Tài liệu Luận văn Nghiên cứu các giải pháp phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên: ĐẠI HỌC THÁI NGUYấN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
Nguyễn Thành Nam
Tờn đề tài:
NGHIấN CỨU CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TRANG TRẠI HUYỆN ĐẠI TỪ TỈNH THÁI NGUYấN
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
Chuyờn nghành: Kinh tế nụng nghiệp
Mó số: 60 - 31 - 10
Thỏi Nguyờn, năm 2008
ĐẠI HỌC THÁI NGUYấN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
Nguyễn Thành Nam
Tờn đề tài:
NGHIấN CỨU CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG
TRẠI HUYỆN ĐẠI TỪ TỈNH THÁI NGUYấN
Chuyờn nghành: Kinh tế nụng nghiệp
Mó số: 60 - 31 - 10
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NễNG NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM THỊ Lí
Thỏi Nguyờn, năm 2008
Lời cam đoan
- Tụi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiờn cứu trong luận văn này là
trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
- Tụi xin cam đoan rằng, mọi sự giỳp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đó
được cảm ơn và cỏc thụng tin trớch dẫn trong luận văn đều đó được chỉ rừ nguồn
gốc.
Tỏc giả
N...
114 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1159 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nghiên cứu các giải pháp phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
Nguyễn Thành Nam
Tên đề tài:
NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TRANG TRẠI HUYỆN ĐẠI TỪ TỈNH THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
Chuyên nghành: Kinh tế nông nghiệp
Mã số: 60 - 31 - 10
Thái Nguyên, năm 2008
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
Nguyễn Thành Nam
Tên đề tài:
NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG
TRẠI HUYỆN ĐẠI TỪ TỈNH THÁI NGUYÊN
Chuyên nghành: Kinh tế nông nghiệp
Mã số: 60 - 31 - 10
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NÔNG NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM THỊ LÝ
Thái Nguyên, năm 2008
Lêi cam ®oan
- Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
- Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã
được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn
gốc.
Tác giả
Nguyễn Thành Nam
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận
được sự giúp đỡ tận tình của nhiều tập thể, cá nhân. Nhân dịp này tôi xin bày tỏ
lòng biết ơn đến:
Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn tới tất cả các thầy, cô giáo Trường Đại
học kinh tế và quản trị kinh doanh Thái Nguyên và khoa sau Đại học đã dạy bảo,
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với cô giáo TS Phạm Thị Lý, người
đã tận tình hướng dẫn dìu dắt tôi trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn cán bộ, nhân viên phòng Nông nghiệp và PTNT,
phòng Thống kê, UBND các xã, thị trấn và các hộ trang trại trên địa bàn huyện Đại
Từ đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình nghiên cứu
đề tài.
Tôi vô cùng biết ơn gia đình, đồng nghiệp và các bạn gần xa đã giúp đỡ
động viên tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2008
Tác giả
Nguyễn Thành Nam
danh môc c¸c b¶ng
STT
Biểu 01
Biểu 02
Biểu 03a
Biểu 03b
Biểu 04
Biểu 05
Biểu 06
Biểu 7
Biểu 8
Biểu 9
Biểu 10
Biểu 11
Biểu 12
Biểu số 13
Biểu 14
Tªn b¶ng
Diện tích của huyện theo cấp độ cao tuyệt đối và độ dốc
Tình hình sử dụng đất đai của huyện Đại Từ
Một số chỉ tiêu cơ bản về kinh tế – xã hội huyện Đại Từ
Tình hình sản xuất ngành nông nghiệp
Tổng số các trang trại và phân loại trang trại theo loại hình
sản xuất
Kết quả sản xuất kinh doanh năm 2007 của trang trại
Hiện trạng sử dụng đất trang trại năm 2007
Phân loại trang trại theo quy mô sử dụng đất
Vốn sản xuất của trang trại năm 2007
Tình hình sử dụng lao động của các trang trại
Thành phần xuất phát các chủ trang trại
Chi phí sản xuất của các trang trại
Tổng thu bình quân của một trang trại năm 2007 huyện Đại Từ
Thu nhập từ sản xuất Nông - Lâm - Nghiệp bình quân trang
trại điều tra năm 2007.
Mức thu nhập bình quân lao động trong tuổi và nhân khẩu
của các trang trại năm 2007
Trang
43
44
46
48
50
51
56
58
61
63
65
69
76
78
82
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong số những thành tích đạt được của công cuộc đổi mới nền kinh tế
đất nước, trong thời gian qua, có thể nói nông nghiệp là một ngành đã có
những bước đột phá ngoạn mục. Thu nhập của nông dân không ngừng tăng
lên, bộ mặt nông thôn được cải thiện đáng kể. Sản xuất nông nghiệp đã đảm
bảo an toàn lương thực cho đời sống xã hội.
Thế nhưng, sự phát triển ấy so với yêu cầu phát triển kinh tế chung trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế mạnh mẽ như hiện nay thì vẫn còn quá thấp và nhỏ bé. Cho
đến bây giờ, nông nghiệp Việt Nam vẫn là một nền sản xuất kém hiệu quả và
thiếu tính hợp lý. Cần phải hình thành và phát triển những hình thức sản xuất
phù hợp hơn, mà trong đó, kinh tế trang trại là một mô hình tốt có thể áp dụng
để đáp ứng yêu cầu này.
Đã manh nhà từ rất lâu, nhưng chỉ trong khoảng chục năm trở lại đây,
vai trò của kinh tế trang trại mới thực sự được công nhận và được quan tâm
chú ý, đặc biệt là sau khi Nghị quyết số 03/2000/NQ- CP của Chính phủ ngày
2/2/2000 về kinh tế trang trại ra đời thì kinh tế trang trại mới thực sự được
một sự trợ giúp của Nhà nước về cơ chế, chính sách như là hỗ trợ cho các
doanh nghiệp thông thường của nền kinh tế thị trường. Sự tăng nhanh về số
lượng, gia tăng về giá trị sản lượng đã chứng tỏ đây là một mô hình tổ chức
sản xuất nông nghiệp phù hợp với đặc thù kinh tế nông nghiệp, nông thôn
nước ta, giúp nông dân làm giàu, tăng thu nhập cho bản thân họ và cho xã hội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Không có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế trang trại với quy mô
đất đai lớn như ở vùng đồng bằng Sông Hồng hay vùng đồng bằng phía nam,
nhưng tỉnh Thái Nguyên là tỉnh miền núi phía Bắc là nơi có nhiều điều kiện
ưu đãi về điều kiện tự nhiên, điều kiện khí hậu…đặc biệt là vùng có truyền
thống sản xuất nông nghiệp lâu đời, trình độ thâm canh của người dân tương
đối cao. Huyện Đại Từ là một huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên trong
những năm qua sản xuất nông nghiệp của huyện đã đạt được nhiều tiến bộ
quan trọng Nhưng để ngành nông nghiệp của huyện đáp ứng được yêu cầu
phát triển trong thời kỳ mới thì phải hợp lý hoá, hiệu quả hoá sản xuất nông
nghiệp nhằm khai thác một cách triệt để tiềm năng về đất đai cũng như khả
năng lao động của con người vùng miền núi này và mô hình kinh tế trang trại
là phù hợp hơn cả. Những năm qua kinh tế trang trại của huyện đã có nhiều
thành tích đáng khích lệ, nhưng thật sự vẫn chưa phát triển tương xứng với
tiềm năng của nó. Câu hỏi đặt ra là: Khả năng phát triển kinh tế trang trại của
vùng đến đâu? làm sao để mô hình được áp dụng đem lại hiệu quả kinh tế xã
hội cao nhất? Trả lời cho câu hỏi này chính là mục đích của đề tài: "Nghiên cứu
các giải pháp phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ đến năm 2010"
2. Mục tiêu nghiên cứu:
- Mục tiêu chung:
+ Phấn đấu có 100 trang trại vào năm 2010, phấn đấu 50% số trang trại
sản xuất kinh doanh chuyên ngành, chuyên môn hoá cao.
+ Hình thành rõ nét các loại hình trang trại như sau: Chăn nuôi gia súc,
gia cầm quy mô vừa, tiến tới quy mô lớn. Chuyên sản xuất giống. Chuyên sản
xuất chè chất lượng cao. Sản xuất, kinh doanh cây trồng, vật nuôi đặc sản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
+ Giá trị sản xuất của loại hình kinh tế trang trại đạt từ 2 - 3% tổng giá trị
sản xuất nông nghiệp, tạo nên nguồn sản phẩm hàng hoá chính hướng tới xuất
khẩu.
+ Thu nhập bình quân 100 triệu đồng/năm/trang trại, thu nhập người lao
động đạt 1 triệu đồng/tháng.
+ Tạo điển hình tiên tiến về thâm canh, chuyên môn hoá, ứng dụng khoa
học công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp.
+ Phấn đấu 100% các chủ trang trại nâng cao tay nghề.
- Mục tiêu cụ thể: Nghiên cứu thực trạng phát triển kinh tế trang trại và
các yếu tố ảnh hưởng đến kinh tế trang trại, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp
nhằm phát triển kinh tế trang trại Huyện Đại Từ, vừa nâng cao thu nhập vừa
giải quyết các vấn đề về xã hội và môi trường.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng: Các trang trại Huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên. Nghiên
cứu các vấn đề kinh tế- xã hội có liên quan đến việc phát triển kinh tế trang
trại của huyện Đại Từ, trong đó tập trung phân tích hiệu quả kinh tế, phân tích
những tồn tại và đề xuất các giải pháp phát triển kinh tế trang trại huyện Đại
Từ tỉnh Thái Nguyên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi không gian: Đề tài được tiến hành tập trung nghiên cứu tại 80
trang trại trên địa bàn huyện Đại Từ.
+ Phạm vi thời gian: Tác giả tiến hành thu thập số liệu điều tra từ năm
2006-2007.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
+ Phạm vi nội dung: Xung quanh vấn đề phát triển kinh tế trang trại trên
địa bàn huyện Đại Từ còn nhiều vấn đề cần tiếp cận nghiên cứu. Tuy nhiên do
hạn chế về thời gian và trình độ nên tác giả chỉ tiến hành nghiên cứu, đánh giá
sự phát triển của các trang trại.
4 - Kết cấu của luận văn: Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo,
phụ lục luận văn được chia thành 3 chương cụ thể như sau:
Chƣơng 1: Cơ sở khoa học và phương pháp nghiên cứu:
Chƣơng 2: Tình hình phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ trong
thời gian qua.
Chƣơng 3: Các giải pháp để phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ
từ nay đến năm 2010.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
CHƢƠNG I
CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
A. Cơ sở khoa học:
I. Cơ sở lý luận:
1. Quan niệm về kinh tế trang trại:
Xuất hiện cách đây khoảng hơn 200 năm, cho đến những năm cuối thế
kỷ XX, kinh tế trang trại mà đặc biệt là trang trại gia đình đã trở thành mô
hình sản xuất phổ biến nhất của nền nông nghiệp các nước phát triển, chiếm
tỷ trọng lớn tuyệt đối về đất đai cũng như khối lượng nông sản, đặc biệt ở các
nước Anh, Pháp, Nga nơi bắt đầu cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đầu tiên
của nhân loại.
Trải qua hàng mấy thế kỷ đến nay kinh tế trang trại tiếp tục phát triển ở
những nước tư bản chủ nghĩa lâu đời cũng như các nước đang phát triển, các
nước công nghiệp mới và đi vào những xã hội chủ nghĩa với cơ cấu và quy
mô sản xuất khác nhau.
Tại Việt Nam, kinh tế trang trại phát triển muộn, chỉ từ sau Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được thừa nhận và đặc
biệt là từ sau khi có Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (4/98) về đổi mới quản lý
kinh tế Nhà nước, kinh tế hộ nông dân mới từng bước phục hồi và phát triển,
phần lớn họ trở thành những chủ thể tự sản xuất. Cùng với các hộ gia đình
công nhân viên chức làm nông nghiệp, lại có tích lũy về vốn, kinh nghiệm sản
xuất và kinh nghiệp quản lý, tiếp cận được với thị trường, thì sản xuất nông
nghiệp mới thoát khỏi cái vỏ tự cấp, tự túc và vươn tới nền sản xuất hàng.
Kinh tế trang trại ra đời.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Cho đến nay, quan điểm về kinh tế trang trại vẫn được trình bày theo
nhiều khía cạnh khác nhau.
2- Bản chất của kinh tế trang trại:
Trong lịch sử phát triển của nông nghiệp các nước trên thế giới cũng
như ở nước ta đã từng tồn tại các hình thức sản xuất nông nghiệp mang tính
tập trung được tiến hành trên một quy mô diện tích ruộng đất đủ lớn nhằm sản
xuất ra khối lượng nông sản phẩm lớn hơn so với hình thức sản xuất nông
nghiệp truyền thống, phân tán trên những diện tích ruộng đất nhỏ.
Trong phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản, các hình thức sản
xuất nông nghiệp tập trung đã tồn tại ở nhiều nước. Thời đế quốc La Mã đã có
sản xuất nông nghiệp tập trung với lực lượng sản xuất chủ yếu là tù binh và
nô lệ. Thời phong kiến ở Châu Âu có các hình thức: Lãnh địa phong kiến và
trang viên. ở Trung Quốc thời nhà Hán đã có hoàng trang, điền trang, đồn
điền, gia trang. ở Việt Nam thời kỳ Lý, Trần, Lê, Nguyễn... có điền trang, ấp,
đồn điền .vv...
Các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung trong các phương thức sản
xuất trước chủ nghĩa tư bản nêu trên có những điểm chung chủ yếu sau:
- Về mục đích sản xuất, các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung nói
trên đều sản xuất ra khối lượng nông sản phẩm lớn hơn so với hình thức sản
xuất nông nghiệp truyền thống phân tán trên những diện tích ruộng đất nhỏ,
song đều nhằm mục đích tự cung, tự cấp để đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trực
tiếp. Việc trao đổi sản phẩm chỉ thực hiện với bộ phận sản xuất vượt qúa nhu
cầu tiêu dùng trực tiếp của những người chủ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
- Về sở hữu, có những hình thức sản xuất dựa trên sở hữu nhà nước như:
Các khu sản xuất nông nghiệp tập trung thời đế chế La Mã; hoàng trang và
đồn điền trong các triều đại phong kiến ở trung Quốc; dồn điền thời Lê,
Nguyễn ở Việt Nam....Đồng thời cũng có những hình thức sở hữu riêng của
một người như Lãnh địa phong kiến và trang viên ở Châu Âu, điền trang, gia
trang ở Trung Quốc, Việt Nam...
Trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự tác động và chi phối
của cơ chế thị trường, trình độ phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất và
sự thay đổi lớn lao của quan hệ sản xuất xã hội đã tạo ra những điều kiện và
động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất nông nghiệp tập trung chuyển lên một
trình độ mới cao hơn với những biến đổi cơ bản về kinh tế, tổ chức và kỹ
thuật sản xuất so với các hình thức sản xuất nông nghiệp mang tính tập trung
trước chủ nghĩa tư bản.
Những biến đổi có ý nghĩa quyết định dẫn đến sự thay đổi về chất của
hình thức sản xuất nông nghiệp mang tính tập trung trong phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa bao gồm:
- Sự biến đổi về mục đích sản xuất chuyển từ tự cung, tự cấp là chủ yếu
sang sản xuất hàng hoá. Nông sản phẩm sản xuất ra trước đây chủ yếu là để
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trực tiếp của những người chủ, thì nay trong điều
kiện kinh tế thị trường, được sản xuất ra chủ yếu là để bán nhằm tăng thu
nhập và lợi nhuận.
- Sự biến đổi về mặt sở hữu: Nếu như trong các phương thức sản xuất trước
chủ nghĩa tư bản có những hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung dựa trên sở
hữu nhà nước, có những hình thức dựa trên sở hữu riêng của một người chủ độc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
lập, thì nay trong điều kiện kinh tế thị trường hình thức sản xuất nông nghiệp tập
trung về cơ bản là dựa trên quyền sở hữu tư liệu sản xuất của một chủ độc lập.
- Sự thay đổi về cách thức tổ chức sản xuất và kỹ thuật sản xuất: Do mục
đích sản xuất hàng hoá nên ở đây sản xuất được tổ chức theo phương thức
tiến bộ hơn với kỹ thuật sản xuất cao hơn hẳn so với sản xuất nông nghiệp
mang tính tập trung trong các phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản.
- Trong thời kỳ Pháp thuộc cùng với sự phát triển của các đồn điền tư
bản tư nhân, những ấp trại vơi các quy mô khác nhau dựa trên sở hữu tư nhân
và có mục đích chính là sản xuất nông sản phẩm để bán đã xuất hiện trên
nhiều vùng.
Ngày nay trong điều kiện kinh tế thị trường, ngôn ngữ các nước đều có
những thuật ngữ để chỉ hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung với những
biến đổi cơ bản so với các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung trong các
phương thức sẳn xuất trước chủ nghĩa tư bản như đã nêu khi chuyển sang
tiếng Việt thường được dịch là "Trang trại" hay " Nông trại".
“Trang trại" hay " Nông trại" thì có thể hiểu đó là những khu đất tương
đối lớn. Ở đó sản xuất nông nghiệp được tiến hành có tổ chức dưới sự chỉ huy
của một người chủ mà phần đông là chủ gia đình nông dân bao gồm cả nông
dân trong giai đoạn nông nghiệp đi vào sản xuất hàng hoá và từng bước gắn
liền với kinh tế thị trường.
Như vậy có thể thấy rằng trong điều kiện kinh tế thị trường về bản chất
"Trang trại" hay " Nông trại" là thuật ngữ gắn liền với hình thức sản xuất
nông nghiệp mang tính tập trung trên một diện tích ruộng đất đủ lớn nhằm sản
xuất nông sản phẩm hàng hoá với quy mô gia đình là chủ yếu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Tại Việt Nam, trong những năm đổi mới, kinh tế trang trại đã hình thành
và phát triển nhanh trên nhiều vùng, đặc biệt là các vùng có bình quân ruộng
đất tính theo đầu người cao. Sự hình thành và phát triển kinh tế trang trại ở
nước ta những năm qua là nhờ đường lối đổi mới của Đảng mà mốc quan
trọng có ý nghĩa hết sức to lớn là Nghị quyết 10/NQ-TW ngày 5- 4-1988 của
Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp và sau đó là chính sách
giao ruộng đất ổn định cho hộ nông dân. Việc trả lại địa vị tự chủ về kinh tế
cho hộ nông dân và việc giao ruộng đất cho hộ nông dân sử dụng ổn định và
lâu dài là cơ sở quan trọng cho kinh tế trang trại mà chủ yếu là trang trại gia
đình ra đời và phát triển ở nước ta trong những năm qua.
3. Khái niệm về kinh tế trang trại
Trong những năm gần đây ở nước ta cơ quan nghiên cứu, cơ quan quản
lý Nhà nước và nhiều nhà khoa học, nhà quản lý đã quan tâm nghiên cứu về
kinh tế trang trại. Một trong những vấn đề được đề cập nhiều là khái niệm về
kinh tế trang trại.
Các cơ quan, các nhà khoa học và quản lý khi nghiên cứu kinh tế trang
trại hầu như đều đưa ra khái niệm về kinh tế trang trại và coi đó là điểm xuất
phát để nghiên cứu về kinh tế trang trại. Tìm hiểu các khái niệm về kinh tế
trang trại đã được đưa ra trong những năm qua, tuy nhiên các ý kiến chưa có
sự thống nhất.
Về thực chất, "Trang trại" và "Kinh tế trang trại" là những khái niệm
không đồng nhất. Kinh tế trang trại là tổng thể các yếu tố vật chất của sản
xuất và các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình tồn tại và hoạt động của
trang trại; còn trang trại là nơi kết hợp các yếu tố vật chất của sản xuất và là
chủ thể của các mối quan hệ kinh tế đó.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
Như vậy, nói kinh tế trang trại là nói mặt kinh tế của trang trại. Ngoài
mặt kinh tế, còn có thể nhìn nhận trang trại từ mặt xã hội và mặt môi trường.
Về mặt xã hội, trang trại là một tổ chức cơ sở của xã hội, trong đó có các
quan hệ xã hội đan xen nhau: Quan hệ giữa các thành viên của hộ trang trại,
quan hệ giữa chủ trang trại và những người lao động thuê ngoài, quan hệ giữa
người lao động làm thuê cho chủ trang trại với nhau...
Về mặt xã môi trường, trang trại là một không gian sinh thái, trong đó
diễn ra các quan hệ sinh thái đa dạng. Không gian sinh thái trang trại có quan
hệ chặt chẽ và ảnh hưởng qua lại trực tiếp với hệ sinh thái của vùng.
Như vậy có thể thấy khái niệm trang trại rộng hơn khái niệm kinh tế
trang trại. Tuy nhiên trong các mặt kinh tế, xã hội và môi trường của trang trại
thì mặt kinh tế là mặt cơ bản chứa đựng những nội dung cốt lõi của trang trại.
Vì vậy trong nhiều trường hợp khi nói tới kinh tế trang trại, tức nói tới mặt
kinh tế của trang trại, người ta gọi tắt là trang trại.
Vậy khái niệm trang trại về mặt kinh tế như thế nào? Khái niệm này phải
thể hiện đươc những nét bản chất về kinh tế, tổ chức và kỹ thuật sản xuất của
trang trại trong điều kiện kinh tế thị trường.
Trước hết, trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông,
lâm, ngư nghiệp.
Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất cơ sở vì trang trại là đơn vị trực
tiếp sản xuất ra những sản phẩm vật chất cần thiết cho xã hội, bao gồm nông,
lâm, thuỷ sản, đồng thời quá trình kinh tế trong trang trại là quá trình khép kín
với các khâu của quá trình tái sản xuất luôn kế tiếp nhau, bao gồm sản xuất
phân phối, trao đổi, tiêu dùng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở là vì trong nông, lâm,
ngư nghiệp ngoài trang trại ra còn có những hình thức tổ chức sản xuất cơ sở
khác như: Nông, lâm trường quốc doanh, kinh tế hộ nông dân...
Là một hình thức tổ chức sản xuất, trang trại không phải là một thành
phần kinh tế và theo cách phân định thành phần kinh tế như hiện nay thì các
chủ thể kinh tế thuộc các thành phần kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh
nông nghiệp đều có thể chọn hình thức tổ chức sản xuất theo kiểu trang trại
nếu có đủ điều kiện.
Như vậy trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông,
lâm, ngư nghiệp là phù hợp vì quan niệm nêu trên đảm bảo đầy đủ các nguyên
tắc quy định.
Mặt khác trang trại còn có những đặc điểm riêng mà nó phân biệt với các
hình thức sản xuất cơ sở khác trong nông lâm, ngư nghiệp đó là: Mục đích
sản xuất của trang trại là sản xuất hàng hoá. Đó là điểm cơ bản của trang trại
được tập trung với quy mô nhất định theo yêu cầu của sản xuất hàng hoá; Các
yếu tố vật chất của sản xuất, trước hết là ruộng đất và tiền vốn trong trang trại
được tập trung với quy mô nhất định theo yêu cầu của sản xuất hàng hoá; Tư
liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một chủ độc lập.
Tư liệu sản xuất ở trang trại hoặc thuộc quyền sở hữu của người chủ độc lập,
hoặc quyền sử dụng của người chủ độc lập nếu tư liệu sản xuất đi thuê hoặc
được giao quyền sử dụng; Trang trại hoàn toàn tự chủ trong các sản xuất kinh
doanh, từ việc lựa chọn phương hướng sản xuất, quyết định kỹ thuật và công
nghệ sản xuất, tổ chức sản xuất, đến tiếp cận thị trường và tiêu thụ sản phẩm..;
Chủ trang trại là người có ý chí và năng lực, có kiến thức và kinh nghiệm về
sản xuất nông nghiệp và thường là người trực tiếp quản lý trang trại; Trang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
trại có nhu cầu cao hơn nông hộ về ứng dụng KHKT, tiếp cận thị trường, thuê
mướn lao động và đều có thu nhập vượt trội hơn...
Từ những nhận thức như trên. PGS.PTS Lâm Quang Huyên, Viện quy
hoạch và thiết kế nông nghiệp cho rằng: "Kinh tế trang trại là loại hình cơ sở
sản xuất nông nghiệp, hình thành và phát triển trong nền kinh tế thị trường từ
khi phương thức này thay thế phương thức sản xuất phong kiến. Trang trại
được hình thành các hộ tiểu nông sau khi phá bỏ cái vỏ tự cấp, tự túc khép
kín, vươn lên sản xuất nhiều nông sản hàng hoá tiếp cận với thị trường, từng
bước thích nghi với nền kinh tế thị trường".
1
Khái niệm này đã chỉ đúng bản chất sản xuất hàng hoá của kinh tế trang
trại nhưng lại sai lầm khi cho rằng nguồn gốc của các trang trại chỉ là xây
dựng từ kinh tế của các hộ tiểu nông.
Trong Nghị quyết số 03/2000/NQ - CP ngày 2/2/2000 về kinh tế trang
trại, Chính phủ ta đã thống nhất nhận thức về kinh tế trang trại như sau: "Kinh
tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, nông
thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu
quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng
rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản".
2
Khái niệm này khá đầy đủ, nêu ra được cơ sở, chức năng, hình thức sản
xuất của trang trại nhưng hiện nay trong nền kinh tế thị trường sản phẩm của
trang trại mang tính hàng hoá và đáp ứng nhu cầu thị trường. Chính vì vậy
năm 2004 các giảng viên của Trường Đại học kinh tế Quốc dân đã có quan
điểm: "Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông, lâm,
1 Báo cáo chuyên đề: "Chính sách phát triển kinh tế trang trại và tác động của nó đến việc và thu nhập của lao
động nông thôn" - Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp- năm 2002.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
ngư nghiệp, có mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hoá, tư liệu sản xuất thuộc
quyền sở hữu hay thuộc quyền sử dụng của một chủ thể độc lập, sản xuất được
tiến hành trên quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất được tập trung đủ lớn
với cách tổ chức quản lý tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và
luôn gắn với thị trường".
3
Đây chính là khái niệm đầy đủ về kinh tế trang trại.
4. Vai trò của kinh tế trang trại đối với phát triển kinh tế - xã hội.
Bất kỳ một hình thức sản xuất nào cũng gây ảnh hưởng đến đời sống
kinh tế xã hội nói chung. Là một thực thể kinh tế, các trang trại hình thành và
phát triển đã có những đóng góp không nhỏ cả về mặt tăng trưởng kinh tế và
phát triển xã hội, làm thay đổi bộ mặt nông nghiệp, nông thôn.
4.1. Phát triển kinh tế trang trại là một tất yếu của quá trình phát triển
sản xuất nông nghiệp - nông thôn.
Các ngành sản xuất đều có xu hướng tích luỹ về vốn và các yếu tố sản
xuất khác: Tư liệu, lao động, kinh nghiệm, trình độ quản lý... Trong nông
nghiệp cũng vậy. Những năm cuối thế kỷ 17 ở các nước bắt đầu công nghiệp
hoá đã có chủ trương chính thúc đẩy các quá trình tập trung ruộng đất, xây
dựng các xí nghiệp nông nghiệp tư bản quy mô lớn với hy vọng mô hình này
sẽ tạo ra nhiều nông sản tập trung với giá rẻ hơn sản xuất gia đình phân tán.
Lúc đầu Marx cùng cho rằng đây là điều tất yếu trong quá trình công nghiệp
hoá nền nông nghiệp tư bản chủ nghĩa nhưng trong tác phẩm cuối của mình
2 Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 22/2/2000 của chính phủ về việc kinh tế trang trại.
3 Thực trạng và các giải pháp phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ đổi mới công nghiệp hoá-hiện đại hoá
ở Việt Nam- Nhà xuất bản quốc gia - năm 2000.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
ông đã viết: "Ngay ở nước Anh nền công nghiệp phát triển, hình thức sản xuất
có lợi nhất không phải là các Xí nghiệp nông nghiệp quy mô lớn mà là các
trang trại gia đình không dùng lao động làm thuê".
4
Sở dĩ như vậy là vì sản
xuất nông nghiệp có đặc trưng khác với công nghiệp ở chỗ là phải tác động
vào những vật sống (cây trồng, vật nuôi) nên không phù hợp với hình thức tổ
chức sản xuất tập trung quy mô quá lớn.
Công cuộc đổi mới kinh tế và đổi mới nông nghiệp của Việt Nam mới
bắt đầu cách đây gần hai chục năm. Cơ chế thị trường không chỉ tác động
mạnh mẽ đến hoạt động của các ngành nông nghiệp, dịch vụ mà còn làm thay
đổi căn bản mục đích và do đó thay đổi cả phương thức sản xuất trong nông
nghiệp. Sự phát triển của trao đổi hàng hoá đặt ra yêu cầu làm ra sản phẩm
phải là hàng hoá với giá cả hợp lý và chất lượng đảm bảo hơn. Không chỉ là
các nông trại lớn, ngay cả các đơn vị sản xuất nhỏ như hộ gia đình cũng hiểu rõ
mục đích sản xuất của mình: Sản phẩm để bán chứ không phải để tiêu dùng.
Khi nông nghiệp đã có một bước chuyển mình đáng kể, nhiều hộ nông
dân đã giàu lên, nhận thức và hiểu biết về khoa học kỹ thuật ngày càng sâu
sắc, kinh nghiệm và khả năng quản lý, tổ chức sản xuất ngày càng được nâng
cao, vốn tích luỹ đạt đến một mức độ nhất định, thì cũng là lúc người kinh
doanh nông nghiệp phải nghĩ đến một hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp
mới, có quy mô lớn hơn, tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Thế là họ bỏ vốn, lập nên
các trang trại, thuê nhân công và hoạt động như một nhà kinh doanh thật sự.
Nhận thức được vai trò quan trọng của kinh tế trang trại trong phát triển
kinh tế nói chung, phát triển nông ngiệp - nông thôn nói riêng, Chính phủ đã
có khá nhiều văn bản quan trọng về các vấn đề: Đất đai cho trang trại, vốn sản
4 Kmarx. Toàn tập, tập 25, phần 2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
xuất cho trang trại, hỗ trợ khâu cung ứng đầu vào, đầu ra... Có thể nói, chưa
bao giờ kinh tế trang trại được quan tâm đúng mức như những năm gần đây.
Tuy vậy, kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển từ một nền kinh tế
tự cung tự cấp sang một nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị
trường, sự quá độ của nền kinh tế lại quy định tính đa dạng của nó, về trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, về sở hữu tư liệu sản xuất... Tính không
đồng đều về trình độ sản xuất, một mặt dẫn tới những hình thức tổ chức sản
xuất khác nhau, mặt khác, dẫn tới sự không thống nhất của mỗi hình thức tổ
chức sản xuất. Do vậy trang trại nước ta cũng không thể thuần nhất khi mà
kinh tế còn trong thời gian quá độ. Đó cũng là một quy luật phát triển như quy
luật phát triển của các mô hình sản xuất khác mà thôi.
Như vậy, kinh tế trang trại là một thực thể khách quan, xuất hiện như là
kết quả của quá trình tích luỹ về vốn, kinh nghiệm, năng lực của người chủ
sản xuất, do tác động của cơ chế thị trường, mà trong đó, trang trại gia đình (với
một số ưu thế riêng sẽ được xem xét ở phần sau) là mô hình được lựa chọn số 1.
4.2. Tác động của kinh tế trang trại đến sự phát triển của ngành sản
xuất nông nghiệp.
4.2.1. Phát triển kinh tế trang trại thúc đẩy chuyên môn hoá sản xuất và
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp - nông thôn và phát triển kinh tế hàng hoá.
Như đã nói, đặc trưng của kinh tế trang trại là mức độ tập trung cao về
đất đai và tích luỹ lâu dài về vốn, đã dần tạo nên một quy mô vượt trội so với
sản xuất của hộ gia đình. Với riêng mỗi trang trại, trong giai đoạn đầu do còn
thiếu vốn và khả năng sản xuất cũng như kinh nghiệm quản lý, họ thường kết
hợp sản xuất nhiều loại nông sản khác nhau nhưng sau đó do sự tích luỹ về
các yếu tố vốn, đất đai, kinh nghiệm sản xuất thì các trang trại sẽ hướng theo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
một vài loại sản phẩm do đó quy mô của loại sản phẩm này cũng lớn lên. Do
ảnh hưởng của các lợi thế về quy mô, ta sẽ thấy các trang trại ở trong cùng
một vùng có điều kiện tự nhiên giống nhau sẽ trồng hay nuôi cùng một loại
cây, con như nhau, xây dựng các mô hình thâm canh, chuyên canh, tiếp cận
các biện pháp canh tác hiện đại, từ đấy các vùng chuyên canh, vùng chuyên
môn hoá hình thành, trở thành vùng cung cấp nguyên liệu rộng lớn cho các cơ
sở chế biến.
Đến khi sản xuất quy mô lớn lại đòi hỏi áp dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào sản xuất để làm ra sản phẩm với chi phí thấp, chất lượng cao và
đồng đều. Vì mục đích kinh tế trang trại là thị trường: Sản xuất cái gì, khối
lượng bao nhiêu, chất lượng ở mức độ nào... đều phải bắt kịp các tín hiệu của
thị trường. Vì thế các trang trại cũng thay đổi, hàm lượng khoa học kỹ thuật
trong sản phẩm nông nghiệp thậm chí tăng lên. Nhìn chung, kinh tế trang trại
sẽ tăng tỷ lệ chăn nuôi, giảm tỷ lệ trồng trọt, một số tiểu ngành như sản xuất
thực phẩm cao cấp, hoa kiểng... ngày càng phát triển, đem lại nguồn thu lớn.
4.2.2. Phát triển kinh tế trang trại sẽ làm tăng giá trị sản xuất nông nghiệp.
Lợi thế về quy mô của các trang trại (quy mô đất đai, quy mô lao động...)
giúp các trang trại tạo ra một khối lượng sản phẩm lớn. Trang trại có điều
kiện thuận lợi trong cả việc giảm giá thành các yếu tố đầu vào và cả trong
quản lý, tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là dễ dàng hơn khi áp dụng các tiến bộ
khoa học kỹ thuật, sử dụng máy móc, trang thiết bị hiện đại trong hoạt động
sản xuất. Với các hộ gia đình, chi phí cho các thiết bị này chiếm tỷ lệ quá lớn
so với thu nhập và giá trị sản phẩm làm ra, nên thông thường họ phải đi thuê,
tỷ suất lợi nhuận vì thế cũng thấp, khiến cho giá trị của cả ngành nông nghiệp
giảm theo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Cũng nhờ quy mô lớn, chuyên môn hoá cao, cùng với tính chất sản xuất
hàng hoá mà sản phẩm của trang trại là những sản phẩm có giá trị cao. Thông
thường thì người làm trang trại hiểu rõ mục đích sản xuất của mình là cung
cấp cho thị trường nên họ chỉ chọn kinh doanh những loại cây, con sao cho có
hiệu quả kinh tế cao, đáp ứng yêu cầu mà thị trường đòi hỏi. Hơn thế nữa, sản
phẩm làm ra thường có giá thành cạnh tranh, chất lượng đồng đều, có khả
năng cung cấp với khối lượng lớn nên thường dễ được các cơ cở chế biến và
người tiêu dùng chấp nhận. Giá trị sản phẩm cao không chỉ đem lại thu nhập
cho chủ trang trại mà trong phạm vi toàn ngành, nó sẽ là phần đóng góp đáng
kể để gia tăng giá trị ngành sản xuất nông nghiệp.
4.2.3. Phát triển kinh tế trang trại đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn.
Sản xuất nông nghiệp là đầu vào quan trọng của các ngành công nghiệp,
đặc biệt là công nghiệp chế biến. Rõ ràng là khối lượng, chất lượng, giá cả
nông sản cung cấp cho một nhà máy chế biến thực phẩm nào đó sẽ quyết định
tính cạnh tranh của sản phẩm nhà máy này. Không những thế, sản phẩm của
trang trại sẽ góp phần thúc đẩy các ngành công nghiệp cơ khí, công nghiệp
năng lượng trong các mối liên hệ ngược với các ngành này. Để làm ra sản
phẩm, các trang trại cần sử dụng máy móc, cần tiêu dùng năng lượng, cần
được cung cấp giống, phân bón, thuốc trừ sâu... Đó là không kể những trang
trại kinh doanh tổng hợp còn tự sơ chế, chế biến ngay tại chỗ. Yêu cầu này
cần được sự giúp đỡ của ngành công nghệ sinh học, công nghệ thực phẩm...
Mối quan hệ qua lại này chỉ ra rằng: Sự phát triển của ngành này là động lực
phát triển của ngành kia.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
Mặt khác, khi kinh tế trang trại phát triển nó sẽ đem lại thu nhập cho một
bộ phận nông dân, tiêu dùng của khu vực nông nghiệp - nông thôn tăng lên
kéo theo sự khởi sắc của ngành dịch vụ theo đúng quy luật của nền kinh tế thị trường.
Như vậy, kinh tế trang trại không chỉ là lực lượng xung kích đi đầu trong
lĩnh vực sản xuất nông sản hàng hoá, mà còn là lực lượng đi đầu trong ứng
dụng khoa học công nghệ nông nghiệp, do đó là nhân tố cơ bản cho quá trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn nước ta. Điểm yếu
của công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn là tính chất lạc hậu, manh mún,
phân tán của sản xuất nông nghiệp nước ta nói chung, của tỉnh Thái Nguyên
và của huyện Đại Từ nói riêng (cho dù huyện Đại Từ vẫn là huyện có trình độ
thâm canh cao so với các huyện trong tỉnh Thái Nguyên) nên đã hạn chế khả
năng thay đổi cách thức sản xuất từ thủ công sang lao động bằng máy móc
hiện đại. Quy mô đất đai và vốn lớn của các trang trại sẽ khắc phục nhược
điểm này.
Nói chung, trong điều kiện kinh tế thị trường, với yêu cầu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, nhất là khi Việt Nam đã là thành viên chính thức
của tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì mô hình kinh tế trang trại là một
hướng đi đầy triển vọng cho nông nghiệp Việt Nam. Chắc chắn trong tương
lai, sự phát triển của nông nghiệp huyện Đại Từ phải bao gồm cả sự phát triển
của mô hình kinh tế trang trại.
4.3. Phát triển kinh tế trang trại giải quyết đƣợc những vấn đề về
mặt xã hội và môi trƣờng.
4.3.1. Phát triển kinh tế trang trại sẽ giải quyết được việc làm cho lực
lượng lao động nông thôn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
Theo số liệu thống kê năm 2006 trên địa bàn huyện Đại Từ vẫn còn đến
hơn 70% lao động là ở nông thôn.
(5)
Tính chất mùa vụ của hoạt động sản xuất
nông nghiệp cùng với việc mở rộng dần phạm vị ứng dụng của máy móc hiện
đại càng làm tăng tỷ lệ thất nghiệp trá hình. Theo ước tính, lao động ở khu
vực nông thôn mới chỉ sử dụng hết khoảng 3/4 thời gian lao động nông
nghiệp, như vậy là đã lãng phí một lượng lớn lao động nông thôn. Trong số
đó nhiều người thậm chí còn hoàn toàn không có cả việc làm. Một phần lao
động dư thừa ấy sẽ được giải quyết khi các trang trại hình thành vì trang trại
không chỉ giải quyết việc làm cho bản thân chủ trang trại cũng như người nhà
của họ mà còn thu hút được một lực lượng đáng kể lao động làm thuê, trong
năm 2007 các trang trại của huyện Đại Từ đã thu hút, sử dụng 394 lao động
trong nông thôn.
* Phát triển kinh tế trang trại góp phần tăng cường quan hệ giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Tác động của kinh tế trang trại tới sự phát triển của lực lượng sản xuất
xét ở 3 khía cạnh:
Một là: Nhờ cách làm ăn hiệu quả hơn, kinh tế trang trại đem lại nguồn
thu nhập cao hơn cho người lao động tham gia sản xuất và trong thực tế, rất
nhiều nông dân đã giàu lên thực sự bằng con đường này. Không những thế,
những lao động làm thuê cũng được hưởng một mức thu nhập cao hơn trước
đây, nhờ đó đời sống được cải thiện cả về mặt vật chất và tinh thần.
Hai là: Dựa vào ưu thế của kinh tế trang trại trong việc ứng dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật mà trình độ kỹ thuật, trình độ thâm canh, chuyên môn hoá
công nghiệp của huyện nói chung được nâng lên rõ rệt. Trong thời đại này,
máy móc là bộ phận vô cùng quan trọng của lực lượng sản xuất nông nghiệp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
và sự phát triển của máy móc (xét cả về số lượng và chất lượng) chính là sự
phát triển của lực lượng phát triển sản xuất.
Ba là: Kinh tế trang trại phát triển kéo theo sự phát triển của các mối
quan hệ giữa nông dân - nông dân trong việc hợp tác, hỗ trợ sản xuất, thuê
nhân công, đồng thời đẩy mạnh hơn nữa mối quan hệ giữa các khâu sản xuất -
chế biến - tiêu thụ của quy trình sản xuất hàng hoá. Tiếp theo đó là mối quan
hệ giữa các chủ trang trại và nhà cung cấp, cũng được nâng lên thông qua các
loại hình dịch vụ và chuyển giao kỹ thuật.
4.3.2. Phát triển kinh tế trang trại thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng
nông thôn.
Rõ ràng là để đáp ứng yêu cầu sản xuất hàng hoá của mình, các trang trại
cần phải được đảm bảo bằng một hệ thống cơ sở hạ tầng đầy đủ và hiện đại.
Nhằm nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh, các trang trại có thể kết hợp
với các địa phương, cùng các doanh nghiệp khác để giải quyết những vấn đề
chung này (giao thông, điện, nước, thuỷ lợi, hệ thống tiêu thụ sản phẩm...),
các công trình giao thông, kho tàng, bến bãi, các phương tiện vận tải được mở
rộng và xây dựng mới để phục vụ cho sản xuất hàng hoá của các trang trại.
Và vì không phải trang trại nào cũng có khả năng tự xây dựng hệ thống này
nên cần có những sự giúp đỡ của Nhà nước.
Đi đôi với việc phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất
là hệ thống cơ sở phục vụ đời sống nhân dân, hệ thống trường học, trạm xá,
chợ, các công trình văn hoá, thể thao... Một số thị tứ đã hình thành cùng với
sự phát triển kinh tế trang trại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
Huyện Đại Từ đóng góp của kinh tế trang trại sẽ là góp phần xây dựng
mới, tu sửa và mở rộng mạng lưới thuỷ lợi, hệ thống đường xá nối các khu
vực nông thôn khác nhau, nhất là các xã xa trung tâm thị tứ.
4.3.3. Phát triển kinh tế trang trại khai thác hiệu quả các nguồn lực.
Thực tế cho thấy trong các mô hình kinh tế các yếu tố nguồn lực thường
được sử dụng hiệu quả hơn so với kinh tế hộ. Không còn mang tính chất tự
sản tự tiêu, cơ chế thị trường buộc các "Doanh nghiệp trang trại" phải hạch
toán kinh doanh do đó vì lợi nhuận, các yếu tố đầu vào như đất đai, chi phí
mua giống, phân bón, trang thiết bị máy móc, thuê mướn nhân công... đều
được tính toán sao cho đem lại tỷ suất lợi nhuận cao nhất. Rộng hơn, kinh tế
trang trại còn góp phần tích cực vào việc huy động tiền vốn đọng trong một
bộ phận lớn nông dân lâu nay vào sản xuất nông nghiệp.
4.3.4. Phát triển kinh tế trang trại góp phần cải thiện môi trường.
Đối với huyện Đại Từ, có 19 trang trại trồng rừng, các trang trại này đã
góp phần vào công cuộc xây dựng một nền nông nghiệp đa dạng, một nền
sinh thái bền vững.
Tóm lại, mô hình kinh tế trang trại không chỉ là mô hình thích hợp với
sản xuất nông nghiệp huyện Đại Từ mà nó còn phù hợp với cơ chế thị trường
và đem lại những lợi ích to lớn cả về kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, nhận thức
về vai trò của nó chưa đủ để chúng ta xây dựng được hệ thống các giải pháp
hiệu quả, bởi vì ta còn phải xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh
tế trang trại nữa.
5. Những đặc trưng cơ bản của kinh tế trang trại và tiêu chí xác định
trang trại:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
5.1. Những đặc trưng cơ bản của kinh tế trang trại:
Việc nghiên cứu những đặc trưng của kinh tế trang trại có ý nghĩa quan
trọng trong nghiên cứu cũng như trong thực tiễn quản lý. Để xác định những
đặc trưng của kinh tế trang trại, cần xuất phát từ những điểm khác biệt mang
tính bản chất của kinh tế trang trại so với các hình thức sản xuất nông nghiệp
tập trung khác và so với kinh tế nông hộ. Điều này đòi hỏi phải xuất phát từ
khái niệm về kinh tế trang trại đã được trình bày ở trên. Với quan điểm như
vậy, kinh tế trang trại mang những đặc trưng cơ bản sau đây:
5.1.1.Phát triển kinh tế trang trại gắn với sản xuất nông, lâm, thuỷ sản
theo hướng hàng hoá và theo nhu cầu thị trường.
Kinh tế trang trại là hình thức kinh tế từng bước đưa nông dân từ hộ
nông nghiệp tự cấp tự túc lên các hộ nông nghiệp hàng hoá. Vai trò khách
quan mang tính lịch sử này của kinh tế trang trại gắn liền với tính hai mặt của
hộ nông dân, với trình độ phát triển của sản xuất nông nghiệp và sự giao lưu
hàng hoá giữa thành thị và nông thôn.
Nông hộ vừa là gia đình- đơn vị trực tiếp tiêu dùng của xã hội, vừa là cơ
sở sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp sản xuất ra những sản phẩm tối cần thiết
cho cuộc sống có thể tiêu dùng trực tiếp. Do vậy sản xuất trực tiếp tự túc là
cái vốn có của kinh tế hộ nông dân. Các hộ nông dân muốn làm giầu phải
thoát khỏi tình trạng sản xuất tự túc và từng bước chuyển sang sản xuất hàng
hoá theo phương thức trang trại.
Như vậy các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung trong nền kinh tế
thị trường mặc dù sản xuất ra khối lượng nông sản phẩm lớn hơn so với hình
thức sản xuất phân tán, song mục đích chủ yếu vẫn là nhằm đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng trực tiếp của những chủ nhân của chúng, còn kinh tế trang trại thì
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
ngay từ khi ra đời đã mang tính hàng hoá và càng ngày tính chất và trình độ
sản xuất hàng hoá của nó càng được nâng lên.
Các trang trại đều đi lên từ kinh tế hộ nông dân khi kinh tế hộ phá vỡ vỏ
bọc tự cấp, tự cung vốn có. Như quá trình hình thành và phát triển kinh tế
trang trại gia đình là quá trình nâng cao hay mở rộng tính chất và trình độ sản
xuất hàng hoá của trang trại đồng thời cũng là quá trình thu hẹp tính chất sản
xuất trực tiếp tự cấp, tự túc vốn có của kinh tế hộ nông dân.
Đặc trưng về mục đích sản xuất hàng hoá là đặc trưng quan trọng nhất
của kinh tế trang trại, bởi vì mục đích sản xuất hàng hoá chi phối và ảnh
hưởng lớn, thậm chí quyết định tới các đặc trưng khác cuả kinh tế trang trại.
Quy mô của trang trại lớn gấp nhiều lần quy mô của hộ gia đình hay kiểu
tiểu nông. Nó được đánh giá bằng diện tích đất đai sử dụng, hay bằng giá trị
sản lượng làm ra trong một năm hoặc đo bằng tỷ suất hàng hoá của trang trại.
5.1.2. Tư liệu sản xuất trong trang trại thuộc quyền sở hữu hoặc quyền
sử dụng của một người chủ độc lập.
Trong các trang trại mà tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu của chủ
trang trại trong trường hợp đi thuê hoặc được giao quyền sử dụng thì tư liệu
sản xuất đều thuộc quyền sử dụng của một người chủ độc lập.
Người chủ độc lập ở đây không phải là người chủ biệt lập, tách rời khỏi
các quan hệ liên kết và hợp tác với các chủ thể kinh tế khác. Người chủ độc
lập ở đây là người hoàn toàn có quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh
doanh. Tuy nhiên như đã trình bày ở trên, tư liệu sản xuất trong trang trại
thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một người chủ độc lập cũng có
nghĩa là những hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông, lâm nghiệp dựa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
trên sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể (nông, lâm trường quốc doanh, hợp
tác xã nông nghiệp...) thì không thuộc khái niệm trang trại.
5.1.3. Quá trình tích tụ ruộng đất và vốn đầu tư được tập trung tới quy
mô nhất định theo yêu cầu phát triển sản xuất hàng hoá.
Trong nông nghiệp cũng như trong ngành sản xuất vật chất khác, sản
xuất hàng hoá chỉ có thể được tiến hành khi các yếu tố sản xuất được tập
trung tới quy mô nào đó. Do đó ở các trang trại, sản xuất hàng hoá chỉ có thể
được thực hiện khi ruộng đất, tiền vốn, tư liệu sản xuất... được tập trung tới
quy mô cần thiết (đủ lớn). Đặc trưng này được quy định bởi chính đặc trưng
về mục đích sản xuất của trang trại. ở các trang trại tư nhân, quy mô tập trung
các yếu tố sản xuất lớn hơn hẳn so với các trang trại gia đình, còn các trang
trại gia đình mặc dù có quy mô lớn hơn nhiều so với kinh tế họ tự cấp, tự túc,
song nói chung vẫn nằm trong khuôn khổ gia đình, chịu sự giới hạn nhất định
của các yếu tố sản xuất nội lực. Do vậy, sự tập trung các yếu tố sản xuất
(ruộng đất, tiền vốn, tư liệu sản xuất, lao động...) ở đây dù theo yêu cầu sản
xuất hàng hoá song cũng có những giới hạn nhất định.
Đặc trưng về sự tập trung các yếu tố sản xuất của kinh tế trang trại có thể
biểu thị về mặt lượng bằng những chỉ tiêu chủ yếu sau:
- Quy mô diện tích ruộng đất của trang trại (nếu là trang trại chăn nuôi
thì là số lượng gia súc, gia cầm...)
- Quy mô vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh của trang trại.
5.1.4. Tổ chức và quản lý sản xuất theo phương thức tiến bộ dựa trên sự
chuyên môn hoá sản xuất, thâm canh, ứng dụng TBKHKT, thực hiện hoạch
toán, điều hành sản xuất hợp lý và thường xuyên tiếp cận thị trường.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
- Về trình độ chuyên môn hoá sản xuất trong các trang trại: Chuyên môn
hoá sản xuất của trang trại là quá trình gắn liền với việc chuyển phương
hướng sản xuất của trang trại từ sản xuất đa dạng, đa canh kết hợp trồng trọt
với chăn nuôi sang sản xuất chuyên canh, tập trung vào một vài nông sản
hàng hoá có lợi thế so sánh và khả năng sinh lời cao.
Để phản ánh trình độ chuyên môn hoá, có thể sử dụng chỉ tiêu: Cơ cấu
giá trị sản lượng của trang trại; Cơ cấu giá trị sản lượng hàng hoá của trang
trại.
- Trình độ thâm canh trong các trang trại cũng được nâng dần từ thâm
canh truyền thống sang thâm canh kết hợp truyền thống với hiện đại rồi thâm
canh hiện đại. Những chỉ tiêu chủ yếu có thể sử dụng để biểu hiện trình độ
thâm canh là: Vốn đầu tư trên một đơn vị diện tích; Vốn đầu tư cho những
công nghệ sản xuất tiến bộ trên một đơn vị diện tích; Năng suất cây trồng vật
nuôi.
- Về cách thức điều hành sản xuất: Lúc đầu sản xuất hàng hoá còn ít và
giản đơn với mục đích là tối đa hoá lợi ích và tăng thêm thu nhập cho gia đình
thì chủ trang trại vẫn điều hành sản xuất theo kiểu gia trưởng, song đã bắt đầu
đi vào bố trí, tổ chức sản xuất, ghi chép thu chi và hoạch toán đơn giản. Khi
sản xuất hàng hoá là hướng chính, các phạm trù lợi nhuận, giá cả và cạnh
tranh ngày càng lôi cuốn trang trại đi vào kinh doanh nhằm đạt lợi nhuận
nhiều hơn thì cách quản lý theo kiểu gia trưởng không còn thích hợp nữa. Sản
xuất đòi hỏi phải có phương án hợp lý lựa chọn cây trồng, vật nuôi, quy hoạch
ruộng đất, xây dựng kết cấu hạ tầng, áp dụng công nghệ và quy trình thâm
canh... Do vậy quản lý và điều hành sản xuất ở đây được tiến hành trên cơ sở
những kiến thức cần thiết về nông học, sinh học và phương pháp điều hành
sản xuất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
Về hoạt động tài chính và hoạch toán của trang trại: Hoạt động tài chính
và hoạch toán của trang trại dần dần thay đổi. Lúc đầu khi mới đi vào sản xuất
hàng hoá, chủ trang trại thường ghi nhớ trong đầu hoặc có ghi chép, hoạch
toán đơn giản lượng thu, lượng chi và phần thu nhập dôi ra đối với vài cây
trồng, vật nuôi chủ yếu. Khi sản xuất hàng hoá đã trở thành hướng chính, các
trang trại thường thực hiện hoạch toán giá thành và lợi nhuận đối với từng
cây, con hàng hoá. Đến khi trang trại kinh doanh gần như một doanh nghiệp
thì hoạt động tài chính đi vào chiều sâu, bao gồm các nội dung: Kế hoạch tài
chính, hoạch toán giá thành, lợi nhuận, phân tích kinh doanh...Hoạt động tài
chính và hoạch toán của trang trại ngày càng có vai trò quan trọng, đồng thời
cũng ngày càng phức tạp đòi hỏi phải có kiến thức và nghiệp vụ kế toán,
hoạch toán nhất định.
- Về tiếp cận thị trường: Thái độ và hành động đối với thị trường của
trang trại cũng từng bước được thay đổi theo hướng ngày càng tiếp cận và gắn
kết với thị trường.
Lúc đầu trang trại chưa quan tâm nhiều đến thị trường mặc dù đã sản
xuất theo hướng hàng hoá song tỷ trọng sản phẩm tự cung, tự cấp còn khá
cao. Nhưng khi trình độ sản xuất hàng hoá đã nâng lên thì các trang trại
thường xuyên quan tâm đến thị trường và tìm kiếm thị trường. Đến khi giai
đoạn coi kinh doanh là lẽ sống của mình thì thị trường là khâu kết thúc, quyết
định chu kỳ kinh doanh thì trang trại thường xây dựng và thực hiện linh hoạt
chiến lược kinh doanh nhằm đứng vững và phát triển trong cạnh tranh.
Mức độ liên hệ và gắn kết với thị trường có thể xem xét thông qua chỉ
tiêu tỷ trọng chi phí trung gian trong tổng chi phí sản xuất của trang trại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
5.1.5. Chủ trang trại là người có ý chí, có năng lực tổ chức quản lý, có
kiến thức và kinh nghiệm sản xuất, đồng thời có hiểu biết nhất định về kinh
doanh.
Người chủ trang trại là người có những tố chất cần thiết để tổ chức và
quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại. Những tố chất cần thiết
và chủ yếu của chủ trang trại là: Có ý chí và quyết tâm làm giàu từ nghề nông;
Có năng lực tổ chức quản lý; Có kiến thức và kinh nghiệm sản xuất nông
nghiệp, đồng thời có hiểu biết nhất định về hoạch toán, phân tích kinh doanh,
tiếp cận thị trường...
Những tố chất của người chủ trang trại nêu trên, về cơ bản không có ở
người chủ nông hộ sản xuất tự cấp, tự túc. Tuy nhiên, những tố chất ngày nói
chung không phải hoàn toàn được hội đủ ngay khi trang trại mới hình thành
mà phần lớn các chủ trang trại, sự hội tụ các tố chất cần thiết cũng trải qua
một quá trình nhất định. Mức độ hoàn thiện của các tố chất cũng gắn liền với
các giai đoạn phát triển của trang trại.
5.1.6. Phát triển kinh tế trang trại giải quyết việc làm cho người lao
động:
Thông thường các trang trại trong nông, lâm, ngư nghiệp đều có quy mô
sản xuất lớn hơn hẳn so với quy mô sản xuất của hộ nông dân. Ngay trong các
trang trại gia đình quy mô sản xuất cũng thường lớn hơn khoảng 3 lần so với
quy mô sản xuất bình quân của một hộ nông dân trong vùng. Điều này dẫn
đến nhu cầu về lao động trong các trang trại đều vượt quá khả năng nguồn lao
động gia đình và do đó các trang trại đều có thuê mướn lao động.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
Quy mô thuê mướn lao động của trang trại trong các loại hình khác nhau
và phụ thuộc chủ yếu vào các loại hình trang trại và quy mô sản xuất của các
trang trại.
Có hai hình thức thuê mướn lao động trong các trang trại đó là: Thuê lao
động thường xuyên và thuê lao động theo thời vụ. Trong hình thức thuê lao
động thường xuyên, trang trại thuê người lao động làm việc ổn định quanh
năm, còn trong hình thức thuê lao động theo thời vụ, trang trại chỉ thuê người
lao động làm việc theo thời vụ sản xuất.
Thông thường các trang trại tư nhân có quy mô sản xuất lớn thì thuê cả
lao động thường xuyên và lao động thời vụ, trong đó lao động thường xuyên
là chủ yếu. Các trang trại tiểu nông thuê cả hai loại lao động, nhưng lao động
thời vụ là chủ yếu, còn trang trại gia đình do quy mô sản xuất nhỏ hơn các
loại hình trang trại trên nên thường là lao động thời vụ.
5.2. Tiêu chí xác định trang trại:
Không phải Nhà nước bỏ qua hình thức tổ chức sản xuất này, nhưng vì
đến trước những năm 2000, do chưa có một sự thống nhất về khái niệm cũng
như tiêu chí xác định trang trại nên mang đầy đủ đặc điểm của một đơn vị sản
xuất kinh doanh nhưng chủ trang trại vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong việc
xin hưởng các chế độ hỗ trợ của Nhà nước. Thông thường các nhà thống kê
vẫn sử dụng những chỉ tiêu định tính hoặc chỉ tiêu định lượng mà tính định
lượng không cao và các chỉ tiêu này không được thống nhất trong cả nước.
* Tiêu chí định tính
Có thể dùng tiêu chí này để nhận dạng thế nào là một trang trại, đó là các
đặc trưng chủ yếu của kinh tế trang trại:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
- Mục đích sản xuất của trang trại là sản xuất nông lâm, thuỷ sản hàng
hoá với quy mô lớn.
- Mức độ tập trung hoá và chuyên môn hoá các điều kiện và yếu tố sản
xuất cao hơn hẳn (vượt trội) so với sản xuất của nông hộ, thể hiện ở quy mô
sản xuất như: Đất đai, đầu con gia súc, lao động, giá trị nông lâm thuỷ sản
hàng hoá.
- Chủ trang trại có kiến thức và kinh nghiệm trực tiếp điều hành sản xuất,
biết áp dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật, tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới
vào sản xuất, sử dụng lao động gia đình và thuê lao động bên ngoài sản xuất
hiệu quả cao, có thu nhập vượt trội so với kinh tế hộ.
* Tiêu chí định lượng:
Dùng để phân biệt rõ ràng trang trại, không phải trang trại và để phân
loại các trang trại khác nhau. Ngày 23/6/2000 Liên Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Tổng cục thống kê đã ra Thông tư số 69/2000/TTLT/BNN-
TCT; Sau đó ngày 4/7/2003 Bộ Nông nghiệp và PTNT ra Thông tư số
74/TT-BNN về việc sửa đổi bổ sung mục III của thông tư liên tịch số
69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23/6/2000 hướng dẫn xác định tiêu chí kinh
tế trang trại
5
; Cụ thể như sau:
* Các đối tượng và ngành sản xuất được xem xét để xác định là kinh tế
trang trại
Hộ nông dân, hộ công nhân viên Nhà nước và lực lượng vũ trang đã nghỉ
hưu, các loại đô thị và cá nhân chuyên sản xuất (bao gồm nông nghiệp, lâm
5 Thông tư số 74/TT-BNN về v iệc sửa đổi bổ sung mục III của thông tư liên t ịch số 69/2000/TTLT/BNN-
TCTK ngày 23/6/2000
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản) hoặc sản xuất nông nghiệp là chính, có kiêm
nhiệm các hoạt động dịch vụ phi nông nghiệp ở nông thôn.
* Tiêu chí định lượng để xác định là kinh tế trang trại
- Một hộ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản được
xác định là trang trại phải đạt một trong hai tiêu chí về giá trị sản lượng hàng
hoá bình quân 1 năm, hoặc quy mô sản xuất phải tương đối lớn và vượt trội so
với kinh tế nông hộ tương ứng với từng ngành sản xuất và vùng kinh tế.
- Đối với hộ sản xuất kinh doanh tổng hợp có nhiều loại sản phẩm hàng
hoá của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản thì tiêu chí để xác định
trang trại là giá trị sản lượng hàng hoá, dịch vụ bình quân 1 năm.
* Tiêu trí xác định kinh tế trang trại:
Một hộ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản được
xác định là trang trại phải đạt một trong hai tiêu chí định lượng sau đây:
1. Giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ bình quân 1 năm phải đạt từ 40
triệu đồng trở lên/trang trại.
2. Quy mô sản xuất phải tương đối lớn và vượt trội so với kinh tế nông
hộ tương ứng với từng ngành sản xuất và vùng kinh tế.
Quy mô sản xuất của trang trại được xác định như sau:
STT Loại hình trang trại Quy mô
I Đối với trang trại trồng trọt Quy mô diện tích
1 Cây hàng năm > 2 ha
2 Cây lâu năm (Chè, cây ăn qủa…) >3 ha
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
3 Lâm nghiệp > 10 ha
II Đối với trang trại chăn nuôi
1
Chăn nuôi đại gia súc: Trâu, bò…
- Chăn nuôi sinh sản, lấy sữa
- Chăn nuôi lấy thịt
- Có thường xuyên > 10 con
- Có thường xuyên > 50 con
2
Chăn nuôi gia súc: Dê, lợn…
- Chăn nuôi sinh sản
+ Lợn
+ Dê
> 20 con
> 50 con
3
Chăn nuôi gia cầm: Gà, vịt, ngan…
> 2000 con (không kể số đầu
con dưới 7 ngày tuổi)
III
Chăn nuôi thuỷ sản
- Đối với chăn nuôi tôm thịt theo
kiểu công nghiệp
> 2 ha
> 1ha
IV
Đối với các loại sản phẩm nông lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản có
tính chất đặc thù như: Trồng hoa, cây cảnh, trồng nấm, nuôi ong,
giống thuỷ sản, thuỷ đặc sản thì tiêu chí xác định là giá trị sản
lượng hàng hoá bình quân một năm đạt từ 40 triệu đồng trở lên
5.3. Phân loại kinh tế trang trại
Phân loại theo
quy mô
Phân loại theo loại hình sản xuất
Phân loại theo chủ
thể kinh doanh
Nhỏ: < 2 ha - Trồng trọt Trang trại gia đình
Vừa: 2-5 ha + Trồng rừng Trang trại tiểu thủ
Khá lớn: 5-10 ha + Trồng cây ăn quả Trang trang tư nhân
kinh doanh nông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
nghiệp.
Lớn: > 10 ha + Trồng cây lâu năm
+ Trồng cây lương thực, thực phẩm
+ Kinh doanh đặc thù
- Chăn nuôi:
- Thuỷ sản
- Trang trại kinh doanh tổng hợp
II- Cơ sở thực tiễn:
1. Kinh nghiệm phát triển trang trại của các nƣớc trên thế giới:
Tại nước Mỹ và các nước Tây Âu kinh tế trang trại đã xuất hiện từ
những năm 1950, tuy nhiên ngày càng số lượng trang trại ngày càng ít đi, tại
Mỹ năm 1950 có 5.648.000 trang trại đến năm 1992 còn 1.920.000 trang trại,
diện tích trang trại bình quân của các trang trại ngày càng tăng, tại Mỹ diện
tích bình quân năm 1950 là 86 ha, đến năm 1992 là 198,7 ha
6
. Tại Anh năm
1950 diện tích bình quân trang trại là 36 ha, đến năm 1987 là 71 ha
7
. Tại các
nước Châu á kinh tế trang trại chịu sự chi phối của điều kiện tự nhiên, dân số
nên có những đặc điểm khác với trang trại ở các nước Châu Âu về quy mô và
số lượng trang trại. Tại các nước Châu á do đất canh tác trên đầu người vào
loại thấp trên thế giới như Đài Loan: 0,47 ha; Malaixia: 0,25 ha; Hàn Quốc:
6 A.A Connugin: Kinh tế nông trại M ỹ, Tr ường Đại Học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
7 Nguyễn Điền. Kinh tế trang trại trại t rên thế giới và ở Châu Á
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
0,53ha…, trong khi đó ở các quốc gia Châu á đều có dân số đông nên có ảnh
hưởng đến quy mô trang trại.
Chính vì vậy ở các nước Châu Á nói chung, hiện tượng tích tụ ruộng đất
diễn ra chậm nên tình trạng manh mún, phân tán ruộng đất cũng là một trong
trở ngại trong vấn đề phát triển kinh tế trang trại.
Đối với các nước Châu Âu, nước Mỹ thì trang trại bao gồm: Trang trại
gia đình; trang trại liên doanh, trang trại liên doanh cổ phần và trang trại uỷ
thác cho người nhà, bạn bè quản lý, sản xuất. Trong đó trang trại gia đình là
loại hình trang trại mà mỗi gia đình có tư cách pháp nhân riêng do người chủ
hộ hay một người có năng lực và uy tín trong gia đình đứng ra quản lý, ở
nhiều nước phát triển, những chủ trang trại muốn được nhà nước công nhận
thì trình độ quản lý và tư cách pháp nhân phải tốt nghiệp các trường kỹ thuật
và quản lý nông nghiệp, đồng thời có kinh nghiệm qua thực tập lao động sản
xuất kinh doanh một năm ở các trang trại khác. Các chủ trang trại họ đều là
những chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp, có trình độ học vấn, họ thường
xuyên liên hệ đối với các cơ quan khoa học để thu thập thông tin kinh tế kỹ
thuật, tham gia hội thảo khoa học. Đây là loại hình trang trại phổ biến còn các
loại hình trang trại liên doanh, trang trại liên doanh cổ phần thì đây là loại
hình trang trại có quy mô lớn, được chuyên môn hoá sản xuất, sử dụng lao
động làm thuê là chủ yếu. Ở Mỹ và các nước Châu Âu thì nguồn vốn và lao
động của họ có những thuận lợi hơn so với các nước Châu Á, các trang trại
được mua chịu tư liệu sản xuất, được hỗ trợ vay vốn với lãi xuất thấp để mua
tư liệu sản xuất. Về lao động và kỹ thuật, các trang trại ở Châu Âu và các
nước phát triển tăng cường sử dụng máy móc hiện đại và mức độ cơ giới ngày
càng từng bước tiến tới tự động hoá, tin học hoá, hoá học hoá trong sản xuất,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
trong các trang trại số lượng lao động trong nông nghiệp của gia đình cũng
như lao động làm thuê ngày càng giảm dần.
2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế trang trại ở trong nƣớc:
Ở nước ta các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung với tên gọi khác
nhau (Trại, ấp, thái ấp, đồn điền, điền trang…) đã xuất hiện ở Việt Nam từ
những năm đầu công nguyên và phát triển khá mạnh mẽ trong thời kỳ phong
kiến đặc biệt là thời kỳ Lý-Trần và thời kỳ nhà Nguyễn. Bắt đầu từ những
năm 1990 đến nay Đảng và Nhà nước ta đã và đang thực hiện những chủ
trương, biện pháp nhất quán theo hướng tạo điều kiện cho kinh tế trang trại ra
đời và phát triển. Qua các kỳ đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII, Đảng ta đã
thừa nhận sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, khảng định chính sách
khuyến khích tiểu thủ và kinh tế tư bản tư nhân. Điều đó đã tạo nên bối cảnh
ra đời và phát triển của kinh tế trang trại. Bằng các chủ trương, biện pháp
thích hợp chúng ta đã khuyến khích kinh tế trang trại phát triển như: Trước
hết là sự thay đổi về các mối quan hệ kinh tế liên quan đến quyền sử dụng đất
đai, b
8
ởi vì đất đai là yếu tố đầu vào quan trọng nhất trong sản xuất nông
nghiệp. Đảng ta đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, đất đai thuộc quyền sử hữu của ngừơi dân, không mua bán,
đồng thời chủ trương giao quyền sử dụng đất lâu dài cho hộ nông dân là bước
đột phá đầu tiên thúc đẩy hộ và kinh tế trang trại phát triển. Bước đi đầu tiên
là việc khoán sản phẩm theo nhóm và người lao động trong các hợp tác xã
nông nghiệp theo tinh thần Chỉ thị 100/CT-TW của Ban bí thư Trung ương
ngày 31-1-1981 đã từng bước khôi phục lại quyền tự chủ đối với sản xuất cho
hộ gia đình trong việc sử dụng đất và lao động của bản thân họ. Bước tiếp
8 Phát triển kinh tế hợp tác và kinh tế trang trại gia đ ình ở Việt Nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
theo, thừa nhận hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn đồng thời có
chính sách khuyến khích kinh tế gia đình, kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân trong
nông, lâm, ngư nghiệp theo tinh thần Nghị quyết 10 của Bộ chính trị và Nghị
quyết Hội nghị lần 6 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VI tháng 3/1989.
Đến năm 1988 đã thể chế chủ trương của Đảng về khuyến khích các hộ, cá
thể, tư nhân trong ngành nông, lâm ngư nghiệp đã tạo tiền đề cho sự phát triển
kinh tế trang trại phát triển: Nhà nước thừa nhận sự tồn tại và phát triển của
kinh tế hộ, cá thể, tư nhân; Nhà nước tạo điều kiện về môi trường thuận lợi
cho kinh tế cá thể, tư nhân, thừa nhận tư cách pháp nhân; Nhà nước bảo hộ về
quyền tài sản và thu nhập hợp pháp; vốn….việc liên tục hoàn thiện cơ chế,
chính sách của nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế trang trại phát
triển. Hiện nay chưa có số liệu công bố chính thức nhưng theo báo cáo của Bộ
Nông nghiệp và PTNT thì cả nước có khoảng 113.000 trang trại, chủ yếu là
các trang trại gia đình.
Qua khảo sát tình hình phát triển kinh tế trang trại của các tỉnh phía Bắc,
có những đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội gần gũi với nước ta, chúng ta có
thể rút ra những nhận xét, kinh nghiệm thực tế, bổ ích để tham khảo và vận
dụng có chọn lọc vào điều kiện cụ thể của huyện Đại Từ tỉnhThái Nguyên.
Từ khi bắt đầu công nghiệp hoá, kinh tế trang trại ở các tỉnh phía Bắc đã
hình thành và phát triển và đến khi đạt trình độ công nghiệp hoá cao, kinh tế
trang trại vẫn tồn tại và đóng vai trò của lực lượng trong nền công nghiệp sản
xuất nông sản hàng hoá. Thực tế đã chứng minh kinh tế trang trại là loại hình
tổ chức sản xuất nông nghiệp phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá, là lực
lượng xung kích sản xuất nông sản hàng hoá.
3. Kinh nghiệm phát triển kinh tế trang trại ở Thái Nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
36
Tỉnh Thái Nguyên là tỉnh có nhiều đất đai rộng lớn với nhiều loại địa
hình và vùng khí hậu khác nhau: Đồng bằng, Trung du, miền núi, vùng cao.
Thực tế cho thấy mô hình kinh tế trang trại ở Thái Nguyên trong những năm
qua sản xuất có hiệu quả. Các trang trại của tỉnh Thái Nguyên có quy mô nhỏ,
phổ biến quy mô bình quân trên dưới 1ha. Nhưng các trang trại của tỉnh Thái
Nguyên vẫn còn những tính chất cơ bản của kinh tế, như đảm bảo tỷ suất
hàng hoá cao, khối lượng nông sản nhiều (khi các trang trại sản xuất chuyên
môn hoá từng mặt hàng ở vùng tập trung), vẫn thường xuyên được nâng cao
trình độ khoa học công nghệ nông nghiệp. Kinh tế trang trại ở Thái Nguyên
chủ yếu vẫn sản xuất theo phương thức gia đình. Trong những năm kinh tế
trang trại ở tỉnh Thái Nguyên phát triển ở tất cả các vùng kinh tế: Đồi núi,
đồng bằng, hàng năm tỉnh Thái Nguyên đã dành một nguồn kinh phí không
nhỏ để phát triển kinh tế trang trại, tạo cơ chế, chính sách về vốn, đất đai và
các điều kiện khác để thúc đẩy trang trại phát triển, đến nay toàn tỉnh Thái
Nguyên có 381 trang trại, chủ yếu là các trang trại gia đình. Để phát triển
trang trại trong năm qua tỉnh Thái Nguyên đã thực hiện một số giải pháp như:
Quy hoạch xác định các khu vực phát triển kinh tế trang trại tập trung nhằm
hình thành vùng sản xuất tập trung, đáp ứng nhu cầu thị trường. Định hướng
phát triển cây trồng, vật nuôi chính , phát huy thế mạnh của từng vùng, đầu tư
vốn, khoa học kỹ thuật… phù hợp với điều kiện của từng huyện. Giải quyết
các vấn đề chuyển dịch đất đai tạo điều kiện cho các gia đình có quy mô đất
đai lớn để tập trung sản xuất. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phù hợp với kế
hoạch phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, tạo mối liên doanh, liên kết
với kinh tế hợp tác xã và kinh tế nhà nước
9
.
4. Bài học kinh nghiệm cho phát triển kinh tế trang trại ở huyện Đại Từ.
9 Kết quả thực hiện Đề án phát triển kinh tế trang trại ở Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
- Trước hết cần xoá bỏ ngay quan niệm về kinh tế trang trại là phải sản
xuất trên những diện tích đất đai rộng lớn nhất. Chúng ta nên nhận định trang
trại từ tính chất sản xuất hàng hoá của nó.
- Phải nhanh chóng nâng cao trình độ cơ giới hoá trong các trang trại để
sản xuất không bị lạc hậu.
- Trong giai đoạn đầu, cơ cấu sản xuất của các trang trại còn hỗn tạp để
tận dụng mọi năng lực sản xuất hiện có, nhưng sau dần chuyển sang cơ cấu
mang tính chuyên canh và một loại nông, lâm, đặc sản nhất định.
- Mô hình trang trại gia đình đang và sẽ là loại hình trang trại phổ biến
và thích hợp. Nó bao gồm trang trại gia đình tiểu chủ vừa sử dụng lao động
gia đình vừa thuê thêm lao động thời vụ và thường xuyên với số lượng khác
nhau, được Nhà nước chủ trương khuyến khích. Chính loại lao động tiểu chủ
là lực lượng lao động có nhiều tiềm năng sản xuất nông sản hàng hoá hiện
nay. Mô hình này có nhiều ưu điểm nổi bật:
+ Có khả năng dung nạp những trình độ sản xuất nông nghiệp khác nhau
+ Có khả năng dung nạp các quy mô sản xuất khác nhau
+ Có khả năng dung nạp các cấp độ công nghệ khác nhau
+ Có khả năng liên kết các loại hình kinh tế khác nhau: Kinh tế gia đình,
kinh tế cá thể, kinh tế hợp tác, kinh tế Nhà nước.
Các chính sách phát triển kinh tế trang trại của Nhà nước sẽ phải tạo điều
kiện thuận lợi để các hộ gia đình nông dân có thể sản xuất theo mô hình này.
- Xuất phát từ đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện, từ yêu cầu
đặt ra của công nghiệp hoá, chúng ta có thể vận dụng một cách sáng tạo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
38
những bài học của các tỉnh bạn, phát triển trang trại chăn nuôi lợn, gia cầm,
cây lâu năm... ở những nơi có điều kiện xuất khẩu, trang trại trồng cây con
cần ít đất, trồng hoa, cây cảnh, làm nấm, nuôi cá cảnh, rắn, ba ba, nhím... có
thể đạt hiệu quả kinh tế cao.
- Về vấn đề phân hoá thu nhập: Có nhiều ý kiến cho rằng kinh tế trang
trại là "Lối làm ăn của người giàu", bởi những nông dân nghèo thì khó mà có
đủ vốn để làm trang trại, đồng thời cho rằng không nên khuyến khích loại
hình trang trại tư bản tư nhân vì nó có thể dẫn đến sự tư bản hoá sản xuất
nông nghiệp. Đúng là nhờ kinh tế trang trại, một bộ phận dân cư đã có mức
thu nhập cao hơn hẳn và cũng làm phân hoá giàu nghèo, nhưng thực tế là nó
không làm cho những người nghèo nghèo đi và cũng không làm tăng số người
nghèo, trái lại còn giải quyết việc làm cho một phần đáng kể lực lượng lao
động nữa. Hơn thế, nông nghiệp huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên nói riêng và
nước Việt Nam nói chung còn quá lạc hậu, thu nhập của người nông dân Việt
Nam thấp so với thu nhập của nông dân các nước trong khu vực và trên thế
giới, vì thế để đuổi kịp họ về trình độ sản xuất, về mức sống dân cư, về khả
năng cạnh tranh của nông sản, thì kinh tế trang trại là sự lựa chọn số một, sự
lựa chọn đúng đắn và hiệu quả.
B. Phƣơng pháp nghiên cứu:
I. Các vấn đề mà đề tài cần giải quyết:
Để phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Đại Từ theo đúng định
hướng, phát huy hết tiềm năng, thế mạnh của trang trại trong nền kinh tế thị
trường thì các vấn đề mà đề tài cần tập trung giải quyết đó là:
- Trong những năm qua kinh tế trang trại ở Đại Từ đã phát triển như thế nào?
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
- Yếu tố nào ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế trang trại của huyện Đại
Từ.
- Hiệu quả kinh tế của các trang trại như thế nào?
- Giải pháp nào thúc đẩy sự phát triển kinh tế trang trại ở Đại Từ?
II. Các phƣơng pháp nghiên cứu:
1. Phương pháp thu thập số liệu:
- Thu thập số liệu thứ cấp: Số liệu thống kê qua Niên giám thống kê
hàng năm của huyện.
+ Các thông tin, tài liệu có liên quan đến các vấn đề trang trại, kinh tế
trang trại, hiệu quả kinh tế trang trại trên thế giới và Việt Nam thu thập qua
báo chí, tạp chí, mạng Internet.
+ Các báo cáo Nghị Quyết, số liệu cơ bản tình hình kinh tế xã hội của
tỉnh, huyện, xã nghiên cứu thu thập tại Phòng Nông nghiệp và PTNT, Phòng
Thống kê huyện Đại Từ.
+ Các đề án, báo cáo tổng kết hàng năm về hoạt động của trang trại trên
địa bàn huyện Đại Từ.
- Thu thập tài liệu sơ cấp: Bằng cách điều tra qua bảng được soạn sẵn
đính kèm với báo cáo.
2. Công cụ xử lý số liệu:
Thông tin và số liệu sau khi thu thập sẽ được tính toán theo mục đích của
đề tài trên chương trình tính toán Exel.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40
3. Phương pháp phân tích số liệu:
- Phương pháp thống kê mô tả: Được dùng tính, đánh giá các kết quả
nghiên cứu.
- Phương pháp phân tổ, thống kê, phân thành các tổ để đánh giá.
- Phương pháp so sánh: Xử lý số liệu tính toán ra các chỉ tiêu số tương
đối, chỉ rõ nguyên nhân biến động của hiện tượng.
- Phương pháp dự báo.
III. Hệ thống chỉ tiêu phân tích:
* Hệ thống chỉ tiêu đánh giá kết quả sản xuất của trang trại:
- Tổng khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong năm.
- Tổng giá trị sản xuất.
- Tổng chi phí sản xuất.
- Thu nhập bình quân 1 năm của trang trại.
- Tỷ suất sản phẩm hàng hoá bằng giá trị sản phẩm hàng hoá/ tổng giá trị sản
xuất.
* Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế trang trại:
- Tổng giá trị sản xuất/1 đơn vị diện tích:
- Tổng giá trị sản xuất/1 lao động.
- Tổng thu nhập/1 đơn vị diện tích:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41
- Tổng thu nhập/1 lao động.
- Giá trị sản xuất/ 1 trang trại bình quân.
- Số lượng lao động thuê ngoài/lao động.
Trong đó:
+ Giá trị sản xuất là giá trị toàn bộ sản phẩm thu được trong một đơn vị,
trong một năm hay một chu kỳ.
+ Thu nhập của các trang trại là phần thu nhập thuần tuý của người sản
xuất, gồm cả công lao động trang trại và lợi nhuận mà trang trại có thể nhận
được trong một năm hoặc một chu kỳ sản xuất kinh doanh.
+ Tổng giá trị sản xuất/1 đơn vị diện tích, tổng giá trị sản xuất/1 lao động
là giá trị sản xuất được tạo ra bởi một công lao động, một đơn vị diện tích.
+ Tổng thu nhập/1 đơn vị diện tích, tổng thu nhập/1 lao động là thu nhập
tính trên một công lao động, một đơn vị diện tích.
* Hiệu quả môi trường:
- Diện tích rừng đã trồng/ trang trại.
- Số trang trại có hệ thống xử lý phân thải.
- Diện tích cây ăn quả trồng mới/ trang trại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
42
CHƢƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI
HUYỆN ĐẠI TỪ TỈNH THÁI NGUYÊN THỜI GIAN QUA
2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu:
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên:
Đại Từ là một huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên. Có diện tích tự
nhiên là 57.790 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp: 14.689 ha (chiếm
25,42 %), đất lâm nghiệp: 27.814 ha (chiếm 48,13 %). Dân số toàn huyện trên
165 vạn người, có gần 37.000 hộ sản xuất nông nghiệp.
+ Vị trí địa lý:
Đại Từ là một huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên có tổng diện tích
đất tự nhiên: 57.790 ha. Với có toạ độ địa lý: 21
0
30’ đến 21
0
50’ độ vĩ Bắc,
105
0
32’ đến 105
0
42’ độ Kinh đông.
Phía Tây giáp Tỉnh Tuyên Quang và tỉnh Phú Thọ
Phía Đông giáp huyện Phú Lương và thành phố Thái Nguyên.
Phía Bắc giáp huyện Định Hoá.
Phía Nam giáp huyện Phổ Yên.
+ Địa hình: Đại Từ là huyện có địa hình tương đối phức tạp thể hiện
đặc trưng của vùng trung du miền núi Đông Bắc, địa hình có thể chia làm 3
vùng khác nhau:
+ Vùng I: là vùng địa hình của dãy Tam Đảo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
+ Vùng II: là vùng của dãy núi thấp có độ cao: 150 - 300m
+ Vùng III: là vùng thung lung hẹp song song với dãy Tam Đảo
Tổng diện tích của huyện theo cấp độ cao tuyệt đối và độ dốc được thể
hiện ở biểu 01.
Biểu 01: Diện tích của huyện theo cấp độ cao tuyệt đối và độ dốc
STT
Độ cao
tuyệt đối
(m)
Diện
tích (ha)
Tỷ lệ
(%)
Độ dốc
(
o
)
Diện tích
(ha)
Tỷ lệ
(%)
1 < 100 25 123 43.45 < 8 15 500 26,82
2 100 – 300 22 087 38.21 8 – 15 6 343 10,97
3 300 – 700 7 179 12.42 15 – 25 13 528 23,40
4 > 700 3 401 5.90 > 25 22 419 38,81
Nguồn: Báo cáo diện tích của huyện trong báo cáo kinh tế xã hội huyện Đại Từ
+ Khí hậu chia hai mùa rõ rệt: mùa mua từ tháng 4 đến tháng 10, mùa khô
từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau.
- Khí hậu nhiệt độ trung bình năm: 22.9
0
C
- Nhiệt độ cao nhất trung bình năm: 27.2
0
C
- Nhiệt độ thấp nhất trung bình năm: 20.0
0
C
- Luợng mưa trung bình năm: 1 872
mm
/nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
- Độ ẩm không khí trung bình: 78 - 86 (%)
- Lượng bốc hơi trung bình: 985,5
mm
/năm
- Thổ nhưỡng: Trên địa bàn huyện đều được hình thành bởi 8 nhóm,
trong dó có 4 nhóm đất chính là:
- Đất xám mùn trên núi có: 16.400 ha chiếm tỷ lệ 28,37%
- Đất Feralit phát triển trên đất đỏ biến chất: 15.107 ha chiếm tỷ lệ
26,14 %
- Đất Feralit phát triển trên phù sa cổ: 1.3036 ha chiếm tỷ lệ 22,55 %
- Đất phù sa Gley phát triển trên đất phù sa cổ: 13.247 ha chiếm tỷ lệ
22,94 %
Biểu 2: Tình hình sử dụng đất đai của huyện Đại Từ
Đơn vị tính: Ha
STT Mục đích sử dụng đất Diện tích
Tổng diện tích đất tự nhiên 57.705,47
1 Đất nông nghiệp 45.311,45
1.1 Đất sản xuất nông nghiệp 16.375,98
1.1.1 Đất trồng cây hàng năm 8.109,64
1.1.1.1 Đất trồng lúa 7.123,84
1.1.1.2 Đất cỏ dùng vào chăn nuôi 29,93
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
1.1.1.3 Đất trồng cây hàng năm khác 955,87
1.1.2 Đất trồng cây lâu năm 8.266,34
1.2 Đất lâm nghiệp 28.020,98
1.2.1 Đất rừng sản xuất 14.238,02
1.2.2 Đất rừng phòng hộ 2.187,13
1.2.3 Đất rừng đặc dụng 11.595,83
1.3 Đất nuôi trồng thuỷ sản 914,49
2 Đất phi nông nghiệp 8.910,86
2.1 Đất ở 2.747,7
2.1.1 Đất ở tại nông thôn 2.679,10
2.1.2 Đất ở tại đô thị 68,6
2.2 Đất chuyên dùng 2.731,28
2.2.1 Đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp 38,7
2.2.2 Đất quốc phòng 377,06
2.2.3 Đất an ninh 0,85
2.2.4 Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp 520,93
2.2.5 Đất có mục đích công cộng 1.793,74
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46
2.3 Đất tôn giáo, tín ngưỡng 7,58
2.4 Đất nghĩa trang, nghĩa địa 158,8
2.5 Đất sông suối, mặt nước chuyên dùng 3.248,83
2.6 Đất phi nông nghiệp khác 16,67
3 Đất chƣa sử dụng 3.483,16
3.1 Đất bằng chưa sử dụng 529,94
3.2 Đất đồi núi chưa sử dụng 2922,48
3.3 Núi đá không có rừng cây 30,74
Nguồn: Thống kê, kiểm kê đất đai ngày 1/1/2008 của Phòng Tài Nguyên-Môi Trường huyện.
+ Hệ thống thuỷ văn và hệ thống nước Huyện Đại Từ là huyện có
điều kiện thuỷ văn rất thuận lợi: Sông Công chảy qua huyện có chiều dài
24km, Hồ Núi Cốc có diện tích 25 km
2
. Ngoài ra trên dịa bàn huyện còn có
các con suối như: La Bằng, Quân Chu, Cát Nê, Phục Linh, Ký Phú, Văn Yên,
Mỹ Yên, Hoàng Nông là nguồn cung cấp nước quan trọng trong việc cung
cấp nước để tưới tiêu và nước sinh hoạt cho nhân dân.
2.1.2. Đặc điểm xã hội:
Đại Từ là huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên qua điều tra một số chỉ
tiêu cơ bản về điều kiện kinh tế xã hội kết quả ở bảng sau:
Biểu 03a. Một số chỉ tiêu cơ bản về kinh tế xã hội huyện Đại Từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
TT Chỉ tiêu
Đơn vị
tính
Năm
2005
Năm
2006
Năm
2007
I
Tổng giá trị sản xuất (Theo
giá cố định 1994)
Tr.đồng 714.930 824.623 1.024.870
1 Nông, lâm, ngư nghiệp Tr.đồng 269.460 291.123 298.540
- Nông nghiệp Tr.đồng 246.260 263.167 272.870
+ Chia ra: Trồng trọt Tr.đồng 198.760 213.667 209.190
+ Chăn nuôi Tr.đồng 47.500 49.500 63.680
- Lâm nghiệp Tr.đồng 16.000 17.800 17.820
- Thuỷ sản Tr.đồng 7.200 7.300 7.850
2 Công nghiệp-Xây dựng Tr.đồng 225.870 273.352 354.160
3 Dịch vụ thương mại Tr.đồng 219.600 260.148 358.960
II Chỉ tiêu xã hội
1 Dân số Người 165.920 166.130 166.650
2 Lao động trong độ tuổi Người 87.254 85.932 86.781
3 Tổng số hộ của toàn huyện Hộ 39.548 40.120 40.370
4 Tỷ lệ hộ nghèo Hộ 31,8 28,64 24,63
(Nguồn số liệu Báo cáo kinh tế phát triển kinh tế-xã hội huyện Đại Từ
năm 2005-2006-2007của UBND huyện Đại Từ)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48
Biểu 3b. Tình hình sản xuất ngành nông nghiệp
STT Chỉ tiêu Đơn vị tính Kết quả 2007
1 Diện tích trồng cây chính Ha
1.1 Lúa xuân + lúa mùa Ha 12.108
1.2 Ngô Ha 1.424
1.3 Chè Ha 5.098
2 Đàn gia súc
2.1 Đàn trâu con 19.566
2.2 Đàn bò con 3.063
2.3 Đàn lợn con 59.457
2.4 Đàn gia cầm Triệu con 73
Nguồn: Theo báo cáo kinh tế xã hội của huyện năm 2007
2.2.Tình hình phát triển kinh tế trang trại:
* Khái quát những thành tựu đã đạt đƣợc:
2.2.1. Kinh tế trang trại phát triển nhanh, đa ngành và đạt hiệu quả
kinh tế cao.
Do trước đây chưa có sự thống nhất về tiêu chí xác định kinh tế trang trại
nên huyện Đại Từ cũng như các địa phương khác thống kê số lượng các trang
trại theo hệ thống tiêu chí riêng, tính định lượng còn thấp, nên số liệu thống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
49
kê trước và nay chênh lệch nhau đáng kể. Tuy nhiên, có thể đánh giá sự phát
triển của kinh tế trang trại bằng hiệu quả sản xuất kinh doanh của các trang trại.
Tính đến năm 2007 Huyện Đại Từ đã có 80 trang trại (theo tiêu chí mới)
(10)
, trong đó các xã có số lượng trang trại nhiều nhất là Hùng Sơn (11 trang
trại), Cát Nê TT Quân Chu (7 trang trại). Tổng diện tích đất nông nghiệp, lâm
nghiệp, mặt nước nuôi trồng thuỷ sản là 463,256 ha, chiếm 0,8% diện tích của
huyện và bằng 3,15% diện tích đất nông nghiệp. Bình quân mỗi trang trại
khoảng 5,79 ha. Số trang trại của huyện Đại Từ chỉ chiếm 12,1% tổng số
trang trại của tỉnh nhưng hiệu quả lại cao hơn.
Về cơ cấu sản xuất, phần lớn các trang trại mới ở mức độ kinh doanh
tổng hợp, tức là kinh doanh nhiều loại cây, con cùng một lúc. Các trang trại
chăn nuôi và trang trại trồng cây lâu năm phát triển mạnh mẽ là một thế mạnh
của vùng (chiếm tới 28,7% trong cơ cấu sản xuất trang trại năm 2007), trong
đó trồng cây lâu năm chiếm ưu thế vì điều kiện vùng núi phía Bắc thuận lợi
cho việc trồng cây lâu năm như Cây chè, cây ăn quả, ngoài ra trang trại chăn
nuôi gia súc nhỏ và gia cầm cũng phát triển vì các loại này không đòi hỏi đất
nhiều, thậm chí đã xuất hiện hình thức các hộ nông dân chăn nuôi theo hình
thức chăn nuôi công nghiệp và chăn nuôi gia công theo mô hình kinh tế trang
trại. Trang trại chăn nuôi đã hình thành ở tất cả các ngành sản xuất sản phẩm
chăn nuôi hàng hoá: Thịt lợn, thịt gia cầm, thịt trâu, bò... Một số mặt hàng đặc
sản... Trang trại chăn nuôi thường có quy mô vừa và nhỏ, chẳng hạn với gà:
1000 - 5000 con, lợn 300 - 500 con, các trang trại chăn nuôi đặc sản như nuôi
nhím, ba ba, ếch... sử dụng từ 500 - 1000m
2
nhưng đầu tư nhiều vốn và chất
xám tạo thu nhập cao. Đây là một ngành chăn nuôi chú trọng đến thị trường
tiêu thụ sản phẩm và có rất nhiều tiềm năng phát triển.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
50
Ngoài ra còn có các trang trại trồng cây lâm nghiệp cung cấp nguyên liệu
cho các nhà máy chế biến lâm sản và các sản phẩm xuất khẩu khác.
Biểu 04: Tổng số các trang trại và phân loại trang trại theo loại
hình sản xuất
Đơn vị tính: Trang trại
Xã, Thị Trấn
Tổng số
trang trại
Chia ra
Cây lâu
năm
Lâm
nghiệp
Chăn
nuôi
Thuỷ
sản
Tổng
hợp
TT Q Chu 7 5 1 1
Phúc Lương 5 4 1
Đức Lương 1 1
Phú Cường 3 1 2
Na Mao 4 4
Phú Lạc 4 1 3
Tân Linh 5 2 2 1
Phú Thịnh 1 1
Phú Xuyên 1 1
Bản Ngoại 1 1
Tiên Hội 5 1 2 1 1
Hùng Sơn 11 7 4
Cù Vân 1 1
La Bằng 2 2
Hoàng Nông 2 1 1
Khôi Kỳ 3 3
Tân Thái 7 2 3 2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
51
Bình Thuận 3 3
Mỹ Yên 1 1
Vạn Thọ 2 1 1
Văn Yên 2 1 1
Cát Nê 7 5 2
Quân Chu 2 1 1
Tổng cộng 80 17 19 23 5 16
Nguồn: Báo cáo của phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Đại Từ
Biểu 5: Kết quả sản xuất kinh doanh năm 2007 của trang trại
Đơn vị tính: Triệu đồng
Xã, Thị Trấn Số trang trại Tổng thu
Giá trị hàng
hoá và dịch
vụ bán ra
Giá trị
hàng hoá
và dịch vụ
bình quân
1 trang
trại
Thu nhập
bình quân
1 trang
trại
TT Q Chu 7 555,00 518,00 74,00 37,70
Phúc Lương 5 262,50 214,00 42,80 26,30
Đức Lương 1 200,00 174,00 174,00 80,00
Phú Cường 3 145,00 120,00 40,00 19,30
Na Mao 4 727,20 692,00 173,00 72,80
Phú Lạc 4 282,40 246,00 61,50 28,30
Tân Linh 5 392,50 348,00 69,60 31,40
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
52
Phú Thịnh 1 187,50 137,00 137,00 75,00
Phú Xuyên 1 87,50 63,00 63,00 35,00
Bản Ngoại 1 65,00 40,20 40,20 26,00
Tiên Hội 5 396,50 363,00 72,60 35,00
Hùng Sơn 11 1702,80 1512,00 137,45 61,90
Cù Vân 1 112,50 83,00 83,00 45,00
La Bằng 2 162,60 141,00 70,50 32,50
Hoàng Nông 2 175,00 148,00 74,00 35,00
Khôi Kỳ 3 225,30 212,00 70,67 30,00
Tân Thái 7 847,60 775,00 110,71 46,70
Bình Thuận 3 600,00 519,00 173,00 80,00
Mỹ Yên 1 42,50 35,00 35,00 17,00
Vạn Thọ 2 150,10 133,00 66,50 30,00
Văn Yên 2 1000,00 946,00 473,00 200,00
Cát Nê 7 383,60 357,00 51,00 22,40
Quân Chu 2 110,10 78,00 39,00 22,00
Tổng cộng 80 8813,20 7854,20 2331,54 47,36
Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả tháng 12/2007
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
53
2.2.2. Thu nhập của trang trại:
Tổng thu nhập của trang trại là phần thu nhập sau khi lấy tổng thu trừ chi
phí vật chất, trừ tiền công thuê lao động và trừ các chi phí khác. Như vậy,
phần thu nhập của trang trại bao hàm: Tiền công của chủ trang trại (tiền công
quản lý và tiền công lao động trực tiếp), tiền công của các thành viên và tiền
lãi ròng của các trang trại. Đây là một chỉ tiêu phù hợp, vừa phản ánh kết quả
sản xuất kinh doanh vừa là hiệu quả hoạt động kinh doanh của trang trại.
Xem biểu 5 có thể thấy rằng thu nhập bình quân 1 trang trại của huyện
Đại Từ là cao so với các huyện, thành trong tỉnh Thái Nguyên (47,1 triệu
đồng/trang trại/năm, cao hơn mức trung bình chung 1,49 lần và bỏ xa những
vùng khác (trừ Thành phố Thái Nguyên và Thị xã Sông Công) từ 60-75
triệu/trang trại
10
. Tổng thu của 80 trang trại năm 2007 là 8.813,2 triệu đồng,
diện tích trang trại của huyện bằng 11,7% diện tích trang trại cả tỉnh), trong
đó giá trị hàng hoá và dịch vụ bán ra là 7.854,2 triệu đồng, đạt mức tỷ suất giá
trị hàng hoá là 98,1%, cao hơn mức trung bình của cả nước. Nhờ thu nhập
trang trại tương đối cao nên chi tiêu cho đời sống vật chất và tinh thần của
trang trại tương đối cao so với nông dân trong huyện).
2.2.3. Tạo việc làm cho người lao động:
Tổng số lao động tham gia sản xuất trong các trang trại huyện Đại Từ là
394 lao động, chiếm 14% tổng số 2.815 lao động trang trại của cả tỉnh. So với
lượng lao động dư thừa ở nông thôn, thì tỉ lệ này vẫn còn nhỏ.
2.2.4. Đóng góp vào tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
10 Báo cáo đánh giá 3 năm (2002-2004) thực hiện chương trình phát triển kinh tế trang trại t ỉnh Thái Nguyên-
tháng 12/2004.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
54
Sự gia tăng giá trị sản xuất hàng hoá của kinh tế trang trại trực tiếp tác
động đến sự gia tăng của cả ngành sản xuất nông nghiệp và do đó đóng góp
vào tăng trưởng của cả nền kinh tế nói chung. Nhờ trang trại, giá trị sản xuất
hàng hoá của ngành nông nghiệp được cải thiện rõ rệt. Năm 2005 giá trị sản
xuất của ngành nông nghiệp tính theo giá cố định 1994 là 269.460 triệu đồng,
thì trong đó phần đóng góp của kinh tế trang trại là 1,8%
11
.
Trong bối cảnh nông nghiệp nước ta đang tích cực chuyển đổi cơ cấu vật
nuôi cây trồng cho phù hợp với những nhu cầu của thị trường và cải thiện
cuộc sống dân cư, thì các sản phẩm của trang trại cũng là một nhân tố tích
cực, tuy sự đóng góp chưa nhiều lắm. Nhưng có thể nói rằng, nhờ tính chất
sản xuất hàng hoá, các trang trại đã tự chọn lọc hướng đi thích hợp, không kể
những trang trại tiến hành sản xuất kinh doanh theo đúng quy hoạch của Nhà
nước có gắn liền với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu, nông nghiệp của huyện
Đại Từ trong những năm qua đã có những sự chuyển biến tích cực: Tỉ lệ trồng
trọt giảm xuống, chăn nuôi tăng dần, năng suất ngày càng cao. Các loại giống
có chất lượng cao ngày càng được đưa vào sản xuất đại trà (lúa, ngô, lợn nạc,
cây công nghiệp, rau xanh...) Tuy nhiên để có sự chuyển biến mạnh mẽ hơn
nữa thì bản thân hoạt động sản xuất tự phát của các chủ trang trại không làm
được, mà cần có quy hoạch lâu dài trên diện rộng, chủ trương và các phương
án khả thi của tỉnh, của huyện.
Có thể nói, kinh tế trang trại là bước phát triển mới của kinh tế hộ gắn
với mục tiêu sản xuất hàng hoá quy mô lớn, góp phần thúc đẩy quá trình
chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng tăng nhanh tỉ trọng hàng
hoá tạo ra các vùng sản xuất tập trung, làm tiền đề cho công nghiệp chế biến
11 Báo cáo đánh giá 3 năm (2002-2004) thực hiện chương trình phát triển kinh tế trang trại t ỉnh Thái Nguyên-
tháng 12/2004.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
55
nông lâm sản, đưa công nghiệp và các ngành nghề dịch vụ vào nông thôn,
tăng cường phủ xanh đất trống đồi trọc, cải thiện môi trường sinh thái.
2.3. Phân tích - Đánh giá tình hình sử dụng các yếu tố nguồn lực :
2.3.1. Các nhân tố ảnh hƣởng
2.3.1.1. Các yếu tố sản xuất của trang trại:
2.3.1.1.1. Đất đai
Đất đai là nguồn tư liệu sản xuất chủ yếu của trang trại nên kinh tế trang
trại trước hết được phát triển ở các vùng miền núi, những nơi mà quỹ đất có
khả năng khai phá còn lớn để phát triển kinh tế nông, lâm, thuỷ sản hàng hoá
lớn. Huyện Đại Từ là một huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên có diện tích
đất sản xuất nông nghiệp tương đối lớn (14.698 ha), song một số diện tích đất
việc sử dụng không hiệu quả, có diện tích còn bỏ hoang, do đó chưa đem lại
hiệu quả cao nhất.
Hiện nay trước nhu cầu phát triển công nghiệp, làm nhà ở ngày càng
tăng mạnh làm giảm ngày càng nhiều diện tích đất nông nghiệp.
Qua biểu 6 có thể thấy, phần lớn diện tích đất làm kinh tế trang trại của
huyện là đất lâm nghiệp (64,14%), trong đó xã có diện tích nhiều nhất là Phúc
Lương 64 ha (13%), xã Tân Linh 56 ha, xã Cát Nê 52,2 ha, các xã có quỹ đất lớn
trong việc phát triển trang trại là Phúc Lương, Tân Thái, Cát Nê, Tân Linh.
Trong số 80 trang trại điều tra, quỹ đất bình quân một trang trại là 5,79
ha. Quỹ đất bình quân của các trang trại giữa các xã có sự chênh lệch đáng kể,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
56
xã Tân Thái cao nhất 14,9ha, tiếp đó là xã Phúc Lương 12,9 ha, xã Tân Linh
11,87 ha, ngược lại ở Đức Lương chỉ có 1,04 ha, xã Bản Ngoại 0,436 ha,vv...
Tuy vậy trên địa bàn huyện Đại Từ vẫn còn một diện tích đáng kể đất
chưa được giao, chưa sử dụng. Cho đến năm 2004, cả nước vẫn còn khoảng
15% số hộ làm kinh tế trang trại chưa được giao đất
12
. Diện tích đất chưa sử
dụng còn lớn (12%), trong đó có cả phần đất dành cho các hoạt động phi nông
nghiệp như xây dựng Nhà máy, cơ sở hạ tầng, nhà ở... nhưng dù sao trong
điều kiện thiếu đất như hiện nay thì đó là một sự lãng phí đáng kể.
Qua biểu 06 trong số 80 trang trại điều tra ta thấy các trang trại của
huyện Đại Từ có hướng sản xuất kinh doanh chính chủ yếu là trồng trọt (cây
chè) và chăn nuôi (Theo hình thức công nghiệp và bán công nghiệp). Phân
loại theo quy mô các trang trại cho thấy có 51,25% số trang trại với quy mô
đất dưới 2 ha, 16,25% số trang trại với quy mô từ 2-3 ha, 5% số trang trại quy
mô từ 5-10 ha, 26,25% số trang trại có quy mô từ 10-30 ha và 1,25% số trang
trại có quy mô từ 30 ha trở lên. Như vậy số trang trại có hướng kinh doanh
trồng cây lâu năm và chăn nuôi chiếm 50%, trong đó một số xã quy mô này
chiếm tỷ lệ rất cao như xã Na Mao, xã Hùng Sơn có 100% số trang trại, Thị
trấn Quân Chu có 71% số trang trại...ngược lại ở một số xã có quy mô đất
bình quân trang trại còn bé như là xã Bản Ngoại: 0,436 ha, xã Cù Vân: 0,75
ha, xã Đức Lương: 1,04 ha.
Biểu 06: Hiện trạng sử dụng đất trang trại năm 2007
Đơn vị tính: Ha
12 Báo Kinh tế nông thôn-Mục Kinh tế trang trại với công nghiệp hoá-hiện đại hoá nông nghiệp-nông thôn
ngày 19/7/2007.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
57
Xã, Thị Trấn
Tổng
số
trang
trại
Tổng
diện tích
sử dụng
Chia ra
Diện
tích
bình
quân
(ha/TT)
Đất thổ
cƣ
Đất
trồng
cây
hàng
năm
Đất
trồng
cây
lâu
năm
Đất
Lâm
nghiệp
Đất
nuôi
trồng
thuỷ
sản
TT Q Chu 7 21,45 0,28 0,57 19,6 1 3,06
Phúc Lương 5 64,73 0,2 0,53 64 12,95
Đức Lương 1 1,04 0,04 1 1,04
Phú Cường 3 14,32 0,12 0,5 2,6 11 0,1 4,8
Na Mao 4 3,16 0,16 2,8 0,2 1,05
Phú Lạc 4 11,26 0,16 0,2 7,5 3 0,4 2,8
Tân Linh 5 59,35 0,25 0,6 2,2 56 0,3 11,87
Phú Thịnh 1 3,35 0,05 0,3 3 3,35
Phú Xuyên 1 1,14 0,04 0,1 1 1,14
Bản Ngoại 1 0,436 0,036 0,3 0,1 0,436
Tiên Hội 5 26,885 0,285 0,4 5,2 18 3 5,4
Hùng Sơn 11 11,31 0,41 2,5 8 0,4 1,03
Cù Vân 1 0,75 0,05 0,7 0,75
La Bằng 2 2,49 0,09 0,5 1,9 2,25
Hoàng Nông 2 2,775 0,075 0,3 2,3 0,1 1,39
Khôi Kỳ 3 33,57 0,14 0,3 0,2 32,93 11,19
Tân Thái 7 106,68 0,28 2 0,4 35 69 15,24
Bình Thuận 3 0,9 0,2 0,5 0,2 0,3
Mỹ Yên 1 0,9 0,05 0,4 0,4 0,05 0,9
Vạn Thọ 2 8,18 0,08 0,1 7 1 4,09
Văn Yên 2 13,88 0,08 0,1 0,5 12 1,2 6,94
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
58
Cát Nê 7 57,41 0,31 0,5 1,3 52,2 3,1 8,2
Quân Chu 2 17,29 0,09 0,2 4 13 8,65
Tổng cộng 80 463,256 3,476 15,4 67,2 297,13 80,05 5,8
Nguồn: Báo cáo của phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Đại Từ)
Biểu 7: Phân loại trang trại theo quy mô sử dụng đất
Đơn vị tính: Ha
Xã, Thị Trấn
Tổng số
trang trại
Chia ra
< 2 ha 2-5 ha
5-10
ha
10-30
ha
> 30 ha
TT Q Chu 7 1 6
Phúc Lương 5 1 4
Đức Lương 1 1
Phú Cường 3 2 1
Na Mao 4 3 1
Phú Lạc 4 3 1
Tân Linh 5 3 1 1
Phú Thịnh 1 1
Phú Xuyên 1 1
Bản Ngoại 1 1
Tiên Hội 5 2 2 1
Hùng Sơn 11 10 1
Cù Vân 1 1
La Bằng 2 2
Hoàng Nông 2 2
Khôi Kỳ 3 1 2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
59
Tân Thái 7 1 6
Bình Thuận 3 3
Mỹ Yên 1 1
Vạn Thọ 2 1 1
Văn Yên 2 1 1
Cát Nê 7 2 5
Quân Chu 2 1 1
Tổng cộng 80 41 13 4 21 1
Nguồn: Theo báo cáo của Phòng Thống kế huyện Đại Từ
Cơ cấu đất đa dạng, bao gồm đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất nuôi
trồng thuỷ sản và đất thổ cư, trong đó đất lâm nghiệp chiếm 64,14%, đất nuôi
trồng thuỷ sản chiếm tới 17,3%, đất trồng cây lâu năm chiếm 14,5%. Nhìn
chung các trang trại của huyện Đại Từ thường có xu hướng sản xuất cây lâu
năm và chăn nuôi là chính.
Có thể nói, hiện trạng sử dụng đất của huyện Đại Từ đã gần ở mức tối đa
và hướng khai thác ngày càng hợp lý hơn. Chỉ có điều, sau một thời gian dài
khai thác, thâm canh không chú ý "bồi dưỡng" cho nguồn đất, mà ở nhiều nơi
đất có hiện tượng bạc màu, bất lợi cho trồng trọt. Hơn nữa, nhu cầu phát triển
công nghiệp và xây dựng các công trình công cộng, làm nhà ở... càng ngày
càng làm thu hẹp đi một phần lớn đất đai màu mỡ, làm hạn chế khả năng sản
xuất nông nghiệp. Cho nên khai thác theo chiều sâu sẽ là hướng chính trong
những năm tới đây.
2.3.1.1.2. Vốn:
Vốn là yếu tố hạn chế, để phát triển kinh tế trang trại đòi hỏi phải có vốn,
trong đó các chủ trang trại cần phải tích tụ một lượng vốn tự có nhất định. Đó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
60
là một trong những điều kiện tiên quyết, bởi lẽ nếu có nhiều vốn thì có thể
thuê đất đai, sức lao động làm kinh tế trang trại. Thực vậy theo tài liệu điều
tra vốn bình quân một trang trại của huyện Đại Từ khá cao, chủ yếu là vốn tự
có. Lượng vốn đầu tư bình quân cho một trang trại năm 2007 là 112,06 triệu
đồng, bằng 1,24 lần mức trung bình chung của tỉnh, cao thứ ba chỉ sau Thành
phố Thái Nguyên và thị xã Sông Công. Lượng vốn hiện có của các trang trại
tại các xã có sự chênh lệch khá lớn, các xã có vốn trung bình một trang trại
cao là Hùng Sơn (259,1 triệu đồng),Văn Yên (231 triệu đồng), Đức Lương
(160 triệu đồng) và Cù Vân (210 triệu đồng) là những xã đi đầu trong việc
ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, ngược lại các xã trang
trại đầu tư thấp như Mỹ Yên (25 triệu đồng), Bản Ngoại (38 triệu đồng), Phú
Xuyên (45 triệu đồng).
Tổng vốn sản xuất các trang trại tính đến tháng 12/2007 là 8.965 triệu
đồng, trong đó 80,6% là vốn của chủ trang trại. Lượng vốn này còn nhỏ, bao
gồm vốn vay trực tiếp của ngân hàng (14,2%) và vay của bạn bè, người thân
hoặc vốn dự án, vốn đầu tư ứng trước (5,2%)...Nguồn vốn vay của trang trại
chủ yếu là vay tại Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT, chỉ có số ít trang trại
được vay vốn của Ngân hàng-Chính sách xã hội huyện, theo số liệu báo cáo
của Ngân hàng chính sách xã hội huyện Đại Từ trong 2 năm 2006-2007 chỉ có
4 trang trại/80 trang trại của huyện được vay vốn với tổng số lượng vay là 320
triệu đồng
13
.
Thực trạng này do các nguyên nhân:
- Thứ nhất người dân vẫn chưa quen với tư duy sản xuất mới, chỉ dựa
trên những gì mình có mà ít khi mạnh dạn vay vốn đầu tư mở rộng sản xuất.
13 Báo cáo tổng kết năm 2007 của Ngân hàng chính sách xã hội huyện Đại Từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
61
- Thứ hai hầu hết các chủ trang trại không đủ để đáp ứng những điều kiện
vay vốn của ngân hàng do đó gặp nhiều khó khăn khi huy động vốn từ nguồn
này.
Tỉ lệ vốn vay còn nhỏ phản ánh sức huy động vốn đầu tư vào sản xuất
nông nghiệp còn yếu, đồng thời cũng cho thấy khả năng làm giàu còn hạn chế
của một bộ phận đông đảo nông dân. Nếu như làm kinh tế trang trại chỉ có thể
là những người có sẵn tiền trong tay thì sẽ có hai hậu quả: Một là gây nên tình
trạng ứ đọng vốn trong các ngân hàng nông nghiệp, hai là chưa có điều kiện
thuận lợi để nâng cao nhanh mức sống cho đại bộ phận nông dân nghèo.
Biểu 8: Vốn sản xuất của trang trại năm 2007
Đơn vị tính: Triệu đồng
Xã, Thị Trấn
Tổng
vốn
đầu tƣ
của
trang
trại
Tổng vốn
đầu tƣ
Bình
quân
1 trang
trại
Vốn
của
Chủ
trang
Trại
Vốn
bình
quân của
chủ
1 trang
trại
Vốn vay
Ngân
Hàng
Vốn vay
Ngân hàng
Bình quân
1 trang
trại
Vốn
khác
TT Q Chu 665 95 545 77,9 85 12,14 35
Phúc Lương 225 45 190 38 10 2,00 25
Đức Lương 160 160 120 120 20 20,00 20
Phú Cường 220 73,3 175 58,3 0,00 45
Na Mao 473 118,3 355 88,75 90 22,50 28
Phú Lạc 336 84 284 71 25 6,25 27
Tân Linh 585 117 490 98 55 11,00 40
Phú Thịnh 135 135 120 120 10 10,00 5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
62
Phú Xuyên 45 45 40 40 0,00 5
Bản Ngoại 38 38 38 38 0,00
Tiên Hội 405 81 295 59 70 14,00 40
Hùng Sơn 2850 259,1 2168 197,1 600 54,55 82
Cù Vân 210 210 150 150 25 25,00 35
La Bằng 176 88 133 66,5 30 15,00 13
Hoàng
Nông
160 80 145 72,5 10 5,00 5
Khôi Kỳ 134 44,7 100 33,3 20 6,67 14
Tân Thái 610 87,1 525 75 80 11,43 5
Bình Thuận 421 140,3 370 123,3 30 10,00 21
Mỹ Yên 25 25 20 20 5 5,00 0
Vạn Thọ 185 92,5 158 79 27 13,50 0
Văn Yên 462 231 450 225 12 6,00
Cát Nê 315 45 250 50 59,14 8,45 5,86
Quân Chu 130 65 108 54 12 6,00 10
Tổng cộng 8965 102,58 7229 1954,65 1275,14 11,50 460,86
Nguồn: Điều tra của tác giả tháng 12/2007.
2.3.1.1.3. Lao động
Theo số liệu thống kê của phòng Thống kê huyện thì dân số của huyện
Đại Từ là trên 166 vạn người, chiếm 15,8% số dân cả tỉnh. Cả huyện có trên
80 nghìn lao động trong độ tuổi, trong đó tới 70% là lao động nông thôn.
Phần lớn các trang trại sử dụng lao động của gia đình là chính, một số có
thuê thêm lao động thời vụ và lao động thường xuyên, tiền công thoả thuận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
63
giữa hai bên. Tiền công thời vụ thường giao động từ 40 - 50.000đ/ngày công,
còn đối với lao động thường xuyên, khoảng 1.200.000đ/tháng.
Bình quân mỗi trang trại có khoảng 5,1 lao động, trong đó của chủ trang
trại bình quân là 2,7 người/trang trại, lao động thuê mướn thường xuyên
chiếm 33%. Các xã có tỉ lệ này cao là Hùng Sơn (40,7%), TT Quân Chu
(80%), Tân Thái (79%)... lao động thuê mướn thời vụ chiếm 32,99% bình
quân mỗi trang trại khoảng 1,9 người.
Biểu 9: Tình hình sử dụng lao động của các trang trại
Đơn vị tính: Người
Xã, Thị Trấn
Tổng số lao
động tham
gia sản xuất
của trang trại
Trong đó
Bình quân
lao động / 1
trang trại
Thuê ngoài Lao động tự
có của chủ
trang trại
Lao động
thƣờng
xuyên
Lao động
thuê thời
vụ
TT Q Chu 40 5 14 21 5,7
Phúc Lương 15 2 3 10 3
Đức Lương 3 1 2 3
Phú Cường 14 1 4 9 4,7
Na Mao 12 4 8 3
Phú Lạc 21 11 10 5,3
Tân Linh 20 6 2 12 4
Phú Thịnh 6 1 3 2 6
Phú Xuyên 5 1 1 3 5
Bản Ngoại 5 2 1 2 5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
64
Tiên Hội 25 1 6 18 5
Hùng Sơn 81 15 33 33 7,4
Cù Vân 4 1 3 4
La Bằng 14 6 8 7
Hoàng Nông 10 4 6 5
Khôi Kỳ 17 5 1 11 5,7
Tân Thái 41 5 19 17 5,9
Bình Thuận 15 3 4 8 5
Mỹ Yên 3 3 3
Vạn Thọ 10 2 3 5 5
Văn Yên 13 2 3 8 6,5
Cát Nê 28 5 7 16 4
Quân Chu 9 3 2 4 4,5
Tổng cộng 411 65 127 219 5,1
Nguồn: Điều tra của tác giả tháng 12/2007
Trình độ của lao động trong các trang trại nhìn chung còn thấp. Lớp học
cao nhất cho 1 người ở huyện Đại Từ là 3,9 triệu, riêng khu vực nông thôn là
3,8 (cao nhất cả nước)
14
. Tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất
kinh doanh hiện đại. Ngoài một số ít lao động chuyên môn làm các công việc
như vận hành máy móc, thiết bị, còn lại đại bộ phận là lao động phổ thông,
chưa đào tạo, chỉ có khả năng đảm nhận những công việc đơn giản như làm
đất, trồng cây, chăn gia súc, gia cầm...
14 Báo cáo đánh giá 3 năm (2002-2004) thực hiện chương trình phát triển kinh tế trang trại t ỉnh Thái Nguyên-
tháng 12/2004.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
65
Biểu 10: Thành phần xuất phát của các chủ trang trại
Đơn vị tính: Trang trại
Xã, Thị Trấn
Tổng số
các
trang
trại
Chia ra
Nông dân
Công chức
đƣơng
chức, cán
bộ xã
Cán bộ,
công nhân
hƣu trí
Bộ đội,
công an trở
lại địa
phƣơng
Khác
TT Q Chu 7 6 1
Phúc Lương 5 3 1 1
Đức Lương 1 1
Phú Cường 3 3
Na Mao 4 1 2 1
Phú Lạc 4 3 1
Tân Linh 5 4 1
Phú Thịnh 1 1
Phú Xuyên 1 1
Bản Ngoại 0
Tiên Hội 6 3 1 1 1
Hùng Sơn 10 9 1
Cù Vân 1 1
La Bằng 3 1 1 1
Hoàng Nông 1 1
Khôi Kỳ 3 1 1 1
Tân Thái 8 4 1 1 1 1
Bình Thuận 2 1 1
Mỹ Yên 2 1 1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
66
Vạn Thọ 2 2
Văn Yên 2 2
Cát Nê 7 5 1 1
Quân Chu 2 2
Tổng cộng 80 54 8 8 7 3
Nguồn: Điều tra của tác giả tháng 12/2007
Qua biểu 10 ta thấy các chủ trang trại xuất phát 7 nguồn chính, bao gồm:
Nông dân 54 người, Công chức đương nhiệm, cán bộ xã 8 người, cán bộ,
công nhân hưu trí 8 người, bộ đội, công an địa phương trở lại địa phương 7
người, còn lại 3 người là các thành phần khác.
Như vậy đại bộ phận các chủ trang trại xuất phát từ tầng lớp nông dân,
mới thoát ra từ sự thụ động của cơ chế bao cấp trong các hợp tác xã kiểu cũ
và bước đầu làm chủ kinh tế nông hộ là một điều còn mới mẻ, nên còn nhiều
bỡ ngỡ, còn mang dấu ấn nặng nề của kinh tế tự nhiên tự cấp, tự túc, nghiệp
vụ và bản lĩnh kinh doanh còn rất bất cập trước yêu cầu phát triển sản xuất
hàng hoá, đặt mình trong cơ chế thị trường, trong nhiều trường hợp vẫn chưa
quen hẳn với phương thức sản xuất và quản lý hiện đại. Theo điều tra, chỉ có
32,5% số chủ trang trại được đào tạo từ sơ cấp trở lên, số có trình độ trung
cấp chỉ chiếm 4,6%. Qua số liệu điều tra cho thấy thành phần chủ trang trại
ảnh hưởng lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh của trang trại, phần lớn các
trang trại có chủ trang trại là công chức nhà nước về hưu và cán bộ cấp xã thì
họ quản lý trang trại tốt hơn, các loại cây trồng, vật nuôi được lựa chọn vào
sản xuất phù hợp hơn với nhu cầu thị trường, tỷ lệ áp dụng khoa học kỹ thuật
mới nhiều hơn, vì vậy thu nhập của trang trại không ngừng tăng lên, trang trại
này càng được mở rộng hơn, quy mô hơn. Đối với cá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- doc208.pdf