Luận văn Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện những quan điểm, biện pháp để nền kinh tế nước ta phát triển

Tài liệu Luận văn Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện những quan điểm, biện pháp để nền kinh tế nước ta phát triển: LUẬN VĂN: Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện những quan điểm, biện pháp để nền kinh tế nước ta LỜI MỞ ĐẦU Năm 1986 trở về trước nền kinh tế nước ta là nền kinh tế sản xuất nhỏ, mang tính tự cung tự cấp vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Mặt khác do những sai lầm trong nhận thức về mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế nước ta ngày càng tụt hậu, khủng hoảng trầm trọng kéo dài, đời sống nhân dân thấp. Muốn thoát khỏi tình trạng đó con đường duy nhất là phải đổi mới kinh tế. Sau đại hôị Đảng VI năm 1986 nền kinh tế nước ta chuyển sang một hướng đi mới :phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa- đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc nghiên cứu về kinh tế thị trường-sự hình thành và phát triển có ý nghĩa vô cùng to lớn cả về lý thuyết lẫn thực tế. Một mặt, cho ta thấy được tính khách quan của nền kinh tế thị trườn...

pdf24 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1023 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện những quan điểm, biện pháp để nền kinh tế nước ta phát triển, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện những quan điểm, biện pháp để nền kinh tế nước ta LỜI MỞ ĐẦU Năm 1986 trở về trước nền kinh tế nước ta là nền kinh tế sản xuất nhỏ, mang tính tự cung tự cấp vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Mặt khác do những sai lầm trong nhận thức về mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế nước ta ngày càng tụt hậu, khủng hoảng trầm trọng kéo dài, đời sống nhân dân thấp. Muốn thoát khỏi tình trạng đó con đường duy nhất là phải đổi mới kinh tế. Sau đại hôị Đảng VI năm 1986 nền kinh tế nước ta chuyển sang một hướng đi mới :phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa- đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc nghiên cứu về kinh tế thị trường-sự hình thành và phát triển có ý nghĩa vô cùng to lớn cả về lý thuyết lẫn thực tế. Một mặt, cho ta thấy được tính khách quan của nền kinh tế thị trường, và sự cần thiết phải phát triển kinh tế Thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước ở nước ta hiện nay, thấy được những gì đã đạt được và chưa đạt được của Việt nam. Mặt khác, giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan về nền kinh tế nước nhà, đồng thời thấy được vai trò to lớn của quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường, những giải pháp nhằm đưa nước ta tiến nhanh lên nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở Việt Nam, phát triển kinh tế thị trường trong thực tế không những là nội dung của công cuộc đổi mới mà lớn hơn thế còn là công cụ, là phương thức để nước ta đi tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng vấn đề đặt ra là: Thực hiện mô hình này bằng cách nào để hạn chế tiêu cực, tăng tích cực giúp cho kinh tế nước ta ngày càng phát triển sánh vai cùng các cường quốc năm châu khác? Chính vì vậy, việc nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện những quan điểm, biện pháp để nền kinh tế nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa và giữ vững định hướng đó là công việc vô cùng thiết thực và cần thiết, có ý nghĩa to lớn đối với mỗi nhà nghiên cứu và phân tích kinh tế. Phần 1: Những vấn đề lý luận chung về nền kinh tế thị trường I. Kinh tế thị trường: - Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Nó là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định, là kết quả của quá trình phân công lao động xã hội, đa dạng hoá các hình thức sở hữu, đồng thời nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.  Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế mà ở đó các quan hệ kinh tế đều được thực hiện trên thị trường, thông qua quá trình trao đổi mua bán. Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá dựa trên sự phát triển rất cao của lực lượng sản xuất, trong đó từ sản xuất đến tiêu dùng đều thông qua thị trường – nghĩa là trong kinh tế thị trường , các yếu tố “đầu vào” (những hàng hoá dịch vụ cần cho sản xuất) và “đầu ra” (những hàng hoá, dịch vụ cần cho tiêu dùng) đều thông qua thị trường. Đồng thời trong kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hoá. Chính V.I.LêNin đã dùng khái niệm kinh tế tiền tệ để nói đến trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá dưới chủ nghĩa tư bản. Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, các mối quan hệ, môi trường, động lưc và các quy luật chi phối sự vận động của thị trường. Kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường có cùng nguồn gốc và bản chất với nhau nhưng khác nhau về trình độ phát triển. - Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. II. Các bước phát triển kinh tế thị trường: 1. Từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá giản đơn: a) Khái niệm Kinh tế tự nhiên, Kinh tế hàng hóa: - Kinh tế tự nhiên là kiểu sản xuất tự cung tự cấp, sản phẩm làm ra nhằm thoả mãn nhu cầu của người trực tiếp sản xuất ra nó. Kiểu sản xuất này gắn liền với nền sản xuất nhỏ, lực lượng lao động phát triển thấp, phân công lao động kém phát triển. - Sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức sản xuất trong đó sản phẩm làm ra không phải để đáp ứng nhu cầu của người trực tiếp sản xuất mà đáp ứng nhu cầu của XH thông qua trao đổi mua bán. b) Điều kiện để sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại: - Thứ nhất là phải có sự phân công lao động XH. - Thứ hai là phải có sự tách biệt tương đối giữa những người sản xuất về mặt kinh tế => Đây là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hoá. Thiếu một trong hai điều kiện trên sẽ không có sản xuất hàng hoá. c) So với sản xuất tự cung tự cấp thì sản xuất hàng hoá có những ưu thế hơn: - Khai thác được lợi thế tự nhiên. - Chuyên môn hóa sản xuất tăng, năng suất lao động tăng nhanh chóng, nhu cầu của XH được đáp ứng đầy đủ hơn. 2. Từ kinh tế hàng hoá giản đơn lên kinh tế thị trường tự do: Cơ chế thị trường tự do, các đơn vị cá biệt được tự do tác động lẫn nhau trên thị trường. Nó có thể mua sản phẩm từ các đơn vị kinh tế này hoặc bán sản phẩm cho các đơn vị kinh tế khác. Trong một thị trường, các giao dịch có thể thông qua trao đổi bằng tiền hay trao đổi bằng hiện vật (hàng đổi hàng). Việc hàng đổi hàng gặp không ít phức tạp, đôi khi không có hàng cần để trao đổi lẫn cho nhau; ví dụ, có khi khó tìm ra người đổi xe máy lấy một cây đàn. Do đó việc đưa tiền tệ vào làm vật trung gian cho sự trao đổi đã làm thuận lợi rất nhiều cho những cuộc giao dịch. Trong một nền kinh tế thị trường hiện đại, người ta mua hoặc bán các sản phẩm và dịch vụ thông qua tiền tệ. Trong cơ chế thị trường, vấn đề giá cả đã quyết định việc mua cái và bán cái gì. Việc phân bổ nguồn lực thông qua hệ thống giá cả. Quá trình điều chỉnh giá cả sẽ khuyến khích xã hội phân bố lại các nguồn lực để phản ánh được sự khan hiếm đã tăng lên của một loại hàng hóa nào đó. Thị trường mà nhà nước không can thiệp vào gọi là thị trường tự do. Các cá nhân trên thị trường tự do theo đuổi quyền lợi của riêng mình bằng cách cố gắng làm càng nhiều cho mình càng tốt tùy theo khả năng của mình, không có ai trợ giúp hoặc can thiệp của Chính phủ. Với những động cơ cá nhân như vậy, nhưng chính điều đó đã làm cho xã hội khá giả lên bằng cách tạo ra những việc làm và những cơ hội mới. Chính vì vậy, mà đường giới hạn khả năng sản xuất dịch ra xa hơn. 3. Từ kinh tế thị trường tự do lên kinh tế hỗn hợp: Thị trường tự do cho phép các cá nhân theo đuổi lợi ích riêng của mình mà không có sự can thiệp khống chế nào của Chính phủ. Kinh tế mệnh lệnh để cho tự do cá nhân về kinh tế một phạm vi rất hẹp, vì hầu hết các quyết định đều do Chính phủ đưa ra. Giữa hai thái cực đó là khu vực kinh tế hỗn hợp. Trong một nền kinh tế hỗn hợp, khu vực nhà nước và khu vực tư nhân tương tác với nhau trong việc giải quyết các vấn đề cơ bản của nền kinh tế. Chính phủ kiểm soát một phần đáng kể của sản lượng thông qua việc đánh thuế, thanh toán chuyển giao cung cấp các hàng hóa và dịch vụ như lực lượng vũ trang, cảnh sát. Chính phủ cũng điều tiết mức độ theo đuổi lợi ích cá nhân. Trong cơ chế hỗn hợp, Chính phủ cũng có thể đóng vai trò là nhà sản xuất các hàng hóa tư nhân thông qua các doanh nghiệp có vốn chi phối của nhà nước. Phần 2 : Sự hình thành, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam I. Sự cần thiết khách quan phải chuyển đổi - Cơ sở thực tiễn - Cơ sở lý luận: 1. Cơ chế cũ và hạn chế của nó - Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp - Thứ nhất, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn, định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương…đều do các cấp có thẩm quyền quyết định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà nước; lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước thu. - Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất và pháp lý đối với các quyết định của mình. Những thiệt hại vật chất do các quyết định không đúng gây ra thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu. Các doanh nghiệp không có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, cũng không bị ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất, kinh doanh. - Thứ ba, quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ “cấp phát – giao nộp”. Vì vậy, rất nhiều hang hóa quan trọng như sức lao động, phát minh sáng chế, tư liệu sản xuất quan trọng không được coi là hàng hóa về mặt pháp lý. - Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động, vừa sinh ra đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu nhưng lại được hưởng quyền lợi cao hơn người lao động. 2. Những mặt trái của kiểu tổ chức kinh tế chủ nghĩa tư bản: Chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chi phối. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, càng ngày mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản càng bộc lộ sâu sắc : không giải quyết được các vấn đề xã hội, làm tăng thêm tính bất công và bất ổn của xã hội, đào sâu thêm hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo. Hơn thế nữa, trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, nó còn ràng buộc các nước kém phát triển trong quỹ đạo bị lệ thuộc và bị bóc lột theo quan hệ “trung tâm – ngoại vi”. Có thể nói, nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa toàn cầu ngày nay là sự thống trị của một số ít nước lớn hay một số tập đoàn xuyên quốc gia đối với đa số các nước nghèo, làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các nước giàu và các nước nghèo. Chính vì thế mà, như C.Mác đã phân tích và dự báo, chủ nghĩa tư bản tất yếu phải nhường chỗ cho một phương thức sản xuất và chế độ mới văn minh hơn, nhân đạo hơn. nghiệp. Đây là tất yếu khách quan, là quy luật phát triển của xã hội. Nhân loại muốn tiến lên, xã hội muốn phát triển thì dứt khoát không thể dừng lại ở kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. 3. Thực tế suốt hơn 70 năm tồn tại, chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô đã đạt được nhiều thành tựu vĩ đại, làm thay đổi hẳn bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân Liên Xô. Nhưng có lẽ do nôn nóng, làm trái quy luật (muốn xóa bỏ ngay kinh tế hàng hóa, áp dụng ngay cơ chế kinh tế phi thị trường), không năng động, kịp thời điều chỉnh khi cần thiết cho nên rút cuộc đã không thành công. 4. Chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa: a) Tư duy của Đảng về nền kinh tế thị trường từ đại hội VI đến đại hội VIII :  Kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghỉa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại. - Trong một nền kinh tế khi hàng hóa được phân bổ theo nguyên tắc thị trường thì được gọi là nền kinh tế thị trường. - Kinh tế thị trường đã có mầm mống từ trong xã hội nô lệ hình thành trong xã hội phong kiến và phát triển cao trong xã hội tư bản chủ nghĩa. - Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển cao đạt đến trình độ thị trường trở thành yếu tố quyết định sự tồn tại của người sản xuất hàng hóa. Kinh tế thị trường lấy khoa học, công nghệ hiện đại làm cơ sở và nền sản xuất xã hội hóa cao. - Chủ nghỉa tư bản không sản sinh ra kinh tế hàng hóa, do đó kinh tế thị trường với tư cách là kinh tế hàng hóa ở trình độ cao không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại.  Kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghỉa xã hội. - Kinh tế thị trường chỉ đối lập với nền kinh tế tự nhiên tự cung tự cấp chứ không đối lập với chế độ xã hội. Kinh tế thị trường tồn tại dưới nhiều phương thức khác nhau. Kinh tế thị trường vừa có liên hệ với chế độ công hữu vừa có liên hệ với chế độ tư hữu và phục vụ choc hung. Vì vậy nó tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. - Đại hội Đảng đã đưa ra kết luận quan trọng rằng sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội nó tồn tại khách quan và cần thiết cho xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội cũng xác định cơ chế vận hành của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác.  Có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Kinh tế thị trường ở bất kỳ xã hội nào khi lấy thị trường làm phương tiện có tính cơ sở để phân bổ các nguồn lực kinh tế thì đều có những đặc điểm sau : - Các chủ thể kinh tế có tính độc lập có nghĩa là có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, lỗ, lãi tự chịu. - Giá cả cơ bản do cung cầu điều tiết hệ thống thi trường phát triển đồng bộ và hoàn hảo - Nền kinh tế có tính mở cao và vận hành theo quy luật vốn có của thị trường như quy luật giá trị quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh. - Có hệ thống pháp quy kiện toàn và sự quản lý vĩ mô của nhà nước ở nền kinh tế thị trường có vai trò rất lớn đối với sự phát triển của kinh tế xã hội. b) Tư tưởng của Đảng về kinh tế thị trường từ đại hội IX đến đại hội X: - Đại hội XI xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. - Đại hội XI xác định kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội là kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. - Đại hội X kế thừa đại hội IX đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của chủ nghĩa xã hội trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta thể hiện:  Về mục đích phát triển: Thực hiện dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh, giải phóng lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng. Mục tiêu vì con người giải phóng lực lượng sản xuất phát triển kinh tế để nâng cao đời sống cho mọi người, mọi người đều được hưởng những thành quả phát triển.  Về phương hướng phát triển: Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với kinh tế nhà nước giưc vai trò chủ đạo và nền kinh tế phải dựa trên nền tảng của sở hữu toàn dân về các tư liệu sản xuất chủ yếu.  Về định hướng xã hội và phân phối : Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, hạn chế tiêu cực trong nền kinh tế thị trường. Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế và phúc lợi xã hội.  Về quản lý: Phát huy vai trò của nhân dân đảm bảo vai trò quản lý của nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. II. Quá trình hình thành kinh tế thị trường ở nước ta : Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay. 1. Trước năm 1986 : - Khác với một số nước Đông Âu, chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.Bởi vậy chúng ta gặp rất nhiều khó khăn trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế. Để sớm có chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã sử dụng mô hình kinh tế mà LiênXô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đang có . Để là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với sự thống trị của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức: sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, trong đó sở hữu toàn dân đóng vai trò chủ đạo. - Xuất phát từ quan niệm nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là một nền kinh tế phát triển có kế hoạch, quy luật phát triển có kế hoạch và cân đối nền kinh tế quốc dân là quy luật đắc thù riêng của chủ nghĩa xã hội, nên nhà nước ta đã lấy kế hoạch hoá làm công cụ chủ yếu để quản lý nền kinh tế. Như vậy trong thời kì này đã nhận thức rõ tầm quan trọng có ý nghĩa chi phối của các chính sách kinh tế vĩ mô đối với các hoạt động kinh tế. - Nhưng nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính, các cơ quan nhà nước thì can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Các cơ sở sản xuất (quốc doanh và tập thể chiếm đại bộ phạn, thành phần kinh tế cá thể nhỏ bé, không đáng kể việc sản xuất cái gì bao nhiêu, như thế nào và bán cho ai đều là do nhà nước quyết định và theo một kế hoạch thống nhất từ trung ương. Các cơ sở sản xuất chỉ là người chấp hành một cách thụ động. - Việc quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã giúp chúng ta giải quyết được một số vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng nhất là việc huy động nhân tài, vật lực phục vụ cho cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, giải phóng Miền nam, thống nhất đất nước. - Nhưng khi đất nước được hoà bình, thống nhất và bước vào thời kỳ xây dựng, phát triển kinh tế thì cơ chế quản lý này bộc lộ nhược điểm cơ bản là nó thiếu động lực cho sự phát triển. - Trên thực tế, kinh tế hàng hoá vẫn được thừa nhận, quan hệ hàng hoá tiền tệ được thừa nhận nhưng thực chất đó chỉ là kinh tế hàng hoá một thành phần - thành phần xã hội chủ nghĩa, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới hình thức: toàn dân và tập thể. 2. Sau năm 1986 : - Đó là thời kỳ đổi mới toàn diện Mô hình kinh tế thông qua nghị quyết của các đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ Vi, VII, VIII. Mô hình kinh tế bị xoá bỏ, mô hình kinh tế mới được xây dựng phù hợp với quy luật kinh tế khách quan, với trình độ phát triển nền kinh tế. - Trong thời kỳ này, đã diễn ra sự biến đổi cơ bản trong mô hình kinh tế, từ mô hình quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội sang mô hình quá độ gián tiếp, tức là chuyển sang mô hình kinh tế lấy sản xuất và trao đổi hàng hoá trong nền kinh tế nhiều thành phần ở một nước kém phát triển về kinh tế làm nội dung cốt lõi. Đây là mô hình kinh tế được xây dựng trên cơ sở tổng kết thực tiễn chủ nghĩa xã hội của nước ta, vận dụng một cách có phát triển sang tạo những quan điểm cơ bản của Lênin về “chính sách kinh tế mới” vào những điều kiện lịch sử ở nước ta và thế giới ngày nay, đặc biệt khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. - Thực hiện mô hình kinh tế mới nhằm mục tiêu căn bản, cấp thiết là tăng nhanh lực lượng sản xuất, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, tạo cơ sở vật chất và xã hội hoá từng bước nền sản xuất xã hội. - Thực tiễn kinh tế đất nước từ khi chuyển sang mô hình kinh tế mới đã và đang chứng minh tính khách quan khoa học, tính hiệu quả cao của mô hình kinh tế đó. Chỉ trong một thời gian ngắn mô hình kinh tế mới đã đem lại những thành tựu rất quan trọng, góp phần quyết định đưa nước ta thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội gay gắt và tạo ra những tiền đề cho thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Là một mô hình kinh tế hoàn toàn mới chưa hề có trong lịch sử, mà thời gian đưa vào thực hiện chưa được bao lâu nên chúng ta chưa thể xem đó là mô hình đã xong xuôi, hoàn chỉnh. Còn cần phải cói thời gian và kinh nghiệm thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện mô hình đó. - Nói tóm lại, sau năm 1986 nền kinh tế nước ta đã đạt được thành tựu đáng kể. Nền kinh tế chuyển dần từ đóng sang mở, làm xuất hiện nhiều Thị trường với quy mô lớn; đời sống nhân dân được cải thiện, kinh tế đất nước tăng trưởng. Song nước ta vẫn là một nước chậm phát triển, công nghệ Kĩ thuật lạc hậu, nền kinh tế còn tồn tại nhiều vấn đề bức xúc. III. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam: 1. Về chế độ sở hữu: Nền kinh tế dựa trên cơ sở cơ cấu đa dạng về hình thức sở hữu , trong đó sở hữu làm chủ đạo. Do đó nền kinh tế gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo .Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta tồn tại ba loại hình sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hưũ tập thể, sở hữu tư nhân. Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.Việc xác định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là sự khác biệt có tính chất bản chất giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường cuả các nước khác. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta đã quy định kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Bởi lẽ, mỗi một chế độ xã hội đều có một cơ sở kinh tế tương ứng với nó, kinh tế nhà nước, nói đúng ra kinh tế dựa trên chế độ công hữu bao gồm kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác, tạo cơ sở kinh tế cho chế độ xã hội mới – xã hội chủ nghĩa. 2. Về quan hệ phân phối: Nước ta thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập: phân phối theo kết qủa lao động và hiệu quả kinh tế, phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực và sản xuất kinh doanh, và phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội,trong đó phân phối theo kết quả lao động giữ vai trò nòng cốt, đi đôi với chính sách điều tiết thu nhập một cách hợp lí Như đã biết, mỗi chế độ xã hội có một chế độ phân phối tương ứng với nó. Chế độ phân phối do quan hệ sản xuất thống trị, trước hết là quan hệ sở hữu quyết định. Phân phối có liên quan đến chế độ chính trị, xã hội. Chủ nghĩa xã hội có đặc trưng riêng về sở hữu do đó chế độ phân phối cũng có đặc trưng riêng, phân phối theo lao động là đặc trưng riêng của chủ nghĩa xã hội. Mà thu nhập của người lao động không phải chỉ giới han ở giá trị sức lao động, mà nó phải vượt qua đại lượng đó, nó phụ thuộc chủ yếu vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Việc đo lường trực tiếp lao động là một vấn đề quá phức tạp và kho khăn, nhưng trong nền kinh tế thị trường, có thể thong qua thị trường để đánh giá kết quả lao động, sự cống hiến thực tế và dựa vào đó để phân phối. Kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội, kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội và nguyên tắc của kinh tế thị trường. 3. Cơ chế quản lý - vận hành nền kinh tế: - Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa: Sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế nhằm bảo đảm môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi cho sự thống trị của giai cấp tư sản. - Trong nền kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa, sự quản lý của nhà nước lại nhằm mục đích bảo vệ những quyền lợi chính đáng của tập thể nhân dân lao động. - Cơ chế vận hành kinh tế thị trường định hưóng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam. Cơ chế đó đó đảm bảo tính hướng dẫn, điều khiển hướng tới đích xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế theo phương châm: nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp. - Trong điều hành quản lý vĩ mô nền kinh tế. Nhà nước cần hạn chế tối đa những mệnh lệnh hành chính để cho các hoạt động thị trường được diễn ra chủ yếu theo sự hướng dẫn của quy luật giá trị, cung-cầu, cạnh tranh; đảm bảo nguyên tắc thị trường “tự điều chỉnh”. Mặt khác, do trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là thị trường tự điều tiết kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thơì kỳ, do đó còn phải chịu sự điều chỉnh, quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Do vậy, không thể xem các quan hệ thị trường hoạt động theo quy luật, biệp lập hoàn toàn với kế hoạch hoá định hướng và các chính sách kinh tế của nhà nước. - Cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện rõ các mặt cơ bản :  Một là, nhà nước xã hội chủ nghĩa - nhà nước của dân, do dân và vì dân - là nhân tố đóng vai trò “nhân vật trung tâm” và điều tiết nền kinh tế vĩ mô nhằm tạo dựng và đảm bảo môi trường pháp lý, kinh tế xã hội thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường, thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo công bằng xã hội; can thiệp trực tiếp vào các hoạt động kinh tế để đạt được các mục tiêu đặt ra.  Hai là, cơ chế thị trường là nhân tố “trung gian” của nền kinh tế, Đóng vai trò “trung gian” giữa nhà nước và doanh nghiệp. - Một vấn đề quan trọng nước ta quản lý nền kinh tế - xã hội theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo về lợi ích của người lao động và của toàn thể nhân dân. IV. Thực trạng nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay : 1. Một số thành tựu đạt được: Từ những nhận định đúng đắn về KTTT định hướng XHCN Đảng và nhà nước ta đã có những bước đi đúng đắn, đề ra những chính sách phù hợp, chúng ta đã đạt được những thành tựu bước đầu, là bằng chứng xác thực nhất cho sự lựa chọn đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, có tác dụng khích lệ to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trong tình hinh thế giới đang diễn biến phức tạp. Kinh tế tăng trưởng khá, văn hoá xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân đang từng bước được cải thiện, tình hình chính trị- xã hội cơ bản ổn định, hệ thống chính trị được củng cố, quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt được nhiều kết quả khả quan. Cụ thể, thông qua việc thực hiện các chiến lược 10 năm(1991- 2000) chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng: - Đất nước đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, tổng sản phẩm tăng 2,07 lần, tích luỹ nội bộ của nền kinh tế đã đạt 27% GDP, nền kinh tế từ tình trạng hàng hoá khan hiếm, nay sản xuất đã đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế, tăng xuất khẩu và có dự trữ, kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội phát triển nhanh, có sự chuyển dịch về cơ cấu nền kinh tế: tỷ trọng nông nghiệp giảm( từ 38,7% xuống còn 24,3% GDP) công nghiệp, xây dựng tăng (từ 22,7 % đến 36,6 % GDP), dịch vụ cũng tăng (từ 38,6 % lên 39,1%). - Quan hệ sản xuất đang từng bước phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang dần hình thành. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đang ngày càng phát huy vai trò chủ đạo nền kinh tế của mình. - Quan hệ đối ngoại cũng ngày càng mở rộng góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng bước đầu của nền kinh tế. Không những tăng về kim ngạch xuất khẩu mà còn thu hút được một lượng khá lớn vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến từ bên ngoài. - Không chỉ trong kinh tế, về văn hoá, xã hội cùng với sự cố gắng to lớn của toàn đảng, toàn dân ta cũng có sự chuyển biến tích cực: từ những thành tựu về kinh tế đạt được đã tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân, mục tiêu phấn đấu bây giờ không chỉ còn là đủ ăn nữa mà phải có của ăn của để. Hơn thế nữa các mặt về y tế, giáo dục, giải trí… đã có sự quan tâm rõ rệt nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống. 2. Thực trạng kém phát triển của nền KTTT ở nước ta: Tuy đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng nhìn chung chúng ta vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, vẫn là một nước nghèo, kém phát triển. - Sức cạnh tranh của hàng hoá còn yếu, năng suất lao động và tích luỹ còn thấp, kỹ thuật công nghệ lạc hậu. - Việc chuyển dịch cơ cấu còn chậm, lao động nông nghiệp vẫn chiếm 75%, dân số và việc làm luôn luôn là những vấn đề gay gắt. - Phân công lao động xã hội chưa phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, cơ sở hạ tầng còn yếu kém. - Sự phát triển sản xuất hàng hoá vẫn còn khá chênh lệch giữa các vùng và các ngành. - Bộ máy tổ chức cán bộ còn công kềnh và nhiều bất cập gây chồng chéo và lãng phí. - Thực lực kinh tế còn yếu kém nên chưa tạo ra sức hút mạnh mẽ tới các nhà đầu tư nước ngoài - Vẫn còn có nơi có lúc tư duy còn chịu ảnh hưởng của cơ chế cũ, gây khó khăn cản trở sự phát triển của các chủ thể kinh tế, chưa thực sự bình đẳng và yên tâm đầu tư kinh doanh. Những yếu kém kể trên một phần là do nhiều nguyên nhân, trước hết: - Điều kiện khách quan: nước ta chịu hậu quả nặng nề của nhiều năm có chiến tranh trước đó làm cho nền kinh tế bị tàn phá nặng nề mà không chỉ trong một thời gian ngắn có thể khôi phục được. - Tuy nhiên nguyên nhan chính là do những hậu quả của cơ chế cũ để lại, mà khuyết điểm lớn thuộc về công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành, những quan nhiệm giản đơn trong việc bố trí cơ cấu kinh tế , cơ cấu đầu tư, cho đến việc duy ý chí trong việc hoạch định chính sách kinh tế, đặt ý chí chủ quan vào đời sống kinh tế - xã hội không phù hợp với lợi ích quần chúng. - Mặt khác phải thừa nhận một thực tế đây là một sự chuyển đổi khá phức tạp, do đó không tránh khỏi thời kỳ đầu phải chấp nhận tình trạng thị trường thiếu, rối loạn, tiêu cực trongkhi các nhân tố có sứ mệnh tạo ra trật tự là hệ thống ngân hàng, tài chính, bộ máy nhà nước, doanh nghiệp lớn còn đang ở bước thích nghi. V . Giải pháp phát triển kinh tế thị trường nước ta hiện nay : 1. Đẩy mạnh quá trình phân công và phân công lại lao động ở nước ta - Phân công lao động xã hội là của sản xuất hàng hoá, của phát triển kinh tế thị trường. Vì vậy quá trình phát triển kinh tế thị trường ở nước ta đòi hỏi phải đẩy mạnh phân công và phân công lại lao động xã hội. - Ở nước ta, đẩy mạnh phân công lại lao động xã hội cũng đồng nghĩa với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hoá đất nước. Trong bối cảnh thế giới hiện đại, công nghiệp hoá ở nước ta phải kết hợp chặt chẽ hai chiến lược công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu. Để thực hiện chiến lược này, cần phải phân công lại lao động để phát triển những ngành, những lĩnh vực mà đất nước có lợi thế so sánh trong việc sản xuất, thúc đẩy xuất khẩu. Trước mắt đó là các ngành: nông nghiệp, công nghiệp dệt may, công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản, công nghiệp lắp ráp, điện tử và một số lĩnh vực khác. Thông qua việc phát triển và xuất khẩu những hàng hoá này cần tranh thủ nhập được những công nghệ thích hợp để cải tiến trình độ công nghệ và kỹ thuật sản xuất hiện nay. Điều đó cho phép vừa đa dạng hoá ngành nghề, vừa từng bước đổi mới trình độ lao động trong nước phù hợp với trình độ quốc tế và khu vực. 2. Xây dựng lại các cơ sở hạ tầng - Phát triển kết cấu hạ tầng đảm bảo sự giao lưu thông suốt trong mọi thời tiết trên các tuyến giao thông huyết mạch, các tuyến nhánh đến các vùng, các trung tâm miền núi. Trong từng vùng, điện nước giao thông thông tin được đáp ứng theo yêu cầu của mức độ phát triển - Đầu tư xây dựng mới theo hướng đồng bộ, hiện đại các công trình giao thông tại các cửa khẩu ( sân bay, hải cảng quốc tế), các hành lang quan trọng tới cửa khẩu nội địa, tại các vùng kinh tế trọng điểm, tuyến trục Bắc - Nam. - Mở rộng và nâng cấp sân bay quốc tế và các sân bay khác. Cải tạo và mở rộng cảng, phát triển mạng lưới bưu chính viễn thông hiện đại, đồng bộ, phát triển và nâng cấp mạng lưới điện. 3. Về cách mạng khoa học kỹ thuật - công nghệ - Đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đi đôi với tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới từ nước ngoài - Chọn giải pháp kỹ thuật, công nghệ phù hợp để đầu tư chiều sâu, tận dụng có hiệu quả các chính sách hiện có sau những năm xây dựng trước đây - Cải tiến, nâng cấp, hiện đại hoá các kỹ thuật và công nghệ truyền thống phục vụ phát triển kinh tế nông thôn, thực hiện công nghiệp hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn. - Tranh thủ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là đối với các dự án đầu tư nước ngoài. thực hiện giám định nghiêm ngặt việc nhập công nghệ và thiết bị. - Gấp rút nâng cao năng lực khoa học và công nghệ quốc gia nhằm đổi mới và làm chủ công nghệ nhập và sáng tạo công nghệ mới. ưu tiên nghiên cứu, ứng dụng tập trung trong các lĩnh vực công nghiệp điện tử và tin học, công nghiệp sinh học, công nghiệp chế tạo và gia công vật liệu nhất là nguồn vật liệu trong nước. Chú trọng đúng mức các hoạt động nghiên cứu khoa học cơ bản. - Tăng đầu tư bằng nhiều nguồn vốn cho việc nghiên cứu khoa học, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học, phát triển giáo dục và đào tạo, có cơ chế bồi dưỡng và bảo vệ nhân tài. 4. Kinh tế đối ngoại - Thu hút ngày càng nhiều vốn và công nghệ hiện đại của các nước thông qua vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp - Quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá để tránh lệ thuộc, nhưng cần ưu tiên cho khu vực Châu á Thái Bình Dương. - Sử dụng có hiệu quả lợi thế so sánh trong xuất nhập khẩu, trong phân công và hợp tác quốc tế về lao động. - Coi trọng việc đào tạo người có năng lực và bản lĩnh để sử dụng có hiệu quả vốn nước ngoài, để nhận chuyển giao công nghệ mới của nước ngoài không mắc những sai lầm đáng tiếc có thể xẩy ra. - Phát triển thị trường ngoài nước, đẩy mạnh hoạt động ngoại thương: phải thực hiện xuất siêu. muốn vậy cần phải xuất thành phẩm chứ không xuất nguyên liệu. Khuyến khích phát triển công nghiệp, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, chế biến đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế để thu hút được giá trị cao cho hàng xuất khẩu cho chính sách bảo hộ hợp lý để khuyến khích các ngành kinh tế trong nước phát triển thu hút công nghệ - khoa học kỹ thuật từ bên ngoài; ngăn chặn nhập những hàng hoá mà trong nước có thể sản xuất và đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng. 5. Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường - Đối với thị trường hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ: Phải tăng quy mô tiêu dùng và dịch vụ với chủng loại ngày càng phong phú và chất lượng ngày càng nâng cao. Việc phát triển thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ đòi hỏi phải tăng dung lượng thị trường, tăng khối lượng hàng hoá và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu về ăn mặc, ở, đi lại, học tập, chữa bệnh….cho nhân dân. Cần khai thác thế mạnh của đất nước về đất đai, rừng, biển, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng, chế biến để có nguồn hàng ngày càng lớn đáp ứng nhu cầu. - Đồng thời cùng với số lượng phải chú ý đến chủng loại phong phú và nâng cao chất lượng để đáp ứng nhu cầu đa dạng và ngày càng cao. Từng bước giảm giá cả hàng tiêu dùng và dịch vụ: giảm chi phí sản xuất để làm cơ sở cho việc giảm giá và tăng khối lượng sản phẩm cung ứng trên thị trường - Đối với thị trường các yếu tố sản xuất : Thị trường các yếu tố sản xuất bao gồm: thị trường vốn, thị trường sức lao động và thị trường các điều kiện vật chất khác cho quá trình sản xuất. Muốn thực hiện tái sản xuất mở rộng thì vốn và tư liệu sản xuất cần nhận được một phần bổ sung từ giá trị sản phẩm thặng dư, tài sản phải được tham gia vào phân chia lợi nhuận. - Ta cần phải thực hiện cân bằng giữa các loại thị trường: Cần xoá bỏ chế độ bao cấp trong phân phối sử dụng các yếu tố sản xuất và vật phẩm tiêu dùng, dịch vụ chuyển chúng sang quan hệ hàng hóa thị trường một cách hoàn toàn. Có nghĩa toàn bộ nhân tố sản xuất, vật phẩm tiêu dùng, dịch vụ đều được mua bán trên hai thị trường một cách tự do. - Phải tuân thủ nguyên tắc tự do giá cả. Giá cả không thể áp đặt bằng mệnh lệnh hành chính, mà nó được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa người mua và người bán. Tự do giá cả không có nghĩa là cứ để mặc cho giá cả thị trường lên xuống mất ổn định. Nhà nước cần phải có lực lượng hàng hóa dự trữ và có biện pháp ổn định tiền tệ 6. Vai trò kinh tế của Nhà nước Nhà nước có vai trò điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế thị trường ở tầm vĩ mô bằng cách sử dụng đồng bộ và có hiệu quả các công cụ sau: - Nhà nước ban hành các pháp luật kinh tế - Nhà nước thực hiện kế hoạch hoá ở tầm vĩ mô lẫn vi mô: Đặt kế hoạch hoá trong sự gắn bó với chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, gắn bó với quy hoạch tổng thể và phân bố lực lượng sản xuất lấy kinh tế thị trường làm đối tượng để kế hoạch hoá vĩ mô thông qua hệ thống chi tiêu cân đối lớn định hướng trong từng thời kì - Tổ chức tốt thông tin và dự báo tình hình trong nước và thế giới về các mặt có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh cho các chủ thể doanh nghiệp - Nhà nước thực hiện chính sách tài chính quốc gia: Xây dựng một chính sách tài chính quốc gia lành mạnh, trên cơ sở thu đúng và chi đúng, trên cơ sở thu đủ và chi đủ, chống thất thu dưới mọi hình thức. Khắc phục có hiệu quả những lãng phí, tệ tham nhũng mang tính phổ biến và trầm trọng hiện nay. - Khắc phục tình trạng bội chi tiến tới thực hiện một ngân sách thăng bằng thu chi và có dư cho tài khoá sau - Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia: Ngân hàng trung ương trên cơ sở thực hiện tốt việc điều hoà lưu thông tiền, khống chế và kiềm toả lượng tiền phát hành góp phần ổn định kinh tế, giá cả, khống chế và kiềm toả lạm phát ở mức bình thường, đề phòng và ngăn chặn những hiện tượng tái phát. Củng cố sức mua của đồng tiền Việt Nam, để có thể trở thành đồng tiền có khả năng chuyển đổi. Phân định rõ chức năng quản lý vĩ mô của nhà nước và chức năng sản xuất kinh doanh. Đầu tư và phát triển nhanh thị trường chứng khoán - Đối với các doanh nghiệp Nhà nước thì Nhà nước phải chi phối và hướng hoạt động của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đi theo định hướng đã xác định. Nắm các ngành thuộc kết cấu hạ tầng dịch vụ sản xuất kinh doanh. Đối với ngành kinh tế phải nắm những mặt hàng thuộc quốc kế dân sinh, mang tính công cộng. Phân biệt doanh nghiệp nhà nước với sở hữu hỗn hợp của các doanh nghiệp liên doanh, liên kết, công ty cổ phần. Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm căn cứ đánh giá và tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước - Tăng cường dự trữ quốc gia và tạo một ngân sách và kho bạc Nhà nước lành mạnh - Hệ thống thuế: Nhà nước phải có được những chính sách thuế đúng đắn để có tác dụng tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, khuyến khích sản xuất, ngăn chặn những tác động tiêu cực trong nền kinh tế, điều tiết sản xuất và tiêu dùng, thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài. 7. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội - Hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng xã hội, coi đây là một nội dung rất quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính ưu việt của chế độ xã hội mới. Điều đó chẳng những tạo động lực mạnh mẽ nhằm phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động mà còn thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu chính đáng và hợp pháp, điều tiết các quan hệ xã hội. - Trong tình hình cụ thể hiện nay ở Việt Nam, phải bằng nhiều giải pháp tạo ra nhiều việc làm mới. Chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động, phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Từng bước mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Sớm xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm cho người lao động thất nghiệp. Cải cách cơ bản chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, khuyến khích người có tài, người làm việc giỏi, khắc phục tình trạng lương và trợ cấp bất hợp lý; tôn trọng thu nhập hợp pháp của người kinh doanh. - Tiếp tục thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc những người có công với nước, thương binh, bệnh binh, cha mẹ, vợ con liệt sĩ, gia đình chính sách – một yêu cầu rất lớn đối với một đất nước phải chịu nhiều hậu quả sau 30 năm chiến tranh. Đồng thời đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn trật tự và kỷ cương xã hội, ngăn chặn và bài trừ các tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn ma tuý, mại dâm, lối sống không lành mạnh, những hành vi trái pháp luật và đạo lý. Kiên quyết đấu tranh với tệ tham nhũng, hối lộ, làm giàu bất chính, kinh doanh không hợp pháp, gian lận thương mại… cùng với những tiêu cực khác do mặt trái của cơ chế thị trường gây ra. Kết quả cụ thể của cuộc đấu tranh này là thước đo bản lĩnh, trình độ và năng lực quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. 8. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản. - Đây là vấn đề có tính nguyên tắc và là nhân tố quyết định nhất bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường, cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển của đất nước. Đây cũng là một trong những bài học lớn nhất được rút ra trong những năm đổi mới. - Càng đi vào kinh tế thị trường, thực hiện dân chủ hóa xã hội, mở rộng hợp tác quốc tế càng phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thực tế ở một số nước cho thấy, chỉ cần một chút mơ hồ, buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng là lập tức tạo điều kiện cho các thế lực thù địch dấn tới phá rã sự lãnh đạo của Đảng, cướp chính quyền, đưa đất nước đi con đường khác. - Hiện nay, có ý kiến cho rằng, đã chuyển sang kinh tế thị trường – tức là nền kinh tế vận động theo quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… thì không cần phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sự lãnh đạo của Đảng nhiều khi cản trở, làm “vướng chân” sự vận hành của kinh tế. Ý kiến này không đúng và thậm chí rất sai lầm. Bởi vì như trên đã nói, Việt Nam chủ trương phát triển kinh tế thị trường nhưng không phải để cho nó vận động một cách tự phát, mù quáng mà phải có lãnh đạo, hướng dẫn, điều tiết, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, vì lợi ích của đại đa số nhân dân, vì một xã hội công bằng và văn minh. Người có khả năng và điều kiện làm được việc đó không thể ai khác ngoài Đảng Cộng sản – là đảng phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, thật sự đại diện và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. - Đảng lãnh đạo có nghĩa là Đảng đề ra đường lối, chiến lược phát triển của đất nước nói chung, của lĩnh vực kinh tế nói riêng, bảo đảm tính chính trị, tính định hướng đúng đắn trong sự phát triển kinh tế, làm cho kinh tế chẳng những có tốc độ tăng trưởng và năng suất lao động cao, có lực lượng sản xuất không ngừng lớn mạnh mà còn đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là hạn chế được bất công, bóc lột, chăm lo và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Trên cơ sở đường lối, chiến lược đó, Đảng lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị và guồng máy xã hội, trước hết là Nhà nước, tổ chức thực hiện bằng được phương hướng và nhiệm vụ đã đề ra. - Đương nhiên, để có đủ trình độ, năng lực lãnh đạo, Đảng phải thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, được nhân dân tin cậy và ủng hộ. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng, có trí tuệ, có kiến thức, giữ gìn đạo đức cách mạng và lối sống lành mạnh, đấu tranh khắc phục có hiệu quả tệ tham nhũng và các hiện tượng thoái hóa, hư hỏng trong Đảng và trong bộ máy của Nhà nước. KẾT LUẬN Sự hình thành tư duy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ đơn thuần là sự tìm tòi và phát kiến về mặt lý luận của chủ nghĩa xã hội, mà còn là sự lựa chọn và khẳng định con đường và mô hình phát triển trong thực tiễn mang tính cách mạng và sáng tạo của Việt Nam. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình tất yếu phù hợp với quy luật phát triển của thời đại và đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Tuy nhiên, đây là sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp, lâu dài, bởi lẽ nó rất mới mẻ, chưa có tiền lệ, phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Riêng về mặt lý luận cũng còn không ít vấn đề phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu, tổng kết, làm sáng tỏ. Chẳng hạn như: các vấn đề về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế; về lao động và bóc lột; về quản lý doanh nghiệp nhà nước ra sao để nó đóng được vai trò chủ đạo; làm thế nào để thực hiện được công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế còn thấp kém; vấn đề bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong điều kiện phát triển kinh tế nhiều thành phần; các giải pháp tăng cường sức mạnh và hiệu lực của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, chống quan liêu, tham nhũng, v.v.. Với phương châm “Hãy bắt tay vào hành động, thực tiễn sẽ cho câu trả lời”, hy vọng rằng từng bước, từng bước, thực tiễn sẽ làm sáng tỏ được các vấn đề nêu trên, góp phần làm phong phú thêm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện Việt Nam trong thời đại ngày nay. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1 Phần 1: Những vấn đề lý luận chung về nền kinh tế thị trường .............................. 3 I. Kinh tế thị trường: .......................................................................................... 3 II. Các bước phát triển kinh tế thị trường: ..................................................... 4 1. Từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá giản đơn: ................................ 4 2. Từ kinh tế hàng hoá giản đơn lên kinh tế thị trường tự do: ...................... 4 3. Từ kinh tế thị trường tự do lên kinh tế hỗn hợp: .......................................... 5 Phần 2 : Sự hình thành, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ....................................................................................................... 5 I. Sự cần thiết khách quan phải chuyển đổi - Cơ sở thực tiễn - Cơ sở lý luận: 5 1. Cơ chế cũ và hạn chế của nó - Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp ................................................................................................................ 5 2. Những mặt trái của kiểu tổ chức kinh tế chủ nghĩa tư bản: ...................... 6 4. Chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa: ..................................................................................... 7 II. Quá trình hình thành kinh tế thị trường ở nước ta : ................................. 9 1. Trước năm 1986 : ........................................................................................ 9 2. Sau năm 1986 : .............................................................................................. 10 III. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam: ...................................... 11 1. Về chế độ sở hữu: .......................................................................................... 11 2. Về quan hệ phân phối: .............................................................................. 12 3. Cơ chế quản lý - vận hành nền kinh tế: .................................................... 13 IV. Thực trạng nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay : ................................. 14 1. Một số thành tựu đạt được: ...................................................................... 14 V . Giải pháp phát triển kinh tế thị trường nước ta hiện nay : .......................... 16 1. Đẩy mạnh quá trình phân công và phân công lại lao động ở nước ta ......... .................................................................................................................... 16 2. Xây dựng lại các cơ sở hạ tầng .................................................................. 16 3. Về cách mạng khoa học kỹ thuật - công nghệ .......................................... 17 4. Kinh tế đối ngoại ....................................................................................... 17 5. Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường ............................. 18 6. Vai trò kinh tế của Nhà nước .................................................................... 19 7. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội ................................................................ 20 8. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản. ..................... 21 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 22

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện những quan điểm, biện pháp để nền kinh tế nước ta phát triển.pdf
Tài liệu liên quan