Tài liệu Luận văn Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Của nhất linh qua 'đôi bạn" và "bướm trắng": Số húa bởi Trung tõm Học liệu – Đại học Thỏi Nguyờn
đại học thái nguyên
Trường đại học sư phạm
----------------------
Nguyễn Thị Mai Hương
Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết
Của nhất linh qua 'đôi bạn" và "bướm trắng"
Luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn
Thái Nguyên. 2008
Số húa bởi Trung tõm Học liệu – Đại học Thỏi Nguyờn
đại học thái nguyên
Trường đại học sư phạm
----------------------
Nguyễn Thị Mai Hương
Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết
Của nhất linh qua 'đôi bạn" và "bướm trắng"
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34
Luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn
Người hướng dẫn khoa học
TS.Ngụ Văn Thư
Thái Nguyên. 2008
Số húa bởi Trung tõm Học liệu – Đại học Thỏi Nguyờn
Mục lục
A. Mở đầu .............................................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài .........................................................................
123 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1379 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Của nhất linh qua 'đôi bạn" và "bướm trắng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
®¹i häc th¸i nguyªn
Trêng ®¹i häc s ph¹m
----------------------
NguyÔn ThÞ Mai H¬ng
NghÖ thuËt x©y dùng nh©n vËt trong tiÓu thuyÕt
Cña nhÊt linh qua '®«i b¹n" vµ "bím tr¾ng"
LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc ng÷ v¨n
Th¸i Nguyªn. 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
®¹i häc th¸i nguyªn
Trêng ®¹i häc s ph¹m
----------------------
NguyÔn ThÞ Mai H¬ng
NghÖ thuËt x©y dùng nh©n vËt trong tiÓu thuyÕt
Cña nhÊt linh qua '®«i b¹n" vµ "bím tr¾ng"
Chuyªn ngµnh: V¨n häc ViÖt Nam
M· sè: 60.22.34
LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc ng÷ v¨n
Người hướng dẫn khoa học
TS.Ngô Văn Thư
Th¸i Nguyªn. 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Môc lôc
A. Më ®Çu .............................................................................................................................. 1
1. Lý do chän ®Ò tµi ................................................................................................................... 1
2. LÞch sö vÊn ®Ò ....................................................................................................................... 2
3. §èi tîng, ph¹m vi nghiªn cøu .......................................................................................... 11
4. Ph¬ng ph¸p nghiªn cøu ................................................................................................... 12
5. §ãng gãp cña luËn v¨n ...................................................................................................... 13
6. CÊu tróc luËn v¨n .............................................................................................................. 13
B. Néi dung ........................................................................................................................ 15
Ch¬ng I ............................................................................................................................. 15
Quan niÖm tiÓu thuyÕt, nh©n vËt tiÓu thuyÕt
Hai kiÓu tiÓu thuyÕt cña NhÊt Linh
1.1 Quan niÖm tiÓu thuyÕt vµ nh©n vËt tiÓu thuyÕt ............................................................... 15
1.1.1. Quan niÖm tiÓu thuyÕt ............................................................................................ 15
1.1.2. Quan niÖm nh©n vËt tiÓu thuyÕt .............................................................................. 19
1.2. Quan niÖm cña NhÊt Linh vÒ tiÓu thuyÕt ...................................................................... 22
1.3. Hai kiÓu tiÓu thuyÕt cña NhÊt Linh ................................................................................ 26
1.3.1. TiÓu thuyÕt luËn ®Ò .................................................................................................. 26
1.3.2 TiÓu thuyÕt t©m lý .................................................................................................... 30
TiÓu kÕt ch¬ng I ................................................................................................................... 35
Ch¬ng II ........................................................................................................................... 37
Nh©n vËt vµ kÕt cÊu cèt truyÖn trong §«i b¹n vµ Bím tr¾ng
2.1. Quan niÖm cña NhÊt Linh vÒ con ngêi ....................................................................... .37
2.1.1. Quan niÖm vÒ con ngêi trong v¨n häc ................................................................. .37
2.1.2. Quan niÖm vÒ con ngêi trong s¸ng t¸c cña NhÊt Linh ....................................... .40
2.2. Quan hÖ gi÷a cèt truyÖn vµ sù thÓ hiÖn nh©n vËt trong tiÓu thuyÕt cña NhÊt Linh .... .46
2.2.1. VÊn ®Ò cèt truyÖn cña tiÓu thuyÕt .......................................................................... .46
2.2.2. TiÕn tr×nh cèt truyÖn: Trong tiÓu thuyÕt luËn ®Ò x· héi vµ tiÓu thuyÕt t©m lý ... ..48
2.3. Hµnh tr×nh sè phËn vµ hµnh tr×nh néi t©m trong §«i b¹n ......................................... ..53
2.3.1. §«i b¹n mét tiÓu thuyÕt luËn ®Ò x· héi víi nhiÒu yÕu tè t©m lý ........................ ..53
2.3.2. Con ngêi hµnh ®éng vµ con ngêi suy tëng ë §«i b¹n ................................. ..58
2.4. Hµnh tr×nh cña nh©n vËt trong Bím tr¾ng ................................................................ ..62
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
2.4.1. Bím tr¾ng mét tiÓu thuyÕt t©m lý ..................................................................... ..62
2.4.2. Cèt truyÖn cña tiÓu thuyÕt Bím tr¾ng ............................................................... ..67
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2.4.3. Hµnh tr×nh t©m lý nh©n vËt chÝnh trong tiÓu thuyÕt Bím tr¾ng.68
TiÓu kÕt ch¬ng II ............................................................................................................... ..72
CH¦¥NG III: C¸c thñ ph¸p x©y dùng nh©n vËt
trong §«i b¹n vµ Bím tr¾ng
................................................................................................................................................ .74
3.1. C¸c thñ ph¸p thÓ hiÖn thÕ giíi bªn trong cña nh©n vËt trong §«i b¹n vµ Bím tr¾ng
............................................................................................................................................... ..74
3.1.1. §èi tho¹i t©m lý .................................................................................................... ..74
3.1.1.1. §èi tho¹i mang tÝnh chÊt ¸m chØ ................................................................. ..75
3.1.1.2. §èi tho¹i qua hµnh vi vµ cö chØ ................................................................... ..80
3.1.2. §éc tho¹i néi t©m ................................................................................................ ..83
3.1.3. ThÓ hiÖn t©m lý nh©n vËt qua t¶ c¶nh thiªn nhiªn ........................................... ..90
3.2. M« t¶ h×nh thøc bªn ngoµi cña nh©n vËt trong mèi quan hÖ víi thÕ giíi néi t©m s©u kÝn ..93
TiÓu kÕt ch¬ng III ............................................................................................................... ..98
C. KÕt luËn ..................................................................................................................... ..99
Tµi liÖu tham kh¶o ................................................................................................... 103
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
A - MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Năm 1941, trên báo Thanh Nghị , Đinh Gia Trinh đã kết thúc bài tiểu luận
bàn về tính cách văn chương thời kì Âu hoá như sau:
“ Văn chương Việt Nam xưa biểu hiện cho một tinh thần của một Á Đông
chưa đem đời sống của nó hoà nhịp với đời sống của Tây Phương và của hoàn
cầu. Trong khoảng non một thế kỉ này , trong sự sống chung với người Pháp ,
chúng ta đã hưởng thụ nhiều cái mới lạ của văn minh Âu Châu. Những thói cũ ở
văn nghệ , ở triết học đối với chúng ta không có một giá trị tuyệt đối như xưa
nữa. Chúng ta đã ra khỏi căn nhà nhỏ của ta để ý nhìn những miền trời xa rộng
và do những điều trông thấy, cảm thấy, chúng ta đã đổi một ít phương châm xét
đoán của giá trị tư tưởng và nghệ thuật của nước nhà . “ Sự cách mệnh tinh thần
ấy đã làm nảy nở ra một nền văn chương mới ở đầu thế kỉ thứ XX này [43, 32-
33].
Những nhận xét trên phần nào nói lên được một thực tế, đó là quá trình
hiện đại hoá của Văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX. Với quá trình ấy, thời trung
đại đi dần tới chung cục và ánh sáng của một thời đại mới - thời hiện đại - lan
toả dần vào văn học dân tộc; văn học Việt Nam bước ra khỏi quỹ đạo vùng
Đông Á để ra nhập quỹ đạo toàn thế giới và không bị lạc lõng trong quỹ đạo ấy.
Quá trình hiện đại hoá của văn học Việt Nam đã diễn r a một cách đặc
biệt, mau lẹ và phức tạp trên tất cả các phương diện, các tiêu chí định tính nền
văn học, trong đó có tiêu chí thể loại. Trên con đường hiện đại hoá, hệ thống văn
học thể loại truyền thống từng bị phá vỡ để dần dần hình thành nên một cấu trúc
thể loại của văn học hiện đại. Trong cấu trúc ấy “Tiểu thuyết xuất hiện và được
hiện đại hoá dưới ảnh hưởng của tiểu thuyết Phương Tây ” [21, 50], quan sát
những bước đi của thể loại ấy ta sẽ ít nhiều thấy được hành trình của cả nền văn
học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Mặt khác, ngay trong quá trình sáng tác của một tác giả nhiều khi cũng
thể hiện phần nào đó sự vận động của nền văn học. Nhất Linh - Nguyễn Tường
Tam (1906-1963) là một tác gi ả như vậy . Ông bắt đầu sáng tác từ những năm
20, thành công hơn cả những năm 30 và kết thúc sự nghiệp cầm bút của mình
vào đầu những năm 60 của thế kỉ XX. Trong quá trình đó, các tác phẩm của ông
- chủ yếu ở thể loại tiểu thuyết "biến đổi rất mau” (Vũ Ngọc Phan) về nội dung
tư tưởng cũng như về hình thức nghệ thuật.
Đã có nhiêu bài viết, công trình nghiên cứu về những thành tựu nghệ thuật
của Nhất Linh. Nhưng dường như ít đi sâu vào mặt nghệ thuật xây dựng nhân
vật trong những tác phẩm cụ thể, đặc biệt là hai tiểu thuyết “Đôi Bạn ” và “
Bướm trắng”.
Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi đã chọn đề tài “Nghệ thuật xây dựng
nhân vật trong tiểu thuyết của Nhất Linh qua “Đôi bạn ” và “Bướm trắng” làm
đối tượng nghiên cứu, với mong muốn có thể góp một tiếng nói, một ý kiến
trong sự nghiên cứu chung và tìm hiểu rõ hơn nghệ thuật xây dựng nhân vật
trong sự vận động của một thể loại ở quá trình sáng tác của một tác giả. Từ “Đôi
bạn” đến “Bướm trắng”là hai tác phẩm tiêu biểu của Nhất Linh, là mốc chính
cho sự quan sát quá trình vận động thể loại tiểu thuyết luận đề sang tiểu thuyết
tâm lý, một bước tiến dài, là một thành tựu mới trong sự nghiệp văn chương của
Nhất Linh, một bước ngoặt quan trọng đánh dấu sự đổi mới trong tư tưởng cũng
như về mặt nghệ thuật tiểu thuyết của ông. Nói như Phạm Thế Ngũ: đến “Bướm
trắng có thể coi như giai đoạn thành tựu của một văn tài đã chín” [ 30, 151]
2.Lịch sử vấn đề
Sự xuất hiện của Nhất Linh gắn liền với sự ra đời của một tổ chức văn học
có tên “Tự lực văn đoàn” dưới sự dẫn đạo của ông “đã làm mưa làm gió trên văn
đàn”, đã góp phần làm thay đổi diện mạo văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX.
Bởi vậy, số lượng bài viết và các công trình nghiên c ứu về tác giả này khá
phong phú, đề cập đến nhiều phương diện về con người và văn nghiệp . Trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
khuôn khổ vấn đề nghiên cứu, chúng tôi chủ yếu dừng lại khảo sát các ý kiến
trực tiếp liên quan tới nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Nhất
Linh nói chung và hai tiểu thuyết “Đôi bạn” và “Bướm trắng” nói riêng, sắp xếp
chúng theo trình tự thời gian nhằm tái hiện một cách khách q uan những quan
điểm đánh giá ấy.
2.1. Các ý kiến đánh giá về nghệ thuật tiểu thuyết và xây dựng nhân vật trong
tiểu thuyết của Nhất Linh
Ngay từ khi xuất hiện trên văn đàn, tiểu thuyết của Nhất Linh đã thu hút
được sự chú ý của bạn đọc và giới nghiên cứu, phê bình. Các nhà nghiên cứu
phê bình văn học cùng thời với Nhất Linh, đã có nhiều bài viết đánh giá sâu sắc,
phản ánh đúng vai trò đi tiên phong trong lĩnh vực đổi mới văn học , trong đó
cũng đề cập đến phương diện nghệ thuật xây dựng nhân vật tiểu thuyết . Tiêu
biểu là các tác phẩm và bài viết như: Bài viết về Đoạn tuyệt (đăng trên báo Loa
năm 1935); về Lạnh lùng (đăng trên báo Hữu Ích năm 1937) của Trương Tửu ;
tác phẩm Dưới mắt tôi (1939) của Trương Chính ; Việt Nam văn học sử yếu
(1941) của Dương Quảng Hàm ; Nhà văn hiện đại (1942) của Vũ Ngọc
Phan…Khẳng định giá trị của Đoạn tuyệt trong tác phẩm Dưới mắt tôi (1939)
Trương Chính cũng đề cao nghệ thuật xây dựng nhân vật ở đây “Đoạn tuyệt là
một kiệt tác trong văn học Việt Nam hiện đại. Vì Đọan tuyệt không chỉ có giá trị
xã hội , nó còn có một giá tr ị tâm lí không ai chối cãi được. Ông Nhất Linh đã
dùng một cách quan sát rất tinh vi để tả những trạng thái phiền phức trong tâm
hồn riêng của nhân vật trong truyện để đi sâu vào đời riêng tư của họ” [6, 18].
Với Lạnh lùng, ông tiếp tục khẳng định: “Không thể lọt qua trí quan sát của ông,
những tư tưởng ta giấu kín tận đáy lòng như những con vật xấu xa. Người trong
truyện vì thế mà linh động ” [6, 27].
Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan cũng nêu lên những nhận định khái quát
về nghệ thuật tiểu thuyết của Nhất Linh như sau: “Nếu đọc Nhất Linh, từ Nho
phong cho đến những t iểu thuyết gần đây nhất của ông, người ta thấy tiểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
thuyết của ông biến đổi rất mau. Ông viết từ tiểu thuyết ái tình, tiểu thuyết tình
cảm, qua tiểu thuyết luận đề, đến tiểu thuyết tâm lí; sự tiến hoá ấy chứng tỏ rằng
mỗi ngày ông càng muốn đi sâu vào tâm hồn con người ta ” [35, 234]. Nhìn
chung, các ý kiến đánh giá về nghệ thuật ti ểu thuyết của Nhất Linh thời kì này
chưa thật sự phong phú. Có ý kiến thì đề cao , có ý kiến thì nghiêm khắc nhìn
nhận, nhưng nhìn một cách bao quát , tất cả các nhà nghiên cứu đều thừa nhận
phương diện đổi mới trong nghệ thuật tiểu thuyết của Nhất Linh.
Giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám, trong thời đại lịch sử mới, những ý
kiến đánh giá về nghệ thuật Tự lực văn đoàn nói chung và tiểu thuyết Nhất Linh
nói riêng có nhiều ảnh hưởng sâu sắc. Thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp
(1946-1954), trong xu thế khẳng định của nền văn học Cách mạng, Đoạn tuyệt
(1935) với những cái được coi là uỷ mị, sầu thảm cũng như ý thức đề cao cá
nhân của văn học lãng mạn , các nhà nghiên cứu hầu như không lưu tâm t ới
những tác phẩm của Nhất Linh, phải tới sau những năm 1954, chúng mới được
nghiên cứu trở lại . Nhưng do tình hình chính trị của đất nước mà việc nghiên
cứu về Nhất Linh cũng được chia thành hai bộ phận theo hai miền Nam - Bắc.
Trên thực tế, lối phê bình thời kì này chủ yếu dựa trên quan điểm xã hội học và
bị chi phối bởi tư tưởng chính trị. Mặt khác, tư tưởng chính trị của Nhất Linh có
thay đổi theo chiều hướng tiêu cực khi ông chuyển vào miền Nam thành lập
chính phủ thân Nhật.
Vì thế mà nảy sinh một hiện tượng: Trên phương diện tư tưởng, tiểu thuyết của
Nhất Linh được đề cao ở miền Nam, bị phê phán ở miền Bắc , nhưng trên
phương diện nghệ thuật có điểm gặp gỡ giữa các nhà nghiên cứu hai miền.
Ở miền Nam, nghiên cứu về Nhất Linh, bên cạnh những bài báo đăng trên
những tạp trí Văn và Văn học, chúng ta phải kể đến các chuyên luận, các công
trình văn học sử viết dưới dạng giáo trình dùng trong các trường trung học, đại
học. Tiêu biểu là các công trình của Nguyễn Văn Xung ( Bình giảng về Tự lực
văn đoàn, 1958), Phạm Thế Ngũ (Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, 1960),
Lê Hữu Mụ c (Khảo luận về Đoạn tuyệt, tức luận về Nhất Linh,1960), Doãn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Quốc Sỹ (Tự lực văn đoàn, 1960), Thanh Lãng (Văn học thế hệ 1932, in trong:
Bảng lược đồ văn học Việt Nam, quyển hạ , 1967), Bùi Xuân Bào ( Le roman
Vietnamien contemporain, 1972), Vũ Hân ( Văn học Việt Nam thế kỷ XIX tiền
bán thế kỷ XX : 1800-1945, 1973), Thế Phong ( Nhà văn tiền chiến 1930 - 1940,
1974) …
Trong cuốn Bình giảng về Tự lực văn đoàn , Nguyễn Văn Xung , với cái
nhìn so sánh với Khái Hưng, cho rằng “Nhất Linh không phải tả cảnh như Khái
Hưng nhưng là để móc vào đấy những biến đổi uyển chuyển trong tình cảm của
nhân vật “ [ 47, 65]. Còn Lê Hữu Mục thì khẳng định: “Nhất Linh có những
nhận xét tâm lý rất tinh luyện (…) Nhân vật Nhất Linh sống với những cảm xúc
rất phức tạp” [29, 90], Thanh Lãng cho rằng trong việc xây dựng nhân vật của
Nhất Linh càng về sau “càng bỏ sự động đạt để đi vào con đường phân tích tỉ
mỉ, bình lặng, tình cảm ” [ 19, 747], Phạm Thế Ngũ thì nhận xét về nghệ thuật
xây dựng nhân vật Nhung trong tiểu thuyết Lạnh lùng là “tâm lí ái tình được ghi
nhận và diễn đạt một cách khá vi diệu (…) Người ta thấy ảnh hưởng của Prust
và Frend nữa trong cái bút pháp của tác giả mô tả ái tình, dục tình, trỗi dậy trong
lòng Nhung ” [30, 463] .
Ý kiến có thể là hơi quá đề cao, song qua đó, chúng tôi nhận thấy các nhà
nghiên cứu phê bình ở đây đã chỉ ra được những đổi mới về phương diện nghệ
thuật thể hiện nhân vật của Nhất Linh ở hai thể loại tiểu thuyết.
Ở miền Bắc, các công trình của nhóm Lê Quý Đôn (Lược thảo lịch sử văn
học Việt Nam, tập 3 - từ giữa thế kỉ XIX đến năm 1945, 1957), của Bạch Năng
Thi - Phan Cự Đệ (Văn học Việt Nam 1930 -1945, tập 1 , 1961), bài viết của
Nguyễn Đức Đàn (Mấy ý kiến về Nhất Linh và Khái Hưng - Hai nhà văn tiêu
biểu trong Tự lực văn đoàn, 1958)… đã cho thấy một cách nhìn khá khách quan
về tiểu thuyết của Nhất Linh.
Nhóm Lê Quý Đôn nhận xét rằng với tiểu thuyết Tự lực văn đoàn “cả một
thế giới tâm tình trước kia hé mở một cách rụt rè, e lệ, bây giờ được phơi bầy
mổ xẻ tinh vi” [9,296], “Nhất Linh thành công ở cách bố trí truyện , cách sử
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
dụng cảnh vật xung quanh để làm nổi bật tâm lí nhân vật” [9, 331]. Bạch Năng
Thi trong cuốn Văn học Vi ệt Nam 1930-1945 đã khẳng định : “Nhất Linh ngó
sâu vào mâu thuẫn trong tâm hồn; tấn bi kịch âm ỉ, đôi lúc bùng ra, luôn luôn có
sức hấp dẫn” [41, 107].
Do nhìn nhận tác phẩm văn h ọc theo quan điểm xã hội học nên nhìn
chung, các ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu cả hai miền Nam - Bắc phần
lớn rơi vào phán xét tiểu thuyết của Nhất Linh theo quan điểm đạo đức xã hội.
Nhưng một số ý kiến đã đề cập đến sự đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết Nhất Linh,
trong đó có nghệ thuật xây dựng nhân vật.
Bước vào giai đoạn sau Đại hội Đảng VI (1986); trong xu thế đổi mới ,
một số hiện tượng văn học quá khứ được nhìn nhận, đánh giá lại và được đánh
giá toàn diện hơn , trong đó nổi bật lên là những tác phẩm của Nhất Linh . Các
công trình nghiên cứu của các tác giả như: Phan Cự Đệ (Tự lực văn đoàn - con
người và văn chương), Hà Minh Đức ( Các bài giảng về Đoạn tuyệt , Đôi bạn
trong tác phẩm văn học 1930 -1945); Trương Chính (Vấn đề đánh giá Tự lực
văn đoàn; Tự lực văn đoàn; Nhìn lại vấn đề giải phóng phụ nữ trong tiểu thuyết
Tự lực văn đoàn ); Nguyễn Hoành Khung (Văn học Việt Nam 1930 -1945; Lời
giới thiệu bộ sách Văn xuôi lãng mạn trong văn học Việt Nam từ đầu những năm
1930 đến 1945), Trần Đình Hượu (Tự lực văn đoàn, nhìn từ góc độ tính liên tục
của lịch sử qua bước ngoặt hiện đại hoá trong lịch sử văn học Phương Đông);
Nguyễn Trác - Đái Xuân Linh (Về Tự lực văn đoàn), Lê Thị Đức Hạnh (Thêm
mấy ý kiến đánh giá về tự Tự lực văn đoàn ; Tự lực văn đoàn và Thơ mới ); Vu
Gia (Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hoá văn học), Lê Thị Dục Tú ( Quan
niệm về con người trong tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn), Trịnh Hồ Khoa
(Những đóng góp của Tự lực văn đoàn xây dựng cho một nền văn xuôi Việt Nam
hiện đại), Vũ Thị Khánh Dần ( Tiểu thuyết của Nhất Linh trước Cách mạng
tháng Tám), Dương Thị Hương (Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật trong tiểu
thuyết Tự lực văn đoàn)… đã thể hiện một sự đánh giá phong phú một cách nhìn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
toàn diện, đúng đắn và đa chiều về tiểu thuyết Tự lực văn đoàn cũng như tiểu
thuyết Nhất Linh.
Chúng tôi có thể dẫn ra đây một số ý kiến tiêu biểu. Chẳng hạn , Dương
Thị Hương trong công trình nghiên cứu của m ình về Nghệ thuật miêu tả tâm lý
nhân vật trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã khẳng định tiểu thuyết luận đề của
Nhất Linh “thành công và chiếm được cảm tình của giới trẻ đương thời vì đã thể
hiện được những luận đề phù hợp với chân lý đời sống, đem lại những khám phá
chân thực về nhân vật, về tâm lý” [ 16, 51]. Nguyễn Hoành Khung thì nhận xét:
“Với Lạnh lùng, Nhất Linh không còn gò cốt truyện, dàn nhân vật nhằm minh
hoạ cho một luận đề nữa, mà đưa ngòi bút đi sâ u hơn vào việc phân tích tâm lý,
tình cảm, ở đây là tâm lý ái tình , và đạt tới một trình độ ti ểu thuyết già dặn,
thành thục” [18, 32]. Với Phan Cự Đệ đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật
của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, đã khẳng định: “Ngòi bút của Nhất Linh rất có
tài miêu tả những mối tình đầu trong sáng, đượm chút nhập ngừng, e thẹn, kín
đáo và ý nhị ” [11, 43].
Ngoài việc khẳng định những thành công, các nhà nghiên cứu cũng
nghiêm khắc chỉ ra những điểm hạn chế trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của
tiểu thuyết Nhất Linh. Chẳng hạn Vũ Thị Khánh Dần cho rằng: “Tiểu thuyết của
Nhất Linh còn một số hạn chế mang tính lịch sử, một số nhân vật thiếu sức sống
lâu bền, do tính cách chưa sắc cạnh, tâm lý nhân vật còn đơn giản” [8, 115]. Ngô
Văn Chương cho rằng ở Đoạn tuyệt có những chi tiết vô lý, không hợp quy luật
tình cảm “Loan đang nghĩ tới Dũng s ao lại âu yếm với Thân ngay được” [7 ,
173], còn Phạm Thế Ngũ nhận xét : “Đọc Đoạn tuyệt, ngày nay ai cũng nhận
thấy tính gò ép của câu chuyện, những chi tiết thâu nhập vội vàng để chứng
minh cho một ý định (…) Ngay nhân vật Loan cũng đầy mâu thuẫn, cứng nhắc
và giả dối nữa” [30, 150]. Dương Thị Hương cũng chỉ ra mặt hạn chế trong nghệ
thuật xây dựng nhân vật của Nhất Linh trong tiểu thuyết tâm lý: “Nhân vật được
miêu tả trong thế giới cô lập, khép kín , vì vậy quá trình tâm lý hoặc các trạng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
thái tâm lý của nó được nhìn nhận bởi cái nhìn chủ quan của tác giả và nhân vật
nhiều hơn bởi sự tác động của hoàn cảnh” [16, 148].
Như vậy , các ý kiến đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật của tiểu
thuyết Nhất Linh là rất phong phú, đa dạng. Bên cạnh chỉ ra những cách tân,
những đóng góp của nhà văn đối với tiến trình văn học, các nhà nghiên cứu cũng
chỉ rõ những mặt hạn chế, những điểm chưa hoàn thiện của nhà văn Nhất Linh.
Nguyên nhân của những hạn chế đó ở tiểu thuyết Nhất Linh, theo chúng tôi, một
phần nhà văn chịu ảnh hưởng của việc xử lý những vấn đề xã hội được đặt ra
trong tác phẩm ; một phần bị qui định bởi đặc điểm thi pháp của chủ nghĩa lãng
mạn; phần khác có lẽ bởi nhà văn Nhất Linh đang ở giai đoạn tìm tòi một hướng
đi mới cho tiểu thuyết Việt Nam.
2.2. Các ý kiến đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết
“Đôi bạn” (1938) và “Bướm trắng” ( 1939) của Nhất Linh
Khi đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Đôi bạn,
Đặng Tiến, cuốn Hạnh phúc trong tác phẩm Nhất Linh, 1965, Văn nghệ số 37
viết về Đôi bạn : “Nhân vật Nhất Linh sống trong không gian không phải là hạ
giới mà trong không gian nội tâm; Dũng sống không phải trong mùa thu trước
mặt, mà là mùa thu của lòng chàng, một mùa thu đã đi qua , một mùa thu chưa
tới và một mùa thu có thể không bao giờ có trong trời đất ”.
Trong công cuộc đổ i mới về nhiều mặt của đất nước , nhất là từ sau Đại
hội Đảng VI (thời kì đổi mới) - một đời sống mới trên cơ sở đổi mới tư duy đã
giúp cho các nhà khoa học thẩm định lại những vấn đề trong quá khứ một cách
khách quan hơn. Nhất Linh trở về với độc giả qua hàng loạt các tiểu thuyết được
tái bản năm 1988. Các giá trị văn học được tiếp cận trên cơ sở lấy tiêu chí văn
học, nghệ thuật Nguyễn Hoành Khung trong cuốn Văn xuôi lãng mạn Việt Nam
(1930 - 1945) có nhận xét: “Đến Đôi bạn, Nhất Linh lại trở lại với những nhân
vật yêu dấu của mình(…) Tác phẩm đào sâu tâm t ư, khát vọng của một lớp
thanh niên, không luận đề, không tuyên ngôn, nhưng Đôi bạn lại như tác phẩm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
được ấp ủ, gửi gắm tâm sự, phô diễn tâm trạng nhiều nhất của nhà văn” [18,32].
Phan Cự Đệ trong Lời giới thiệu tiểu thuyết Đôi bạn (NXB Đại học và Giáo dục
chuyên nghiệp, 1988) đã viết: “Tiểu thuyết Đôi bạn là một bữa tiệc tâm lý sang
trọng đôi khi đến mức thừa thãi, hành động của nhân vật và cốt truyện có phần
ngưng trệ và không khí xã hội mờ nhạt hơn so với Đoạn tuyệt. Nhưng đứng về
phương diện nghệ thuật thì Đôi bạn thành công với những nhận xét tâm lý tinh
vi, với một thanh niên giầu cảm xúc và đầy thanh sắc, với một ngôn ngữ trong
sáng trang nhã, giầu chất thơ …Đặc biệt , Đôi bạn có những thành công trong
nghệ thuật xây dựng một cốt truyện tâm lý, trong việc kết hợp tiểu thuyết luận
đề và tiểu thuyết tâm lý ” [12, 375]. Vũ Thị Khánh Dần có nhận xét: “Các nhân
vật trong Đôi bạn là những con người cô đơn (…) Đôi bạn là tiểu thuyết hướng
nội” [8, 81]. Với Đỗ Đức Hiểu trong cuốn Đọc lại Bướm trắng của Nhất Linh
thì cho rằng: “Im lặng, sương mờ, trời lạnh…đó là âm điệu mạnh , xuyên suốt
của Đôi bạn . Như một bản nhạc, như một bài thơ, truyện có những âm thanh
trùng điệp những cảnh đối xứng , và những tiếng vang từ chương này đến
chương khác” [14, 351].
Tiểu thuyết “Bướm trắng” ra đời ở giai đoạn sau trong sự nghiệp sáng tác
của Nhất Linh. Cã nhiÒu yÕu tè phi truyÒn thèng nªn cßn cha thu hút được
sự chú ý của giới nghiên cứu đương thời. Bùi Xuân Bào trong cuốn Tiểu thuyết
Việt Nam hiện đại, đã chỉ ra bước phát triển mới và những khám phá về nghệ
thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Bướm trắng: “Trong Bướm trắng, tâm
hồn một người bệnh bị một tình yêu vô vọng giày vò, được nghiên cứu thấu đáo
mà ta không tìm thấy được thí dụ nào trong các tác phẩm nào khác của Nhất
Linh, cũng như trong tác phẩm của các người đồng thời với ông. Nếu Bướm
trắng đánh dấu một chặng đường mới tr ong sự phát triển của Nhất Linh, thì
chính là vì tác giả đã từ bỏ dứt khoát ở đấy công thức của tiểu thuyết có luận đề
mà, cho tới bây giờ , vẫn luôn luôn là công thức của ông. Ở đây , sự hư cấu mơ
mộng không tìm cách chứng minh điều gì . Nó chỉ nhằm đi sâu vào tâm hồn của
một chàng trai, sinh ra để hưởng niềm vui sống và khao khát hạnh phúc, nhưng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
một căn bệnh hiểm nghèo ngăn anh ta không được hưởng những niềm hi vọng
chân chính nhất ” [2, 130].
Giống với luận điểm nêu trên của Bùi Xuân Bào, khi khẳng định một thế
giới mới trong sáng tác của Nhất Linh qua Bướm trắng - thế giới nội tâm bên
trong, Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tập 3) cũng
khẳng định: “Qua Bướm trắng Nhất Linh cũng đã đưa ngòi bút phân tích tâm lý
vào địa hạt nhân bản muôn thủa với trường hợp b i đát con người bị giằng co
giữa tình yêu và cái chết ” [30, 160].
Những ý kiến đánh giá trên có thể coi là bước mở đường cho các nhà
nghiên cứu miền Bắc nhìn nhận và xem xét về tiểu thuyết Bướm trắng giai đoạn
sau này. Phan Cự Đệ, trong Lời giới thiệu cuốn Đoạn tuyệt ( NXB Đạ i học và
Giáo dục chuyên nghiệp, tái bản năm 1991), đã có ý kiến nhận định khái quát về
nghệ thuật Bướm trắng: “Xét về một phương diện nào đó thì nghệ thuật của Đôi
bạn và Bướm trắng già dặn hơn những nhận xét về tâm lý nhân vật sâu sắc và
tinh vi hơn” [11, 317]. Trong lời giới thiệu nhân tái bản cuốn Bướm trắng năm
1989 Trần Hữu Tá đã chỉ ra những khám phá mới cũng như những hạn chế như
sau: “Đến Bướm trắng Nhất Linh đã thể hiện một phẩm chất nghệ thuật mới:
Tuy có chỗ còn gượng gạo , thiếu tự nhiên nhưng tác giả đã khai thác tinh tế
những tầng những lớp, những ngó c ngách tâm lý éo le, khuất khúc của con
người ” [17, 379].
Trong bài viết Đọc lại Bướm trắng của Nhất Linh, đăng trên Tạp chí Văn
học, số 10-1996, Đỗ Đức Hiểu cũng viết: “Bướm trắng là tiểu thuyết hiện đại ;
nó không phải “cái viết về những cuộc phiêu lưu ”(Như Don Quichote, Thuỷ hử,
Quả dưa đỏ, Tiêu sơn tráng sĩ…) mà “phiêu lưu của cái viết”. “Phiêu lưu” ở đây
là những hành trình qua các ngóc ngách của tình cảm, tư duy, cảm xúc, giấc mơ
đẹp, hoảng loạn, cái sống và cái chết…Bướm trắng, với cốt truyện đơn giản, là
“thế giới bên trong” con người vô cùng biến động cái ý thức và cái tiềm thức,
cái vô lý và cái phi lý, giấc mơ, mê sảng, linh cảm…” [14, 382].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Điểm qua một số ý kiến nhận định tiêu biểu về nghệ thuật xây dựng nhân
vật của tiểu thuyết Nhất Linh cũng như trong hai tiểu thuyết “Đôi bạn ” và
“Bướm trắng”, chúng ta thấy:
1- Các ý kiến đánh giá phong phú, đa dạng, nhưng cũng rất phức tạp. Các
nhà nghiên cứu phần lớn đứng trên quan điểm lịch sử để đánh giá nhận định, cố
gắng tìm tòi những khám phá và đóng góp của Nhất Linh đối với tiến trình văn
học, nhng vÒ nghÖ thuËt tiÓu thuyÕt cßn cha ®i s©u.
2- Đối với hai tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng, giới nghiên cứu nhìn
chung kh¸ thống nhất ý kiến ở phương diện nghệ thuật thể hiện nhân vật và
những khám phá, tìm tòi, thể nghiệm của nhà văn Nhất Linh. Họ đều cho rằng
đây là một trong những nét đổi mới về tư duy nghệ thuật tiểu thuyết. Với phạm
vi nghiên cứu của đề tài , chúng tôi mạnh dạn nêu lên ý kiến: Đôi bạn vẫn còn
nhiều yếu tố của tiểu thuyết luận đề, song việc mô tả tâm lý đã được coi trọng
đặc biệt, nó đã q ui định kết cấu của tiểu thuyết . Đôi bạn là cầu nối giữa tiểu
thuyết luận đề và tiểu thuyết tâm lý . Còn Bướm trắng là một bước đột phá về
nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết, thoát ra khỏi lối xây dựng nhân
vật tiểu thuyết cổ điển cũng như tiểu thuyết luận đề và tâm lý trước đó . Với
Bướm trắng Nhất Linh đã đưa nghệ thuật tiểu thuyết nước ta phần nào tiếp cận
được với tiểu thuyết hiện đại trên thế giới. Nh vËy nghÖ thuËt tiÓu thuyÕt t©m
lý cña NhÊt Linh ®îc nghiªn cøu theo mét qu¸ tr×nh.
3. Đối tượng , phạm vi nghiên cứu
Luận văn khảo sát thế giới hình tượng nhân vật trong tiểu thuyết Đôi bạn
và Bướm trắng, đi sâu vào các thủ pháp xây dựng nhân vật của tiểu thuyết, đặc
biệt chú trọng đến các yếu tố thể hiện tâm lý. Tiểu thuyết là một đơn vị tổ chức
nghệ thuật phức tạp nhiều khía cạnh, nhiều tầng bậc. Nhân vật cũng là một
phương diện của tổ chức nghệ thuật. Do đó việc phân tích nhân vật không tách
rời nghiên cứu các yếu tố khác của tiểu thuyết như cốt truyện, kết cấu, tả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
cảnh...đặc biệt là cốt truyện. Và tiểu thuyết phần nào cả thực chất là hành trình
của số phận nhân vật trong thời gian - trước là cốt truyện.
Về văn bản tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng, chúng tôi căn cứ trong
cuốn Văn chương Tự lực văn đoàn - Nhà xuất bản Giáo dục tái bản lần thứ nhất,
Hà Nội, năm 2001 làm tư liệu chính của mình trong quá trình làm việc.
4 - Phương pháp nghiên cứu
A. Einstein (1879-1955) mang đến cho loài người một nhận thức vĩ đại
không chỉ về vũ trụ mà còn về chính bản thân con người, đó là tính tương đối
của thế giới. Quan niệm của ông đưa đến một hệ quả là không có cái gì tuyệt đối
và hoàn hảo. Nhân vô thập toàn và trong nghiên cứu khoa học cũng vậy. Không
có một phương pháp nào là hoàn m ỹ, thoả mãn mọi mục đích của các nhà
nghiên cứu. Vì vậy, trong luận văn này, chúng tôi đã kết hợp một vài phương
pháp nghiên cứu phù hợp với mục đích nghiên cứu của mình. Đó là do vận dụng
tổng hợp các phương pháp mà các thao tác chính là:
4.1. Phương pháp thống kê phân loại:
Luận văn tiến hành thống kê, phân loại các phương pháp, phưong tiện thể hiện
nhân vật, tần số xuất hiện của chúng trong tác phẩm …từ đó đưa ra những nhận
xét khái quát trên cơ sở nhũng số liệu cụ thể.
4.2. Phương pháp phân tích tổng hợp:
Chúng tôi phân tích những đặc điểm của các thủ pháp nghệ thuật xây dựng nhân
vật trong tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng, từ đó tổng hợp để đi đến những
kết luận cụ thể.
4.3. Phương pháp so sánh đối chiếu:
Được vận dụng trong luận văn khi cần thiết để thấy được những điểm tương
đồng và dị biệt của hai tác phẩm trên với một số tác phẩm khác của Nhất Linh
cùng thể tài và ở giai đoạn trước, để chỉ ra được những bước đổi mới của ông
trong sáng tác. Trong những trường hợp cần thiết , luận văn cũng so sánh nghệ
thuật xây dựng nhân vật của Nhất Linh với các tác giả khác trên hai bình diện
lịch đại và đồng đại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
4.4. Phương pháp lịch sử:
Tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng ra đời trong một hoàn cảnh xã hội văn hoá
cụ thể. Việc vận dụng phương pháp lịch sử để nghiên cứu nghệ thuật xây dựng
nhân vật của hai tiểu thuyết này giúp chúng tôi xác định một cách đúng đắn vị
trí, vai trò và những đóng góp của nó ở phương diện nghệ thuật tiểu thuyết.
5. Đóng góp của luận văn
Tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Đôi bạn và
Bướm trắng , chúng tôi mong muốn góp mộ t phần nhỏ bé vào việc tìm hiểu ,
nghiên cứu thế giới nghệ thuật của hai tiểu thuyết nêu trên, xem nó như một
thành phần quan trọng của toàn bộ hệ thống tác phẩm của nhà văn Nhất Linh.
Mục đích của luận văn là chỉ ra:
- Những thủ pháp xây dựng nhân vật , những đóng góp và những hạn chế
của nghệ thuật tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng.
- Những đóng góp của Nhất Linh đối với tiến trình hiện đại hoá nghệ
thuật tiểu thuyết Việt Nam ở giai đoạn đương thời; đồng thời cũng chỉ ra sự vận
động, chuyển hướng trên cả hai phương diện nội dung tư tưởng cũng như nghệ
thuật trong tiểu thuyết Nhất Linh.
Đây là công trình chuyên biệt đ ầu tiên tập trung nghiên cứu nhân vật của
tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng. Có thể nói với luận văn này, hai tiểu thuyết
Đôi bạn và Bướm trắng được nghiên cứu một cách tỉ mỉ và cụ thể về nghệ thuật
nhân vật . Từ đó , luận văn bước đầu đưa ra nhận định về nh ững đóng góp của
Nhất Linh với tiến trình hiện đại hoá nghệ thuật tiểu thuyết ở giai đoạn sau trong
sự nghiệp sáng tác của ông.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, thư mục tài liệu tham khảo , nội dung chính
của luận văn gồm 3 chương:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
Chương 1: Quan niệm tiểu thuyết , nhân vật tiểu thuyết, hai kiểu tiểu
thuyết của Nhất Linh.
Chương 2 : Nhân vật và kết cấu cốt truyện trong Đôi bạn và Bướm
trắng.
Chương 3 : Các thủ pháp xây dựng nhân vật trong Đôi bạn và Bướm
trắng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
B - NỘI DUNG
CHƯƠNG I
QUAN ĐIỂM VỀ TIỂU THUYẾT, NHÂN VẬT TIỂU THUYẾT
HAI KIỂU TIỂU THUYẾT CỦA NHẤT LINH
1.1 . Quan niệm tiểu thuyết và nhân vật tiểu thuyết
1.1.1. Quan niệm tiểu thuyết
Tiểu thuyết là một trong những thể loại quan trọng nhất của văn chương,
nghệ thuật hiện đại. Không phải ngẫu nhiên mà ngay từ thế kỉ XIX, tiểu thuyết
đã được coi là “hình thái chủ yếu của nghệ thuật ngôn từ". Từ đó cho đến nay,
tiểu thuyết vẫn đứng ở vị trí then chốt trong hệ thống thể loại văn học. Là một
hình thức tự sự cỡ lớn, tiểu thuyết có khả năng riêng trong việc tái hiện với một
quy mô lớn những bức tranh hiện thực đời sống, trong đó chứa đựng nhiều vấn
đề sâu sắc của xã hội, của số phận con người, của lịch sử, của đạo đức, của
phong tục…Nghĩa là nó có năng lực phản ánh hiện thực một cách bao quát và
sinh động theo hướng tiếp cận trên cả bề rộng lẫn chiều sâu của nó.
So với các thể loại khác , tiểu thuyết xuất hiện muộn hơn. Không những
thế, nó “là một thể loại văn chương đang biến chuyển và còn chưa định hình”
(M.Bakhtin). Việc nghiên cứu về thể loại tiểu thuyết là một yêu cầu chủ yếu ,
luôn có tính thời sự của lý luận văn học. Vì vậy, đi tìm quan niệm tiểu thuyết
cũng là vấn đề có ý nghĩa về mặt lí thuyết. Theo M. Bakhtin: “Tiểu thuyết không
đơn thuần chỉ là mộ t thể loại trong nhiều thể loại. Đó là thể loại duy nhất nảy
sinh và được nuôi dưỡng bởi thời đại mới của lịch sử thế giới và vì thế mà thân
thuộc sâu sắc với thời đại ấy ”. [ 3, 21].
Vì những lí do vừa nêu trên , việc đưa ra một khái niệm về thể loại tiểu
thuyết một cách hoàn chỉnh không phải là dễ. Bởi vì đã có khá nhiều quan niệm
khác nhau về tiểu thuyết.
Trước năm 1945, có công trình Bàn về tiểu thuyết của Phạm Quỳnh đăng
trên tạp chí Nam Phong năm 1921. Sau đó là các công trình chuyên khảo về tiểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
thuyết : Theo dòng (1941) của Thạch Lam , Khảo về tiểu thuyết (1941) của Vũ
Bằng. Ngoài ra, còn có một số công trình cũng bàn về một số vấn đề của tiểu
thuyết như Phê bình và cảo luận (1938) của Thiếu Sơn, Nhà văn hiện đại (1942)
của Vũ Ngọc Phan … Tuy nhiên, điểm nhìn và phạm vi nghiên cứu của mỗi
công trình có khác nhau nhưng với sự có mặt của chúng , lịch sử nghiên cứu thể
loại tiểu thuyết đã bước đầu hình thành và đặt nền móng cho việc nghiên cứu thể
loại tiểu thuyết sau này.
Sau năm 1945, việc nghiên cứu thể loại tiểu thuyết được trải rộng ra cả ở hai
miền Bắc – Nam, nhưng tiêu biểu hơn là ở miền Nam. Ở miền Nam, có thể kể
như Nhân vật trong tiểu thuyết (Nhiều tác giả, sáng tạo, số 1/1960); Viết và đọc
tiểu thuyết (Nhất Linh, NXB, Đời nay, 1961); Hiện hữu của tiểu thuyết (Lê
Tuyên, Đại học số 4/1963) ; Tiểu thuyết Việt Nam thế hệ 1932 - 1945 (Thanh
Lãng, Đại học số 2 tháng 4/1961); Tiểu thuyết hiện đại (Tràng Thiên, NXB Thời
mới, 1963); Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết (Nguyễn Văn Trung, Nam Sơn xb,
1965); Sự hình thành của tiểu th uyết mới trong Việt Nam văn học sử giản ước
tân biên (Phạm Thế Ngũ , Quốc học Tùng thư xb, 1965); Chuyện phiếm về tiểu
thuyết của Triều Sơn, Văn số 34, ra ngày 15/5/1965; Văn học và tiểu th uyết
(Doãn Quốc Sỹ, sáng tạo xb, 1973). Ỏ miền Bắc, 150 thuật ngữ văn học của Lại
Nguyên Ân cũng c ó nói đến quan niệm tiểu thuyết ; Lí luận văn học (Phương
Lựu ,NXB Giáo dục - 2002) – Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (Phan Cự Đệ, năm
2000); Lí luận văn học (Hà Minh Đức (Chủ biên) NXB Giáo dục, năm 2002)…
Nếu ở những giai đoạn trước, cách hiểu tiểu thuyết còn mang tính khái
quát để chỉ chung cho tác phẩm văn xuôi, đó là truyện ngắn, truyện vừa, truyện
dài. Lí do là thành tựu sáng tác còn ít ỏi nên chưa có những hệ thống lý luận đầy
đặn về tiểu thuyết, việc đề ra quan niệm về tiểu thuyết, một mặt xuất phát từ
thực tiễn sáng tác; mặt khác một số tác giả đã thâu thái các quan niệm tiểu
thuyết của phương Tây vào Việt Nam dựa trên hoàn cảnh thực tế của văn học
nước nhà. Một hướng khác nữa là do nguồn ảnh hưởng từ “Tân thư” của Trung
Quốc, với n hững tư tưởng “cách mạng văn học” của Lương Khải Siêu ảnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
hưởng tới Việt Nam. Khi viết tiểu thuyết đã trở thành nhu cầu bức thiết của nhà
văn Việt Nam đầu thế kỉ 20 thì lý luận về tiểu thuyết càng trở nên cấp thiết .
Chúng tôi đưa ra một số quan niệm tiêu biểu: Trong “Bàn về tiểu thuyết” Phạm
Quỳnh định nghĩa như sau: “Tiểu thuyết là một truyện viết bằng văn xuôi đặt ra
để tả tình tự người ta, phong tục xã hội, hay là những sự lạ tích kỳ , đủ làm cho
người đọc có hứng thú …Tiểu thuyết bây giờ thời như trên kia đã là một truyện
đặt ra và là một truyện có hứng thú; thường thường thời viết bằng văn xuôi, theo
lối tự sự như lời nói thường, cũng có mộ t đôi khi viết băng lối vận văn, như
Truyện Kiều…Nói tóm lại, thời tiểu thuyết là một truyện bịa đặt mà có thú vị ”
[37,249]. Tiểu thuyết ở đây được quan niệm là một sản phẩm của hư cấu nghệ
thuật, biểu hiện bằng ngôn ngữ đa dạng. Có tác giả lại dựa vào dung lượng hiện
thực trong tác phẩm để chỉ ra những đặc trưng của thể loại tiểu thuyết. Trong lời
tựa cho tiểu thuyết “Cuộc tang thương” của nhà văn Đặng Trần Phất, Bùi Xuân
Học nêu nhận xét : “Quyển sách này thực là tả đủ các hạng người trong xã hội ,
câu chuyện rất ly kỳ mà khi đọc đến có thể tưởng tượng như mình có trông thấy
vậy” [32, 268 - 269].
Ở giai đoạn sau này, khi sự phân định về mặ t thể loại ngày càng cụ thể
hơn, khái niệm về tiểu thuyết cũng được các nhà lý luận phê bình văn học, các
nhà văn hiểu một cách rõ ràng hơn, sát với đặc trưng thể loại. Trong chuyên luận
“Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết”, Nguyễn Văn Trung cho rằng: “Yếu tính của
tiểu thuyết là cái tưởng tuợng, không thể kiểm chứng được” [44]. Còn với Võ
Phiến “Tiểu thuyết là công trình giả tưởng. Mầu trời , sắc nắng, cây, lá, gió,
trăng, mọi hoạt động trong đó đều bịa đặt” [36]. Tuy cách diễn đạt có khác nhau,
song trong quan niệm của các tác giả trên đều thống nhất cho rằng yếu tính của
tiểu thuyết là tưởng tượng, hư cấu . Chúng ta nhận thấy rằng nhà văn dẫu có hư
cấu cũng phải trên cơ sở tôn trọng sự thật đời sống . Bởi vì “với sự có mặt của
mình trước cuộc đời, với sự hiện hữu của mình ở trong cuộc đời , tiểu thuyết là
một hình thái nghệ thuật, một lối diễn đạt của con người gần gũi cuộc đời nhất”
[46, 154]. Nguyễn Đình Toàn đưa ra nhận định: “Tiểu thuyết không phải là tấm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
gương phản ánh đời sống mà là cái phần được che giấu của đời sống, cái phần
không thuộc về đời sống”. Quả thật, tiểu thuyết cho dù là tấm gương phản ánh
đời sống, cũng không bao giờ là bản sao cuộc sống. Bởi lẽ ngoài việc phản ánh
thực tại cuộc đời, tiểu thuyết còn phản ánh được thế giới thẳm sâu của tâm hồn
con người và “giá trị của một cuốn tiểu thuyết là đi sâu vào tâm hồn người đời”
[28, 73]. Vì thế chúng ta mãi băn khoăn tiểu thuyết phản ánh được bao nhiêu
phần trăm sự thực ở đời, lấy đó làm căn cứ thẩm định giá trị t ác phẩm tiểu
thuyết thì vô hình trung làm nghèo thế giới nghệ thuật của tiểu thuyết và làm vơi
đi thế giới tưởng tượng của người tiếp nhận. Giá trị tiểu thuyết cần nhất là sự sâu
sắc và “sâu sắc chính là ở chỗ mình diễn tả được tất cả những cái mông lung bí
ẩn của tâm hồn” [28,72].
Càng về sau thì quan niệm của các nhà nghiên cứu khi đưa ra quan niệm
về tiểu thuyết càng có phần cụ thể hơn trước . Cuốn Từ điển văn học (tập II ,
NXB khoa học xã hội, 1984) đã định nghĩa một cách khái quát: “Tiểu thuyết là
một loại hình tự sự, có ít nhiều hư cấu, thông qua nhân vậ t, sự việc và hoàn
cảnh, thường dùng văn xuôi, để phản ánh bức tranh xã hội” [33, 390]. Nhà
nghiên cứu Phương Lựu trong cuốn Lí luận văn học [NXB Giáo dục - 2002] đã
viết : “Tiểu thuyết là hình thức tự sự cỡ lớn đặc biệt phổ biến trong thời cận đại
và hiện đại. Với những giới hạn rộng rãi trong hình thức trần thuật tiểu thuyết có
thể chứa đựng lịch sử của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục đạo đức xã
hội, miêu tả cụ thể các điều kiện sinh hoạt giai cấp tái hiện nhiều tính cách đa
dạng” [13,387].
Như vậy , quan niệm về tiểu thuyết đã nêu trên chúng ta thấy những cái
nhìn đa diện, đa chiều . Tuy họ đều thống nhất cho rằng yếu tính của tiểu thuyết
là tưởng tượng, hư cấu , là loại hình tự sự, nhưng dù là tưởng tượng, hư cấu thì
tiểu thuyết cũng phải tái tạo cuộc sống, phải mang hình bóng của cuộc đời.
Thoát ly cuộc đời , tiểu thuyết sẽ không còn là tiểu thuyết, sẽ đánh mất giá trị
nhân bản; sẽ không thể sống trong lòng người đọc. Vì từ trong ý thức sáng tác ,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
nhà tiểu thuyết bao giờ cũng muốn trình bày những con người sống thực . Mà
con người sống thực bao giờ cũng có liên hệ chặt chẽ với xã hội, với quá khứ.
1.1.2. Quan niệm nhân vật tiểu thuyết
Một trong những thành phần quan trọng của tiểu thuyết là nhân vật. Nói
đến tiểu thuyết là nói đến việc xây dựng nhân vật. Vai trò, vị trí và phương thức
tồn tại của nhân vật trong tiểu thuyết như thế nào thì luôn là vấn đề lí thuyết mà
mọi nền lý luận văn học đều quan tâm lý giải.
Nhân vật trong tiểu thuyết khác với nhân vật trong các thể loại khác, nhân
vật của tiểu thuyết có những đặc điểm riêng mà nhân vật thuộc các thể loại khác
không có được. Truyện ngắn chỉ có thể nói về nhân vật trong quỹ thời gian ngắn
có những biến động lớn mà người đọc không thể hiểu rõ tiểu sử, sự phát triển cụ
thể của cuộc đời họ. Còn tiểu thuyết với khuôn khổ rộng lớn, vô tận về thời gian
và không gian, nhà văn có thể khai thác nhân vật , miêu tả nhân vật một cách tỉ
mỉ, toàn diện theo từng bước của cuộc đời. Nếu ký chỉ từ một con người thực,
một bối cảnh thực để xây dựng nên hình tượng điển hình thì tiểu thuyết lại có
khả năng cùng một lúc tạo dựng được hình tượng điển hình từ nhiều con người,
tính cách, bối cảnh khác nhau.
Theo nhà nghiên cứu Trần Thanh Hiệp , trong tiểu thuyết vấn đề quan
trọng “phải là vấn đề nhân vật. Người ta sẽ tìm thấy bộ mặt của con người trong
các nhân vật của ti ểu thuyết (…). Trong tiểu thuyết , ngoài nhân vật còn có gì
khác nữa, thời nhân vật cũng vừa là cá thể, vừa là linh hồn” [15, 93-94]. Nhân
vật là linh hồn, là yếu tố không thể thiếu trong tiểu thuyết, ở nhân vật có thể là
chiếc cầu nối giữa “cuộc đời thực” và “cuộc đời có vẻ thực” trong tiểu thuyết.
Qua thế giới nhân vật, người đọc sẽ tìm thấy những vấn đề nhân sinh mà tác giả
muốn gửi gắm, muốn chia sẻ. Trong tiểu thuyết, con người là một chủ thể trải
nghiệm, được giao cho tính chủ động về tư tưởng và ngôn ngữ. Tính chủ động
này sẽ làm biến đổi t ính chất và hình thái con người . Trong công trình Bàn về
tiểu thuyết, Phạm Quỳnh có cái nhìn bao quát về tiểu thuyết truyền thống. Nhân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
vật trong tiểu thuyết theo tác giả “Không nhất thiết phải là người siêu bạt quần
chúng, lại thường thường là những người bình thường như mọi người” [37,
101]. Giữa nhân vật và hoàn cảnh luôn có một quan hệ tác động lẫn nhau. Nhân
vật chịu sự chi phối mạnh mẽ của hoàn cảnh, lệ thuộc vào hoàn cảnh. Đôi khi
nhân vật cũng có thể làm thay đổi hoàn cảnh trong phạm vi nhất định , nhưng
hoàn cảnh vẫn giữ một vai t rò quyết định trong tiểu thuyết . Hoàn cảnh ở đây
được nhận thức là “vận mệnh” tác động trực tiếp đến nhân vật, quyết định số
phận nhân vật.
Cũng giống như phương thức miêu tả của một số thể loại văn học khác,
nhân vật trong tiểu thuyết được nhà văn miêu tả qua những chi tiết, những xung
đột, tình tiết biến cố, những mâu thuẫn bên trong. Vì vậy n hân vật trong tiểu
thuyết phải tương tự với con người trong cuộc sống, nó phải là con người mang
bản chất xã hội một cách chân thực khách quan, song nó lại phải có cá tính, có
cuộc đời, số phận riêng, độc lập. Nhân vật trong t iểu thuyết hiện lên trọn vẹn,
đầy đủ từ góc độ ngoại hình đến nội tâm, từ tình cảm đến lý trí. Người viết có
thể khai thác nhân vật một cách toàn diện, tỉ mỉ , theo từng bước thăng trầm của
số phận. Nhân vật trong tiểu thuyết đa dạng, phong phú phát triển có quá trình ,
tham gia vào tình huống với nhiều hành động khác nhau nên có khả năng có sức
sống nội tại, tự nó tìm thấy con đường đi của nó trong tác phẩm.
Khi sáng tác, mỗi nhà văn thường chọn cho mình một thế giớ i nhân vật
phù hợp với sở thích , cá tính của mình để miêu tả, thể hiện. T rong tiểu thuyết ,
nhân vật là nơi duy nhất để tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng
tác. Để khẳng định vấn đề này Nguyễn Đình Thi đã viết : “Vấn đề trung tâm của
nghệ thuật tiểu thuyết theo tôi, là miêu tả những con người và đường đi của họ
trong xã hội . Người viết tiểu thuyết nghĩ mọi vấn đề đều phải thông qua các
nhân vật , xuất phát từ nhân vật hơn là từ sự việc” [42, 645]. Một đặc điểm rất
quan trọng trong tiểu thuyết hiện đại là nhân vật dường như mang tính tự thân.
Nhiều lúc nó vượt ra khỏi sự kiểm soát, sự định hướng ban đầu của nhà văn để
đi theo qui luật của cuộc đời , số phận. Nói như Đỗ Đức Hiểu : “Nhân vật trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
tiểu thuyết hiện đại không có tính cách, nói cách khác có nhiều tí nh cách, tức là
nó luôn luôn biến động, mà bản thân nó không thể nhận biết. Nhân vật tự bộc lộ
mình, tự xây dựng mình trong quá trình viết của người kể chuyện. Và chính nhà
soạn văn cũng dần dần, lần mò tự khám phá ra bản thân mình qua từng trang
viết” [17, 383].
Nhà văn chỉ có thể xây dựng nhân vật tiểu thuyết bằng chính vốn sống và
sự hiểu biết về nhân vật. Và như thế, một vấn đề đặt ra trong phương thứ c xây
dựng nhân vật tiểu thuyết, là giải quyết như thế nào mối quan hệ giữa nhân vật
và tác giả . Có ý kiến cho rằng nhân vật trong t ác phẩm là hình ảnh của tác giả.
Nhưng cũng có ý kiến ngược lại. Vấn đề này theo chúng tôi cần phải hiểu một
cách linh động hơn . Là sản phẩm do nhà văn sáng tạo , nhân vật tiểu thuy ết tất
nhiên phải là hình tượng , là hiện thân tư tưởng của nhà văn, vì “bản chất tiểu
thuyết không có gì đố kỵ với tư tưởng, miễn là tư tưởng đừng thủ tiêu, đừng hút
máu tươi và da thịt của nhân vật để chỉ còn lại những bộ x ương khô” [36, 20].
Và “ở những tác phẩm lớn của nhân loại về tiểu thuyết, tư tưởng cao sâu đều có
cái duyên gặp được những nhân vật sốn g, có cá tính, mang ra phô diễn . Nhân
vật linh động là điều cần thiết, nhưng chưa đủ để là m ra tác phẩm vĩ đại” [36,
30]. Dù nhân vật có là cái loa phát ngôn cho tư tưởng của nh à văn, thì nhân vật
cũng không bao giờ là hình hài của tác giả, là đồng nhất với tác giả.
Ở tiểu thuyết, sáng tác về một nhân vật nào, tác giả đều dẫn dắt, giới thiệu
cho chúng ta nguồn gốc , xuất xứ của nhân vật ấy và trong suốt quá trình mô tả
cuộc đời nhân vật, nhà văn phải xây dựng ở nhân vật đó nhữ ng hành động, lời
nói, cử chỉ…thể hiện rõ nét đặc trưng trong cốt cách - tâm hồn của dân tộc sinh
nhân vật ấy.
Như vậy, có thể thấy thế giới nhân vật trong tiểu thuyết hết sức đa dạng,
phong phú và luôn hấp dẫn , mới mẻ có khả năng khái quát hiện thực, khái quát
quan điểm nghệ thuật của nhà văn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
1.2 .Quan niệm của Nhất Linh về tiểu thuyết
Nói đến văn học hiện đại Việt Nam đầu thế kỷ XX là nói đến “văn học phát
triển trong môi trường kinh tế tư bản chủ nghĩa, có sự hình thành giai cấp tư sản,
giai cấp vô sản, giai cấp tiểu tư sản và tầng lớp trí thức mới, độc lập thể hiện tư
tưởng dân chủ, tư tưởng duy lí trong khoa học, đề cao con người cụ thể, phong
phú, phức tạp, khuyến khích mọi tài năng sáng tạo” [21, 17]. Sự thay đổi trong
văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX không giống tình hình phát triển trong văn học
các nước phương Tây từ giai đoạn này hay giai đo ạn khác là sự thay đổi nội
dung, thể loại , sự xuất hiện một trào lưu văn học… Bước ngoặt hiện đại hoá
trong văn học Việt Nam: từ văn, thơ, phú, lục phương Đông sang thơ, kịch, tiểu
thuyết phương Tây biểu hiện s ự thay đổi về quan niệm văn học. Thi pháp văn
học trung đại được thay thế bằng thi pháp văn học hiện đại.
Có thể nói, bước sang những năm 30, nền văn học Việt Nam đã có những
thay đổi to lớn , thậm chí những bước nhảy vọt, trên đà hiện đại hoá. Làm nên
thành công cho cuộc cách tân văn học đó là một thế hệ trí thức Tây học không
còn bị vướng vào những qui phạm, công thức của văn chương cổ , đồng thời lại
được kế thừa những kinh nghiệm cách tân của các thế hệ trước. Nhất Linh là
một trong những gương mặ t tiêu biểu của lớp trí thức ấy . Trong suốt chặng
đường sáng tác, Nhất Linh đã không ngừng tìm tòi, bổ sung để tự hoàn thiện
mình, và “nhờ vào tài năng , vào sự tiếp thu văn hoá phương Tây có hệ thống
cùng bản lĩnh chuyển hoá” để làm giàu thêm văn sản trong nước (điều 1, tôn chỉ
của Tự lực văn đoàn). Ông đã mang đến cho văn học dân tộc nhiều tác phẩm
thực sự có giá trị và có ý nghĩa tiên phong trong công cuộc cách tân.
Trước năm 1932, Nhất Linh theo quan điểm của các nhà Nho : văn gắn
với đạo, với mệnh trời, “văn dĩ tải đạo”, “văn dĩ hướng đạo”. Ông noi gương các
nhà nho tiền bối Nguyễn Trãi, Nguyễn Du , Nguyễn Đình Chiểu,…với ông, con
thuyền văn trước tiên là để chở đạo. Văn học trước tiên có chức năng truyền đạt,
rồi mới đến việc phát triển khám phá. Đối tượng văn học không phải là cuộc
sống thực mà là khuôn mẫu của đạo đức truyền thống, của đạo Nho. Ông quan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
niệm cái đẹp phải là sự hoàn hảo, toàn diện, tuyệt đối, thống nhất với cái có ích
, đề cao cái đẹp nội dung hơn hình thức. Cuộc sống được đánh giá qua con mắt
đạo lý, nhân vật được xây dựng theo chuẩn mực đạo đức : Thiện - ác, trung -
hiếu, tiết nghĩa - bất trung, bất nghĩa, thật thà, gian dối…Tiểu thuyết Nho phong
(1926) và tập truyện ngắn Người quay tơ (1927) thể h iện khá rõ những quan
niệm trên.
Sau khi du học ở Pháp về , Nhất Linh đã thay đổi quan niệm văn chương .
Nhất Linh từ giã quan niệm truyền thống để đi vào quan niệm mới về văn học.
Viết tiểu thuyết. ông chuyển hướng từ tư tưởng, cảm hứng nghệ thuật, đề tài đến
lối viết. Số phận con người cá nhân, quyền sống, quyền tự do dân chủ, quyền
được hưởng hạnh phúc, lòng khao khát lý tưởng được nhà văn quan tâm thể hiện
trong hàng loạt tiểu thuyết : Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Đôi bạn, Bướm trắng và hai
tiểu thuyết viết chung với Khái Hưng:Gánh hàng hoa, Đời mưa gió. Ông có
hoài bão dùng văn chương góp phần cải tạo xã hội, tư tưởng dân chủ tư sản. Ý
tưởng đó của Nhất Linh được thể hiện rất rõ trong Mười điều tôn chỉ của Tự lực
văn đoàn được công bố trên Phong hoá (số 101) như:
- “Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ”.
- “Trọng tự do cá nhân”.
- “Dùng một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho , một lố i văn thật có tính
cách An Nam”; “Không có tính cách trưởng giả quý phái”.
- “Làm cho người ta biết đạo Khổng không còn hợp thời nữa".
- “Đem phương pháp Thái Tây ứng dụng vào văn chương An Nam”…
Ngoài ra, Nhất Linh còn trực tiếp hay gián tiếp nói tới quan niệm về văn
chương nói chung và tiểu thuyết nói riêng ở một số tờ báo Phong Hoá, Ngày
nay. Đặc biệt là trong cuốn Viết và đọc tiểu thuyết Nhất Linh đã nói rõ về quan
niệm viết tiểu thuyết của mình. Đây là một trong ít trường hợp hiếm hoi mà một
nhà văn ở nước ta trức tiếp nói v ề cái thể loại mình đã vận dụng, đã theo đuổi
trong sự nghiệp văn chương. Cùng trong nhóm Tự lực văn đoàn có Thạch Lam
cũng có quan niệm về viết tiểu thuyết nhưng không có nhiều điểm tương đồng .
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
Chúng tôi cho rằng cuốn Viết và đọc tiểu thuyết được Nhất Linh nói tới ở cả hai
phương diện kinh nghiệm lẫn phương diện lý thuyết khi đưa ra quan niệm về
tiểu thuyết. Tuy nó chưa thực sự hoàn chỉnh, có hệ thống , có đôi khi lủng củng
trùng lặp, mà tác giả rút ra cho mình hơn là cho mọi người . Nó không thật sắc
sảo, càng không uyên bác. Song những ý kiến mà Nhất Linh viết ra là sự chân
thành. Đưa ra quan niệm về tiểu thuyết Nhất Linh viết: “Viết tiểu thuyết để nêu
lên một lý thuyết, để tán dương, tuyên truyền một cái gì tác giả cho là tốt đẹp, để
đả đảo một cái gì mà tác giả cho là xấu xa , viết tiểu thuyết để phụng sự , để
chứng tỏ một cái gì đó …” [ 28, 367]. Đồng thời ông cũng đưa ra ý kiến đánh
giá về một cuốn tiểu thuyết hay là “những cuốn đủ đúng sự thực cả bề trong lẫn
bề ngoài. Diễn tả được một cách linh động các trạng thái phức tạp của cuộc đời,
đi thật sâu vào sự sống với tất cả những chuyển biến mong manh tế nhị của tâm
hồn”; “Việc diễn tả tâm hồn và những uẩn khúc của tâm hồn đó, những ý nghĩ
thầm kín của các nhân vật là một việc khó nhất và cuốn sách có giá trị và có sâu
sắc hay không phần lớn là ở việc này” [28, 388].
Ở trong cuốn Viết và đọc tiểu thuyết Nhất Linh cũng đã đưa ra quan niệm
của mình về viết tiểu thuyết hết sức cụ thể. Cũng giống như bao người khác, ông
suy nghĩ trước hết một người viết một cuốn tiểu thuyết phải biết rõ mình định
viết về cái gì? quan trọng với ông là “phải thành thực là chính trong thâm tâm,
mình thấy thích viết đề đó, quả thật mình cảm động trước những cảnh về đề đó.
Hơn nữa mình đoán thấy trong đề đó có nhiều cái hay” [28, 392]. Sự thành thực
trong việc lựa chọn đề tài được Nhất Linh đưa lên hàng đầu bởi trong nghiệp
văn, người viết có thể viết về những đề mà người đọc đương thời ưa thích nếu
như trong thâm tâm nhà văn thích. Điều nên tránh đó là theo thời, hám danh làm
mất đi lương tâm nghề nghiệp.
Xét đến cùng văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng đều là sự miêu tả
hữu hạn cái thế giới vô hạn là cuộc đời. Hình tượng văn học phải được bắt đầu
và kết thúc ở đâu đó, con người và cảnh vật cũng phải được nhìn ở một góc độ
nào đó. Nhà văn phải hiểu được cách thức mà nhân vật - con người trong tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
phẩm giao tiếp với nhau, với thế giới xung quanh và với chính bản thân họ, cách
họ sống suy nghĩ và hành động, điều họ quan tâm trong cuộc đời. Mối quan hệ
logic giữa tất cả những điều đó tạo nên cái mô hình nghệ thuật về thế giới và con
người bao quát mà tác giả xuất phát để khắc hoạ những hình tượng cụ thể cũng
như xây dựng kết cấu tác phẩm . Nhất Linh cho rằng “không nên xếp đặt câu
chuyện quá, việc xảy ra còn tuy theo tâm trạng của nhân vật . Bởi tiểu thuyết lại
là thứ sách để tả cuộc đời, mà đời người thì không xếp đặt được theo ý người”
[28, 393].
Trong cuốn Viết và đọc tiểu thuyết của Nhất Linh đề cập tới nhiều vấn đề
như: chọn đề tài, xây dựng cốt truyện, lựa chọn nhân vật, tìm chi tiết , văn trong
tiểu thuyết. Trong phạm vi của đề tài chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu quan niệm
của Nhất Linh cách xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết. Theo Nhất Linh xây
dựng nhân vật trong tác phẩm ta phải quan tâm đến bốn thứ: tính tình, cử chỉ, lời
nói, hình dáng. Việc diễn tả tâm hồn, uẩn khúc của tâm hồn đó , những ý nghĩ
thầm kín của các nhân vật là một việc khó nhất. Cho nên một cuốn sách có giá
trị hay không, có thực sự sâu sắc hay k hông một phần lớn là từ việc đó . Theo
Nhất Linh hình dáng nhân vật “không nên tả ngay một lúc”, nhà văn không nên
tự ý phê bình người và việc trong truyện như những nhà tiểu thuyết luận lý nước
ta ba mươi năm về trước , nhân vật thuộc hạng cũng nào đều có giá trị như nhau,
nhân vật chính hay phụ cũng phải để ý ngang nhau. Cũng như trong tác phẩm
Khái Hưng, nhân vật chính của Nhất Linh là thanh niên tư sản hoặc tiểu tư sản
lớp trên, con nhà quan, chủ đồn điền họ có điểm chung là cảm nghĩ băn khoăn,
suốt đời tìm cách giải quyết vấn đề hạnh phúc và lý tưởng cho cá nhân . Ở Nhất
Linh, nhân vật đăm chiêu, quằn quại, suy nghĩ lao lung để tìm lấy một lý tưởng,
một con đường; lý tưởng có tính cách đấu tranh và hành độ ng ; ngôn ngữ nhân
vật chặt chẽ, chính xác (Dũng, Doãn …). Cách xây dựng nhân vật, Nhất Linh
tuy rất chủ quan “coi nhân vật như những quân cờ để đánh một ván cờ” có dựa
vào sự phân tích của lý trí, có tham vọng xây dựng. Do vậy, nhân vật của Nhất
Linh luôn có sự đắn đo, muốn làm to , đạt kết quả lớn, như Dũng trong Đoạn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
tuyệt, Dũng trong Đôi bạn. Song, với Nhất Linh, tâm trạng nhân vật không khỏi
có lúc bi đát: cực lòng vì hoàn cảnh thấy đời trống rỗng, có lúc muốn quyên sinh
như: Dũng trong Đôi bạn hay Trương trong Bướm trắng.
Với tư cách một người sau lưng có nhiều tiểu thuyết đã xuất bản , Nhất
Linh chân thành kể lại đủ thứ quan niệm non nớt của mìn h hồi đang viết nhiều
viết khoẻ, đó là: thích viết câu văn cho kêu, cho văn vẻ; nào thích lồng vào tác
phẩm của mình những luận đề xa lạ, từ bên ngoài , mà không xuất phát từ tình
thế trong câu chuyện mà từ nhân vật; nào là có hồi chạy theo những cốt truyện
giật gân, cốt truyện quyến rũ người đọc…
Trong “Tự lực văn đoàn” , nghệ thuật của Nhất Linh có thể nói là vững
vàng nhất. Cách bố trí truyện, cách sáng tạo nhân vật , cách sử dụng cảnh vật
xung quanh để làm nổi bật tâm lí nhân vật, các nhà văn trong “Tự lực văn đoàn”
đều ít nhiều chịu ảnh hưởng của ông cả. Có một điều khác là mặc dù, tiểu thuyết
của Nhất Linh cũng nói đến ái tình, nhưng trong vấn đề này Nhất Linh viết đó là
ái tình kín đáo, tế nh ị không diễn đạt bằng lời, mà bằng cử chỉ, dáng điệu nhiều
hơn. Ở đặc điểm này, Nhất Linh cũng đã có từ những tác phẩm đầu tiên và ông
gìn giữ được nguyên vẹn cho đến những tác phẩm cuối. Lê Nương (Nho phong)
cách xa Loan (Đôi bạn) và Thu (Bướm trắng) cả một thế hệ, nhưng ở Lê Nương,
ta đã thấy được ít nhiều tính chất của Loan và Thu sau này.
Hơn nữa, lối văn của Nhất Linh là lối văn rất thi vị, thi vị ở ý mà ít ở lời.
Nhất Linh không trau chuốt như Khái Hưng, nhưng tự nó, nó có nhịp điệu, tự nó
đã du dương . Chặng hạn như Nhặt lá bàng để đầu cuốn Đôi bạn là cả một bài
thơ. Cho nên đọc xong một tác phẩm của Nhất Linh, ít nhất thì trong lòng người
đọc còn giữ lại được một đôi lời, một đôi dáng điệu của nhân vật, không bao giờ
có thể quên.
1.3. Hai kiểu tiểu thuyết của Nhất Linh
1.3.1. Tiểu thuyết luận đề
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
Như một làn gió mới thổi về , Tự lực văn đoàn đã mở tung cánh cửa xã
hội, phê phán lễ giáo phong kiến trì trệ hàng ngàn năm, mang lại những tư tưởng
nhân đạo tiến bộ , làm nên một diện mạo văn chương tươ i mới và khởi sắc đầu
thế kỉ XX. Trong giai đoạ n phát triển cực thịnh của mình , với mong muốn góp
phần vào công cuộc đổi mới xã hội, hàng loạt tiểu thuyết luận đề của “Tự lực
văn đoàn” đã ra đời . Chúng được coi như những tuyên ngôn nghệ thuật của các
nhà văn về vấn đề Cũ - Mới, một vấn đề nóng bóng trong xã hội lúc bấy giờ .
Tiểu thuyết luận đề của “Tự lực văn đoàn” dường như là sản phẩm của một thời
kì đổi mới tư duy từ hệ tư tưởng phong kiến chuyển sang hệ tư tưởng tư sản.
Trên chiến trường đấu tranh chống lại thành trì phong kiến nặng nề lạc hậu ấy ,
Nhất Linh đã trở nên một trong hai “chiến sỹ chỉ huy tác chiến” (Thanh Lãng)
với những tiểu thuyết luận đề được nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đánh giá là
“những tiểu thuyết chiếm vị trí cao hơn cả”.
Nói về loại tiểu thuyết này , Nhấ t Linh cũng đã đưa ra quan niệm : “Viết
luận đề tiểu thuyết nghĩa là viết tiểu thuyết để nêu lên một lý thuyết, để tán
dương, tuyên truyền một cái gì tác giả cho là tốt đẹp, để đả đảo một cái gì tác giả
cho là xấu xa, viết tiểu thuyết để phụng sự, để chứng tỏ một cái gì đó…” [27,
367]. Như vậy , có thể hiểu tiểu thuyết luận đề là những sản phẩm văn học được
viết ra để minh hoạ cho một chủ đề nào đó, một ý đồ tư tưởng nào đó mà tác giả
muốn gửi gắm.
Có ý kiến cho rằng tiểu thuyết nào mà chẳng có luận đề. Vì thế, chúng tôi
nhận thấy tiểu thuyết luận đề cần được phân biệt với luận đề của tiểu thuyết.
Luận đề của tiểu thuyết chính là chủ đề, là “vấn đề triết lý, xã hội, đạo đức và
các loại hình tư tưởng khác được đặt ra trong tác phẩm” [1, 46]. Chủ đề được
hình thành từ hiện thực đời sống thông qua sự khá i quát hoá của chủ quan nhà
văn, chủ đề toát ra từ ý nghĩa khách quan của tác phẩm. Còn ở tiểu thuyết luận
đề, luận đề là cái có trước , cốt truyện và nhân vật được tác giả tìm để chứng
minh. Nếu cốt truyện và nhân vật phù hợp với luận đề thì tiểu thuyết luận đề
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
được coi là thành công. Còn nếu ngược lại, luận đề không có được cốt truyện và
nhân vật phù hợp thì tiểu thuyết luận đề sẽ không thành công.
Một đặc điểm của tiểu thuyết luận đề là tính định hướng trong khai thác
nhân vật và cốt truyện. Nếu như ở tiểu thuyết bình thường , nhân vật được phát
triển tự nhiên như trong cuộc sống thì với tiểu thuyết luận đề, sự can thiệp của
tác giả khá rõ. Để khẳng định và bảo vệ cho luận đề của mình, các tác giả luôn
xây dựng nhân vật chính diện mang tư tưởng luận đề , nhân vật phản diện thì
chống lại. Mặt khác, nhân vật thường chỉ được khai thác ở những bình diện có
lợi cho luận đề. Kết thúc tiểu thuyết, nhân vậ t chính diện bao giờ cũng thắng .
Kết thúc tiểu thuyết luận đề thường là kết thúc “có hậu” và vì thế , tiểu thuyết
luận đề thường mang mầu sắc duy lý.
Cách xây dựng nhân vật của tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh biểu trưng
cho hai lực lượng đối lập – cô gái mới và bà mẹ chồng hoặc bà dì ghẻ - con
chồng qua hai tiểu thuyết Đoạn tuyệt và Lạnh lùng. Các bà mẹ đại diện cho lề
thói gia đình cũ đang cố níu kéo, duy trì quyền lực làm mẹ và nền luân lý, phong
tục, tập quán, nếp nghĩ cũ, đặc biệt là quyền làm mẹ chồng hiện đang bị lung lay
trước những biến đổi tư tưởng xã hội. Còn đối với các cô gái mới , những nàng
dâu tân thời cũng quyết liệt không kém tìm cách chứng min h và khẳng định
quyền làm người, tự do cá nhân, quyền suy nghĩ và hành động của mình.
Sự phân biệt tư tưởng Cũ - Mới đó có thể gọi một bên là chính diện và
một bên là phản diện. Ở đây xung đột tư tưởng đã trở thành xung đột tâm lý và
ngược lại sự hoà hoãn không được chấp nhận. Tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh
đã thành công và chiếm được cảm tình của giới trẻ đương thời vì đã thể hiện
được những luận đề phù hợp với chân lý đời sống, đem lại những khám phá
chân thực về nhân vật, về tâm lý. Có điều, bản thân hiện thực đời sống bao giờ
cũng phức tạp, đa dạng nhưng Nhất Linh đã r ửa sạch mọi tạp chất đời thường,
bỏ đi vẻ bề bộn, đơn giản hoá các qui luật đời sống và qui luật tâm l ý khi viết
tiểu thuyết của mình. Chính vì vậ y, mà nó chỉ còn cái tất yếu mà thiếu đi cái
ngẫu nhiên , có khi tâm lý được miêu tả trong tiểu thuyết luận đề vừa đúng lại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
vừa không đúng với quy luật thông thường, có khi được miêu tả tinh vi trong
một số tình huống nhưng nhìn tổng thể vẫn là đơn điệu, một chiều, thiếu sự phát
triển nội tại. Thế giới nội tâm nhân vật tiểu thuyết luận đề Nhất Linh có nhiều
nét lặp lại. Quá trình tâm lí còn sơ sài, đơn giản, ít biến cố. Đời sống tâm lý của
nhân vật ít biến chuyển, trạng thái tâm lý bộc lộ qua hành động, ngôn ngữ, qua
sự miêu tả của tác giả chứ chưa được biểu hiện bằng những hành động tâm lý
bên trong. Ở nhân vật chưa có sự nổi loạn về tâm lý tính cách, chưa khai thác hết
những mặt phong phú, đa dạng của t ính cách (việc Loan đẻ con trai , Loan dọn
nhà đi không mang theo bát hương, Nhung rút mấy nén hương trên bàn thờ
chồng ra vườn tình tự với Nghĩa) hoặc để cho nhân vật phát ngôn luận đề một
cách trực tiếp, chẳng hạn trong cuộc đối thoại giữa Huy và bà Án; giữa bà Án và
Mai trong Lạnh lùng, ví dụ “Cụ tức là biểu hiện, tức là người đại diện cho nền
luân lý cũ. Mà tâm lý chúng cháu đã chót nhiễm những tư tưởng mới. Hiểu nhau
khó lắm thưa cụ. Cụ với bọn hậu sinh chúng cháu như hai con sông cùng chảy
một nguồn, cùng chảy ra bể nhưng mỗi đằng chảy theo một phía dốc bên sườn
núi, gặp nhau sao được ” hay ở Đoạn tuyệt nhân vật Loan đã nói thẳng trước bà
mẹ chồng phong kiến: “Không ai có quyền chửi tôi, không ai có quyền đánh tôi.
Bà cũng là người, tôi cũng là người, không ai hơn kém ai…”. Tất cả mọi biểu
hiện tâm lý của nhân vật trong tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh đều nhằm bộc
lộ một nét bản chất về tính cách và dục vọng của nh ân vật. Trong bản thân mỗi
nhân vật được miêu tả thì cái gắn với xã hội , cái chung được chú trọng nhiều
hơn. Đó là điều mà Nhất Linh đã nghiêm khắc đánh giá về mình: “Tôi đã để cái
ý định dùng tiểu thuyết là một việc gì (viết luận đề tiểu thuyết) lên trên cái ý
định viết một cuốn tiểu thuyết hay xin nhớ rõ là tôi không nói tới sự lầm về viết
luận đề tiểu thuyết” [28, 17].
Theo chúng tôi, tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh miêu tả tâm lý nhân vật
đều có liên quan trực tiếp đến các vấn đề xã hội. Tác giả không sử dụng những
biện pháp nghệ thuật đặc thù, chỉ sử dụng những thành tựu mà tiểu thuyết hiện
đại Việt Nam đã đạt được cho đến thời điểm đó. Tức là , nó không có nét đặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
biệt so với các tiểu thuyết khác, mà nó chỉ đặc b iệt ở mục đích mà Nhất Linh
muốn hướng tới khi miêu tả. Vì vậy, cho dù có những hạn chế song tiểu thuyết
luận đề của Nhất Linh vẫn tiếp nối được thành tựu miêu tả tâm lý mà Tố Tâm –
Hoàng Ngọc Phách đã đạt được , đồng thời có những thành tựu mới, vượt xa
những gì còn non kém và hời hợt trước đây.
Đối với bản thân Nhất Linh trước đây, khi viết các tiểu thuyết luận đề
cũng gửi gắm bóng dáng mình trong đó. Chúng ta thấy thấp thoáng qua các nhân
vật như Dũng, Thái, Trúc (Đôi bạn) là hình ảnh của Nhất Linh. Nhận xét về tiểu
thuyết luận đề của Nhất Linh, GS Phan Cự Đệ viết : “Các nhân vật thường có
những vấn đề riêng, băn khoăn đau khổ riêng. Nhất Linh ký thác tâm sự của
mình vào nhân vật nêu trong tiểu thuyết luận đề của ông thường có một cái Tôi
chân thành, cảm động. Đời của Dũng, Thái, Trúc, Tạo, Cận…là một phần đời
của Nhất Linh, là tâm sự thầm kín của Nhất Linh (…) Nhờ sự gắn bó máu thịt
giữa hình tượng và luận đề, sự kết hợp khá nhuần nhị những phán đoán trí tuệ
với những rung cảm của tâm hồn nên tiểu thuyết Nhất Linh nâng cao được ý
nghĩa xã hội và sức khái quát của tác phẩm mà vẫn không rơi vào tình trạng
minh hoạ một cách khô khan công thức” [11, 379]. Như vậy , hình tượ ng nhân
vật làm nổi bật luận đề, làm cho luận đề có máu thịt với sự số ng. Một trong
những điều kiện tiên quyết để giúp cho tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh thành
công là bản thân luận đ ề mang ý nghĩa tiến bộ xã hội. Tâm lý nhân vật, vì thế,
luôn hướng tới mục đích chứng minh cho luận đề xã hội mà Nhất Linh đưa ra
nhân vật chỉ được chiếu rọi từ một góc nhìn, một hệ quy chiếu.tất cả mọi biểu
hiện tâm lý đều nhằm bộc lộ tình cảm và dục vọng tiêu biểu nhất của nhân vật.
1.3.2. Tiểu thuyết tâm lý
Nếu như trong tiểu thuyết luận đề, các nhân vật trực tiếp tham gia vào
cuộc đấu tranh Cũ - Mới, xông xáo, hăng hái với những hoạt động bề n ổi thì
trong tiểu thuyết tâm lý, họ lại tìm đến sự sâu lắng của thế giới nội tâm. Nếu như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
một bên là tâm lý của đời sống đấu tranh thì bên kia sẽ là tâm lý của đời sống
tình cảm.
Khái niệm tiểu thuyết luận đề, chúng tôi đề cập ở trên chỉ rõ rằng với tiểu
thuyết luận đề, tất cả các yếu tố làm nên tác phẩm đều được dùng để chứng minh
cho một vấn đề tư tưởng - xã hội đã được hình thành trong ý đồ sáng tác của tác
giả. Ở phần này, khi đề cập đến khái niệm tiểu thuyết tâm lý thì sẽ đưa ra được
logic tất yếu đó là : yếu tố tâm lý chính là điều mà tác giả quan tâm thể hiện,
miêu tả, xử lý trong tác phẩm ; tâm lý nhân vật có q uan hệ mật thiết với cốt
truyện, thể hiện xung đột, kiểu nhân vật, phong cách ngôn ngữ…Khái niệm tiểu
thuyết tâm lý hiện nay được sử dụng khá phổ biến trong các công trình nghiên
cứu về tiểu thuyết hiện đại, những việc xây dựng một nội hàm cho nó ở nước ta
hầu như ít được quan tâm. Trong hai cuốn Từ điển văn học và Từ điển thuật ngữ
văn học, khái niệm này chưa được đề cập đến. Chúng tôi xin đưa ra một số quan
niệm về tiểu thuyết tâm lý như sau:
Đỗ Hồng Đức, trong luận văn của mình đã giới thiệu khái niệm tiểu thuyết
tâm lý là: Khi nói đến tiểu thuyết tâm lý, dù nói theo cách này hay cách khác,
cũng phải hiểu: đối t ượng chính của ngòi bút tác giả, yếu tố dành được cảm
hứng chủ đạo của tác giả là tâm lý nhân vật [10, 14].
“Tâm lý nhân vật ở đây trở thành một cứu cánh, một lí do để tác phẩm tồn
tại và đứng vững. Sở dĩ như vậy vì đời sống tâm lý con người là một thế giới đặc
biệt cần được khám phá. Tiểu thuyết tâm lý hướng tới nội tâm con người cũng
như các chủng loại tiểu thuyết khác hướng tới các đối tượng khác” [10, 15].
Cách hiểu như Đỗ Hồng Đức về cơ bản thống nhất với cách hiểu sau đây:
“Tiểu thuyết tâm lý là tiểu thuyết tìm cách gợi lên thế giới nội tại chứ không theo
sự sắp đặt của thế giới bên ngoài (…) Nó đơn giản chỉ ra rằng những động cơ
điều khiển tổ chức của cốt truyện, trật tự của các hành động và của nhân vật về
cơ bản được qui về sự phân tích những phản ứng tâm lý của nhân vật (…). Tiểu
thuyết tâm lý có chức năng tư tưởng và miêu tả: tính độc lập của thế giới tâm lí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
và diễn biến nội tâm của nhân vật cho thấy những xúc động thuần tuý lí trí và
luân lí của thế giới bên ngoài đối với nó …”[48, 140].
Hay trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỉ XX, GS Phan Cự Đệ đưa ra quan
niệm về tiểu thuyết tâm lý như sau : “Tiểu thuyết tâm lý tập trung cái nhìn hướng
nội vào hiện thực tâm lý, vào thế giới bên trong thầm kín của con người. Ở đây
cảm hứng chủ đạo của nhà văn là khám phá, phân tích tâm lý nhân vật ” [ 12,
231].
Thực ra, tuy sử dụng các thuật ngữ có khác nhau, nhưng các nhà nghiên
cứu trên đây đều có một quan điểm thống nhất chung mà chúng ta nhận thấy đó
là: yếu tố tâm lý được quan tâm nhiều trong cốt truyện ; thể hiện cái nhìn hướng
nội vào hiện thực tâm lý, vào thế giới b ên trong thầm kín của con ngưòi . Đó
chính là đặc điểm nổi bật của tiểu thuyết tâm lý. Tiểu thuyết Bướm trắng là một
trường hợp cụ thể và tiêu biểu trong tiểu thuyết tâm lý của Nhất Linh. Những
nhân vật trong tiểu thuyết tâm lý được tác giả Nhất Linh miêu tả thiên về tự đối
diện với những biểu hiện cái tôi cá nhân trong chính con người mình . Ở tiểu
thuyết tâm lý, ông đặt ra yêu cầu đi sâu khám phá tâm lý con người chú trọn g
miêu tả cảm giác của nhân vật , đây cũng là nét khu biệt và là thành tựu nghệ
thuật trong việc thể hiện nội tâm của văn học lãng mạn. Những hoạt động bên
ngoài không còn được giữ vai t rò quan trọng như trước đây nữa , nhân vật được
quan tâm trong mối quan hệ với đời sống nội tâm. Nhất Linh mở rộng diện quan
tâm tới các nhân vật với nét tâm lý khác nhau trong quá trình miêu tả . Thay cho
động cơ tâm lý nhất quán một chiều là những biểu hiện đa dạng hơn, có cả phần
mơ hồ của tiềm thức, vô thức , nhiều khi cá nhân hành động mà không tự biết
mình. Đây là nét khác nhau cơ bản trong nét xây dựng tâm lý nhân vật ở tiểu
thuyết luận đề và tiểu thuyết tâm lý của Nhất Linh. Các quá trình tâm lý được
quan tâm, thay cho các trạng thái tâm lý trước đây, với những biểu hiện của sự
vận động, qua những mâu thuẫn nội tại phức tạp. Hành vi bên ngoài và suy nghĩ
bên trong của nhân vật không thống nhất đơn giản một chiều, nhân vật độc thoại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
nhiều hơn, hiện tượng người trần thuật nhập vào ý nghĩ của nhân vật với cái
nhìn từ bên trong xuất hiện nhiều hơn.
Có thể nói , ở tiểu thuyết luận đề, nhân vật là nhân vật nhập thế , ở trạng
thái động còn ở tiểu thuyết tâm lý, nhân vật thu về đời sống nội tâm, ở trạng thái
tĩnh.
Con đường văn học của Nhất Linh trước cách mạng là đi từ tiểu thuyết
luận đề đến tiểu thuyết tâm lý. Đây cũng là con đường chung của nhiều nhà văn
đương thời và là đặc điểm khiến cho một số nhà phê bình coi Nhất Linh là nhà
văn có chủ trương , có thái dộ làm nghệ sỹ thuần tuý : “Với Nho phong, Người
quay tơ, Nhất Linh đã viết một thứ tiểu thuyết tình cảm . Nghệ thuật trong tiểu
thuyết ấy tuy có kém, nhưng là thái độ thuần văn nghệ. Từ 1932 đến 1938, Nhất
Linh hướng văn nghệ đi vào con đương tranh đấu : toàn là bênh vực với đả ph á.
Nhưng từ 1938 trở đi, Nhất Linh lại có chiều hướng thuần văn nghệ ” [20, 742-
743]. Hai tiểu thuyết dài Đôi bạn và Bướm trắng có thể coi như giai đoạn thành
tựu của một văn tài đã chín. Trong các truyện này , ta lại thấy ông trở về với cái
nhìn hướng nội , tiếp tục nét bút của Giấc mộng Từ Lâm và Nắng thu, mô tả
người thanh niên thế hệ ray rứt bởi nỗi băn khoăn, tâm hồn chia sẻ bởi giữa
những tình yêu, nghệ thuật và cách mạng . Trong suy nghĩ khi viết tiểu th uyết
ông luôn phê phán sự gò ép , giả tạo của tiểu thuyết luận đề, khi bày tỏ mong
muốn về một tác phẩm hay, hấp dẫn người đọc và nó có giá trị trong mọi thời
đại.
Ở đây, có một vấn đề đặt ra là: tại sao các nhà văn cùng thời với Nhất
Linh có chung một con đường sáng tác đó là đi từ tiểu thuyết luận đề đến tiểu
thuyết tâm lý. Sự lý giải này chúng tôi tập trung điểm đồng nhất giữa Nhất Linh
với một số nhà văn trong Tự lực văn đoàn như: Thạch Lam, Khái Hưng. Qua sự
trải nghiệm cùng năm tháng khi chúng ta nhìn lại thấy sự chuyển hướng này
không có một giới hạn rạch ròi , dứt khoát. Bởi vì, hai loại tiểu thuyết này cùng
song song tồn tại ngay từ 1932, nhưng nếu có thể gọi là trào lưu thì rõ ràng từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
năm 1938 trở về trước , tiểu thuyết luận đề đóng vai trò chủ đạo trong sáng tác
của các nhà văn, còn từ 1938 trở về sau thì tiểu thuyết tâm lý có phần phổ biến.
Ở tiểu thuyết luận đề biểu hiện rõ thái độ nhập thế, tiểu thuyết tâm lý ở
giai đoạn cuối biểu hiện rõ thái độ thoát ly của các nhà văn Tự lực văn đoàn.
Vẫn là các nhà văn lãng mạn ấy, nhưng tại sao lại có những th ái độ khác nhau
như vậy? Nếu đứng ở góc độ nguyên tắc sáng tác mà nói , thì có thể thấy rằng
chủ nghĩa lãng mạn tạo nhiều cơ hội cho việc miêu tả tâm lý , chú ý tới cái tôi
cảm xúc, đời sống nội tâm bên trong của con người. Chủ nghĩa lãng mạn tỏ sự
bất hoà với thực tại, vì vậy mở ra cho nhà văn một hướng tìm tòi mới: Khám phá
thế giới bên trong, coi nó là một đối tượn g ngày càng phong phú, hấp dẫn. Nếu
xét động cơ sáng tác của Nhất Linh hay Khái Hưng thì thấy rằng trong thời tiểu
thuyết luận đề của mình họ đã dùng tác phẩm văn chương để phụng sự lý tưởng
cải cách của mình và phá huỷ những hủ tục đồi phong , xây đắp một cuộc đời
hợp lẽ phải, mà bỏ đi những điều thành kiến, chỉ phục tùng bằng cách lấy lương
tri mà xét đoán tất cả mọi điều trong cuộc sống . Trong giai đoạn sáng tác nhất
định đó, trong động cơ ấy đã gặp được sự thuận lợi nên luận đề đấu tranh chống
lễ giáo phong kiến, cải cách xã hội của Nhất Linh và Khái Hưng nói riêng và Tự
lực văn đoàn nói chung được ủng hộ và đề cao . Họ tin tưởng vào một tương lai
tươi sáng hơn trên bước đường nghệ thuật. Nhưng, do thực tế lịch sử đã làm cho
hy vọng đó sáng lên nhưng không được lâu. Kể từ năm 1939 trở đi , mọi phong
trào cách mạng đều bị thực dân Pháp đàn áp, sách báo bị kiểm duyệt gắt gao, tư
tưởng làm cách mạng văn hoá trong khuôn khổ xã hội thực địa của các nhà văn
đứng trên bờ vực phá sản . Họ đành làm văn nghệ thuần tuý bằng việc viết tiểu
thuyết tâm lý. Ở đây sự đồng nhất trên cùng một đại lộ đó có các nhà văn của Tự
lực văn đoàn và các nhà thơ Mới. Chính thế mà Hoài Thanh đã đưa ra một câu :
“mất chiều rộng, ta đi vào chiều sâu, nhưng càng đi càng thấy lạnh”. Vì lẽ đó mà
ở tiểu thuyết tâm lý khác hẳn với tiểu thuyết luận đề, mối quan hệ giữa con
người và hoàn cảnh ít được chú ý, nhân vật bị rơi vào tình trạng ít vận động,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
biến đổi, ít bị tác động bởi thế giới bên ngoài mặc dù thế giới nội tâm của nó rất
được quan tâm thể hiện.
Như vậy , nếu ở tiểu thuyết luận đề Nhất Linh hầu như những biểu hiện bên
ngoài của nhân vật thường trùng khít với nội tâm, cá tính của nó thì ở tiểu thuyết
tâm lý, hiện tượng ấy không còn phổ biến nữa. Sự không đồng nhất giữa cái bên
trong và bên ngoài trong mỗi cá nhân , cá thể là những tín hiệu ban đầu cho thấy
sự phong phú, đa dạng, phức tạp của thế giới nội tâm con người. Những tín hiệu
ấy ngày càng được bổ sung và hoàn thiện bởi một số yếu tố nghệ thuật miêu tả
tâm lý đặc sắc khác. Nhất Linh không còn tập trung làm nổi bật mâu thuẫn giữa
các nhân vật trong tác phẩm nữa mà hướng tới thế giới bên trong nhân vật nhằm
thể hiện đời sống nội tâm. Việc quan tâm tới con người nội tâm đã thay thế cho
việc quan tâm tới con người xã hội, từ suy nghĩ của nhân vật thay thế cho trú
trọng miêu tả hành động để rồi từ đó khắc hoạ hình tượng những con người suy
tư. Càng về giai đoạn sau 1937 các sáng tác của Nhất Linh việc di chuyển điểm
nhìn từ phía người trần thuật sang nhân vật càng xuất hiện với tần số cao . Tác
giả để cho nhân vật tự bộc lộ, tự đối diện với chính mình. Vũ Ngọc Phan nhận
xét về Nhất Linh : “Ông viết từ ti ểu thuyết ái tình, tiểu thuyết tình cảm, qua
những tiểu thuyết luận đề, đến tiểu thuyết tâm lý, sự tiến hoá ấy chứng tỏ rằng
mỗi ngày ông càng muốn đi sâu vào tâm hồn người ta". [35, 234].
Tiểu kết chương I
Lý thuyết về tiểu thuyết và nhân vật tiểu thuyết rất phong phú, đa dạng.
Khuôn khổ của một cuốn luận văn không cho phép chúng tôi đi nghiên cứu mở
rộng và quá tỉ mỉ về vấn đề nêu trên. Song việc nghiên cứu tìm hiểu một số đặc
trưng cơ bản nhất của lý thuyết về thể loại tiểu thuyết và nhân vật trong tiểu
thuyết sẽ cho chúng ta thấy những đặc trưng của thể loại và sự vận động phát
triển của nó trong tiến trình văn học, tạo nên cơ sở khách quan khoa học cho
công việc nghiên cứu nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Đôi bạn và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
36
Bướm trắng của Nhất Linh. Toàn bộ vấn đề vừa trình bầy có thể tóm lại bằng
một số luận điểm như sau:
1.Tiểu thuyết là một hình thức tự sự cỡ lớn, có khả năng phản ánh rộng ,
bao quát những vấn đề rộng lớn của hiện thực đời sống. Nó là thể loại ra đời
muộn và cũng là thể loại duy nhất đang biến chuyển và còn chưa định hình.
Chính vì thế những đặc điểm của thể loại này vẫn còn được nghiên cứu, bổ
xung, phát hiện theo thời gian.
2. Nhân vật là yếu tố cơ bản nhất trong tác phẩm văn học, nhân vật là tiêu
điểm để bộc lộ tư tưởng, chủ đề và đến lượt mình, nó lại được các yếu tố có tính
chất hình thức của tác phẩm tập trung khắc hoạ, làm nổi bật hơn lên. Ngay từ
giai đoạn đầu thế kỷ XX, vấn đề nhân vật trong tiểu thuyết đã được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm. Xuất phát từ quan niệm coi hiện thực tiểu thuyết là thực
tại nên nhân vật cũng phải là những con người bình thường, nhân vật hiện đại
phải là những con người có cá tính riêng, có ngoại hình và nội tâm, mang bản
chất của con người trong xã hội một cách chân thực.
3. Nhất Linh từ giã quan niệm truyền thống để đi vào một quan niệm mới
về viết tiểu thuyết. Trong hai kiểu tiểu thuyết: tiểu thuyết luận đề và tiểu thuyết
tâm lý của Nhất Linh mỗi kiểu tiểu thuyết có một chức năng riêng, do đó có
cách xây dựng nhân vật khác nhau. Con đường văn học của Nhất Linh trước
cách mạng là đi từ tiểu thuyết luận đề đến tiểu thuyết tâm lý. Đây cũng là con
đường chung của nhiều nhà văn đương thời.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
CHƯƠNG II
NHÂN VẬT VÀ KẾT CẤU CỐT TRUYỆN
TRONG ĐÔI BẠN VÀ BƯỚM TRẮNG
2.1. Quan niệm của Nhất Linh về con người
2.1.1. Quan niệm về con người trong văn học
Trong cuộc sống, con người là hạt nhân, là tâm điểm. Mục đích cuối cùng
của tất cả các ngành khoa học là làm cho cuộc sống của chúng ta càng trở nên
tốt đẹp hơn. Văn học cũng “lấy con người làm đối tượng nhận thức trung tâm ,
đó là cái đích để sáng tác văn học hướng tới. Đáp ứng nhu cầu hiểu biết của con
người, văn học thực sự trở thành “cuốn sách giáo khoa của đời sống” và con
người là “hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình thức nghệ thuật” . Vì vậy , quan niệm
nghệ thuật về con người đóng vai trò quan trọng trong nghệ thuật nói chung và
văn học nói riêng. Quan niệm nghệ thuật về con người, chính là thước đo chuẩn
mực thành công và đóng góp của văn học trong việc khám phá thế giới. Khi
đánh giá thành tựu của một nền văn học, một xu hướng, một tác giả hay một giai
đoạn… Không thể không đánh giá quan niệm nghệ thuật về con người.
Quan niệm con người cũng là một sản phẩm của lịch sử . Nó chịu sự chi
phối của cá tính sáng tạo của nhà văn, truyền thống văn hoá dân tộc và ảnh
hưởng của mối quan hệ giao lưu văn hoá quốc tế . Ở mỗi thời kỳ, mỗi nơi, mỗi
con người khi đưa ra quan niệm nghệ thuật về con người đều có sự khác nhau.
Chính sự khác nhau đó tạo nên bản sắc nghệ thuật phong phú, đa dạng cho văn
học và nghệ thuật. Nhưng dù có khác nhau thế nào thì đến cái đích cuối cùng
vẫn là “khám phá ngày càng sâu sắc con người như nó tự cảm thấy trong tự
nhiên, xã hội và lịch sử với tất cả sự phong phú và tinh tế” [40, 101]. Quan niệm
con người là cách hiểu , cách cắt nghĩa về con người. Quan niệm đó quyết định
chiều sâu của việc miêu tả cũng như việc giải quyết chủ đề , đề tài trong sáng
tác… Với tầm quan trọng đó , vấn đề con người đã trở thành một trong những
trung tâm chú ý của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
38
Đối với các nhà nghiên cứu phương Tây thì cho rằng con người chính là
phương tiện tất yếu và quan trọng nhất để thể hiện tư tưởng của tác phẩm. Theo
Brech “các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là những bản
dập của những con người sống, mà là hình tượng được khắc hoạ phù hợp với ý
đồ tư tưởng của tác giả” [5, 213].
Về nhân vật và lập trường của tác giả đối với nhân vật trong sáng tác của
Đoxtôiepxki, Bakhtin có ý kiến : “Nhân vật làm cho Đox tôiepxki quan tâm chỉ
như một quan điểm đặc biệt đối với thế giới và đối với chính nó, như một lập
trường ý nghĩa và lập trường đánh giá của con người đối với bản thân và đối với
thế giới xung quanh nó” [4]. Đó chính là đặc điểm rất quan trọng và căn bản
trong việc cảm thụ nhân vật văn học. Bởi cái cần khám phá và khắc hoạ của tác
giả là một sự tổng kết mới nhất của ý thức và sự tự ý thức của nó. Suy đến cùng
là ý thức mới nhất của nhân vật về chính nó và thế giới của nó. Ở đây, ta thấy
nhân vật trở thành đối tượng của sự tự ý thức mà chức năng của sự tự ý thức đó
lại là đối tượng của cái nhìn và sự miêu tả của chính tác giả . Do vậy, toàn bộ
thực tại đều trở thành yếu tố tự ý thức của nhân vật chỉ có toàn bộ cái tự ý thức
thuần tuý đó mới là đối tượng của cái nhìn và sự miêu tả của tác giả, trong
trường nhìn, điểm nhìn tinh tế của tác giả.
Cũng cùng với quan niệm trên của Bakhtin thì Pospelov nói về điều này
có phần giản đơn hơn, ông cho rằng: “Các tác phẩm tự sự và kịch miêu tả con
người cá nhân với hành vi bề ngoài và cách hiểu thế giới của chúng (…) gọi là
nhân vật được miêu tả một cách nghệ thuật trong tác phẩm” [34, 18]. Như vậy ,
theo Pospelov ở đây nhân vật bộc lộ bản thân chủ yếu không phải trong việc
làm, trong hành động mà qua các su y nghĩ về những điều trông thấy , qua cảm
xúc đối với xung quanh.
Đối với các nhà nghiên cứu phê bình ở Việt Nam quan niệm nghệ thuật là
cơ sở chắc chắn nhất để nghiên cứu tính độc đáo của các sáng tác nghệ thuật. Sự
tiến bộ nghệ thuật được đề cập đến sau đây không nằm ngoài sự mở rộng , đào
sâu các giới hạn trong việc cảm thụ hiện thực, đời sống của các nhà văn. Chúng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
tôi xin giới thiệu một quan niệm tiêu biểu trong giới nghiên cứu phê bình ở nước
ta. Theo giáo sư Trần Đình Sử thì vấn đề quan niệm nghệ thuật về con người
thực chất là vấn đề “tính năng động của nghệ thuật, là giới hạn , phạm vi chiếm
lĩnh đời sống của một hệ thống nghệ thuật, là khả năng thâm nhập của nó vào
các miền khác nhau của cuộc đời” [38, 90]. Khi nói đến quan niệm nghệ thuật là
nói đến tính sáng tạo về chất trong cảm thụ và miêu tả đời sống . “Chừng nào
chưa có đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người thì sự tái hiện các
hiện tượng đời sống khác nhau chỉ có ý nghĩa mở rộng lượng trên cùng một
chiều sâu ”[38, 91].
Trong “Một số vấn đề về thi pháp văn học hiện đại” (Trần Đình Sử - Thi
pháp học hiện đại, NXB Giáo dục đào tạo, 1993) tác giả cho biết: Từ trước tới
nay, người ta hay phân tích nhân vật văn học như là sự miêu tả một loại người
nào đó trong xã hội , từ đó người ta thường đối chiếu nhân vật với loại người mà
nó miêu tả xem có giống hay khô ng giống để xác định mức độ chân thật . Thi
pháp học có hướng tiếp cận khác : Xem toàn bộ sự miêu tả về n hân vật như là
một cái biểu đạt, như là sự biểu hiện trình độ cảm nhận về con người, từ đó phân
tích nhân vật, để tìm hiểu quan niệm của con người trong ý thức của tác giả.
Từ quan niệm nghệ thuật về con người dưới cách nhìn của các nhà nghiên
cứu ta có thể thấy rằng con người khi được đưa vào trong tác phẩm nó trở thành
đối tượng nhận thức các vấn đề của cuộc sống. Nhân vật được khắc hoạ qua cái
nhìn của tác giả và được các nhà văn thể hiện qua các hình thức nghệ thuật. Qua
nhân vật, người đọc có thể đánh giá được sự cảm nhận cũng như quan điểm, tư
tưởng của tác giả đối với cuộc sống và con người. Ở các nhà văn lớn , sự hình
thành quan niệm nghệ thuật của họ vừa có vai trò đặc biệt quyết định của cá tính
sáng tạo của thế giới quan và tư tưởng nghệ thuật của nhà văn, Với một nhà văn
có một quá trình sáng tác trải qua nhiều giai đoạn thì quan niệm nghệ thuật cũng
có nhiều biến đổi. Quá trình này có khi là sự nhảy vọt , nhưng cũng có khi từ từ
như một mạch nư ớc ngầm thấm dần trong tư tưởng, suy nghĩ và được thể
nghiệm trên từng trang viết với tất cả sự tâm huyết với nghề.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40
2.1.2. Quan niệm về con người trong sáng tác của Nhất Linh
V.Sécbina trong cuốn Quan niệm con người trong văn học thế kỉ XX cho
rằng: “Quan niệm con người tạo thành cơ sở, thành nhân tố vận động của nghệ
thuật, thành bản chất nội tại của hình tượng nghệ thuật”. Quả là sự vận động của
thực tế làm nảy sinh con người mới và miêu tả những con người thực tế ấy sẽ
làm cho văn học đ ổi mới. Nhưng theo chúng tôi còn một khía cạnh khác nữa là
đổi mới cách giải thích và cảm nhận con người cũng làm cho văn học có sự đổi
thay căn bản.
Cho nên, người nghệ sỹ đích thực là người suy nghĩ về con người, cho
con người, nêu ra những tư tưởng mới để hiểu về con người. Họ lý giải, cắt
nghĩa nhìn nhận và đánh giá con người dưới góc độ triết học và mỹ học. Trong
tiểu thuyết như Đoạn tuyệt, Lạnh lung, Đôi bạn, Bướm trắng…Nhất Linh đã
phần nào làm được điều đó. Ông đã thể hiện một quan niệm về con người mới
làm nền tảng cho việc xây dựng cốt truyện và miêu tả nhân vật trong tác phẩm
của mình.
Con người cá nhân là một phạm trù t iêu biểu của văn học hiện đại. Con
người cá nhân cũng đã được xuất hiện trong văn học trước đó. Ở thế kỉ XVIII -
XIX với nhu cầu hưởng hạnh phúc lứa đôi với ước ao trong khuôn khổ xã hội
phong kiến như Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm… đến Tản Đà đã có một cái tôi
“chơi vơi, man mác, vô định”, có nhu cầu tách khỏi xã hội cương thường nhưng
chưa có sức mạnh vị trí của mình. Ở Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, con người
cá nhân muốn có một ý thức độc lập về hạnh ph úc nhưng nó cũng rất mong
manh nên cũng bị thế lực phong kiến nghiền nát. Có thể nói chỉ đến Thơ mới và
Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn nói chung và Nhất Linh nói riêng thì quan niệm “cá
nhân” mới được khẳng định đúng nghĩa, là đỉnh cao của hành trình tự ý thức của
con người cá nhân trong xã hội Việt Nam hiện đại .
Trong tiểu thuyết của Nhất Linh, quan niệm nghệ thuật về con người được
xây dựng theo mô hình con người cá nhân. Đó là con người đấu tranh thoát ly
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41
nghĩa vụ con người xã hội để đến với khát vọng hạnh phúc riêng tư, con người
luôn luôn xung đột với gia đình truyền thống và với đạo đức luân lý của cả một
xã hội đang cố gò con người vào cái vòng cương toả của gia giáo và tiết hạnh.
Với tiểu thuyết tâm lý thì con người có khát vọng hành động tìm lối thoát li mọi
quan hệ xã hội để thoả mãn tự do bản năng đây cũng là cấp độ cao nhất của con
người cá nhân ý thức hướng tới một cuộc đời mới với một quan niệm sống mới,
là ý thức thường trực trong con người ở tiểu thuyết Nhất Linh. Loan luôn luôn
“ao ước được sống cái đời tự do rộn g rãi , không gì bó buộc” [23, 159] hay là
khi cha mẹ nói với Loan về việc nhân duyên của cô, cô thẳng thắn đáp lại (dù là
rất yêu quý bố mẹ) : “Thưa mẹ, sao mẹ hứa với người ta?...Việc của con mà thầy
mẹ cứ coi như con không có ở cái nhà này!” [23, 26]. Loan ý thức về quyền bảo
vệ nhân phẩm và danh dự : “Không có ai có quyền chửi tôi, không ai có quyền
đánh tôi…Loan vuốt tóc ngẩng lên nhìn thẳng vào mặt mẹ chồng :
- Bà là người ; tôi cũng là người, không ai hơn ai, kém ai ” [23, 99]
Còn đối với Nhung trong Lạnh lùng thì bất hạnh hơn. Nàng lấy chồng từ
thủa chưa biết nhớ biết yêu khi chồng mất nàng phải sống cuộc đời giả dối. Dối
mình để không lỗi đạo đức với nhà chồng, dối người để được tiếng khen ở đời.
Đã bao lần Nhung ý thức về sự lừa dối của mình: “Nàng muốn quên hẳn người
cũ, nhưng một câu nói, một cử chỉ của nàng là một người đàn bà goá kính phục
vì không lúc nào không thương chồng” [24, 198]. Sống dối trá, nhưng nàng vẫn
không tránh khỏi nghĩ : “Một người đàn bà goá sao lại không được phép đi lấy
chồng như một người con gái ? Sao cứ phải ở vậy mới được tiếng thơm cho cha
mẹ và cho gia đình” [24, 260]. Nghĩ cũng chỉ vậy thôi . Những thủ tục lạc hậu
đã hằn trong nếp nghĩ xóm làng Việt Nam , nếu Nhung mà sống thực với lòng
mình, Nhung sẽ bị hàng xóm chê cười. Để yên th ân, nàng đành sống cam chịu
cho dù đã có lúc xao lòng trước Nghĩa.
Con người trong tiểu thuyết luận đề là vậy, còn con người trong Đôi bạn,
Bướm trắng thì lại đấu tranh để giải phóng bản năng của mình. Loan và Dũng
trong Đôi bạn mang tâm trạng lưỡng thế của thời đại. Đó là thời đại mà xã hội
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
42
phong kiến vẫn còn bám rễ và bao bọc xung quanh Loan và Dũng. Họ muốn
thoát ra khỏi cái xã hội ngột ngạt ấy nhưng họ thật lẻ loi và cô đơn. Dũng luôn
cảm thấy mình cô đơn, chơ vơ giữa gia đình phong kiến trưởng giả tàn ác, Loan
luôn cảm thấy mình trơ trọi giữa cuộc đời. Loan và Dũng là nhân vật lãng mạn ,
luôn xa cách với hoàn cảnh thực tại và hướng về một thế giới ở phía trước. Nhân
vật Trương trong Bướm trắng là sự khẳng định một thứ tự do cá nhân tuyệt đối.
Hành động của Trương là hành động chạy theo bản năng xui khiến. Nhân vật tự
để nhân cách của mình tụt dốc một cách vô thức, thậm chí cả ý thức bởi những
hành động vô lý , ngẫu nhiên. Nhà văn Nhất Linh đã nói ra một loạt các hành
động “vô lý” mang tính chất bản năng của các nhân vật: “Vô lý” viết thư tỏ tình
với Thu dù biết đó là một tình yêu “trắc trở”; “v ô lý” đưa thư dù cho bao lần
lưỡng lự ; “vô lý” ăn chơi truỵ lạc, “vô lý” khi ở tù ra giơ cái đầu trọc trước cả
gia đình Thu ; “vô lý” mua dao dù biết rằng không bao giờ giết Thu…
Phải khẳng định rằng con người trong tiểu thuyết Nhất Linh luôn bức bối
ngột ngạt bởi chính thế giới tâm hồn nhạy cảm, đa dạng và phức tạp của mình.
Việc giải thoát sự căng thẳng trong thế giới tâm hồn là một cơ sở để nhà văn
Nhất Linh di chuyển sự chú ý của ngòi bút từ những xung đột xã hội sang những
sung đột nội tâm sâu kín. Những hành động của các nhân vật trong tiểu thuyết
Tự lực văn đoàn nói chung và của Nhất Linh nói riêng là những hành động
mang ít cá tính độc đáo.
Trong các tiểu thuyết : Đoạn tuyệt, Lạnh lùng , hay Đôi bạn Nhất Linh
quan niệm về nhân vật : Nhân vật đại diện cho chế độ và tập tục cũ như Bà Án
(Bướm trắng) - là nhân vật phản diện ; đồng thời có những nhân vật chính diện
mang lý tưởng, thể hiện quan điểm tư tưởng, đạo đức của tác giả, của thời đại
như: Loan (Đoạn tuyệt); Dũng (Đôi bạn ), Trâm (Nắng thu)… Riêng ở Bướm
trắng Nhất Linh còn thể hiện một quan niệm nghệ thuật mới về con người, nhân
vật Trương không thể xếp vào hai loại nhân vật trên. Đó là nhân vật đại diện cho
chính nhân vật đó, cho cách sống và suy nghĩ của chính họ. Trương lao vào ăn
chơi sa đoạ nhưng có lúc hành động cao đẹp, tự ý thức về những việc làm xấu xa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
của mình, chàng quyết định chia tay với Thu cũng chính vì muốn g iữ một tình
yêu trong sáng đối với nàng. Ở đây , phải chăng nhà văn Nhất Linh đã xoá nhoà
hai kiểu nhân vật, xoá nhoà ranh giới giữa thiện và ác, giữa tốt đẹp và xấu xa để
tạo nên một kiểu nhân vật phức hợp, hội tụ nhiều phẩm chất, nhiều con người
trong một chỉnh thể ?
Như vừa nói ở trên, con người trong tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh là
con người cá nhân - xã hội , còn con người trong tiểu thuyết tâm lý của ông là
con người cá nhân - tâm lý. Với quan điểm về nghệ thuật tiểu thuyết Nhất Linh
cho rằng: “Một cuốn tiểu thuyết cần nhất là sự sâu sắc. Thế nào gọi là sâu sắc?
Sâu sắc chính là ở chỗ mình diễn tả được tất cả những cái mông lung bí ẩn của
tâm hồn” . Nhất Linh đã mở đầu cách miêu tả thế giới nội tâm của con người,
đặc biệt chú ý trình bày thế giới cảm giác của con ngườ i đối với môi trường
xung quanh, đối với người khác và đối với chính mình, đưa toàn bộ cấu trúc tự
sự vào cấp độ đó.
Chẳng hạn, ở Đoạn tuyệt mở đầu cũng là một đoạn văn miêu tả cảm giác:
“Mỗi buổi trưa chủ nhật về mùa đông trong gian phòng ấm áp , bốn người ngồi
nói chuyện quây quần nói chuyện trước lò sưởi đỏ rực. Bên ngoài mưa bụi lặng
lẽ bay qua mờ mờ như hơi sương. Hai gốc hoàng lan cạnh cửa sổ đứng rũ rượi ,
cành lá nặng nề ướt át” [23, 20]. Đoạn kết thúc cũng là đoạn văn miêu tả cảm
giác: “Hiện giờ có một người sung sướng. Người đương đi ngoài mưa gió, quên
cả mưa ướt, gió lạnh ” [23, 134]. Những dòng đầu trong tác phẩm Đôi bạn trong
lời tựa đề “Nhặt lá bàng” tác giả cũng đề tựa một đoạn tả về cảm giác nỗi lòng
của một nhà thơ và nhiều đoạn khác: “Đêm ấy trời cũng lạnh như đêm nay, cũng
về cuối thu. Tôi còn nghe thấy cả một chiếc lá bàng rơi chạm vào tường rồi mới
rơi xuống sâu” [ 26, 275] hoặc “trời đã rét, tôi lại ngồi như để đón một cơn gió
lạnh làm tôi giá buốt cả tâm can” [26, 276]. Ở tác phẩm: Bướm trắng cũng mở
đầu bằng cảm giác và kết thúc bằng cảm giác làm cho người đọc cùng thể
nghiệm cảm giác cùng với nhân vật.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
Con người trong tiểu thuyết của Nhất Linh có rất nhiều những cảm giác
tưởng tượng, cảm giác mơ mộng, “nhớ lại”, “hồi tưởng lại”, “nghĩ đến” càng
chứng tỏ thế giới nội tâm phong phú , lập thể . “Dũng thốt nhiên thấy quả tim
mình đập mạnh chàng nghĩ đến cái sung sướng một ngày kia, một ngày xa xôi
lắm và không chắc có còn không, lại được gặp mặt Loan, người của quê hương
cũ, người của tuổi thơ mà chàng biế t không bao giờ gặp lại” [26, 376] hoặc
“Trương nhớ đến cái thú thần tiên khi hai người nhìn nhau lần thứ nhất, một giọt
sương sáng long lanh nhưng rồi lại tắt đi ngay” [27, 437] .
Sự tập trung vào thế giới nội tâm đã làm thay đổi cấu trúc tự sự c ủa tác
phẩm. Cấu trúc nhân vật trong Đôi bạn , Bướm trắng , thế giới bên trong đã
chiếm ưu thế hơn so vớ i những biểu hiện hành động bên ngoài. Lời nói bên
trong (độc thoại, nội tâm, ngôn ngữ nửa trực tiếp) chân thật và sinh động hơn lời
đối thoại bên ngoài. Nhất Linh thường khắc hoạ nhân vật trong những tương
phản tâm lí với các nhân vật khác. Rõ ràng, Nhất Linh đã có quan niệm về cá
tính con người một cách rõ nét và cụ thể .
Trong quan niệm n ghệ thuật về con người của mình, nhà văn Nhất Linh
đặc biệt quan tâm đến việc khám phá “con người bên trong” , khám phá những
cảm xúc, cảm giác mong manh tinh tế cũng như mãnh liệt trong tâm hồn con
người nhưng không vì vậy tác giả coi nhẹ việc khắc hoạ, đặc tả “con người bên
ngoài”. Nhân vật của Nhất Linh vẫn hiện ra với những diện mạo và cá tính cụ
thể, đặc biệt là vẻ đẹp ngoại hình. Nhưng ở phương diện này, con người trong
tác phẩm của Nhất Linh đã mang một quan niệm mới so với văn học truyền
thống. Nếu như ở văn học dân gian, vẻ đẹp ngoại hình chỉ là thứ “phụ tùng” của
vẻ đẹp tinh thần và chỉ có giá trị khi nó gắn với vẻ đẹp tinh thần (như “Tốt gỗ
hơn tốt nước sơn”); ở văn học cổ điển, vẻ đẹp ngoại hình được thể hiện trong sự
tương phản sâu sắc với số mệnh (như “hồng nhan đa truân”, “hồng nhan bạc
mệnh”), vẻ đẹp con người luôn đặt vào mối quan hệ mật thiết với thiên nhiên, vũ
trụ thì ở Đôi bạn , Bướm trắng, Nhất Linh đã tái hiện con người cá nhân với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
những góc độ chân thật nhất. Vẻ đẹp ngoại hình như là một yếu tố để khám phá
con người , nó là một yếu tố mang giá trị cá nhân, một tiêu chuẩn để đánh giá
con người hoàn chỉnh của xã hội hiện đại.
Có thể nói, đến Nhất Linh, con người mới ý thức công khai được sắc đẹp
tự thân là một yếu tố của giá trị cá nhân. Chính vì thế các góc cạnh của sắc đẹp
được miêu tả chi tiết, từ nhiều góc độ. Nó không chỉ được miêu tả qua lời trần
thuật của tác giả mà còn được miêu tả qua sự cảm nhận của nhân vật khác và sự
cảm nhận của chính nhân vật. Vẻ đẹp của nhân vật của Nhất Linh vì thế còn là
vẻ đẹp mang tính chất lý tưởng, nhân vật không chỉ đẹp mà còn có mối quan hệ
mật thiết với trí tuệ bên trong. Nhưng một đặc điểm nổi bật ở đây là vẻ đẹp
ngoại hình của nhân vật là vẻ đẹp hiện đại, cái đẹp mang tính chất đô thị. Bên
cạnh miêu tả những đường nét cơ thể, tác giả còn quan tâm đến việc miêu tả
trang phục, trang điểm của nhân vật, cùng những khía cạnh khác của đời sống
hiện đại.
Tóm lại, vẻ đẹp ngoại hình của con người trong tiểu thuyết Đôi bạn,
Bướm trắng là phươn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11LV08_SP_VANHOC(NguyenThiMaiHuong).PDF