý nghĩa của luật như sau: nếu một bản ghi của bảng có giá trị 1 tại mỗi thuộc tính thuộc X thì giá trị của thuộc tính B cũng là 1 trong cùng bản ghi đó. Ví dụ như ta có tập cơ sở dữ liệu về các mặt hàng bán trong siêu thị, các dòng tương ứng với các ngày bán hàng, các cột tương ứng với các mặt hàng thì giá trị 1 tại ô (20/10, bánh mì) xác định rằng bánh mì đã được bán ngày hôm đó và cũng kéo theo sự xuất hiện giá trị 1 tại ô (20/10, bơ). Cho WR, đặt s (W,r) là tần số xuất hiện của W trong r được tính bằng tỷ lệ của các dòng trong r có giá trị 1 tại mỗi cột thuộc W. Tần số xuất hiện của luật X  B trong r được định nghĩa là s(X{B},r) còn gọi là độ hỗ trợ của luật, độ tin cậy của luật là s(X{B},r)/s(X,r), ở đây X có thể gồm nhiều thuộc tính, B là giá trị không cố định. Nhờ vậy mà không xảy ra việc tạo ra các luật không mong muốn trước khi quá trình tìm kiếm bắt đầu. Điều đó cũng cho thấy không gian tìm kiếm có kích thước tăng theo hàm mũ của số lượng các thuộc tính ở đầu vào. Do vậy cần phải chú ý khi thiết kế dữ liệu cho việc tìm kiếm các luật kết hợp. Nhiệm vụ của việc phát hiện các luật kết hợp là phải tìm tất cả các luật X  B sao cho tần số của luật không nhỏ hơn ngưỡng  cho trước và độ tin cậy của luật không nhỏ hơn ngưỡng  cho trước. Từ một cơ sở dữ liệu ta có thể tìm được hàng nghìn thậm chí hàng trăm nghìn các luật kết hợp. Ta gọi một tập con X  R là thường xuyên trong r nếu thoả mãn điều kiện s(X,r)  . Nếu biết tất cả các tập thường xuyên trong r thì việc tìm kiếm các luật kết hợp rất dễ dàng. Vì vậy, giải thuật tìm kiếm các luật kết hợp trước tiên đi tìm tất cả các tập thường xuyên này, sau đó tạo dựng dần các luật kết hợp bằng cách ghép dần các tập thuộc tính dựa trên mức độ thường xuyên. Các luật kết hợp có thể là một cách hình thức hoá đơn giản. Chúng rất thích hợp cho việc tạo ra các kết quả có dữ liệu dạng nhị phân. Giới hạn cơ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26 bản của phương pháp này là ở chỗ các quan hệ cần phải thưa theo nghĩa không có tập thường xuyên nào chứa nhiều hơn 15 thuộc tính. Giải thuật tìm kiếm các luật kết hợp tạo ra số luật ít nhất phải bằng số các tập thường xuyên và nếu như một tập thường xuyên có kích thước K thì phải có ít nhất là 2K luật kết hợp. Thông tin về các tập thường xuyên được sử dụng để ước lượng độ tin cậy các tập luật kết hợp. Các phương pháp phân lớp và hồi quy phi tuyến : Các phương pháp này bao gồm một họ các kỹ thuật dự đoán để làm cho các kết hợp tuyến tính và phi tuyến của các hàm cơ bản (hàm sygmoid, hàm spine, hàm mành, hàm đa thức) phù hợp với các kết hợp của các giá trị biến vào. Các phương pháp thuộc loại này như mạng neuron truyền thẳng, phương pháp mành thích nghi,…(Freidman 1989, Cheng & Titterington 1994, Elder & Pregibon). Phân nhóm và phân đoạn (clustering and segmentation): Kỹ thuật phân nhóm và phân đoạn là những kỹ thuật phân chia dữ liệu sao cho mỗi phần hoặc mỗi nhóm giống nhau theo một tiêu chuẩn nào đó. Mối quan hệ thành viên của các nhóm có thể dựa trên mức độ giống nhau của các thành viên và từ đó xây dựng nên các luật ràng buộc giữa các thành viên trong nhóm. Một kỹ thuật phân nhóm khác là xây dựng nên các hàm đánh giá thuộc tính của các thành phần như là hàm của các tham số của các thành phần. Phương pháp này được gọi là phương pháp phân hoạch tối ưu (optimal partitioning). Một ví dụ ứng dụng của phương pháp phân nhóm theo độ giống nhau là cơ sở dữ liệu khách hàng, ứng dụng của phương pháp tối ưu ví dụ như phân nhóm khách hàng theo số các tham số và các nhóm thuế tối ưu có được khi thiết lập biểu thuế bảo hiểm. Mẫu đầu ra của quá trình khai phá dữ liệu sử dụng kỹ thuật này là các tập mẫu chứa các dữ liệu có chung những tính chất nào đó được phân tách từ cơ sở dữ liệu. Khi các mẫu được thiết lập, chúng có thể được sử dụng để tái tạo các tập dữ liệu ở dạng dễ hiểu hơn, đồng thời cũng cung cấp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27 các nhóm dữ liệu cho các hoạt động cũng như công việc phân tích. Đối với cơ sở dữ liệu lớn, việc lấy ra các nhóm này là rất quan trọng. Các phương pháp dựa trên mẫu : Sử dụng các mẫu miêu tả từ cơ sở dữ liệu để tạo nên một mô hình dự đoán các mẫu mới bằng cách rút ra từ các thuộc tính tương tự như các mẫu đã biết trong mô hình. Các kỹ thuật bao gồm phân lớp theo láng giềng gần nhất, các giải thuật hồi quy (Dasarathy 1991) và các hệ thống suy diễn dựa trên tình huống (case-base reasoning) (Kolodner 1993). Khuyết điểm của các kỹ thuật này là cần phải xác định được khoảng cách, độ đo giống nhau giữa các mẫu. Mô hình thông thường được đánh giá bằng phương pháp đánh giá chéo trên các lỗi dự đoán (Weiss & Kulikowski, 1991). “Tham số” của mô hình được đánh giá có thể bao gồm một số láng giềng dùng để dự đoán và độ đo khoảng cách. Giống như phương pháp hồi quy phi tuyến, các phương pháp này khá mạnh trong việc đánh giá xấp xỉ các thuộc tính nhưng lại rất khó hiểu vì mô hình không được định dạng rõ ràng mà tiềm ẩn trong dữ liệu. Mô hình phụ thuộc dựa trên đồ thị xác suất : Các mô hình đồ thị xác định sự phụ thuộc xác suất giữa các sự kiện thông qua các liên hệ trực tiếp theo các cung đồ thị (Pearl 1988; Whittaker, 1990). Ở dạng đơn giản nhất, mô hình này xác định những biến nào phụ thuộc trực tiếp vào nhau, những mô hình này chủ yếu được sử dụng với các biến cố giá trị rời rạc hoặc phân loại. Tuy nhiên cũng được mở rộng cho một số trường hợp đặc biệt như mật độ Gaussian hoặc cho các biến giá trị thực. Trong trí tuệ nhân tạo và thống kê, các phương pháp này ban đầu được phát triển trong khuôn khổ của các hệ chuyên gia. Cấu trúc của mô hình và các tham số (xác suất có điều kiện được gắn với các đường nối của đồ thị) được suy ra từ các chuyên gia. Ngày nay, các phương pháp này đã được phát triển, cả cấu trúc và các tham số mô hình đồ thị đều có thể học trực tiếp từ cơ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28 sở dữ liệu (Buntine; Heckerman). Tiêu chuẩn đánh giá mô hình chủ yếu là ở dạng Bayesian. Việc đánh giá tham số là một sự kết hợp các đánh giá dạng đóng (closed form estimate) và các phương pháp lặp phụ thuộc vào việc biến được quan sát trực tiếp hay ở dạng ẩn. Việc tìm kiếm mô hình dựa trên các phương pháp “leo đồi” trên nhiều cấu trúc đồ thị. Các tri thức trước đó, ví dụ như việc sắp xếp một phần các biến dựa trên các mối quan hệ nhân quả, có thể rất có ích trong việc thu hẹp không gian tìm kiếm mô hình. Mặc dù các phương pháp này mới ở giai đoạn đầu của việc nghiên cứu nhưng nó đã cho thấy nhiều hứa hẹn vì dạng đồ thị dễ hiểu hơn và biểu đạt được nhiều ý nghĩa hơn đối với con người. Mô hình hóa quan hệ: Trong khi mẫu chiết xuất được bằng các luật suy diễn và cây quyết định gắn chặt với các mệnh đề logic (propositional logic) thì mô hình học quan hệ (còn được gọi là lập trình logic quy nạp – Inductive logic programming) sử dụng ngôn ngữ mẫu theo thứ tự trước (first-order logic) rất linh hoạt. Mô hình này có thể dễ dàng tìm ra công thức: X=Y. Cho đến nay, hầu hết các nghiên cứu về các phương pháp đánh giá mô hình này đều theo logic trong tự nhiên. Khai phá dữ liệu văn bản (Text Mining): Kỹ thuật này được ứng dụng trong một loạt các công cụ phần mềm thương mại. Công cụ khai phá dữ liệu rất phù hợp với việc tìm kiếm, phân tích và phân lớp các dữ liệu văn bản không định dạng. Các lĩnh vực ứng dụng như nghiên cứu thị trường, thu thập tình báo,… Khai phá dữ liệu dạng văn bản đã được sử dụng để phân tích câu trả lời cho các câu hỏi mở trong khảo sát thị trường, tìm kiếm các tài liệu phức tạp. Mạng neuron là một tiếp cận tính toán mới liên quan đến việc phát triển các cấu trúc toán học với khả năng lọc. Các phương pháp là kết quả của việc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29 nghiên cứu mô hình học của hệ thống thần kinh con người. Mạng neuron có thể đưa ra ý nghĩa từ các dữ liệu phức tạp hoặc không chính xác và có thể được sử dụng để chiết xuất các mẫu và phát hiện ra các xu hướng quá phức tạp mà con người cũng như các kỹ thuật máy tính khác không thể phát hiện được. Khi đề cập đến khai thác dữ liệu, người ta thường đề cập nhiều đến mạng neuron. Tuy mạng neuron có một số hạn chế gây khó khăn trong việc áp dụng và triển khai nhưng nó cũng có những ưu điểm đáng kể. Một trong số những ưu điểm phải kể đến của mạng neuron là khả năng tạo ra các mô hình dự đoán có độ chính xác cao, có thể áp dụng được cho rất nhiều loại bài toán khác nhau đáp ứng được các nhiệm vụ đặt ra của khai phá dữ liệu như phân lớp, phân nhóm, mô hình hoá, dự báo các sự kiện phụ thuộc vào thời gian,… Đặc điểm của mạng neuron là không cần gia công dữ liệu nhiều trước khi bắt đầu quá trình học như các phương pháp khác. Tuy nhiên, để có thể sử dụng mạng neuron có hiệu quả cần phải xác định các yếu tố khi thiết kế mạng như: Mô hình mạng là gì? Mạng cần có bao nhiêu nút? Khi nào thì việc học dừng để tránh bị “học quá”? Ngoài ra còn có rất nhiều bước quan trọng cần phải làm để xử lý dữ liệu trước khi đưa vào mạng neuron để mạng có thể hiểu được (ví dụ như việc chuẩn hoá dữ liệu, đưa tất cả các tiêu chuẩn dự đoán về dạng số). Mạng neuron được đóng gói với những thông tin trợ giúp của các chuyên gia đáng tin cậy và được các chuyên gia đảm bảo các mô hình này làm việc tốt. Sau khi học, mạng có thể được coi là một chuyên gia trong lĩnh vực thông tin mà nó vừa được học. Như vậy, nhìn vào các phương pháp giới thiệu ở trên, chúng ta thấy có rất nhiều các phương pháp khai phá dữ liệu. Mỗi phương pháp có những đặc điểm riêng phù hợp với một lớp các bài toán với các dạng dữ liệu và miền dữ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30 liệu nhất định. Giả sử đối với bài toán dự đoán theo thời gian, trước kia người ta thường đặt nhiệm vụ cho việc khai phá các mẫu dạng này là hồi quy dự đoán hoặc các mô hình hồi quy tụ động dựa trên thống kê,… Mới đây, các mô hình khác như các hàm phi tuyến, phương pháp dựa trên mẫu, mạng neuron đã được áp dụng để giải loại bài toán này. Mặc dù nhìn bề ngoài ta thấy có rất nhiều các phương pháp và ứng dụng khai phá dữ liệu nhưng cũng không có gì là lạ khi nhận thấy chúng có một số thành phần chung. Hiểu quá trình khai phá dữ liệu và suy diễn được mô hình dựa trên những thành phần này là ta đã thực hiện được nhiệm vụ của khai phá dữ liệu. 1.3. TIÊU CHÍ HÓA TRONG NGHIÊN CỨU ĐỊA LÍ VÙNG LÃNH THỔ DÂN CƢ Xà HỘI 1.3.1. Trong nghiên cứu vùng địa lí tự nhiên Địa lí học là hệ thống các khoa học có đối tượng chủ yếu là sự vận động của bộ ba khái niệm Tự nhiên - Xã hội - Con người. Phương pháp luận cơ bản đặc trưng của Địa lí học là cách tiếp cận phát triển vùng lãnh thổ - một nội dung cơ bản của khái niệm không gian và thời gian của một đối tương địa lí học như là một phạm trù triết học ứng dụng trong Địa lí học. Đặc trưng không gian lãnh thổ bao giờ cũng qui về việc xác định các giới hạn lãnh thổ vùng, hay nói khác đi là xác định được hệ thống vùng lãnh thổ dựa trên một hệ qui chiếu nào đó, còn được gọi là hệ tiêu chí địa lí. Để tìm hiểu nội dung nói trên chúng ta có thể tham khảo cách tính chỉ số tương quan nhiệt - ẩm của GS Vũ Tự Lập dung cho việc xác định sự phân hóa đai cao của Việt Nam. Chỉ số tương quan nhiệt - ẩm được tính theo công thức sau : K = R*0.1 t 0 ─ 1 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31 Khô : K = 1.00 Ẩm : K = 2.1 - 3.00 R : Lượng mưa trung bình năm (mm/năm) t 0 = Tổng nhiệt độ > 00C Hơi khô : K = 1 - 1.5 Hơi ẩm : K = 1.51 - 2.00 Ẩm ướt : K ≥ 3.00 Kết quả tính toán theo chỉ số tương quan nhiệt ẩm nói trên, tác giả đã phân chia các đai nội chí tuyến như sau : - Á đai 0 - 600 m là đai nội chí tuyến chân núi với đặc điểm là có mùa hè nóng (nhiệt độ trung bình tháng > 250C, thích hợp với các loại sinh vật nhiệt đới về xích đạo điển hình. Do tác động của bức chắn và bóng chắn của địa hình đồi, mà trong số đai có tới 3 tương quan nhiệt ẩm từ khô (<1.00) đến ẩm ướt (> 3.00). Tổng nhiệt độ trong đai đều > 70000, từ phía nam Quy Nhơn trở vào đã trên 95000. Các á đai nội chí tuyến khô đến ẩm ướt chân núi được phân ra như sau : Á đai 0 - 100 m : ở miền bắc cũng không có mùa đông lạnh (với nhiệt độ trung bình tháng dưới 150C thì bất lợi cho cây nhiệt đới khó tính; ở miền nam nóng quanh năm. Á đai 100 - 300 m ; ở miền bắc có nới đã có mùa đông rét (nơi đầu gió); ở miền nam mùa nóng giảm sút. Á đai 300 - 600 m : ở miền bắc nhiều nới có mùa đông rét; ở miền nam mùa nóng chỉ còn 6 tháng trở xuống. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 32 Từ 600 đến 2600 m là đai á nhiệt đới hơi ẩm (K = 1.50) đến ẩm ướt (K ≥ 3.00) trên núi, với tổng nhiệt độ > 45000 và mùa hè mát với nhiệt độ trung bình tháng < 25 0 C. Những cây nhiệt đới và xích đạo khó tính đòi hỏi nhiệt lượng cao không lên quá 600 m; tại á đai này phổ biến là các loài á nhiệt đới và ôn đới có xen các loài nhiệt đới có biên dộ sinh thái rộng. GS Vũ Tự Lập phân thành các á đai như sau : - Á đai 600 - 1000 m, ở miền bắc, do ảnh hưởng của gió mùa đông bắc lạnh và á đai này tuy vẫn còn tính chuyển tiếp từ nội chí tuyến chân núi lên á đai nhiệt đới trên núi, nhưng tính chất chuyển tiếp thiên về phía á nhiệt đới thể hiện ở ưu thế các loài nhiệt đới. Tại miền nam do không có ảnh hưởng của gió mùa đông bắc cho nên tính chất chuyển tiếp thiên về nội chí tuyến, tuy vẫn phải coi như là á đai chuyển tiếp, vì không có nhiệt độ trung bình tháng > 250C cho phép các loài á xích đạo và xích đạo phát triển. Tóm lại á đai 600 - 1000 m là đai chuyển tiếp từ nội chí tuyến chân núi lên á nhiết đới trên núi, ở cả hai miền bắc, nam. - Á đai 1000 - 1600 m là á đai mang tính chất á nhiệt đới rõ, với đất vàng á nhiệt đới nhiều mùn. - Á đai 1600 - 2600 m : á này có một đặc điểm đáng chú ý là tháng nóng nhất không quá 200C, nghĩa là mùa nóng tương đương với mùa hạ ôn đới. Từ 2600 m trở lên là đai ôn đới trên núi, quanh năm rét < 150C, mùa đông xuống < 10 0 C. Qua ví dụ nêu trên chúng ta thấy vai trò của việc xác định : (1) các tiêu chí (Chỉ số tương quan nhiệt - ẩm - còn gọi là chỉ số khô hạn) với (2) các chỉ tiêu tương ứng - các giá trị đo từ 0 đến > 3 quan trọng như thế nào đối với việc xác định các đai cao địa lí tự nhiên Việt Nam. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33 1.3.2. Trong nghiên cứu vùng địa lí kinh tế - xã hội Viên CLPT - Bộ KH&ĐT đã xác định hệ thống các tiêu chí mới, chủ yếu là hệ thống tiêu chí với các chỉ số / chỉ tiêu tương ứng về chuyên môn hóa và phát triển đang dạng các loại hình, các thành phần kinh tế có tính tới quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để phân vùng KTXH với tầm nhìn đến năm 2020. [28]. Theo đó, những tiêu chí phân vùng KTXH ở Việt Nam đã được xác định trên cơ sở các nguyên tắc sau : Nguyên tắc thứ nhất là phân vùng dựa trên cơ sở nhóm gộp cho các đơn vị hành chính tỉnh có tính tương đồng theo các điều kiện phát triển; Nguyên tắc thứ hai là phân vùng dựa trên trình độ KTXH trong đó sự gắn kết của vùng thông qua vai trò của hệ thống đô thị, quan hệ giữa đô thị và vùng ảnh hưởng của chúng, xét đến cả các điều kiện của lịch sử. Nguyên tắc này phản ánh nguyên nhân của sự phát triển; Nguyên tắc thứ ba là tính phù hợp với khả năng quản lý trên góc độ tư vấn và lập quy hoạch phát triển. Nguyên tắc này phản ánh những điều kiện của công tác quản lý, tư vấn tham mưu cho những người ra quyết định. Để xác định hệ thống vùng trong thời kỳ đến năm 2020, Viện CLPT - Bộ KH&ĐT kiến nghị hai nhóm tiêu chí : (1) Nhóm tiêu chí thuộc về sự đồng nhất của các yếu tố phát triển; (2) Nhóm tiêu chí thuộc về sự đồng nhất các chức năng, nhiệm vụ của vùng. + Nhóm tiêu chí thuộc về sự đồng nhất của các yếu tố phát triển - Về các yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên; - Về các yếu tố dân số và nguồn lao động; - Về trình độ phát triển kết cấu hạ tầng; Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 34 - Yếu tố văn minh, văn hoá dân tộc. Dựa vào các yếu tố trên này để phân lãnh thổ quốc gia các vùng khác nhau. + Nhóm tiêu chí thuộc về sự đồng nhất các chức năng, nhiệm vụ của vùng. Để đo lường trình độ phát triển của vùng, người ta thường dùng hệ các chỉ tiêu mà trong đó chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc nội (GDP) được chú ý nhiều nhất. Nhưng chỉ tiêu này có tính hạn chế trong phạm vi nhỏ, cho nên, người ta lại thiết kế một số nhóm chỉ tiêu phức hợp để đo lường trình độ phát triển của vùng. + Tổng sản phẩm quốc nội (GDP). + Hệ thống chỉ tiêu mang tính tổng hợp. 1.Tuổi thọ thời kỳ dự kiến khi ra đời; 2.Tỷ lệ của dân số cư trú tại điểm dân cư > 2 vạn người trong tổng dân số; 3.Tiêu dùng prôtit động vật tính bình quân người, ngày; 4.Tổng số người học trung học và tiểu học; 5. Số người học đào tạo về công việc làm chủ yếu; 6. Số báo phát hành cho mỗi 1.000 người; 7. Số người cư trú bình quân trong mỗi phòng ở; 8.Tỷ lệ người có điện, nước, khí than sử dụng trong dân số có việc làm; 9.Tỷ lệ người thu nhập bằng lương trong tổng dân số hoạt động kinh tế; 10. Sản lượng nông nghiệp của một lao động nông nghiệp nam giới; 11.Tiêu dùng điện bình quân đầu người; 12.Tiêu dùng sắt thép bình quân đầu người; 13.Tiêu dùng năng lượng bình quân đầu người; Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 35 14. Tỷ lệ ngành chế độ trong tổng giá trị sản xuất trong nước; 15. Giá trị xuất nhập khẩu bình quân đầu người; + Hệ thống chỉ tiêu HDI là chỉ số phát triển nguồn nhân lực hoặc chỉ tiêu PQLI là chỉ số chất lượng cuộc sống vật chất. + Hệ thống các chỉ tiêu đề tài kiến nghị bao gồm các nội dung dưới đây: 1. Tổng quy mô kinh tế vùng: dùng chỉ số GDP để biểu thị. 2. Tăng trưởng kinh tế thể hiện bằng tỷ lệ tăng hàng năm của GDP. 3. Số tỉ trọng cơ cấu công nghiệp hoá tính theo công thức dưới đây : Tỉ trọng cơ cấu công nghiệp hóa (%) = (Giá trị sản xuất công nghiệp vùng / Tổng sản phẩm quốc nội - GDP ) / (Lao động công nghiệp vùng / Lao động xã hộ vùng) 4. Điều kiện chuyển đổi cơ cấu: Lấy mức thu nhập bình quân đầu người làm chủ đạo, hơn nữa, đồng thời chú ý tới các mặt quy mô dân số, độ phong phú tài nguyên và cấp cơ cấu hiện có. Căn cứ theo giá trị tới hạn đi vào thời kì tăng tốc chuyển đổi cơ cấu của nước ngoài đã xác định. 5. Tố chất văn hoá của dân số (dân số có trình độ văn hoá trên trung học, đại học/dân số mù chữ và nửa mù chữ). 6. Trình độ đô thị hoá. 7. Chất lượng cuộc sống biểu thị bằng mức tiêu dùng của dân cư. Sau khi tính toán được toàn bộ các chỉ tiêu kể trên, tiến hành tính số bình quân m của chúng, số bình quân hình học m là chỉ số tổng hợp trình độ phát triển KTXH của vùng. Việc chọn chỉ tiêu đánh giá đã chú ý tới nhiều yếu tố, diện phủ của chỉ tiêu tương đối lớn; điểm chưa hoàn thiện và phân lượng của chỉ tiêu kinh tế và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 36 chỉ tiêu chất lượng cuộc sống không đủ, vả lại, chỉ tiêu tổng hợp tính theo phương pháp bình quân là tiến hành trên cơ sở giả định đóng góp của các chỉ tiêu đối với trình độ phát triển KTXH là như nhau, nhưng thực tế, sự đóng góp của các chỉ tiêu không có khả năng như nhau. Phương pháp này đã phản ánh được một cách tương đối khách quan trình độ phát triển của các địa phương. Trên cơ sở các chỉ tiêu đó, tiến hành lựa chọn các chỉ tiêu phục vụ cho mục đích phân vùng và áp dụng các chỉ tiêu đó cho toàn lãnh thổ nghiên cứu, phân hạng các đơn vị cấp tỉnh, đưa ra phương án về hệ thống vùng. Tất nhiên để lựa chọn và áp dụng các chỉ tiêu phân vùng phải sử dụng cả các phương pháp truyền thống và hiện đại. Trên cơ sở các tiêu chí và chỉ tiêu đã tính, Viện CLPT kiến nghị : Từ nay đến năm 2010 sơ đồ 6 vùng kinh tế xã hội và 3 vùng kinh tế trọng điểm được đưa ra trong chiến lược KTXH vẫn chấp nhận. Hệ thống vùng mới Việt Nam thời kỳ 2010-2020 kiến nghị phân chia như sau : Vùng thứ nhất : Vùng Trung du miền núi phía Bắc (TDMN phía Bắc, không có tỉnh Quảng Ninh); Vùng thứ hai: Vùng Châu thổ sông Hồng và Bắc Trung bộ (gồm các tỉnh ĐBSH + Quảng Ninh và Thanh - Nghệ - Tĩnh); Vùng thứ ba : Vùng Duyên hải miền Trung (Quảng Trị đến Ninh Thuận); Vùng thứ tư : Vùng Tây Nguyên (gồm 3 tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai và kon Tum Vùng thứ năm : Vùng Đông Nam bộ (7 tỉnh Đông Nam Bộ cộng với Lâm Đồng, Bình Thuận, Long An). Vùng thứ sáu : Vùng Đồng bằng sông Cửu Long (11 tỉnh ĐBSCL và TP Cần Thơ). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 37 1.4. CHỈ TIÊU HÓA TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 9 THEO HƢỚNG TÍCH CỰC HÓA 1.4.1. Nội dung dạy học về phần vùng trong CT&SGK Địa lý 9 CT & SGK Địa lÍ ở trường THCS trang bị cho HS những kiến thức địa lý đại cương (lớp 6), kiến thức địa lí các châu lục ( lớp 7,8) và Địa lý Việt Nam (lớp 8,9). Trong đó kiến thức về Địa lÍ Việt Nam được biên soạn khá hoàn chỉnh ở lớp cuối cấp (kiến thức cả về địa lí tự nhiên và kinh tế). Trong CT&SGK Địa lí 9, phần Phân hóa lãnh thổ theo vùng được giảng dạy với thời lượng 21 tiết, nếu tính cả phần nghiên cứu Địa lí địa phương cấp tỉnh / thành phố là 25 tiết, chiếm > 60% thời lượng cả lí thuyết và thực hành. Nhìn chung, trong CT & SGK Địa lí Lớp 9, phần vùng được coi là kiến thực trụ cột về Địa lí KTXH Việt Nam. Do CT&SGK được viết theo phong cách mới, chủ yếu là gợi mở nhằm phát huy tính tích cực học tập của HS, nên khi giảng dạy về các vùng, GV phải tìm tòi, khai thác tài liệu nhằm cung cấp cho HS những kiến thức cơ bản về địa phương mình, từ đó giáo dục cho HS có thái độ, trách nhiệm đối với các vùng miền, với quê hương đất nước. Các bài học về vùng trong CT&SGK Địa lí 9 được giảng dạy với thời gian là 21 tiết, trong đó lý thuyết 15 tiết (các bài 17 - 37) và thực hành 6 tiết (bố trí sau các vùng kinh tế), như vậy các bài học về vùng được kết cấu theo trình tự chung : Vị trí địa lí, giới hạn lãnh thổ ; Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên; Đặc điểm dân cư, xã hội; Tình hình phát triển kinh tế (nông nghiệp / công nghiệp / dịch vụ) ; Các trung tâm kinh tế. Phần đầu và cuối mỗi bài dều có tóm tắt, định hướng, một số câu hỏi và bài tập. Thời lượng dành cho nghiên cứu vùng lãnh thổ như thế là khá nhiều; đó chính là cơ hội, là điều kiện để HS có được những kiến thức, hiểu biết về tự nhiên, kinh tế, con người và xã hội của các vùng miền đất nước. Do đó người GV phải Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 38 làm nhiệm vụ cung cấp cho HS những kiến thức cập nhật để HS nắm được những nét đặc trưng cơ bản về ĐKTN,TNTN, KT-XH các vùng, kết hợp với các câu hỏi gợi ý trong SGK nhằm phát triển tư duy của HS. Đây chính là điều kiện thuận lợi để GV có thể vận dụng PPDH theo hướng tích cực hóa. Có thể nói lượng kiến thức học phần nghiên cứu vùng là khá nặng trong điều kiện đại bộ phận HS THCS sống ở quê hương của mình đồng thời phải hình dung toàn bộ lãnh thổ đất nước. 1.4.2. Nội dung dạy học Mục III : Đặc điểm dân cƣ, xã hội theo vùng trong cơ cấu CT&SGK Địa lý 9 Trong nội dung nghiên cứu từng vùng lãnh thổ trong CT&SGK Địa lí 9, mục Đặc điểm dân cư, xã hội được trình bày theo cách khá mới. Sau khi nêu và đánh giá thành phần dân cư, trước hết là các dân tộc, một số đặc điểm tiêu biểu của cộng đồng dân cư, mỗi vùng đều minh họa bằng một bảng số liệu thống kê với tiêu đề : Một số chỉ tiêu phát triển dân cư, xã hội, năm 1999. Qua 10 năm, đến nay số liệu từ Niên giám thống kê năm 1999 đã lạc hậu. Điều đó đặt ra nhu cầu bức xúc phải cập nhật thường niên để thu hút sự chú ý của HS, tránh sự nhàm chán do số liệu đã "cũ". Khi dạy các nội dung trong bài học nói chung, nhất là dạy mục III, đòi hỏi GV phải làm rõ tầm quan trọng, mục đích, ý nghĩa của việc học các chỉ tiêu. Điều quan trọng hơn cả là phải cập nhật số liệu mới bằng việc tự tìm tòi, hoặc hướng dẫn HS tìm kiếm trên mạng Intrernet hoặc một số tài liệu tham khảo liên quan. Để làm được điều đó, GV cần cung cấp cho HS nguồn tài liệu tham khảo như : bản đồ, số liệu trong niên giám thống kê, cũng có thể cho HS khai thác kiến thức từ CD- ROM, Internet và các phương tiện nghe nhìn khác như báo chí, đài phát thanh, truyền hình.... Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 39 Nghiên cứu mục III nhằm nhiều mục đích khác nhau, ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Trước hết, bổ xung và nâng cao kiến thức Địa lí, đặc biệt là các vấn đề Địa lí dân cư; Giúp cho HS có được các kiến thức về mật độ dân số, tỉ lệ dân số thành thị nông thôn, tỉ lệ hộ nghèo, tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị, thiếu việc làm ở nông thôn. Các chỉ tiêu về : thu nhập bình quân đầu người, tỉ lệ người lướn biết chữ và tuổi thọ trung bình cũng như tỉ lệ dân số thành thị chính là sự phản ánh chỉ số phát triển con người (HDI) được trình bày dễ hiểu, phù hợp với tâm sinh lí và trình độ của HS THCS. Học tập mục III còn phát triển năng lực nhận thức và kĩ năng vận dụng kiến thức của HS, giúp HS bồi dưỡng thế giới quan khoa học, phát triển năng lực trí tuệ và kĩ năng áp dụng thực tế. Đối với GV Địa lí, việc nghiên cứu, giảng dạy phần vùng nói chung, đặc biệt là mục III nói riêng đòi hỏi GV phải có tư liệu mới, có vốn kiến thức một cách cụ thể, sâu sắc, tạo điều kiện cho việc giảng dạy ĐLĐP trên lớp đạt hiệu quả cao. Mặt khác, nghiên cứu theo vùng và theo mục III còn mang tính chất là một công tác nghiên cứu khoa học, từ đó nâng cao trình độ chuyên môn đồng thời là cơ sở để đóng góp sức mình vào công cuộc xây dựng và phát triển KTXH của địa phương cũng như phát triển được tư duy khoa học, tư duy địa lý cho chính bản thân. Về các hình thức tổ chức dạy học ĐLĐP, trong Hướng dẫn thực hiện bộ CT mới, Bộ GD&ĐT đã coi việc học tập, tìm hiểu khảo sát và dạy các vùng nói chung và mục III nói riêng là một yêu cầu bắt buộc trong dạy học Địa lí 9. Việc tìm hiểu điều kiện tự nhiên, dân cư, KTXH môi trường sống làm cho HS hiểu biết sâu sắc hơn những kiến thức địa lí trong SGK, gắn việc học tập địa lý ý với cuộc sống ở vùng miền và quê hương. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 40 Do thế mạnh của môn Địa li là có liên quan chặt chẽ với thiên nhiên, con người và xã hội, với các hoạt động sản xuất của con người nên việc dạy ngoài lớp mang lại hiệu quả về mặt giáo dục và giáo dưỡng. Vì vậy, ngoài nội dung mục III được dạy thành bài theo hệ thống nhất định, phù hợp với cấu trúc chương trình của từng lớp, từng cấp học thì việc dạy ĐLĐP được tiến hành dưới dạng kết hợp liên hệ thực tiễn trong từng phần của nội dung bài giảng hoặc bằng hình thức dạy học ngoài lớp như thực hành ngoài trời, đi tham quan, du lịch. Về việc giảng dạy ĐLĐP ở trên lớp, để các giờ dạy mục III trên lớp đạt hiệu quả, những tài liệu sử dụng phải được nghiên cứu đầy đủ, đảm bảo tính khoa học. Điều này rất cần thiết là liên hệ với thực tế địa phương, hoặc thông qua các nguồn tư liêu trên các phương tiện thông tin đại chúng. Qua đó HS cần nhận thức được những thuận lợi khó khăn của quê hương và thái độ đúng đắn trước thực tế đó. Kết hợp với những hoạt động thực hành tham quan, khảo sát địa phương, giờ học trên lớp phải hệ thống hoá được những điều mà HS đã biết một cách rời rạc, lẻ tẻ để khát quát thành những vấn đề mang tính quy luật, giúp HS hiểu biết sâu sắc hơn bản chất của sự vật, hiện tượng địa lý ở địa phương mình. Để dạy tốt Những vấn đề về DCXH đòi hỏi GV cần nêu lên vài trò và ý nghĩa của dân số trong sự phát triển kinh tế của địa phương, sau đó phân tích các khía cạnh của dân cư, đánh giá chung về sự phát triển dân số của địa phương so với của cả nước, phương hướng điều khiển dân số, GV cần làm rõ kết cấu theo độ tuổi, đặc biệt là nguồn lao động và việc sử dụng lao động ở địa phương. Để minh hoạ cho bài giảng, GV có thể sử dụng bản đồ dân cư (quốc gia và tỉnh, thành phố), xây dựng một số biểu đồ, bảng thống kê từ việc tìm hiểu địa phương, sưu tầm một số tranh ảnh về các dân tộc (nếu có), các điểm dân cư nông thôn và đô thị tiểu biểu. Nhưng quan trọng hơn cả là cập nhật số liệu cũng như vấn đề mới theo các vùng miền cũng như Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 41 tại quê hương minh trong 10 năm qua. Điều đó góp phần nghiên cứu sâu hơn các mục về đánh giá hiện trạng phát triển kinh tế, các trung tâm kinh tế vùng. Tổng sản phẩm quốc nội là một thành quả cuối cùng của hoạt động sản xuất trong một thời kỳ nhất định của tất cả các đơn vị thường trú của một vùng. Từ mặt hình thái giá trị mà xét, đó là : Mức chênh lệch (sai ngạch) của toàn bộ hàng hoá và giá trị dịch vụ sản xuất trong một thời kỳ nhất định của tất cả mọi đơn vị thường trú vượt quá toàn bộ hàng hoá tài sản phi cố định và giá trị dịch vụ đầu tư cùng kỳ. Từ mặt hình thái phân phối giá trị, đó là Tổng thu nhập phân phối lần đầu của tất cả các đơn vị thường trú trong một thời kỳ nhất định tạo ra, hơn nữa, phân phối cho các đơn vị thường trú không thường trú của vùng này. 1.5. TIÊU CHÍ HÓA TRONG NGHIÊN CỨU TÁI ĐỊNH DẠNG ĐỊA - KINH TẾ 1.5.1. Nội dung tổng quát Báo cáo Phát triển Thế giới của Ngân hàng Thế giới WB năm 2009 dành chuyên đề về nghiên cứu địa - kinh tế dưới đầu đề Tái định dạng Địa - Kinh tế. Theo WB, các địa phương phát triển tốt nếu chúng thúc đẩy sự chuyển đổi của các khía cạnh địa kinh tế : mật độ dày đặc hơn khi các thành phố phát triển; khoảng cách ngắn hơn khi công nhân và doanh nghiệp di chuyển đến gần khu trung tâm hơn; và có ít sự chia cắt hơn khi các quốc gia giảm bớt các biên giới kinh tế và tiến vào các thị trường thế giới để tận dụng qui mô kinh tế và buôn bán các sản phẩm chuyên biệt. Báo cáo Phát triển Thế giới 2009 kết luận rõ những sự chuyển đổi của ba khía cạnh địa kinh tế này : mật độ, khoảng cách và sự chia cắt là then chốt cho phát triển và cần được khuyến khích nghiên cứu tìm hiểu. Kết luận này có thể gây ra nhiều tranh cãi. Những người dân sống trong các khu nhà ổ chuột đã Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 42 lên đến hơn một tỷ nhưng con số người dân đổ ra các thành phố vẫn tăng lên. Một tỉ người dân sống trong những vùng tụt hậu của các nước đang phát triển, cách xa với nhiều lợi ích của toàn cầu hóa. Và nghèo đói với tỷ lệ tử vong cao vẫn còn tồn tại dai dẳng ở "một tỷ người nghèo nhất", không được tiếp cận với các thị trường thế giới, mặc dù những người dân khác tăng trưởng thịnh vượng hơn và có tuổi thọ dài hơn bao giờ hết. Những mới quan ngại đối với ba tỉ người dân tiếp theo liên quan đến sự cân bằng về phạm vi địa lí trong tiến trình phát triển. Báo cáo của WB mang đến thông điệp khác : Tăng trưởng kinh tế sẽ là không cân bằng. Cố gắng để trải rộng tăng trưởng kinh tế có nghĩa là kìm hãm nó - đấu tranh chống lại sự thịnh vượng chứ không phải đấu tranh với nghèo đói. Nhưng phát triển vẫn mang tính hòa nhập, kể cả cho những người dân bắt đầu cuộc sống của mình cách xa nơi có các mức độ tập trung kinh tế cao. Để tăng trưởng có thể nhanh chóng và chia sẻ, các chính phủ cần thúc đẩy hội nhập kinh tế, là khái niệm then chốt, như báo cáo đã chỉ rõ, trong các cuộc tranh luận chính sách về đô thị hóa, phát triển lãnh thổ, và hội nhập khu vực. Thay vào đó, tất cả ba cuộc tranh luận trên đều nhấn mạnh quá mức về những can thiệp căn cứ vào địa điểm. Tái định dạng Địa - Kinh tế nhằm xác định lại những khó khăn của cuộc tranh luận này, bao gồm tất cả các công cụ của hội nhập - các thể chế không xác định về phạm vi địa lí, cơ sở hạ tầng kết nối không gian, và những sự can thiệp mục tiêu theo phạm vi địa lí. Bằng việc xác định sự kết hợp hài hòa của các công cụ này, những nhà phát triển đất nước ngày nay có thể tái định dạng lại Địa Kinh tế của nước mình. Nếu họ làm tốt được công việc này, tăng trưởng của những quốc gia vẫn có thể không cân bằng, nhưng phát triển của họ thì vẫn mang tính hòa nhập. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 43 1.5.2. Một số khái niệm cơ bản - Chỉ báo, chỉ số, chỉ tiêu : Theo nguyên nghĩa, tiếng Anh, Chỉ báo = index (chuyên từ phái sinh là indicator). Chuyên từ này được sử dụng rộng rãi trong Niên giám thống kê thường niên của Tổng cục Thống kê thuộc Bộ KH&ĐT của Chính phủ Việt Nam, có tính tới qui ước chung quốc tế trong khuôn khổ hợp tác với các tổ chức quốc tế như UNDP, WB, IMF, ADB, UNESSCO. Trong nhiều trường hợp người ta ngầm định chỉ số, chỉ báo, chỉ tiêu là đồng nghĩa. Các thuật ngữ chỉ số, chỉ tiêu là các thuật ngữ phái sinh từ index - Tiêu chí : được mặc định hiểu là một thước đo chuẩn để biểu thị một đối tượng, hiện tượng phát triển. Tiêu chí gồm hai phần : tên gọi và phần định lương đo. Ví dụ : Bộ Tiêu chí phát triển nông thôn mới của Việt Nam bao gồm hai phần : Tên tiêu chí và các chỉ tiêu, chỉ số đo (Phụ lục 1,2,3). - GDP / GNI : được coi là thước đo phổ biến nhất để phân loại các quốc gia. Dựa vào đó các tổ chức quốc tế có một số chính sách đối xử phù hợp khi cho vay, đầu tư. Một số quốc gia và vùng lãnh thổ phấn đấu chuyển đổi nền kinh tế của minh theo hướng gia tăng GDP / GNI theo đầu người. Theo phương pháp Atlat của WB, tính theo sức mua tương đương (PPP) , các quốc gia và vùng lãnh thổ được phân loại theo các khung tiêu chí sau (tên gọi : Thu nhập / Thước đo : USD / nguời - năm). Việc nghiên cứu các chỉ báo có tầm quan trọng đặc biệt. Chính vì vậy WB có hẳn một WEBSITE : thường xuyên cung cấp hệ thống các chỉ báo, chỉ số, chỉ tiêu và số thống kê về tình hình phát triển kinh tế thế giới. Tại báo cáo thường niên năm 2007, WB xuất bản chuyên khảo về hệ thống các chỉ báo phát triển : World Development Indicators 2007. Washington, DC : World Bank. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 44 Tại Báo cáo chuyên đề Phát triển thế giới năm 2009 : Tái định dạng địa - kinh tế năm 2009, WB đưa ra Bảng phân loại các nền kinh tế theo khu vực và theo mức thu nhập năm tài khóa 2009. Theo đó, các thành viên của WB và tất cả các nền kinh tế khác có dân số trên 30.000 người. Theo đó, các nền kinh tế đựa phân vào nhóm thu nhập trên mức GNI bình quân đầu người năm 2007, tính theo phương pháp Atlat của WB. Các nhóm bao gồm : thu nhập thấp (LIC) với thu nhập từ 935 USD trở xuống, thu nhập trung bình thấp (LMC) có thu nhập từ 936 đến 3705 USD; nhóm thu nhập trung bình cao (UMC) với thu nhập từ 3706 USD đến 11.455 USD và nhóm thu nhập cao từ 11.456 trở lên (Theo đó, với thu nhập quốc dân 67, 2 tỉ USD và 790 USD bình quân người Việt Nam được xếp hạng trong nhóm các nước thu nhập thấp - LIC) [2,tr.539,541,]. Tiểu kết Chương 1 Hệ thống chỉ tiêu phát triển DCXH trong CT&SGK Địa lí 9 đã được biên soạn cách đây 10 năm, chủ yếu dựa vào số liệu thống kê năm 1999. Đến nay, tình hình đất nước và thế giới đã có nhiều thay đổi, trên nhiều phương diện hệ thống chỉ tiêu đó không còn phù hợp, đòi hỏi phải được cập nhật, đổi mới. Để thực hiện nhiệm vụ này, hệ thống chỉ tiêu phát triển DCXH phải được xem xét lại trên quan điểm nhận thứ luận, trước hết là trên quan điểm của ba cặp phạm trù : CL-SL / TG-KH / VĐ-PT. Điều đó cũng là đòi hỏi của việc dạy học các môn Địa lí nói chung và dạy học Địa lí Việt Nam nói riêng theo hướng tích cực hóa, đầu tiên và trước hết với mục III về các Chỉ tiêu phát triển DCXH trong các bài học về phân hóa lãnh thổ theo vùng kinh tế trong CT& SGK Địa lí 9. Cách đặt vấn đề nêu trên không chỉ là sự cần thiết trên phương diên lí luận mà còn là sự cần thiết của thực tiễn đổi mới phương pháp dạy học theo CT&SGK hiện hành. Hơn thế, điều này còn có giá trị thực tiễn ở Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 45 tầm cao hơn một khi các phương pháp chỉ tiêu được sử dung rộng rãi trong trong báo cáo thường niên của WB năm 2007 : "Tái định dạng Địa - Kinh tế". Nhận thức được cơ sở lí luận và tầm quan trọng thực tiễn phải cập nhật hệ thống chỉ tiêu phát triển DCXH, chúng tôi đã nghiên cứu diễn giải các thuật ngữ : tiêu chí, chỉ số, chỉ tiêu, chỉ báo cũng như các phương pháp và kĩ thuật xử lí dữ liệu nhằm làm cơ sở cho việc cập nhật hệ thống chỉ tiêu phát triển DCXH theo vùng và vận dụng trong dạy học Địa lí 9. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 46 Chƣơng 2 CẬP NHẬT HỆ THỐNG CHỈ TIÊU PHÁT TRIỂN DÂN CƯ, Xà HỘI THEO VÙNG LÃNH THỔ TRONG ĐỊA LÍ 9 2.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ CƠ SỞ VÙNG CỦA CÁC CHỈ TIÊU DÂN CƢ, Xà HỘI 2.2.1. Quan niệm về vùng Xét về mặt từ nguyên, vùng được hiểu là một khu vực địa lí như : vùng đất, vùng trời, vùng biển, không gắn với một cấp hành chính nhà nước. Trong khi đó, thuật ngữ lãnh thổ được hiểu là một vùng hay khu vực địa lí thuộc một cấp quản lý hành chính nhà nước. Do đó trong một vùng có thể có nhiều lãnh thổ. Thuật ngữ "khu vực", được sử dụng với những biến thái khác nhau : có thể nhỏ hơn vùng như khu tả ngạn, hữu ngạn sông Hồng, khu vực Hồ Gươm, Hồ Tây ở Hà Nội..., hoặc tương đương vùng, ví dụ khu vực (hay vùng) Tây Bắc; cũng có thể lớn hơn vùng và tương đương miền, ví dụ khu vực (hay miền) Bắc, Trung, Nam. Thuật ngữ "miền" thì rõ ràng là lớn hơn "vùng". Các lý thuyết vùng về cơ bản đều dựa vào trình độ sản xuất các phương tiện sinh sống để phân chia các loại hình KTXH ngoài ra còn chú ý đến các yếu tố không gian lãnh thổ, quá trình cộng cư lâu dài, cùng chung vận mệnh lịch sử trong quá trình hình thành, tồn tại, phát triển của các vùng KTXH. Nhưng cho đến nay ở Việt Nam, kết quả phân vùng KTXH không phải vì thế mà giống nhau. Tuy nhiên, hiện nay quan niệm về 7 vùng KTXH được thừa nhận rộng rãi là các vùng : TB, ĐB, ĐBSH, BTB, DHNTB, TN, ĐNB. Trên quan điểm vùng văn hóa, một số tác giả cho rằng nước ta có 7 vùng văn hóa : Việt Bắc, Tây Bắc, Trung du và Đồng bằng Bắc Bộ, Duyên hải BTB, Duyên hải Trung và Nam Trung Bộ, Trường Sơn - TN và Nam Bộ. Cũng có tác giả cho rằng nước ta có 10 vùng văn hóa: Việt Bắc, TB, Đồng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 47 bằng miền Bắc, vùng Nghệ - Tĩnh, Thuận Hóa - Phú Xuân, Nam Trung Bộ, TN, Đồng bằng miền Nam, Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội. Có thể quan niệm "vùng" là một thực thể KTXH bao gồm những đặc điểm về cảnh quan - lãnh thổ, trình độ và cách thức hoạt động kinh tế, và các đặc điểm về văn hóa vật thể (nhà cửa, y phục, ẩm thực ...), về văn hóa phi vật thể (phong tục, tập quán, lối sống, tín ngưỡng - tôn giáo...), trong đó có một số đặc trưng điển hình so với các vùng khác. Các vùng KTXH không phải là những "ốc đảo". Các đặc điểm, kể cả những đặc trưng điển hình của vùng, trên thực tế là kết quả tiếp biến từ hai, ba vùng khác nhau liền kề. Trong quá trình phát triển theo hướng CNH-HĐH với sự tác động của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, những đặc điểm, kể cả những đặc trưng điển hình, tính thống nhất của các vùng KTXH đã và sẽ được tăng cường và ngày càng thể hiện rõ trên nhiều phương diện. Vì thế, vấn đề đặt ra hiện nay là phải tăng cường bảo tồn, phát triển những đặc trưng điển hình với tính cách là những lợi thế so sánh, nhằm thúc đẩy các vùng phát triển nhanh, ổn định và có tính cạnh tranh nhất định trong nền KTXH Việt Nam thống nhất mà đa dạng. 2.1.2.Phân hóa vùng dưới tác động của quá trình CNH-HĐH Ở nước ta, thực trạng phân hóa vùng được quan tâm xem xét, đánh giá từ Đại hội VIII của Đảng (1996), tức là từ khi nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, nền KTXH và bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH-HĐH. Đại hội VIII đã thông qua "Chương trình phát triển các vùng lãnh thổ", nhằm kết hợp sự phát triển có trọng điểm với sự phát triển toàn diện các vùng lãnh thổ, giảm bớt chênh lệch và nhịp độ phát triển giữa các vùng. Vào năm 1999 đã có sự đo lường tương đối toàn diện sự phân hóa vùng trên các phương diện kinh tế, giáo dục và bảo vệ sức khỏe, (đánh giá theo các Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 48 chỉ số cơ bản của cách tính chỉ số phát triển con người (HDI) của LHQ). Mặc dù xét về thu nhập quốc dân theo đầu người thì vùng ĐNB cao gấp 5,5 lần so với vùng TB ở thời điểm này; nhờ các thành tựu về giáo dục, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nên chỉ số HDI của TB chỉ thấp hơn vùng ĐNB có 1,3 lần. Thu nhập quốc dân tính theo đầu người của vùng ĐNB so với vùng ĐBSH cao hơn 2,3 lần; song cũng nhờ các thành tựu về giáo dục, bảo vệ chăm sóc sức khỏe mà chỉ số HDI của vùng ĐBSH tương đương với vùng ĐNB. Vấn đề đặt ra hiện nay là sau hơn 10 năm đẩy mạnh CNH-HĐH, sự phân hóa về phát triển kinh tế có làm doãng khoảng cách phát triển chung giữa các vùng. Điều này thể hiện ở bảng thống kê tổng hợp sau. (Bảng 2.1). Bảng 2.1. Một số chỉ tiêu phát triển DCXH cả nước và vùng ở Việt Nam Tiêu chí Năm ĐV đo Toàn quốc ĐB SH ĐB TB BTB DH NTB TN ĐNB ĐB SCL Mật độ DS 2009 Ng./k m 2 257 1238 149 71 208 217 90 408 432 Gia tăng DS 2009 % 1.4 1.1 1.2 1.9 0.9 1.2 2.3 2.4 1.5 Tỉ lệ nghèo 2007 % 14.8 9.6 21.4 38.1 25.8 16.3 23 4.3 12.4 Thất nghiệp 2007 % 4.64 5.74 3.97 3.42 4.92 4.99 2.11 4.83 4.03 Thiếu VL ởNT 2007 % 81.8 80.7 81.8 78.8 77.9 79.8 82.7 83.5 81.7 Thu nhập 2006 Ng.đ/ thg 630 653 511 373 418 551 522 1065 628 TL biết chữ 2004 % 92.2 96.2 90.4 76 93.9 92.8 88.2 93.6 89.8 Tuổi thọ 2004 Năm 71.9 74.5 69.6 67.6 71.3 71.7 65.4 73.7 72.1 DS TT 2009 % 26.5 24.5 18.7 13.8 13.6 29.1 28.1 53.7 20.2 Nguồn : 1. Niên giám thống kê năm 2008, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2009. 2. Báo cáo về PT con người Việt Nam 1999 - 2004, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006. 3. Tổng kiểm kê dân số và nhà ở 01.4.2009 (Thông báo ban đầu, TCTK 7/2009) Cho đến những năm gần đây các vùng đồng bằng và duyên hải vẫn tiếp tục phát huy được các lợi thế so sánh, đẩy mạnh phát triển kinh tế. Giữa các Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 49 vùng vẫn có sự khác biệt về tốc độ phát triển kinh tế như khi mới bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH-HĐH. Sau khoảng 10 năm bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH-HĐH, tính bình quân trên phạm vi cả nước, thu nhập đầu người tăng 30% thì biên độ thu nhập đầu người của các vùng dao động từ 20% - 40%. Cụ thể là các vùng tăng thấp cũng được 20% như TB, ĐB, BTB. Các vùng có mức tăng cao 40% là ĐNB, ĐBSCL. Hiện nay, biên độ dao động mức tăng thu nhập đầu người vẫn như vậy. Có thể nói mức chênh lệch đó là không lớn và tương đối ổn định. Khoảng cách thu nhập giữa các vùng không bị doãng ra một cách bất thường (đột biến) và cũng không doãng ra với tốc độ lớn. Trong 10 năm qua, khoảng cách về thu nhập thực tế giữa vùng có mức thu nhập cao nhất (ĐNB) với vùng có thu nhập thấp nhất (TB) tăng từ 2,1 lần lên 3,1 lần. Giữa ĐBSH và ĐBSCL mức thu nhập bình quân đầu người/tháng là tương đương nhau (488,2 nghìn đồng và 471,1 nghìn đồng). Mức chênh lệch giữa các vùng vào năm 2004 cao nhất là 3,1 lần (giữa ĐNB và TB). Đây là mức chênh lệch chưa quá lớn, kể cả khi xem xét trong khoảng thời gian 10 năm lại đây. Khoảng cách thu nhập giữa nhóm nghèo nhất và nhóm giàu nhất diễn biến tương đối phức tạp từ năm 1994 - 2004, mức dao động là từ 6,5 lần đến 8,1 lần. Trong những năm gần đây mức chênh lệch theo ước đoán chung cũng dừng ở khoảng 9 lần. Như vậy, do nhiều nguyên nhân nên khoảng cách về thu nhập giữa nhóm giàu nhất và nhóm nghèo nhất không chuyển hóa một cách tương ứng thành khoảng cách lớn về mức sống, điều kiện sống trên phạm vi vùng (nông thôn và đô thị các vùng lãnh thổ). Do sự tác động của quá trình CNH-HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế kết hợp với sự tác động của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, đã và sẽ dễ chuyển sự phân hóa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 50 KTXH giữa các vùng, dù là chưa quá lớn - thành phân hóa về dân tộc, tôn giáo, văn hóa. Giải pháp phát triển ổn định các vùng dưới sự tác động của quá trình CNH-HĐH : Một là, về nhận thức, cần phải làm rõ sự thống nhất của nền kinh tế, văn hóa ngày nay không diễn ra đơn điệu, mà thông qua sự đa dạng của các vùng. Bởi lẽ, một mặt, xét từ truyền thống lịch sử - văn hóa, dân tộc (quốc gia) Việt Nam là một cộng đồng gồm nhiều dân tộc cư trú, sinh sống lâu dài tại những vùng cảnh quan lãnh thổ khác nhau. Sự nghiệp đẩy mạnh CNH-HĐH trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, HNQT với sự tác động của toàn cầu hóa, cũng tác động vào quá trình phát triển theo hướng thống nhất trong đa dạng và thông qua sự đa dạng. Sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa đã và sẽ diễn ra thông qua sự đa dạng, mà vùng là biểu hiện tổng hợp của nhiều sự đa dạng khác nhau. Cần tiếp tục làm rõ những nhận thức này, để có cách thức hoạch định, triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, luật pháp, chính sách thích ứng với sự phát triển đa dạng vùng trong chỉnh thể kinh tế, xã hội, văn hóa của quốc gia. Hai là, theo tinh thần Nghị quyết Đại hội X của Đảng, tiếp tục xây dựng cơ chế, chính sách, để thúc đẩy các vùng trong nước cùng phát triển, đồng thời tạo sự liên kết giữa các vùng và nội vùng. Hiện nay cần phải xúc tiến việc thể chế hóa chương trình phát triển các VKTTĐ. Đây là hình thức vùng hội tụ đầy đủ nhất các điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bứt phá có ý nghĩa quyết định đối với nền kinh tế quốc dân. VKTTĐ có một số đặc điểm chủ yếu sau : Phạm vi bao gồm một số tỉnh (thành phố) và ranh giới có thể thay đổi theo thời gian tùy thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế đất nước Đóng góp tỉ trọng lớn trong GDP của quốc gia, tạo tốc độ tăng trưởng nhanh cho cả nước và có thể hỗ trợ các vùng khác. Có khả năng phát triển các ngành mới về công nghiệp và dịch vụ để từ đó lan tỏa ra các vùng khác. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 51 Quá trình hình thành và phát triển 3 vùng KTTĐ được Chính phủ ra quyết định thành lập những năm 90 của thế kỷ XX, đó là : vùng KTTĐ Bắc Bộ (gồm 5 tỉnh, thành phố tương đương), vùng KTTĐ miền Trung (4 tỉnh, thành phố tương đương) và vùng KTTĐ phía Nam (4 tỉnh, thành phố tương đương). Từ năm 2004, các vùng KTTĐ được mở rộng thêm một số tỉnh mới nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của thời kỳ mới. Ba vùng KTTĐ hiện nay đóng góp gần 70% GDP và 64,5% giá trị xuất khẩu của cả nước (năm 2005). Tốc độ tăng trưởng kinh tế của các vùng KTTĐ thời kỳ 2001-2005 đạt 11,7%/năm. Ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm 89,5% cơ cấu GDP. Vùng KTTĐ Bắc Bộ và phía Nam phát triển mạnh nhất, vung KTTĐ miền Trung đang trong giai đoạn hình thành và phát triển. và các Chương trình TB, TN, Tây Nam Bộ, thể hiện qua các kịch bản quy hoạch, kế hoạch phát triển KTXH của cấp tỉnh, thành; đồng thời phải có sự chỉ đạo, từ trung ương đối với việc thực hiện nghiêm minh các quy hoạch, kế hoạch đó, nhằm đạt được những kết quả thực tế về liên kết nội vùng, liên vùng theo tỉnh, thành phố. Cần xây dựng một số chủ trương, chính sách có tính đặc trưng cho mỗi vùng, và có khả năng kết nối liên vùng; đồng thời xác định quyền hạn, trách nhiệm cho một số tỉnh, thành có chức năng điều phối liên kết nội vùng. Thí dụ Hà Nội đang xây dựng chiến lược KTXH "vùng Hà Nội" bao quát cả vùng kinh tế động lực phía Bắc; tương tự là vai trò của TP Hồ Chí Minh đối với vùng kinh tế động lực phía Nam; vai trò của Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi với Dung Quất và Khánh Hòa với Nha Trang trong chuỗi hoặc dải kinh tế động lực miền Trung. Ba là, xây dựng, thực hiện một số chương trình thúc đẩy liên kết nội vùng, liên vùng trên các phương diện kinh tế, xã hội, văn hóa, và thúc đẩy phát triển nhanh ở một số vùng dân tộc thiểu số, vùng cao, biên giới, hải đảo Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 52 thực sự khó khăn trên cơ sở rà soát và phối hợp với các chương trình, dự án hiện có. Hiện nay, ngoài các chương trình TB, TN, Tây Nam Bộ, vùng KTTĐ (hay động lực) Bắc, Trung, Nam còn có các chương trình khác liên quan nhiều đến sự phát triển các vùng, như : Chương trình 135, chương trình trồng 5 triệu ha rừng, Chương trình xây dựng biên giới, hải đảo, Chương trình bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các dân tộc thiểu số... Do đó, cần thiết phải rà soát, phối hợp các chương trình này vào thực hiện phương hướng liên kết nội vùng, liên vùng. 2.2. QUAN ĐIỂM VÀ NGUYÊN TẮC CHUNG 2.2.1.Quan điểm Tiếp cận vùng lãnh thổ có vai trò cơ bản trong mọi nghiên cưu về địa lí nói chung và địa DCXH nói riêng. Đến lượt mình, nội dung địa lí DCXHđược coi như là các yếu tố trụ cột trong nghiên cứu các vùng lãnh thổ KTXH. Vùng lãnh thổ DCXH được xem xét trên ba khía cạnh : nền tảng tự nhiên - Địa lí tự nhiên / nền tảng dân tộc học - Địa lí các tộc người, trong đó vai trò chủ thể thuộc về cộng đồng các dân tộc cư trú trên địa bàn lãnh thổ nền tảng trình độ phát triển con người - Trình độ phát triển nhân văn lấy con người là chủ thể. -Tính liên thông đồng bộ với các vùng trong nước, và ở chừng mực nhất định, phải tuân thủ với các qui định quốc tế. Trong điều kiện Việt Nam, các vùng DCXH cần được xem xét trên ba khía cạnh: Nền tảng tự thân của vùng; Các quan hệ liên vùng trong khuôn khổ quốc gia Việt Nam / Các mối liên hệ quốc tế - trong khuôn khổ hội nhập kinh tế quốc tế. Từ đó suy ra, các tiêu chí phát triển DCXH phải là đồng nhất làm thước đo chung cho mọi vùng có tính tới các nghiên cứu mơi nhất của các tổ chức quốc tế, trước hết là theo các tiêu chí chung của WB, IMF, UNESCO, UNDP…: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 53 - Phải tôn trọng mặt bằng chung cả nước về các vấn đề DCXH. Mỗi vùng là bộ phận hợp thành chung của hệ thống vùng lãnh thổ dân cư xã hội cả nước. Mỗi vùng cụ thể không tách rời chiến lược phát triển đất nước thời kì CNH - HĐH và hội nhập quốc tế; từ dó suy ra, các tiêu chí cũng như các chỉ tiêu hợp thành phải cùng đơn vị đo, ít nhất phải cùng một nguồn dữ liệu cơ sở, tốt nhất dựa trên các số liệu trong Niên giám thống kê quốc gia của Tổng cục thống kê thuộc Bộ KH&ĐT. - Coi trọng sự phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuối HS, vừa sức với trình độ hiểu biết của HS, đặc biệt là HS ở trình độ học lực trung bình, có tính tới một số học sinh ở các trương thành phố cũng như nhiều HS ở các vùng khó khăn chậm phát triển. Với tinh thần đó, vấn đề được làm nổi bật với HS THCS chủ yếu và trước hết là hệ thống các chỉ tiêu đo bằng số liệu cụ thể, có tính đại diện. Với HS các bậc THPT, CĐ và ĐH thì nội dung các tiêu chí chủ yếu là các đại lượng đo bằng các thang bậc cao và trừu tượng hơn, thể hiện bằng % hoặc các cấp so sánh như kém phát triển, phát triển, rất phát triển v.v… - Việc lựa chọn khách quan các tiêu chí và nội dung tiêu chí thường là phức tạp, đồi hỏi phải có nguồn tư liệu thống kê chính thống. Điều này rất khó thực hiện trong điều kiện thống kê của Việt Nam. Do vậy người GV phải biết lựa chon các chỉ tiêu chí tiêu biểu đồng thời phải đảm bảo rằng các chỉ số, chỉ tiêu với thước đo định lượng là có căn cứ và khả thi. 2.2.2. Các nguyên tắc cập nhật Trong quá trình giảng dạy các bài về vùng, tuỳ từng bài, GV phải tôn trọng các nguyên tắc sau : - Nguyên tắc thứ nhất là vừa phải đảm bảo những nội dung cơ bản của của bài học Địa lí, đồng thời tích hợp nội dung mới nhưng phải phù hợp với Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 54 bài học đồng thời phải đảm bảo tính hệ thống và đặc trưng của môn học, tránh mọi sự gượng ép ảnh hưởng đến việc lĩnh hội kiến thức của bộ môn. - Nguyên tắc thứ hai là truyền thụ các nội dung mới về các tiêu chí cần tiến hành đồng thời một cách tự nhiên, không gò bó, gắn bó hữu cơ với nhau tạo nên một thể thống nhất trọn vẹn. - Nguyên tắc thứ ba là việc đưa nội dung mới trong các tiêu chí phải được chọn lọc, tập trung; điều đó có nghĩa là không phải chương nào, bất kỳ bài nào cũng đưa vào để giảng dạy. Trong quá trình dạy học, GV phải chọn những tiêu chí phù hợp, không trùng lập, không quá tải, gây phản cảm với cái "cũ' tuy vẫn có giá trị lịch sử. Trong nghiều trường hợp, chính việc tích hợp các chỉ tiêu mới lại làm phức tạp thêm tình hình (!?). Ví dụ : Chỉ số thu nhập bình quân đầu người (GDP / người) những năm gần đây giảm mạnh do lạm phát và một số nguyên nhân khách quan khác. Ba nguyên tắc trên đây được coi là cơ bản trong cập nhật các chỉ tiêu mới trong các tiêu chí phát triển DCXH trong chương trình phổ thông. Có thể vận dụng các nguyên tắc và cách tiếp cận bằng hai cách : (1) tích hợp trong khi giảng đối với những bài có nội dung gần với nội dung của tài liệu dạy học, (2) liên hệ thực tế quê hương với nội dung tương ứng trong bài giảng. Những kiến thức mục III tại các bài học về vùng trong CT&SGK Địa lí 9 sẽ giúp học sinh hiểu rõ hơn những khái niệm địa lí, bổ xung và cụ thể hoá những kiến thức tiếp thu trên lớp gây cho học sinh sự hứng thú, lòng ham hiểu biết, muốn đóng góp sức mình vào việc làm cho địa phương giàu có, tiến bộ. Để gắn với kiến thức mục III với các bài học về ĐLĐP vào nội dung bài giảng GV phải xuất phát từ những kiến thức cụ thể của SGK và nội dung khoa học của bài giảng. Theo tinh thần đó, GV không những phải cập nhật mục III theo các vùng mà còn theo mục tương ứng trong ĐLĐP tỉnh / thành phố quê hương. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 55 2.3. CẬP NHẬT NỘI DUNG THEO CÁC CHỈ TIÊU PHÁT TRIỂN DÂN CƢ, Xà HỘI 2.3.1. Mật độ dân số (ngƣời / km 2 ) Mật độ dân số là số người trên đơn vị diện tích, thông thường có thể tính cho một vùng, một thành phố, một quốc gia, một đơn vị lãnh thổ hay toàn bộ thế giới. Dân số của Việt Nam hiện nay là 86,5 triệu người, đứng thứ 13 trên thế giới, thuộc nhóm nước có dân số đông trên thế giới, mật độ trung bình là 227 người /km2, nhưng mật độ dân cư phân bố không đồng đều giữa các vùng và giữa các khu vực. UNDP đã tính toán rằng, để cuộc sống thuận lợi, bình quân trên 1km2, chỉ nên có từ 35 đến 40 người. Mật độ dân số nước ta năm 2008 lên tới gần 260 người/km2. Như vậy, ở Việt Nam, mật độ dân số đã gấp khoảng 6 - 7 lần "mật độ chuẩn". Trên thế giới, chỉ có 4 nước (ấn Độ, Nhật Bản, Băng-la-đét, Phi- líp-pin) có dân số nhiều hơn và mật độ dân số cao hơn nước ta. Có thể khẳng định rằng Việt Nam là quốc gia có quy mô dân số rất lớn. Tuy nhiên, dân số nước ta vẫn tăng mạnh : trong 5 năm gần đây, mỗi năm dân số nước ta vẫn tăng thêm khoảng 1,1 triệu người, nghĩa là bằng dân số một tỉnh loại trung bình (nước ta có 39 tỉnh có dân số từ 1,1 triệu trở xuống). Theo dự báo của Tổng cục Thống kê, năm 2024, dân số nước ta sẽ vượt 100 triệu người, mật độ dân số sẽ lên tới 335 người/km2. Quy mô dân số rất lớn, mật độ dân số rất cao và vẫn đang tăng mạnh như trình bày ở trên, bên cạnh việc tạo ra thị trường tiêu dùng qui mô lớn, nguồn lao động dồi dào, giá rẻ, có sức hấp dẫn đầu tư, cũng góp phần không nhỏ làm trầm trọng thêm những khó khăn trong giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện tình trạng y tế, giáo dục, nhà ở, xóa bỏ tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông. Vì vậy, nâng cao chất lượng dịch vụ dân số và sức khỏe sinh sản (DS- SKSS) một nội dung cần ưu tiên hàng đầu trong chính sách dân số nói riêng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 56 và chính sách kinh tế - xã hội nói chung ở nước ta. Cụ thể là cần có những chính sách, luật pháp điều chỉnh vấn đề sinh sản, đẩy mạnh tuyên truyền, bảo đảm dịch vụ, phương tiện có chất lượng cao nhằm đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu của người dân. Coi kỹ thuật DS-SKSS là một trong những lĩnh vực kỹ thuật hàng đầu của nước ta. Các chính sách phát triển phải hướng mạnh đến tạo việc làm, đa dạng hóa ngành nghề, chuyển đổi cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Thực hiện tốt việc điều chỉnh quy mô dân số trên phạm vi toàn quốc cũng như từng vùng, miền, bao gồm DS- SKSS, di cư và đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Trong hơn 20 năm qua bức tranh về sự phân bố dân cư có sự thay đổi trong phạm vi cả nước dân số ở miền núi đã tăng lên rõ rệt, vùng đồng bằng có sự giảm nhẹ. Sự thay đổi trong bản đồ phân bố dân cư trong thời gian ngắn đã gắn với việc phân bố sản xuất và cân đối phân bố nguồn tài nguyên. ĐBSH và DHMT là hai vùng mà nhà nước chủ trương giãn dân , giảm sức ép dân số, số người chuyển đến ít hơn số người chuyển đi. TN và ĐNB là hai địa bàn chủ yếu chuyển dân tới, đặc biệt để xây dựng các vùng kinh tế mới, các nhóm dân cư mới đến định cư đem theo những yếu tố mới cho cộng đồng làm cho nó trở nên năng động hơn nhưng đồng thời cũng đòi hỏi phải có thời gian mới trở nên ổn định đựơc. Tuy nhiên trong thực tế đại bộ phận những người chuyển cư là nông dân sống dựa vào đất, nhưng bình quân đất nông nghiệp của nước ta không quá chênh lệch giữa các vùng. Do vậy việc di dân nông nghiệp giữa các vùng có xu hướng thu hẹp quy mô. Hướng phân bố lao động tại chỗ cùng với việc ổn định dân số tại chỗ sẽ ngày càng tăng ý nghĩa . Mặt khác thay cho di dân nông nghiệp phải là di dân công nghiệp gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển các khu công nghiệp và dịch vụ, gắn với đô thị hóa trên các vùng của đất nước. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 57 ĐBSH với diện tích 14.685,5 km2 mật độ dân số cao có quan hệ trực tiếp với nền nông nghiệp thâm canh lúa nước và cơ cấu nghành nghề đa dạng, sự hiện diện của các thành phố, trung tâm công nghiệp, các dịch vụ lớn cũng góp phần vào việc làm tăng mật độ dân số của đồng bằng. ĐBSCL với diện tích 39.569,9 km2 là vựa lúa lớn nhất nước ta, phần lớn dân cư sinh sống ở khu vực tam giác châu và dọc theo 2 nhánh sông chính, những tỉnh có mật độ dân số cao như Tiền Giang (686 người/km2), Vĩnh Long (680 người/km2 ). Hiện nay hệ thống đồng bằng duyên hải miền Trung nhỏ hẹp, tiềm năng nông nghiệp không lớn như hai đồng bằng trên, nên mật độ dân số không cao lắm. Trong điều kiện diện tích tự nhiên và đất nông nghiệp ở các vùng đồng bằng có hạn, mật độ dân số cao đã rất khó khăn cho việc tạo đủ công ăn việc làm, đảm bảo nhu cầu cảu đời sống và phúc lợi xã hội. Với dân số lớn và tỉ suất tăng dân số vẫn tiếp tục diễn ra hằng năm ở mức trên 1% cho tới năm 2019, thì tình hình trên ngày càng trầm trọng hơn. Theo kết quả dự báo dân số Việt Nam tới năm 2024 (dự án VIE/97/P14) thì đến năm 2019 vùng ĐBSH sẽ tăng thêm 2,91 triệu người và mật độ dân số sẽ tăng lên 1.408 người/km2, tương tự như vậy vùng ĐBSCL sẽ tăng lên 4,84 triệu người và mật dộ dân số sẽ là 554 người/km2 . Vì vậy, ngay từ những năm 60 thế kỉ trước, nhà nước đã tiến hành việc di dân và phân bố lại dân cư - lao động theo hướng từ đồng bằng lên miền núi và trung du. Sau 1975, phong trào này tăng nhanh về số lượng và cường độ . Nước ta có 3/4 diện tích là đồi núi, mặc dù khu vực này có nhiều nguồn lực để phát triển kinh tế, nhìn chung địa hình chia cắt phức tạp, mật độ dân số càng thấp, tuy nhiên giữa các vùng trung du và miền núi mật độ có khác nhau. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 58 Ở ĐB dân cư đông đúc hơn như Bắc Giang (390 người /km2), Phú Thọ (361 người/km2), Thái Nguyên (293 người /km2), t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf16LV09_SP_LLampPPDHNguyenThiTrangNhung.pdf
Tài liệu liên quan