Luận văn Nghiên cứu ảnh hưởng của Phật giáo đối với lối sống của người Việt Nam hiện nay

Tài liệu Luận văn Nghiên cứu ảnh hưởng của Phật giáo đối với lối sống của người Việt Nam hiện nay: LUẬN VĂN: Nghiên cứu ảnh hưởng của Phật giáo đối với lối sống của người Việt Nam hiện nay MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Xã hội là một hệ thống toàn vẹn có cấu trúc phức tạp với nhiều yếu tố hợp thành. Với tính cách là một yếu tố của cấu trúc đó, tôn giáo đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến con người và xã hội trên cả hai mặt, tích cực và tiêu cực, góp phần tạo nên sắc thái đặc biệt cho đời sống nhân loại. Trong lịch sử, vai trò của tôn giáo được đánh giá hết sức khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Tuy nhiên, điểm chung có thể rút ra là, tôn giáo vừa có khả năng cản trở sự phát triển của con người và xã hội song cũng có thể tạo nên những giá trị có tính tích cực. Vì vậy, việc nghiên cứu phải hướng đến phát hiện những hợp lý và khiếm khuyết của hiện tượng tôn giáo và những ảnh hưởng của nó đã, đang và sẽ có đối với lịch sử nhân loại. Và điều này, theo chúng tôi là thực sự cần thiết trong thời đại ngày nay, khi cùng với sự phát triển của khoa học, của cá...

pdf127 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1182 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nghiên cứu ảnh hưởng của Phật giáo đối với lối sống của người Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Nghiên cứu ảnh hưởng của Phật giáo đối với lối sống của người Việt Nam hiện nay MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Xã hội là một hệ thống toàn vẹn có cấu trúc phức tạp với nhiều yếu tố hợp thành. Với tính cách là một yếu tố của cấu trúc đó, tôn giáo đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến con người và xã hội trên cả hai mặt, tích cực và tiêu cực, góp phần tạo nên sắc thái đặc biệt cho đời sống nhân loại. Trong lịch sử, vai trò của tôn giáo được đánh giá hết sức khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Tuy nhiên, điểm chung có thể rút ra là, tôn giáo vừa có khả năng cản trở sự phát triển của con người và xã hội song cũng có thể tạo nên những giá trị có tính tích cực. Vì vậy, việc nghiên cứu phải hướng đến phát hiện những hợp lý và khiếm khuyết của hiện tượng tôn giáo và những ảnh hưởng của nó đã, đang và sẽ có đối với lịch sử nhân loại. Và điều này, theo chúng tôi là thực sự cần thiết trong thời đại ngày nay, khi cùng với sự phát triển của khoa học, của các trào lưu hiện đại hoá, các tôn giáo trên thế giới đang có xu hướng gắn bó hơn với đời sống thế tục, đặc biệt là trong lĩnh vực chính trị, văn hoá xã hội và đạo đức, lối sống để tự điều chỉnh, thích ứng với xu thế của thời đại, mong giữ được thánh địa thiêng liêng của mình để tiếp tục tồn tại và tồn tại lâu dài. Thực tế ở Việt Nam, trong quá trình lịch sử lâu dài, bên cạnh những hạn chế nhất định, tôn giáo đã có những đóng góp tích cực cho nền văn hoá của dân tộc, góp phần tạo nên bản sắc văn hoá độc đáo của dân tộc Việt Nam.v.v.. Ngày nay, trước những biến đổi của tình hình thế giới và trong nước, tôn giáo ở Việt Nam đang có những biến động phức tạp theo nhiều chiều hướng. Vì vậy, nhiều vấn đề được đặt ra, nhất là xung quanh việc đánh giá ảnh hưởng của tôn giáo đến lĩnh vực tinh thần của xã hội Việt Nam trong thời hiện tại và tương lai như vấn đề ảnh hưởng của tôn giáo với chính trị hay rộng lớn hơn là ảnh hưởng của tôn giáo với văn hoáv.v... Vấn đề xem xét ảnh hưởng của tôn giáo đối với lối sống, đạo đức cũng được đặt ra và thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học. Có tình hình đó bởi lẽ, tác động của những mặt trái của kinh tế thị trường hiện nay đã làm nảy sinh những hành vi lối sống không phù hợp truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiến bộ xã hội. Những hành vi lối sống ấy đã và đang làm xói mòn giá trị văn hoá truyền thống mà dân tộc ta đã phải mất hàng ngàn năm mới có thể hình thành được. Trong các tôn giáo ở Việt Nam, Phật giáo là một tôn giáo lớn được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm. Và nhìn chung, đây là tôn giáo khá gắn bó, đồng hành với dân tộc. Trong quá trình tồn tại và phát triển ở Việt Nam, Phật giáo đã có đóng góp cho dân tộc trên nhiều phương diện, đặc biệt là trên lĩnh vực đạo đức, lối sống. Nhiều quy phạm, chuẩn mực đạo đức Phật giáo đã được người Việt dựa trên cơ tầng văn hoá của mình lựa chọn, tiếp nhận, nâng cao và sử dụng ở các mức độ và phương diện khác nhau, góp phần hình thành những giá trị, chuẩn mực trong lối sống của người dân Việt Nam. Có thể nói, tồn tại cùng dân tộc trong hơn hai ngàn năm qua, Phật giáo đã trở thành một phần không thể thiếu trong nền văn hoá Việt Nam. Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang bước vào giai đoạn mới - giai đoạn đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới và đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế đã dần đưa nước ta vào thế ổn định và phát triển. Phải nói rằng, kinh tế thị trường đã đem lại những thành tựu quan trọng cho sự phát triển đất nước, nhưng những mặt trái của nó cũng làm xuất hiện và ngày càng gia tăng các hiện tượng tiêu cực trên lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, đặc biệt là sự suy thoái của đạo đức, lối sống. Chủ nghĩa thực dụng tuyệt đối hoá vai trò của đồng tiền, lối sống gấp xa rời lý tưởng cách mạng đang làm tha hóa đạo đức, lối sống của một bộ phận người trong xã hội, trong đó có cả các cán bộ Đảng, Nhà nước. Bên cạnh đó, khuynh hướng làm giàu bằng bất cứ giá nào, kể cả lừa đảo bất chính, gây tội ác, vi phạm pháp luật, sẵn sàng chà đạp lên lương tâm và nhân phẩm con người ở một số cá nhân vị kỷ đã và đang tạo nguy cơ làm băng hoại các giá trị văn hoá, đạo đức và luật pháp. Đảng ta trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã thẳng thắn chỉ ra rằng: "Tình trạng quan liêu tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế độ ta. Tình trạng lãng phí quan liêu còn khá phổ biến" Thực trạng nói trên đang đặt ra yêu cầu cần phải xây dựng nền đạo đức và lối sống mới xã hội chủ nghĩa cho con người Việt nam hiện nay. Điều này vừa nằm trong chiến lược phát triển con người phục vụ cho sự nghiệp đổi mới đất nước, vừa góp phần ngăn chặn sự suy thoái của đạo đức, lối sống. Tuy nhiên, thực trạng nói trên không thể khắc phục được trong ngày một ngày hai mà đòi hỏi phải được giải quyết bằng cả quá trình cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình xây dựng đạo đức, lối sống mới XHCN thì việc kế thừa những giá trị trong lối sống truyền thống của dân tộc, trong đó có những đóng góp của các tôn giáo là điều không thể bỏ qua. Ở đây, đạo đức, lối sống Phật giáo hiện vẫn có những giá trị cần tiếp thu, kế thừa để xây dựng đạo đức, lối sống mới cho con người Việt Nam hiện nay. Vì vậy, nghiên cứu ảnh hưởng của Phật giáo đối với lối sống của người Việt Nam hiện nay nhằm tìm kiếm các giải pháp phù hợp để phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của Phật giáo trong quá trình xây dựng lối sống mới xã hội chủ nghĩa là việc làm cần thiết trong giai đoạn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài: Phật giáo là tôn giáo được sinh ra trên đất nước Ấn Độ cổ đại. Không bao lâu sau khi ra đời, nó đã phát triển rộng khắp các nước thuộc khu vực Châu Á, và ngày nay nó lại đang lan toả mạnh sang các nước phương Tây. Cùng với quá trình lịch sử, tôn giáo này đã có những đóng góp đáng kể cho nền văn hoá của nhân loại. Chính vì vậy, Phật giáo và vai trò của nó trong đời sống xã hội nói chung từ lâu đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học không chỉ ở phương Đông mà cả phương Tây. Nhìn chung các nhà khoa học khi nghiên cứu về Phật giáo đều đánh giá cao những giá trị văn hoá của nó. Gottlried Wilhelm Leilniz, triết gia người Đức từ thế kỷ 18 trong cuốn sách nhan đề “Théo dicél” đã bàn về đạo Phật, về lý luận "chân không huyền diệu" của Phật giáo. Tiếp đó Emmanuel Kant khi nghiên cứu về Phật giáo Tích Lan, Miến Điện, Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản cũng đánh giá cao những giá trị đạo đức của tôn giáo này thông qua nhận thức và hành vi của các vị tu sĩ, qua thuyết “Duyên khởi”, thuyết “Luân hồi” của Phật giáo. Sau Gottlried Wilhelm Leilniz và Emmanuel Kant, một số triết gia người Đức khác như Schelling, Hegel, Nietzche, Schopenhaueur… cũng chú ý đến Phật giáo. Nhìn chung, các triết gia người Đức này đều đánh giá Phật giáo là một tôn giáo cao thâm thể hiện ở các quan niệm của nó về thế giới và con người như quan niệm: thế giới là vô thủy vô chung, thế giới vận động biến đổi không ngừng, con người là "vô ngã" vv... Đặc biệt, họ rất chú ý đến quan niệm “Nhân quả, luân hồi’ trong giáo lý nhà Phật, và cho đây là một trong những điều huyền bí nhất cần khám phá trong văn hoá phương Đông. Hai học giả Nga là Thedore Schesbatsky và Otta Rosenberg lại rất lý thú với thuyết “Nghiệp” của đạo Phật. Hai ông cho rằng, “Nghiệp” chính là điểm trung tâm, là cái làm nên nét đặc sắc của Phật giáo. Anhxtanh, nhà bác học vĩ đại của nhân loại, khi nghiên cứu về đạo Phật đã cho rằng, đây là tôn giáo của tương lai, là tôn giáo của vũ trụ. Ông đánh giá cao quan niệm phủ nhận thần linh, thượng đế, đánh giá cao thực nghiệm vật chất và tinh thần trong ý thức Phật giáo. Ông cho rằng, nếu có một tôn giáo nào đó đáp ứng được yêu cầu của khoa học hiện đại thì tôn giáo đó chính là Phật giáo. Nhà toán học, kiêm triết học người Anh nổi tiếng Bertarand Rusel lại cho rằng, Phật giáo là sự kết hợp của hai loại triết học tư biện và khoa học, nó đề cao phương pháp khoa học và theo đuổi một mục đích có lý trí. Ông cho rằng, Phật giáo có thể thay thế cho khoa học ở những đoạn đường mà khoa học không đến được do tính không hoàn thiện của những công cụ khoa học. Bác sĩ người Anh Graham Howe lại cho rằng, từ hơn 2500 năm trước, Phật giáo đã đề cập đến những vấn đề về tâm lý học hiện đại. Ông cho rằng, hiện nay, loài người đang phát triển lại thành quả xưa của trí tuệ phương Đông mà Phật giáo là đại diện. Còn H.G. Well, nhà sử học nổi tiếng người Anh khi đánh giá về vai trò của Phật giáo đã cho rằng, Phật giáo đã đóng góp vào sự tiến bộ của nền văn minh nhân loại nhiều hơn bất cứ một ảnh hưởng nào khác trong lịch sử nhân loại. Ở Phương Đông, Phật giáo cũng thu hút được rất nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học. J.Nerhu trong “Phát hiện Ấn Độ” đã chỉ ra những giá trị nhân đạo, nhân bản trong Phật giáo, chỉ ra những giá trị mà Phật giáo đã đóng góp cho dân tộc Ấn Độ. Tại Nhật Bản, Phật giáo được các học giả quan tâm đặc biệt. O.o.Rozenberg trong “Phật giáo những vấn đề triết học” đã chỉ ra những giá trị nhân sinh Phật giáo. Theo ông, Phật giáo chứa đựng những giá trị của văn hoá nhân loại cần được tiếp tục kế thừa và phát huy. Daisetzteitaro Suzuki, học giả người Nhật trong cuốn “Phật giáo Thiền tông và ảnh hưởng của nó trên văn hoá Nhật Bản” đã đánh giá rất cao vai trò của thiền trong đời sống xã hội Nhật Bản. Theo ông, nếu gạt đạo Phật và gạt cả Thiền tông ra thì văn hoá Nhật Bản không có ý nghĩa gì hết, vì đạo Phật đã ăn sâu vào mạch sống của dân tộc này. Daisaku Ikêda trong “Tiếng chuông cảnh tỉnh cho thế kỷ XXI” lại khẳng định vai trò của tôn giáo nói chung, của Phật giáo nói riêng trong việc khắc phục những khủng hoảng của xã hội hiện đại.v.v… Ở Trung Quốc, ngay từ cuối triều đại nhà Thanh, việc nghiên cứu Phật giáo đã rất thịnh hành trong giới trí thức Trung Quốc. Các nhà nghiên cứu như Khang Hữu Vi, Đàm Tự Đồng, Lương Khải Siêu và Chương Thái Niêm đã sử dụng học thuyết Phật giáo như một vũ khí tư tưởng chống lại các trào lưu tư tưởng sùng bái phương Tây. Chẳng hạn Đàm Tự Đồng trong cuốn “Về lòng từ bi” đã cho rằng, lòng từ bi của là nguồn gốc của vũ trụ. Ông đã sử dụng tư tưởng của Thiền tông như một trong các nguồn tư liệu để chứng minh cho luận điểm nói trên. Theo ông, ý tưởng về lòng từ bi, bình đẳng và vô ngã trong Phật giáo còn là nguồn giác ngộ và khích lệ đối với tầng lớp trí thức Trung Quốc đương thời. Trong thời hiện đại, nhiều nhà khoa học Trung Quốc cũng rất chú ý đến vai trò của đạo Phật trong đời sống xã hội Trung quốc. Họ cho rằng, dường như thế giới quan Phật giáo đang tạo ra một dòng chảy tâm linh về cái thiện, nó có sức cuốn hút con người, kể cả trẻ em chưa đến tuổi trưởng thành. Hàn Thu Hồng và Trình Quảng Vân cho rằng, Phật giáo đã từng có những đóng góp to lớn cho nền văn hoá Trung quốc và Phật giáo thực sự có vai trò cứu vãn đối với văn hoá Trung Quốc truyền thống. Hejingsong thì cho rằng, Phật giáo khi được du nhập vào Trung Quốc đã phá vỡ thứ kết cấu văn hoá muốn trở thành đơn nhất từ thời Tần, thời Hán trở đi. Và theo ông, thật khó đánh giá nổi ảnh hưởng của Phật giáo đối với kinh tế, văn hoá, xã hội và cả mô hình tư duy của người Trung Quốc. Ông cho rằng, trong hiện tại và tương lai, với việc cư sỹ sẽ trở thành dòng chính của Phật giáo thì những đóng góp của Phật giáo cho xã hội Trung Quốc sẽ còn lớn hơn nhiều. Học giả Roul Birnbaum trong “Buddhist China at the Centurys Turn” đã đánh giá một cách tổng quát về Phật giáo trong suốt chiều dài hơn hai ngàn năm ở Trung Quốc, chỉ ra những điểm mạnh và những điểm yếu của nó trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Ông cho rằng, trong giai đoạn hiện nay, với xu hướng thế tục hoá, Phật giáo đang đem lại những tác động tiêu cực không nhỏ cho đời sống xã hội như: Phật giáo trở thành một sự lựa chọn mang tính thực dụng, trục lợi của một bộ phận thanh niên, sự thương mại hoá Phật giáo, sự suy giảm phẩm hạnh ở một bộ phận các nhà tu hành. Bên cạnh mặt tiêu cực nói trên, Roul Birnbaum cũng đánh giá cao những đóng góp của Phật giáo qua các hoạt động từ thiện nhân đạo và khẳng định vai trò của Phật giáo trong việc phát triển kinh tế du lịch ở Trung Quốc hiện nay. Nhìn chung, các học giả cả phương Tây và phương Đông, khi nghiên cứu về Phật giáo đều đánh giá cao những giá trị văn hoá đạo đức mà Phật giáo đã đóng góp cho lịch sử nhân loại. Về cơ bản, những đánh giá của các học giả nói trên đều mang tính khoa học, khách quan. Tuy nhiên, trong đó không phải không có những quan điểm đã đề cao vai trò của Phật giáo một cách thái quá. Ở Việt Nam, từ lâu trong lịch sử, việc nghiên cứu Phật giáo và tác động của Phật giáo đối với đời sống xã hội nói chung, cũng đã được quan tâm nghiên cứu. Ngay từ đầu công nguyên, Mâu Tử với “Lý hoặc luận” đã trình bày một cách rất cơ bản các vấn đề Phật học then chốt như Phật, Pháp, Tăng, Niết bàn, Luân hồi…. Qua tác phẩm này, ông cũng đã phân tích ảnh hưởng một cách tự nhiên của Phật giáo đối với đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Sang thế kỷ XIII, khi triều đại phong kiến Việt Nam đang trên đà hưng thịnh, việc nghiên cứu Phật giáo tiếp tục được đẩy mạnh với các tên tuổi như Trần Thánh Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung, Trần Nhân Tông… Trần Thánh Tông với “Khoá hư lục” đã phản ánh khá rõ ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống văn hoá tinh thần Đại Việt. Trần Nhân Tông qua một loạt tác phẩm của mình cũng khẳng định vai trò của Phật giáo trong đời sống xã hội, ông muốn phát huy hơn nữa vai trò của tôn giáo này, đồng thời xây dựng một tổ chức giáo hội chặt chẽ, thống nhất để trở thành trung tâm liên kết toàn xã hội trên lĩnh vực tư tưởng. Việc nghiên cứu Phật giáo và vai trò của nó trong đời sống xã hội Việt Nam được tiến hành liên tục trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc kể cả giai đoạn Phật giáo suy vi (từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX) Đặc biệt, từ những năm cuối của thế kỷ XX trở đi đã xuất hiện rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về Phật giáo, về vai trò của Phật giáo trong đời sống xã hội nói chung, trong lối sống của người Việt Nam nói riêng. Nguyễn Lang với “Việt Nam Phật giáo sử luận” (Nxb Văn học Hà Nội 1992) đã đề cập đến các giai đoạn du nhập của Phật giáo vào Việt Nam, vai trò của các thiền sư trong công cuộc dựng nước và giữ nước của các triều đại phong kiến Việt Nam. Trong sách “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” (Nxb KHXH, Hà Nội 1998), các tác giả đã bàn về lịch sử du nhập và quá trình phát triển của Phật giáo từ thời kỳ đầu mới du nhập đến thế kỷ XX, bàn về các tông phái Phật giáo và đã phân tích vai trò của Phật giáo đối với lĩnh vực tư tưởng chính trị trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam. Trong cuốn“Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay” (Nxb CTQG, Hà Nội 1997) do Giáo sư Nguyễn Tài Thư chủ biên, các tác giả đã đề cập đến vai trò của Phật giáo trên một số lĩnh vực như: ảnh hưởng của Phật giáo đối với hệ tư tưởng, đối với sự hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện nay. Nguyễn Dăng Duy trong “Phật giáo và văn hoá Việt Nam”(Nxb Hà Nội 1999) đã đề cập đến vai trò của Phật giáo trong đời sống chính trị, văn hoá, đạo đức của dân tộc Việt Nam. Trần Văn Giàu với một loạt các công trình như: “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” (Nxb KHXH, Hà Nội 1975),“Đạo đức Phật giáo trong thời hiện đại” (Nxb Tp Hồ Chí Minh 1993) và “Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám” (3 tập) (Nxb CTQG, Hà Nội 1997, 1998) đã đề cập đến những giá trị đạo đức Phật giáo, đề cập đến những đóng góp của Phật giáo trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Triết học với “Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam”(Hà Nội 1986) đã đề cập đến tính chất của Phật giáo Việt Nam, các tông phái của Phật giáo ở Việt Nam, vai trò của Phật giáo trong nền văn hoá dân tộc và ảnh hưởng của Phật giáo đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam. Trong cuốn “Có một nền đạo lý ở Việt Nam”(Nxb TP Hồ Chí Minh 1996) tác giả Nguyễn Phan Quang đã cho người đọc thấy được sự hoà nhập của đạo đức Phật giáo trong đạo lý dân gian Việt Nam. Nguyễn Thị Bảy trong “Văn hoá Phật giáo và lối sống của người Việt ở Hà Nội và châu thổ Bắc Bộ” (Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội 1997) đã bàn về văn hoá Phật giáo từ góc độ vật chất và tinh thần, bàn đến văn hoá ứng xử Phật giáo ở châu thổ Bắc Bộ.v.v… Các trí thức Phật giáo cũng đóng góp nhiều công trình có giá trị trong lĩnh vực này, như: Thích Đạo Quang với “Đại cương triết học Phật giáo” (Nxb Thuận hoá, Huế 1996) đã phân tích những giá trị trong các giáo lý cơ bản của Phật giáo và đề cập một cách khái quát các tông phái cơ bản của đạo Phật. Thích Phụng Sơn trong “Những nét đẹp văn hoá của đạo Phật” (Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành 1995) đã phân tích những giá trị thẩm mỹ và một số biểu hiện của chúng trong sinh hoạt tôn giáo và đời sống xã hội. Thích Minh Châu trong “Đạo đức Phật giáo và hạnh phúc con người” đã đề cập đến những giá trị nhân đạo, nhân bản trong đạo đức Phật giáo. Theo ông, khi con người được di dưỡng trong nền đạo đức Phật giáo, họ sẽ được an trú trong niềm hạnh phúc và an lạc. Thích Thanh Từ với “Phật giáo với dân tộc”(Thành hội Phật giáo TP Hồ Chí Minh 1995) đã bàn về những nét chính trong luân lý Phật giáo, những giới luật của phật tử tại gia và phật tử xuất gia, về đóng góp của Phật giáo cho lịch sử dân tộc trên các phương diện chính trị, tư tưởng, văn nghệ, về các giá trị đạo đức Phật giáo với tuổi trẻ Việt Nam hiện đại. Lê Cung với “Phật giáo Việt Nam với cộng đồng dân tộc” (Thành hội Phật giáo TP Hồ Chí Minh ấn hành 1996) đã đề cập đến đóng góp của Phật giáo trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Học Viện Phật giáo Việt Nam tại TP Hồ Chí Minh với “Phật giáo nhập thế và phát triển” (Nxb Tôn giáo 2008) đã tập hợp các bài viết của các nhà khoa học, các trí thức Phật giáo viết về vai trò của Phật giáo trong các lĩnh vực của đời sống xã hội Việt Nam hiện nay như: Phật giáo trong thời kỳ hội nhập và phát triển, Phật giáo với chính trị, xã hội, Phật giáo với sự phát triển bền vững của đất nước, Phật giáo với xã hội dân sự, Phật giáo với sự nghiệp độc lập, Phật giáo với các vấn nạn giao thông, Phật giáo với đời sống tâm linh, Phật giáo với việc việc xây dựng nền kinh tế nhân bản, Phật giáo với hoạt động từ thiện nhân đạo… Liên quan đến Phật giáo, văn hoá, lối sống Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống xã hội Việt Nam còn có một số luận án như: Luận án Tiến sĩ Triết học của Lê Hữu Tuấn với đề tài:“Ảnh hưởng của những tư tưởng triết học Phật giáo trong đời sống văn hoá tinh thần của dân tộc Việt Nam”(Hà Nội 1999). Luận án Tiến sĩ Triết học của Tạ Chí Hồng với đề tài:“Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong đời sống đạo đức của xã họi Việt Nam hiện nay”(Hà Nội 2004). Luận án Tiến sĩ Triết học của Hoàng Thị Lan với đề tài “Ảnh hưởng của đạo đức tôn giáo đối với đạo đức của con người Việt Nam hiện nay”(Hà Nội 2004). Luận án Tiến sĩ Triết học của Lê Văn Lợi với đề tài “Ảnh hưởng của văn hoá tôn giáo trong đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam hiện nay”(Hà Nội 2008). Bên cạnh đó còn có một số kỷ yếu đề tài khoa học và hội thảo về Phật giáo, vai trò của Phật giáo ở Việt Nam có giá trị như: Kỷ yếu hội thảo:“Đạo đức Phật giáo trong thời hiện đại”(TP Hồ Chí Minh 1999); Kỷ yếu đề tài: “Thực trạng, nguyên nhân, xu hướng vận động của Phật giáo ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra cho công tác lãnh đạo quản lý” (thuộc đề tài độc lập cấp Nhà nước: Thực trạng, xu hướng biến động của tôn giáo ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra cho công tác lãnh đạo quản lý của Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội 2001); Kỷ yếu đề tài: “Chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với Phật giáo Nam tông và đạo Tin lành vùng đồng bào dân tộc thiểu số nhằm phục vụ cho công tác chỉ đạo điều hành của Đảng và Chính phủ” (Đề tài độc lập cấp Nhà nước của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và Văn phòng Chính phủ, Hà Nội 2005); Kỷ yếu đề tài: “Ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống tinh thần của nhân dân vùng đồng bằng Bắc Bộ”(Đề tài khoa học cấp bộ của Viện Nghiên cứu Tôn giáo và Tín ngưỡng- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội 2007). Ngoài ra còn có nhiều công trình trên các tạp chí cũng đề cập đến những ảnh hưởng của Phật giáo trên các phương diện khác nhau trong văn hoá, lối sống của người Việt Nam như: “Phật giáo và sự hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện nay” (Tạp chí Triết học số 2/1994) của GS.TS Nguyễn Tài Thư; “Tôn giáo và tín ngưỡng trong đời sống văn hoá hiện nay (Tạp chí Cộng sản số 15/1999) của GS.TS Đỗ Quang Hưng; “Vài suy nghĩ về Phật giáo dân gian Việt Nam”(Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 2/1997) của Hoàng Thị Lan; “Phật giáo và tâm hồn người Việt”(Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 6/1998) của Vũ Minh Tuyên; “Ảnh hưởng của Phật giáo Theravada trong tang ma của người Khmer”(Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 5/2003) của TS. Nguyễn Mạnh Cường; “Đạo Phật tiểu thừa Khmer ở vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long: chức năng xã hội truyền thống và động thái xã hội” (Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 5/2003) của Nguyễn Xuân Nghĩa: “Một vài đóng góp của Phật giáo đối với văn hoá Việt Nam” (Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số5/2005) của Lê Đức Hạnh; “Bàn thêm về ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay”(Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo số 10/2007 của Lê Văn Đính; “Phật giáo Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 3/2006) của Hoà thượng Thích Thanh Tứ; “Nhận diện để phát huy giá trị di sản văn hoá Phật giáo Việt Nam” (Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo số 5/2008) của Đặng Văn Bài; “Nghiên cứu và ứng dụng các giá trị văn hoá Phật giáo trong xã hội Việt Nam hiện nay” (Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo số 5/2008) của Nguyễn Hồng Dương; “Ảnh hưởng của “Tâm” trong Phật giáo đối với văn hoá tinh thần của người Việt Nam hiện nay”(Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo số 5/2008) của Ngô Thị Lan Anh; “Vai trò và vị trí của Phật giáo ở Việt Nam” (Tạp chí Triết học số 6/2008) của Nguyễn Đức Lữ .v.v… Điểm qua tình hình nghiên cứu như trên, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét như sau: Thứ nhất, Phật giáo và vai trò của Phật giáo trong đời sống xã hội là lĩnh vực thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu tiếp cận Phật giáo và vai trò của Phật giáo dưới nhiều quan điểm và góc độ khác nhau. Thứ hai, Trong một số công trình nghiên cứu về Phật giáo, các học giả đã chú ý nghiên cứu về những giá trị của Phật giáo như giá trị đạo đức, giá trị nghệ thuật, tư tưởng, giá trị thẩm mỹ.v… Thứ ba, có một số công trình nghiên cứu chuyên biệt về các phương diện khác nhau của Phật giáo, trong đó, một số công trình đã có sự phân tích sâu sắc về những ảnh hưởng của một số giá trị Phật giáo đến các phương diện khác nhau trong lối sống của người Việt Nam. Tuy nhiên, theo chúng tôi, thì chưa thấy có công trình nào bàn về ảnh hưởng của Phật giáo đối với lối sống của người Việt Nam một cách có hệ thống. Chính vì vậy, trên cơ sở kế thừa thành quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, đề tài tập trung vào việc hệ thống hoá những ảnh hưởng của Phật giáo đối với lối sống của người Việt Nam hiện nay. 3. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài: * Mục tiêu: Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo, đề tài đi sâu phân tích ảnh hưởng của Phật giáo đối với lối sống của người Việt Nam nhất là giai đoạn hiện nay, đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo trong quá trình xây dựng lối sống mới. * Nhiệm vụ: để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài có nhiệm vụ: - Khái quát những nội dung cơ bản trong giáo lý, giáo luật của Phật giáo, chỉ ra đặc điểm và thực trạng Phật giáo Việt Nam hiện nay. - Phân tích những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của Phật giáo trên một số phương diện cơ bản trong lối sống của người Việt Nam nhất là trong giai đoạn hiện nay. - Đề xuất quan điểm và một số giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo trong quá trình xây dựng lối sống mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. 4. Nội dung nghiên cứu: Nội dung nghiên cứu của đề tài được kết cấu làm 3 phần, cụ thể như sau: Phần thứ nhất: Phật giáo và đặc điểm Phật giáo Việt Nam 1.1. Khái quát về Phật giáo và quá trình du nhập phát triển của Phật giáo ở Việt Nam 1.2. Khái quát đặc điểm Phật giáo Việt Nam và tình hình Phật giáo Việt Nam hiện nay Phần thứ hai: Ảnh hưởng của Phật giáo đối với một số phương diện của lối sống con người Việt Nam và những vấn đề đặt ra hiện nay 2.1. Lối sống và xây dựng lối sống của người Việt Nam hiện nay 2.2. Ảnh hưởng của Phật giáo trong cách thức lao động sản xuất và tổ chức cuộc sống của người Việt Nam 2.3. Ảnh hưởng của Phật giáo trong phong tục, tập quán của người Việt Nam 2.4. Ảnh hưởng của Phật giáo trong cách thức giao tiếp và ứng xử của người Việt Nam 2.5. Ảnh hưởng của Phật giáo trong quan niệm đạo đức và nhân cách của người Việt Nam 2.6. Dự báo xu hướng vận động của Phật giáo và những vấn đề đặt từ ảnh hưởng của Phật giáo với lối sống của người Việt Nam hiện nay. Phần thứ ba: Quan điểm và giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo trong quá trình xây dựng lối sống mới ở Việt Nam hiện nay 3.1 Những quan điểm mang tính phương pháp luận 3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo đối với lối sống của người Việt Nam hiện nay 3.3. Một số kiến nghị 5. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước, đồng thời vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: lô gíc và lịch sử, phân tích và tổng hợp, điều tra xã hội học, thống kê so sánh, thảo luận nhóm,.. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài: Đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sau đây: Thứ nhất, đề tài góp phần bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiên cứu về tôn giáo nói chung, về Phật giáo nói riêng cho đội ngũ cán bộ công tác trong lĩnh vực này. Thứ hai, đề tài góp phần làm rõ ảnh hưởng hai mặt của Phật giáo đối với lối sống của người Việt Nam và những vấn đề đặt ra hiện nay nhằm tìm kiếm các giải pháp để phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo trong quá trình xây dựng lối sống mới ở Việt Nam. Thứ ba, kết quả của đề tài là tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy lý luận về tôn giáo và một số lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn khác. Thứ tư, đề tài góp phần cung cấp các luận cứ khoa học và thực tiễn giúp Đảng và Nhà nước đề ra những chính sách phù hợp nhằm đoàn kết, phát huy vai trò của các tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay. 7. Sản phẩm của đề tài: - Sản phẩm cuối cùng: + Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài: 148 trang + Báo cáo tóm tắt: 12 trang + Bản kiến nghị: 11 trang. - Sản phẩm trung gian: + Kỷ yếu đề tài: 226 trang. + Đĩa CD ghi toàn bộ kết quả nghiên cứu. CHƯƠNG I: PHẬT GIÁO VÀ ĐẶC ĐIỂM PHẬT GIÁO VIỆT NAM 1.1. Khái quát về Phật giáo và quá trình du nhập, phát triển Phật giáo ở Việt Nam 1.1.1. Khái quát một số nội dung cơ bản của Phật giáo có ảnh hưởng đến lối sống của người Việt Nam Phật giáo xuất hiện ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ VI trước công nguyên. Không lâu sau khi ra đời, Phật giáo đã lan tỏa mạnh mẽ sang các quốc gia khác khác thuộc khu vực Châu Á. Hiện nay, Phật giáo có mặt ở khắp các châu lục và là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới. Trong Phật giáo có chứa đựng nhiều những giá trị văn hoá, đạo đức. Những giá trị này đã có ảnh hưởng không nhỏ đến nền văn hoá của mỗi quốc gia dân tộc nơi mà nó đứng chân. Nếu có thể tóm tắt những điểm chính yếu trong học thuyết Phật giáo thì có thể nói như sau: học thuyết Phật giáo chứa đựng những điều cốt tử là: Khổ, Không, vô thường, vô ngã, nhưng sự triển khai cụ thể trong từng thời pháp, từng hoàn cảnh thì khác nhau. Phật giáo rất đề cao con người. Hay nói cách khác, tiền đề xuất phát của Phật giáo là con người sống hiện hữu. Con người là trọng tâm trong học thuyết đạo đức Phật giáo. Và theo Phật giáo, con người phải chịu trách nhiệm về kết quả hành động của chính bản thân mình. Phật quan niệm cuộc đời là bể khổ. Và cái khổ ấy là do chính con người tạo nên. Nguyên nhân của khổ là do vô minh và tham dục. Nhưng Phật cho rằng, cái khổ ấy không phải là vĩnh viễn không khắc phục được. Phật cho rằng, con người tạo nên cái khổ cho mình nên cũng chính con người phải tự tìm con đường thoát khổ cho chính mình. Con đường ấy là sự nỗ lực rèn luyện trí tuệ thân tâm, diệt trừ vô minh, tham dục. Sự giải thoát trong Phật giáo là sự tự lực giải thoát. Đây là điểm tiến bộ và cũng là sự khác biệt rất lớn giữa Phật giáo và các tôn giáo khác. Các tôn giáo hữu thần cũng bàn về con người, về sự hiện hữu của con người và về con đường giải phóng con người. Nhưng con người trong quan niệm của các tôn giáo hữu thần là con người thụ động, là phiên bản một của đấng siêu nhiên cho nên giải phóng con người là làm cho con người trở về với đấng siêu nhiên. Hay nói cách khác, với các tôn giáo hữu thần, con người là ngã thể khác của đấng siêu nhiên nên nó chỉ được giải phóng khi đã giã từ cuộc sống thế tục, khi được nhận sự cứu vớt của đấng siêu nhiên. Với Phật giáo, con người là sự kết hợp của ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức - tức 5 yếu tố gồm cả vật chất và tinh thần) chứ không phải là sản phẩm của thượng đế. Vì vậy, con người phải nhìn sâu vào thực tại hiện hữu của chính mình để thấy rõ tính chân thật của cái bản ngã để từ đó mà nỗ lực giải thoát cho mình. Từ khổ đau hiện thực với tư cách là kết quả, Phật truy tìm căn nguyên nỗi khổ của con người. Phật cho rằng, con người khổ là vì “Vô minh”, vì “Tham ái” và “Chấp thủ”. Vô minh tức là không nhận thức được đúng đắn bản chất chân thực của vạn pháp. Vạn pháp là vô thường, vô ngã, vạn vật là trùng trùng duyên khởi. Con người vì vô minh nên không nhận ra được bản chất chân thực đó. Vạn vật là vô thường nhưng con người vì tham ái, cầu mong, bám víu vào cái không ổn định nên đã đốt lên ngọn lửa si mê, sân hận. Kinh Pháp Cú viết: “Không có lửa nào như lửa tham, không có ngục tù nào như lòng sân. Không có lưới nào như vô minh. Không có dòng sông nào như ái dục”[15, 23]. Vì tham ái, con người sinh ra chấp thủ, tức mong ước, là cố chiếm lấy làm sở hữu cho riêng mình những vật hay điều mình thích làm phát sinh cái ngã. Chính vì vậy mà con người tự làm khổ cho mình. Trong Phật giáo, trách nhiệm của mỗi người với những hành vi thiện ác của thân, tâm mình rất được đề cao. Đức Phật dạy rằng: “Làm dữ ở nơi ta mà ô nhiễm cũng bởi ta; làm lành bởi ta mà thanh tịnh cũng bởi ta chứ không ai có thể làm cho ai thanh tịnh được”[69,43]. Trên con đường giải thoát khỏi cái khổ, Phật giáo dạy con người phải nương tựa chính mình chứ không nương tựa ai khác, không có một thế lực nào có thể mạnh hơn chính bản thân con người. Phật cho rằng, con người là tối thắng vì con người có thể làm được tất thảy mọi thứ. Bản thân mỗi người là ngọn đèn cho chính mình và người là hòn đảo trú ẩn của chính bản thân con người. Phật ví mình chỉ như vị lương y biết kê đơn, bắt mạch mà thôi, còn việc con bệnh có uống thuốc hay không không phải là việc của lương y. Theo quan niệm Phật giáo, Bát chính đạo với tám con đường giải thoát mà Phật đã chỉ ra chính là cách thức để phá bỏ sự mê muội, thoát khỏi khổ đau, đạt trí tuệ bát nhã tức là đạt tới độ nhận thức được thực tướng của vạn pháp. Chính kiến là cái thấy về sự thực, cái nhận thức xác thực. Phật cho rằng, trong mỗi chúng sinh đã có sẵn hạt giống của chính kiến, của tuệ giác, chỉ có điều tuệ giác đó bị vô minh làm mờ lấp mà thôi. Chính kiến đưa đến chính tư duy. Chính tư duy có nghĩa là suy nghĩ đúng, là sự suy nghĩ dựa trên sự thật, trên chính kiến, tuệ giác để thấy rõ được bản chất vô thường, vô ngã của sự vật. Hay nói cách khác, suy nghĩ đúng là suy tư phù hợp với đạo lý duyên khởi. Chính tư duy đưa đến chính ngữ. Chính ngữ là lời nói thật, lời nói chân chính. Chính ngữ dẫn đến chính niệm. Chính niệm là suy niệm đúng đắn. Chính niệm dẫn đến chính nghiệp. Chính nghiệp là hành động chân chính để không tạo nghiệp. Chính nghiệp đưa tới chính mạng. Chính mạng là nghề nghiệp, phương tiện sinh sống chân chính. Chính mạng đưa đến chính tinh tiến. Chính tinh tiến là nỗ lực siêng năng học tập, kiểm soát thân, khẩu, ý theo cái thiện. Chính tinh tiến đưa tới chính định. Chính định là nhiếp tâm vào con đường chân chính không để bị vọng động bởi tác động của ngoại cảnh. Chính định làm phát sinh chính tuệ. Chính tuệ là sự sáng suốt để nhận thức rõ thực tướng của vạn vật. Theo nhãn quan Phật giáo, Bát chính đạo làm cho con người nhận thức rõ được chân như của sự vật và con người, làm cho con người biết quý trọng sự màu nhiệm của cuộc sống, biết sống ung dung, tự tại giữa cuộc đời. Đặt trọng tâm vào con người trên con đường giải thoát cũng như trong việc rèn luyện đạo đức, Phật đã dùng thuyết Nhân quả, luân hồi, nghiệp báo để lý giải cái khổ của con người qua các kiếp sống khác nhau. Theo quan niệm của nhà Phật, mọi hoạt động của con người từ thân, khẩu, ý đều để lại một kết quả nhất định, trong đó nhân có trước, quả có sau, quả phụ thuộc vào nhân và nhân nào quả ấy. Tuỳ thuộc vào việc con người gieo nhân như thế nào mà họ nhận được quả tương ứng. Nhà Phật gọi đó là nghiệp báo. Như vậy, nghiệp báo được xem là kết quả hoạt động của con người (gồm cả thân, khẩu, ý) mà tất yếu họ nhận được trong hiện tại hoặc tương lai. Nhân quả, nghiệp báo không phải là sản phẩm của riêng Phật giáo mà là sản phẩm chung của triết học và tôn giáo Ấn Độ. Tuy nhiên, Phật giáo đã khái quát để trình bày chúng có tính hệ thống và đặc biệt chú ý đến “ý nghiệp”. Ý nghiệp theo quan niệm của nhà Phật, là cái khởi đầu cho tất cả các nghiệp khác. Nghiệp báo là do chính bản thân con người làm ra nên chính mình bị lôi cuốn vào vòng lục đạo, bị lăn lộn triền miên trong vòng sinh tử luân hồi, cứ chết đi, sống lại mãi nếu vẫn còn những hoạt động tạo nghiệp. Giải thoát có nghĩa là trả nghiệp cũ và không tạo thêm nghiệp mới. Khi nào chúng sinh trả hết nghiệp, không còn lạc vào nghiệp thì được hoàn toàn tự do. Như vậy, trong Phật giáo con người là chủ nhân của nghiệp, con người có thể thay đổi nghiệp của mình tuỳ thuộc vào hoạt động của thân và tâm mỗi người. Thuyết nghiệp của Phật giáo có ý nghĩa giáo dục đạo đức rất lớn. Nó hướng con người đến những điều thiện, điều lành, tránh xa điều ác, điều dữ. Phật giáo xây dựng đạo đức của mình trên nền tảng của triết lý vô ngã. Vô ngã trong quan niệm nhà Phật không chỉ bó hẹp trong cái ta của con người cá nhân, của tôi hay của anh mà là không có cái ngã tuyệt đối ở tất cả các sự vật, hiện tượng của vũ trụ nói chung. Phật dạy tín đồ của mình phải nhìn sự vật, hiện tượng bằng con mắt vô ngã để có thể quán chiếu được lẽ không của vạn vật, để từng bước diệt khổ, có nghĩa là từng bước đạt được sự giải thoát. Chính vì vậy, theo quan niệm của nhà Phật, “Vô ngã” cũng có nghĩa là “Niết bàn”. Coi trọng một nếp sống đạo đức, Đức Phật đã đưa ra một hệ thống các phạm trù đạo đức như Lục độ, Lục hoà, Thập thiện, Tứ ân… - Lục độ hay còn gọi là 6 hạnh Ba la mật, bao gồm: Bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ. Người tu hành đắc được 6 hạnh này thì độ được mình và độ được người sang bờ bên kia của bến mê, có nghĩa là đạt giải thoát. Lục độ là phép môn tu Bồ tát thừa. Theo tinh thần này, bất kỳ là ai, dù người mới nhập pháp môn tu hành hay đến các vị Bồ tát, Phật đều phải vừa độ mình, độ người để giúp mình và giúp người cùng ra khỏi bến mê. Như vậy, giải thoát theo tinh thần của Lục độ thì bản thân cá nhân mỗi người phải làm thiện, sau đó giúp người làm thiện. Và cuối cùng, việc giúp mình, giúp người trở thành lẽ tự nhiên trên con đường thực hiện giải thoát. - Lục hoà là sáu sự hoà hợp bao gồm: thân hòa, khẩu hòa, giới hòa, ý hòa, kiến hòa và lợi hòa. Thân hòa từ kính hay thân hòa đồng tu nghĩa là tăng chúng phải biết từ hòa, kính nhường nhau trong mọi cử chỉ, hành động. Khẩu hòa đồng kính hay khẩu hòa vô tranh có nghĩa là tăng chúng sống trong tăng đoàn phải nhường nhịn nhau từng lời ăn, tiếng nói, không gây gổ cãi lộn nhau. Giới hòa đồng kính hay giới hòa đồng tu nghĩa là tăng chúng cùng tu chung giới luật nên phải hòa thuận, kính ái hòa hợp với nhau. Ý hoà kính hay ý hoà đồng duyệt có nghĩa là tăng chúng phải tâm đầu, ý hợp, chia sẻ buồn vui cùng nhau, yêu mến nhau. Kiến hoà đồng kính hay kiến hoà đồng giải tức là hết thảy tăng chúng đều thờ Phật, tu hành theo pháp môn nhà Phật, do đó phải cùng nhau thống nhất hoà hợp và chia sẻ kiến thức về Phật pháp. Lợi hoà đồng quân hay đồng lợi hoà tức là tăng chúng cùng nhau thụ hưởng lợi ích mà bá tánh cúng dường, cùng nhau chia sẻ, thụ hưởng một cách kính ái. Lục hoà không chỉ là chuẩn mực đạo đức của hàng tăng chúng mà mở rộng ra là sự hoà hợp của tất cả các đệ tử nhà Phật nói chung. Mở rộng hơn nữa nó còn có ý nghĩa với một cộng đồng, một xã hội, một quốc gia và toàn nhân loại. - Thập thiện tức là mười điều thiện bao gồm: 3 điều thiện về thân, 4 điều thiện về khẩu, 3 điều thiện về ý. + 3 điều thiện về thân nghiệp gồm: không sát sinh mà phải phóng sinh; không trộm cắp mà phải bố thí; không tà dâm mà phải sống trong sạch. + 4 điều thiện về khẩu nghiệp gồm: không nói lời dối trá, mà phải nói lời trung thực; không nói lời độc ác, xúc xiểm mà phải nói lời hiền dịu; không nói lời thêu dệt, đơm đặt mà phải nói lời có ích. - Tứ ân là 4 ân đức lớn mà mỗi người đều phải nhớ, phải trả trong cuộc đời của mình, đó là Ân cha mẹ vì cha mẹ đã sinh ra ta; ân chúng sinh vì chúng sinh đã giúp đỡ ta; ân Tổ quốc vì Tổ quốc cho ta sự yên bình lạc đạo và ân Tam bảo vì Tam bảo đã cho ta chánh pháp. Đây là những chuẩn mực đạo đức rất gần gũi với giá trị đạo đức truyền thống của người Việt Nam. - Một trong những chuẩn mực đạo đức Phật giáo có ảnh hưởng khá nhiều đến lối sống của người Việt Nam trong lịch sử cũng như hiện nay đó là Tứ vô lượng tâm “Từ, bi, hỷ, xả”. Tâm “Từ” là lòng từ ái vô lượng, vô biên, là cái đối trọng với tâm sân hận. Theo quan niệm của nhà Phật, cái tâm sân hận không thể được dập tắt bằng lòng thù oán mà nó chỉ có thể hoá giải được bằng tâm “từ”. Tâm “Bi” là lòng xót thương vô hạn, là sự rung động trước nỗi đau của người khác và nỗi đau của nhân thế, là sự cảm thông vô hạn đối với con người, đối với mọi chung sinh không phân biệt đẳng cấp, giàu nghèo, sang hèn, thân sơ. Tâm “Bi” chính là cái đối trọng với hung bạo, hận thù nhưng nó hoàn toàn không phải là sự bi lụy. Đức Phật đã dạy rằng, hận thù không bao giời diệt được hận thù, từ bi diệt hận thù đó là định luật nghìn thu. Tâm “Hỷ” nghĩa là vui với niềm vui của người khác, buồn với nỗi buồn của người khác, không hiềm khích ganh tỵ trước thành tựu của người khác. Tâm “Xả” nghĩa là không luyến ái, không bực tức, nóng giận trong phiền não. Tóm lại: Tứ vô lượng tâm “Từ, bi, hỷ, xả” là thái độ cùng vui, cùng buồn với tất cả chúng sinh, là tư tưởng cứu khổ, cứu nạn. Nhờ đó khi thực hành, tín đồ có thể điều chỉnh hành vi của mình phù hợp với cái thiện. Thực hành Tứ vô lượng tâm hay 4 tâm vô lượng này là để khắc phục cái tâm thiên kiến như ích kỷ, hẹp hòi, cố chấp, phiến diện... là để vượt ra ngoài giới hạn của Ta để đến với người khác với chúng sinh. Những nội dung cơ bản nói trên của Phật giáo đã có ảnh hưởng không nhỏ đến lối sống của con người Việt Nam trong lịch sử cũng như hiện nay. 1.1.2. Khái quát quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo ở Việt Nam Cho đến nay, các nhà nghiên cứu ở Việt Nam vẫn chưa thống nhất được với nhau về thời điểm Phật giáo du nhập vào Việt Nam. Có ý kiến cho rằng, từ những thế kỷ trước công nguyên, nhiều thuyền buôn Ấn Độ đã cập bến nước ta. Các thương nhân Ấn Độ khi đó đã đem theo văn hóa Ấn Độ cùng Phật giáo đến Việt Nam. Một số nhà nghiên cứu khác lại cho rằng, Phật giáo được du nhập vào nước ta vào khoảng thế kỷ thứ II sau công nguyên. Chúng tôi đồng tình với ý kiến của đa số các nhà nghiên cứu cho rằng Phật giáo được truyền vào nước ta từ những thế kỷ đầu công nguyên. Theo nhiều nhà nghiên cứu, Việt Nam đã tiếp thu Phật giáo từ Ấn Độ, Trung Hoa và sau này một số ít qua Campuchia. Từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ V đã có nhiều nhà sư Ấn Độ và Trung Quốc cùng vào Việt Nam để truyền đạo như Mahakyvưc, Khưudala (AD), Mâu Bác Cư sĩ (TQ). Ở thế kỷ thứ III có Khương Tăng Hội, Chi Lương Cương người Ấn Độ, thế kỷ thứ IV có Du Pháp Lan, Du Đạo Toái người Trung Quốc, thế kỷ thứ V có Đàm Hoằng. Ở thời kỳ này cũng có một số nhà sư Việt Nam có danh tiếng như Huệ Thắng, Thích Đạo Thiền. Quá trình truyền đạo này đã hình thành nên trung tâm Phật giáo Luy Lâu (một trong 3 trung tâm Phật giáo lớn: Lạc Dương, Bành Thành, Luy Lâu). Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, từ thế kỷ VI đến đầu thế kỷ X vẫn được xem là giai đoạn truyền giáo. Tuy nhiên, giai đoạn này, ảnh hưởng của các nhà truyền giáo Ấn Độ giảm dần, trong khi các nhà truyền giáo Trung Quốc tăng lên. Đáng chú ý hơn cả là việc truyền nhập các phái thiền Trung Quốc vào Việt Nam, đặc biệt là hai phái thiền Tỳniđalưuchi và phái thiền Vô Ngôn thông. Tóm lại, mười thế kỷ đầu truyền bá vào Việt Nam, mặc dù trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lược và đô hộ nhưng Phật giáo đã tạo ra được ảnh hưởng trong nhân dân và có những chuẩn bị cho sự phát triển mới trong giai đoạn đất nước độc lập, tự chủ. Đến thế kỷ thứ X, Việt Nam giành được quyền tự chủ. Chính trong thế kỷ này Phật giáo mới bắt đầu hưng thịnh và có những đóng góp tích cực cho đất nước. Năm 971, vua Đinh Tiên Hoàng định ra phẩm trật tăng già và ban chức cho tăng sĩ. Bắt đầu từ đây cho đến thế kỷ XIV, các thiền sư được trọng dụng, được mời tham gia vào chính sự, góp phần to lớn vào công cuộc hưng thịnh của quốc gia. Vua Đại Hành sau khi hoà với nhà Tống đã sai sứ sang triều cống Trung Hoa và xin thỉnh kinh Phật đem về truyền bá. Nhiều thiền sư đã được vua Lê Đại Hành mời tham gia đóng góp trí tuệ cho đất nước như Thiền sư Pháp Thuận, Thiền sư Vạn Hạnh. Có thể nói, trong 2 triều đại Đinh và tiền Lê, Phật giáo đã trở thành tôn giáo chiếm địa vị ưu trội. Tất cả việc chăm lo phát triển văn hoá, chính trị trong nước, một phần lớn đều thuộc về hàng tăng sĩ, cho nên Phật giáo được phổ biến dễ dàng trong quần chúng. Mặc dù Nho giáo và Lão giáo đã truyền vào từ lâu, nhưng không có uy thế được như Phật giáo. Sở dĩ Phật giáo đời Đinh và tiền Lê được ưu đãi và giữ địa vị độc tôn vì các vị tăng sĩ phần nhiều là những người thông hiểu Nho học. Chữ Nho mặc dù trước đó đã được đem dạy ở đất Việt, nhưng do chưa có khoa thi cử, nên ít người theo học. Chỉ có các vị thiền sư vì cần nghiên cứu Phật giáo qua kinh điển bằng chữ Hán, nên phải học Nho. Các vị thiền sư lúc bấy giờ thực sự là những trí thức của dân tộc. Họ là người am hiểu nhiều về Nho, hiểu đạo lý lại vừa là người có đức hạnh. Vì vậy, họ được triều đình trọng vọng, được dân chúng kính nể là lẽ đương nhiên. Phật giáo được thịnh hành trong giai đoạn này cũng là tất yếu. Triều Lý, triều đại được xem là triều đại Phật giáo đầu tiên và cũng là triều đại thuần từ trong các triều đại phong kiến Việt Nam. Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn), vị vua đầu tiên sáng lập nên triều đại nhà lý là người xuất xuất thân từ cửa Phật, được nuôi dưỡng và trưởng thành ở chốn thiền môn. Việc lên ngôi của ông cũng do sự sắp sếp tài tình của thiền sư Vạn Hạnh. Điều đó đủ nói lên sức ảnh hưởng của Phật giáo trong triều đại này. Mọi công việc lớn nhỏ của nhà nước thế tục trong giai đoạn này như chuyện chính trị, quân sự, ngoại giao, chuyện dời đô đến chuyện dạy đạo đức cho dân... đều có sự đóng góp ý tưởng của các vị thiền sư. Triều đình phong kiến lúc này đã cử sứ thần sang Trung quốc thỉnh kinh và khuyến khích việc xuất gia tu hành. Phật giáo được trọng dụng nên phát triển rất nhanh. Chùa Phật được xây dựng ở hầu khắp các làng xã và trở thành trung tâm tôn giáo lớn nhất ở nông thôn miền Bắc Đại Việt lúc đương thời. Nhiều thiền sư nổi tiếng về việc tu hành và có nhiều đóng góp to lớn cho đất nước, như sư Vạn Hạnh, sư Viên Chiếu, sư Mãn Giác, sư Không Lộ, sư Viên Thông…Có thể nói, hơn 200 năm dưới triều đại nhà Lý, Phật giáo đã chiếm được địa vị độc tôn và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi phương diện của đời sống xã hội Đại Việt. Sang đời Trần, bộ máy hành chính nhà nước đã dần được xây dựng và hoàn chỉnh từ trung ương đến địa phương. Nho giáo dần chiếm vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần cũng như trong tổ chức xã hội. Nhưng Phật giáo thời Trần đến giữa thế kỷ XIV vẫn giữ được sự thịnh vượng của nó. Các vua nhà Trần ý thức được rõ ràng vai trò của cả Nho giáo và Phật giáo đối với xã hội. Trần Thái Tông đã viết: “Cái phương tiện để mở lòng mê muội, con đường tắt để rõ lẽ sinh tử, ấy là đại giáo của Đức Phật. Làm cán cân cho hậu thế, làm khuôn phép cho tương lai ấy là trọng trách của tiên thánh...”. Trải qua một quá trình du nhập và phát triển đến đời Trần, Phật giáo ở Việt Nam đã có sự góp mặt của 3 thiền phái từ Ấn Độ và Trung Quốc là Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường. Đến đầu thế kỷ thứ XIII, ba thiền phái nói trên đã dần dần nhập lại làm một để hình thành nên phái thiền mang đậm tính chất dân tộc là phái thiền Trúc Lâm. Các tăng sĩ đời Trần không trực tiếp đóng góp vào sự nghiệp chính trị như các Thiền sư đời Lý, nhưng Phật giáo vẫn là một yếu tố quan trọng để liên kết nhân tâm, cố kết cộng đồng. Tinh thần Phật giáo đã giúp cho các nhà chính trị đương thời có những kế sách thân dân trong việc củng cố, xây dựng và bảo vệ đất nước. Không thể phủ nhận được rằng, Phật giáo đã có những đóng góp tích cực góp phần làm nên hào khí Đông A lừng lẫy một thời của dân tộc Đại Việt qua những chiến thắng bình Nguyên, dẹp Mông. Ở thời Trần, rất nhiều chùa tháp qui mô to lớn hoặc kiến trúc độc đáo đã được xây dựng. Phật giáo thời Trần đã có có sự phát triển đến cực thịnh. Từ giữa thế kỷ XIV, cùng với sự suy vi của triều đại nhà Trần, Phật giáo cũng dần mất đi tính nhập thế tích cực và ngày càng suy vong. Bảy năm dưới triều đại nhà Hồ, Phật giáo suy vi một cách nhanh chóng. Quân Minh mượn cớ khôi phục nhà Trần kéo quân sang xâm lược nước ta và đặt chế độ cai trị hà khắc. Với âm mưu Hán hóa văn hóa Đại Việt, quân Minh đã tịch thu và đốt hết sách vở trong đó có cả kinh sách nhà Phật; chùa chiền bị đốt phá, sư tăng bị giết hại. Đến thời hậu Lê, ở Việt Nam xuất hiện thêm hai phái thiền là Thiền Tào Động ở Đằng Ngoài và Thiền Lâm Tế ở Đằng Trong. Thời Minh Mạng và Thiệu Trị bắt đầu có sắc trùng tu những ngôi chùa và Tổ đình quan trọng, nhưng trong dân gian thì ảnh hưởng của Phật giáo không còn sâu đậm như trước. Thời vua Tự Đức, nước ta rơi vào vòng đô hộ của Pháp, Phật giáo Việt Nam vốn đã suy vi, nay lại càng suy vi hơn. Dưới sự cai trị của nhà Nguyễn (cả trước và sau khi Pháp xâm lược), Phật giáo tiếp tục suy tàn. Vào những năm 30 của thế kỷ XX, một số nhà tu hành và một số nhân sĩ, trí thức Phật giáo đã đứng ra vận động phong trào “Chấn hưng Phật giáo”. Kể từ đó, Phật giáo có sự khởi sắc. Một bộ phận Phật giáo đi vào hoạt động có tổ chức, một số cơ sở đào tạo tăng tài lần lượt ra đời như An Nam Phật học hội, Hội Phật học Bắc kỳ, Hội tăng già Trung Việt, hôi Phật học Việt Nam, tổng hội Phật giáo Việt Nam… Thời kỳ Mỹ - Diệm, Phật giáo ở hai miền có sự khác biệt nhất định. Ở miền Bắc, Phật giáo được quy tụ trong một tổ chức duy nhất là “Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam” sinh hoạt tín ngưỡng gắn với các động yêu nước, gắn bó với dân tộc. Ở miền Nam, do tình hình chính trị phức tạp, Phật giáo bị phân rã theo nhiều xu hướng chính trị khác nhau và hình thành nên 14 hệ phái. Sau đại thắng mùa xuân năm1975, đất nước hoà bình, Bắc Nam thu về một mối đã tạo điều kiện cho các hệ phái Phật giáo thống nhất. Tháng 11/1981, Đại hội đại biểu thống nhất Phật giáo đã được tổ chức tại Hà Nội. Đại hội đã lập ra Giáo hội Phật giáo Việt Nam, thông qua Hiến chương, Chương trình hành động và bầu ra cơ quan lãnh đạo. Đến nay, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã trải qua sáu kỳ Đại hội và không ngừng trưởng thành, phát triển. Đánh giá một cách khái quát quá trình du nhập, phát triển của Phật giáo ở Việt Nam chúng ta có thể rút ra một số nhận xét sau: - Thứ nhất, Phật giáo vào Việt Nam bằng con đường dân giã và mang tính tự phát thông qua các thương nhân Ấn Độ và các nhà truyền giáo Trung Quốc. Với đạo Công giáo, quá trình mở rộng nước Chúa ra các vùng đất ngoại (trong đó có Việt Nam) của Giáo hội Công giáo La Mã là nằm trong chủ đích của giáo hội và các nhà nước tư bản thực dân. Quá trình này đã gắn liền với cuộc chiến tranh xâm lược để tìm kiếm thị trường khai thác tài nguyên vật liệu, bóc lột công nhân của chủ nghĩa tư bản. Do vậy, hoạt động truyền giáo của đạo Công giáo vào Việt Nam gắn bó chặt chẽ với các hoạt động thực dân, giữa quyền lợi tòa thánh và quyền lợi của các quốc gia tư bản. Khác với đạo Công giáo, Phật giáo vào Việt Nam hoàn toàn mang tính tự phát. Công lao đầu tiên của việc Phật giáo du nhập vào Việt Nam phải kể đến vai trò của các thương nhân Ấn Độ. Từ những năm đầu công nguyên người Ấn Độ đã đi buôn bán với nhiều nước trong vùng Địa trung hải, Trung Đông, Đế quốc La Mã. Họ đi nhiều nơi để tìm nguyên liệu, hàng hoá. Chính trong quá trình đó, họ đã tới Đông Nam Á, trong đó có đất Giao Chỉ. Nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra rằng, trung tâm Phật giáo đầu tiên ở Việt Nam - Luy Lâu - được hình thành trước tiên là do sự viếng thăm của các thương nhân người Ấn. Họ đến Việt Nam trước cả các tăng sĩ, họ đến mang theo cả những kỹ thuật canh tác, y thuật, phong tục tập quán và sinh hoạt tôn giáo của người Ấn Độ (Bà la môn giáo và Phật giáo). Những đặc điểm văn hóa này đã có ảnh hưởng đến đời sống của người dân bản địa Việt Nam. Như vậy, các thương nhân Ấn Độ đã tham gia một cách tự phát vào quá trình truyền bá Phật giáo vào các xứ phương Đông, trong đó có Việt Nam. Hay nói cách khác, họ đã đem Phật giáo đến Việt Nam một cách tự phát, không có chủ đích. Tuy nhiên, Phật giáo ở Giao Chỉ thời kỳ này mới chỉ là những sinh hoạt tín ngưỡng đơn sơ giới hạn trong sự đọc Tam quy, cúng dường Phật pháp, bố thí chứ chưa có kinh điển. Tiếp sau các tăng sĩ Ấn Độ là các nhà sư người Trung Quốc. Lúc này nước Việt Nam đang chịu sự đô hộ Trung Hoa. Các nhà sư Trung Quốc đến Việt Nam truyền đạo lúc này chưa phải do được người Việt mời, thỉnh mà cũng hoàn toàn mang tính tự phát. Chỉ đến khi nước Việt Nam bước vào thời kỳ tự chủ, vua Lê Đại Hành mới cho người sang Trung Hoa mời sư về thỉnh kinh. -Thứ hai, Phật giáo vào Việt Nam chủ yếu bằng con đường hòa bình, ít gây ra xung đột với văn hoá bản địa. Phật giáo đến với dân tộc Việt Nam một cách rất tự nhiên. Ngay từ buổi đầu mới du nhập, Phật giáo đã nhanh chóng được người Việt đón nhận mà hầu như không gặp phải bất kỳ một trở ngại nào. Thậm trí, nó còn được tiếp nhận một cách nhanh chóng vì bản thân nó có nhiều điểm phù hợp với hệ thống tín ngưỡng của người Việt cổ. Người Việt thời kỳ này tin tưởng có ông Trời ở trên cao, nhìn thấu mọi việc dưới đất, trừng phạt kẻ ác, giúp đỡ người thiện. Linh hồn con người không chết đi cùng thể xác mà nó vẫn còn tồn tại xung quanh người thân để che chở, bảo vệ, phù hộ họ. Bên cạnh đó họ còn tin có ma xó, tin vào thầy mo, thầy cúng… Trong bối cảnh như vậy, Phật giáo với thuyết Nhân quả nghiệp báo, luân hồi, với những quan niệm về công đức, Tam bảo… không những không đi ngược với tín ngưỡng của người Việt mà còn rất phù hợp nên nó đã được tiếp nhận nhanh chóng. Đồng thời, trong hoàn cảnh bị đô hộ bởi thế lực ngoại bang, người Việt đã tìm thấy ở Phật giáo một nền tảng tư tưởng để củng cố bản sắc dân tộc. Với thái độ khoan dung, mềm dẻo, linh hoạt nên quá trình truyền bá Phật giáo vào Việt Nam nhìn chung không gây ra những xung đột về văn hoá, tôn giáo. Không những thế, Phật giáo còn chấp nhận chung sống và hòa đồng một cách tích cực với hệ thống tôn giáo và tín ngưỡng dân gian bản địa. Nếu như so sánh quá trình du nhập, phát triển của Phật giáo với quá trình du nhập, phát triển của các tôn giáo khác ở Việt Nam như Công giáo, Tin lành thì thấy quá trình du nhập phát triển của Phật giáo tương đối êm ả. Quá trình du nhập, phát triển của đạo Công giáo ở Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn không mấy đẹp trong lịch sử dân tộc. Với việc cấm tín đồ không được thờ cúng theo phong tục dân gian, trong một thời gian khá dài, đạo Công giáo đã tự đặt mình ra ngoài lịch sử văn hóa của dân tộc và đã làm suy yếu nền tảng tín ngưỡng bản địa của người Việt. Sự thiếu khoan dung của đạo Công giáo là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới việc triều đình nhà Nguyễn cấm đạo. Bên cạnh việc cấm đạo của triều đình, đạo Công giáo cũng đã vấp phải sự phản ứng của nhân dân Việt Nam. Phong trào “Bình tây sát tả” ở miền Trung do các văn thân sĩ phu lãnh đạo thực chất là phong trào chống đạo Công giáo từ góc độ văn hóa, tư tưởng. Sau này, trong lịch sử cận hiện đại, quá trình du nhập của đạo Tin lành vào vùng đồng bào các dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng gây nên những xáo trộn văn hóa không nhỏ. Khi đạo Tin lành du nhập vào, hệ thống tín ngưỡng, phong tục, tập quán của đồng bào các dân tộc thiểu số bị xóa bỏ hàng loạt, thay vào đó là các giá trị kiểu mới của phương Tây. Với Phật giáo thì ngược lại. Vào Việt Nam, Phật giáo không những không loại trừ hệ thống tín ngưỡng dân gian bản địa mà còn dung nạp nó, làm phong phú thêm giá trị của bản thân mình. Với phương châm “hoằng hóa tùy duyên phương tiện”, Phật giáo tỏ ra là tôn giáo khá linh hoạt thích ứng nhanh với các điều kiện nơi mà nó đứng chân. Chính vì vậy, vào Việt Nam, Phật giáo đã không gây nên những xáo trộn về mặt văn hóa. Nó nhanh chóng hòa đồng, bén rễ trong lòng dân tộc và chiếm được cảm tình của đông đảo người dân Việt Nam. Thậm chí, ngay từ những giai đoạn đầu khi mới được du nhập vào Việt Nam, Phật giáo đã từng được sử dụng như một công cụ để chống lại sự xâm lăng văn hoá, sự đồng hoá văn hoá của các thế lực xâm lược phương Bắc. Triết lý Phật giáo gần gũi với với tinh thần dân tộc nên ngay từ giai đoạn đầu, các nhà tư tưởng của nước Việt đã đến với Phật giáo để tìm một xu hướng độc lập cho dân tộc, chống lại sự nô dịch tinh thần của tư tưởng Đại Hán (có thể tìm thấy điểm này trong tư tưởng, trong việc làm của Mâu Bác, Sĩ Nhiếp). Và người Việt đã thành công khi sử dụng Phật giáo làm ngọn cờ tư tưởng để tập hợp, cố kết lòng dân. Các giai đoạn sau này, trong quá trình phát triển ở Việt Nam, Phật giáo cũng luôn luôn chung sống hài hòa và có đóng góp vào sự phát triển văn hóa của dân tộc. Bằng chứng là ngay cả giai đoạn cha ông ta cùng với Phật giáo Nam tiến mở mang văn hóa Đại Việt cũng diễn ra đầy tính bao dung, nhân nghĩa. Lịch sử không hề ghi nhận một cuộc chiến tranh nào về việc hủy diệt văn hóa của người Việt trong quá trình Nam tiến. - Thứ ba, trong quá trình du nhập, phát triển, Phật giáo luôn gắn bó, đồng hành với dân tộc và đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng và bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc, góp phần hình thành bản sắc văn hoá Việt Nam. Các tôn giáo ngoại nhập như Công giáo, Tin lành khi vào Việt Nam đều gắn liền với lợi ích của thực dân, đế quốc. Trong quá trình du nhập và phát triển của các tôn giáo này lại có nhiều giáo sĩ hoạt động thiếu trong sáng cho mưu đồ xâm lược của thực dân. Trong lịch sử, chúng lại luôn bị lợi dụng bởi các mưu đồ đi ngược lại lợi ích dân tộc. Ngược lại, Phật giáo ngay từ buổi đầu du nhập và trong suốt quá trình phát triển đều luôn gắn bó, đồng hành thủy chung với dân tộc. Giai đoạn đầu khi dân tộc Việt Nam mới giành được độc lập, nhà nước non trẻ đứng trước vô vàn những khó khăn, thiếu thốn thì chính các Thiền sư là những người đi đầu phục vụ cho lợi ích của dân tộc, đem hết sức mình phục vụ cho quốc gia, xã tắc. Họ là những người đã mở những cuộc vận động tạo ý thức quốc gia rất lớn. Đến thời Lý - Trần, ý hướng xây dựng một nhà nước độc lập, tự chủ trên mọi phương diện của các thiền sư cũng được thể hiện rất rõ rệt. Trên phương diện địa lý, chính các thiền sư là người đã đóng góp một phần không nhỏ vào việc dời kinh đô đến nơi thuận lợi để có thể xây dựng sự nghiệp độc lập dài lâu. Các thiền sư cũng chính là người trực tiếp thiết lập kế hoạch ngoại giao và bàn luận các vấn đề về quân sự. Hơn thế nữa, họ cũng không ngại can gián khi thấy vua quan sống quá xa hoa, xa rời việc nước. Các giai đoạn sau này, Phật giáo tuy không còn giữ được sự phát triển như thời Lý - Trần, nhưng nó vẫn luôn luôn gắn bó, đồng hành, thủy chung cùng vận nước của dân tộc Việt. Từ nửa sau thế kỷ XIV, Phật giáo mất chỗ đứng trong cung đình nhưng nó có sức sống mãnh liệt trong dân gian. Nhờ lui về chốn thôn quê nó đã dung hòa mạnh mẽ với hệ thống tín ngưỡng dân gian bản địa tạo nên dòng Phật giáo có sức sống lâu bền cho đến tận ngày nay. Thời cận, hiện đại, trong bối cảnh nước nhà bị đô hộ bởi các thế lực đế quốc thực dân, Phật giáo Việt Nam đã có sự phân hóa nhất định. Tuy nhiên, nhìn chung Phật giáo vẫn là tôn giáo đồng hành, gắn bó với dân tộc ngay cả khi dân tộc gặp nguy nan. Trong bối cảnh nước mất, nhà tan một bộ phận nhà tu hành và tín đồ Phật giáo tiên bộ đã vận dụng triết lý nhà Phật để phục vụ cho công cuộc kháng chiến. Nhiều nhà sư đã cởi áo cà sa khoác áo lính ra chiến trận, nhiều chùa chiền trở thành nơi cất dấu vũ khí, nơi nuôi dưỡng cán bộ cách mạng. Nhiều cuộc đấu tranh tư tưởng giữa Phật giáo và các thế lực đế quốc đã diễn ra. Nhiều nhà sư đã anh dũng hy sinh thân mình vì đạo pháp, vì hòa bình cho dân tộc. Từ ngày hòa bình được lập lại trên đất nước ta, Giáo hội Phật giáo trở thành một thành viên trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Nhiều nhà tu hành Phật giáo đã tham gia quốc hội trong nhiều khóa. Phật giáo là tôn giáo duy nhất ở Việt Nam hiện nay nêu phương châm hành động: “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”. Với phương châm hành đạo này, Phật giáo ngày càng gắn bó mật thiết hơn với vận mệnh của dân tộc trong giai đoạn mới. Nhìn suốt chiều dài lịch sử Phật giáo Việt Nam, có thể nói rằng, Phật giáo là tôn giáo luôn gắn bó, đồng hành thuỷ chung với dân tộc, được lòng dân tộc hơn các tôn giáo khác và vì vậy nó có ảnh hưởng sâu rộng trong dân gian, góp phần hình thành lối sống, nhân cách, đạo đức cho một bộ phận không nhỏ người Việt Nam trong lịch sử cũng như hiện nay. Giáo sư Hà Văn Tấn đã hoàn toàn có lý khi cho rằng: hai ngàn năm Phật giáo Việt Nam là hai ngàn năm Phật giáo nhập thân vào dân tộc. 1.2. Khái quát đặc điểm Phật giáo Việt Nam và tình hình Phật giáo Việt Nam hiện nay 1.2.1. Đặc điểm Phật giáo Việt Nam Trên bước đường truyền bá và hội nhập, Phật giáo luôn cố gắng thực hiện hai điều đó là khế lý và khế cơ. Khế lý là nói về mặt tư tưởng, nhờ nó mà dù ở thời gian và không gian nào, giáo lý Phật giáo vẫn giữ được nét đặc sắc của mình và “chỉ có một vị đó là vị giải thoát”. Khế cơ là thích ứng với hoàn cảnh lịch sử, nhờ khế cơ nên dù trong hoàn cảnh và quốc độ nào thì sự sinh hoạt, thể hiện, truyền đạt cũng luôn đa dạng. Nói một cách khác, có thể tuỳ nghi phương tiện theo từng vùng miền để truyền bá giáo lý Phật đà nhưng không làm mất đi bản sắc của Phật giáo. Khi Phật giáo được truyền bá vào Việt Nam đã được các vị thiền sư người Việt bản địa hóa, khiến Phật giáo hòa mình vào lòng dân tộc, tạo nên một sắc thái đặc biệt của riêng Việt Nam. Phật giáo đã sinh tồn cùng dân tộc, tiếp biến những giá trị của nền văn hóa Việt Nam, nên nó có một số đặc điểm riêng, không giống với Phật giáo ở Ấn Độ hay bất kỳ nơi nào khác. Bàn về đặc điểm Phật giáo, trong giới học giả hiện còn có những ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung các nhà nghiên cứu có sự thống nhất cao về những đặc điểm của Phật giáo Việt Nam. Theo nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm, đặc điểm cơ bản của Phật giáo Việt Nam là tính tổng hợp, tính linh hoạt và xu hướng hài hòa âm dương có phần thiên về nữ tính. Ông diễn giải tính tổng hợp của Phật giáo là sự kết hợp giữa các tông phái của Phật giáo cũng như sự hòa đồng với các tôn giáo khác. Còn tính linh hoạt được thể hiện ở chỗ: Phật giáo Việt Nam kết hợp chặt chẽ việc đạo với việc đời. Nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Hinh thì cho rằng, Phật giáo Việt Nam có mấy đặc điểm nổi bật: Một là, nơi gặp gỡ của hai dòng Nam truyền và Bắc truyền của Phật giáo Ấn Độ truyền ra nước ngoài; hai là, giáo - thiền hợp nhất, thiền - tịnh song tu; ba là, Phật giáo lưu truyền trong dân gian mang tính dân tộc. Trong tác phẩm “Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam”, nhà nghiên cứu Nguyễn Tài Thư cũng có ý kiến như trên [80]. Xem xét Phật giáo trong mối tương quan quan các tôn giáo khác ở Việt Nam, cũng như với Phật giáo ở Ấn Độ, Trung Quốc và một số nước khác, có thể rút ra một số đặc điểm nổi bật sau đây. Thứ nhất, Phật giáo Việt Nam có sự kết hợp giữa các tông phái vốn đã tồn tại từ trước khi du nhập vào Việt Nam. Phật giáo truyền vào Việt Nam gồm cả hai dòng Nam tông và Bắc tông (thường được gọi là Tiểu thừa và Đại thừa). Ở các quốc gia láng giềng của Việt Nam và các quốc gia trong khu vực châu Á như Thái Lan, Lào, Cam puchia, Mianma, Trung Quốc…thường chỉ có mặt nổi trội của một trong hai hệ phái hoặc Tiểu thừa hoặc Đại thừa. Ở Lào, Thái Lan, Camphuchia là sự thịnh hành của Phật giáo Tiểu thừa. Với đất nước Campuchia, ban đầu khi Phật giáo mới du nhập vào là Phật giáo Đại thừa, nhưng khi Phật giáo Tiểu thừa được du nhập vào thì Phật giáo Đại thừa dần bị lụi tàn nhường chỗ cho sự thịnh hành của Phật giáo Tiểu thừa. Phật giáo Trung Quốc và Phật giáo Nhật Bản lại chủ yếu là Phật giáo Đại thừa. Ở Việt Nam, theo nhiều nhà nghiên cứu thì Phật giáo Đại thừa được truyền vào trước ở khu vực phía Bắc, sau đó, Phật giáo Tiểu thừa qua con đường Campuchia cũng được truyền vào phía Nam Việt Nam và ăn sâu bén rễ trong cộng đồng người Khơ me. Nhưng khác với Campuchia, Phật giáo Tiểu thừa vào Việt Nam nhưng nó không làm lụi tàn Phật giáo Đại thừa. Cả hai hệ phái này cùng song song tồn tại và phát triển trên đất nước Việt Nam cho đến ngày nay. Hiện nay, Hệ phái Tiểu thừa tập trung chủ yếu trong khu vực đồng bào Khơ me ở miền Tây Nam bộ và trong một số ít người Kinh ở Nam Bộ. Hệ phái Phật giáo Đại thừa tập trung chủ yếu ở khu vực phía Bắc, trong cộng đồng người Kinh và một số ít trong đồng bào các dân tộc thiểu số khác. Ba tông phái chính Đại thừa được truyền vào Việt Nam là Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông. Thiền tông là tông phái do vị sư tổ người Ấn Độ là Bồ Đề Đạt Ma sáng lập ra vào đầu thế kỷ VI ở Trung Quốc. “Thiền” có nghĩa là tập trung tâm trí cao độ để tìm ra chân lý. Tôn chỉ của Thiền tông được Bồ Đề Đạt Ma khái quát là: Bất lập văn tự/Giáo ngoại biệt truyền/Trực chỉ nhân tâm/Kiến tính thành Phật (nghĩa là: Không bày đặt chữ nghĩa/ Trong truyền, ngoài giáo điển/Chỉ thẳng vào tâm người/ Thấy được tính mà thành Phật). Như vậy, Thiền tông thừa nhận có thực tại siêu việt ẩn dấu sau giáo điển. Giáo điển chỉ là cái bè qua sông, chỉ là ngón tay chỉ mặt trang mà thôi. Tu thiền là làm cho tâm lặng, lọc bỏ hết tham - sân - si sẽ thấy được Phật tính và do vậy sẽ thành Phật. Người tu theo Thiền tông phải là người có năng lực trí tuệ và phải tập trung cao độ toàn bộ thời gian và tâm sức cho việc tu hành. Do đó Thiền tông chủ yếu lưu truyền trong giới thượng lưu và tầng lớp trí thức, còn những người phải vật lộn với miếng cơm manh áo rất khó tu theo tông tông phái này. Ở Việt Nam xuất hiện một số dòng thiền như Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường…Đặc biệt, Ở Viết Nam đã xuất hiện một dòng Thiền riêng, đó là dòng Trúc Lâm. Nhìn chung, các dòng Thiền ở Việt Nam giao quyện với nhau và đều đề cao cái tâm, cho rằng, “Phật tại Tâm, Tâm tức là Phật”. Nếu Thiền tông đề cao việc “tự giác giác tha”, tự mình tìm kiếm, giác ngộ chân lý thì Tịnh Độ tông lại chủ trương phải dựa vào sự giúp đỡ, hỗ trợ từ bên ngoài để chứng ngộ chân lý. Tịnh Độ tông quan niệm, một số người có thể tự lực giác ngộ, nhưng với đa số người khác thì sự giúp đỡ bên ngoài là vô cùng quan trọng. Như vậy, Thiền tông hay Tịnh Độ tông đều là những biện pháp tu hành, chỉ đối tượng áp dụng là khác nhau mà thôi. Nếu chỉ có Thiền tông, Phật giáo chỉ có thể được biết đến trong giới tu hành và một số phật tử thuộc tầng lớp trên của xã hội. Nhờ có Tịnh Độ tông, với quan niệm và cách thức tu hành đơn giản, Phật giáo đã trở nên phổ biến và gần gũi với mọi người dân. Mật tông (Chân ngôn tông) là tông phái sử dụng những phép tu huyền bí như linh phù, mật chú, ấn quyết,..để đạt được sự giác ngộ và giải thoát. Khi du nhập vào nước ta, Mật tông nhanh chóng hoà quyện với tín ngưỡng dân gian bản địa như dùng pháp thuật, yểm bùa để trừ tà ma, chữa bênh,.. nên không còn tồn tại như một tông phái riêng. Khi được truyền bá vào nước ta, các tông phái trên không còn tồn tại biệt lập, riêng rẽ và thuần khiết như ban đầu nữa mà chúng có sự kết hợp với nhau, sử dụng những phương pháp của nhau trong quá trình phát triển. Mặc dù Thiền tông chủ trương bất lập văn tự nhưng các thiền sư Việt Nam để lại rất nhiều trước tác nổi tiếng. Phật giáo Việt Nam coi trọng cả hai con đường giải thoát là “tự lực” và “tha lực”, người Việt Nam một mặt quan niệm “Phật tại tâm”, mặt khác vẫn nhiệt thành thực hành các lễ nghi cầu khấn chư phật mười phương phù hộ để thoát khổ và được sống một cuộc sống an lạc. Sự kết hợp giữa các tông phái thể hiện ngay trong “tăng bảo”: Giáo hội Phật giáo Việt Nam là một tổ chức có nhiều hệ phái khác nhau, bao gồm cả đại thừa lẫn tiểu thừa, cả các tông phải nguyên thuỷ và cả các tông phái hình thành về sau. Thứ hai, Phật giáo Việt Nam có sự dung hợp với các tôn giáo khác, đặc biệt sự dung hợp giữa Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo đã đến mức “tam giáo đồng nguyên”. Một trong những đặc trưng cơ bản của văn hóa truyền thống Việt Nam là tính dung hợp. Các yếu tố văn hoá ngoại lai khi du nhập vào Việt Nam đã có sự dung hợp từ rất sớm, đặc biệt là giữa Phật giáo và Đạo giáo. Từ thời Bắc thuộc, Phật giáo đại diện cho một nền văn hóa lớn đối trọng với văn hóa Trung Hoa đã được người dân Việt Nam đón nhận. Đạo giáo mặc dù đến từ Trung Hoa, nhưng không phải là tư tưởng đại diện cho tập đoàn thống trị, nội dung lại có nhiều điểm tương đồng với tín ngưỡng dân gian bản địa nên cũng dễ dàng được người Việt Nam chấp nhận. Cả Phật giáo và Đạo giáo được tiếp biến bởi văn hoá Việt Nam và đã nhanh chóng hòa quyện với nhau. Muộn hơn sau đó, quan hệ giữa Phật giáo với Nho giáo cũng hình thành và trở nên khăng khít. Nhìn từ bề ngoài thì quan hệ giữa Phật giáo với Nho giáo xuất phát từ nhu cầu học kinh phật của các nhà sư. Do ảnh hưởng của Phật giáo từ Trung Hoa nên muốn học kinh Phật trước tiên phải biết chữ Hán và người ta chỉ có thể học chữ Hán thông qua các kinh sách Nho giáo. Vì vậy, các nhà sư thường cũng kinh thông cả Nho học. Tuy nhiên, về thực chất, quan hệ này bắt nguồn từ chủ thể sử dụng cả Nho giáo và Phật giáo. Việt Nam thường được coi là nơi mọi hệ tư tưởng có thể trú chân và phát triển. Nhưng người Việt không hề dễ dãi trong việc tiếp thu văn hóa ngoại lai, trái lại còn rất thận trọng, nhất là đối với những giá trị văn hoá đến từ đất nước của những kẻ xâm lăng. Nho giáo phải mất khoảng mười lăm thế kỷ và cũng chỉ khi nền độc lập dân tộc được củng cố vững chắc thì mới trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội. Phật giáo vốn du nhập bằng con đường hoà bình, lại vốn gần gũi hơn, nhưng để trở thành hệ tư tưởng chủ đạo cũng phải mất gần mười thế kỷ. Đặc biệt, khi tồn tại trong một nền văn hoá giàu bản sắc, chịu tác động bởi tinh thần khoan dung, cởi mở của dân tộc Việt Nam, các tôn giáo đã phải biến đổi để thích nghi theo hướng hòa hợp. Đầu tiên, Phật giáo được tín ngưỡng cổ truyền tiếp nhận, rồi tín ngưỡng cổ truyền tiếp nhận Đạo giáo và tất cả cùng tiếp nhận Nho giáo, hình thành nên cục diện “Tam giáo đồng nguyên”. Người Việt cho rằng, “Tam giáo đồng quy”, thoạt nhìn tam giáo có vẻ khác nhau, nhưng khi đi sâu tìm hiểu thì chúng đều có chung một mục đích đó là khuyến thiện. Sự dung hòa tam giáo ở Việt Nam diễn ra hết sức tự nhiên và thể hiện sinh động trong tình cảm, hành động của người dân. Với tư duy tổng hợp, người Việt Nam cho rằng tam giáo có khác nhau về phương tiện, cách thức nhưng có chung nguồn gốc, có chung mục đích và nhất là có thể bổ trợ cho nhau: Nho giáo lo tổ chức xã hội sao cho quy củ, ngăn nắp; Đạo giáo lo cho thể xác con người sao cho khoẻ mạnh, thư thái và trường thọ; còn Phật giáo lo giải thoát tâm linh khỏi ràng buộc vật chất để kiếp sau được sung sướng. Người dân Việt Nam cần đến cả tam giáo và sử dụng từng tôn tôn giáo vào những mục đích và hoàn cảnh cụ thể một cách linh hoạt. Trong nhiều thế kỷ người dân Việt Nam quan niệm, trong cuộc đời, trẻ thì theo học Nho để ra giúp nước giúp dân, khi khổ ải trầm luân thì cầu trời, khấn Phật phù hộ độ trì, khi ốm đau già yếu thì cần mời đạo sĩ đến để trừ tà ma trị bệnh. Hình ảnh “Tam giáo tổ sư” với Thích Ca Mâu Ni ở giữa, Lão tử ở bên trái, Khổng tử ở bên phải đã in sâu vào tâm thức mọi người Việt Nam. Người Việt đã không chỉ dung hợp văn hóa, tôn giáo ngoại lai với nhau mà còn dung hợp chúng với văn hóa và tín ngưỡng bản địa. Người dân đã tiếp biến Phật giáo và Đạo giáo, rồi kết hợp với tín ngưỡng phổ biến của cư dân nông nghiệp là đạo thờ Mẫu để hình thành nên một thứ “Tam giáo bình dân”, trong đó Nho giáo được thay thế bằng đạo Thánh Mẫu. Hầu hết các ngôi chùa cổ Việt Nam đều thờ cả Phật và mẫu hoặc thần. Kiến trúc chùa thường theo mô típ “Tiền Phật hậu Mẫu” hoặc “Tiền Phật hậu Thần”, và trong thực tế nhiều nơi, gian thờ mẫu còn lấn át cả không gian thờ Phật. Sự kết hợp giữa Phật giáo với tín ngưỡng bản địa của người Việt đã tạo ra dòng Phật giáo dân gian, với truyền thuyết về Phật mẫu Man nương và những tích chèo cổ như Quan Âm Thị Kính, hay truyện thơ về công chúa Ba…cùng những quan niệm độc đáo mang đậm bản sắc Việt Nam. Phật giáo còn được kết hợp với tín ngưỡng tổ tiên của người Việt mà điển hình nhất là sự xuất hiện của Phật giáo Hoà Hảo. Phật giáo Hòa Hảo hay còn gọi là đạo Hòa Hảo ra đời vào năm 1939 ở An Giang. Thực chất Phật giáo Hoà Hảo là tiếp nối của một tông phái Phật giáo có từ gần một trăm năm trước ở đồng bằng Nam Bộ có tên là Bửu Sơn Kỳ Hương. Giáo lý Phật giáo Hoà Hảo là sự kết hợp của Tịnh Độ tông với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt. Tôn chỉ của nó là “Học Phật, Tu Nhân”, noi theo giáo lý Đức Phật mà tu sửa con người, tích cực thực hành thuyết “Tứ ân” – Ân cha mẹ, ân đất nước, ân Tam Bảo và ân nhân loại. Cách thức tu hành của Phật giáo Hoà Hảo rất đơn giản là “tu hành tại gia”. Các nghi lễ gần gũi với nghi lễ thờ cúng tổ tiên. Thứ ba, sự hòa quyện giữa Phật giáo với văn hóa, tín ngưỡng bản địa của người Việt đã làm nảy sinh dòng Phật giáo dân gian hết sức độc đáo. Phật giáo là tôn giáo linh hoạt, có tính thích ứng cao. Ở Việt Nam, dòng Phật giáo dân gian đã có lịch sử khoảng 20 thế kỷ, bởi ngay từ khi được truyền bá vào nước ta, Phật giáo đã có sự tiếp biến với tín ngưỡng cổ truyền của người Việt. Ngay từ buổi đầu du nhập, Phật giáo nhanh chóng bị bản địa hóa và trở thành chỗ dựa tinh thần để người Việt chống lại sự xâm lăng và đồng hóa về văn hóa của các thế lực ngoại bang. Dòng Phật giáo dân gian là sản phẩm của sự kết hợp giữa Phật giáo với phong tục, tập quán và tâm thức của người Việt. Người Việt đã gửi gắm vào đó quan niệm, ước vọng và các giá trị văn hóa của mình. Do đó, quan niệm về Đức Phật trong dòng Phật giáo dân gian cũng có nét đặc thù so với Phật giáo nguyên thuỷ. Trong dòng Phật giáo dân gian, các hiện tượng tự nhiên vốn có được người Việt cổ thần thánh hóa từ trước đó như mây, mưa, sấm chớp, được Phật hóa trở thành Phật Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Tín ngưỡng Phật điện hình thành ở trung tâm Luy Lâu đã truyền đi các địa phương khác và trở thành một trong những chỗ dựa về mặt tâm linh của cả dân tộc Việt Nam qua nhiều thời đại và còn tồn tại cho đến ngày nay. Trong lịch sử, các lễ hội rước Phật để cầu mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt không chỉ phổ biến ở các địa phương mà ngay cả triều đình cũng đứng ra tổ chức các nghi lễ này. Hiện nay, ngày Phật đản vẫn được tổ chức gắn liền với lễ nghi nông nghiệp tại chùa Dâu (Bắc Ninh). Dòng Phật giáo dân gian còn độc đáo ở xu hướng hài hòa âm dương có phần thiên về nữ tính. Các vị Phật Ấn Độ xuất thân vốn là nam giới, khi vào Việt Nam đã bị biến thành “Phật ông - Phật bà”. Ở một số chùa của người Mường còn có những tên gọi rất nguyên sơ: Bụt đực - Bụt cái. Trong tâm thức người Việt, Phật bà có gì đó gần gũi hơn, nên Quán Thế Âm Bồ Tát hoá thân thành Phật bà Quan âm và trở thành vị thần hộ mệnh cho tất cả cư dân. Người Việt còn có những vị Phật bà của riêng mình. Người con gái của Man Nương được xem là Phật tổ của Việt Nam, ngày sinh được lấy làm ngày Phật đản. Bản thân Man Nương được tôn là Phật Mẫu. Phật giáo dân gian đã đóng góp cho nền văn hóa dân tộc cả một hệ thống các biểu tượng về “Phật nữ” như: Quan Âm Thị Kính (còn gọi là Quan Âm Tống Tử). Quan Âm Diệu Thiện (Phật bà Chùa Hương, Bà Chúa Ba), Phật bà nghìn tay nghìn mắt, Bà Bồ tát,…Thậm chí, ngay cả Đức Phật Thích Ca vốn là nam giới mà trong các bức tranh dân gian vẫn được hình dung như phụ nữ. Bên cạnh đó, Việt Nam có khá nhiều chùa mang tên các bà như: Bà Dâu, Bà Đậu, Bà Đen, Bà Tướng, Bà Giàn, Bà Đanh, Bà Nành, Bà Ngô,…Trong quá khứ và hiện tại, đa số phật tử tại gia là phụ nữ. Phật giáo dân gian có tính linh hoạt đặc biệt. Giáo lý cao siêu trừu tượng chỉ có thể nằm nguyên trong kinh sách của nhà chùa chứ không thể thâm nhập được sâu rộng trong quần chúng. Người Việt đã tiếp thu các khái niệm Phật giáo qua lăng kính bình dân, tạo nên những sắc thái mới và làm cho giáo lý nhà Phật trở nên dễ hiểu và gần gũi. Chẳng hạn, các vị Bồ tát, các vị Hoà thượng đều được gọi chung là Phật: Phật Bà Quan Âm vốn là Bồ tát, Phật Di Lặc vốn là Hoà thượng,…Ngoài ra, Phật ở Việt Nam mang dáng dấp hiền hoà và dân giã: ông Bụt chính là hình tượng Thích Ca có mái tóc xoăn, ông Nhịn ăn nhịn mặc chính là hình tượng Thích Ca Tuyết Sơn. Trên đầu Phật Bà Chùa Hương còn có lọn tóc đuôi gà rất truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Ở các nước chịu nhiều ảnh hưởng của Phật giáo cũng có dòng Phật giáo dân gian nhưng cùng với thời gian nó thường bị mai một. Nhưng Phật giáo dân gian ở Việt Nam mang đậm màu sắc tín ngưỡng, phản ánh ước vọng của người Việt cổ vẫn tồn tại với tư cách là một hiện tượng văn hóa thông qua các lễ hội ở các làng quê trên khắp lãnh thổ nước ta. Thứ tư, Phật giáo Việt Nam chú trọng đi đến giác ngộ bằng con đường cứu nhân độ thế. Phật giáo được mệnh danh là “Đạo giải thoát”. Hệ thống phương pháp được các nhà tu hành áp dụng để đạt tới Niết bàn vô cùng đa dạng, phong phú, trong đó đa số là những hình thức tu tập mang tính xuất thế, tìm cách xa lánh cuộc sống trần tục. Tuy nhiên, khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam, người Việt đã không tiếp thu nguyên xi các phương pháp đó mà dung hợp chúng sao cho phù hợp với lợi ích thiết thực của dân tộc. Từ đó, hình thành tư tưởng về giác ngộ hết sức thiết thực và độc đáo: chứng ngộ Niết Bàn bằng con đường “cứu nhân độ thế”. Đi đến giác ngộ bằng con đường cứu nhân độ thế, Phật giáo Việt Nam mang trong mình tinh thần yêu nước, thương dân. Với tinh thần này, nhiều nhà sư Việt Nam đã đến với cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử và tạo nên một trong những đặc trưng cơ bản nhất của Phật giáo Việt Nam là xu hướng nhập thế. Với phương châm nhập thế để cứu nhân độ thế, thời Lý - Trần, các thiền sư Việt Nam lẽ ra chỉ lo hành đạo thì lại đứng ra thuyết pháp, tạo lập ý thức quốc gia, dân tộc và hơn nữa các thiền sư còn tham dự vào công việc ngoại giao, hành chính của triều đình. Không chỉ giúp triều đình trong việc củng cố đất nước về mặt chính trị, các thiền sư còn góp phần rất lớn vào việc xây dựng và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam. Ý thức xây dựng một nền văn hoá độc lập, tự chủ của các thiền sư Việt Nam được thể hiện rất rõ rệt. Chính họ là những người đã mở trường dạy học và là những người thày đào tạo nên những con người tinh thông biết dung nạp các loại ý thức hệ, đồng thời, họ cũng là những nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Có thể nói, Phật giáo Đại Việt thời Lý - Trần mang một diện mạo và đặc trưng rất riêng biệt, nó trở thành chủ lực, trực tiếp tham gia trên vũ đài chính trị với một hệ thống tổ chức chặt chẽ, tiêu biểu, không chỉ có khả năng củng cố ý thức dân tộc mà còn góp phần chống lại sự đồng hoá văn hoá của các thế lực xâm lược phương Bắc. Phật giáo thời Lý - Trần đã định hình cho một nền văn học Phật giáo đặc sắc Lý - Trần ra đời. Thông qua nền văn học Phật giáo này, các thiền sư, các phật tử đã cất lên tiếng nói mang âm hưởng chính trị đối với quyền lợi quốc gia, dân tộc. Tham gia và có vị trí cao trong đời sống chính trị của nước nhà, nhưng các thiền sư Việt Nam không hề có tham vọng thao túng thế quyền, không hề có tham vọng xây dựng một giáo quyền áp đặt chính quyền. Tinh thần vô trụ, vô ngã của Phật giáo đã giúp cho các thiền sư nỗ lực không ngừng đi đến sự chứng ngộ mà không hề sợ hãi trước sự biến đổi của tự nhiên và con người. Các thiền sư đã tham gia đóng góp vào sự phát triển đất nước mà không đòi hỏi bất cứ điều gì cho cá nhân mình. Có lẽ, đó là một trong những nguyên nhân giải thích vì sao, thời kỳ này các nhà lãnh đạo quốc gia lại đặt niềm tin vào Phật giáo. Một trong những điểm sáng của tinh thần nhập thế Phật giáo Việt Nam là Thiến phái Trúc Lâm. Tinh thần thiền học Trúc Lâm là thiền học dân tộc, một mặt không ngừng phát triển tận cùng khả năng giác ngộ để vươn tới giác ngộ hoàn toàn, mặt khác không ngừng tích cực xây dựng cuộc sống an lành cho chúng sinh bằng cách phục vụ đất nước, dân tộc, những người gần mình và có ân nghĩa với mình trong cuộc sống. Thiền phái Trúc Lâm đã nhập thế cùng dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Tinh thần ấy đã tác động mạnh mẽ vào đời sống chính trị - văn hóa - xã hội nước nhà không chỉ trong thời kỳ Nhà Trần mà cả sau này. Khái niệm “Nhập thế” là một khái niệm bắt nguồn từ tiếng Hán, nhưng khi được người Việt sử dụng có ý nghĩa riêng. Ở đây, nhập thế được hiểu là ‘gánh vác việc đời, không xa lánh cõi đời”. Khi nói Phật giáo nhập thế người ta thường hiểu theo nghĩa Phật giáo đi vào cuộc đời, yếu tố đạo bị coi là yếu tố xâm thực. Nhưng suy đến cùng, Phật giáo không phải là cái được sinh ra ở thế giới khác rồi được được đem vào áp dụng ở nhân gian. Ngược lại, nó được sinh ra từ chính trong đời sống xã hội. Có điều, khi du nhập vào Việt Nam và tồn tại trong lòng dân tộc, nó không cố giữ lấy cái nguyên sơ mà trên nền cái nguyên sơ đó mà biến cải cho phù hợp với lối sống và tâm thức người dân nơi đây, để rồi hoà mình vào nền văn hoá dân tộc, phục vụ cho sự phát triển của dân tộc Việt Nam. Chính người Việt Nam khi tiếp thu và thực hành đạo hạnh Phật giáo đã mang vào trong Phật giáo tinh thần nhập thế riêng có, hết sức đặc sắc. Có như vậy, Phật giáo mới có thể đến được với quảng đại quần chúng lao động, những người sống trên mảnh đất vốn có điều kiện thiên nhiên hết sức khắc nghiệt, những người cần cù dũng cảm, coi trọng đời sống tâm linh nhưng cũng hết sức thực tế. 1.2.2. Khái quát tình hình Phật giáo Việt Nam hiện nay Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, Phật giáo vẫn đồng hành cùng dân tộc. Sau năm 1975, hoà cùng niềm vui chung với nhân dân được sống trong một đất nước thống nhất, các tăng, ni, phật tử Phật giáo các tông, phái,…đã tự nguyện, tự giác đoàn kết lại trong một tổ chức giáo hội duy nhất là Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Kế thừa truyền thống yêu nước, gắn bó với nhân dân, Giáo hội Phật giáo Việt Nam ngày càng được củng cố và phát triển. Tổ chức của Giáo hội thuận theo Hiến chương được soạn thảo và thông qua năm 1981 và sửa đổi một số lần sau đó. Theo đó, tổ chức Giáo hội chia thành cấp Trung ương, cấp tỉnh, thành và cấp quận/huyện/thị xã/thành phố trực thuộc tỉnh. Tại cấp Trung ương, lãnh đạo của Giáo hội gồm hai Hội đồng: Hội đồng chứng minh và Hội đồng trị sự, với nhiệm kỳ 5 năm. Hội đồng chứng minh được suy tôn của Đại hội, gồm một số Hòa thượng, đứng đầu là Pháp chủ, dưới là các Phó Pháp chủ và các thành viên khác. Pháp chủ là người đại diện cao nhất của Giáo hội Phật giáo Việt Nam về mặt giới luật (đạo pháp). Thành viên của Hội đồng trị sự là các Hòa thượng, Đại đức, Ni trưởng, Cư sĩ. Đứng đầu Hội đồng trị sự là Chủ tịch, tiếp đó là các Phó chủ tịch, các trưởng ban. Chủ tịch hội đồng trị sự là người thay mặt Giáo hội về mặt pháp lý nhà nước trong mối quan hệ của giáo hội ở trong nước và ở nước ngoài. Cấp tỉnh, thành phố: mỗi tỉnh, thành phố có tỉnh, thành hội Phật giáo, lãnh đạo bởi Ban trị sự tỉnh, thành hội, đứng đầu là Trưởng Ban trị sự. Tại cấp quận, huyện, thị xã thuộc tỉnh, lãnh đạo bởi Ban đại diện Phật giáo, đứng đấu là Chánh Ban đại diện. Hiện nay, Phật giáo Việt Nam có khoảng 10 triệu tín đồ, phân bố rộng khắp các tỉnh thành trong cả nước. Theo thống kê của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, hiện có 44.498 vị tăng, ni, trong đó Bắc tông có 32.625 vị; Nam tông có 8.919 vị (8.574 vị thuộc Nam tông Khmer và 345 vị thuộc Nam tông Kinh); Khất sĩ có 2.954 tăng, ni. Cả nước có 14.775 tự viện, trong đó tự viện Bắc tông có 13.665 ngôi, tự viện Nam tông có 570 ngôi và tự viện của Khất sĩ có 540 ngôi. Nhằm đáp ứng nhu cầu tu đạo của đông đảo tăng ni, phật tử, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã tổ chức nhiều kỳ an cư kiết hạ và giới đàn. Trong 05 năm, từ 2002-2007, đã có khoảng 150 ngàn tăng ni thực hiện an cư kiết hạ và có hơn 13 ngàn giới tử thụ giới. Đặc biệt, Phật giáo Việt Nam có hệ thống các cơ sở đào tạo lớn và khá chặt chẽ. Cấp Trung ương có 04 Học viện Phật giáo đặt tại Hà Nội, Huế, Thành phố Hồ Chí Minh và Cần Thơ, đào tạo cử nhân Phật học; liên kết với các trường đại học đào tạo cử nhân triết học và tôn giáo học. Học viện Phật giáo tại thành phồ Cần Thơ được thành lập tháng 12/2006 chuyên đào tạo tăng sinh Phật giáo Nam tông Khmer. Bên cạnh đó, Giáo hội cũng tổ chức một số lớp cao đẳng Phật học và đang xúc tiến thành lập các trường cao đẳng Phật học. Giáo hội Phật giáo Việt Nam còn có 28 trường Trung cấp Phật học, trong đó phía Bắc có 06 trường; phía Nam có 22 trường. Từ năm 2002 đến năm 2007, hệ thống các trường Trung cấp Phật học đã đào tạo được gần 6000 tăng, ni, sinh, trong đó có 3.339 tăng, ni sinh đã tốt nghiệp. Các trường Trung cấp Phật học còn đào tạo chương trình Phật học cơ bản (sơ cấp Phật học) cho hàng vạn tăng, ni sinh mới xuất gia. Trong những năm qua, Giáo hội Phật giáo đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu và xuất bản các ấn phẩm văn hóa. Tại Trung ương Giáo hội, mỗi năm xuất bản từ 20 đến 25 đầu kinh sách; các tỉnh, thành hội Phật giáo xuất bản trên 2 triệu quyển. Giáo hội có Tạp chí Văn hóa Phật giáo, đã xuất bản được 47 số, tổng cộng có 470 ngàn cuốn; Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội có Tạp chí Khuông Việt; Phân viện nghiên cứu Phật học tại Hà Nội có Tạp chí Nghiên cứu Phật học, xuất bản 2 tháng một số; Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh có Tuần báo Giác ngộ và Nguyệt san Giác ngộ với số lượng xuất bản hàng triệu bản; một số tỉnh hội Phật giáo cũng xuất bản Nội san, như Tỉnh hội Phật giáo Thừa Thiên - Huế có Nội san Liễu Quán, Tỉnh hội Ninh Thuận có Nội san Hòa Từ, Tỉnh hội Đắc Lắc có Nội san Vô ưu,…Bên cạnh đó, một số tỉnh, thành hội còn mở trang tin điện tử để tuyên truyền tư tưởng và văn hóa Phật giáo. Bên cạnh các hoạt động Phật sự, tổ chức giáo hội Phật giáo rất chú trọng công tác từ thiện, cứu trợ nhân đạo. Trong 05 năm qua, Giáo hội Phật giáo đã tổ chức quyên góp được 400 tỷ đồng để làm công tác từ thiện, hỗ trợ 22.028 ca mổ đục thuỷ tinh thể, 200 căn nhà tình nghĩa, 1876 căn nhà tình thương, 422 căn nhà đại đoàn kết, 30 lớp học tình thương, 3 trường mẫu giáo, ủng hộ và nuôi dưỡng trên 100 bà Mẹ Việt Nam anh hùng, tặng hàng ngàn xe lăn cho người khuyết tật, trợ cấp hàng ngàn suất học bổng cho học sinh, sinh viên nghèo. Bên cạnh đó, đã xây dựng 126 tuệ tĩnh đuờng và 115 phòng thuốc chuẩn trị y học dân tộc, hoạt động khá hiệu quả. Về tình hình tín đồ Phật giáo, đại đa số tăng, ni, Phật tử thực hành đạo theo tinh thần từ bi, hỉ xả, vô ngã, vị tha của đạo Phật, thực hiện tốt các chính sách và pháp luật của Nhà nước, làm tròn bổn phận công dân, thực hiện tốt phương châm “Đạo pháp, dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Tuy nhiên, sinh hoạt Phật giáo cũng có những phức tạp mà bản thân Giáo hội cũng hết sức lo lắng. Một số tăng, ni chưa tuân thủ Hiến chương của Giáo hội, xa rời phẩm hạnh tu hành, sinh hoạt chưa đúng với thuần phong, mỹ tục của dân tộc. Chẳng hạn, một số tăng, ni khất thực phi pháp, sử dụng giấy tờ giả, lợi dụng Phật giáo để trục lợi cho bản thân. Một số tăng, ni lợi dụng Phật giáo, cấu kết với các thế lực thù địch với chế độ ta nhằm thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Vào các dịp lễ, tết, quang cảnh nhiều chùa rất xô bồ, do phần đông phật tử ít am hiểu giáo lý, đến chùa chỉ nhằm cầu lộc, cầu tài. Cùng với sự gia tăng số lượng người dân đến lễ chùa, các hoạt động mê tín, dị đoan cũng gia tăng. Tóm lại, có thể nói, hoạt động của Giáo hội và sinh hoạt tôn giáo của tín đồ, phật tử Việt Nam những năm gần đây hết sức rầm rộ. Nhìn chung, các hoạt động Phật giáo đều tuân thủ pháp luật, phù hợp với thuần phong, mỹ tục của truyền thống dân tộc. Tuy nhiên, vẫn có hiện tượng vi phạm pháp luật của một số chức sắc, tín đồ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội và hoạt động tín ngưỡng chân chính của đồng bào phật tử. CHƯƠNG II: ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN CỦA LỐI SỐNG CON NGƯỜI VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY 2.1. Lối sống và xây dựng lối sống của người Việt Nam hiện nay Để đánh giá đúng về sự ảnh hưởng của Phật giáo đối với lối sống của người Việt Nam hiện nay, ngoài việc phải nắm rõ bản chất, đặc điểm Phật giáo, còn phải có nhận thức đúng về lối sống người Việt. Bởi lẽ, tính chất, mức độ của sự tác động không chỉ phụ thuộc vào chủ thể tác động mà còn phụ thuộc vào tính chất, đặc điểm của đối tượng chịu tác động. Hơn nữa, xã hội con người là một hệ thống có cấu trúc hết sức phức tạp với nhiều thành tố, bộ phận tồn tại đan xen, quan hệ chằng chéo. Vị trí, vai trò của các lĩnh vực trong đời sống xã hội không giống nhau. Sự ảnh hưởng qua lại giữa những bộ phận khác nhau, trong những điều kiện hoàn cảnh khác nhau cũng khác nhau. Do đó, nếu không tìm hiểu lối sống của người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, sẽ không thể nhận thức một cách sâu sắc về ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống xã hội Việt Nam đương đại. 2.1.1. Quan niệm về lối sống Về khái niệm “lối sống”, vốn là danh từ ghép gồm lối và sống. Lối là phương thức, kiểu cách, thể thức, lề lối. Sống là hoạt động, sinh hoạt của mỗi cá nhân hoặc từng cộng đồng. Từ trước đến nay đã có nhiều học giả nghiên cứu về lối sống trên nhiều bình diện, với những quan điểm, cách tiếp cận khác nhau. Các nhà nghiên cứu phương Tây khi nghiên cứu lối sống thường theo quan điểm của chủ nghĩa vị chủng, chủ nghĩa toàn trị và chủ nghĩa tương đối. Chủ nghĩa vị chủng cho rằng, mọi chuẩn giá trị của lối sống phải được kiểm chứng bằng trình độ độc tôn. Mọi giá trị được hình thành qua nhiều thế kỷ đều được hình thành từ một mô thức quyền uy tuyệt đối và coi mình, dân tộc mình là trên hết. Đây là quan điểm phiến diện, tuyệt đối hóa yếu tố chủ quan trong lối sống. Chủ nghĩa toàn trị quan niệm mọi cá nhân phải hòa tan trong cái xã hội toàn vẹn, dưới sự cai trị của người có bộ óc thông minh tuyệt đỉnh. Như vậy, quan điểm này đề cao lối sống chuyên chế cực quyền, coi chuẩn mực của kẻ cầm quyền là tối thượng, còn người lao động không có quyền lựa chọn chuẩn mực giá trị. Chủ nghĩa tương đối cho rằng, các giá trị và các chuẩn mực mà mỗi cá nhân tin tưởng là có độ tin cậy cao nhất. Họ quan niệm, các tập quán, đặc trưng giá trị đều có mâu thuẫn. Các nhóm xã hội không có cùng một hệ chuẩn mực. Chuẩn mực giá trị phụ thuộc vào thị hiếu cá nhân. Có nghĩa, ai thích gì và làm theo cái đó gọi là giá trị; lối sống không cần có sự định hướng của xã hội. Những quan điểm trên đây về lối sống không có cơ sở lý luận đúng đắn, cũng không dựa trên cơ sở thực tiễn xã hội. Họ tuyệt đối hóa chuẩn mực do cá nhân lựa chọn và cổ suý cho cái gọi là chuẩn mực tuyệt đối do các bề trên (giai cấp thống trị) đặt ra. Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, các học giả thuộc Liên Xô (cũ) đã có nhiều đóng góp trong việc làm rõ bản chất, đặc trưng của lối sống. Tuy nhiên, xung quanh vấn đề này còn có những ý kiến khác nhau. Chẳng hạn, có quan niệm cho rằng, lối sống là một phạm trù xã hội học bao hàm tất cả các điều kiện sống, các hình thức hoạt động sống của con người, các quan hệ sinh hoạt xã hội, các hình thức thoả mãn nhu cầu. Quan niệm này thường bị phê phán do mở quá rộng khái niệm lối sống, làm cho khái niệm lối sống không còn nội hàm riêng. Có quan niệm lại xem lối sống là tổng hợp các nhu cầu và cách thức thoả mãn các nhu cầu đó. Quan niệm này cố gắng giải thích lối sống như là một cái gì đó mang tính phổ quát, nhưng lại làm cho nhận thức về lối sống trở nên mông lung. Quan niệm được nhiều người chấp nhận hơn cả là xem lối sống như là sự thống nhất hữu cơ của các hình thức hoạt động sống và điều kiện sống nhất định. Các nhà xã hội học Mác - xít khi giải thích phạm trù lối sống thường liên hệ đến đoạn viết nổi tiếng của C.Mác và Ph.ghen trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức nói về mối quan hệ giữa phương thức sản xuất và lối sống: “Không nên nghiên cứu phương thức sản xuất ấy đơn thuần theo khía cạnh nó là sự tái sản xuất ra sự tồn tại của thể xác cá nhân. Mà hơn thế, nó là một hình thức hoạt động nhất định của những cá nhân ấy, một hình thức nhất định của sự biểu hiện đời sống của họ, một phương thức sinh sống nhất định của họ”[9, 30]. Rõ ràng, con người muốn tồn tại và tái sản xuất ra giống nòi thì trước hết cần phải sản xuất. Sản xuất xã hội được tiến hành theo những phương thức nhất định và chính nhờ đó mà con người biểu hiện đời sống của mình, biểu hiện bản thân mình. Phương thức sản xuất là một hình thức hoạt động sống của con người, là mặt cơ bản của lối sống. Bởi vậy, muốn tìm hiểu lối sống không thể bỏ qua việc nghiên cứu phương thức sản xuất. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu đều nhất trí rằng, không nên đồng nhất giữa phương thức sản xuất với lối sống, vì phạm vi của lối sống rộng hơn phạm vi của phương thức sản xuất. Ngoài hoạt động sản xuất, con người còn có các hoạt động khác như hoạt động chính trị, hoạt động tư tưởng và văn hóa, hoạt động rèn luyện thân thể,.... Phạm vi lối sống có thể tương ứng với phạm vi hình thái kinh tế - xã hội, song hai khái niệm này cũng không đồng nhất với nhau. Bởi lẽ, hình thái kinh tế - xã hội gắn liền với hoạt động sản xuất vật chất của con người, là tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người. Lối sống lại gắn liền với các chủ thể, phản ánh hoạt động của chủ thể, bao gồm nhận thức, tình cảm, thái độ, động cơ trong hoạt động của bản thân con người. Lối sống là một hình thức biểu hiện của văn hóa. Nói đến lối sống là nói đến cả khía cạnh văn minh nhân loại và truyền thống của một dân tộc, cả các giá trị phổ quát và cả các giá trị phù hợp với điều kiện lịch sử của từng thời kỳ nhất định. Có thể nói, lối sống bộc lộ bản chất nhân cách của con người trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định. Lối sống hiểu một cách chung nhất là một tập hợp những nét cơ bản, tiêu biểu, ổn định của các hình thức hoạt động sống đặc trưng cho mỗi dân tộc, quốc gia, vùng địa lý, nhóm xã hội và cá nhân trong những điều kiện kinh tế - văn hóa - xã hội cụ thể. Đó là cách thức hoạt động, ứng xử của chủ thể (cá nhân, tập thể) để đáp ứng nhu cầu sống, từ ăn, mặc, ở, đi lại, tái tạo giống nòi đến học hành, vui chơi, giao tiếp và thoả mãn nhu cầu trí tuệ, thẩm mỹ,vv..; từ hoạt động kinh doanh, chính trị, văn hoá đến việc tổ chức đời sống cá nhân, gia đình và xã hội. Từ sự phân tích trên, có thể nhất trí với quan niệm sau đây của Viện Văn hóa và phát triển - Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh về lối sống: “Lối sống là một phạm trù văn hóa - xã hội học khái quát toàn bộ hoạt động sống của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong điều kiện một hình thái kinh tế - xã hội nhất định và biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống; trong lao động và hưởng thụ, trong quan hệ giữa người với người, trong sinh hoạt tinh thần và văn hóa” [97, tr 152]. Lối sống bao gồm nhiều yếu tố cấu thành. Theo chúng tôi, có thể kể ra một vài thành tố quan trọng nhất của lối sống như: - Cách thức lao động, làm ăn, kinh doanh - Các phong tục tập quán - Cách thức giao tiếp, ứng xử của con người - Quan niệm về đạo đức và nhân cách... Như vậy, lối sống chịu sự quy định của phương thức sản xuất xã hội và toàn bộ những điều kiện sống của con người. Nhưng lối sống không phải là sản phẩm thụ động bởi lối sống của con người là do con người tạo ra mà con người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh, vừa là chủ thể sáng tạo ra hoàn cảnh sống của chính mình. Do đó, lối sống có tính cơ động xã hội cao và có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến phương thức sản xuất và toàn bộ đời sống xã hội. 2.1.2. Sự biến đổi giá trị đạo đức, lối sống ở nước ta hiện nay Cũng giống như một số nước phương Đông khác, đời sống tinh thần xã hội Việt Nam truyền thống dựa trên nền tảng vật chất là nền sản xuất nhỏ. Trải qua mấy nghìn năm phát triển, nền kinh tế của Việt Nam vẫn là sản xuất nông nghiệp, chủ yếu là sản xuất lúa nước, kết hợp một phần với chăn nuôi và tiểu thủ công nghiệp. Trên cơ sở nền sản xuất nông nghiệp lúa nước, ở nước ta đã hình thành nên thiết chế cộng đồng làng xã chặt chẽ. Nền kinh tế nông nghiệp, sản xuất nhỏ cùng với thiết chế làng xã là những nhân tố qui định hoạt động tinh thần của dân tộc Việt Nam trong suốt hàng ngàn năm. Tất nhiên, trải qua quá trình hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, cơ sở kinh tế - xã hội của lối sống truyền thống ít nhiều có sự biến đổi chứ không phải bất di bất dịch. Sự biến đổi của của nó trải qua các thời kỳ lịch sử: thời kỳ Việt Cổ (Âu Lạc), thời kỳ Bắc thuộc, thời kỳ Đại Việt, thời kỳ Pháp thuộc, và thời kỳ Việt Nam độc lập, tiến lên CNXH. Trải qua quá trình hàng ngàn năm đấu tranh giữ nước và vật lộn với tự nhiên để sinh tồn, đã hun đúc nên ở dân tộc Việt Nam lối sống truyền thống hết sức quí báu, như tinh thần yêu nước, đức tính cần cù, chịu khó, tinh thần đoàn kết, coi trọng tình nghĩa, tương thân tương ái, tinh thần dũng cảm, kiên cường, bất khuất, ý chí độc lập, tự cường dân tộc…Song phải thừa nhận rằng, do bị chi phối bởi nền sản xuất nhỏ nông nghiệp lúa nước, bởi thiết chế làng xã tồn tại hàng ngàn năm, lối sống của dân tộc ta cũng có những hạn chế, như ít chú trọng khoa học kỹ thuật, tâm lý bình quân chủ nghĩa - cào bằng, tác phong tùy tiện, "ăn xổi", tâm lý cầu an, cầu may, thủ cựu, gia trưởng, vv… Từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến nay, dân tộc ta đã bước vào thời kỳ bảo vệ độc lập và phát triển đất nước trong thế giới hiện đại. Sau khi giành được độc lập, dân tộc ta đã tiến hành hai cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp (1945 - 1954) và đế quốc Mỹ (1955 - 1975) để bảo vệ nền độc lập, thống nhất của tổ quốc. Trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã tập trung phát triển kinh tế ở miền Bắc. Nền công nghiệp ở Miền Bắc trong thời kỳ đấu tranh chống Mỹ đã vượt xa những gì mà chính phủ thực dân đã làm trong 80 năm "bảo hộ" nước ta. Diện mạo xã hội đã thay đổi về căn bản. Tuy nhiên, do hoàn cảnh chiến tranh nên nền sản xuất xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa bị hạn chế, mặt khác toàn bộ hoạt động kinh tế chủ yếu là tập trung để phục vụ hai cuộc kháng chiến nên không thể tích lũy nguồn lực cho phát triển. Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ và bè lũ tay sai, cả đất nước đã phát triển theo con đường XHCN. Từ năm 1975 đến năm 1985, công cuộc xây dựng đất nước đã đạt được nhiều thành tựu, nhưng cũng mắc nhiều sai lầm. Cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp đã kìm hãm sức sản xuất của xã hội và làm biến dạng nhiều quan hệ xã hội. Trong đời sống xã hội đã xuất hiện một số "giá trị ảo". Đời sống tinh thần xã hội không thể phát triển tốt trong bối cảnh nhân dân đói kém. Trên cơ sở nhận thức một cách nghiêm túc về những sai lầm của công cuộc kiến thiết nước nhà sau chiến tranh, Đảng ta đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới và bước đầu thu được những thành quả hết sức to lớn. Nước ta từ một nước có nền kinh tế đứng bên bờ vực phá sản hoàn toàn đã dần dần thoát khỏi khủng hoảng, có tích lũy để tiến vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, lối sống của con người Việt Nam tất yếu phải có sự thay đổi. Bước chuyển về mặt sản xuất vật chất xã hội đã phức tạp, bước chuyển về mặt lối sống càng phức tạp hơn. Đặc biệt, lối sống truyền thống, vốn dựa trên nền sản xuất tiểu nông, có nhiều nhân tố không tương hợp với tính chất của kinh tế thị trường. Bản thân kinh tế thị trường là một thành tựu văn minh của toàn nhân loại chứ không riêng gì của chủ nghĩa tư bản. Về phương diện tinh thần, kinh tế thị trường luôn đòi hỏi sự năng động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm. Trong kinh tế thị trường, vai trò của cá nhân được đề cao, tinh thần tự do phê phán nảy nở, nó cũng không chấp nhận thói dựa dẫm, bệnh bảo thủ, thói gia trưởng và đầu óc địa phương chủ nghĩa. Tuy nhiên, phát triển kinh tế thị trường cũng tạo nên những hệ lụy cho đời sống xã hội nói chung, lối sống của dân tộc nói riêng. Trong kinh tế thị trường, con người dễ bị cuốn vào lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, bất chấp đạo lý. Kinh tế thị trường tác động có thể làm phai nhạt lối sống tình nghĩa, làm rạn vỡ tinh thần tập thể, sự ổn định gia đình, đồng thời làm nảy sinh lối sống cá nhân chủ nghĩa, lối sống gấp, trụy lạc, vv…Trên thực tế, đời sống tinh thần xã hội ở Việt Nam hiện nay rất phức tạp. Bởi lẽ, nền kinh tế của nước ta chưa phải là kinh tế thị trường phát triển, kinh tế nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn, có tới 70% dân số vẫn là nông dân. Trong khi ở thành thị, đời sống tinh thần đã được cải thiện đáng kể thì ở vùng nông thôn rộng lớn, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, đời sống tinh thần của nhân dân nhìn chung còn kém phát triển. Mặt khác, chúng ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Nghiên cứu ảnh hưởng của Phật giáo đối với lối sống của người Việt Nam hiện nay.pdf
Tài liệu liên quan