Luận văn Nghiên cứu ảnh hưởng của mùa vụ, phương thức chăn nuôi đến khả năng sinh trưởng và cho thịt của gà sasso thương phẩm nuôi tại Thái Nguyên

Tài liệu Luận văn Nghiên cứu ảnh hưởng của mùa vụ, phương thức chăn nuôi đến khả năng sinh trưởng và cho thịt của gà sasso thương phẩm nuôi tại Thái Nguyên: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HOÀNG THỊ HỒNG NHUNG NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA MÙA VỤ, PHƢƠNG THỨC CHĂN NUÔI ĐẾN KHẢ NĂNG SINH TRƢỞNG VÀ CHO THỊT CỦA GÀ SASSO THƢƠNG PHẨM NUÔI TẠI THÁI NGUYÊN LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP THÁI NGUYÊN - 2008 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HOÀNG THỊ HỒNG NHUNG NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA MÙA VỤ, PHƢƠNG THỨC CHĂN NUÔI ĐẾN KHẢ NĂNG SINH TRƢỞNG VÀ CHO THỊT CỦA GÀ SASSO THƢƠNG PHẨM NUÔI TẠI THÁI NGUYÊN LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP Chuyên ngành: Chăn nuôi Mã số: 60.62.40 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ THUÝ MỴ PGS. TS. TRẦN THANH VÂN THÁI NGUYÊN - 2008 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ở Việt Nam hiện nay, chăn nuôi gà thịt ngày càng đƣợc đẩy mạnh và phát triển rộng khắp trong phạ...

pdf94 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1585 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nghiên cứu ảnh hưởng của mùa vụ, phương thức chăn nuôi đến khả năng sinh trưởng và cho thịt của gà sasso thương phẩm nuôi tại Thái Nguyên, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HOÀNG THỊ HỒNG NHUNG NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA MÙA VỤ, PHƢƠNG THỨC CHĂN NUÔI ĐẾN KHẢ NĂNG SINH TRƢỞNG VÀ CHO THỊT CỦA GÀ SASSO THƢƠNG PHẨM NUÔI TẠI THÁI NGUYÊN LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP THÁI NGUYÊN - 2008 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HOÀNG THỊ HỒNG NHUNG NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA MÙA VỤ, PHƢƠNG THỨC CHĂN NUÔI ĐẾN KHẢ NĂNG SINH TRƢỞNG VÀ CHO THỊT CỦA GÀ SASSO THƢƠNG PHẨM NUÔI TẠI THÁI NGUYÊN LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP Chuyên ngành: Chăn nuôi Mã số: 60.62.40 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ THUÝ MỴ PGS. TS. TRẦN THANH VÂN THÁI NGUYÊN - 2008 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ở Việt Nam hiện nay, chăn nuôi gà thịt ngày càng đƣợc đẩy mạnh và phát triển rộng khắp trong phạm vi cả nƣớc từ thành phố, tỉnh, huyện, đến các hộ nông dân. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của ngƣời tiêu dùng về sản phẩm thịt gà nhƣ: Thịt chắc, thơm ngon, không có thuốc kháng sinh… mặt khác các giống gà thịt đó phải phát huy tốt tiềm năng về chăn nuôi trong điều kiện chăn thả và bán chăn thả với quy mô vừa và nhỏ ở nông hộ Việt Nam, thì chúng ta phải đặc biệt chú trọng tới công tác giống. Năm 1996, Việt Nam đã nhập một số giống gà lông màu thả vƣờn có năng suất khá cao, chất lƣợng thịt tốt, hợp thị hiếu ngƣời tiêu dùng và thích hợp với điều kiện chăn nuôi bán công nghiệp nhƣ gà Kabir của Israel, gà Tam Hoàng, Lƣơng Phƣợng của Trung Quốc… Trong đó có giống gà lông màu Sasso do hãng Sasso (Selection Avicoe de La Sathe et du Sud Ouest) của Pháp tạo ra. Qua gần 30 năm nghiên cứu chọn lọc, nhân giống và lai tạo, hiện nay gà Sasso đƣợc trên 30 nƣớc khắp năm châu ƣa chuộng. Nƣớc ta đã nhập giống gà Sasso có những đặc tính quý nhƣ có khả năng thích nghi cao với điều kiện nóng ẩm, sức đề kháng tốt, chất lƣợng thịt thơm ngon, thích hợp với các phƣơng thức nuôi nhốt bán công nghiệp và thả vƣờn. Chúng ta biết rằng trong những điều kiện môi trƣờng nhất định thì các kiểu gen khác nhau sẽ cho những khả năng sản xuất khác nhau. Trái lại cùng một kiểu gen nhƣng trong những điều kiện môi trƣờng khác nhau sẽ cho năng lực sản xuất khác nhau. Các tính trạng của một giống đƣợc hình thành gắn liền với sự tác động của môi trƣờng sinh thái địa phƣơng. Ngoài các yếu tố di truyền, tác động của con ngƣời, thì các yếu tố ngoại cảnh nhƣ: Nhiệt độ, ánh sáng, ẩm độ, mùa vụ, mật độ nuôi nhốt, độ thông thoáng, chế độ chiếu sáng…có ảnh hƣởng rất lớn đến đặc tính sinh trƣởng, phát dục, sinh sản, các chỉ tiêu sản xuất của giống đó. Nhằm góp phần đánh giá ảnh hƣởng của mùa vụ và phƣơng thức chăn nuôi đến khả năng sinh trƣởng và cho thịt của gà Sasso thƣơng phẩm, từ đó tìm ra môi trƣờng ngoại cảnh thích hợp, kết hợp với nuôi dƣỡng, chăm sóc, chúng ta sẽ không những duy trì đƣợc các đặc tính quý của phẩm giống, mà còn đem lại lợi ích kinh tế cao hơn cho ngƣời chăn nuôi. Chính vì vậy chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: "Nghiên cứu ảnh hưởng của mùa vụ, phương thức chăn nuôi đến khả năng sinh trưởng và cho thịt của gà Sasso thương phẩm nuôi tại Thái Nguyên" Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 2. Mục đích của đề tài - Xác định đƣợc ảnh hƣởng của mùa vụ đến tỷ lệ nuôi sống, khả năng sinh trƣởng và cho thịt của gà Sasso thƣơng phẩm nuôi tại Thái Nguyên. - Xác định đƣợc ảnh hƣởng của phƣơng thức nuôi đến tỷ lệ nuôi sống, khả năng sinh trƣởng và cho thịt của gà Sasso thƣơng phẩm nuôi tại Thái Nguyên. 3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài - Góp phần vào việc hoàn thiện nghiên cứu thích nghi và xây dựng quy trình kĩ thuật chăn nuôi giống gà Sasso ở Việt Nam. - Góp phần vào việc triển khai chăn nuôi gà lông màu cho các cơ sở và nông hộ tại khu vực. - Kết quả nghiên cứu là tài liệu để ngƣời chăn nuôi, cán bộ nghiên cứu, sinh viên ngành nông nghiệp tham khảo, áp dụng cho công việc chuyên môn và các nghiên cứu tiếp theo. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu 1.1.1. Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu sự di truyền các tính trạng sản xuất của gia cầm Khi nghiên cứu các tính trạng sản xuất của gia cầm, các nhà khoa học không những nghiên cứu về đặc điểm di truyền mà còn nghiên cứu đến các yếu tố ngoại cảnh tác động lên tính trạng đó. Bản chất di truyền các tính trạng sản xuất: Theo quan điểm di truyền học thì hầu hết các tính trạng về năng suất của gia cầm nhƣ: Sinh trƣởng, sinh sản, cho lông, cho trứng, cho thịt... phần lớn đều là các tính trạng số lƣợng (Quantitative Character) và do các gen nằm trên cùng nhiễm sắc thể (NST) quy định. Phần lớn sự thay đổi trong quá trình tiến hoá của sinh vật cũng là sự thay đổi của các tính trạng số lƣợng. Tính trạng số lƣợng là những tính trạng mà ở đó sự sai khác nhau về mức độ giữa các cá thể rõ nét hơn là sự sai khác về chủng loại. Sự sai khác nhau này chính là nguồn vật liệu cho chọn lọc tự nhiên cũng nhƣ chọn lọc nhân tạo. Các tính trạng số lƣợng đƣợc quy định bởi nhiều gen, các gen điều khiển tính trạng số lƣợng phải có môi trƣờng phù hợp mới đƣợc biểu hiện hoàn toàn. Theo Nguyễn Văn Thiện, 1995 [40] thì giá trị đo lƣờng của tính trạng số lƣợng trên một cá thể đƣợc gọi là giá trị kiểu hình (Phenotypic value) của cá thể đó. Các giá trị có liên quan tới kiểu gen là giá trị kiểu gen (Genotypic value) và giá trị có liên hệ với môi trƣờng là sai lệch môi trƣờng (Environmental deviation). Nhƣ vậy kiểu gen quy định một giá trị nào đó của kiểu hình và môi trƣờng gây ra một sự sai lệch với giá trị kiểu gen theo hƣớng này hoặc hƣớng khác. Quan hệ đó đƣợc biểu thị nhƣ sau: P = G + E Trong đó: P: Là giá trị kiểu hình G: Là giá trị kiểu gen E: Là sai lệch môi trƣờng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 Tuy nhiên khác với tính trạng chất lƣợng, giá trị kiểu gen của tính trạng số lƣợng do nhiều gen nhỏ (Minorgene) cấu tạo thành. Đó là hiệu ứng riêng biệt của từng gen thì rất nhỏ, nhƣng tập hợp nhiều gen nhỏ sẽ có ảnh hƣởng rõ rệt đến tính trạng nghiên cứu. Hiện tƣợng này gọi là hiện tƣợng đa gen (Polygene) gồm các thành phần: Cộng gộp, trội và tƣơng tác gen, nên đƣợc biểu thị theo công thức sau: G = A + D + I Trong đó: G: Là giá trị kiểu gen A: Là giá trị cộng gộp (Additive value) D: Là giá trị sai lệch trội (Dominance deviation) I : Là giá trị sai lệch tƣơng tác (Interaction deviation) Trong đó giá trị cộng gộp (A) là do giá trị giống quy định, là thành phần quan trọng nhất của kiểu gen vì nó ổn định, có thể xác định đƣợc và di truyền lại cho thế hệ sau, có ý nghĩa trong chọn dòng thuần, là cơ sở cho việc chọn giống. Hai thành phần sai lệch trội (D) và tƣơng tác gen (I) cùng có vai trò quan trọng, là giá trị giống đặc biệt chỉ có thể xác định đƣợc thông qua con đƣờng thực nghiệm. D và I không di truyền đƣợc và phụ thuộc vào vị trí và sự tƣơng tác giữa các gen. Chúng là cơ sở của việc lai giống. Đồng thời tính trạng số lƣợng cũng chịu ảnh hƣởng của môi trƣờng chung và môi trƣờng riêng: - Sai lệch môi trƣờng chung (General environmental) (Eg) là sai lệch do các yếu tố tác động lên toàn bộ các cá thể trong nhóm vật nuôi. Loại này có tính chất thƣờng xuyên và không cục bộ nhƣ: Thức ăn, khí hậu... Do vậy đó là sai lệch giữa các nhóm, giữa các cá thể và giữa các phần khác nhau trên một cơ thể. - Sai lệch môi trƣờng riêng (Environmental deviation) (Es) là các sai lệch do các yếu tố môi trƣờng tác động riêng rẽ lên từng nhóm cá thể vật nuôi hoặc một giai đoạn nào đó trong đời một con vật hay các phần khác nhau của con vật. Loại yếu tố này có tính chất không thƣờng xuyên và cục bộ nhƣ các thay đổi về thức ăn, khí hậu, trạng thái sinh lý... gây ra. Nhƣ vậy, quan hệ của kiểu hình (P), kiểu gen (G) và môi trƣờng (E) của một cá thể biểu thị nhƣ sau: P = A + D + I + Eg + Es Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 Trong đó: P: Là giá trị kiểu hình (phenotyp Value) A: Là giá trị cộng gộp (Additive Value) D: Là giá trị sai lệch trội (Dominance Value) I: Là sai lệch tƣơng tác hay sai lệch át gen (Epistatic deviation) Eg: Là sai lệch môi trƣờng chung (General enviromental diviation) Es: Là sai lệch môi trƣờng riêng (Special enviromental diviation) Nhƣ vậy, năng suất giống vật nuôi phụ thuộc vào các yếu tố di truyền và ngoại cảnh. Vật nuôi nhận đƣợc khả năng di truyền từ bố mẹ, nhƣng sự thể hiện khả năng đó ở kiểu hình lại phụ thuộc vào ngoại cảnh môi trƣờng sống (nhƣ chế độ chăm sóc, nuôi dƣỡng, quản lý…). Đây là cơ sở để tạo lập một điều kiện ngoại cảnh thích hợp nhằm củng cố phát huy tối đa khả năng di truyền của các giống vật nuôi, đặc biệt là gia cầm. Do đó để đạt đƣợc năng suất, chất lƣợng cao trong chăn nuôi (giá trị kiểu hình nhƣ mong muốn) chúng ta cần phải có giống tốt và tạo ra môi trƣờng thích hợp để phát huy hết tiềm năng của giống. Trong đề tài này, chúng tôi sẽ nghiên cứu ảnh hƣởng của môi trƣờng (E) đến giá trị kiểu hình, từ đó tìm ra mức độ ảnh hƣởng cũng nhƣ tạo ra môi trƣờng thích hợp để tiềm năng của giống (G) đƣợc thể hiện ra giá trị kiểu hình (P) có lợi cho ngƣời chăn nuôi. 1.1.2. Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu khả năng sinh trưởng 1.1.2.1. Khái niệm sinh trưởng: Về mặt sinh học, sự sinh trƣởng đƣợc xem nhƣ quá trình tổng hợp protein, nên ngƣời ta thƣờng lấy việc tăng khối lƣợng làm chỉ tiêu đánh giá sinh trƣởng. Sinh trƣởng là một quá trình sinh lý phức tạp và tuân theo những quy luật nhất định. Trần Đình Miên, Nguyễn Kim Đƣờng, 1992 [31] cho biết: Midedorpho A. F (1867) là ngƣời đầu tiên phát hiện ra quy luật sinh trƣởng theo giai đoạn của gia súc, cho rằng gia súc non phát triển mạnh nhất sau khi mới sinh, sau đó tăng khối lƣợng giảm dần theo từng tháng tuổi. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 * Khái niệm sinh trƣởng Sinh trƣởng là một quá trình sinh lý, sinh hoá phức tạp, duy trì từ khi phôi đƣợc hình thành cho đến khi con vật đã trƣởng thành. Để có đƣợc số đo chính xác về sinh trƣởng ở từng thời kỳ không phải dễ dàng (Chambers J. R, 1990 [66]) Trần Đình Miên, Nguyễn Kim Đƣờng, 1992 [31] đã khái quát: “Sinh trƣởng là một quá trình tích luỹ các chất hữu cơ thông qua trao đổi chất, là sự tăng lên về chiều cao, chiều dài, bề ngang, khối lƣợng của từng cơ quan, bộ phận cũng nhƣ toàn bộ cơ thể trên cơ sở tính di truyền có từ đời trƣớc”. Ganer (1992) cho rằng sinh trƣởng trƣớc hết là kết quả của phân chia tế bào, tăng thể tích tế bào để tạo nên sự sống (Trần Đình Miên, Nguyễn Kim Đƣờng 1992, [31]) Sinh trƣởng là quá trình tích luỹ các chất hữu cơ do đồng hoá và dị hoá, là sự tăng lên về chiều cao, chiều dài, bề ngang khối lƣợng của các bộ phận và toàn bộ cơ thể con vật trên cơ sở tính di truyền. Sinh trƣởng chính là sự tích luỹ dần dần các chất, chủ yếu là protein nên tốc độ và khối lƣợng tích luỹ các chất phụ thuộc vào tốc độ hoạt động của các gen điều khiển sự sinh trƣởng (Trần Đình Miên, Nguyễn Kim Đƣờng, 1992 [31]). Nhƣng tăng trƣởng không đồng nghĩa với tăng khối lƣợng (ví nhƣ béo mỡ chủ yếu là sự tích lũy mỡ, không có sự phát triển của mô cơ). Sinh trƣởng thực sự là sự tăng lên về khối lƣợng, số lƣợng các chiều của các tế bào mô cơ. Sự sinh trƣởng của con vật đƣợc tính từ khi trứng thụ tinh cho đến khi đã trƣởng thành và đƣợc chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn trong thai và giai đoạn ngoài thai. Đối với gia cầm là thời kỳ hậu phôi và thời kỳ trƣởng thành. Theo Johanson L, 1972 [22] thì cƣờng độ phát triển qua giai đoạn bào thai và giai đoạn sau khi sinh có ảnh hƣởng đến chỉ tiêu phát triển của con vật. Nhìn từ khía cạnh giải phẫu sinh lý, thì sự sinh trƣởng của các mô diễn ra theo trình tự nhƣ sau: + Hệ thống tiêu hoá, nội tiết + Hệ thống xƣơng + Hệ thống cơ bắp + Mỡ Trong thực tế nuôi gia súc, gia cầm lấy thịt cho thấy trong giai đoạn đầu của sự sinh trƣởng thức ăn, dinh dƣỡng đƣợc dùng tối đa cho sự phát triển của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 xƣơng, mô cơ, một phần rất ít dùng lƣu giữ trong cấu tạo của mỡ. Đến giai đoạn cuối của sự sinh trƣởng nguồn dinh dƣỡng vẫn đƣợc sử dụng nhiều để nuôi hệ thống cơ xƣơng nhƣng hai hệ thống này tốc độ phát triển đã giảm, càng ngày con vật càng tích luỹ chất dinh dƣỡng để cấu tạo mỡ. Trong các tổ chức cấu tạo của cơ thể gia cầm thì khối lƣợng cơ chiếm nhiều nhất: 42 - 45% khối lƣợng cơ thể. Khối lƣợng cơ con trống luôn lớn hơn khối lƣợng cơ con mái (không phụ thuộc vào lứa tuổi và loại gia cầm). Giai đoạn 70 ngày tuổi khối lƣợng tất cả các cơ của gà trống đạt 530g, của gà mái đạt 467g (Ngô Giản Luyện, 1994) [28]) Qua những nghiên cứu cho thấy cơ sở sinh trƣởng gồm hai quá trình: Tế bào sinh sản và tế bào phát triển. Tất cả các đặc tính của gia súc, gia cầm nhƣ ngoại hình, thể chất, sức sản xuất đều đƣợc hoàn chỉnh dần trong suốt quá trình sinh trƣởng, các đặc tính này tuy là một sự tiếp tục thừa hƣởng các đặc tính di truyền của bố mẹ, nhƣng hoạt động mạnh hay yếu còn do tác động của môi trƣờng. Khối lƣợng cơ thể thƣờng đƣợc theo dõi theo từng tuần tuổi và đơn vị tính là kg/con hoặc g/con. Để xác định khối lƣợng cơ thể ở các khoảng thời gian khác nhau ngƣời ta còn biểu thị khối lƣợng thông qua đồ thị sinh trƣởng. Khối lƣợng cơ thể ở từng thời kỳ là thông số để đánh giá sự sinh trƣởng một cách đúng đắn nhất, song lại không chỉ ra đƣợc sự khác nhau về tỷ lệ sinh trƣởng của các thành phần trong khoảng thời gian của các độ tuổi. Sinh trƣởng của vật nuôi nói chung và sinh trƣởng của gà nói riêng chịu ảnh hƣởng của nhiều yếu tố, quan trọng nhất là yếu tố giống, thức ăn và các điều kiện chăm sóc nuôi dƣỡng khác. Khi nghiên cứu về sinh trƣởng ngƣời ta thƣờng sử dụng một cách đơn giản và cụ thể một số chỉ tiêu để đánh giá sự sinh trƣởng của gia cầm: 1.1.2.2. Phương pháp đánh giá sinh trưởng Để đánh giá khả năng sinh trƣởng các nhà chọn giống vật nuôi đã có khuynh hƣớng sử dụng các phƣơng thức đơn giản và thực tế, đó là khả năng sinh trƣởng theo 3 chỉ tiêu là: Chiều cao, thể tích và khối lƣợng. Khối lƣợng cơ thể: Về mặt sinh học, sinh trƣởng đƣợc xem nhƣ là quá trình tổng hợp, tích lũy dần các chất mà chủ yếu là protein. Do vậy có thể lấy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 việc tăng khối lƣợng cơ thể làm chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh trƣởng của gia súc, gia cầm. Khối lƣợng của gia súc, gia cầm là một trong những tính trạng di truyền số lƣợng. Tính trạng này có hệ số di truyền khá cao phụ thuộc vào đặc điểm của từng giống, loài. Sinh trƣởng theo Trần Đình Miên và Nguyễn Kim Đƣờng, 1992 [31] là cƣờng độ tăng các chiều của cơ thể trong một khoảng thời gian nhất định. Trong chăn nuôi gia cầm để đánh giá sinh trƣởng ngƣời ta sử dụng 2 chỉ số đó là: Sinh trƣởng tuyệt đối và sinh trƣởng tƣơng đối. - Sinh trƣởng tuyệt đối là sự tăng lên về khối lƣợng, kích thƣớc của cơ thể trong khoảng thời gian giữa hai lần khảo sát (T.C.V.N 2, 39 – 77 [46]), sinh trƣởng tuyệt đối thƣờng tính bằng g/con/ngày hoặc g/con/tuần. Đồ thị sinh trƣởng tuyệt đối có dạng parabol. Giá trị sinh trƣởng tuyệt đối càng cao thì hiệu quả kinh tế càng lớn. - Sinh trƣởng tƣơng đối là tỷ lệ phần trăm tăng lên của khối lƣợng, kích thƣớc trong khoảng thời gian giữa hai lần khảo sát (T.C.V.N 2, 40 - 77 [47]). Đồ thị sinh trƣởng tƣơng đối có dạng hypebol. Gà còn non có tốc độ sinh trƣởng cao, sau đó giảm dần theo tuổi. Theo Trần Đình Miên, Nguyễn Kim Đƣờng, 1992 [31] cho biết có mối quan hệ ở cơ thể gia cầm giữa sinh trƣởng và một số tính trạng liên quan. Mối liên quan giữa sinh trƣởng và tốc độ mọc lông đã đƣợc xác định, cũng có mối liên quan giữa sinh trƣởng và hiệu quả sử dụng thức ăn. Để xác định toàn bộ quá trình sinh trƣởng một cách chính xác là rất khó khăn và phức tạp. Tuy nhiên trong chọn giống vật nuôi ngày nay, ngƣời ta cũng sử dụng các phƣơng pháp đơn giản và thực tế để đánh giá khả năng sinh trƣởng nhƣ: - Kích thƣớc các chiều đo: Kích thƣớc và khối lƣợng xƣơng có tầm quan trọng lớn đối với khối lƣợng cơ thể và hình dáng con vật, quan hệ giữa khối lƣợng thân, tốc độ lớn và chiều dài đùi, chiều dài xƣơng ngực với chất lƣợng thịt có tầm quan trọng đặc biệt. Kích thƣớc các chiều đo có liên quan rõ rệt với khối lƣợng cơ thể, độ dài chân có liên quan đến tính biệt. - Tốc độ sinh trƣởng: Tốc độ sinh trƣởng là cƣờng độ tăng các chiều cơ thể trong một khoảng thời gian nhất định. - Đƣờng cong sinh trƣởng: Đƣờng cong sinh trƣởng biểu thị sinh trƣởng của gia súc, gia cầm nói chung. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 Theo Chambers J. R, 1990 [66] đƣờng cong sinh trƣởng của gà thịt gồm 4 pha chính nhƣ sau: + Pha sinh trƣởng tích luỹ tăng tốc nhanh sau khi nở. + Điểm uốn của đƣờng cong tại thời điểm có sinh trƣởng cao nhất. + Pha sinh trƣởng có tốc độ giảm dần sau điểm uốn + Pha sinh trƣởng tiệm cận với giá trị khi gà trƣởng thành. Đồ thị sinh trƣởng tích luỹ biểu thị một cách đơn giản nhất về đƣờng cong sinh trƣởng. Đƣờng cong sinh trƣởng không những đƣợc sử dụng để chỉ rõ về khối lƣợng mà còn làm rõ về mặt chất lƣợng, sự sai khác giữa các dòng, giống, giới tính (Knizetova H. J, Hyanck, Knize. B and Roubicek. J, 1991[82]) Ở nƣớc ta, Nguyễn Đăng Vang, 1983 [56] khi nghiên cứu về đƣờng cong sinh trƣởng của ngỗng Rheinland từ sơ sinh đến 77 ngày tuổi thấy hoàn toàn phù hợp với quy luật sinh trƣởng của gia cầm nói chung. Trần Long và cộng sự, 1994 [23] khi nghiên cứu về đƣờng cong sinh trƣởng của các dòng gà A, V1, V3, trong giống gà Hybro (HV85) cho thấy đƣờng cong sinh trƣởng của cả bốn dòng đều phát triển đúng quy luật. Đƣờng cong sinh trƣởng của 3 dòng có sự khác nhau và trong mỗi dòng giữa gà trống và gà mái cũng có sự khác nhau: Sinh trƣởng cao ở 7 - 8 tuần tuổi đối với gà trống và 6 - 7 tuần tuổi đối với gà mái. - Tiêu tốn thức ăn: Tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lƣợng phản ánh quá trình chuyển hoá thức ăn để sinh trƣởng. Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lƣợng càng thấp thì hiệu quả kinh tế càng cao và ngƣợc lại. - Theo Bùi Đức Lũng và Lê Hồng Mận, 1993 [26] cho rằng để phát huy tối đa khả năng sinh trƣởng của gia cầm thì việc cung cấp thức ăn đầy đủ và tối ƣu các chất dinh dƣỡng, cân bằng protein, các axit amin và năng lƣợng là điều tối cần thiết. 1.1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới sinh trưởng Có rất nhiều yếu tố ảnh hƣởng đến sinh trƣởng của gà nhƣ giống, giới tính, tốc độ mọc lông, khối lƣợng bộ xƣơng, dinh dƣỡng và các điều kiện chăn nuôi, sức khoẻ… * Ảnh hưởng của dòng, giống: Theo tài liệu của Chambers J. R, 1990 [66] có nhiều gen ảnh hƣởng đến sinh trƣởng và phát triển của cơ thể gà. Có gen ảnh hƣởng đến sự phát triển Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 chung, có gen ảnh hƣởng đến sự phát triển nhiều chiều, có gen ảnh hƣởng theo nhóm tính trạng, có gen ảnh hƣởng tới một vài tính trạng riêng lẻ. Godfrey E. F và Joap R. G, 1952 [71] và một số tác giả khác cho rằng các tính trạng số lƣợng này đƣợc quy định bởi 15 cặp gen, trong đó ít nhất có một gen về sinh trƣởng liên kết giới tính (nằm trên nhiễm sắc thể X), vì vậy có sự sai khác về khối lƣợng cơ thể giữa con trống và con mái trong cùng một giống, gà trống nặng hơn gà mái 24 - 32%. Trần Thanh Vân, 2002 [57] khi nghiên cứu khả năng sản xuất thịt của gà lông màu Kabir, Lƣơng Phƣợng và Sasso cho biết: khối lƣợng cơ thể gà ở 10 tuần tuổi đạt lần lƣợt là 1990,28 g/con, 1993,27 g/con và 2189,29 g/con. Gà Tam Hoàng 882 ở 12 tuần tuổi khối lƣợng cơ thể đạt 1557,83 g/con (Nguyễn Thị Khanh, Trần Công Xuân và cộng sự, 2000 [19]) Mỗi giống có một khả năng sinh trƣởng nhất định, sự khác nhau về sinh trƣởng đó là do bản chất di truyền quy định. Đặc điểm di truyền của giống và ngoại cảnh có tác động qua lại với nhau, nghĩa là cùng một kiểu gen nhƣng ở các môi trƣờng khác nhau thì có sinh trƣởng khác nhau. Cho nên việc cần thiết là phải tạo ra môi trƣờng phù hợp với kiểu gen đó để phát huy tối đa tiềm năng di truyền của giống. Jaap và Moris, 1937 [79] đã phát hiện ra những sai khác trong cùng một giống về cƣờng độ sinh trƣởng. Theo Nguyễn Duy Hoan, Trần Thanh Vân, 1998 [13] cho biết, gà con ở 40 ngày tuổi khối lƣợng tăng gấp 10 lần so với lúc 01 ngày tuổi, trong khi đó vịt con chỉ cần có 20 ngày để tăng gấp 10 lần khối lƣợng so với lúc 01 ngày tuổi. Nguyễn Thị Thuý Mỵ, 1997 [33] khi nghiên cứu 3 giống gà AA , Avian và BE 88 nuôi tại Thái Nguyên cho thấy khối lƣợng cơ thể của 3 giống khác nhau ở 49 ngày tuổi là khác nhau, cụ thể lần lƣợt là: 2501,09g; 2423,28g; 2305,14g. Khảo sát khả năng sinh trƣởng của 3 dòng gà Plymouth Rock thì dòng TĐ9 có khả năng sinh trƣởng tốt nhất. Đến tuần tuổi thứ 8, dòng TĐ9 có khối lƣợng sống vƣợt dòng TĐ8 12,90% và vƣợt dòng TĐ3 17,40%, (Lê Hồng Mận và cộng sự, 1996 [30]) Theo Nguyễn Mạnh Hùng và cộng sự, 1994 [16] thì sự sai khác về khối lƣợng cơ thể giữa các giống gia cầm rất lớn, giống gà kiêm dụng nặng hơn gà hƣớng trứng từ 500 - 700g (13 - 30%). Nhƣ vậy, các nhà nghiên cứu đã chứng minh sự khác biệt về sinh trƣởng là do di truyền, mà cơ sở di truyền là do gen, có ít nhất một gen quy định khả năng sinh trƣởng liên kết với giới tính, cho nên con trống thƣờng lớn hơn con mái. Điều này chứng tỏ di truyền có ảnh hƣởng rất lớn đến quá trình sinh trƣởng của gia cầm. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 Theo Bùi Quang Tiến, 1993 [42] cho biết hệ số di truyền về tốc độ sinh trƣởng là 0,4 – 0,5. * Ảnh hưởng của tính biệt, tốc độ mọc lông đến sinh trưởng của gà + Tính biệt ảnh hưởng đến sinh trưởng: Rõ rệt nhất là ở gà do sự khác nhau về quá trình trao đổi chất, đặc điểm sinh lý và khối lƣợng cơ thể. Trần Đình Miên, 1994 [32] cho biết lúc gà mới nở gà trống nặng hơn gà mái 1%, tuổi càng tăng sự sai khác càng lớn, ở 8 tuần tuổi sự sai khác về khối lƣợng giữa gà trống và gà mái là: 27%. North M. O, Bell P. D, 1990 [86] cũng cho biết khối lƣợng gà con 1 ngày tuổi tƣơng quan dƣơng với khối lƣợng trứng giống đƣa vào ấp, song không ảnh hƣởng đến khối lƣợng cơ thể gà lúc thành thục và cƣờng độ sinh trƣởng ở 4 tuần tuổi. Lúc mới nở gà trống nặng hơn gà mái 1%, tuổi càng tăng sự khác nhau càng lớn , ở 2 tuần tuổi hơn 5%, 3 tuần tuổi 11% và 8 tuần tuổi hơn 27%. Nguyễn Thị Hải và cộng sự , 2006 [11] cho biết gà TĐ nuôi vụ Xuân - Hè ở 10 tuần tuổi có khối lƣợng cơ thể ở con trống 2616,33 g/con và ở con mái là 2214,48 g/con, khác nhau 18,15%. Tính biệt là một trong những yếu tố có ảnh hƣởng lớn đến khối lƣợng cơ thể của gà: Gà trống nặng hơn gà mái từ 24 – 32%. Những sai khác này cũng đƣợc biểu hiện ở cƣờng độ sinh trƣởng, đƣợc quy định không phải do hoocmon sinh học mà do các gen liên kết với giới tính. Tuy nhiên, sự sai khác về mặt sinh trƣởng còn thể hiện rõ hơn đối với các dòng phát triển nhanh so với các dòng phát triển chậm (Chambers J. R,1990 [66] ) Ở gà hƣớng thịt giai đoạn 60 - 70 ngày tuổi, con trống nặng hơn con mái 180 - 250g, (Nguyễn Duy Hoan, Trần Thanh Vân, 1998 [13]) Hoàng Toàn Thắng, 1996 [39] có khuyến cáo đối với ngƣời chăn nuôi: Đối với gia cầm, để đạt hiệu quả cao trong chăn nuôi gia cầm cần nuôi tách trống mái. + Ảnh hưởng của tốc độ mọc lông tới sinh trưởng: Những kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học xác định trong cùng một giống, cùng giới tính ở gà có tốc độ mọc lông nhanh có tốc độ sinh trƣởng, phát triển cao hơn gà mọc lông chậm. Kushner K. F, 1974 [21] cho rằng tốc độ mọc lông có quan hệ chặt chẽ tới tốc độ sinh trƣởng, thƣờng gà lớn nhanh thì mọc lông nhanh và đều hơn ở gà chậm mọc lông. Hayer J. F và cộng sự, 1970 [73] đã xác định trong cùng một giống thì gà mái mọc lông đều hơn gà trống và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 tác giả cho rằng ảnh hƣởng của hoocmon sinh trƣởng có tác dụng ngƣợc chiều với giới tính quy định tốc độ mọc lông. The Siegel P. B và Dumington E. D, 1978 [94] thì những alen quy định tốc độ mọc lông nhanh phù hợp với tăng khối lƣợng cao. * Ảnh hưởng của độ tuổi và mức độ dinh dưỡng đến sinh trưởng Khi nghiên cứu đến độ tuổi và mức độ dinh dƣỡng ảnh hƣởng đến sinh trƣởng của gà thì Chambers J. R, 1990 [66] cho biết: Sinh trƣởng là tổng số của sự phát triển các phần cơ thể nhƣ thịt, xƣơng, da. Tỷ lệ sinh trƣởng các phần này phụ thuộc vào độ tuổi, tốc độ sinh trƣởng và phụ thuộc vào mức độ dinh dƣỡng. Mức độ dinh dƣỡng không chỉ ảnh hƣởng tới sự phát triển các bộ phận khác nhau của cơ thể mà còn ảnh hƣởng tới sự phát triển của từng mô này đối với mô khác. Theo Bùi Đức Lũng, Lê Hồng Mận, 2003 [27] để phát huy đƣợc sinh trƣởng cần cung cấp thức ăn tối ƣu với đầy đủ chất dinh dƣỡng đƣợc cân bằng hợp lý giữa protein với năng lƣợng. Ngoài ra trong thức ăn hỗn hợp cho chúng còn đƣợc bổ sung hàng loạt các chế phẩm hóa sinh không mang theo‎ nghĩa dinh dƣỡng nhƣng có kích thích sinh trƣởng làm tăng chất lƣợng thịt. Nguyễn Thị Thúy Mỵ, 2006 [34] đã nghiên cứu ảnh hƣởng của các mức năng lƣợng và protein khác nhau cùng với tỷ lệ ME/CP khác nhau nhằm phát huy tốt đến khả năng sinh trƣởng của ngan Pháp nuôi tại Thái Nguyên. Trần Tố, 2007 [53] nghiên cứu ảnh hƣởng của tỷ lệ khác nhau giữa methionine và lysine trong khẩu phần đến sinh trƣởng của gà broiler Kabir cho biết đến 10 tuần tuổi lô có tỷ lệ methionine/lysine 40,5% cho sinh trƣởng tốt hơn các lô có tỷ lệ này bằng 45,5% và 35,5%. Theo Trần Công Xuân, 1995 [60] cho biết cùng tổ hợp lai broiler: Ross 208, Ross 208 - V35 nuôi ở 9 lô với 3 mức năng lƣợng và 3 mức protein, cho khối lƣợng ở 8 tuần tuổi khác nhau rõ rệt. Chế độ dinh dƣỡng ảnh hƣởng tới sự phát triển của từng mô khác nhau gây nên sự biến động trong quá trình phát triển và có sự khác nhau giữa mô này với mô khác. Chế độ dinh dƣỡng không những ảnh hƣởng tới sinh trƣởng mà còn làm biến động di truyền về sinh trƣởng. Tác giả Epym R. A và cộng sự, 1979 [68] cho biết: Dinh dƣỡng không chỉ cần thiết cho sinh trƣởng mà còn cần thiết để thể hiện khả năng di truyền của sinh trƣởng. Gà Broiler phát triển mạnh nên đòi hỏi lƣợng thức ăn tƣơng ứng để Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 phát huy tiềm năng di truyền của chúng. Chi phí thức ăn chiếm 70% giá thành gà Broiler, do vậy để có năng suất cao trong chăn nuôi gia cầm - đặc biệt phát huy tiềm năng sinh trƣởng, thì một trong những vấn đề căn bản là lập ra những khẩu phần dinh dƣỡng hoàn hảo, cân đối trên cơ sở đảm bảo nhu cầu của gia cầm qua từng giai đoạn nuôi. Lê Hồng Mận, Bùi Đức Lũng, Phạm Quang Hoán, 1993 [29] cho biết nhu cầu protein thích hợp cho gà Broiler cho năng suất cao đã đƣợc xác định. Để phát huy đƣợc khả năng sinh trƣởng tối đa cần phải cung cấp đầy đủ các chất dinh dƣỡng với sự cân bằng nghiêm ngặt giữa protein, axit amin với năng lƣợng. * Ảnh hưởng của môi trường chăm sóc nuôi dưỡng: Khả năng sinh trƣởng của gia cầm bị ảnh hƣởng rất lớn bởi yếu tố môi trƣờng và điều kiện chăm sóc nuôi dƣỡng. Khẩu phần ăn đầy đủ và cân đối các chất dinh dƣỡng, chăm sóc quản lý chu đáo sẽ có tác dụng tăng khả năng sinh trƣởng nâng cao năng suất chăn nuôi. + Ảnh hưởng của nhiệt độ môi trường: Nhiệt độ môi trƣờng ảnh hƣởng tới khả năng sinh trƣởng rất rõ rệt, đặc biệt là giai đoạn gà con. Với gà Broiler và gà hậu bị, nhiệt độ ngày thứ nhất cần đảm bảo 32 – 340C; ngày thứ 2 - 7 là 300C; tuần thứ hai là 260C; tuần thứ ba là 220C; tuần thứ tƣ là 200C. Theo Lê Hồng Mận và cộng sự, 1993 [29] thì nhiệt độ tối ƣu chuồng nuôi với gà con sau 3 tuần tuổi là 18 – 200C. Nhiệt độ ảnh hƣởng rất lớn tới nhu cầu năng lƣợng trao đổi (ME) và protein thô (CP) của gà Broiler, do vậy tiêu thụ thức ăn của gà chịu sự chi phối của nhiệt độ môi trƣờng. Trong điều kiện nhiệt độ khác nhau thì mức tiêu thụ thức ăn của gà cũng khác nhau. Theo Herbert G. J và cộng sự, (1983) [74] thì nhiệt độ chuồng nuôi có ảnh hƣởng tới gà sau 3 tuần tuổi nhƣ sau: Thay đổi 10C tiêu thụ năng lƣợng của gà mái biến đổi tƣơng đƣơng 2 Kcal ME, mà nhu cầu về năng lƣợng và các vật chất dinh dƣỡng khác nhau cũng bị thay đổi theo nhiệt độ môi trƣờng. Trong điều kiện khí hậu nƣớc ta, theo Bùi Đức Lũng, Lê Hồng Mận, 1993 [26] thì gà Broiler nuôi vụ hè cần phải tăng mức ME và CP cao hơn vụ xuân 10 - 15%. Wash Burn, Wetal K, (1992) [98] cho biết nhiệt độ cao làm gà sinh trƣởng chậm, tăng tỷ lệ chết, gây thiệt hại kinh tế lớn ở các khu vực chăn nuôi gà Broiler công nghiệp vùng khí hậu nhiệt đới. Nir I, 1992 [85] qua nghiên cứu đã chỉ ra rằng với nhiệt độ môi trƣờng 350C, ẩm độ tƣơng đối 66% đã làm giảm quá Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 trình tăng khối lƣợng cơ thể 30 - 35% ở gà trống, 20 - 30% ở gà mái so với điều kiện khí hậu thích hợp. Thông thƣờng khi nhiệt độ cao khả năng ăn của gia cầm giảm. Để khắc phục điều này đảm bảo khả năng sinh trƣởng của gà ngƣời ta đã sử dụng thức ăn cao năng lƣợng, tất nhiên, trên cơ sở cân bằng tỷ lệ ME/CP cũng nhƣ axit amin/ME và tỷ lệ khoáng, vitamin trong thức ăn cũng cần phải cao hơn để đảm bảo dinh dƣỡng mà gà tiếp nhận đƣợc không thấp hơn nhu cầu của chúng. Do đó, trong điều kiện khí hậu ở nƣớc ta, tuỳ theo mùa vụ, căn cứ vào nhiệt độ của từng giai đoạn, mà điều chỉnh mức ME và tỷ lệ ME/CP trong thức ăn và kỹ thuật chăm sóc nuôi dƣỡng cho phù hợp để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất trong chăn nuôi gia cầm nói chung và chăn nuôi gà thịt nói riêng. + Ảnh hưởng của ẩm độ và độ thông thoáng: Ẩm độ là yếu tố quan trọng ảnh hƣởng tới sự sinh trƣởng của gia cầm. Khi ẩm độ tăng làm cho chất độn chuồng dễ ẩm ƣớt, thức ăn dễ bị ẩm mốc làm ảnh hƣởng xấu tới gà. Đặc biệt là NH3 do vi khuẩn phân huỷ axit uric trong phân và chất độn chuồng, làm tổn thƣơng đến hệ hô hấp của gà, tăng khả năng nhiễm bệnh Cầu Trùng, Newcastle, CRD dẫn tới làm giảm khả năng sinh trƣởng của gà. Trong điều kiện nóng ẩm, mƣa nhiều nhƣ nƣớc ta, độ thông thoáng trong chuồng có vai trò quan trọng trong việc giúp gà có đủ O2, thải CO2 và các chất độc khác, nó giúp giảm ẩm độ chuồng nuôi, điều chỉnh nhiệt độ chuồng nuôi, qua đó hạn chế bệnh tật. Nhiệt độ cao cần có tốc độ lƣu thông khí khác nhau. Tốc độ lƣu thông khí cao đối với gà lớn và ngƣợc lại. Với các điều kiện khí hậu khác nhau phải có sự điều chỉnh độ thông thoáng cho phù hợp. Ing J. E. M. Whyte, 1995 [78] qua nghiên cứu đã cho ra khuyến cáo về thành phần tối đa của chất khí trong chuồng nuôi gia cầm nhƣ sau: NH3 = 0,01 g/m 3, H2S = 0,002 g/m 3, CO2 = 0,35 g/m 3. Ở nƣớc ta chủ yếu là nuôi thông thoáng tự nhiên nên cần đảm bảo ấm vào mùa đông và mát vào mùa hè. Về mùa hè khi nhiệt độ cao cần bố trí hệ thống quạt để tăng tốc độ gió để chống nóng cho gà. Mùa đông cần có thiết bị sƣởi ấm cho gà. Tốc độ gió lùa và nhiệt độ không khí có ảnh hƣởng tới sự tăng khối lƣợng của gà, gà con nhạy cảm hơn gà trƣởng thành. Đối với gà lớn cần tốc độ lƣu thông không khí lớn hơn gà nhỏ. + Ảnh hưởng của chế độ chiếu sáng: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 Gà rất nhạy cảm với ánh sáng, mỗi giai đoạn gà cần chế độ chiếu sáng khác nhau. Theo khuyến cáo của hãng Arbor Acer Farms Inc, 1993 [62]: - Với gà Broiler giết thịt sớm 38 - 42 ngày tuổi, thời gian chiếu sáng nhƣ sau: 3 ngày đầu chiếu sáng 24/24 giờ, cƣờng độ chiếu sáng 20 lux/m2, ngày thứ tƣ đến khi kết thúc thời gian chiếu sáng giảm xuống còn 23/24 giờ, cƣờng độ chiếu sáng còn 5 lux/m2. - Với gà Broiler nuôi dài ngày (giết thịt ở 42, 49, 56 ngày tuổi) thì chế độ chiếu sáng nhƣ sau: Ngày thứ 1: 24/24h; Ngày thứ 2: 20/24h; Ngày thứ 3 đến ngày thứ15: 12/24h; Ngày thứ 19 đến ngày thứ 22: 14/24h; Ngày thứ 23 đến ngày thứ 24: 18/24h ; Ngày thứ 25 đến kết thúc thì thời gian chiếu sáng: 24/24h. Cƣờng độ chiếu sáng 3 ngày đầu là 20 lux, từ ngày thứ tƣ đến kết thúc giảm dần còn 5 lux. Khi cƣờng độ chiếu sáng cao, gà hoạt động nhiều do đó làm giảm khả năng tăng khối lƣợng. Với chuồng nuôi thông thoáng tự nhiên, mùa hè cần phải che ánh nắng mặt trời chiếu thẳng vào chuồng, nhƣng vẫn đảm bảo thông thoáng, ánh sáng đƣợc phân bố đều trong chuồng và sử dụng bóng đèn có cùng công suất để tránh gà tụ tập vào nơi có ánh sáng mạnh hơn. + Ảnh hưởng của mật độ nuôi nhốt: Mật độ nuôi nhốt cũng là một yếu tố quan trọng để chăn nuôi gà đạt hiệu quả cao. Mỗi giai đoạn sinh trƣởng, mỗi phƣơng thức nuôi đều có quy định mật độ nuôi nhất định (phƣơng thức chăn thả tự do, bán nuôi nhốt, nuôi nhốt trên đệm lót dày, nuôi nhốt có sân chơi yêu cầu mật độ lần lƣợt: 0,1; 0,3; 0,35; 0,2 m2/con…). Nếu nuôi quá thƣa thì lãng phí diện tích, nhƣng nếu nuôi quá dày thì ảnh hƣởng lớn đến khả năng sinh trƣởng của gà. Bởi lẽ, khi mật độ nuôi nhốt cao thì chuồng nhanh bẩn, lƣợng khí thải NH3, CO2, H2S cao và quần thể vi sinh vật phát triển ảnh hƣởng tới khả năng tăng khối lƣợng và sức khoẻ của đàn gà, gà dễ bị cảm nhiễm bệnh tật, tỷ lệ đồng đều thấp, tỷ lệ chết cao, cuối cùng làm giảm hiệu quả trong chăn nuôi. Ngƣợc lại, mật độ nuôi nhốt thấp thì chi phí chuồng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 trại cao. Do vậy, tuỳ theo mùa vụ, tuổi gà và mục đích sử dụng cần có mật độ chăn nuôi thích hợp. Theo Lewis N. J, Hurnik J. F, 1990 [83] thì sự vận động của gà có ảnh hƣởng chủ yếu tới sức sản xuất, vì nó có liên quan đến sự đi tìm kiếm và sử dụng thức ăn, nƣớc uống. Ông thấy rằng gà broiler hoạt động suốt ngày và đi lại với khoảng cách trung bình là 8,8 m/giờ hay 212 m/ngày. Mật độ chuồng nuôi tăng đã làm giảm khoảng cách đi lại, nhƣng không ảnh hƣởng đến số trung bình của gà đi đến máng ăn (4 lần/giờ) và máng uống (2 lần/giờ). Gà Broiler có tốc độ sinh trƣởng cao, do đó nhu cầu dinh dƣỡng phải đảm bảo và điều kiện ngoại cảnh phải thích hợp, gà thích hợp nhất ở nhiệt độ 150C- 210C . Theo Van Horne P, 1991 [97]: Khi chăn nuôi gà ở mật độ cao thì hàm lƣợng NH3, CO2, H2S đƣợc sinh ra trong chất độn chuồng cao. Vì khi mật độ gà đông thì lƣợng bài tiết thải ra nhiều hơn, trong khi đó gà cần tăng cƣờng trao đổi chất nên lƣợng nhiệt thải ra cũng nhiều, do đó nhiệt độ chuồng nuôi tăng, nên sẽ ảnh hƣởng đến việc tăng khối lƣợng gà và làm tăng tỷ lệ chết khi mật độ chuồng nuôi quá cao cùng nhiệt độ không khí cao. Shanawary M. M, 1958 [93] đã làm thí nghiệm liên tục, 4780 gà Broiler đƣợc nuôi ở mật độ chuồng nuôi cao. Ở thí nghiệm thứ nhất: Mật độ chuồng nuôi 10, 20, 30, 40 và 50 con/m2 đƣợc nuôi đến 6 tuần tuổi. Ở thí nghiệm thứ hai, mật độ chuồng nuôi 20, 40 và 50 con/m2, đƣợc nuôi để so sánh. Hai mật độ cao hơn đƣợc giảm tới 30 con/m2 ở 3 và 5 tuần tuổi. Kết quả ở 6 tuần tuổi, thí nghiệm 1 khối lƣợng cơ thể là một hàm cong đối với mật độ chuồng nuôi. Trung bình tiêu tốn thức ăn trên tất cả các giai đoạn thí nghiệm là một đƣờng suy giảm so với mật độ trên 20 con/m2. Sự giảm mật độ chuồng nuôi từ 40 hoặc 50 con/m2 xuống 30 con/m2 ở tuần tuổi thứ 3 đã làm tăng tiêu tốn thức ăn, tăng khối lƣợng và dẫn đến sự hồi phục khối lƣợng cơ thể của gà ở tuần tuổi thứ 6. Không có sự khác nhau lớn nhƣ tỷ lệ chết của mật độ chuồng nuôi cao ở thí nghiệm khác. Lãi xuất mỗi m2 tăng lên hầu hết ở thí nghiệm thứ nhất bằng khoảng 65 xu (tiền A Rập) cho mỗi gà/ m2, khi tăng ở mật độ chuồng nuôi. Theo Beremski Ch, 1978 [63] thí nghiệm nuôi 4 nhóm gà Broiler trên nền chuồng có đệm lót, ở mật độ là 20, 22, 18 và 16 con/m2; ở giai đoạn 6, 7, 8 tuần tuổi, với cùng thức ăn hỗn hợp. Mật độ chuồng nuôi đã không ảnh hƣởng đến chỉ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 số so sánh các sản phẩm lúc 7 tuần tuổi. Tỷ lệ tăng trƣởng giảm theo sự tăng mật độ đàn ở giai đoạn vỗ béo lúc 8 tuần tuổi, tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lƣợng và chỉ số thịt xẻ không bị ảnh hƣởng lúc 6, 7, 8 tuần tuổi bởi mật độ đàn. Tăng mật độ nuôi lúc 6 đến 8 tuần tuổi đã làm giảm sự tăng trƣởng nhƣng tăng sản phẩm thịt trên đơn vị diện tích nền chuồng bằng 7,0 tới 9,3% ở tuần tuổi 6, 7 và đến 20,7% ở tuần tuổi 8. Nhiều tác giả cũng đƣa ra khuyến cáo: Nuôi gà Broiler ở mật độ nuôi từ 11 con/m2 - 12 con/m2 là thích hợp, nếu nuôi ở mật độ cao thì tỷ lệ chết cũng cao và khối lƣợng cơ thể giảm, đặc biệt nuôi trên 14 con/m2 - 15 con/m2. Khi làm thí nghiệm trên gà Broiler BE11, V35, AV35 từ 1 - 49 ngày tuổi nuôi nhốt với mật độ khác nhau, các tác giả Nguyễn Hữu Cƣờng và Bùi Đức Lũng, 1996 [3] có kết quả nhƣ sau: - Với gà BE11, V35 nuôi vụ Hè và vụ Đông. + Tỷ lệ nuôi sống lô I mật độ 8 con/m2 cho kết quả cao nhất đạt 97,5%, thấp nhất ở lô II có mật độ 14 con/m2 là 92,86%. + Tiêu tốn thức ăn/ kg tăng khối lƣợng ở lô I cho kết quả tốt hơn (2,05 kg) so với lô II (2,11 kg). + Hiệu quả kinh tế/1m2 chuồng: Lô I: Mùa hè = + 38.130đ Mùa đông = + 32.500đ Lô II: Mùa hè = - 62.060đ Mùa đông = + 12.330đ Tác giả có khuyến cáo mùa hè mật độ tối ƣu là 8 con/m2, mùa đông mật độ tối ƣu là 10 con/m2 nền chuồng, đối với gà Broiler. Theo khuyến cáo của hãng AborAcres, 1995 [62] thì mật độ nhốt tối đa cho gà Broiler nhƣ sau: Khối lƣợng sống trung bình khi xuất bán (kg) Mật độ gà/m2 Chuồng nuôi điều khiển đƣợc tiểu khí hậu Chuồng nuôi thông thoáng tự nhiên 1,0 33 22 1,5 22 15 1,8 18 12 2,0 17 11 2,5 14 9 3,0 11 7 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 + Ảnh hưởng của mật độ bãi thả Trong chăn nuôi gà Broiler mật độ bãi thả có vai trò khá quan trọng. Nếu mật độ chuồng nuôi cao, không có bãi thả thì chuồng nhanh bẩn, gà chen nhau, hàm lƣợng khí NH3, CO2 trong chuồng cao, làm giảm khả năng thu nhận thức ăn, ảnh hƣởng tới độ đồng đều của đàn gà, làm tăng tỷ lệ chết, dễ gây bệnh dịch cho gà làm chất lƣợng thịt không ngon, làm giảm hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi. Mật độ bãi thả có liên quan đến sự kiếm đƣợc thức ăn và nƣớc uống trong tự nhiên, tới khả năng vận động của gà broiler để thịt gà săn chắc và thơm ngon phù hợp với khẩu vị của ngƣời tiêu dùng. Vì vậy, mật độ bãi thả có ảnh hƣởng tới sức sản xuất, lợi nhuận của nhà chăn nuôi. Khi chăn nuôi các giống gà thả vƣờn cần chú ý đến những đặc điểm sinh lý của gà để từ đó điều chỉnh các chỉ tiêu kĩ thuật cho phù hợp, để gia cầm thích nghi đƣợc với những thay đổi của nhiệt độ môi trƣờng. Gà càng lớn, lƣợng khí độc và độ nhiễm bẩn trong chuồng càng cao, trong khi đó lƣợng oxy yêu cầu càng nhiều, vì vậy hệ thống thông thoáng trong chuồng nuôi và mật độ bãi thả cần đảm bảo. Với phƣơng thức nuôi thả vƣờn, Lê Thanh Hải và cộng sự, 1995 [9] cho biết: Với mô hình nuôi thả vƣờn thì diện tích chăn thả thích hợp cho gà từ 4 – 5 m2/con Từ ảnh hƣởng của mật độ nuôi nhốt và mật độ bãi thả tới sinh trƣởng của gia cầm, vậy thì phƣơng thức nuôi cũng ảnh hƣởng tới sinh trƣởng của gia cầm. Theo Trần Thanh Vân, Đoàn Xuân Trúc và Nguyễn Thị Hải, 2007 [58]: Khi nghiên cứu ảnh hƣởng của phƣơng thức nuôi tới khả năng sinh trƣởng của gà Sasso thƣơng phẩm có kết quả nhƣ sau : Vụ đông 10 tuần tuổi lô nuôi nhốt gà có khối lƣợng bình quân là 2645,98g, lô bán nuôi nhốt đạt 2473,39g. Ở vụ Xuân – Hè thì lúc 10 tuần tuổi có khối lƣợng cơ thể là 2415,40g ở lô nuôi nhốt và 2291,46g ở lô bán nuôi nhốt . Tuy nhiên, sai khác về sinh trƣởng tích luỹ của 2 phƣơng thức nuôi tính riêng trống, mái hay tính chung cũng chƣa thấy sai khác có ý nghĩa thống kê. Điều này cũng cho thấy, gà Sasso khi nuôi bán chăn thả không vận động nhiều. Nhƣ vậy sinh trƣởng liên quan chặt chẽ tới giống, điều kiện chăm sóc nuôi dƣỡng, tiểu khí hậu chuồng nuôi, phòng bệnh. Ở nƣớc ta điều kiện khí hậu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 ở 2 vụ Hè và vụ Đông khác nhau gây ảnh hƣởng tới sinh trƣởng. Nhiệt độ cao làm cho khả năng thu nhận thức ăn giảm dẫn đến tăng khối lƣợng kém. 1.1.3. Khả năng chuyển hóa thức ăn và các yếu tố ảnh hưởng Trong chăn nuôi nói chung và chăn nuôi gia cầm nói riêng, việc tạo ra giống mới có năng suất cao thì chƣa đủ, mà còn phải tạo ra nguồn thức ăn giàu chất dinh dƣỡng phù hợp với đặc tính sinh lý, phù hợp với mục đích sản xuất của từng giống, dòng và phù hợp với từng giai đoạn phát triển của vật nuôi. Gia cầm cũng giống nhƣ tất cả các loài vật nuôi khác, chúng đều là sinh vật tự dƣỡng, không có khả năng tổng hợp các chất hữu cơ cần thiết cho sự sống nhƣ: protein, gluxit, lipid... từ những chất vô cơ đơn giản nhƣ sinh vật dị dƣỡng, nhu cầu về các chất hữu cơ này của cơ thể gia cầm chỉ có thể đƣợc đáp ứng thông qua thức ăn nhờ quá trình tiêu hóa, hấp thu của hệ tiêu hóa. Trong chăn nuôi ngoài việc tạo ra các giống mới có năng suất cao thì các nhà chăn nuôi cần phải chú ý ‎tới nguồn thức ăn cân bằng đầy đủ các chất dinh dƣỡng phù hợp với đặc tính sinh vật học của gia cầm và phù hợp với mục đích sản xuất của từng giống, dòng, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của cơ thể, mà vẫn đảm bảo đƣợc các chỉ tiêu về kinh tế, vì chi phí cho thức ăn thƣờng chiếm tới 70% giá thành sản phẩm. Để đánh giá về vấn đề này ngƣời ta đƣa ra chỉ tiêu: “Tiêu tốn thức ăn cho một kg tăng khối lƣợng”. Tiêu tốn thức ăn trên kg tăng khối lƣợng càng thấp thì hiệu quả kinh tế càng cao và ngƣợc lại. Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lƣợng là tỷ lệ chuyển hoá thức ăn để đạt đƣợc 1 kg thịt với gà Broiler tiêu tốn thức ăn chủ yếu dùng cho việc tăng khối lƣợng. Nếu tăng khối lƣợng càng nhanh thì cơ thể đồng hoá, dị hoá tốt hơn, khả năng trao đổi chất cao, do vậy hiệu quả sử dụng thức ăn cao dẫn đến tiêu tốn thức ăn thấp. Tiêu tốn thức ăn trên một đơn vị sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật quan trọng. Tiêu tốn thức ăn chính là hiệu suất giữa thức ăn/kg tăng khối lƣợng, chỉ tiêu này càng thấp thì hiệu quả kinh tế càng cao. Bằng thực nghiệm đã chứng minh tiêu tốn thức ăn cho tăng khối lƣợng phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố nhƣ: Giống, tuổi, tính biệt, mùa vụ, chế độ chăm sóc nuôi dƣỡng cũng nhƣ tình hình sức khỏe của đàn gia cầm. Theo Phùng Đức Tiến, 1996 [44], hệ số tƣơng quan di truyền giữa khối lƣợng cơ thể và tăng khối lƣợng với tiêu tốn thức ăn thƣờng rất cao đƣợc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 Chambers J. R (1984) xác định là (0,5 - 0,9). Tƣơng quan giữa sinh trƣởng và chuyển hoá thức ăn là tƣơng quan âm từ (-0,2 đến -0,8). Willson S. P, 1969 [99] xác định hệ số tƣơng quan giữa khả năng tăng khối lƣợng cơ thể và hiệu quả chuyển hóa thức ăn từ 1 - 4 tuần tuổi là r = -1 đến +1. Hiệu quả sử dụng thức ăn liên quan chặt chẽ đến sinh trƣởng. Nguyễn Thị Hải và cộng sự, 2006 [11] cho biết gà broiler TĐ nuôi vụ Xuân - Hè đến 10 tuần tuổi tiêu tốn hết 2,20 kg thức ăn ở lô nuôi nhốt và lô bán nuôi nhốt là 2,32 kg thức ăn. Trần Công Xuân, Nguyễn Huy Đạt, 2006 [61] khi nghiên cứu chọn tạo một số dòng gà chăn thả Việt Nam năng suất và chất lƣợng cao đã đƣa ra kết luận. Tổ hợp lai ¾ máu Lƣơng Phƣợng và ¼ máu Sasso X44 tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lƣợng từ 2,54 - 2,68 kg. Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lƣợng phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có độ tuổi: con vật còn non thì chỉ tiêu này thấp, càng về sau chỉ tiêu này càng cao hơn. Bùi Đức Lũng, 1992 [25] cho biết gà lai V135 tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lƣợng ở các độ tuổi nhƣ sau: 4 tuần tuổi là 1,91; 5 tuần là 1,98; 6 tuần là 2,01; 7 tuần là 2,13; 8 tuần là 2,26 kg. Theo Phan Sỹ Điệt, 1990 [8] khi nuôi gà broiler Ross - 208 ở 6 tuần tuổi với các mức năng lƣợng khác nhau cho tiêu tốn thức ăn 1,88 - 2,2 kg. Sinh trƣởng nhanh và tiêu tốn thức ăn thấp luôn là mục tiêu của nhiều công trình nghiên cứu về lai tạo giống gia cầm. 1.1.4. Khả năng cho thịt, chất lượng thịt và các yếu tố ảnh hưởng Song song với khả năng sinh trƣởng, sức sản xuất thịt là một đặc điểm kinh tế quan trọng bậc nhất trong chăn nuôi gia cầm. Khả năng sản xuất thịt của gà Broiler chính là khả năng tạo nên khối lƣợng hệ cơ ở độ tuổi giết thịt đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Khả năng sản xuất thịt của gà broiler đƣợc tính trên hai góc độ là năng suất thịt và chất lƣợng thịt. 1.1.4.1. Năng suất thịt Năng suất thịt phụ thuộc vào khối lƣợng cơ thể, mà tính trạng này lại phụ thuộc vào kích thƣớc các chiều đo cơ thể (dài lƣờn, rộng ngực, dài đùi…). Năng suất thịt có thể biểu thị bằng tỷ lệ thịt xẻ, tỷ lệ giữa các bộ phận nhƣ: Nạc, mỡ, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23 da. Ở gà broiler các tỷ lệ thƣờng đƣợc tính là: Tỷ lệ thịt xẻ, tỷ lệ cơ đùi, tỷ lệ cơ ngực và tỷ lệ mỡ bụng. Năng suất thịt cao hay thấp còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau nhƣ: Giống, dòng, điều kiện chăm sóc nuôi dƣỡng, tính biệt, phƣơng thức chăn nuôi, vệ sinh thú y… Tỷ lệ thịt xẻ chính là tỷ lệ phần trăm của khối lƣợng thân thịt so với khối lƣợng sống của gia cầm. Tƣơng tự nhƣ vậy năng suất của các thành phần thân thịt là tỷ lệ phần trăm của các phần so với thân thịt và năng suất của cơ là tỷ lệ phần trăm của cơ so với thân thịt (Chambers J. R, 1990 [66]) đã tổng hợp trên nhiều loại gia cầm và đƣa ra tỷ lệ các phần của thân thịt nhƣ sau: Khối lƣợng sống của gia cầm 100% thì khối lƣợng thân thịt chiếm khoảng 64% (trong đó 52% là thịt và 12% là xƣơng); Phủ tạng chiếm khoảng 6%; máu, lông, đầu, chân, ruột chiếm khoảng 17% và tỷ lệ hao hụt khi giết mổ chiếm 13%. Năng suất thịt liên quan chặt chẽ tới khối lƣợng sống. Theo Ricard F. H và Rouvier, 1976 [87] thì mối tƣơng quan giữa khối lƣợng sống và khối lƣợng thịt xẻ rất cao thƣờng là 0,9. Còn tƣơng quan giữa khối lƣợng sống và khối lƣợng mỡ bụng thấp hơn, thƣờng là 0,2 – 0,5. Kết quả nghiên cứu của Rose S. P, 1997 [90] về tỷ lệ các phần thân thịt của 1 gà thƣơng phẩm 1,8 kg nhƣ sau: Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất thịt: * Ảnh hưởng của di truyền: Hình 1.1. Tỷ lệ các phần thân thịt của gà thƣơng phẩm Tỷ lệ hao hụt do giết mổ (26,3% Thịt cánh và thịt khác (11,9%) Thịt đùi (15,7%) Thịt lƣờn (13,95) Da (10,5%) Xƣơng (16,2%) Mỡ (1,6%) Tim, gan, mề (3,9%) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 Năng suất thịt ở các dòng, giống khác nhau thì cho năng suất khác nhau và mang di truyền đặc trƣng riêng. Chambers J. R, 1990 [66] đã chỉ rõ giữa các giống, dòng gà khác nhau tồn tại sự sai khác di truyền về năng suất thịt xẻ, các phần của thân thịt. Kết quả này cũng phù hợp với kết quả của Singh R. A, 1992 [95], Trần Thanh Vân, 2002 [57], Đào Văn Khanh, 2004 [18], Lê Thị Nga, 2005 [36]. Ristic M và Klein H. F, 1987 [100] nghiên cứu trên gà broiler (Lohmann meat) và gà đẻ Lohmann brown và Warren brown, khi khối lƣợng cơ thể đạt 1450g sau một thời gian nuôi khác nhau (38 – 42) ngày ở gà broiler, 80 ngày ở gà Lohmann brown và 83 ngày gà Warren brown kết quả nghiên cứu còn cho thấy có sự sai khác đáng kể về tỷ lệ đùi và lƣờn , còn tỷ lệ thân thịt thì ở gà broiler cao hơn 4,3% so với gà đẻ. * Ảnh hưởng của tính biệt và tuổi gia cầm đến năng suất thịt: Ở tất cả các giống gia cầm, tuổi giết mổ và tính biệt có ảnh hƣởng rất lớn đến năng suất thịt. Nhìn chung tỷ lệ thân thịt chỉ tăng đến một độ tuổi nhất định nào đó. Tỷ lệ thân thịt ở gia cầm trống và mái cũng khác nhau (tỷ lệ thịt ức ở gà mái thƣờng cao hơn ở gà trống). Rất nhiều nghiên cứu cho rằng tỷ lệ thân thịt ở gia cầm dòng thịt tăng lên theo tuổi, tuổi gia cầm càng cao, tỷ lệ này càng cao. Mặt khác, khi tuổi gia cầm càng tăng, tỷ lệ đùi, lƣờn càng tăng và tuổi giết mổ gia cầm còn ảnh hƣởng đến độ ngon của thịt, Touraille C và cộng sự, 1981 [96]. Các tác giả trong nƣớc cũng có những khẳng định nhƣ sau : Ngô Giản Luyện, 1994 [28] khi nghiên cứu 3 dòng gà Hybro HV85, mổ khảo sát ở 40 ngày tuổi cho biết về tỷ lệ thân thịt đánh giá năng suất thịt của 3 dòng gà trên nhƣ sau: Tỷ lệ thân thịt con trống V1 > V5 > V3 (p<0,05), con mái: V1> V5 > V3 (p<0,001). Trong cùng một dòng gà thân thịt con trống cao hơn con mái 1% - 2% trong khi tỷ lệ thịt ngực của con mái lại cao hơn. Đỗ Xuân Tăng, 1980 [38] lại có nhận xét nhƣ sau: Tỷ lệ thịt đùi của gà trống thƣờng cao hơn gà mái, còn tỷ lệ thịt ngực ở gà mái cao hơn gà trống, hàm lƣợng protein ở thịt gà mái lớn hơn gà trống, sự tích luỹ protein ở gà mái dài đến 90 ngày tuổi sau đó giảm đi theo sự già nua của cơ thể. Theo Đào Văn Khanh, 2000 [17] thì: Ở 63 ngày tuổi gà broiler Tam Hoàng có tỷ lệ thịt xẻ cao nhất (trống: 79,20%, mái 78,61%), càng về các giai Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 đoạn sau tỷ lệ thịt xẻ có xu hƣớng giảm dần, lúc 84 ngày tuổi con trống đạt 70,26%, con mái đạt 70,11%. Ngƣợc lại tỷ lệ cơ ngực và cơ đùi lại có chiều hƣớng tăng lên ở các giai đoạn tuổi sau, thấp nhất lúc 70 ngày tuổi và đạt cao nhất lúc 84 ngày tuổi (trống đạt 40,30%, mái đạt 38,59%). Tỷ lệ mỡ bụng của cả gà trống và gà mái đều có xu hƣớng tăng dần theo tuổi và đạt cao nhất ở ngày tuổi 77 và 84. Năng suất thịt còn liên quan đến mức độ tiêu tốn thức ăn để sản xuất 1kg thịt và giá trị kinh tế của sản phẩm, nên thời điểm giết mổ cùa gà broiler nói chung tốt nhất vào giai đoạn khi tốc độ tăng khối lƣợng cơ thể giảm thấp. Hầu hết gà broiler đƣợc giết mổ trong giai đoạn 35 - 49 ngày tuổi cho hiệu quả kinh tế cao nhất và có tỷ lệ mỡ bụng thấp nhất. Kết quả nghiên cứu của Ristic M và Klein H. F, 1987 [100] khi so sánh các giống gà hƣớng thịt ở 38 - 42 ngày tuổi và gà hƣớng sản xuất trứng 80 - 83 ngày tuổi có cùng khối lƣợng cơ thể 1450g, cho thấy hàm lƣợng mỡ bụng ở gà hƣớng thịt cao hơn gà hƣớng trứng (Lohmann brown, Warren brown) là 0,4 – 1,0%. Nhìn chung, ở tất cả các giống gia cầm, hàm lƣợng mỡ bụng và mỡ trong thịt ở gia cầm mái bao giờ cũng cao hơn ở gia cầm trống, hƣớng thịt cao hơn hƣớng trứng. Ảnh hƣởng của giới tính đến năng suất thịt ở một số giống gia cầm thể hiện qua nghiên cứu của (Brake J và cộng sự, 1993 [64]), 8 tuần tuổi tỷ lệ thịt lƣờn ở gà trống nuôi thịt thấp hơn ở gà mái là 2,5%, trong khi đó tỷ lệ đùi (cả xƣơng) không có sự sai khác đáng kể. Ở tuần tuổi 12 tỷ lệ thịt lƣờn gà trống thấp hơn gà mái là 1,7%, nhƣng tỷ lệ đùi (cả xƣơng) ở gà trống lại cao hơn gà mái là 1,4%. Kết quả trên phù hợp với kết quả nghiên cứu của Trần Thanh Vân, 2002 [57]; Đoàn Xuân Trúc, 2006 [54]; Đào Văn Khanh, 2004 [18]; Lê Thị Nga, 2005 [36]; Nguyễn Thị Hải, 2006 [10]. Các tác giả này cho biết trong cùng một loại gà, tỷ lệ thịt xẻ của gà trống lớn hơn gà mái từ 1 - 2%, trong khi đó tỷ lệ thịt lƣờn của gà mái lại cao hơn gà trống. - Hệ số di truyền về tỷ lệ thân thịt và năng suất thịt của gà Để xác định ảnh hƣởng của yếu tố di truyền đến tính trạng năng suất thịt của gà, ngƣời ta sử dụng các tham số hệ di truyền và tƣơng quan di truyền. Các nghiên cứu về hệ số di truyền của các tính trạng này cho đến nay vẫn chƣa nhiều. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26 Bảng 1.1. Hệ số di truyền các tính trạng về khả năng cho thịt ở gà Tính trạng h2 Tác giả Giống gà Năng suất thịt 0,14 0,32 Muir & Goodmann, 1964 [96] Athen-Canadian Năng suất thịt 0,29 Goodmann, 1973 [81] Athen-Canadian Tỷ lệ hao hụt thân thịt Tỷ lệ lƣờn Tỷ lệ đùi Tỷ lệ đầu Tỷ lệ chân 0,16 0,53 0,72 0,33 0,87 Ricard & Rouvier, 1969 Bresse Pile Trong nghiên cứu của mình trên cùng nhóm gà thịt từ hai dòng tổng hợp và con lai của chúng, Davis G. J và Hutto D. C, 1953 [67] đã tìm thấy: Năng suất thịt lƣờn và số đo góc ngực có tƣơng quan (+) Khối lƣợng cơ thể và tỷ lệ thịt xẻ cũng có tƣơng quan (+) 1.1.4.2. Chất lượng thịt Chất lƣợng thịt đƣợc phản ánh thông qua thành phần hoá học của thịt. Thành phần hoá học của thịt gia súc gồm: Protein, lipit, đƣờng, vitamin, men, khoáng, nƣớc. So với thịt gia súc, thịt gia cầm có hàm lƣợng các chất dinh dƣỡng cao hơn do đó độ đồng hoá khi sử dụng thịt gia cầm cũng cao hơn thịt gia súc. Thịt gà, từ xa xƣa đã đƣợc coi là nguồn thực phẩm có giá trị dinh dƣỡng cao. Khác với các loài động vật khác, thịt gà đƣợc tiêu thụ ở hầu hết các quốc gia, tôn giáo, tín ngƣỡng trên thế giới… Tất cả các sản phẩm từ thịt gà nói riêng và thịt gia cầm nói chung đều dễ tiêu hóa và đƣợc ƣa chuộng trên thị trƣờng. Sản lƣợng thịt và trứng gia cầm chiếm 10% tổng sản lƣợng thịt và trứng sản xuất ra mỗi năm trên toàn thế giới. Thịt gia cầm chiếm 20% tổng sản phẩm thịt trên thị trƣờng thế giới. Tính riêng Châu Á năm 2007 sản xuất 27,5 triệu tấn, chiếm 32% so với thế giới. Trong xã hội hiện đại ngày nay, nhu cầu dinh dƣỡng của con ngƣời, ngoài tính ngon miệng, vấn đề tỷ lệ protein và sự phân bố hợp lý của chúng trong thực phẩm đang đƣợc đặc biệt chú trọng - thịt gà đã đáp ứng đƣợc yêu cầu đó. Chính Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27 vì vậy, mà khuynh hƣớng sử dụng thịt gà ngày càng tăng. Thịt gà không chỉ chứa hàm lƣợng protein cao, mà hàm lƣợng vitamin, khoáng cũng lớn. Hàm lƣợng mỡ thấp, nhƣng lại chứa đầy đủ các acid béo cần thiết (thịt gà chứa hầu hết các loại acid béo no và không no). Khái niệm về phẩm chất thịt gà Goodmann, 1973 [72] đã định nghĩa nhƣ sau: “Phẩm chất thịt chính là tổng của các yếu tố về cảm quan , sinh lý ‎ dinh dưỡng, vệ sinh, an toàn, độc tố và kỹ thuật chế biến”. Thành phần hóa học, cảm quan và mức độ đáp ứng các tiêu chuẩn vệ sinh cũng nhƣ giá trị dinh dƣỡng phản ánh chất lƣợng thịt của gia súc, gia cầm. Chất lƣợng thịt đƣợc quyết định bởi nhiều yếu tố nhƣ: Loài, giống, dòng, kỹ thuật chăm sóc nuôi dƣỡng, đặc điểm bệnh tật và quy trình vệ sinh thú y áp dụng đối với gia súc, gia cầm. Ngoài ra, chất lƣợng thịt còn chịu ảnh hƣởng của mùa vụ, trạng thái sức khỏe của gia cầm, stress và các chất tồn dƣ cũng nhƣ phƣơng pháp nuôi dƣỡng. Gà thả vƣờn bao giờ cũng có chất lƣợng thịt tốt hơn gà nuôi nhốt. Tuy nhiên, ở mỗi một dòng, giống, lứa tuổi, phƣơng thức chăn nuôi…khác nhau thì chất lƣợng thịt cũng khác nhau. Nhƣ: Con lai có sự vƣợt trội về hàm lƣợng vật chất khô và protein so với dòng thuần, trong cùng một giống, gà trƣởng thành có tỷ lệ phần ăn đƣợc, tỷ lệ mỡ và trị số calo cao hơn so với gà broiler, nhƣng tỷ lệ protein thì ngƣợc lại (Nguyễn Duy Hoan, Bùi Đức Lũng, Nguyễn Thanh Sơn, Đoàn Xuân Trúc, 1998 [12]) Với ngƣời tiêu dùng có thể đánh giá chất lƣợng thịt thông qua mùi vị, độ ngọt, mềm và độ cứng của thịt. Một số nghiên cứu về chất lƣợng thịt của nhiều tác giả đã có các kết luận nhƣ sau: Theo Chambers J. R, 1990 [66] cho biết thịt của các dòng gà khác nhau thì có sự sai khác nhau về tỷ lệ vật chất khô, protein, mỡ. Tác giả đã nghiên cứu về thành phần thịt xẻ trên 2 giống gà Cornish và Plymouth rock thấy: Thịt xẻ gà Plymouth rock có 2 - 4% mỡ, vật chất khô cao hơn các giống gà khác có tỷ lệ protein, độ ẩm tƣơng đƣơng nhau. Cũng theo Nguyễn Duy Hoan, Bùi Đức Lũng, Nguyễn Thanh Sơn, Đoàn Xuân Trúc, 1998 [12] cho biết: Khi nghiên cứu đặc điểm của tổ chức cơ của dòng thuần và con lai, thấy có sự vƣợt trội về hàm lƣợng vật chất khô và protein của con lai so với dòng thuần, trong cùng một giống, gà trƣởng thành có tỷ lệ phần ăn đƣợc, tỷ lệ mỡ và trị số calo cao hơn so với gà Broiler từ 1 - 3%, nhƣng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28 tỷ lệ protein thì ngƣợc lại. Đặc biệt gà broiler đƣợc tạo nên từ 2, 3 hoặc 4 dòng thì điều này rất rõ rệt. Đa số các nhà nghiên cứu đều công nhận rằng: Giữa chất lƣợng thịt và năng suất thịt có mối quan hệ nghịch, thƣờng các giống có năng suất cao thì chất lƣợng thịt kém. 1.1.5. Sức sống và khả năng kháng bệnh Sức sống của gia cầm là một tính trạng số lƣợng, nó đặc trƣng cho từng giống, từng dòng, từng cá thể. Trong cùng một giống sức sống của mỗi dòng khác nhau là khác nhau, các cá thể khác nhau trong cùng một dòng cũng có sự khác nhau, nhƣng nằm trong giới hạn nhất định của phẩm giống. Sức sống của vật nuôi đƣợc xác định thông qua khả năng chống đỡ bệnh, khả năng thích nghi với điều kiện môi trƣờng. Ngƣời ta thông qua tỷ lệ nuôi sống để đánh giá sức sống của vật nuôi trong giai đoạn khảo nghiệm. Ví dụ từ sơ sinh đến khi giết mổ hoặc loại thải. Tỷ lệ sống của gà con khi nở là chỉ tiêu chủ yếu đánh giá sức sống của gia cầm, ở giai đoạn hậu phôi, sự giảm sức sống đƣợc thể hiện ở tỷ lệ chết cao qua các giai đoạn sinh trƣởng (Brandschm H, Bichel H, 1978 [2]). Tỷ lệ sống đƣợc xác định bằng tỷ lệ phần trăm số cá thể còn sống ở một giai đoạn, so với các cá thể ở giai đoạn trƣớc. Sự giảm sức sống ở giai đoạn hậu phôi có thể do sự có mặt của các gen nửa gây chết, nhƣng phần lớn là do tác động của môi trƣờng (Brandsch H, Bichel H, 1978 [2]). Có thể nâng cao tỷ lệ sống bằng các biện pháp nuôi dƣõng tốt, vệ sinh tiêm phòng kịp thời. Các giống vật nuôi nhiệt đới có khả năng chống bệnh truyền nhiễm, bệnh ký sinh trùng cao hơn các giống vật nuôi xứ lạnh. Tỷ lệ nuôi sống của gia cầm non trong điều kiện bình thƣờng đạt khoảng 90%, nhƣng cũng có những dòng gà tỷ lệ nuôi sống có thể lên tới 98 - 99%. Theo kết quả nghiên cứu của Bùi Quang Tiến, Trần Công Xuân, Phùng Đức Tiến, 2005 [43]: Cho biết tỷ lệ nuôi sống từ 0 - 140 ngày tuổi của các dòng gà chuyên thịt HE - Ross 208 đạt từ 95 - 98%. Ngoài các yếu tố giống, thức ăn, kỹ thuật, chăm sóc, thì sức sống và khả năng sinh trƣởng phát triển của gia cầm chịu tác động trực tiếp của các yếu tố ngoại cảnh nhƣ nhiệt độ, ẩm độ, độ thông thoáng và chiếu sáng. Những yếu tố này tác động gây ảnh hƣởng xấu tới sức đề kháng của cơ thể, dễ gây hiện tƣợng stress làm giảm sức sống gia cầm. Trong điều kiện tự nhiên nƣớc ta, các yếu tố này Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29 tác động lần lƣợt ở các mức độ khác nhau tại những vùng địa lý khác nhau. Do vậy để có sức sống cao đòi hỏi gia cầm phải có sự thích nghi với điều kiện sống. Gia cầm thông qua hệ thống miễn dịch và các cơ chế đáp ứng miễn dịch để chống lại các tác nhân gây bệnh. Kotris và cộng sự (1988) nghiên cứu cho thấy những gà mái có số lƣợng bạch cầu cao hơn ở độ tuổi 60 và 100 ngày thì tƣơng ứng với sức sống và sản lƣợng trứng cao (Dẫn theo Ngô Giản Luyện, 1994 [28]). Khi nghiên cứu về sức sống của gia cầm, Johansson (1972) và Marco A. S & cộng sự (1982) cho biết sức sống đƣợc thể hiện ở thể chất và đƣợc xác định trƣớc hết bởi khả năng có tính di truyền của động vật, có thể chống lại các ảnh hƣởng không thuận lợi của môi trƣờng, cũng nhƣ các ảnh hƣởng khác của dịch bệnh (Theo Ngô Giản luyện, 1994 [28]) . Hill F, Dikerson G. E và Kempster H. L, 1954 [75] đã tính toán đƣợc hệ số di truyền sức sống là 0,06. Sức sống đƣợc tính theo các giai đoạn nuôi dƣỡng khác nhau. Theo tài liệu của Gavora J. F, 1990 [70] hệ số di truyền sức kháng bệnh là 0,25. Theo Robertson J. A và Lemer I. M, 1949 [88] hệ số di truyền về tỷ lệ nuôi sống và sức kháng bệnh thƣờng phụ thuộc dòng, giống, giới tính. Tỷ lệ nuôi sống phụ thuộc rất lớn vào vào yếu tố chăm sóc, nuôi dƣỡng, khí hậu, thời tiết, mùa vụ… Xét về khả năng thích nghi, khi điều kiện sống thay đổi, nhƣ về thức ăn thời tiết, khí hậu, quy trình chăn nuôi, môi trƣờng vi sinh vật xung quanh…của gia súc, gia cầm nói chung, gà lông màu nói riêng có khả năng thích ứng rộng rãi hơn đối với môi trƣờng sống (Phan Cự Nhân, Trần Đình Miên, 1998 [35]) . Ngày nay, ngoài việc tiếp tục chọn lọc các cá thể, các dòng có sức miễn kháng cao, ngƣời ta còn chú trọng đến nghiên cứu theo dõi các tập tính bẩm sinh của con vật về sinh sản, sinh trƣởng, kiếm ăn…để cải tiến cách chăm sóc, nuôi dƣỡng, khai thác con vật, đảm bảo chất lƣợng sản phẩm ngày càng tốt hơn. Điều đó cũng thể hiện qua các biện pháp nuôi dƣỡng theo kiểu nuôi nhốt hay chăn thả, theo cách làm sạch môi trƣờng trang trại và xung quanh, theo các nội quy đảm bảo an toàn khi nhập, khi nuôi cũng nhƣ khi xuất. Đó đều là những việc làm cần thiết bổ trợ thêm tính miễn kháng cho con vật, ngăn ngừa đƣợc những stress mang hậu quả có hại cho con vật và cho chất lƣợng sản phẩm, tạo thêm đƣợc điều kiện để tăng cƣờng độ miễn kháng (Khavecman, 1972 [20]) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30 Ngoài các yếu tố nhƣ dinh dƣỡng, giống, kỹ thuật thì vấn đề nhiễm bệnh của gia cầm cũng là yếu tố cơ bản dẫn đến thất bại trong chăn nuôi. Gia cầm rất mẫn cảm với dịch bệnh, khi mắc bệnh thƣờng lây lan nhanh và dẫn đến tỷ lệ chết cao, dễ kế phát các bệnh khác, đặc biệt là bệnh truyền nhiễm. Gavora J. S, 1990 [70] khi nghiên cứu về sức sống của gia cầm cho biết: Sức sống đƣợc thể hiện ở thể chất và đƣợc xác định trƣớc hết bởi khả năng có tính di truyền ở cơ thể động vật chống lại những ảnh hƣởng không thuận lợi của môi trƣờng cũng nhƣ ảnh hƣởng khác của dịch bệnh. Trong công tác lai tạo, khi dùng những dòng, giống có sức sống cao thì con lai sẽ thừa hƣởng có tính trạng trội khả năng này. Nghiên cứu về vấn đề này Fairful R. W, 1990 [69] cho biết ƣu thế lai về sức sống là rất cao, dao động từ 9 – 14%, sức sống cao còn phụ thuộc vào yếu tố mầm bệnh hoặc các dạng vi sinh vật gây bệnh khác. Tỷ lệ nuôi sống không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố di truyền, điều kiện chăm sóc nuôi dƣỡng, tình hình bệnh tật.., mà còn phụ thuộc vào yếu tố môi trƣờng. Một trong những biện pháp nâng cao sức sống và khả năng kháng bệnh của gia cầm đó là việc sử dụng rộng rãi gia cầm lai. Trong chăn nuôi gà thịt, ngƣời ta thƣờng dùng con lai để sử dụng ƣu thế lai cho hiệu quả kinh tế cao. Gà Sasso thƣơng phẩm là con lai của 4 dòng A, B, C, D nên sẽ hứa hẹn cho kết quả tốt. 1.1.6. Cơ sở khoa học của ưu thế lai và sử dụng ưu thế lai trong chăn nuôi gà thịt 1.1.6.1. Bản chất của ưu thế lai Trong chăn nuôi, để nâng cao năng suất có rất nhiều con đƣờng khác nhau, trong đó việc cải tiến bản chất di truyền luôn luôn đƣợc các nhà khoa học quan tâm. Trong chăn nuôi gia cầm cho thịt, ngƣời ta thƣờng sử dụng con lai nhiều dòng. Ví dụ: Gà Sasso thƣơng phẩm là con lai của bốn dòng ABCD. Theo Phomin A. Y thì hiệu quả của con lai giữa các dòng và giữa các giống phụ thuộc vào chất lƣợng chọn lọc từ dòng, giống gốc. Sử dụng đúng con lai để nâng cao chất lƣợng con giống, đó là nguồn dự trữ để tăng sức sinh sản của thế hệ sau. Cho nên, trƣớc khi lai phải chọn giống, dòng nào làm “nguyên liệu‟‟ vào lai, để cho con lai có năng suất cao, chứ không phải cứ cho lai ở bất kỳ dòng nào, giống nào (Bùi Đức Lũng, lê Hồng Mận, 2003 [27]) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31 Theo Trịnh Đình Đạt, 2002 [6] thì ƣu thế lai là hiện tƣợng khi lai giữa các cá thể bố mẹ khác nhau về mặt di truyền cho thế hệ con có nhiều đặc điểm ngoại hình, thể chất, sức chống bệnh, khả năng tăng trọng và nhiều đặc điểm khác tăng hơn giá trị trung bình của quần thể cha mẹ, đôi khi vƣợt trội cả bố hoặc mẹ tốt nhất. Mặt khác, theo nghĩa từng tính trạng thì có khi chỉ một vài tính trạng vƣợt trội, phát triển mạnh, còn những tính trạng khác có thể vẫn giữ nguyên và có thể bị giảm đi một phần nào đó trong phạm vi chấp nhận đƣợc. Ƣu thế lai biểu hiện các mƣ́c độ khác nhau ở các tính trạng khác nhau : Các tính trạng số lƣợng thƣờng đƣợc thể hiện , các tính trạng chất lƣợng ít đƣợc thể hiện. Các tính trạng có hệ số di truyền thấp thì hiệu quả chọn lọc thuần chủng thấp, còn hiệu quả lai tạo lại cao , các tính trạng có hệ số di truyền cao thƣờng có ƣu thế lai thấp. Ƣu thế lai còn phụ thuộc vào khả năng phối hợp của các cặp bố mẹ . Khi nghiên cƣ́u về khả năng phối hợp Lebedev M. N, 1972 [24] cho rằng: Muốn đạt ƣu thế lai siêu trội thì phải cho giao phối giƣ̃a các dòng gà xuất phát khác nhau về kiểu gen nhƣng lại phải có khả năng phối hợp với nhau tốt. Cho lai giống liên tục là phƣơng pháp làm phong phú tính di truyền của cá thể, qua đó làm tăng sức sống, thì tăng năng suất và kích thích đƣợc tính đa dạng của chúng. Qua lai tạo, chúng ta sẽ nhận đƣợc những cá thể mang tính di truyền, dễ thích ứng, chúng dễ dàng làm thay đổi do ảnh hƣởng của điều kiện bên ngoài, nghĩa là dễ đồng hoá điều kiện môi trƣờng. Do vậy, qua lai giống ta sẽ tạo đƣợc những con lai có hƣớng di truyền theo ý muốn. 1.1.6.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến ưu thế lai Có rất nhiều yếu tố ảnh hƣởng đến ƣu thế lai , trong đó có các yếu tố chủ yếu sau: - Nguồn gốc di truyền của bố mẹ: Bố mẹ có nguồn gốc di truyền càng xa nhau ƣu thế lai càng cao và ngƣợc lại. Điều này giải thích , tại sao khi lai giữa các dòng của các giống khác nhau lại có ƣu thế lai cao hơn khi lai giƣ̃a các dòng trong cùng một giống. - Tính trạng nghiên cứu: Các tính trạng có hệ số di truyền thấp , thì ƣu thế lai cao và ngƣợc lại các tính trạng có hệ số di truyền càng cao , thì ƣu thế lai càng thấp . Các tính trạng số Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 32 lƣợng thƣờng đƣợc biểu hiện , còn các tính trạng chất lƣợng ít đƣợc biểu hiện hơn. - Công thức giao phối: Ƣu thế lai còn phụ thuộc vào việc sử dụng con vật nào làm bố và con nào làm mẹ. Trong chăn nuôi gia cầm , để nâng cao năng suất , ngoài việc dƣ̣a trên cơ sở về khả năng sản xuất của giống , ngƣời ta còn đặc biệt quan tâm đến việc lƣ̣a chọn dòng mái có sức đẻ cao , tỷ lệ nuôi sống và tỷ lệ ấp nở cao , thành thục sớm, khả năng vỗ béo cao ; chọn dòng trống có khối lƣợng cơ thể lớn , sinh trƣởng nhanh, tiêu tốn thƣ́c ăn thấp. - Môi trường: Mƣ́c độ biểu hiện của ƣu thế lai chịu ảnh hƣởng rõ rệt của môi trƣờng sống. Theo Hull R. S và Cole, 1973 [77], thì mức độ biểu hiện của ƣu thế lai ảnh hƣởng bởi môi trƣờng sống nhƣ địa điểm nuôi, chế độ dinh dƣỡng, vị trí địa lý‎… Theo Blyth J. S và Sang J. H, 1960 [65] ƣu thế lai không những bị ảnh hƣởng của chế độ chăm sóc, chuồng trại, mà còn ảnh hƣởng của mùa vụ ấp nở trong năm và nhiệt độ của môi trƣờng. - Tuổi: Horm P. D và cộng sự, 1980 [76] cho biết ƣu thế lai của một số tính trạng chịu ảnh hƣởng của tuổi trong giai đoạn đầu và ảnh hƣởng bởi chu kỳ đẻ . Trong giai đoạn sinh trƣởng đầu của gà thịt , ƣu thế lai đối với thể trạng tăng từ 0 (sơ sinh) lên 2 - 10% (lúc giết thịt 6 - 10 tuần tuổi), ƣu thế lai với sƣ́c sống tƣ̀ 0 - 6%, năng suất trƣ́ng/mái từ 2 - 10%, tăng đáng kể ở chu kỳ 2 so với chu kỳ đầu. - Tính thích nghi của gia cầm đối với điều kiện ngoại cảnh: Thích nghi của gia cầm chính là sự phản ứng của cơ thể đối với các kích thích trong cơ thể và ngoài môi trƣờng . Khả năng thích nghi của con vật là yếu tố rất quan trọng giúp cho nó sinh tồn và phát triển t rong điều kiện sống mới . Di truyền và điều kiện ngoại cảnh là hai yếu tố có tác động cơ bản quyết định năng suất vật nuôi, có nghĩa là kiểu gen qui định một giá trị nào đó của cơ thể và môi trƣờng gây ra sƣ̣ sai lệch vớ i giá trị kiểu gen theo hƣớng này hoặc hƣớng khác . Con giống tốt đƣợc nuôi trong điều kiện ngoại cảnh phù hợp sẽ phát huy tối đa tiềm năng di truyền , nhƣng nếu điều kiện ngoại cảnh không thuận lợi sẽ ảnh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33 hƣởng đến năng suất của con giống. Ngƣợc lại không có con giống tốt, thì yếu tố ngoại cảnh cũng không thể nâng cao năng suất và chất lƣợng vật nuôi. Tính thích nghi của gia cầm có liên quan đến sự thay đổi di truyền , sinh lý xảy ra ở gia cầm, tính thích nghi bao gồm: + Thích nghi về di truyền : Liên quan đến chọn lọc tƣ̣ nhiên và chọn lọc nhân tạo . Tính thích nghi di truyền đề cập đến các đặc tính di truyền , các đặc tính này giúp cho quần thể động vật sinh tồn t rong một môi trƣờng nhất định , nó liên quan đến sƣ̣ tiến hóa qua nhiều thế hệ hay sƣ̣ biến đổi để có các đặc tính di truyền riêng biệt. + Thích nghi về sinh lý : Liên quan đến sƣ̣ thay đổi của tƣ̀ng cá thể . Tính thích nghi sinh lý liên quan đến đặc điểm về sinh lý học , giải phẫu học và đặc điểm của con vật, giúp cho con vật củng số sức khỏe và nâng cao sức sống. Thích nghi bao gồm cả khả năng phát triển và sự điểu chỉnh mối quan hệ của bản t hân đối với sinh vật khác và môi trƣờng xung quanh . Con vật có khả năng thích nghi tốt thì sẽ có khả năng tồn tại và phát triển, ngƣợc lại sẽ bị đào thải. Trong chăn nuôi nói chung và chăn nuôi gia cầm nói riêng, khi mới nhập về môi trƣờng mới, việc quan tâm đầu tiên là tính thích nghi của con vật . Giống có khả năng thích nghi tốt mới có thể nhân giống và phát triển rộng rãi đƣợc. 1.1.6.3. Sử dụng ưu thế lai trong chăn nuôi gà thịt Trong những năm gần đây, ngành chăn nuôi gia cầm trên thế giới đang có những thay đổi cơ bản, những thay đổi này liên quan tới việc áp dụng phƣơng pháp sản xuất sản phẩm. Bằng cách phối hợp tốt những dòng đã đƣợc quy định và thông qua phƣơng pháp lai, sẽ đạt đƣợc hiệu quả ƣu thế lai ở thế hệ sau. Trong chăn nuôi gia cầm khi lai kinh tế, có thể lai đơn hoặc lai kép. Lai đơn: Là phƣơng pháp lai kinh tế để sử dụng ƣu thế lai. Lai đơn thƣờng đƣợc dùng khi lai giữa giống địa phƣơng và giống nhập nội cao sản. Phƣơng pháp này phổ biến và đƣợc sử dụng nhiều trong sản xuất gà kiêm dụng trứng thịt hoặc thịt trứng. Nhằm tận dụng khả năng dễ nuôi, sức chống chịu cao của gà địa phƣơng và khả năng lớn nhanh, sức đẻ cao, ấp nở tốt, khối lƣợng trứng cao của gà nhập nội, gà Rhode Island, gà Leghorn đƣợc lai với gà Ri (Tạ An Bình, 1973 [1]); Nguyễn Huy Đạt, Vũ Thị Hƣng, Hồ Xuân Tùng, 2004 [5] kết quả gà lai cho khối lƣợng cơ thể, sản lƣợng trứng cao hơn gà Ri. Thành công này đã chứng minh hiệu quả của phƣơng pháp lai đơn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 34 Lai kép: Là phƣơng pháp lai phổ biến để tạo gà thƣơng phẩm và đƣợc sử dụng nhiều trong chăn nuôi gà công nghiệp, phƣơng pháp này ngày càng đƣợc áp dụng nhiều trong việc tạo ra gà thƣơng phẩm phù hợp với phƣơng thức nuôi nhốt hoặc bán chăn thả. Mỗi xí nghiệp sản xuất giống đều có nhiều dòng khác nhau và khi lai giữa các dòng riêng biệt sẽ tạo ra những con lai thƣơng phẩm năng suất cao, thí dụ gà hƣớng trứng có gà lai 4 dòng nhƣ Goldline 54, ISA Brown, Hy – line; gà hƣớng thịt có BE 88, AA, Cobb 500, Ross 308, Sasso. Hiện nay nghiên cứu và sử dụng ƣu thế lai trong sản xuất, thực sự là đòn bẩy để nâng cao năng suất. Sự biểu hiện ƣu thế lai rất đa dạng, phụ thuộc vào bản chất di truyền từng cặp lai và điều kiện môi trƣờng. Muốn sử dụng tốt ƣu thế lai cần phải có những thử nghiệm nghiêm túc trong điều kiện cụ thể, đối với từng cặp lai cụ thể. 1.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nƣớc 1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới Những năm gần đây nghiên cứu và phát triển chăn nuôi gia cầm rất chú trọng đến gia cầm chăn thả. Nhiều báo cáo của những dự án phát triển, chỉ ra rằng gia cầm chăn thả đóng một vai trò đáng kể trong việc làm giảm sự nghèo đói (Saleque M. A, 1996 [91]). Kitalyi A. J, 1996 [81] khi nghiên cứu về hệ thống chăn nuôi gà chăn thả cho biết: Chăn nuôi gà theo phƣơng thức thâm canh ở những vùng nông thôn có sự khác nhau với hệ thống chăn nuôi gà địa phƣơng và sự khác nhau đó có liên quan đến sự tồn tại về vật chất và hoàn cảnh kinh tế xã hội của địa phƣơng. Roberts J. A, 1991 [89] nghiên cứu khả năng sinh trƣởng và di truyền của gà chăn thả cho thấy, nuôi gà chăn thả thì đầu tƣ thấp, sản phẩm của chúng cung cấp tiêu dùng tại chỗ trong gia đình và đƣợc bán buôn trở thành nguồn thu nhập. Theo tài liệu của Đoàn Xuân Trúc và cộng sự, 1993 [54] cho biết Pháp là một trong những nƣớc nuôi nhiều gà lông màu chất lƣợng cao „„Label rouge‟‟ nhất thế giới và cũng là nƣớc đứng đầu về tiêu thụ nhiều thịt gà thả vƣờn. Năm 1996, số lƣợng gà „„Label rouge‟‟ ở Pháp là 90 triệu con, sản xuất trên 133000 tấn thịt (đã giết mổ) chất lƣợng cao, chiếm 20% sản lƣợng thịt gà và trên 10% tổng sản lƣợng thịt gia cầm. Hiện nay, Pháp có trên 20 tập đoàn chuyên sản xuất thịt gà chất lƣợng cao, bao gồm trên 6000 chủ trang trại hay hợp tác xã chuyên nuôi gà „„Label rouge‟‟, có khoảng 60 trại ấp trứng, 120 nhà máy sản xuất thức ăn, 110 nhà máy giết mổ và chế biến thịt. Sản phẩm thịt gà chất lƣợng cao của nƣớc này đƣợc tiêu thụ chủ yếu trong nƣớc, chỉ khoảng 5 - 6% dành cho xuất khẩu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 35 Những năm gần đây, tại các nƣớc có nền kinh tế phát triển nhƣ Pháp, Israel, Trung Quốc…ngoài việc tạo ra các giống gà công nghiệp cao sản hƣớng thịt, hƣớng trứng, ngƣời ta còn chú ý đến việc nghiên cứu để tạo ra những giống gà lông màu có chất lƣợng thịt thơm ngon, hợp thị hiếu ngƣời tiêu dùng. Hiện nay, nhiều hãng nổi tiếng trên thế giới đã nhân giống, chọn lọc và lai tạo ra các giống gà lông màu có thể nuôi thâm canh, bán thâm canh. Các giống gà lông màu nhƣ Sasso (Pháp), Lƣơng Phƣợng và Tam Hoàng (Trung Quốc), ISA màu (Pháp ), Kabir (Israel)... Các nƣớc có ngành gia cầm nổi tiếng trên thế giới luôn ứng dụng công nghệ di truyền hiện đại để chọn tạo đƣợc các dòng gà có năng suất chất lƣợng cao, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của ngƣời chăn nuôi. Từ các dòng, giống chọn tạo, các Hãng đều tiến hành nghiên cứu khả năng phối hợp giữa các dòng để xác định vị trí của chúng trong hệ thống giống hình tháp nhằm phục vụ sản xuất. Nhƣ vậy, sản phẩm cuối cùng của công tác giống là tạo con lai có ƣu thế về sức sống, khả năng sinh trƣởng và chất lƣợng sản phẩm. Pháp là một trong những nƣớc tạo ra nhiều giống gà thả vƣờn để đáp ứng nhu cầu chăn nuôi gà thả vƣờn: + Công ty Shaver tạo ra các giống gà Troicbro: Có sức chịu nóng và chịu ẩm độ cao, lông màu vàng nâu, chân vàng. Công ty còn tạo ra giống Redbo: lông màu đỏ, ngoại hình đẹp, da, chân đều vàng. + Năm 1978, hãng Sasso ở Pháp đã tiến hành nhân giống, chọn lọc, lai tạo ra giống gà Sasso gồm 18 dòng gà trống và 6 dòng gà mái với mục đích sử dụng khác nhau. Giống gà này có khả năng thích nghi cao, dễ nuôi ở các điều kiện nóng ẩm, sức kháng bệnh tốt, chất lƣợng thịt thơm ngon. Theo tài liệu hãng Sasso của Pháp, 1995, khi lai giữa các dòng gà JA57 và J66, S44...tạo ra con lai có năng suất cao, tiêu tốn thức ăn thấp, tỷ lệ nuôi sống cao và phù hợp với mọi điều kiện chăn nuôi. + Hãng ISA đã lai tạo ra giống gà S457 nuôi thả vƣờn rất tốt, lông màu vàng hoặc trắng nâu chân vàng, hãng Hubbard ISA Pháp năm 2002 đã sử dụng trống dòng S44 x mái dòng JA57 tạo con lai ở 63 ngày có khối lƣợng cơ thể 2209g, tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lƣợng 2,24 - 2,30kg. Các nƣớc có ngành chăn nuôi gà thả vƣờn phát triển sau Pháp còn có Nhật Bản, Mỹ, Trung Quốc, Braxin, Mehico... Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 36 Ở Israel, Công ty Kabir đã tạo ra giống gà Kabir từ con lai của giống gà địa phƣơng Sinai có sức chịu nóng cao với gà Whiter Leghorn, Plymouth. Hiện nay, công ty Kabir đã tạo ra 28 dòng gà chuyên thịt lông trắng và lông màu trong đó có 13 dòng nổi tiếng bán ra khắp thế giới là dòng trống K100, K100N, K400, K400N, K666, K666N, K368 và K66; dòng mái gồm K44, K25, K123 (Lông trắng) và K156 (Lông nâu). Công ty Kabir chickens L. td Israel, 1999 [80] sử dụng trống GGK x mái K277 tạo con thƣơng phẩm ở 63 ngày có khối lƣợng cơ thể 2460g, tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lƣợng là 2,28 kg… Ngày nay, trên thế giới xu hƣớng tiêu dùng sản phẩm thịt gà sạch đang ngày càng tăng, nó đòi hỏi các nhà nghiên cứu, các nhà chăn nuôi phải không ngừng cải tiến về mặt di truyền, phƣơng pháp chăn nuôi để tạo ra sản phẩm có chất lƣợng. Vấn đề này đã đƣợc nhiều nƣớc trên thế giới quan tâm, để tạo ra những giống gà có năng suất cao, chất lƣợng tốt. Trung Quốc là nƣớc có nghề chăn nuôi gà từ lâu đời, nên có một tập đoàn giống gà địa phƣơng phong phú. Gần đây, Trung Quốc là nƣớc có định hƣớng khá rõ ràng về việc bảo tồn quỹ gen gà địa phƣơng và sử dụng chúng để gây tạo gà có chất lƣợng thịt thơm ngon. Gà địa phƣơng thƣờng có đặc điểm sau: Lông vàng hoặc nâu, khối lƣợng vừa phải, mức độ tăng khối lƣợng không cao, thân thịt thƣờng hình chữ nhật, ngực đầy đặn nhƣng ít mỡ, da vàng, thành phần hoá học của cơ thể (Vitamin, axit amin, khoáng) cao, mùi vị tốt. Để có đƣợc những tiêu chí này, Trung Quốc đã tiến hành lai pha máu gà Broiler nhập nội với giống gà địa phƣơng, sản phẩm cuối cùng là gà lai có tỷ lệ máu gà địa phƣơng cao. Đó cũng là loại sản phẩm có chất lƣợng thịt ngon, giá bán cao, nhƣng năng suất đã đƣợc cải tiến nhiều. Dòng gà lai này đƣợc dùng để sản xuất trực tiếp sản phẩm cuối cùng hoặc dùng làm dòng trống để tham gia vào các công thức lai tạo khác. Ở các nƣớc chậm phát triển, chăn nuôi gia cầm còn phổ biến hình thức chăn thả tự nhiên, nuôi tận dụng, nên năng suất thấp, hiệu quả kinh tế chƣa cao. Các nhà chọn giống đã nghiên cứu tạo các giống gà có sức chống chịu cao với stress môi trƣờng, dễ thích nghi với vùng khí hậu khắc nghiệt, nóng và ẩm, dễ nuôi, ít bệnh tật lại phù hợp với các phƣơng thức chăn nuôi khác nhau (nuôi công nghiệp, bán công nghiệp, chăn thả tự nhiên). Nhƣ các giống gà thả vƣờn Sasso, Isa JA 57 (Pháp), Kabir (Israel), Tam Hoàng 882, Jangcun vàng, Lƣơng Phƣợng hoa (Trung Quốc)... Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 37 Bên cạnh những thành tựu về công tác giống, những thành tựu về khoa học công nghệ đã giúp nghành chăn nuôi gà Broiler có đƣợc bƣớc nhảy vọt lớn nhất về các chỉ tiêu năng suất. Trong vòng 40 năm (1950 – 1990) để đạt đƣợc khối lƣợng xuất chuồng 1,82 kg của gà Broiler, ngƣời ta đã giảm một nửa thời gian cần nuôi và giảm đƣợc 40% lƣợng thức ăn tiêu tốn. 1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước Ngành chăn nuôi nói chung, chăn nuôi gia cầm nói riêng có những bƣớc phát triển đáng khích lệ, đặc biệt từ những năm 90 trở lại đây. Những năm gần đây, nhiều giống gà thả vƣờn lông màu, dễ nuôi, khả năng cho thịt cao, khả năng sinh sản tốt, thịt thơm ngon đã dƣợc nhập vào nƣớc ta và đƣợc ngƣời chăn nuôi ƣa chuộng, nhƣ gà Tam Hoàng, Lƣơng Phƣợng, Kabir, Sasso…đồng thời cũng đƣợc các nhà khoa học chăn nuôi quan tâm. Nguyễn Minh Hoàn, 2003 [13] khi nghiên cứu về khả năng sinh trƣởng của gà Kabir và Lƣơng Phƣợng nuôi bán chăn thả ở nông hộ cho biết: Tỷ lệ nuôi sống của gà Kabir đạt 96,60%, gà Lƣơng Phƣợng đạt 93,33%; Tiêu tốn hết 2,49 kg thức ăn/kg tăng khối lƣợng. Khi nghiên cứu trên gà Lƣơng Phƣợng Hoa, Nguyễn Huy Đạt, Nguyễn Thành Đồng, 2001 [4] cho biết gà Lƣơng Phƣợng Hoa nuôi nhốt và bán nuôi nhốt đều có sức sống cao ở tất cả các giai đoạn từ 98,5 đến 99,3%. Khả năng tăng khối lƣợng tƣơng đối nhanh, 5 tuần tuổi bình quân trống, mái đạt 627g (gà trống đạt 725 gam, gà mái đạt 524 gam), tiêu tốn thức ăn 1,71 kg thức ăn/1 kg tăng khối lƣợng. Theo kết quả của tác giả Nguyễn Khánh Quắc và các cộng sự, 1998 [37], cho biết giống gà Kabir nuôi bán chăn thả tại Thái Nguyên nhƣ sau: Khả năng sinh trƣởng của gà Kabir cao, lúc 63 ngày tuổi đạt 1783,00g và lúc 91 ngày tuổi đạt 2515,20g. Tỷ lệ thịt xẻ con trống là 78,03%, con mái đạt 77,52%. Tỷ lệ cơ đùi + ngực là 37,67%, tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lƣợng là 3,09 kg, tỷ lệ nuôi sống đạt 99%. Theo Nguyễn Văn Đại, Trần Thanh Vân, Trần Long, Đặng Đình Hanh, 2001 [7] đã đƣa ra kết luận về ảnh hƣởng của phƣơng thức nuôi nhốt và bán nuôi nhốt đến khả năng sản xuất của gà lai F1 (♂ Mía x ♀ Kabir) (MK): - Gà lai F1 - MK có màu lông phong phú, chân, da, mỏ vàng, gà rắn chắc, ham chạy nhảy. Gà lai có tốc độ sinh trƣởng tuyệt đối cao nhất ở giai đoạn 8 - 9 tuần tuổi, đạt 33,92 g/con/ngày ở phƣơng thức nuôi bán chăn thả và đạt 35,49 g/con/ngày ở phƣơng thức nuôi nhốt. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 38 - Sinh trƣởng tƣơng đối cao nhất ở tuần 0 - 1 đạt 67,35% ở phƣơng thức nuôi bán chăn thả và 67,02% ở phƣơng thức nuôi nhốt, thấp nhất là ở 11 - 12 tuần tuổi đạt 6,74% ở phƣơng thức bán chăn thả và 6,41% ở phƣơng thức nuôi nhốt. - Trong phƣơng thức bán chăn thả, tỷ lệ thân thịt, tỷ lệ cơ ngực, tỷ lệ cơ đùi, và tỷ lệ mỡ bụng đạt tƣơng ứng là: 76,51%; 17,73%; 18,52% và 1,84%. Trong phƣơng thức nuôi nhốt tƣơng ứng là: 75,51%; 18,86%; 17,53% và 2,38%. - Tiêu tốn thức ăn, năng lƣợng trao đổi và protein thô cho 1kg tăng khối lƣợng gà trong phƣơng thức nuôi bán chăn thả lần lƣợt là 2,99 kg; 9269 Kcal; 538,2g CP và nuôi nhốt là 2,82 kg; 8742 Kcal; 507,6g CP. Theo Đào Văn Khanh, 2000 [17], khi nghiên cứu năng suất thịt của gà broiler giống Tam Hoàng ở các mùa vụ khác nhau có kết luận nhƣ sau: - Tỷ lệ nuôi sống của gà Tam Hoàng đến 84 ngày tuổi ở các mùa vụ đạt từ 93,91% đến 97,11%. Tỷ lệ nuôi sống cao nhất là ở mùa Thu 97,11%; tiếp sau đó là mùa Đông 95% và thấp nhất là mùa Hè đạt 93,91%. - Sinh trƣởng của gà broiler Tam Hoàng cả trống và mái vào mùa Thu là tốt nhất, tiếp sau đó là mùa Đông, thấp nhất ở mùa Hè. Khối lƣợng cơ thể của gà mái và gà trống đều đạt cao nhất vào mùa Thu, thấp nhất ở mùa Hè. Sự chênh lệch về khối lƣợng cơ thể nuôi ở các mùa đối với gà trống rõ hơn gà mái. Ở 84 ngày tuổi chênh lệch về khối lƣợng giữa mùa Thu so với mùa Hè: gà trống là 296,72g, gà mái là 261,76g; chênh lệch mùa Đông so với mùa Hè: gà trống là 233,16g, gà mái là 93,1g; chênh lệch giữa mùa Thu so với mùa Đông: gà trống là 63,58g, gà mái là 252,45g. Nhƣ vậy, mùa vụ và phƣơng thức chăn nuôi có ảnh hƣởng lớn đến khả năng sinh trƣởng và sản xuất của gà, đồng thời ảnh hƣởng trực tiếp đến hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi gà. Về vấn đề này có nhiều ý kiến và kết quả khác nhau do vậy cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện hơn các kết quả đó. 1.3. Nguồn gốc, đặc điểm, tính năng sản xuất của giống gà Sasso Gà Sasso do hãng Sasso (Selection Avicole de La sarthe et du Sud Ouset) của Pháp tạo ra. Mục tiêu của hãng là nhân giống, chọn lọc, lai tạo và cung cấp các tổ hợp lai gà thịt lông màu có thể nuôi thâm canh thả vƣờn. Gà Sasso có khả năng thích nghi cao, dễ nuôi ở các điều kiện nóng ẩm, sức đề kháng tốt, chất lƣợng thịt thơm ngon, giữ đƣợc hƣơng vị vốn có của các dòng gà địa phƣơng. Hiện nay hãng đƣa ra 18 dòng gà giống với mục đích sử dụng khác nhau: Dòng nặng cân hay nhẹ cân; lông đỏ, đen, xám hoặc trắng; da vàng hoặc trắng, chân đen; xám hoặc vàng; trụi cổ hay có lông cổ. Các dòng đƣợc sử dụng rộng rãi nhƣ dòng ông là X44 và X44N, T55 và T55N, T77 và T77N, T88 và T88N, X40. Về dòng mái, hãng Sasso có 6 dòng nhằm đáp ứng các yêu cầu sử dụng: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 39 Lùn hoặc chắc khoẻ, nặng cân hay nhẹ cân, tự phân biệt giới tính hay không phân biệt giới tính. Trong đó có 2 dòng đƣợc sử dụng rộng rãi nhƣ dòng bà hiện nay là 2 dòng mái SA31 và SA51 (Sasso, France, 2002 [92]) Gà Sasso đƣợc ƣa chuộng tại hơn 30 nƣớc trên thế giới, trong đó đƣợc nuôi nhiều nhất ở Pháp, Ý, Đức, Tây Ban Nha, Thuỵ Sỹ, Nhật, Malayxia và gà SA31 đã đƣợc nhập vào nƣớc ta từ 4 năm trở lại đây. Ở Việt Nam, xí nghiệp gà giống thịt dòng thuần Tam Đảo – Vĩnh Phúc và Trung tâm nghiên cứu gia cầm Vạn Phúc đã nhập dòng ông bà và bố mẹ SA31L để tạo ra gà thịt từ Công ty Sasso của Pháp năm 2002. Gà SA31 đƣợc hãng Sasso chọn tạo vào năm 1985, để sản xuất gà Broiler nuôi bán công nghiệp. Có 3 loại gà SA31: Bình thƣờng, nặng cân, mini (lùn). Gà SA31 có lông màu đỏ hoặc nâu đỏ, có sức chịu đựng cao với môi trƣờng khắc nghiệt, thích nghi với môi trƣờng nhiệt đới nóng ẩm. Do gà SA31 mang gen lặn hoàn toàn về màu sắc lông, nên toàn bộ số gà lông màu broiler sản xuất ra đều mang đặc điểm ngoại hình của dòng bố (về màu chân, màu lông, có lông cổ hay không có lông cổ). Gà Sasso bƣớc đầu nuôi thử nghiệm ở Việt Nam đã cho kết quả rất khả quan, đáp ứng đƣợc các yêu cầu về tốc độ sinh trƣởng cũng nhƣ khả năng thích nghi chống đỡ bệnh tật và đặc biệt đƣợc thị trƣờng Việt Nam chấp nhận. Trong tƣơng lai đây sẽ là giống gà đƣợc nuôi phổ biến ở Việt Nam. * Sơ đồ lai tạo của giống gà Sasso thƣơng phẩm ABCD: Gà ông bà: Dòng A Dòng B Dòng C Dòng D Gà bố mẹ: Trống AB Mái CD Gà thƣơng phẩm: ABCD (Trống+Mái) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 40 CHƢƠNG 2 ĐỐI TƢỢNG, ĐỊA ĐIỂM, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tƣợng, thời gian và địa điểm nghiên cứu 2.1.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu là gà Sasso thƣơng phẩm ABCD từ 1 - 63 ngày tuổi, nuôi ở 2 vụ: Xuân - Hè và Thu - Đông; 2 phƣơng thức nuôi: Nuôi nhốt hoàn toàn và bán nuôi nhốt. 2.1.2. Địa điểm, thời gian thí nghiệm - Địa điểm: Gà thí nghiệm đƣợc nuôi tại xã Quyết Thắng - thành phố Thái Nguyên - tỉnh Thái Nguyên. - Thời gian: Từ 10/2007 - 07/2008 2.2. Nội dung, phƣơng pháp và các chỉ tiêu theo dõi 2.2.1. Nội dung nghiên cứu Nghiên cứu ảnh hƣởng của phƣơng thức và mùa vụ nuôi đến khả năng sản xuất thịt của gà Sasso thƣơng phẩm nuôi tại Thái Nguyên. 2.2.2. Phương pháp nghiên cứu Thí nghiệm đƣợc tiến hành theo phƣơng pháp phân lô so sánh đảm bảo độ đồng đều về các yếu tố nhƣ giống, tính biệt, thức ăn, quy trình nuôi dƣỡng, mỗi thí nghiệm đƣợc lặp lại 3 lần nuôi ở 2 mùa vụ khác nhau. Kết quả thí nghiệm là trung bình của 3 lần nuôi nhắc lại. Thí nghiệm đƣợc bố trí theo sơ đồ 2.1 Bảng 2.1: Sơ đồ bố trí thí nghiệm Diễn giải Thí nghiệm 1 Thí nghiệm 2 Lô 1A Lô 1B Lô 2A Lô 2B Số lƣợng (con) 75 x 3 75 x 3 75 x 3 75 x 3 Thời gian nuôi (ngày) 63 Phƣơng thức nuôi Nuôi nhốt Bán nuôi nhốt Nuôi nhốt Bán nuôi nhốt Mùa vụ Thu - Đông Xuân - Hè Mật độ nhốt (con/m2) 9 Vƣờn (m2/con) - 2 - 2 Thức ăn thí nghiệm Proconco Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 41 Ghi chú: - Ở thí nghiệm 1: Lô 1A gồm 3 lô lặp lại (A1, A2, A3), lô 1B gồm 3 lô lặp lại (B1, B2, B3) mỗi lô nhỏ nuôi 75 con - thời gian nuôi 63 ngày. Lô 1A nuôi nhốt hoàn toàn 63 ngày, lô 1B nuôi bán chăn thả từ (1 - 21) ngày nuôi nhốt, từ (22 - 63) ngày nuôi thả vƣờn. Nuôi ở vụ Thu – Đông. - Ở thí nghiệm 2: Lô 2A gồm 3 lô lặp lại (A4, A5, A6), lô 2B gồm 3 lô lặp lại (B4, B5, B6) mỗi lô nhỏ nuôi 75 con - thời gian nuôi 63 ngày. Lô 2A nuôi nhốt hoàn toàn 63 ngày, lô 2B nuôi bán chăn thả từ (1 - 21 ngày) nuôi nhốt, từ (22 - 63) ngày nuôi thả vƣờn. Nuôi ở vụ Xuân – Hè. - Ở cả hai thí nghiệm giai đoạn 1 – 21 ngày tuổi gà ở các lô đều nuôi nhốt, từ 22 – 63 ngày ở các lô bán nuôi nhốt, diện tích bãi thả 2m2/con, mật độ chuồng nuôi là 9 con/m2. Sử dụng thức ăn proconco C28A, C28B, C29. * Quy trình chăm sóc nuôi dƣỡng gà thí nghiệm: Gà đƣợc nhập về và đƣa vào chuồng nuôi lúc 1 ngày tuổi. Trƣớc khi gà đƣợc đƣa vào nuôi, chuồng trại và các dụng cụ, trang thiết bị chăn nuôi đã đƣợc vệ sinh sát trùng đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh thú y, khu vực sử dụng để thả gà cũng đƣợc rào cẩn thận. Trong 3 tuần đầu gà thí nghiệm đƣợc nuôi nhốt hoàn toàn với điều kiện nhƣ nhau. Đến tuần thứ 4, gà nuôi theo phƣơng thức bán chăn thả đƣợc thả ra ngoài khu vực bãi thả (diện tích 2m2/con) vào ban ngày và nhốt chuồng vào buổi tối. Bãi chăn thả có rào để cách ly không cho ngƣời và các gia súc, gia cầm khác tới xâm phạm, dễ thoát nƣớc, khô sạch có bóng râm. Kết hợp lán trú mƣa và bố trí máng ăn, máng uống cho gà sử dụng ban ngày ngoài bãi, ban đêm gà đƣợc lùa về chuồng. Thức ăn gà kiếm đƣợc trong bãi chăn thả không tính vào lƣợng thức ăn chi phí. Mật độ chuồng nuôi 9 con/m2. Đệm lót: Dùng trấu trải lần đầu dày 8 – 10 cm, sau đó bổ sung thêm tùy điều kiện thực tế để giữ luôn khô sạch. Nhiệt độ: Các lô thí nghiệm đều có hệ thống cung cấp nhiệt vào những thời gian nhiệt độ xuống thấp, đảm bảo nhiệt độ 1 - 10 ngày tuổi dƣới chụp sƣởi 30 – 330C. Các lô đều có hệ thống thông gió, quạt mát đƣợc sử dụng vào những ngày nhiệt độ cao. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 42 Máng ăn, máng uống: Giai đoạn 1 - 14 ngày tuổi sử dụng khay ăn: Khay quy chuẩn – dùng cho 100 gà và cho uống bằng máng uống tròn 1,5 lít (50 con/máng). Giai đoạn 15 ngày trở đi thay bằng máng ăn tròn với 2 cm/gà và cho uống bằng máng uống tròn với 1cm/gà. Thức ăn và cách cho ăn của gà thí nghiệm đƣợc chia ra làm 3 giai đoạn. Giai đoạn từ 1 - 14 ngày tuổi, sử dụng thức ăn Proconco C28A. Giai đoạn từ 15 - 21 ngày tuổi, sử dụng thức ăn Proconco C28B. Giai đoạn từ 22 - 70 ngày tuổi sử dụng thức ăn Proconco C29. Bảng 2.2: Chế độ dinh dƣỡng của gà thí nghiệm Các giai đoạn Phân tích dinh dƣỡng Đơn vị tính Giai đoạn (ngày tuổi) 1 - 14 15 - 21 22 - 70 Năng lƣợng trao đổi (ME) Kcal/kg 2900 3000 3000 Protein thô (CP) % 22 21 18 Ca % 0,7 - 1,2 0,7 - 1,2 0,7 - 1,2 P % 0,5 0,5 0,4 NaCl % 0,2 - 0,5 0,2 - 0,5 0,2 - 0,5 Ẩm độ % 13 13 13 Xơ thô % 5 6 6 Thức ăn và nƣớc uống đƣợc cung cấp tự do theo nhu cầu của gà thí nghiệm. * Chƣơng trình sử dụng vắc-xin đƣợc thực hiện đúng theo quy trình: Ngày tuổi Loại vắc-xin Phƣơng pháp dùng 7 ngày tuổi Lasota lần 1 Nhỏ mắt 1 giọt Gumboro lần 1 Nhỏ mồm 4 giọt 14 ngày tuổi Gumboro lần 2 Nhỏ mồm 4 giọt 21 ngày tuổi Lasota lần 2 Nhỏ mắt 1 giọt Gumboro lần 3 Nhỏ mồm 4 giọt 35 ngày tuổi Newcastle H1 Tiêm dƣới da màng cánh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 43 2.2.3. Các chỉ tiêu theo dõi: - Tỷ lệ nuôi sống của gà thí nghiệm qua các tuần tuổi - Khả năng sinh trƣởng + Sinh trƣởng tích luỹ + Sinh trƣởng tuyệt đối + Sinh trƣởng tƣơng đối - Khả năng chuyển hoá thức ăn và chi phí thức ăn cho 1 kg tăng khối lƣợng + Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lƣợng + Tiêu tốn Protein thô (CP) g/kg tăng khối lƣợng + Tiêu tốn năng lƣợng trao đổi (ME) Kcal/kg tăng khối lƣợng + Chi phí thức ăn/kg tăng khối lƣợng (đ/kg) - Đánh giá năng suất và chất lƣợng thịt của gà thí nghiệm - Xác định chỉ số sản xuất PI và chỉ số kinh tế EN 2.2.4. Phương pháp theo dõi các chỉ tiêu: .2.2.4.1. Tỷ lệ nuôi sống: Hàng ngày theo dõi cụ thể tình trạng sức khoẻ và tỷ lệ sống ở tất cả các lô thí nghiệm, ghi chép chính xác, tính kết quả trong tuần và cộng dồn.  gà cuối kỳ (con) Tỷ lệ nuôi sống (%) = x 100  gà đầu kỳ (con) 2.2.4.2. Khả năng sinh trưởng + Sinh trƣởng tích luỹ: Cân gà trƣớc khi đƣa vào thí nghiệm, sau đó tiến hành cân gà vào ngày cuối hàng tuần, thời gian cân buổi sáng trƣớc khi cho ăn. Ở các lô quây ngẫu nhiên khoảng 50 con một lô, cân từng con một cho đến hết gà trong quây. Ngƣời và dụng cụ cân đƣợc cố định, từ tuần 1 đến tuần 2 đƣợc cân bằng cân Ohaus (Mỹ) với độ chính xác 0,1g. Từ tuần thứ 3 trở đi dùng cân bằng đồng hồ Nhơn Hoà (Việt Nam) có độ chính xác  2g đến 5g. + Sinh trƣởng tuyệt đối (g/con/ngày): Sinh trƣởng tuyệt đối đƣợc tính theo công thức (TCVN 2-39-77, 1977 [46]) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 44 A = P2 – P1 t Trong đó: A: Sinh trƣởng tuyệt đối P1: Khối lƣợng gà đầu kỳ (g) P2: Khối lƣợng gà cuối kỳ (g) t: Khoảng cách giữa 2 lần cân (ngày) + Sinh trƣởng tƣơng đối (%) Sinh trƣởng tƣơng đối là tỷ lệ % của khối lƣợng gà thí nghiệm tăng lên giữa 2 lần khảo sát. Sinh trƣởng tƣơng đối đƣợc tính theo công thức (TCVN 2 – 40 - 77, 1977 [47]) R (%) = x 100 P2 + P1 Trong đó : R: Sinh trƣởng tƣơng đối (%) P1: Khối lƣợng cân đầu kỳ (g) P2: Khối lƣợng cân cuối kỳ (g) 2.2.4.3. Khả năng chuyển hoá thức ăn và chi phí thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng Hàng tuần cân thức ăn ở các lô thí nghiệm để theo dõi về khối lƣợng thức ăn mà gà ăn hết trong tuần từ đó tính: + Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng (trong tuần và cộng dồn): Tổng lƣợng thức ăn tiêu thụ trong kỳ (kg) TTTĂ/kg tăng khối lƣợng trong kỳ = Tổng khối lƣợng gà tăng trong kỳ (kg) + Tiêu tốn Protein thô (CP) g/kg tăng khối lượng: P2 - P1 2 Tiêu tốn Protein thô/kg tăng khối lƣợng trong kỳ (g) = Tổng số protein tiêu thụ trong kỳ (g) Tổng khối lƣợng gà tăng trong kỳ (kg) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 45 + Tiêu tốn năng lượng trao đổi (ME)Kcal/kg tăng khối lượng: + Chi phí thức ăn/kg tăng khối lượng (đ/kg): Tổng thức ăn tiêu thụ (kg) x giá thành 1 kg thức ăn (đ/kg) = Khối lƣợng gà tăng (kg) + Chi phí trực tiếp/ kg gà thịt Chi phí trực tiếp = Tổng chi phí trực tiếp (đ) Khối lƣợng gà xuất bán (kg) 2.2.4.4. Đánh giá năng suất và chất lượng thịt: Tiến hành mổ khảo sát ở tại thời điểm 63 ngày tuổi theo phƣơng pháp của Wilke. R và Auas. R, 1978 và Bùi Quang Tiến, 1993 [42]. + Khối lượng sống Chọn ở mỗi lô thí nghiệm lấy 3 trống và 3 mái có khối lƣợng tƣơng đƣơng với khối lƣợng trung bình của mỗi lô. Cho nhịn ăn, chỉ cho uống nƣớc 12 giờ, cân lên ta đƣợc khối lƣợng sống. Sau đó tiến hành mổ khảo sát để xác định khối lƣợng thịt xẻ. + Khối lượng và tỷ lệ thịt xẻ: Khối lƣợng thịt xẻ đƣợc xác định nhƣ sau : Sau khi cắt tiết vặt lông, rạch bụng theo lƣờn bỏ ruột, phổi, khí quản, lá lách, tách mật khỏi gan, lấy thức ăn và lớp màng sừng ra khỏi mề, bỏ mề và gan vào bụng. Cắt bỏ đầu ở đoạn xƣơng chẩm ở đốt xƣơng cổ đầu tiên, cắt chân ở đoạn khuỷu (bỏ bàn chân) cân khối lƣợng ta xác định đƣợc khối lƣợng thịt xẻ Khối lƣợng thịt xẻ (g) Tỷ lệ thịt xẻ (%) = x 100 Khối lƣợng sống (g) Tiêu tốn năng lƣợng trao đổi/kg tăng khối lƣợng trong kỳ = Tổng số năng lƣợng tiêu thụ (Kcal ME) (kg) (g) Tổng khối lƣợng gà tăng trong kỳ (kg) (kg) (g) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 46 + Tỷ lệ cơ đùi: Khối lƣợng cơ đùi : Đƣợc xác định bởi cơ đùi trái nhân đôi. Cách làm: Rạch một đƣờng cắt từ khớp xƣơng đùi trái song song với xƣơng sống dẫn đến chỗ xƣơng đùi gắn vào xƣơng mình. Lột da đùi, da bụng theo đƣờng phân ranh giới giữa cơ đùi và cơ ngực lớn để rạch một đƣờng cho tách rời ra, cắt bỏ hết da. Cắt dọc theo xƣơng chày, xƣơng mác để lấy 2 xƣơng này ra cùng với xƣơng bánh chè và xƣơng sụn, cân khối lƣợng cơ đùi và nhân đôi ta đƣợc khối lƣợng cơ đùi. Khối lƣợng cơ đùi (g) Tỷ lệ cơ đùi (%) = x 100 Khối lƣợng thịt xẻ (g) + Tỷ lệ cơ ngực: Khối lƣợng cơ ngực: Đƣợc tính bằng cơ ngực trái nhân đôi. Cách làm: Rạch một đƣờng dọc theo xƣơng ức, cắt tiếp từ xƣơng đòn đến xƣơng vai, bỏ da từ cơ ngực lớn đến xƣơng vai. Lấy cơ ngực lớn và cơ ngực bé ra khỏi xƣơng, cân khối lƣợng và nhân đôi ta đƣợc khối lƣợng cơ ngực. Khối lƣợng cơ ngực (g) Tỷ lệ cơ ngực (%) = x 100 Khối lƣợng thịt xẻ (g) + Tỷ lệ cơ ngực + cơ đùi: Khối lƣợng cơ ngực + khối lƣợng cơ đùi (g) Tỷ lệ cơ ngực+cơ đùi (%) = x 100 Khối lƣợng thịt xẻ (g) - Xác định thành phần hoá học của cơ đùi, cơ ngực, tại Phòng Thí nghiệm Trung tâm, Trƣờng Đại học Nông Lâm Thái Nguyên theo các phƣơng pháp sau: + Phƣơng pháp xác định hàm lƣợng vật chất khô theo TCVN.43.26-86 [48] + Xác định hàm lƣợng protein thô theo TCVN.43.28-86 [49] bằng phƣơng pháp Kieldahl trên máy Gerhard. Xác định hàm lƣợng N trong mẫu và nhân với yếu tố hiệu chỉnh là 6,25. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 47 + Xác định hàm lƣợng mỡ thô theo TCVN.43.31-86 [50] bằng phƣơng pháp Soxhlet trên máy Gerhard. + Xác định hàm lƣợng khoáng tổng số theo TCVN.43.27-86 [51]. - Xác định chỉ số sản xuất PI và chỉ số kinh tế EN. + Chỉ số sản xuất : Chỉ số sản xuất PI (Performance – Index) đƣợc tính theo công thức của Ing J.M.E, Whyte, 1995 [78]. Tỷ lệ nuôi sống cộng dồn (%) x Sinh trƣởng tuyệt đối cộng dồn (g/con/ngày) PI = TTTA/kg tăng khối lƣợng cộng dồn x 10 + Chỉ số kinh tế EN (Economic Number) Chỉ số sản xuất (PI) EN = x 1000 Chi phí thức ăn (đ)/kg tăng khối lƣợng 2.2.4.5. Phương pháp xử lý số liệu: Các số liệu thu đƣợc xử lý bằng phƣơng pháp thống kê sinh vật học của Nguyễn Văn Thiện và cộng sự, 2002 [41] và phần mềm Excel. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 48 CHƢƠNG 3 KẾT QUẢ VÀ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ 3.1. Tỷ lệ nuôi sống của gà thí nghiệm qua các tuần tuổi Tỷ lệ nuôi sống là chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật quan trọng cần đƣợc quan tâm đầu tiên, phản ánh sức sống, tình trạng sức khoẻ khả năng chống chịu bệnh tật, khả năng thích nghi với điều kiện ngoại cảnh của gia cầm, nó phụ thuộc vào yếu tố di truyền. Ngoài ra nó còn phụ thuộc vào yếu tố chăm sóc, nuôi dƣỡng, vệ sinh thú y. Trong chăn nuôi tỷ lệ nuôi sống ảnh hƣởng trực tiếp đến hiệu quả kinh tế và giá thành sản phẩm. Muốn đạt tỷ lệ nuôi sống cao cần phải có giống tốt, thực hiện nghiêm túc quy trình vệ sinh thú y, phòng trừ dịch bệnh, đảm bảo cho con giống phát huy hết đƣợc tiềm năng di truyền. Tỷ lệ nuôi sống của gà thí nghiệm đƣợc thể hiện ở bảng 3.1. Số liệu bảng 3.1 cho thấy: Gà ở tất cả các lô thí nghiệm có tỷ lệ nuôi sống đạt khá cao, tuy nhiên trong các mùa vụ và các phƣơng thức nuôi khác nhau thì khả năng thích nghi của gà Sasso thƣơng phẩm cũng có sự khác nhau: - Tỷ lệ nuôi sống của gà thí nghiệm 9 tuần tuổi tính chung cho vụ Xuân - Hè là 96,44% và vụ Thu - Đông là 97,55%. Nhƣ vậy, gà thí nghiệm có khả năng thích nghi tốt ở cả 2 mùa vụ. Tỷ lệ nuôi sống của gà thí nghiệm sau 9 tuần tuổi tính chung cho phƣơng thức nuôi nhốt là 96,89%; phƣơng thức bán nuôi nhốt là 97,11%. Vậy ở đây gà Sasso thƣơng phẩm nuôi trong phƣơng thức bán nuôi nhốt có tỷ lệ nuôi sống cao hơn trong phƣơng thức nuôi nhốt. - So sánh tỷ lệ nuôi sống của các lô thí nghiệm qua 3 lần nuôi cho thấy: Lô thí nghiệm nuôi nhốt vụ Thu - Đông cho kết quả cao nhất , tiếp đến là lô bán nuôi nhốt vụ Thu - Đông, lô bán nuôi nhốt vụ Xuân - Hè và cuối cùng là lô nuôi nhốt vụ Xuân Hè, với kết quả lần lƣợt nhƣ sau: 97,78%, 97,33%, 96,89% và 96,00%. Kết quả theo dõi về tỷ lệ nuôi sống còn cho thấy vụ Thu - Đông có tỷ lệ nuôi sống cao hơn khoảng 1% (96% so với 97%) so với vụ Xuân - Hè. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 49 Bảng 3.1. Tỷ lệ nuôi sống cộng dồn của gà thí nghiệm (n=3 đàn) Đơn vị: % Tuần Tuổi Vụ Xuân - Hè Vụ Thu - Đông Nuôi nhốt Bán nuôi nhốt Nuôi nhốt Bán nuôi nhốt X X X X 1 97,78 98,22 98,67 98,67 2 97,78 97,78 98,67 98,67 3 97,78 97,78 98,67 98,67 4 97,33 97,33 98,22 97,78 5 97,33 97,33 98,22 97,33 6 96,89 97,33 98,22 97,33 7 96,00 96,89 97,78 97,33 8 96,00 96,89 97,78 97,33 9 96,00 96,89 97,78 97,33 So sánh tỷ lệ nuôi sống cộng dồn đến 9 tuần Theo mùa vụ và Phƣơng thức nuôi TB Theo mùa vụ TB Theo phƣơng thức nuôi Xuân - Hè Thu - Đông Nhốt Bán nuôi nhốt 96,44 97,55 96,89 97,11 Theo chúng tôi có thể là do thời tiết vụ Xuân - Hè có mƣa phùn, ẩm độ cao nên gà chết nhiều hơn vụ Thu - Đông. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cao hơn kết quả nghiên cứu của Nguyễn Tuấn Thực, 2006 [52] trên đàn gà Sasso bố mẹ (96,44% so với 93% ở vụ Xuân - Hè và 97,55% so với 95% ở vụ Thu - Đông). Tuy nhiên, nếu so sánh với kết quả nghiên cứu của Trần Thanh Vân, 2002 [57] thì kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn 1,56% ở vụ Xuân - Hè (96,44% so với 98%) và 1,29% ở vụ Thu - Đông (97,11% so với 99%). So với kết quả nuôi gà Sasso vụ Xuân – Hè và vụ Thu – Đông của Trần Thanh Vân và cộng sự , 2007 [59] có tỷ lệ nuôi sống là (95 - 96% và 97 - 98%) thì kết quả của chúng tôi là tƣơng đƣơng. Qua các thí nghiệm trên chúng tôi nhận thấy rằng gà thƣờng bị chết ở các giai đoạn đầu (nhất là tuần 1), ở các tuần cuối của thí nghiệm thì tỷ lệ nuôi sống ổn định hơn. Theo chúng tôi, lí do là ở giai đoạn đầu gà còn yếu do vận chuyển đƣờng dài và còn non sức đề kháng kém, dễ nhiễm bệnh tật, chức năng điều hoà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 50 thân nhiệt chƣa cao nên đã ảnh hƣởng đến khả năng chống đỡ bệnh tật và các điều kiện môi trƣờng bất lợi. Để đạt đƣợc tỷ lệ nuôi sống cao nhƣ vậy, theo chúng tôi, bên cạnh việ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdoc279.pdf
Tài liệu liên quan