Tài liệu Luận văn Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón silica đến sinh trưởng, năng suất và chất lượng lạc trên đất phù sa cũ bạc màu tỉnh Vĩnh Phúc: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
ĐỖ HẢI TRIỀU
“NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA PHÂN BÓN SILICA
ĐẾN SINH TRƢỞNG, NĂNG SUẤT VÀ CHẤT LƢỢNG LẠC
TRÊN ĐẤT PHÙ SA CŨ BẠC MÀU TỈNH VĨNH PHÚC”
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH: TRỒNG TRỌT
MÃ SỐ: 60. 62. 01
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đặng Văn Minh
Thái Nguyên, 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn
toàn trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ cho một học vị nào. Mọi sự giúp đỡ cho
việc hoàn thành luận văn này đều đã được cảm ơn, các thông tin trích dẫn trong luận văn
này đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, tháng 10 năm 2008
Tác giả luận văn
Đỗ Hải Triều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm, giúp...
90 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1122 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón silica đến sinh trưởng, năng suất và chất lượng lạc trên đất phù sa cũ bạc màu tỉnh Vĩnh Phúc, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
ĐỖ HẢI TRIỀU
“NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA PHÂN BÓN SILICA
ĐẾN SINH TRƢỞNG, NĂNG SUẤT VÀ CHẤT LƢỢNG LẠC
TRÊN ĐẤT PHÙ SA CŨ BẠC MÀU TỈNH VĨNH PHÚC”
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH: TRỒNG TRỌT
MÃ SỐ: 60. 62. 01
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đặng Văn Minh
Thái Nguyên, 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn
toàn trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ cho một học vị nào. Mọi sự giúp đỡ cho
việc hoàn thành luận văn này đều đã được cảm ơn, các thông tin trích dẫn trong luận văn
này đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, tháng 10 năm 2008
Tác giả luận văn
Đỗ Hải Triều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm, giúp đỡ tận
tình của:
Thầy giáo hướng dẫn PGS.TS Đặng Văn Minh đã giúp đỡ tận tình về phương pháp
nghiên cứu cũng như quá trình hoàn thiện luận văn.
Khoa Sau đại học - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
Trung tâm Thổ nhưỡng Nông hoá tỉnh Vĩnh Phúc.
Viện Thổ nhưỡng Nông hoá, Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp.
Các hộ nông dân tại thôn Trại Lớn, xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc.
Cho phép tôi đựơc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến tất cả những sự giúp đỡ quý báu
đó.
Thái Nguyên, tháng 10 năm 2008
Tác giả luận văn
Đỗ Hải Triều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu 1
1. Đặt vấn đề 1
2. Mục đích nghiên cứu 3
3. Ý nghĩa của đề tài 3
Chƣơng 1: Tổng quan tài liệu 4
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài 4
1.2. Yêu cầu ngoại cảnh của cây lạc 5
1.3. Yêu cầu về đất đai của cây lạc 6
1.4. Yêu cầu về dinh dưỡng của cây lạc 7
1.4.1 Vai trò và sự hấp thu đạm (N) 7
1.4.2. Vai trò và sự hấp thu lân (P) 7
1.4.3. Vai trò và sự hấp thu kali (K) 8
1.4.4. Vai trò và sự hấp thu canxi (Ca) của lạc 9
1.4.5. Vai trò và sự hấp thu Magiê (Mg) của lạc 10
1.4.6. Vai trò và sự hấp thu lưu huỳnh (S) của lạc 10
1.4.7. Vai trò của các nguyên tố vi lượng đối với lạc 10
1.5. Những nghiên cứu về Silic 11
1.5.1. Giới thiệu chung về Silic 11
1.5.2. Tình hình sử dụng phân bón Silica 11
1.5.3. Những nghiên cứu về Silic ở nước ngoài 12
1.5.3.1. Silic với dinh dưỡng của con người 12
1.5.3.2. Silic trong đất 13
1.5.3.3. Silic trong nước 15
1.5.3.4. Vai trò của Silic đối với cây trồng 16
1.5.4. Kết quả nghiên cứu về phân bón Silica ở Việt Nam 25
1.6. Tình hình sản xuất lạc trên thế giới và ở Việt Nam 26
1.6.1. Tình hình sản xuất lạc trên thế giới 26
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
1.6.2. Tình hình sản xuất lạc ở Việt Nam 28
1.6.3. Tình hình sản xuất lạc ở Vĩnh Phúc 32
Chƣơng 2: Đối tƣợng, nội dung, phƣơng pháp nghiên cứu 34
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 34
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 34
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu 34
2.1.3. Địa điểm và thời gian thực hiện 34
2.1.4. Vật liệu nghiên cứu 34
2.2. Nội dung, phương pháp nghiên cứu và các chỉ tiêu theo dõi 34
2.2.1. Nội dung nghiên cứu 34
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu 35
2.2.2.1. Công thức nghiên cứu 35
2.2.2.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm 36
2.2.2.3. Các biện pháp kỹ thuật 36
2.2.3. Các chỉ tiêu theo dõi và phương pháp nghiên cứu 37
2.2.3.1. Đối với cây lạc 37
2.2.3.2. Đất trồng 39
2.2.4. Phương pháp xử lý số liệu 39
Chƣơng 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận 40
3.1. Đặc điểm thời tiết khí hậu vùng nghiên cứu 40
3.2. Ảnh hưởng của phân bón Silica đến một số chỉ tiêu sinh trưởng
của cây lạc
42
3.2.1. Ảnh hưởng của phân bón Silica đến chiều cao cây 42
3.2.2. Ảnh hưởng của phân bón Silica đến số cành cấp 1/cây 43
3.3. Ảnh hưởng của phân bón Silica đến các yếu tố cấu thành
năng suất lạc
45
3.3.1. Ảnh hưởng của phân bón Silica đến tổng số quả/cây 45
3.3.2. Ảnh hưởng của phân bón Silica đến số quả chắc/cây 47
3.3.3. Ảnh hưởng của phân bón Silica đến khối lượng 100 quả 49
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
3.3.4. Ảnh hưởng của phân bón Silica đến khối lượng 100 hạt 51
3.3.5. Ảnh hưởng của phân bón Silica đến tỷ lệ hạt/quả 52
3.4. Ảnh hưởng của phân bón Silica đến năng suất lạc 53
3.5. Ảnh hưởng của phân bón Silica đến mức độ nhiễm bệnh của lạc 56
3.5.1. Ảnh hưởng của phân Silica đến mức độ nhiễm bệnh ghỉ sắt 56
3.5.2. Ảnh hưởng của phân Silica đến mức độ nhiễm bệnh đốm đen 58
3.5.3. Ảnh hưởng của phân Silica đến mức độ nhiễm bệnh đốm nâu 58
3.6. Ảnh hưởng của phân bón Silica đến chất lượng lạc 60
3.7. Ảnh hưởng của phân bón Silica đến một số chỉ tiêu hoá học đất 61
3.8. Hiệu quả kinh tế của bón phân Silica 63
3.9. Hiệu lực tồn dư của phân Silica 64
3.9.1. Hiệu lực tồn dư của phân Silica đối với các chỉ tiêu
sinh trưởng của cây lạc
65
3.9.1.1. Hiệu lực tồn dư của phân Silica đến chiều cao cây 65
3.9.1.2. Hiệu lực tồn dư của phân Silica tới số cành cấp 1 66
3.9.2. Hiệu lực tồn dư của phân Silica đối với các yếu tố
cấu thành năng suất lạc
66
3.9.2.1. Hiệu lực tồn dư của phân Silica tới tổng số quả/cây 67
3.9.2.2. Hiệu lực tồn dư của phân Silica tới số quả chắc/cây 68
3.9.2.3. Hiệu lực tồn dư của phân Silica tới khối lượng 100 quả 68
3.9.2.4. Hiệu lực tồn dư của phân Silica tới khối lượng 100 hạt 69
3.9.2.5. Hiệu lực tồn dư của phân Silica tới tỷ lệ hạt/quả 69
3.9.3. Hiệu lực tồn dư của phân Silica tới năng suất lạc 70
3.9.4. Hiệu quả kinh tế tồn dư của phân Silica 71
Kết luận và đề nghị 73
1. Kết luận 73
2. Đề nghị 74
Tài liệu tham khảo 75
Phụ lục 77
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng Tên bảng Trang
1.1 Diện tích, năng suất và sản lượng lạc trên thế giới và một
số nước
27
1.2 Diện tích trồng lạc của các vùng sản xuất chính trong nước (giai
đoạn 2001 – 2006)
29
1.3 Năng suất của các vùng sản xuất chính trong nước
(giai đoạn 2001 – 2006)
31
1.4 Sản lượng của các vùng sản xuất chính trong nước
(giai đoạn 2001 – 2006)
32
1.5 Diện tích, năng suất, sản lượng lạc tỉnh Vĩnh Phúc
(giai đoạn 2001-2007)
33
2.1 Kết quả phân tích đất trước thí nghiệm 34
3.1 Đặc điểm thời tiết, khí hậu trong thời gian làm thí nghiệm 41
3.2
Ảnh hưởng của bón phân Silica đến một số chỉ tiêu sinh
trưởng của cây lạc
43
3.3 Ảnh hưởng của bón phân Silica đến các yếu tố cấu thành năng suất
lạc
46
3.4 Ảnh hưởng của bón phân Silica đến năng suất lạc 53
3.5 Ảnh hưởng của bón phân Silica đến mức độ
nhiễm bệnh của lạc
57
3.6 Ảnh hưởng của bón phân Silica đến sự tích luỹ Silic
trong cây lạc (Vụ xuân 2007)
59
3.7 Ảnh hưởng của bón phân Silica đến hàm lượng chất béo
trong hạt lạc (Vụ xuân 2007)
60
3.8 Kết quả phân tích đất sau thí nghiệm 61
3.9 Sơ bộ hạch toán hiệu quả kinh tế sử dụng phân Silica
cho lạc trên đất bạc màu
64
3.10 Hiệu lực tồn dư của phân Silica đối với các chỉ tiêu
sinh trưởng của cây lạc
66
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
3.11 Hiệu lực tồn dư của phân Silica đến các yếu tố cấu thành năng suất
lạc
67
3.12 Hiệu lực tồn dư của phân Silica năng suất lạc 70
3.13 Sơ bộ hạch toán hiệu quả kinh tế tồn dư của bón phân
Silica cho lạc trên đất bạc màu
72
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ Tên biểu đồ Trang
3.1 Ảnh hưởng của bón phân Silica đến số cành cấp 1/cây 44
3.2 Ảnh hưởng bón phân Silica đến số quả chắc/cây của lạc 47
3.3 Ảnh hưởng của phân bón Silica đến năng suất lạc 54
3.4 Hiệu lực tồn dư tới số quả chắc/cây 68
3.5 Hiệu lực tồn dư của phân Silica tới năng suất lạc 70
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
MỘT SỐ KÝ HIỆU VIẾT TẮT
N: Đạm
P: Lân
K: Kali
Ca
++
: Canxi trao đổi
Mg
++
: Magiê trao đổi
S: Lưu huỳnh
Mo: Molipden
B: Bo
pHKCl: Độ chu pHKCl
OM%: Chất hữu cơ tổng số
P2O5%: Lân tổng số
K2O%: Kali tổng số
P2O5dt: Lân dễ tiêu
K2Odt: Kali dễ tiêu
CT: Công thức
Đ/c: Đối chứng
+: Mức độ nhiễm bệnh rất nhẹ
++: Mức độ nhiễm bệnh nhẹ
+++: Mức độ nhiễm bệnh trung bình
++++: Mức độ nhiễm bệnh nặng
+++++: Mức độ nhiễm bệnh rất nặng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
PHỤ BIỂU
1. Số cây thực thu/ô thí nghiệm (10m2)
Công
thức
Lần nhắc lại
Trung bình
1 2 3
Vụ xuân 2007
1 302 308 310 306,7
2 300 300 304 301,3
3 300 286 296 294,0
4 300 288 294 294,0
5 298 300 312 303,3
6 304 306 274 294,7
7 296 298 286 293,3
8 296 312 280 296,0
9 284 298 284 288,7
10 296 306 284 295,3
Vụ đông 2007
1 298 290 286 291,33
2 294 302 294 296,67
3 301 286 295 294,00
4 285 294 291 290,00
5 300 292 296 296,00
6 285 297 287 289,67
7 296 283 298 292,33
8 301 294 283 292,67
9 289 297 286 290,67
10 287 289 297 291,00
Vụ xuân 2008
1 298 302 296 298,67
2 294 300 304 299,33
3 300 304 296 300,00
4 300 298 304 300,67
5 298 300 312 303,33
6 294 306 284 294,67
7 306 302 284 297,33
8 296 312 298 302,00
9 294 298 304 298,67
10 296 298 302 298,67
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
2. Tỷ lệ quả 01 hạt
Công
thức
Lần nhắc lại
Trung bình
1 2 3
Vụ xuân 2007
1 21,4 20,8 19,4 20,5
2 18,1 24,3 21,6 21,3
3 19,3 21,4 20,4 20,4
4 20,5 20,8 20,8 20,7
5 25,2 19,1 22,7 22,3
6 16,4 23,5 21,7 20,5
7 21,2 31,5 24,5 25,7
8 16,9 24,4 18,6 20,0
9 20,6 20,7 24,1 21,8
10 20,2 24,5 24,6 23,1
Vụ đông 2007
1 19,5 18,6 21,7 19,93
2 19,1 23,6 21,6 21,43
3 18,3 21,8 24,3 21,47
4 18,6 25,4 18,6 20,87
5 21 21,4 17,5 19,97
6 17,6 22,5 20,4 20,17
7 20,4 24,2 21,9 22,17
8 16,8 20,5 20,7 19,33
9 18,7 21,8 21,8 20,77
10 19,3 23,4 23,4 22,03
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
3. Tỷ lệ quả 03 hạt
Công
thức
Lần nhắc lại
Trung bình
1 2 3
Vụ xuân 2007
1 0,3 0,4 0 0,2
2 0,8 0,4 0 0,4
3 0,3 0 0,4 0,2
4 0 0,4 0,4 0,3
5 0,7 0 0,4 0,4
6 0,4 0 0,4 0,3
7 0,8 0,5 0 0,4
8 0,3 0,7 0,4 0,5
9 1 0,4 0 0,5
10 0,7 0 0,4 0,4
Vụ đông 2007
1 0,6 0,8 0,5 0,6
2 0,8 0,6 0,3 0,6
3 1,0 0,2 0,9 0,7
4 0,6 0,5 0,4 0,5
5 1,3 0,2 0,6 0,7
6 0,6 0,1 0,2 0,3
7 1,0 0,6 0,2 0,6
8 0,5 0,8 0,3 0,5
9 0,3 0,7 0,3 0,4
10 0,8 0,3 0,3 0,5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
4. Giá các loại vật tƣ (giống, phân bón) và giá lạc củ thƣơng phẩm
trong thời gian thực hiện thí nghiệm
STT Loại vật tƣ Vụ xuân 2007 Vụ đông 2007 Vụ xuân 2008
1 Lạc củ giống 14000 16500 20000
2 Phân đạm urê 5000 5200 6500
3 Lân super 1500 2000 2200
4 Kali Clorua 5200 5600 6300
5 Phân chuồng 400 400 400
6 Vôi 500 500 500
7 Phân Silica 1440 1440 1440
8 Lạc củ khô 10500 14500 12500
Ghi chú:
- Giá vật tư được tính tại thời điểm thực hiện thí nghiệm; giá lạc thương phẩm
được tính tại thời điểm thu hoạch.
- Tại Việt Nam chưa có phân bón Silica thương mại nên giá phân bón trong thí
nghiệm vẫn tính theo giá tham khảo từ nước ngoài.
- Lượng lạc củ giống sử dụng cho 01 sào:10kg
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Về lý luận và thực tiễn, từ lâu chúng ta đã biết phân bón cùng với một
số giải pháp kỹ thuật khác có thể làm giảm áp lực lên tài nguyên đất và góp
phần bảo vệ môi trường. Trước hết, phân bón cung cấp các chất dinh dưỡng
cần thiết cho cây trồng một cách đầy đủ và lâu dài để cây trồng có thể sinh
trưởng, phát triển, đạt năng suất cao và bền vững. Đồng thời, về lý thuyết khi
năng suất cây trồng tăng thì khối lượng các sản phẩm phụ cũng tăng lên và
nguồn hữu cơ được trả lại cho đất cũng tăng lên, góp phần làm tăng lỷ lệ chất
hữu cơ trong đất, cải thiện tính chất đất, tăng lượng nước hữu hiệu và giảm
quá trình rửa trôi, xói mòn đất. Đặc biệt, trên một số loại đất có vấn đề như
đất phèn, đất lầy thụt, đất cát biển, đất bạc màu vùng trung du, miền núi,...thì
việc bón phân không chỉ đơn thuần là cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng mà
còn chắc chắn cải tạo chất lượng đất trồng thông qua việc bổ sung các yếu tố
dinh dưỡng vốn thiếu trên các loại đất này, đồng thời hạn chế tác động của
các yếu tố độc hại có trong đất đối với sinh trưởng, phát triển và năng suất của
cây trồng.
Là một tỉnh đồng bằng ở đỉnh tam giác châu thổ đồng bằng Bắc Bộ
nhưng Vĩnh Phúc lại có đầy đủ 3 vùng địa hình là: Đồng bằng, trung du và
miền núi. Diện tích đất canh tác toàn tỉnh là 53.978, 51ha, bằng 57,83% diện
tích đất tự nhiên. Trong đó, diện tích các loại đất được xếp vào loại có vấn đề
(gồm các loại đất: Đất cát, đất loang lổ chua bạc màu, đất xám bạc màu)
15.722,8 ha, bằng 29,13%. Các nhóm đất này có đặc điểm chung là: Đất có
thành phần cơ giới nhẹ; đất chua; chất hữu cơ, đạm, lân tổng số từ nghèo đến
trung bình; lân dễ tiêu, kali tổng số và ka li dễ tiêu nghèo; tổng Ca và Mg trao
đổi rất thấp; dung tích hấp thu thấp [8].
Trong những năm vừa qua, việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật tiên tiến
vào sản xuất nông nghiệp của nông dân trong tỉnh đã đạt được những kết quả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
đáng khích lệ, nhờ áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất mà năng suất,
sản lượng các loại cây trồng, vật nuôi của tỉnh không ngừng tăng qua các
năm.
Trong lĩnh vực sử dụng đất, phân bón, qua điều tra cho thấy nông dân
trong tỉnh đã biết sử dụng phân bón đúng cây, đúng đất và trong một số
trường hợp đã xem xét đến yêu cầu phân bón của từng giống. Tuy nhiên, cũng
như hầu hết nông dân trong cả nước, nông dân trong tỉnh cũng mới chỉ chú ý
đến các các yếu tố đa lượng như N, P, K thông qua sử dụng các loại phân đơn
như urê, lân super, kaliclorua hoặc phân tổng hợp NPK mà hầu như chưa chú
ý đến các yếu tố trung lượng như Ca, Mg, S,..và vi lượng như Bo, Mo, Zn,
Mn, ,...do đó phần nào vẫn còn hạn chế tới năng suất cây trồng và chưa cải
thiện được đồ phì đất canh tác [9].
Phân bón Silica là một loại phân bón có xuất xứ từ Hàn Quốc, với
thành phần chính là CaO = 40%; SiO2 = 25%; MgO = 2% và một số nguyên
tố vi lượng khác. Qua kết quả nghiên cứu, sử dụng phân Silica ở một số nước
như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc,...và kết quả khảo nghiệm về hiệu quả
của phân bón Silica đối với cây lúa trên một số loại đất ở Miền Bắc Việt Nam
năm 2005 của Trung tâm nghiên cứu và ứng dụng các chế phẩm nông hoá –
Viện Thổ nhưỡng Nông hoá cho thấy đây là một loại phân bón bên cạnh tác
dụng làm tăng khả năng sinh trưởng, phát triển, khả năng chống chịu với một
số tác động của điều kiện ngoại cảnh như điều kiện thời tiết bất thuận, sâu
bệnh, tăng năng suất của cây trồng thì còn có tác dụng cải tạo đất an toàn, đặc
biệt đây là loại phân chậm tan, có hiệu quả lâu dài trên các loại đất chua [11].
Trên cơ sở kết quả khảo nghiệm, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông
thôn đã quyết định đưa phân bón Silica vào “Danh mục bổ sung phân bón
được phép sản xuất, kinh doanh và sử dụng ở Vệt Nam” theo Quyết định số
55/2006/QĐ-BNN ngày 07 tháng 7 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Để góp phần đa dạng hoá các loại phân bón phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp trong tỉnh, với mục tiêu vừa tăng năng suất cây trồng, vừa cải thiện và
nâng cao chất lượng đất canh tác, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón Silica đến sinh trưởng, năng suất
và chất lượng lạc trên đất phù sa cũ bạc màu tỉnh Vĩnh Phúc”
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu, đánh giá ảnh hưởng của phân bón Silic tới sinh trưởng,
phát triển, năng suất, chất lượng đối với cây lạc; xác định lượng phân Silic
bón phù hợp cho lạc trên đất bạc màu của tỉnh.
- Đánh giá ảnh hưởng của phân bón Silic tới một số tính chất hoá học
đất như: Độ chua, lân và kali dễ tiêu, cation trao đổi.
3. Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa trong nghiên cứu khoa học: Góp phần đánh giá hiệu quả của
phân Silica đối với cây trồng nói chung và đối với cây lạc trên vùng đất bạc
màu nói riêng.
- Ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất: Góp phần vào việc khuyến cáo sử
dụng rộng rãi phân Silica vào trong sản xuất đối với các loại cây trồng và trên
các vùng đất. Góp phần cải tạo và nâng cao chất lượng đất canh tác, nhất là
đối với các loại đất nghèo dinh dưỡng vùng đồi núi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Về cơ bản, mọi cây trồng để sinh trưởng, phát triển và cho năng suất
đều phải lấy dinh dưỡng từ đất. Lượng dinh dưỡng mà cây trồng yêu cầu
trong cả một chu kỳ sinh trưởng, thậm chí trong từng giai đoạn sinh trưởng là
rất khác nhau và phụ thuộc vào đặc điểm của từng loại cây trồng. Tuy nhiên,
do đặc điểm về nguồn gốc phát sinh, quá trình hình thành và quá trình sử
dụng đất, hiện nay hầu hết mọi loại đất đều không có khả năng đáp ứng yêu
cầu dinh dưỡng của cây trồng mà phải chủ yếu dựa vào phân bón.
Hiện nay, sử dụng phân bón cho cây trồng không chỉ là cung cấp và bổ
sung các chất dinh dưỡng cần thiết cho quá trình sinh trưởng, phát triển của
cây trồng mà còn có vai trò cải thiện, nâng cao chất lượng đất trồng thông qua
việc bổ sung các chất dinh dưỡng vốn thiếu trên một số loại đất như đất chua
phèn, đất bạc màu nghèo dinh dưỡng của vùng trung du, miền núi.
Phân bón Silica là một loại phân bón chậm tan, trong thành phần có
một hàm lượng lớn Silic, Canxi, Magiê, ngoài ra còn có một số nguyên tố vi
lượng cần thiết cho cây trồng đã và đang được sử dụng rộng rãi ở các nước
trên thế giới. Ở Việt Nam, phân Silica đã được Viện Thổ nhưỡng, Nông hoá
tiến khảo nghiệm, đánh giá và kết luận là có hiệu quả tốt đối với cây lúa trong
việc làm tăng năng suất và khả năng chống chịu với một số loại sâu, bệnh và
điều kiện thời tiết, đặc biệt có hiệu quả cao trên các loại đất chua phèn và bạc
màu nghèo dinh dưỡng. Tuy nhiên, việc khảo nghiệm đánh giá mới chỉ tiến
hành đối với cây lúa mà chưa tiến hành khảo nghiệm đối với các loại cây
trồng khác, nhất là đối với các loại cây trồng cạn, có nhu cầu về Canxi, Magiê
cao trong chu kỳ sinh trưởng, phát triển. Vì vậy, cần có những nghiên cứu để
đánh giá hiệu quả của phân Silica đối với các loại cây trồng cạn, trên những
loại đất nghèo kiệt dinh dưỡng, nhất là đối với vùng trung du, miền núi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
1.2. Yêu cầu ngoại cảnh của cây lạc
Nhiệt độ: Nhiệt độ là yếu tố ngoại cảnh chủ yếu có tương quan đến thời
gian sinh trưởng của lạc. Nhiệt độ trung bình thích hợp cho suốt đời sống của
cây lạc là khoảng 25-300C và thay đổi tuỳ theo giai đoạn sinh trưởng của cây.
Nhiệt độ thích hợp cho lạc nảy mầm là 25-300C. Trong thời kỳ sinh trưởng
sinh dưỡng, nhiệt độ trung bình phù hợp cho cây lạc là 20-300C, ở nhiệt độ
này các quá trình sinh trưởng sinh dưỡng được tiến hành thuận lợi, nhất là sự
phân cành và phát triển bộ rễ, đồng thời thời gian trước ra hoa của lạc được
kéo dài phù hợp (30-35 ngày). Quá trình ra hoa của lạc đòi hỏi nhiệt độ tương
đối cao. Thời gian ra hoa, tổng số hoa, tỷ lệ hoa được thụ tinh phụ thuộc nhiều
vào thời kỳ này. Quá trình chín của lạc đòi hỏi nhiệt độ giảm hơn thời kỳ
trước, trong thời kỳ này nhiệt độ trung bình 25-280C là phù hợp [1].
Ánh sáng: Lạc là cây ngắn ngày song phản ứng với quang chu kỳ của
lạc là rất yếu và đối với nhiều trường hợp là phản ứng trung tính với quang
chu kỳ. Số giờ nắng/ngày có ảnh hưởng rõ rệt tới sự sinh trưởng và phát dục
của lạc. Quá trình nở hoa của lạc thuận lợi khi khi số giờ nắng đạt khoảng 200
giờ/tháng. Trong thời kỳ nở hoa, trong những ngày nắng hoa nở sớm, nở tập
trung và quá trình thụ phấn, thụ tinh cũng thuận lợi hơn so với ngày không có
nắng. Nói chung, trong các yếu tố khí hậu thì ánh sáng là yếu tố ít ảnh hưởng
đến sự sinh trưởng và khả năng cho năng suất của lạc so với các yếu tố khí
hậu khác [1].
Nước: Nước là yếu tố ngoại cảnh có ảnh hưởng lớn nhất đến năng suất
lạc. Tình trạng nước trong đất có ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng, phát triển
của cây lạc. Nói chung, độ ẩm đất trong suốt thời gian sinh trưởng của lạc yêu
cầu khoảng 70-80% độ ẩm giới hạn đồng ruộng. Tổng nhu cầu về nước trong
suốt thời gian sinh trưởng của lạc từ mọc đến thu hoạch là 450-700 mm. Nhu
cầu này thay đổi tuỳ thuộc giống và thời kỳ sinh trưởng khác nhau. Thời kỳ
lạc có nhu cầu nước tương đối thấp và cũng là thời kỳ lạc có khả năng chịu
hạn tốt nhất là thời kỳ sinh trưởng sinh dưỡng. Nhu cầu nước lớn nhất của lạc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
ở thời kỳ sinh trưởng sinh thực và cao nhất ở thời kỳ hình thành quả và hạt.
Điểm khủng hoảng nước của lạc là thời kỳ từ ra hoa rộ đến hình thành quả và
hạt, trong đó thời kỳ ra hoa rộ mẫn cảm nhất với sự thiếu nước. Lạc được
cung cấp đủ nước trong thời kỳ từ ra hoa đến làm quả và hạt có thể đạt năng
suất tương đương với cây được cung cấp đủ nước trong tất cả các giai đoạn
sinh trưởng [1].
Tóm lại, nắm được những yêu cầu cơ bản về ngoại cảnh giúp chúng ta
có thể bố trí thời vụ gieo trồng cũng như tác động các biện pháp kỹ thuật
trong chăm sóc, đặc biệt là nước tưới để giúp lạc có thể sinh trưởng, phát triển
và cho năng suất cao.
1.3. Yêu cầu về đất đai của cây lạc
Lạc được trồng trên nhiều loại đất khác nhau, điều đó chứng tỏ khả
năng thích ứng rộng của lạc với các điều kiện đất đai.
Yêu cầu về đặc điểm lý tính đất: Do đặc điểm sinh trưởng và phát triển
của lạc, nhìn chung đất trồng lạc cần thoả mãn 3 yêu cầu cơ bản của cây lạc
là:Thuận lợi cho bộ rễ phát triển mạnh cả về chiều sâu và chiều ngang, đủ oxy
cho vi khuẩn nốt sần phát triển và hoạt động cố định N, tia quả đâm xuống đất
dễ dàng. Trong đó, yêu cầu về sự đâm tia và phát triển quả là yêu cầu đặc thù
của lạc. Do vậy, tiêu chuẩn đầu tiên và quan trọng nhất về lý tính của đất
trồng lạc là đất phải có thành phần cơ giới nhẹ. Các loại đất pha cát, đất thịt
nhẹ, tơi xốp, có khả năng thoát nước nhanh là thích hợp với cây lạc [1].
Yêu cầu về đặc điểm hoá tính đất: Lạc không yêu cầu khắt khe về độ
phì đất, vì vậy lạc có thể sinh trưởng, phát triển và cho năng suất ngay cả trên
những loại đất nghèo dinh dưỡng. Đất hơi chua, gần trung tính (giá trị pHKCl
từ 5,5-7) là rất thích hợp đối với lạc, trên đất có độ chua cao không thích hợp
với lạc quả to. Vì vậy, cải tạo đất theo hướng khử chua, nâng cao giá trị pH
đất một cách thích hợp cũng là biện pháp kỹ thuật tăng năng suất lạc quan
trọng. Nhìn chung, lạc ưa các loại đất sáng màu, hàm lượng chất hữu cơ ≤ 2%
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
là phù hợp. Trên những loại đất này lạc thường có quả to và vỏ quả màu sáng,
thu hoạch dễ, chất lượng quả và hạt đều cao [1].
1.4. Yêu cầu về dinh dƣỡng của cây lạc
1.4.1 Vai trò và sự hấp thu đạm (N)
Vai trò của N đối với cây lạc
N là thành phần của axit amin để cấu thành protein và các hợp chất có
N khác ở các bộ phận non của cây, N có mặt trong các enzim quan trọng
trong các hoạt động sống của cây. N là thành phần không thể thiếu được ở
protein dự trữ trong hạt. Ở thời kỳ sinh trưởng sinh dưỡng, N tập trung ở các
phần non của cây, các mô phân sinh đang hoạt động, ở các phần sống của tế
bào. Khi hạt chín, phần lớn N trong cây tập trung ở hạt. Vì vậy, thiếu N cây
sinh trưởng kém, lá vàng, chất khô tích luỹ giảm, số quả và trọng lượng quả
đều giảm, nhất là thiếu N ở ở thời kỳ sinh trưởng cuối. Nếu thiếu N nghiêm
trọng dẫn tới ngừng phát triển quả và hạt [1].
Sự hấp thu N của lạc
Lượng N lạc hấp thu rất lớn, để đạt 1 tấn lạc quả khô cây lạc cần sử
dụng tới 50 – 75 kg N. Thời kỳ lạc hấp thu N nhiều nhất là thời kỳ từ ra hoa
đến làm quả và hạt. Thời kỳ này tuy chỉ chiếm 25% thời gian sinh trưởng của
lạc nhưng hấp thu tới 40 – 45% nhu cầu N của cả chu kỳ sinh trưởng. Có 2
nguồn cung cấp N cho lạc là do bộ rễ hấp thu N từ đất và N cố định ở nốt sần
do hoạt động cố định N2 của vi khuẩn cộng sinh cố định N, trong đó nguồn N
cố định có thể đáp ứng được 50 – 70% nhu cầu N của cây. Ngoài ra, lá cũng
có khả năng hấp thụ N, vì vậy bón phân N qua lá là nguồn bổ sung N rất chắc
chắn vào giai đoạn sinh trưởng cuối, khi mà khả năng hấp thu của rễ và khả
năng cố định N của vi khuẩn nốt sần giảm sút [1].
1.4.2. Vai trò và sự hấp thu lân (P)
Vai trò của P đối với cây lạc
Ngoài những vai trò sinh lý bình thường đối với cây lạc, P còn đóng
một vai trò quan trọng đối với sự cố định N và sự tổng hợp lipid của hạt trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
thời kỳ chín. Đối với quá trình cố định N, P có trong thành phần của mối liên
kết cao năng ATP, chuyển năng lượng cho hoạt động cố định. Ở hạt khi chín,
P nằm trong enzim xúc tiến việc tổng hợp lipid. Người ta thấy trong thời kỳ
này, 50% lượng P của cây tập trung ở hạt. Bón đủ P hàm lượng dầu trong hạt
tăng lên rõ rệt. Ngoài ra, bón đủ P còn kéo dài thời kỳ ra hoa và tăng tỷ lệ hoa
có ích [1].
Sự hấp thu P của lạc
Sự hấp thu P của lạc không lớn. Để cho 1 tấn quả khô, lạc chỉ sử dụng
2 – 4 kg P2O5. Tuy nhiên, việc bón phân P cho lạc là rất cần thiết ở nhiều loại
đất trồng lạc, đồng thời lượng phân lân bón cho lạc đòi hỏi tương đối cao vì
khả năng hấp thu P của lạc kém. Lạc hấp thu P nhiều nhất ở thời kỳ ra hoa –
hình thành quả. Trong thời gian này, lạc hấp thu tới 45% lượng hấp thu P của
cả chu kỳ sinh trưởng. Sự hấp thu P giảm rõ rệt ở thời kỳ chín. Sự hấp thu P
của lạc qua lá kém. Tuy nhiên, sự sử dụng hoá chất bảo vệ thực vật có P cũng
có tác dụng cung cấp P qua lá cho lạc [1].
1.4.3. Vai trò và sự hấp thu kali (K)
Vai trò của K đối với cây lạc
K không trực tiếp đóng vai trò là thành phần cấu tạo của cây, nhưng
tham gia vào hoạt động của các enzim, đóng vai trò chất điều chỉnh và xúc
tác. Vì vậy, K tham gia chủ yếu vào các hoạt động chuyển hoá ở cây. Vai trò
quan trọng nhất của K là xúc tiến quang hợp và sự phát triển của quả. Ngoài
ra, K còn làm tăng cường mô cơ giới, tăng cường tính chống đổ của cây. Cây
lạc thiếu K thân chuyển thành màu đỏ sẫm và lá chuyển màu xanh nhạt. Ảnh
hưởng lớn nhất đối với lạc khi thiếu K là cây bị lùn, khả năng quang hợp kém,
khả năng hấp thu N giảm, tỷ lệ quả 1 hạt tăng, trọng lượng hạt giảm và năng
suất lạc giảm rõ rệt [1].
Sự hấp thu K của lạc
Cây lạc hấp thu K tương đối sớm và tới 60% nhu cầu K của cây được
hấp thu trong thời kỳ ra hoa - làm quả. Thời kỳ chín, nhu cầu về K hầu như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
không đáng kể (5 – 7 % tổng nhu cầu K). Lạc có khả năng hút lượng K rất
lớn, trong môi trường giàu K, nó có khả năng hấp thu K quá mức cần thiết.
Lượng K mà lạc hấp thu rất cao, khoảng 15 kg K2O/1 tấn quả khô. Khoảng 80
– 90% lượng K tập trung ở lá [1].
1.4.4. Vai trò và sự hấp thu canxi (Ca) của lạc
Vai trò của Ca đối với lạc
Vai trò của Ca được đánh giá cao đối với cây lạc. Ca ngăn ngừa sự tích
luỹ Al và các cation gây độc khác, tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn nốt
sần hoạt động do làm tăng pH đất. Ca có tác dụng làm tăng lượng N hấp thu
từ cả nguồn hấp thu do rễ và và nguồn N cố định do vi khuẩn nốt sần cộng
sinh. Đặc biệt, Ca làm tăng quá trình chuyển hoá và di chuyển N về hạt, vì
vậy Ca có tác dụng chống lóp đổ và tăng trọng lượng hạt, vai trò này đặc biệt
chắc chắn đối với các giống lạc to quả. Để quả phát triển bình thường, Ca
phải có ở vùng quả đang phát triển. Trong cây, Ca tập trung chủ yếu ở lá (80 –
90% lượng Ca hấp thu), Ca tạo thành Pectatcanxi cần thiết cho sự phân chia tế
bào. Ca cũng có trong thành phần của một số men hoạt hoá, đặc biệt Ca cần
cho sự chuyển hoá N trong hạt để tạo thành protein dự trữ. Hiện tượng quả óp
ép thường xảy ra khi khi lượng Ca hữu hiệu trong đất thấp và do ảnh hưởng xấu
có thể gây ra bởi các loại phân khoáng và hoặc thời tiết đến sự hút Ca của quả [1].
Sự hấp thu Ca của lạc
Trước khi tia hình quả đâm vào đất, lạc hấp thu Ca từ rễ và chuyển tới
các bộ phân của cây, kể cả hoa và tia khi đang phát triển. Nhưng sau khi tia
quả đâm vào đất và phát triển thành quả, Ca được hút từ rễ không được vận
chuyển tới tia quả nữa, vì vậy để hình thành và phát triển quả, tia phải trực
tiếp hút Ca từ đất. Ca ít di động trong cây và hàm lượng Ca ở các bộ phận của
cây phụ thuộc vào sự cung cấp Ca ở thời điểm bộ phân đó hình thành [1]. Các
dạng Ca có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng hấp thu Ca của lạc. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, bón 60 Kg CaSO4 có tác dụng ngang với bón 1.000 kg
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
vôi bột. Tuy nhiên ở hầu hết các vùng trồng lạc, nhất là ở các nước nghèo,
dạng Ca phổ biến bón cho lạc vẫn là vôi bột [7].
1.4.5. Vai trò và sự hấp thu Magiê (Mg) của lạc
Cũng như các loại cây trồng khác, Mg là thành phần của diệp lục, vì
vậy Mg có liên quan trực tiếp đến quang hợp của cây. Biểu hiện đầu tiên của
sự thiếu Mg là sự giảm hàm lượng diệp lục của lá, lá có màu vàng úa, cây bị
lùn. Tuy nhiên, ít thấy có biểu hiện của sự thiếu Mg đối với cây lạc trên đồng
ruộng, tuy rằng lượng Mg mà cây lạc hấp thu là tương đương hoặc cao hơn
chút ít so với lượng P hấp thu.
Nói chung, người ta không bón phân Mg cho lạc. Ở nước ta, phân
dolomit - một dạng phân tự nhiên có chứa Ca, Mg thường đem lại hiệu quả
kinh tế cao. Tuy nhiên, loại phân này không nhiều nên tính chất ứng dụng của
nó không lớn [1].
1.4.6. Vai trò và sự hấp thu lƣu huỳnh (S) của lạc
S là thành phần của nhiều loại axitamin quan trọng trong cây, vì vậy S
có trong thành phần protein của lạc. Thiếu S, sự sinh trưởng của lạc bị cản trở,
lá có biểu hiện vàng nhạt, cây chậm phát triển.
Lượng S mà lạc hấp thu tương đương với lượng P. Hàm lượng S trong
lá của chu kỳ sinh trưởng của lạc khoảng 0,2% [1].
1.4.7. Vai trò của các nguyên tố vi lƣợng đối với lạc
Các nguyên tố vi lượng đóng vai trò là chất xúc tác hoặc là một thành
phần của các enzim hoặc chất hoạt hoá của hệ enzim cho các quá trình sống
của cây. Đối với cây lạc, có 2 nguyên tố vi lượng quan trọng nhất là Molipden
(Mo) và Bo (B).
Vai trò của Molipden (Mo)
Mo là nguyên tố vi lượng nằm trong thành phần của men Nitrogenaga
– là men khử N2 trong quá trình cố định N. Vì vậy, Mo rất cần thiết cho hoạt
động cố định N2 của vi khuẩn nốt sần. Trong điều kiện cây hút đủ Mo thì số
lượng và trọng lượng nốt sần đều tăng, cường độ cố định N của vi khuẩn nốt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
sần cũng tăng rõ rệt, do đó làm tăng lượng chứa đạm của cây. Thiếu Mo thì
hoạt động cố định N của vi khuẩn nốt sần bị giảm, vì vậy cây có biểu hiện
thiếu N. Trong điều kiện thiếu N, vai trò của sự cố định N được nâng cao thì
vai trò của Mo càng quan trọng [1].
Vai trò của Bo (B)
Bo đóng vai trò quan trọng trong quá trình thụ phấn, thụ tinh của lạc.
Bo giúp cho qúa trình hình thành rễ được tốt, tia quả không bị nứt, hạn chế
nấm bệnh xâm nhập. Thiếu Bo, tỷ lệ hoa có ích giảm rõ rệt, số lượng hoa
cũng giảm, dẫn đến giảm số quả/cây, hạt lép, sức sống hạt giống giảm.
Ngoài 2 nguyên tố vi lượng chính là Mo và Bo, một số nguyên tố vi
lượng khác như Fe, Cu, Zn cũng đóng vai trò rất quan trọng đối với năng suất
lạc. Tuy nhiên, thường cây có thể hấp thu lượng dinh dưỡng này từ đất đủ cho
quá trình sinh trưởng và phát triển của cây, do đó trong sản xuất ít khi phải bổ
sung các loại vi lượng này [5].
1.5. Những nghiên cứu về Silic
1.5.1. Giới thiệu chung về Silic
Silic (tên Latinh: Silex, Silicis) là thành phần cơ bản của các loại aerolit
– là một dạng của các thiên thạch và của các tektit – là dạng tự nhiên của thuỷ
tinh. Trong tự nhiên, Silic không tồn tại ở dạng nguyên tố mà tồn tại ở dạng
hợp chất. Các dạng hợp chất phổ biến nhất là oxit và khoáng chất Silic. Cát,
amêtít, thạch anh, đá tinh thể, đá lửa, jatpe, opan,... là những dạng tự nhiên
của Silic dưới dạng oxit. Granit, amiăng, fenspat, đất sét, hoócblen, mica là
những dạng tự nhiên của Silic dưới dạng khoáng chất Silic [6].
Silic là nguyên tố cần thiết và được sử dụng trong nhiều ngành và lĩnh
vực khác nhau như:
- Trong xây dựng: Silic ở dạng Silict được sử dụng nhiều trong sản xuất
gạch, bê tông, xi măng, gốm, chế tạo thuỷ tinh, giấy nhám,...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
- Trong luyện kim: Silic là thành phần quan trọng trong một số loại
thép. Phần lớn các loại đồng thau được sản xuất có chứa hợp kim của đồng và
silic.
- Trong công nghiệp điện tử và bán dẫn: Silic siêu tinh khiết có thể trộn
thêm Asen, Bo, Gali hay Phospho để tăng tính dẫn điện của Silic trong các
transitor, pin mặt trời hay các thiết bị bán dẫn khác được sử dụng trong công
nghiệp điện tử và các ứng dụng kỹ thuật cao khác. Silic ngậm nước vô định
hình có nhiều tiềm năng trong chế tạo các màn hình tinh thể lỏng (LCD) có
kích thước lớn và giá thành thấp.
- Trong y tế: Silicon là hợp chất dẻo chứa các liên kết silic – ôxy và
silic – cacbon, được sử dụng trong các phẫu thuật như nâng ngực nhân tạo và
lăng kính tiếp tròng,...
1.5.2. Tình hình sử dụng phân bón Silica
Phân bón Silica được nghiên cứu từ những năm 1960 và được sử dụng
rộng rãi ở các nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Úc, Trung Quốc,...Phân
Silica có hàm lượng 25% là SiO2 được công ty POS CERRAMICS (Hàn
Quốc) sản xuất. Theo khuyến cáo của nhà sản xuất, kết quả nghiên cứu, khảo
nghiệm cho thấy loại phân này có khả năng cải tạo đất, làm tăng khả năng
chống đổ và chống chịu của lúa đối với dịch hại, làm tăng năng suất lúa trên
10%. Thông thường ở các nước mỗi năm trồng một vụ thì cứ 2 – 3 năm mới
bón phân Silica một lần, lượng bón từ 1,5 – 3,0 tấn/ha tuỳ theo loại cây trồng
và mùa vụ. Ở Hàn Quốc, lượng phân Silica sử dụng cho đất nông nghiệp ngày
càng tăng. Theo thống kê, từ năm 1992 –2001 tổng lượng phân Silica sử dụng
là 2.252 nghìn tấn (trung bình 225,2 nghìn tấn /năm); từ năm 2002 –2005 tổng
lượng phân Silica sử dụng là 3.845 nghìn tấn (trung bình 961,25 nghìn tấn
/năm); Dự kiến từ năm 2006 –2013 tổng lượng phân Silic sử dụng là 4.272
nghìn tấn (trung bình 534 nghìn tấn /năm) [11].
1.5.3. Những nghiên cứu về Silic ở nƣớc ngoài
1.5.3.1. Silic với dinh dƣỡng của con ngƣời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
Đối với sức khoẻ của xƣơng
Silic đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển của xương và các
mô liên kết xương. Từ ba mươi tuổi trở nên thì những biểu hiện đầu tiên của
vai trò có ích của Silic đối với sức khoẻ của xương của con người là khá rõ
ràng. Hiện nay, những nghiên cứu về dinh dưỡng tập trung vào vai trò của
Silic trong việc ngăn ngừa và điều trị chứng loãng xương - một căn bệnh mà
làm cho con người dễ bị mắc các tổn thương về xương (gãy, rạn xương) [15].
Những tác động khác của Silic đối với sức khoẻ con ngƣời
Các nhà khoa học ở Mỹ, Anh, Bỉ đã đi tiên phong trong việc nghiên
cứu vai trò có liên quan của Silic đối với sức khoẻ con người. Những kết qủa
nghiên cứu về dinh dưỡng gần đây của Trung tâm nghiên cứu dinh dưỡng
Grand Fork (USA) đã tìm ra những biểu hiện mới về vai trò rõ ràng của Silic
trong việc hình thành da non của các vết thương. Các nhà khoa học Anh tại
bệnh viện St. Thomas (London), King’s College London và MRC Human
Nutrition Research (Cambridge) nhận thấy rằng ở dạng oligoxen Silic có thể
ngăn ngừa sự hấp thụ nhôm [15].
Nguồn cung cấp Silic cho con ngƣời
Hàm lượng Silic có trong các loại thức ăn và đồ uống rất khác nhau.
Với vai trò là một chất dinh dưỡng, trong phạm vi các loại thức ăn, đồ uống
như: bánh mỳ và một số ít các loại sản phẩm ngũ cốc nguyên chất khác, một
số loại rau và có thể gồm cả bia có thể cung cấp đầy đủ axit orthosilic (một
hợp chất sinh học sẵn có rất tốt của Silic) đối với con người. Những người cao
tuổi và những người ăn kiêng có thể sẽ không nhận đủ lượng Silic cần thiết [15].
1.5.3.2. Silic trong đất
Silic là một nguyên tố phổ biến nhất (chỉ đứng sau oxy) trong vỏ trái
đất, với xấp xỉ 32% về trọng lượng (Lindsay, 1979) [20].
Silic ở dạng khoáng rắn chuyển thành Silic hoà tan DSi (H4SiO4, axit
ortho silicic) nhờ axit cacbonic có trong nước mưa, trong nước ngầm và nước
sông theo phản ứng sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
CaAl2Si2O8 + 2CO2 + 4H2O 2 Al(OH)3 + Ca
2+
+ 2SiO2 + 2HCO3
-
Ở vùng khí hậu nóng ẩm (nhiệt đới và cận nhiệt đới) tốc độ phân giải
chất hữu cơ và khoáng vật rất nhanh gây nên sự rửa trôi Silic, có nơi như ở
Nipe (Cuba) tầng đất mặt chỉ còn 6 – 7% SiO2 (theo Byers và Alexander).
Các số liệu phân tích đất đỏ ở Ấn Độ và Braxin cũng chứng tỏ SiO2 bị rửa
trôi (theo Kirk Lavton). Tuy nhiên, không phải tất cả đất nhiệt đới đều bị rửa
trôi Silic như vậy, vì quá trình rửa trôi Silic không chỉ phụ thuộc vào điều
kiện thời tiết khí hậu mà còn phụ thuộc vào tác dụng phong hoá và tính chất
của đá mẹ.
Ở những vùng nhiệt đới ẩm và bán nhiệt đới ẩm, những loại đất có mức
độ phong hoá cao, phần lớn Silic dioxit là kết quả của sự phát triển của những
loại đất giàu sắt và nhôm oxit và thấp các loại dinh dưỡng cơ bản. Một vài
loại đất của những loại đất này như Ultisoil và Oxisoil chiếm khoảng 34%
diện tích của những loại đất của vùng nhiệt đới. Những loại đất này chiếm
phần lớn (xấp xỉ 1,66 triệu ha) ở châu Phi, miền Nam và trung tâm châu Mỹ.
Đất Hitosol và Entisols cũng chứa hàm lượng thấp Silic. Do kết quả của sự
rửa trôi theo chiều sâu, hàm lượng Silic hoà tan trong đất nhiệt đới như là
Ultisoil và Oxisoil nhìn chung là có chứa Silic ít hơn đất ôn đới. Điều này có
thể là một nguyên nhân chưa được nhận thấy của việc năng suất lúa của nhiều
vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới thấp hơn so với đất vùng ôn đới. Mặc dù
phần lớn các loại đất có thể chứa mức độ Silic đáng kể, nhưng do trong quá
trình canh tác có thể làm giảm mức độ Silic hữu hiệu đối với cây trồng tới
một điểm mà việc cung cấp dinh dưỡng Silic là một sự đồi hỏi để cây trồng
cho sản lượng cao nhất [19].
Với sự tăng lên của lượng mưa và quá trình đá ong hoá ở các vùng
nóng ẩm và nhiệt đới ẩm, đã được xác định là độ no ba zơ và hàm lượng Silic
có trong đất giảm, trong khi đó có sự tích luỹ thêm của sắt và nhôm oxid.
Trong đất, Silic được giải phóng bởi sự phân huỷ các chất khoáng, nhưng một
phần là bị mất bởi sự tiêu thoát nước hoặc trong một hệ thống cây trồng mà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
thường xuyên thu hoạch hoặc đốt cháy. Ngược lại, sự tích luỹ Silic hữu hiệu
có thể bắt đầu bằng sự lắng đọng Silic trong nước ngầm leo lên trên bề mặt
theo mạch mao quản, sự bồi tích hoặc hoặc sự lắng đọng khác của nguyên
liệu Silic trên bề mặt đất. Theo Backer và Scrivner (1985), khả năng mất Silic
do rửa trôi theo chiều sâu xấp xỉ 54,2 kg/ha, gấp xấp xỉ 200 so với ước tính
của nhôm (0.27kg/ha). Lượng Silic rửa trôi và do cây trồng hút là rất quan
trọng trong việc xác định sự tập trung của Silic trong đất (Kittrick, 1969). Tuy
vậy, sự tích lũy của Silic hoà tan trong đất là chưa được xác định rõ ràng. Sự
thay đổi của độ ẩm của đất có tác động đến sự tập trung của Silic trong dung
dịch đất hơn là sự tác động của các quá trình khác. Thạch anh trong đất bị mất
là do các yếu tố thời tiết, do đó sự lo lắng của trạng thái cân bằng Silic chắc
chắn sẽ xảy ra và điều này làm giảm sự tích luỹ của Silic hữu hiệu. Trong các
loại đất, Thach anh nhìn chung tập trung nhiều nhất trong cát và đất cát pha
thịt, thứ hai là cát pha sét. Mẫu chất của đất nhìn chung mà thô thì sẽ có hàm
lượng Thạch anh lớn. Thạch anh trong đất có ít sét nhìn chung thay đổi từ 0-
250g/kg đất và được quyết định bởi mẫu chất và mức độ phong hoá (Tedrow,
1954; Borchardt el al., 1968; Le Roux, 1973); mặc dù nó có thể ở mức cao
750-850g/kg đất. Nhìn chung, đất đã phong hoá hoàn toàn có hàm lượng
Thạch anh thấp nhất (Jackson and Sherman, 1993) [20].
1.5.3.3. Silic trong nƣớc
Nước tưới có thể là một nguồn Silic tiềm năng cho cây trồng bởi vì
Silic có thể tồn tại ở các dạng sau trong nước tự nhiên: Sili ở dạng ion và
dạng phân tử; các hợp chất của Silic như coloid, solid; phức chất mùn –silic
(Mitchell, 1975; Tan, 1994). Toàn bộ kết cấu của các dạng Silic là bị chịu
ảnh hưởng của các yếu tố khác như pH, nhiệt độ và sự có mặt của các chất
khác. Nước mưa có chứa ít hơn 0.2mg/dm3 Silic và được coi như là không đủ
yêu cầu của một yếu tố nông học quan trọng (Whitehead and Feth, 1964; Fox
et al., 1967). Ở Haoai, nước trong núi ở độ cao 300m chỉ có 30 mg/dm3 Silic
(Fox et al., 1967). Nước ở bang Kerala - Ấn độ có đất phù sa chứa ít hơn (từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
2.4-3.2 mg/dm
3
Silic) so với nước tưới từ hồ đập (5.6 mg/dm3 Silic) (Nair và
Ayer, 1968). Kobayashi (1960) nhận thấy rằng nước sông ở Nhật Bản chảy
qua các vùng đá trầm tích có chứa 4.7 mg/dm3 Silic, trái lại có chứa
21mg/dm
3
Silic ở những nơi chảy qua đá núi lửa. Sadzawka và Aomine
(1977) cũng có những nhận xét tương tự đối với nước sông chảy qua những
vùng có tro núi lửa ở trung tâm của Chi lê. Trong nước ngầm sâu có chứa từ
23 –28 mg/dm3 Silic (Dapples, 1959). Thậm chí trong nước rất tinh khiết
cũng chứa khoảng 20 mg Silic hoà tan (Werner and Roth, 1983) [20].
1.5.3.4. Vai trò của Silic đối với cây trồng
Sự tích luỹ Silic trong cây
Sự thay đổi là rõ ràng giữa hình thái của bộ rễ của cây trồng trong đất
và cây lúa được biết đến như là một sự hiệu quả nhất của việc tích luỹ Silic
trong các bộ phận của cây (Idris et at.,1975; Lee et at., 1987; Balasta and
Perez, 1989; Takahashi et at.,1990; Takahashi, 1950). Cây lúa có khả năng
cao trong việc hút và tích luỹ Silic, Silic tích luỹ trong cây lúa thay đổi rất
nhiều giữa các bộ phân của cây (Alina, 1984). Silic có trong các cơ quan khác
nhau của cây lúa nhìn chung thay đổi từ cao đến thấp tưong ứng từ vỏ trấu, lá,
cuống lá, rơm rạ và rễ (Xhu, 1985). Nhiều thí nghiệm đã chỉ ra rằng Silic tích
luỹ trong mô cây trồng có thể cải thiện năng suất và khả năng chống chịu.
Như ở Trung Quốc nơi một nửa đất trồng lúa bị thiếu hụt Silic. Sự thiếu hụt
Silic trong đất trồng lúa đã phổ biến trên toàn thế giới trước sức ép về an toàn
lương thực [14].
Vai trò dinh dƣỡng của Silic đối với cây trồng
Trong số các chất dinh dưỡng thì Silic là một trong những chất dinh
dưỡng chủ yếu, có vai trò quan trọng và cần thiết trong một chu kỳ của cây
trồng. Trong mô tế bào, Silic được tìm thấy với một khối lượng lớn và chúng
ngang bằng với tổng các chất dinh dưỡng thiết yếu (N,P,K,Ca, Mg). Silic
trong dung dịch đất được hút bởi rễ cây trồng ở dạng monosilicic acid và
Silic được tích lũy thông qua việc hình thành cấu trúc xelulô ở lá, thân và hệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
thống rễ của chúng (Parr and Sullivan, 2005). Vì vậy, nhiều nước trên thế
giới, tuy ở mức độ khác nhau đã có những nghiên cứu cụ thể về vai trò dinh
dưỡng của Silic đối với cây trồng [17].
Ở Trung quốc:
Dinh dưỡng Silic đối với cây trồng đã được nghiên cứu ở Trung Quốc
từ những năm tám mươi của thế kỷ 20. Trong những năm chín mươi của thế
kỷ 20, khá nhiều kết quả đã đạt được trong việc triển khai thử nghiệm cũng
như mở rộng các mô hình sử dụng phân bón Silic.
- Đối với cây lúa: Dựa trên những kết quả thử nghiệm trên đồng ruộng
và kết quả phân tích đất và cây trồng, hàm lượng Silic hữu hiệu trong đất
trồng lúa, mối quan hệ của chúng với hàm lượng SiO2 trong cây lúa, mối
quan hệ giữa năng suất lúa với hàm lượng SiO2 và tỷ lệ SiO2 /N trong cây
lúa, hiệu quả của Silic đối với năng suất lúa và khả năng chống chịu các loại
sâu, bệnh hại, các điều kiện ảnh hưởng và nguyên nhân của tăng năng suất lúa
ở tỉnh Sichuan cho thấy: Khoảng 1/2 diện tích đất trồng lúa được phát triển
trên các loại đất vàng, đất tía, đất bồi tích ở tỉnh Sichuan là thiếu Silic. Giá trị
tới hạn của Silic trong đất là 98mg/kg đất đối với đất trồng lúa và < 112.8 g
SiO2 /kg trong cây lúa. Năng suất lúa tăng bởi phân Silica là do sự cải thiện
của dinh dưỡng Silic trong cây lúa và cân bằng của tỷ lệ SiO2 /N và lý do của
sự thúc đẩy khả năng chống chịu đối với bệnh tật và sâu bệnh là có liên quan
đến sự hạn chế sự hút đạm quá mức và tăng tỷ lệ SiO2 /N trong cây trồng.
Silic có vai trò tham gia vào sự cân bằng trong quá trình hút N, P, K của cây
lúa [18].
Những thí nghiệm trong chậu cũng đã được thực hiện để nghiên cứu
hiệu quả của việc sử dụng 3 dạng sỉ của lò luyện kim – một sản phẩm của lò
luyện thép, như là một dạng phân bón Silic đối với một dạng đất chua trồng
lúa ở miền Bắc Trung Quốc. Kết quả thí nghiệm đã chỉ ra rằng giá trị pH của
đất và hàm lượng Silic dễ tiêu trong đất đã được cải thiện một cách rõ ràng
sau khi đất được bón một lượng sỉ lò, và xu hướng tăng lên của các chỉ tiêu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
trên càng rõ ràng hơn khi tăng liều lượng bón. Bằng những phân tích sự khác
nhau đối với độ chua pH và hàm lượng Silic dễ tiêu trong đất, sự khác nhau
giữa liều lượng bón khác nhau và phương pháp bón khác nhau là rất chắc
chắn. Cùng với đó, chất dinh dưỡng Silic cũng được cây lúa hút nhiều hơn và
hàm lượng Silic có trong thóc gạo cũng tăng lên cùng với sự tăng lên của liều
lượng bón của sỉ lò. Hơn nữa, có một sự tương quan rõ ràng rất chắc chắn
giữa hàm lượng Silic có chứa trong lúa gạo với liều lượng bón của sỉ lò. Vì
vậy, tất cả những điều này chỉ ra rằng bằng sử dụng ba liều lượng bón sỉ lò
khác nhau, khả năng cung cấp Silic của đất trồng lúa và tình trạng dinh dưỡng
Silic trong lúa gạo cũng được cải thiện một cách vững chắc. Tuy nhiên, cũng
có một số vấn đề như: tiêu chuẩn để xác định giá trị trung bình của Silic dễ
tiêu của đất nhận được từ sỉ phụ phẩm và cân bằng dinh dưỡng bao gồm Silic,
đạm, lân, kali và các chất dinh dưỡng khác cũng nên được nghiên cứu thêm.
Ngoài ra, lúa mì và lúa mạch ít bị hư hỏng chất tinh bột bởi nấm mốc
sau khi bón phân bằng sỉ của các lò luyện thép hoặc các sản phẩm khác có
chứa Silic. Đối với việc gieo trồng lúa gạo và mía, các loại phân bón Silic đã
được sử dụng rộng rãi bởi vì hiệu quả của nó rất rõ ràng [21].
- Đối với cây ăn quả và rau: Bổ sung thêm Silic đã thúc đẩy khả năng
chống chịu nấm mốc sương một cách có hiệu quả đối với dưa chuột. Đối với
bí xanh và một số loại rau trồng trên đất sạch cũng có hiệu quả tương tự đối
với việc áp dụng bón phân Silic. Trong các thí nghiệm đối với rau diếp đã chỉ
ra rằng Silic đã làm giảm độ độc của Mangan [15].
- Đối với cây cảnh: Silic thúc đẩy sự sinh trưởng của cây cảnh trồng
trong chậu và kéo dài thời gian tươi của hoa cắm trong lọ. Silic cũng làm tăng
khả năng chống chịu và thời gian tươi của hoa hồng. Cây trúc cảnh cần Silic
để màu sắc lá được hấp dẫn. Khi còn nhỏ, cây thông cảnh lớn nhanh hơn và ít
bị tổn hại hơn khi bị hạn nếu được bón thêm Silic [15].
Ở Nhật Bản:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
Silic đóng vai trò quan trọng trong việc chống chịu của cây trồng với
các điều kiện bất lợi của yếu tố ngoại cảnh, bao gồm cả các yếu tố hữu sinh và
vô sinh. Silic hầu như là yếu tố dinh dưỡng duy nhất không gây hại cho cây
trồng khi tích luỹ quá giới hạn cho phép. Tuy vậy, sự đóng góp của Silic đối
với sinh trưởng của cây trồng đã bị bỏ quên kể từ khi sự sống phổ biến ở trên
vỏ trái đất. Kể từ khi có nhiều sự nghiên cứu sâu về Silic, bắt đầu ở Nhật Bản
vào khoảng 80 năm trước đây, các nhà khoa học Nhật Bản nhận thấy rằng
Silic là rất quan trọng với sự phát triển khoẻ mạnh của cây lúa và sự ổn định
của năng suất lúa. Silic được nhận ra như là một loại phân bón có giá trị ở
Nhật Bản. Những ảnh hưởng có lợi của Silic đối với phát triển của cây lúa là
rất đặc biệt, ở mức độ rộng rãi có thể quy cho các đặc tính của Silic được tích
luỹ trong mô biểu bì của cây lúa. Những tác dụng này được thể hiện rõ ràng
nhất trong việc thâm canh cây trồng với mật độ dày và sử dụng nhiều phân
đạm. Vì vậy, Silic hiện nay được nhìn nhận như là một yếu tố thiết yếu của
nông học ở Nhật Bản.
Gần đây, Silic đã trở lên quan trọng vì nó tạo ra khả năng chống chịu
của nhiều loại cây trồng đối với các loại sâu bệnh và côn trùng có hại, và có
thể đóng góp vào việc giảm tỷ lệ sử dụng thuốc trừ sâu và thuốc trừ nấm
bệnh. Hiện nay Silic cũng đã được coi như một yếu tố thân thiện với môi
trường [13].
Ở Mỹ:
Nhiều loại cây trồng có thể hút Silic. Tuỳ theo những loại cây trồng
khác nhau, sự tích luỹ Silic trong sinh khối có thể thay đổi từ 10 đến hơn
100g/kg. Các loại cây trồng được xem xét việc tích luỹ Silic khi sự tập trung
Silic nhiều hơn 1g/kg sinh khối. Cây một lá mầm, cây hai lá mầm như là cà
chua, dưa chuột và đậu tương được coi như là những cây tích luỹ ít Silic với
giá trị nhỏ hơn 1g/kg sinh khối. Những cây trồng cạn như là lúa mỳ, yến
mạch, lúa mạch đen, lúa mạch, kê, ngô và mía chứa khoảng 10mg/kg sinh
khối, trong khi đó các loại cỏ nước có hàm lượng Silic tới 50g/kg sinh khối.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
Sự tích luỹ Silic trong cây ở mức ngang bằng hay nhiều hơn so với các
yếu tố dinh dưỡng thiết yếu khác trong cây trồng phụ thuộc vào từng loại cây
trồng. Ví dụ với cây lúa, sự tích luỹ Silic nhiều hơn 108% so với N. Ước tính
rằng trong một vụ, tổng năng suất lúa đạt 5.000kg/ha thì sẽ lấy đi từ đất
khoảng 230 – 470 kg Silic. Vì vậy, việc bón khoảng 5.000 kg Silic canxi/ha
(1000kg Silic/ha) là đủ để cung cấp Silic cho cây trồng, khi đó mô cây chứa
khoảng 3% Silic hoặc nhiều hơn. Sự tích Silic trong mô tế bào cây từ 3-5% có
thể là giới hạn thấp nhất để kiềm chế bệnh tật.
Silic được coi là một dinh dưỡng cây trồng “không bình thường” bởi vì
xét về vai trò dinh dưõng có lẽ nó không thật sự cần thiết cho sự sinh trưởng
và phát triển của cây. Nhưng dù sao Silic hữu hiệu vẫn thúc đẩy sự sinh
trưởng, phát triển và năng suất của một vài loại cây trồng, bao gồm: lúa, mía
đường, lúa mì, và một số loại cây hai lá mầm. Cây trồng hút Silic ở một dạng
duy nhất là monosilicic axit và phổ biến gọi là Orthosilic axit.
Sự tập trung của Silic trong chất xelulo của cây lúa thường cao hơn
nhiều lần so với Silic trong dung dịch đất, điều đó chỉ ra rằng quá trình hút
Silic có thể bằng con đường trao đổi chất. Trong cây lúa, sự thêm gen hoặc
không thêm gen được coi như là liên quan đến cơ chế hút Silic. Silic được
tích luỹ ở dạng Silicgel hoặc Biogenetic Opal như là amorphous SiO2.nH2O
trong thành tế bào và khoảng trống của gian bào của rễ và mô lá như là lá bắp.
Silic hầu như cũng được tìm thấy ở dạng monosilicic axit hoặc hợp chất hữu
cơ Organosilicol trong mô cây.
Những ảnh hưởng có lợi của Silic đối với cây trồng ở dạng hữu sinh
cũng như vô sinh cũng đã được chứng minh đối với nhiều loại cây trồng như
lúa, lúa mạch, lúa mì và mía đường. Lá, cuống, cọng của cây trồng đặc biệt là
lúa được trồng trong đất có khá đầy đủ Silic thường mọc thẳng đứng, do đó
khă năng tiếp xúc với ánh sáng được cải thiện một cách rõ rệt. Silic có thể có
ảnh hưởng rõ ràng đến hoạt tính của một vài loại enzim có liên quan đến
quang hợp của cây lúa thông qua việc hạn chế sự già cỗi của lá lúa. Silic có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
thể làm giảm sự thoát ra ngoài của các chất điện phân từ lá lúa và vì vậy đã
giúp đẩy mạnh hơn quá trình quang hợp của các loại cây trồng được trồng
trong điều kiện khô hạn hoặc nắng nóng. Silic đã tăng quá trình oxy hoá năng
lượng của rễ lúa, làm giảm các tổn thương được gây ra bởi các điều kiện bất
thuận của khí hậu như là bão, mưa đá mùa hè đối với cây lúa, làm giảm bớt
khả năng ảnh hưởng của nhiệt độ thấp đối với cây mía và một số loại cây
trồng khác. Silic làm giảm ảnh hưởng của một số độc tố trong đất như là
mangan, sắt, nhôm đối với rễ cây trồng như là lúa và mía đường. Làm tăng
khă năng chịu mặn của lúa và lúa mì [19].
Vai trò của Silic đối với khả năng chống chịu sâu bệnh hại của cây
trồng.
Có lẽ nhà nghiên cứu đầu tiên đưa ra giả thuyết Silic có liên quan đến
khă năng chống chịu của lúa đối với bệnh khô héo lá lúa là một nhà hoá học
dinh dưỡng cây trồng Nhật Bản có tên là Onodera. Ông đã thu thập các loại
cây lúa khác nhau ở 13 vùng ở miền tây Nhật Bản, sau đó so sánh thành phần
hoá học của các cây lúa bị nhiễm bệnh khô héo lá lúa với các cây lúa không bị
bệnh và nhận ra rằng các cây lúa bị bệnh luôn luôn có hàm lượng Silic trong
cây thấp hơn so với các cây lúa khoẻ mạnh được trồng trên cùng một cánh
đồng và hàm lượng Silic có chứa trong mô cây được quyết định bởi đồng đất
nơi mà cây lúa đã được trồng [19].
Kawashima lần đầu tiên chứng minh dưới các điều kiện có kiểm soát,
việc sử dụng Silic đối với cây lúa đã làm tăng khả năng chống chịu đối với
bệnh khô héo lá cũng như là là tăng hàm lượng Silic có trong lúa gạo. Những
kết quả đã chỉ ra rằng Silic chứa trong rơm và vỏ trấu là tương ứng với khối
lượng Silic bón vào đất. Mức độ bị khô héo của các chuỳ hoa lại tương ứng
ngược lại với khối lượng Silic trong mô của cây lúa. Ito, Hayashi, Miyke và
Ikeda cũng chỉ ra rằng sử dụng Silic cũng làm tăng khả năng chống chịu của
cây lúa đối với bệnh khô héo lá. Inokari và Kubota đã chứng minh rằng sử
dụng Silic trên đất than bùn trồng lúa làm giảm phạm vi tác động của bệnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
36
khô héo lá. Nhiều nhà nghiên cứu Nhật Bản khác cũng chứng minh rằng sử
dụng từ 1,5 đến 2,0 tấn/ha của các dạng Silic khác nhau trên đất thiếu hụt
Silic đã làm giảm một cách đáng kể mức độ của bệnh khô héo lá. Rabindra et
al cũng nhận thấy rằng hàm lượng Silic trong lá và mô cuống lá trong số 4
loại giống lúa khác nhau được trồng trong cùng một điều kiện khí hậu và
những giống lúa tích luỹ nhiều Silic hơn ở chồi non thì phạm vi tác động của
bệnh khô héo trên là và cuống cũng ít hơn. Điều đáng quan tâm là tính nhạy
cảm đối với bệnh khô héo của một số giống lúa được bón với các lượng bón
Silic khác nhau lại có tương quan nghịch với hàm lượng Silic chứa trong các
chồi non.
Kitani và các đồng sự đã chứng minh tác động riêng rẽ của Silic và
thuốc trừ nấm cũng như tác động phối hợp của chúng trong kiểm soát bệnh
khô héo lá. Trong nghiên cứu của họ, Silic được sử dụng riêng rẽ ở dạng Silic
Silicat đã làm giảm các bệnh khô héo như là hiệu quả của thuốc diệt nấm,
tương ứng là 12% so với 10% và 11,2% so với 7,4% tuỳ thuộc vào mức đạm
sử dụng.
Silic sử dụng riêng rẽ đã làm tăng năng suất 37% ở mức đạm 50kgN/ha
và tăng 40% ở mức đạm 75kgN/ha. Sử dụng thuốc diệt nấm kết quả làm tăng
năng suất 28% - 34% đối với hai mức đạm sử dụng ở trên. Sử dụng kết hợp
Silic và thuốc diệt nấm có hiệu quả nhất đối với việc giảm bệnh khô héo
(<3%) và tăng năng suất lúa 40 - 48% [19].
Ở Florida-Mỹ, một nghiên cứu của việc sử dụng phân bón Silic kết hợp
với sử dụng Benomyl hoặc Propiconazone đã xác định Silic có thể kiềm chế
bệnh hại (như là bệnh khô héo, đốm nâu) một cách có hiệu quả như là thuốc
diệt nấm.
Thực tế rằng Silic có thể kiềm chế vài loại bệnh trên cây lúa cũng như
một số loại cây trồng chung khác về mức độ như là một loại thuốc diệt nấm,
điều đó Silic có thể giúp giảm việc sử dụng thuốc diệt nấm về cả số lượng
cũng như tỷ lệ thành phần sử dụng. Giả thiết này đã được kiểm tra bởi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
Seebold trong các thí nghiệm đồng ruộng ở cao nguyên Savannahs ở
Colombia. Silic được sử dụng ở dạng wollastonite ở mức 400 kg Si/ha và lúa
được gieo ở mức 80kg giống/ha. Thí nghiệm bao gồm đối chứng (không kiểm
soát), sử dụng Silic riêng rẽ và sử dụng Silic kết hợp với thuốc diệt nấm
(edifenfos ở mức 0,1l/ha, tricyclazole ở mức 300g/ha). Phạm vi tác động của
bệnh khô héo của công thức sử dụng Silic riêng rẽ hoặc Silic kết hợp với
thuốc diệt nấm đã được giảm một cách chắc chắn so với đối chứng. Sử dụng
Silic riêng rẽ đã làm giảm phạm vi tác động của bệnh khô héo cổ bông 40%.
Sử dụng Silic kết hợp với một lần sử dụng thuốc diệt nấm đã giảm 75% đến
90%, trong khi sử dụng kết hợp Silic với 2 lần sử dụng thuốc diệt nấm giảm
76% đến 94%. Sử dụng Silic kết hợp với 3 đến 5 lần sử dụng thuốc diệt nấm
giảm 94 đến 98% [19].
Như vậy, các tác giả đã chỉ ra rằng Silic có thể kiểm soát bệnh hại như
là các loại thuốc diệt nấm. Silic có thể giúp giảm số lượng thuốc diệt nấm
phải sử dụng trong trồng trọt. Sử dụng Silic kết hợp với giảm tỷ lệ sử dụng
thuốc diệt nấm là có hiệu quả như là sử dụng đầy đủ các loại thuốc diệt nấm
riêng rẽ, những kết quả này đã chỉ ra rằng số loại thuốc cũng như số lần sử
dụng có thể được giảm một cách đáng kể.
Vai trò của Silic với năng suất cây trồng
Ở Hàn Quốc:
- Lúa gạo: Bón 2.000 kg phân Silic/ha, năng suất tăng 28% so đối
chứng (không bón phân Silic).
- Lúa mì: Bón 2.500 kg phân Silic/ha, năng suất tăng 20% so đối
chứng.
- Lúa mạch: Bón 1.370 kg phân Silic/ha, năng suất tăng 37% so đối
chứng.
- Đậu đỗ: Bón 2.500 kg phân Silic/ha, năng suất tăng 25% so đối
chứng.
- Ngô: Bón 1.500 kg phân Silic/ha, năng suất tăng 21% so đối chứng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
38
- Khoai tây (vụ đông): Bón 3.600 kg phân Silic/ha, năng suất tăng 12%
so đối chứng.
Ở Nhật Bản:
- Lúa mì: Bón 2.500 kg phân Silic/ha, năng suất tăng 53% so đối
chứng.
- Đậu đỗ: Bón 3.000 kg phân Silic/ha, năng suất tăng 27% so đối
chứng.
- Lạc: Bón 3.000 kg phân Silic/ha, năng suất tăng 47% so đối chứng.
Kết luận:
Qua những kết quả nghiên cứu ở nước ngoài, có thể tóm tắt vai trò của
Silic đối với cây và đất trồng như sau:
Đối với cây trồng:
- Silic là một yếu tố dinh dưỡng rất cần thiết cho sự phát triển của các
bộ phân như là rễ, thân, lá.
- Nhờ hình thành một lớp biểu bì Silic dày mà quá trình tự bảo vệ của
cây trồng sẽ trở nên vững chắc hơn từ các tác nhân sinh học như là côn trùng
(sâu đục thân, bọ chét, mọt đục) hoặc các điều kiện bất thuận của tự nhiên
như: Chịu nóng, chịu hạn, chịu rét,...
- Silic thúc đẩy quá trình quá trình phân hoá và hình thành các mầm.
- Silic làm tăng khả năng tiếp nhận ánh sáng của cây, làm giảm sự già
cỗi của lá qua đó làm tăng quá trình quang hợp, do đó cây trồng có thể tích
luỹ được nhiều chất hữu cơ hơn, vì vậy tạo nên năng suất cao hơn.
- Cả Silic và Canxi đều cải thiện sự trao đổi cation và anion giữa cây
trồng và phân bón, làm tăng hiệu quả sử dụng của các loại phân hoá học.
- Điều quan trọng nhất là nhờ thúc đẩy việc hấp thụ lân mạnh hơn dẫn
đến cấu trúc bộ rễ phát triển mạnh do đó việc hấp thụ nước, dinh dưỡng và
phân bón của cây trồng cũng tốt hơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
- Làm tăng chất lượng các loại nông sản như: Làm giảm ảnh hưởng của
nấm mốc, giảm hàm lượng các kim loại nặng trong các loại nông sản, kéo dài
khả năng tươi của hoa,...[16]
Đối với đất trồng
- Làm giảm độ chua của đất (tăng giá trị pH của đất).
- Tăng hàm lượng Si, Ca, Mg hữu hiệu trong đất.
- Khử hoạt tính của các kim loại nặng có trong đất.
- Làm tăng hiệu lực của phân lân trong đất chua thông qua khả năng
làm giảm sự rửa trôi của lân và đồng thời lại làm tăng lân dễ tiêu.
- Cải thiện sự hấp thu các chất vi lượng như: Bo, đồng, sắt, mangan,
kẽm và làm giảm sự hấp thu các kim loại độc tố như: nhôm và natri [16].
1.5.4. Kết quả nghiên cứu về phân bón Silica ở Việt Nam
Năm 2005, được sự đồng ý của Cục Nông nghiệp, Vụ khoa học công
nghệ, Trung tâm nghiên cứu và ứng dụng các chế phẩm nông hoá – Viện Thổ
nhưỡng Nông hoá đã tiến hành khảo nghiệm phân bón Silica đối với cây lúa
trên 03 loại đất là: Đất phù sa, đất bạc màu, đất phèn, kết qủa khảo nghiệm đã
rút ra một số kết luận như sau:
Đối với sinh trƣởng và phát triển của lúa
- Bón phân Silic lúa sinh trưởng tốt, cây xanh và cứng cáp, lá vươn
thẳng, cây cao hơn, bông dài hơn, trọng lượng 1.000 hạt cao hơn, khi chín hạt
màu vàng sáng đẹp hơn so với đối chứng.
- Bón phân Silic làm giảm tỷ lệ lúa bị đổ: Trên nền không có phân
chuồng giảm tỷ lệ lúa đổ từ 15,6 – 46,7%; Trên nền có phân chuồng giảm từ
16,7 – 52,2%.
- Bón phân Silic làm giảm tỷ lệ bông bạc: Trên nền không bón phân
chuồng giảm tỷ lệ bông bạc 36,1 – 62,5%; Trên nền có phân chuồng giảm từ
38,7 – 62,5%.
- Bón phân Silic lúa ít bị nhiễm bệnh khô đầu lá hơn so với đối chứng [11].
Đối với năng suất lúa
- Trên đất phèn: Trên nền không bón phân chuồng, bón phân Silic
năng suất lúa tăng 6,9 – 7,9 tạ/ha, tương ứng 17,1 – 22,8%; Trên nền có phân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40
chuồng, bón phân Silic năng suất lúa tăng 7,2 – 9,8 tạ/ha, tương ứng 15,9 –
22,9%.
- Trên đất phù sa: Trên nền không bón phân chuồng, bón phân Silic
năng suất lúa tăng 7,4 – 7,6 tạ/ha, tương ứng 14,0 – 15,6%; Trên nền có phân
chuồng, bón phân Silic năng suất lúa tăng 7,0 – 8,1 tạ/ha, tương ứng 12,0 –
15,2%.
- Trên bạc màu: Trên nền không bón phân chuồng, bón phân Silic
năng suất lúa tăng 7,5 – 9,0 tạ/ha, tương ứng 19,9 – 22,1%; Trên nền có phân
chuồng, bón phân Silic năng suất lúa tăng 7,4 – 7,8 tạ/ha, tương ứng 16,8 –
18,3% [11].
Về hiệu quả kinh tế
- Trên đất phèn, bón 1 tấn phân Silic thương phẩm làm tăng 345 – 490
kg thóc, tương đương 1.185.000 – 1.470.000đ.
- Trên đất bạc màu, bón 1 tấn phân Silic thương phẩm làm tăng 370 –
450 kg thóc, tương đương 1.110.000 – 1.350.000đ.
- Trên đất phù sa, bón 1 tấn phân Silic thương phẩm làm tăng 350 –
405 kg thóc, tương đương 1.050.000 – 1.215.000đ.
Sử dụng phân bón Silic có hiệu quả nhất trên đất phèn, sau đó là trên
đất bạc màu và cuối cùng là trên đất phù sa [11].
Đối với chất lƣợng gạo
Tuỳ theo từng loại đất và kết hợp có bón phân chuồng hay không bón
phân chuồng, sử dụng phân bón Silic bón lót có thể cải thiện tốt một số chỉ
tiêu chất lượng gạo như: Tăng tỷ lệ gạo nguyên, giảm tỷ lệ amylose, ổn định
nhiệt độ hoá hồ [11].
1.6. Tình hình sản xuất lạc trên thế giới và ở Việt Nam
1.6.1. Tình hình sản xuất lạc trên thế giới
Lạc là cây công nghiệp ngắn ngày, cây lấy dầu có giá trị kinh tế cao.
Cây lạc chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế thế giới không chỉ do
được gieo trồng trên diện tích lớn ở hơn 100 nước, mà còn vì hạt lạc được sử
dụng rất rộng rãi để làm thực phẩm và nguyên liệu cho công nghiệp [5]. Nhu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41
cầu sử dụng, tiêu thụ lạc ngày càng tăng đã và đang khuyến khích nhiều nước
đầu tư phát triển sản xuất lạc với quy mô ngày càng lớn (bảng 2.1)
Bảng 1.1: Diện tích, năng suất và sản lƣợng lạc trên thế giới
và một số nƣớc
Nước
Diện tích (triệu ha) Năng suất (tấn/ha) Sản lượng (triệu tấn)
2006/07 2007/08 2008/09 2006/07 2007/08 2008/09 2006/07 2007/08 2008/09
Thế giới 20,27 20,83 20,99 1,51 1,55 1,59 30,53 32,24 33,29
Trung Quốc 3,80 3,80 3,90 3,35 3,43 3,49 12,74 13,02 13,60
Ấn Độ 5,91 6,40 6,30 0,91 1,03 1,02 5,39 6,60 6,40
Nigiêria 1,24 1,25 1,25 1,23 1,25 1,25 1,52 1,55 1,55
Inđônêxia 0,75 0,72 0,75 1,60 1,60 1,67 1,20 1,15 1,25
Mỹ 0,49 0,48 0,61 3,21 3,44 3,57 1,57 1,67 2,16
Xênêgan 0,59 0,65 0,65 0,77 0,65 0,72 0,46 0,42 0,47
Xuđăng 1,00 1,00 1,00 0,85 0,85 0,85 0,85 0,85 0,85
Camơrun 0,31 0,31 0,31 0,76 0,77 0,77 0,24 0,24 0,24
Việt Nam 0,26 0,26 0,26 1,77 1,77 1,77 0,46 0,46 0,46
(Ghi chú: Niên vụ 2008/2009 tính đến tháng 9/2008)
Nguồn: World agricultural production - fas.usda.gov [22]
Về diện tích: Diện tích trồng lạc toàn thế giới dao động từ 20,27 –
20,99 triệu ha/năm. Trong đó, khoảng 90% diện tích trồng lạc tập trung ở lục
địa Á Phi (ở Châu Á 60% và châu Phi 30%). Các nước có diện tích trồng lạc
lớn là Ấn Độ với diện tích trồng từ 5,91 – 6,30 triệu ha/năm, Trung Quốc với
diện tích trồng từ 3,8 – 3,9 triệu ha/năm, Nigiêria có diện tích trồng từ 1,24 –
1,25 triệu ha/năm [22].
Về năng suất: Năng suất lạc trung bình của thế giới đạt từ 1,51 – 1,59
tấn/ha. Nước có năng suất lạc cao nhất là Mỹ năng suất trung bình đạt 3,21 –
3,57 tấn/ha, tiếp đến là Trung Quốc năng suất trung bình đạt 3,35 – 3,49
tấn/ha. Nhìn chung, những nước có diện tích trồng lạc lớn lại có năng suất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
42
thấp và mức tăng năng suất không đáng kể trong thời gian qua. Một số nước
sản xuất lạc chính có mức tăng năng suất không nhiều. Ấn Độ chỉ tăng 13%,
Xênêgan, Trung Quốc năng suất hầu như không tăng. Tình trạng chênh lệch
năng suất giữa các nước rất đáng kể. Trong khi năng suất lạc của Ixraen trong
20 năm vẫn luôn ổn định ở mức trên dưới 35tạ/ha (trên diện tích nhỏ đạt tới
65tạ/ha) thì nhiều nước ở châu Phi và châu Á chỉ đạt năng suất 5 – 6 tạ/ha [5].
Về sản lƣợng: Trên 60% sản lượng lạc thuộc về 5 nước sản xuất lạc
chính, gồm: Trung Quốc chiếm khoảng 18,58%, Ấn Độ 30,01%, Mỹ 2,90%,
Nigiêria 5,96%, Inđônêxia 3,57 %. Các nước sản xuất lạc còn lại chỉ chiếm
dưới 40% sản lượng lạc của toàn thế giới [22].
1.6.2. Tình hình sản xuất lạc ở Việt Nam
Trong những năm gần đây, nhờ áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong sản
xuất nên năng suất, sản lượng lúa không ngừng tăng, không chỉ đáp ứng nhu
cầu lương thực trong nước mà còn phục vụ xuất khẩu. Do đã cơ bản giải
quyết được vấn đề lương thực nên các địa phương có điều kiện chuyển đổi cơ
cấu cây trồng, đặc biệt là chuyển những diện tích trồng lúa khó khăn, năng
suất thấp và bấp bênh sang trồng các loại cây rau, màu, cây công nghiệp có
giá trị kinh tế cao hơn. Trong đó, cây lạc nhờ ưu thế về khả năng thích nghi
rộng, yêu cầu kỹ thuật canh tác và đầu tư không quá cao, giá trị và thị trường
tiêu thụ khá ổn định, có nhiều giống lạc có tiềm năng năng suất cao nên đã có
một vai trò quan trọng trong định hướng phát triển sản xuất nông nghiệp hàng
hoá của các vùng sản xuất.
Diện tích
Sản xuất lạc được phân bố trên tất cả các vùng sinh thái nông nghiệp
của Việt Nam, diện tích lạc chiếm khoảng 40% tổng diện tích gieo trồng các
cây công nghiệp ngắn ngày và có xu hướng tăng trong giai đoạn 2001-2006
[21]. Theo số liệu thống kê năm 2006, diện tích lạc cả nước đạt 246.700 ha,
phân bố ở 8 vùng sản xuất chính (bảng 2.2 ).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
Bảng 1.2: Diện tích trồng lạc của các vùng sản xuất chính trong nƣớc
(giai đoạn 2001 – 2006)
Đvt: ha
Vùng
Năm
2001 2002 2003 2004 2005 2006
Cả nƣớc 244.600 246.700 243.856 258.689 269.600 246.700
Đồng bằng Sông Hồng 30.900 30.600 31.452 33.625 34.600 30.300
Đông Bắc 32.500 31.500 31.335 34.501 37.200 35.700
Tây Bắc 7.000 7.300 7.625 8.021 8.600 8.600
Bắc Trung Bộ 74.900 74.300 74.005 79.090 82.700 75.200
Duyên Hải Nam Trung Bộ 26.100 24.100 23.122 24.413 24.900 24.600
Tây Nguyên 23.000 25.400 24.304 24.787 24.500 23.100
Đông Nam Bộ 42.100 43.300 41.792 41.271 73.200 37.200
Đồng bằng Sông Cửu Long 8.100 10.200 10.221 12.981 13.900 12.000
Nguồn: Mard.gov.vn [23]
- Vùng đồng bằng Sông Hồng: Lạc được trồng chủ yếu ở các tỉnh: Vĩnh
Phúc, Hà Nội, Hà Tây, Nam Định, Ninh Bình,..với diện tích 30.300 ha, chiếm
12,28 % diện tích trồng lạc của cả nước.
- Vùng Đông Bắc: Lạc được trồng tập trung ở các tỉnh: Phú Thọ, Thái
Nguyên, Bắc Giang, Hà Giang, Tuyên Quang,...với diện tích trồng 35.700 ha,
chiếm 14,47 % diện tích trồng lạc cả nước.
- Vùng Tây Bắc: Diện tích trồng tập trung ở Hoà Bình, Sơn La, Điện
Biên, Lai Châu với diện tích trồng 8.600 ha, chiếm 3,49 % diện tích trồng lạc
của cả nước.
- Vùng Bắc Trung Bộ: Đây là vùng trồng lạc lớn nhất cả nước tập trung
chủ yếu ở 3 tỉnh là: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, với diện tích trồng 75.200
ha, chiếm 30,48 % diện tích trồng lạc của cả nước.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
- Vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ: Diện tích trồng 24.600 ha, chiếm
9,97 % diện tích trồng lạc của cả nước, tập trung chủ yếu ở các tỉnh Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Bình Định.
- Vùng Tây Nguyên: Diện tích trồng 23.100 ha, chiếm 9,36 %, tập
trung ở các tỉnh Đăk lắk, Đắc nông và Gia Lai.
- Vùng Đông Nam Bộ: Diện tích trồng 37.200 ha, chiếm 15,08 %, tập
trung ở các tỉnh Tây Ninh, Bình Thuận, Bình Phước.
- Vùng Đồng bằng Sông Cửu Long: Diện tích trồng 12.000 ha, chiếm
4,86 %, tập trung chủ yếu ở các tỉnh Long An và Trà Vinh.
Nghệ An là tỉnh có diện tích trồng lạc lớn nhất cả nước (23.300ha), tiếp
đến là Tây Ninh (20.900 ha) và Hà Tĩnh (20.300 ha)
Năng suất
Tuy chưa phải là nước có năng suất cao trong số các nước trồng lạc
trên thế giới, nhưng năng suất lạc của nước ta luôn cao bằng và cao hơn năng
suất trung bình của toàn thế giới [6]. Trong những năm gần đây, do thị trường
tiệu thụ sản phẩm khá ổn định, các tiến bộ kỹ thuật mới trong sản xuất lạc như
giống mới, kỹ thuật canh tác tiên tiến được triển khai áp dụng rộng rãi, điều
kiện phục vụ sản xuất như hệ thống tưới, tiêu được cải thiện, đầu tư thâm
canh trong sản xuất được chú trọng, nên năng suất lạc của nước ta không
ngừng được cải thiện và nâng cao.
Theo số liệu thống kê, năng suất lạc cả nước năm 2006 đạt trung bình 18,7
tạ/ha, tăng 3,89 % so với năm 2005 và tăng 26,35 % so với năm 2001 (bảng 2.3).
Trong các vùng sản xuất lạc chính của cả nước thì vùng Đồng bằng
Sông Cửu Long là vùng có năng suất lạc cao nhất (31,8 ta/ha), tiếp đến là vùng
Đông Nam Bộ (24,3 ta/ha) và vùng đồng bằng Sông Hồng (23,2 tạ/ha). Vùng
có năng suất lạc thấp nhất cả nước là vùng Tây Bắc (13,5 tạ/ha). Trong các tỉnh
có diện tích trồng lạc > 5.000 ha, thì Nam Định là tỉnh có năng suất lạc cao
nhất (36,6 tạ/ha), tiếp đến là Tây Ninh (30,6 ta/ha) và Hưng Yên (30,0 ta/ha).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
Bảng 1.3: Năng suất lạc của các vùng sản xuất chính trong nƣớc
(giai đoạn 2001-2006)
Đvt: tạ/ha
Vùng
Năm
2001 2002 2003 2004 2005 2006
Cả nƣớc 14,8 16,2 16,7 17,4 18,0 18,7
Đồng bằng Sông Hồng 18,3 19,1 20,5 22,5 21,9 23,2
Đông Bắc 12,5 12,5 13,4 14,9 15,5 14,6
Tây Bắc 10,1 9,9 10,2 11,8 12,7 13,1
Bắc Trung Bộ 14,0 16,4 16,0 17,5 16,2 17,6
Duyên Hải Nam Trung Bộ 13,5 14,6 15,9 15,7 17,4 18,5
Tây Nguyên 12,5 10,9 13,9 9,8 12,8 14,3
Đông Nam Bộ 17,4 20,1 18,8 19,1 21,4 22,0
Đồng Bằng sông Cửu Long 20,5 23,2 23,3 26,5 29,0 29,8
Nguồn:Mard.gov.vn [23]
Sản lƣợng
Do diện tích trồng và đặc biệt là năng suất lạc liên tục tăng trong những
năm gần đây nên sản lượng lạc của cả nước không ngừng tăng. Theo số liệu
thống kê, sản lượng lạc của cả nước năm 2006 đạt 462.500 tấn, tăng 27,38 %
so với năm 2001 (bảng 2.4)
Trong các vùng sản suất của cả nước thì vùng Bắc Trung Bộ là vùng có
sản lượng cao nhất cả nước (132.000 tấn), tiếp đến là các vùng Đông Nam Bộ
(81.7000 tấn) và Đồng Bằng Sông Hồng (70.300 tấn). Vùng có sản lượng lạc
thấp nhất là Tây Bắc (11.300 tấn). Trong các tỉnh thì tỉnh Tây Ninh có sản
lượng cao nhất trong các tỉnh sản xuất lạc (64.000 tấn), tiếp đến là tỉnh Nghệ
An (46.100 tấn) và tỉnh Hà Tĩnh (37.300 tấn).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46
Bảng 1.4: Sản lƣợng lạc của các vùng sản xuất chính trong nƣớc
(giai đoạn 2001-2006)
Đvt: tấn
Vùng
Năm
2001 2002 2003 2004 2005 2006
Cả nƣớc 363.100 400.400 406.181 451.095 489.300 462.500
Đồng bằng Sông Hồng 56.400 58.300 64.627 75.717 75.200 70.300
Đông Bắc 40.700 39.500 42.105 51.357 57.800 52.200
Tây Bắc 7.100 7.200 7.803 9.504 10.700 11.300
Bắc Trung Bộ 105.000 121.600 118.771 138.478 133.600 132.500
Duyên Hải Nam Trung Bộ 35.300 35.100 36.850 38.404 43.700 45.600
Tây Nguyên 28.800 27.800 33.804 24.273 33.800 33.100
Đông Nam Bộ 73.200 87.200 78.399 78.902 94.100 81.700
Đồng Bằng sông Cửu Long 16.600 23.700 23.822 34.460 40.400 35.800
Nguồn: Nguồn:Mard.gov.vn [23]
1.6.3. Tình hình sản xuất lạc ở Vĩnh Phúc
Là một tỉnh thuộc vùng Đồng bằng Sông Hồng nhưng Vĩnh Phúc lại
bao gồm cả vùng trung du và miền núi. Trong cơ cấu cây trồng của tỉnh thì
cây lạc vẫn đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển sản xuất nông
nghiệp hàng hoá, đặc biệt là với các địa phương vùng trung du và miền núi,
nhờ vậy diện tích, năng suất, sản lượng lạc của tỉnh vẫn tiếp tục tăng trong
những năm gần đây (bảng 2.5) [4].
- Về diện tích: Vĩnh Phúc là một trong những tỉnh có diện tích trồng
lạc lớn của vùng Đồng Bằng Sông Hồng. Theo số liệu thống kê, diện tích tích
trồng lạc toàn tỉnh năm 2007 đạt 4.109,9 ha, tăng 9,76 % ( 365,5 ha) so năm
2001. Diện tích trồng lạc tập trung chủ yếu ở các huyện Lập Thạch (1.802,8
ha), Yên Lạc (400,0 ha), Vĩnh Tường (400,2 ha).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
Bảng 1.5: Diện tích, năng suất, sản lƣợng lạc tỉnh Vĩnh Phúc
(giai đoạn 2001-2007)
Năm Diện tích (ha) Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng (tấn)
2001 3.744,4 12,0 4.497,0
2002 3.827,9 11,23 4.300,1
2003 3.858,8 12,20 4.706,2
2004 3.862,5 15,39 5.944,7
2005 4.118,1 15,12 6.227,2
2006 2.748,2 15,76 4.330,4
2007 4.109,9 16,03 6.588,2
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Phúc [4]
- Về năng suất: Nhờ áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, năng
suất lạc của tỉnh Vĩnh Phúc đã được cải thiện đáng kể trong giai đoạn 2001 –
2007, tuy vậy năng suất lạc của Vĩnh Phúc vần còn thấp hơn so với năng suất
lạc trung bình của cả nước và thấp hơn rất nhiều so với năng suất lạc trung
bình của vùng Đồng Bằng Sông Hồng. Năm 2007, năng suất lạc trung bình
toàn tỉnh Vĩnh Phúc đạt 16,03 tạ/ha, tăng 33,58 % (4,03 tạ/ha) so năm 2001.
Các huyện có năng suất lạc cao là Vĩnh Tường (16,89 tạ/ha), Bình Xuyên
(16,83tạ/ha), Lập Thạch (15,30 tạ/ha).
- Về sản lượng: Năm 2007, sản lượng lạc toàn tỉnh đạt 6.588,2 tấn,
tăng 46,50 % (2.091,2 tấn) so năm 2001. Các huyện có sản lượng lạc nhiều là
Lập Thạch (2.759,0 tấn), Yên Lạc (931,0 tấn).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48
Chƣơng 2
Đối tƣợng, nội dung, phƣơng pháp nghiên cứu
2.1. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2.1.1. Đối tƣợng nghiên cứu:
Nghiên cứu ảnh hưởng của phân Silica đối với cây lạc.
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu:
Thí nghiệm được thực hiện trên đất phù sa cũ bạc màu của tỉnh Vĩnh Phúc.
2.1.3. Địa điểm và thời gian thực hiện
Địa điểm thực hiện
Thí nghiệm được tiến hành tại đồng Trại Lớn – xã Tam Hồng - Huyện
Yên Lạc - tỉnh Vĩnh Phúc.
Thời gian thực hiện
Từ tháng 1/2007 – tháng 6/2008
2.1.4. Vật liệu nghiên cứu
- Giống lạc làm thí nghiệm: QĐ9
- Phân Silica làm thí nghiệm: Do công ty POS CERRAMICS (Hàn
Quốc) sản xuất và Trung tâm nghiên cứu và ứng dụng các chế phẩm nông hoá
- Viện Thổ nhưỡng Nông hoá cung cấp. Phân có thành phần chính như sau:
CaO = 40%; SiO2 = 25%; MgO = 2% và một số nguyên tố vi lượng khác.
- Đất làm thí nghiệm:
Bảng 2.1: Kết quả phân tích đất trƣớc thí nghiệm
Mẫu đất pHKCl OM%
Chất tổng số (%) Chất dễ tiêu (mg/100gđ)
N P2O5 K2O SiO2 P2O5 K2O Ca
++
Mg
++
Trước thí nghiệm vụ xuân 4,37 1,57 0,13 0,11 0,45 86,39 21,2 6,6 3,64 0,79
Trước thí nghiệm vụ đông 4,43 1,62 0,15 0,12 0,51 85,7 23,6 9,4 3,67 0,65
Ghi chú: Đơn vị tính của Ca và Mg trao đổi: lđl/100gđất
2.2. Nội dung, phƣơng pháp nghiên cứu và các chỉ tiêu theo dõi
2.2.1. Nội dung nghiên cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
49
- Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của phân bón Silica tới sinh trưởng,
phát triển, năng suất, chất lượng đối với cây lạc vụ xuân và vụ đông trên đất
phù sa cũ bạc màu.
- Nghiên cứu, đánh giá hiệu lực tồn dư của phân bón Silica tới sinh
trưởng, năng suất đối với cây lạc vụ thứ 2 trên đất phù sa cũ bạc màu.
- Nghiên cứu, đánh giá tác động của phân bón Silica đến một số chỉ tiêu
hoá tính của đất.
2.2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Bố trí thí nghiệm đồng ruộng (ô thửa nhỏ).
2.2.2.1. Công thức nghiên cứu
Thí nghiệm đánh giá ảnh hƣởng của bón phân Silica tới sinh
trƣởng, phát triển, năng suất và chất lƣợng lạc
Công thức nghiên cứu chung cho cả vụ xuân và vụ đông
CT1: Nền 1 (40 kg N + 70 kg P2O5 + 80 kg K2O/ha)
CT2: Nền 1 + 500 kg CaO/ha
CT3: Nền 1 + 1.000kg Silica/ha
CT4: Nền 1 + 3.000kg Silica/ha
CT5: Nền 1 + 5.000kg Silica/ha
CT6: Nền 2 (8 tấn P/C + 40 kg N + 70 kg P2O5 + 80 kg K2O/ha)
CT7: Nền 2 + 500 kg CaO/ha
CT8: Nền 2 + 1.000kg Silica/ha
CT9: Nền 2 + 3.000kg Silica/ha
CT10: Nền 2 + 5.000kg Silica/ha
Thí nghiệm đánh giá hiệu lực tồn dƣ (vụ 2) của bón phân Silica tới
sinh trƣởng, phát triển và năng suất lạc.
CT1: 40 kg N + 70 kg P2O5 + 80 kg K2O/ha
CT2: 8 tấn P/C + 40 kg N + 70 kg P2O5 + 80 kg K2O/ha
Thí nghiệm được thực hiện trên đất đã tiến hành thí nghiệm vụ đông
2007. Giữ nguyên vị trí ô của các lần nhắc lại của các công thức. Không bón
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
50
phân Silica, chỉ bón phân nền. Từ CT1 - CT5 của vụ đông 2007 bón phân nền
theo CT1, từ CT6 - CT10 bón phân nền theo CT2.
2.2.2.2. Phƣơng pháp bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí theo kiểu khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh. Mỗi
công thức gồm 3 lần nhắc lại, diện tích mỗi ô là 10 m2 (9m x 1,1m)
Sơ đồ bố trí thí nghiệm như sau
D
ải
b
ảo
v
ệ
Dải bảo vệ
D
ải b
ảo
v
ệ
CT3 CT10 CT5
CT8 CT6 CT1
CT2 CT5 CT6
CT7 CT2 CT9
CT1 CT7 CT2
CT4 CT4 CT10
CT9 CT9 CT3
CT6 CT3 CT7
CT5 CT8 CT4
CT10 CT1 CT8
Dải bảo vệ
2.2.2.3. Các biện pháp kỹ thuật
(Thực hiện theo quy trình trồng lạc không che phủ ninon) [2]
Mật độ gieo
Gieo 15 khóm/m2 (hàng cách hàng 35cm, khóm cách khóm 18cm, gieo
2 hạt/khóm).
Phƣơng pháp bón phân
- Bón lót: Toàn bộ phân lân, phân chuồng và phân Silica (nếu có), 50%
phân đạm, 50% phân kali và 50% vôi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
51
- Bón thúc lần 1 (khi lạc có 3 lá thật, sau gieo khoảng 15 - 20 ngày):
Bón 50% phân đạm và 50% phân kali.
- Bón thúc lần 2 (khi lạc ra hoa rộ): Bón 50% vôi.
Xới xáo, làm cỏ
- Lần 1: Khi cây có 3 – 4 lá thật. Xới nông đều khắp mặt luống, kết hợp
bón phân thúc lần 1 và làm cỏ.
- Lần 2: Khi cây có 6 – 8 lá (chuẩn bị ra hoa). Xới gần gốc sâu 3 – 5
cm, kết hợp làm cỏ.
- Lần 3: Khi lạc ra hoa rộ. Xới và vun nhẹ vào gốc. Kết hợp bón thúc
vôi lần 2.
Tƣới nƣớc
Giữ đất ẩm thường xuyên ( 70 –75 % độ ẩm tối đa).
2.2.3. Các chỉ tiêu và phƣơng pháp theo dõi, nghiên cứu
2.2.3.1. Đối với cây lạc
Các chỉ tiêu về sinh trƣởng
- Chiều cao cây (cm): Đo từ đốt lá mầm đến đỉnh sinh trưởng của thân
chính của 10 cây mẫu/ô lúc thu hoạch.
- Số cành cấp 1/cây: Đếm số cành hữu hiệu (cành có quả) mọc từ thân
chính của 10 cây mẫu/ô lúc thu hoạch [2].
Các chỉ tiêu cấu thành năng suất và năng suất
- Số cây thực thu/ô: Đếm số cây thu hoạch thực tế mỗi ô.
- Số quả/cây: Đếm tổng số quả trên 10 cây mẫu/ô lúc thu hoạch. Tính
trung bình 1 cây.
- Số qủa chắc/cây: Đếm tổng số quả chắc trên 10 cây mẫu/ô lúc thu
hoạch. Tính trung bình 1 cây.
- Tỷ lệ quả 1 hạt (%): Số quả có 1 hạt/tổng số quả của 10 cây mẫu/ô lúc
thu hoạch.
- Tỷ lệ quả 3 hạt: Số quả có 3 hạt/tổng số quả của 10 cây mẫu/ô lúc thu
hoạch.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
52
- Khối lượng 100 quả (gam): Cân 3 mẫu (bỏ qua quả lép, quả non, chỉ
lấy quả chắc), mỗi mẫu 100 quả khô ở độ ẩm hạt khoảng 10%, lấy 1 chữ số
sau dấu phẩy.
- Khối lượng 100 hạt (gam): Cân 3 mẫu hạt nguyên vẹn không bị sâu
bệnh được tách từ 3 mẫu quả (tính khối lượng 100 quả), mỗi mẫu lấy 100 hạt
ở độ ẩm khoảng 10%, lấy 1 chữ số sau dấu phẩy.
- Tỷ lệ hạt/quả (%): Tỷ lệ hạt/quả (%) = KL hạt khô/KL quả khô của
100 quả mẫu (KL hạt ở độ ẩm khoảng 10%).
- Năng suất quả khô (tạ/ha): Thu riêng từng ô, bỏ qua quả lép, non chỉ
lấy quả chắc, phơi khô (độ ẩm hạt khoảng 10%), cân khối lượng (gồm cả hạt
của 10 cây mẫu) để tính năng suất trên ô, sau đó qua ra năng suất tạ/ha [2].
Các chỉ tiêu đánh giá mức độ nhiễm sâu, bệnh
- Bệnh ghỉ sắt: Điều tra ước lượng diện tích lá bị hại của 10 cây mẫu/ô
trước lúc thu hoạch theo phương pháp 5 điểm chéo góc.
+ Rất nhẹ: < 1% diện tích lá bị hại.
+ Nhẹ: 1 – 5% diện tích lá bị hại.
+ Trung bình: > 5 – 25% diện tích lá bị hại.
+ Nặng: > 25 – 50% diện tích lá bị hại.
+ Rất nặng: > 50% diện tích lá bị hại.
- Bệnh đốm đen: Điều tra ít nhất 10 cây đại diện theo phương pháp 5
điểm chéo góc.
+ Rất nhẹ: < 1% diện tích lá bị hại.
+ Nhẹ: 1 – 5% diện tích lá bị hại.
+ Trung bình: > 5 – 25% diện tích lá bị hại.
+ Nặng: > 25 – 50% diện tích lá bị hại.
+ Rất nặng: > 50% diện tích lá bị hại.
- Bệnh đốm nâu: (Phương pháp điều tra và mức độ đánh giá tương tự
như đối với bệnh đốm đen [2].
Các chỉ tiêu về chất lƣợng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
53
- Hàm lượng Lipid (chất béo thô) trong hạt (độ ẩm khoảng 10%): Phân
tích tại phòng phân tích thức ăn chăn nuôi - Viện chăn nuôi theo tiêu chuẩn
Việt Nam TCVN-4331-2001 [3].
2.2.3.2. Đất trồng
Lấy mẫu đất phân tích trước và sau khi tiến hành thí nghiệm (lấy ở độ
sâu 0 - 15cm). Đất được phân tích tại Phòng phân tích trung tâm -Viện Thiết
kế và Quy hoạch nông nghiệp Hà Nội, Trung tâm Thổ nhưỡng Nông hoá tỉnh
Vĩnh Phúc. Các chỉ tiêu phân tích được phân tích theo tiêu chuẩn ngành số 10
TCN Ban hành theo Quyết định số 1894 – NN.KHCN/QĐ ngày 5 tháng 8
năm 1997 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Cụ thể:
- Độ chua pHKCl: Chiết bằng KCl, đo bằng pH metter
- Chất hữu cơ tổng số (OC%): Phương pháp Walley Black
- Đạm tổng số: Phương pháp Keldal
- Lân tổng số: Phương pháp so màu
- Kali tổng số: Chiết bằng axit H2SO4 và HClO4, đo bằng quang kế
ngọn lửa
- Silic tổng số (%): Phương pháp trọng lượng (Nung chảy bằng
Na2CO3, tách Si bằng HClO4)
- Lân dễ tiêu: Phương pháp Oniani
- Kali dễ tiêu: Chiết bằng axetat amôn, đo bằng máy quang kế ngọn lửa
- Canxi, Magiê trao đổi: Chiết bằng axetat amôn, đo trên máy hấp thụ
nguyên tử AAS [12]
2.3.3. Hiệu quả kinh tế
(Trên cơ sở tham khảo giá bán phân Silica tại Hàn Quốc)
- Giá trị thu nhập (đ/ha) = Năng suất thương phẩm x giá bán (tại thời
điểm thu hoạch).
- Chi phí (đ/ha): Bao gồm tổng chi phí phân bón, giống, thuốc BVTV
(tại thời điểm chi phí).
- Lãi ròng (đ/ha) = Giá trị thu nhập - Chi phí
3.2.4. Phƣơng pháp xử lý số liệu
Các kết quả thí nghiệm được tổng hợp, xử lý theo phương pháp thống
kê hiện hành. Sử dụng phần mềm IRRISTAT 4.0 để xử lý thống kê.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
54
Chƣơng 3
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1. Đặc điểm thời tiết khí hậu vùng nghiên cứu
Điều kiện khí hậu, thời tiết có liên quan chặt chẽ đến đời sống của cây
trồng nói chung và cây lạc nói riêng. Điều kiện khí hậu, thời tiết tác động trực
tiếp đến quá trình sinh trưởng, phát triển và các quá trình sinh lý, sinh hoá của
cây. Nói cách khác, điều kiện khí hậu thời tiết không chỉ ảnh hưởng đến các
chỉ tiêu về sinh trưởng mà còn ảnh hưởng đến các chỉ tiêu về năng suất cây
trồng, và như vậy điều kiện khí hậu thời tiết có ảnh hưởng rất lớn đến việc
đánh giá ảnh hưởng của yếu tố thí nghiệm đến sinh trưởng, phát triển và năng
suất cây trồng. Vì vậy, chúng tôi đã tiến hành thu thập các số liệu về điều kiện
thời tiết, khí hậu của khu vực làm thí nghiệm trong thời gian thực hiện thí
nghiệm, kết quả thể hiện ở bảng 3.1.
Qua số liệu thống kê và theo dõi, chúng tôi có nhận xét về ảnh hưởng
của điều kiện khí hậu, thời tiết đến sinh trưởng, phát triển của lạc trong thời
gian làm thí nghiệm như sau:
Nhiệt độ: Nhiệt độ là yếu tố quan trọng quyết định đến quá trình sinh
trưởng và phát triển của cây lạc. Nhiệt độ thích hợp giúp cây lạc nảy mầm
nhanh, cây khoẻ, thời gian sinh trưởng sinh dưỡng phù hợp, tạo điều kiện
thuận lợi cho thời gian phân hoá mầm hoa kéo dài, tăng số lượng hoa, tỷ lệ
đậu quả và tăng trọng lượng hạt. Qua bảng 4 cho thấy, trong suốt thời gian
làm thí nghiệm của cả 3 vụ nhìn chung là điều kiện nhiệt độ là khá thuận lợi
cho sinh trưởng và phát triển của lạc. Vụ xuân 2008, tháng 2 (là thời gian gieo
lạc) có nhiệt độ trung bình của tháng khá thấp (13,70C) đã làm ảnh hưởng đến
thời vụ gieo lạc, tuy nhiên thời điểm gieo lạc thí nghiệm vẫn được thực hiện
trong khung thời vụ cho phép.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
55
Bảng 3.1 : Đặc điểm thời tiết, khí hậu vùng nghiên cứu
Tháng
Nhiệt độ
trung bình (0C)
Lƣợng mƣa
(mm)
Độ ẩm
trung bình (%)
Số giờ nắng
(h)
Năm 2007 24,5 1.166,6 78,0 1.545,3
Tháng 1 16,7 89,0 75,0 65,7
Tháng 2 22,0 35,4 72,0 90,6
Tháng 3 21,4 56,2 87,0 32,7
Tháng 4 23,3 101,1 79,0 82,7
Tháng 5 27,0 76,8 73,0 167,3
Tháng 6 29,9 153,8 76,0 214,8
Tháng 7 30,2 198,4 77,0 216,2
Tháng 8 29,0 236,0 80,0 171,2
Tháng 9 27,4 220,0 78,0 140,0
Tháng 10 25,8 61,5 76,0 123,4
Tháng 11 21,0 9,0 76,0 189,9
Tháng 12 20,1 9,5 82,0 50,8
Năm 2008
Tháng 1 15,3 30,5 81,0 69
Tháng 2 13,7 27,0 77,0 29
Tháng 3 21,4 43,6 82,0 77
Tháng 4 24,7 55,9 85,0 71
Tháng 5 27,2 348,0 81,0 146
Tháng 6 28,5 265,1 82,0 125
Nguồn: Trung tâm Dự báo khí tượng, thuỷ văn Vĩnh Phúc [10]
Lượng mưa: Nước là yếu tố ngoại cảnh có ảnh hưởng lớn nhất đến
năng suất lạc, lượng mưa đủ và phân bố đều sẽ giúp cây lạc sinh trưởng, phát
triển tốt và đạt năng suất cao. Do khu vực làm thí nghiệm nằm trong vùng chủ
động nước tưới, vì vậy yếu tố lượng mưa không ảnh hưởng nhiều đến sinh
trưởng và phát triển của lạc làm thí nghiệm nhất là trong vụ xuân (có lượng
mưa thấp). Qua số liệu theo dõi cho thấy lượng mưa trong thời gian làm thí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
56
nghiệm không có sự khác biệt nhiều so với quy luật hàng năm, khá thuận lợi
cho sinh trưởng và phát triển của cây lạc. Tuy nhiên, trong thời gian làm thí
nghiệm vụ đông 2007, tháng 9 (là tháng tiến hành gieo lạc vụ đông) đã có
lượng mưa rất lớn (220mm) và thời gian mưa kéo dài (14 ngày) đã làm ảnh
hưởng khá lớn đến lạc từ khi gieo hạt đến nảy mầm. Đồng thời, lượng mưa
lớn và kéo dài đã gây ảnh hưởng đến hiệu lực của các yếu tố phân bón dùng
bón lót của thí nghiệm.
Ẩm độ: Nhìn chung ẩm độ không khí không có ảnh hưởng nhiều đến
quá trình sinh trưởng, phát triển của lạc. Ẩm độ không khí chủ yếu tác động
đến cây lạc thông qua các tác nhân gây bệnh. Nhìn chung trong suốt thời gian
làm thí nghiệm, ẩm độ không khí là rất thuận lợi, ít có tác động xấu đến sinh
trưởng, phát triển của cây lạc.
Ánh sáng: Ánh sáng rất cần thiết cho quá trình quang hợp của cây,
ánh áng đầy đủ sẽ làm tăng quá trình quang hợp, giúp cây đẩy nhanh quá trình
sinh dưỡng, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình sinh thực sớm và kéo dài.
Tuy nhiên, theo các kết quả nghiên cứu thì ánh sáng là yếu tố khí hậu ít có
ảnh hưởng đến sinh trưởng và năng suất của lạc so với các yếu tố khí hậu
khác.
3.2. Ảnh hƣởng của phân bón Silica đến một số chỉ tiêu sinh trƣởng
Kết quả theo dõi ảnh hưởng của bón phân Silica đến một số chỉ tiêu
sinh trưởng của cây lạc (bảng 4.2) cho nhận xét:
3.2.1. Ảnh hƣởng của phân bón Silica đến chiều cao cây
Trong điều kiện thí nghiệm vụ xuân và vụ đông, trên cả nền không bón
và có bón phân chuồng đều cho thấy chiều cao cây của các công thức bón
phân Silica tương đương so với đối chứng và công thức bón vôi, sự sai khác
giữa các công thức là không chắc chắn ở độ tin cậy 95%.
Như vậy có thể kết luận: Bón phân Silica không có ảnh hưởng đến sự
phát triển chiều cao của cây lạc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
57
Bảng 3.2 : Ảnh hƣởng của bón phân Silica
đến một số chỉ tiêu sinh trƣởng của cây lạc
CT
Chiều cao cây
(cm)
Cành cấp 1
(cành/cây)
Vụ xuân 2007
1(Đ/c1) 33,47 5,07
2 33,43 5,40
3 33,03 5,77
4 34,07 5,57
5 33,20 5,27
6 (Đ/c2) 32,40 5,00
7 32,27 4,97
8 32,20 5,27
9 31,30 5,17
10 32,60 5,77
CV% 3,10 6,20
LSD05 1,75 0,57
Vụ đông 2007
1(Đ/c1) 31,93 4,90
2 32,47 5,33
3 31,70 5,43
4 32,20 5,67
5 31,90 5,37
6 (Đ/c2) 31,60 5,20
7 31,77 5,20
8 32,07 5,73
9 31,30 5,40
10 31,87 5,63
CV% 1,80 6,60
LSD05 0,97 0,60
3.2.2. Ảnh hưởng của phân bón Silica đến số cành cấp 1/cây
Số cành cấp 1 liên quan trực tiếp đến số hoa và số quả trên cây. Số hoa,
số quả ở các cành cấp 1 chiếm tới 70% tổng số hoa, số quả trên cây. Vì vậy,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
58
số cành cấp 1 của cây càng nhiều thì số hoa, số quả trên cây càng lớn. Kết quả
theo dõi ảnh hưởng của bón phân Silica đến số cành cấp 1/cây và kết quả xử
lý thống kê (bảng 3.2) và biểu đồ 3.1 cho nhận xét:
4,40
4,60
4,80
5,00
5,20
5,40
5,60
5,80
6,00
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Công thức
Cà
nh
cấ
p
1
Vụ xuân
Vụ đông
Biều đồ 3.1: Số cành cấp 1/cây
- Vụ xuân:
+ Trên nền không bón phân chuồng: So với công thức đối chứng, trong
các công thức bón phân Silica thì chỉ có mức tăng của CT3 (tăng 0,70
cành/cây so với đối chứng) là chắc chắn ở độ tin cậy 95%, mức tăng của các
công thức còn lại so với công thức đối chứng là chưa chắc chắn ở độ tin cậy
95%.
Các công thức bón phân Silica có số cành cấp 1/cây tương so với công
thức bón vôi, độ sai khác về số cành cấp1/cây của các công thức bón phân
Silica so với công thức bón vôi là chưa chắc chắn ở độ tin cậy 95%.
+ Trên nền bón phân chuồng: Các công thức bón phân Silica có số
cành cấp 1/cây tương đương với công thức đối chứng và công thức bón vôi,
mức độ sai khác giữa các công thức là chưa chắc chắn ở độ tin cậy 95%.
- Vụ đông:
+ Trên nền không bón phân chuồng: Trong các công thức bón phân
Silica thì chỉ có mức tăng của CT4 so với đối chứng (tăng 0,77 cành/cây) là
chắc chắn ở độ tin cậy 95%, các công thức bón phân Silica còn lại có số cành
cấp1/cây tương đương so với công thức đối chứng. So với công thức bón vôi,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
59
các công thức bón phân Silica có số cành cấp 1/cây là tương đương, mức độ
sai khác giữa các công thức là chưa chắc chắn ở độ tin cậy 95%.
Như vậy có thể nhận xét: Bón phân Silica ít có ảnh hưởng đến các yếu
tố sinh trưởng của cây lạc như chiều cao cây và số cành cấp 1.
3.3. Ảnh hưởng của phân bón Silica đến các yếu tố cấu thành năng
suất lạc
Kết quả theo dõi ảnh hưởng của bón phân Silica đến các yếu tố cấu
thành năng suất lạc thể hiện qua bảng 3.3:
4.3.1. Ảnh hưởng của phân bón Silica đến tổng số quả/cây
Tổng số quả trên cây là một trong những yếu tố quyết định đến năng
suất lạc. Về lý thuyết, tổng số quả trên cây càng lớn năng suất lạc càng cao.
Tuy nhiên, trên thực tế thì năng suất lạc còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như
số quả chắc, trọng lượng quả,...Qua bảng 3.3 cho nhận xét:
- Vụ xuân:
+ Trên nền không bón phân chuồng: Các công thức bón phân Silica có
tổng số quả/cây tương đương so với công thức đối chứng và công thức bón
vôi, mức độ sai khác giữa các công thức là chưa chắc chắn ở độ tin cậy 95%.
+ Trên nền bón phân chuồng: So với công thức đối chứng, các công
thức bón phân Silica có tổng số quả/cây cao hơn từ 1,4 – 2,26 quả/cây và chắc
chắn ở độ tin cậy 95%.
So với công thức bón vôi, chỉ có mức tăng của CT8 so với công thức
bón vôi (tăng 1,47 quả/cây) là chắc chắn ở độ tin cậy 95%.
Trong các công thức bón phân Silica thì công thức có tổng số quả cao
nhất là CT8 đạt 9,96 quả/cây, công thức có tổng số quả/cây thấp nhất là CT9
đạt 9,10 quả/cây. Kết quả xử lý thống kê cho thấy chỉ có sự sai khác giữa CT8
và CT9 là chắc chắn ở độ tin cậy 95%, sự sai khác giữa các công thức còn lại
là chưa chắc chắn ở độ tin cậy 95%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
60
Bảng 3.3: Ảnh hưởng của bón phân Silica
đến các yếu tố cấu thành năng suất lạc
CT
Tổng số
quả/cây (quả)
Số quả
chắc/cây
(quả)
Khối lượng
100 quả (g)
Khối lượng
100 hạt (g)
Tỷ lệ
hạt/quả
(%)
Vụ xuân 2007
1(Đ/c1) 8,50 5,63 165,37 75,13 72,57
2 8,53 5,97 165,97 76,10 72,67
3 9,23 6,73 175,83 78,27 72,93
4 9,00 6,77 174,27 79,83 73,03
5 8,77 6,20 171,50 77,57 72,80
6 Đ/c2) 7,70 5,77 165,93 76,47 72,83
7 8,50 6,33 168,00 77,23 73,27
8 9,96 6,87 175,00 78,50 73,00
9 9,10 6,83 174,93 79,60 73,50
10 9,77 6,55 173,93 77,60 73,40
CV% 8,10 9,60 1,50 3,60 0,60
LSD05 1,23 1,04 4,32 4,80 0,75
Vụ đông 2007
1(Đ/c1) 8,60 6,17 140,37 63,00 70,27
2 9,57 6,20 143,27 64,60 70,80
3 9,63 6,40 146,43 65,37 71,57
4 11,80 7,00 148,23 66,10 72,10
5 10,87 6,83 143,87 63,37 71,53
6 Đ/c2) 9,73 6,27 140,63 62,83 70,30
7 9,90 6,37 144,87 64,57 71,37
8 10,13 6,83 146,77 64,93 71,93
9 10,30 6,90 147,80 66,17 72,10
10 10,10 6,83 141,03 63,70 71,90
CV% 12,60 4,40 1,20 2,00 1,30
LSD05 2,17 0,49 2,96 2,18 1,56
- Vụ đông:
+ Trên nền không bón phân chuồng: So với công thức đối chứng, chỉ
có mức tăng của CT4 (tăng 3,2 quả/cây) và CT5 (tăng 2,27 quả/cây) là chắc
chắn ở độ tin cậy 95%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
61
So với công thức bón vôi, chỉ có mức tăng của CT4 (tăng 2,23 quả/cây)
là chắc chắn ở độ tin cậy 95%, mức tăng của các công thức bón phân Silica
còn lại so với công thức bón vôi là chưa chắc chắn ở độ tin cậy 95%.
Trong các công thức bón phân Silica thì CT4 có tổng số quả/cây cao
nhất (đạt 11,8 quả/cây), tuy nhiên kết quả xử lý thống kê cho thấy chỉ có mức
tăng của CT4 so với CT3 là chắc chắn ở độ tin cậy 95%, mức độ sai khác của
các công thức còn lại là chưa chắc chắn ở độ tin cậy 95%.
+ Trên nền bón phân chuồng:
+ Vụ đông: Kết quả xử lý thống kê cho thấy, các công thức bón phân
Silica có số quả/cây tương đương so với công thức đối chứng và công thức
bón vôi, sự sai khác giữa các công thức là chưa chắc chắn ở độ tin cậy 95%.
3.3.2. Ảnh hưởng của phân bón Silica đến số quả chắc/cây
Số quả chắc/cây là yếu tố quyết định đến năng suất lạc. Số quả chắc
phần lớn phụ thuộc vào số hoa nở và được thụ phấn, thụ tinh trong thời kỳ lạc
ra hoa rộ. Lạc ra hoa càng nhiều và càng tập trung thì số quả chắc càng nhiều.
Kết quả theo dõi ảnh hưởng của bón phân Silica đến số quả chắc/cây
(Bảng 3.3) và biểu đồ 3.2 cho nhận xét
0
1
2
3
4
5
6
7
8
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Công thức
Qu
ả c
hắ
c/c
ây
Vụ xuân
Vụ đông
Biểu đồ 3.2: Ảnh hƣởng bón phân Silica đến số quả chắc của lạc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
62
- Vụ xuân:
+ Trên nền không bón phân chuồng: So với công thức đối chứng, chỉ
có mức tăng của CT3 (đạt 6,73 quả/cây, tăng 1,10 quả/cây) và CT4 (đạt 6,77
quả/cây, tăng 0,97 quả/cây) là chắc chắn ở độ tin cậy 95%.
So với công thức bón vôi, các công thức bón phân Silica có tổng số
quả chắc/cây là tương đương, sự sai khác là chưa chắc chắn ở độ tin cậy 95%.
Số quả chắc/cây của các công thức bón phân Silica là tương đương, sự
sai khác về số quả chắc/cây giữa các công thức bón phân Silica là chưa chắc
chắn ở độ tin cậy 95%.
+ Trên nền bón phân chuồng: So với công thức đối chứng, chỉ có mức
tăng của CT8 (tăng 1,10 quả/cây) và CT9 (tăng 1,06 quả/cây) là chắc chắn ở
độ tin cậy 95%.
Các công thức bón phân Silica có năng suất tương đương công thức bón
vôi, sự sai khác là không chắc chắn ở độ tin cậy 95%.
Số quả chắc/cây của các công thức bón phân Silica là tương đương
nhau, sự sai khác của các công thức là không chắc chắn ở độ tin cậy 95%.
- Vụ đông:
+ Trên nền không bón phân chuồng: So với công thức đối chứng, trong
các công thức bón phân Silica thì chỉ có sự sai khác của CT4 (tăng 0,83
quả/cây) và CT5 (tăng 0,66 quả/cây) là chắc chắn ở độ tin cậy 95%, CT3 có
số quả chắc/cây tương đương so với công thức đối chứng.
So với công thức bón vôi, trong các công thức bón phân Silica chỉ có
mức tăng của CT4 (tăng 0,80 quả/cây) và CT5 (tăng 0,63 quả/cây) so với
công thức bón vôi là chắc chắn ở độ tin cậy 95%, CT3 có số quả chắc/cây là
tương đương so với công thức bón vôi.
Giữa các công thức bón phân Silica thì chỉ có mức tăng của CT4 so với
CT3 (tăng 0,60 quả/cây) là chắc chắn ở độ tin cậy 95%, sự sai khác giữa các
công thức bón phân Silica còn lại là không chắc chắn ở độ tin cậy 95%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
63
+ Trên nền bón phân chuồng: Các công thức bón phân Silica có số quả
chắc/cây cao hơn từ 0,56 – 0,63 quả/cây so với công thức đối chứng và chắc
chắn ở độ tin cậy 95%.
So với công thức bón vôi, trong các công thức bón phân Silica thì chỉ có
mức tăng của CT9 (tăng 0,53 quả/cây) là chắc chắn ở độ tin cậy 95%, mức
tăng của các công thức bón phân Silica còn lại so với công thức bón vôi là
chưa chắc chắn ở độ tin cậy 95%.
Trong các công thức bón phân Silica, số quả chắc/cây của các công
thức là tương đương nhau, sự sai khác về số quả chắc/cây giữa các công thức
là chưa chắc chắn ở độ tin cậy 95%.
Hiệu quả của bón phân Silica tới số quả chắc/cây trong vụ xuân (tăng so
với đối chứng từ 10,12 – 20,25% trên nền không bón phân chuồng và 13,52 –
19,56 % trên nền có phân chuồng) là cao hơn ở trong vụ đông (tăng so với đối
chứng từ 3,73 – 13,45% trên nền không bón phân chuồng và 8,93 – 10,05 %
trên nền có phân chuồng)
4.3.3. Ảnh hưởng của phân bón Silica đến khối lượng 100 quả.
Khối lượng quả cũng là một yếu tố ảnh hưởng quyết định đến năng
suất lạc, khối lượng quả càng lớn thì năng suất lạc càng cao và ngược lại. Kết
quả theo dõi ảnh hưởng của bón phân Silica đến khối lượng 100 quả (bảng 3.3)
cho nhận xét:
- Vụ xuân:
+ Trên nền không bón phân chuồng: So với công thức đối chứng, các
công thức bón phân Silica có khối lượng 100 quả cao hơn từ 6,23 –
10,46g/100quả và chắc chắn ở độ tin cậy 95%.
So với công thức bón vôi, các công thức bón phân Silica có khối lượng
100 quả cao hơn từ 5,63 – 9,86 g/100quả và chắc chắn ở độ tin cậy 95%.
Trong các công thức bón phân Silica thì CT3 có khối lượng 100 quả
cao nhất, đạt 175,83g/100 quả, tăng 10,46g so với đối chứng. Tuy nhiên, kết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
64
quả xử lý thống kê cho thấy tất cả sự sai khác về khối lượng 100 quả giữa các
công thức bón phân Silica là không chắc chắn ở độ tin cậy 95%.
+ Trên nền bón phân chuồng: Các công thức bón phân Silica có khối
lượng 100 quả cao hơn từ 8,00 – 9,07g/100 quả so với công thức đối chứng và
chắc chắn ở độ tin cậy 95%.
Các công thức bón phân Silica có khối lượng 100 quả cao hơn từ 5,93 –
7,00g/100 quả so với công thức bón vôi và chắc chắn ở độ tin cậy 95%.
Các công thức bón phân Silica có khối lượng 100 quả là tương đương
nhau, sự sai khác về khối lượng 100 quả giữa các công thức bón phân Silica là
không chắc chắn ở độ tin cậy 95%.
- Vụ đông:
+ Trên nền không bón phân chuồng: Các công thức bón phân Silica có
khối lượng 100 quả cao hơn so với công thức đối chứng từ 3,50 – 7,86g/100
quả và chắc chắn ở độ tin cậy 95%.
So với công thức bón vôi, chỉ có sự sai khác của CT3 (tăng 3,16g) và
CT4 (tăng 4,96g) so với công thức bón vôi là chắc chắn ở độ tin cậy 95%.
Trong các công thức bón phân Silica thì CT4 có khối lượng 100 quả
cao nhất đạt 148,23g/100 quả, CT5 có khối lượng 100 quả thấp nhất đạt
143,87g/100 quả. Kết quả xử lý thống kê cho thấy chỉ có sự sai khác giữa
CT4 và CT5 là chắc chắn ở độ tin cậy 95%, sự sai khác giữa các công thức
bón phân Silica còn lại là không chắc chắn ở độ tin cậy 95%.
+ Trên nền bón phân chuồng: So với công thức đối chứng, trong các
công thức bón phân Silica thì chỉ có mức tăng của CT3 (tăng 6,06g/100quả)
và CT4 (tăng 7,86g/100quả) là chắc chắn ở độ tin cậy 95%, mức tăng của
CT5 so với công thức đối chứng là không chắc chắn ở độ tin cậy 95%.
So với công thức bón vôi, trong các công thức bón phân Silica thì chỉ
có sự sai khác của CT9 (tăng 2,93g/100quả) là chắc chắn ở độ tin cậy 95%, sự
sai khác về khối lượng 100 quả của các công thức bón phân Silica còn lại là
không chắc chắn ở độ tin cậy 95%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- doc13.pdf