Tài liệu Luận văn Ngân hàng đầu tưu và phát triển và chiến lược dành vốn tập trung cho đầu tư phát triển: Luận văn: Ngân hàng đầu tưu và phát
triển và chiến lược dành vốn tập trung
cho đầu tư phát triển
Lời nói đầu
Đất nước ta đang trong thời kì đổi mới, phát triển kinh tế, ổn định chính trị và xã
hội đang là nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn hiện nay. Từ một nền kinh tế kém
phát triển thu nhập bình quân đầu người thấp , cơ sở hạ tầng thấp kém về mọi mặt do
vậy để phát triển chúng ta cần phải có vốn. Đảng và nhà nước ta đã xác định phát
triển kinh tế ổn định và vững chắc có trọng tâm trong đầu tư. Do đó chủ trương “ vốn
trong nước là quyết định , vốn nước ngoài là quan trọng” luôn được quán triệt trong
quản lý kinh tế quản lý đầu tư và đặc biệt trong hoạt động tín dụng đầu tư. Trong khi
thị trường vốn ở nước ta chưa phát triển thì kênh dẫn vốn quan trọng cho hoạt kinh tế
nói chung và hoạt động đầu tư đầu tư phát triển nói riêng hiện nay chính là hệ thống
ngân hàng. Nhờ có hệ thống này mà vốn được lưu chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu,
giúp cho việc lưu chuyển ...
88 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1027 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Ngân hàng đầu tưu và phát triển và chiến lược dành vốn tập trung cho đầu tư phát triển, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn: Ngân hàng đầu tưu và phát
triển và chiến lược dành vốn tập trung
cho đầu tư phát triển
Lời nói đầu
Đất nước ta đang trong thời kì đổi mới, phát triển kinh tế, ổn định chính trị và xã
hội đang là nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn hiện nay. Từ một nền kinh tế kém
phát triển thu nhập bình quân đầu người thấp , cơ sở hạ tầng thấp kém về mọi mặt do
vậy để phát triển chúng ta cần phải có vốn. Đảng và nhà nước ta đã xác định phát
triển kinh tế ổn định và vững chắc có trọng tâm trong đầu tư. Do đó chủ trương “ vốn
trong nước là quyết định , vốn nước ngoài là quan trọng” luôn được quán triệt trong
quản lý kinh tế quản lý đầu tư và đặc biệt trong hoạt động tín dụng đầu tư. Trong khi
thị trường vốn ở nước ta chưa phát triển thì kênh dẫn vốn quan trọng cho hoạt kinh tế
nói chung và hoạt động đầu tư đầu tư phát triển nói riêng hiện nay chính là hệ thống
ngân hàng. Nhờ có hệ thống này mà vốn được lưu chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu,
giúp cho việc lưu chuyển vốn hiệu quả, tạo vốn cho các công cuộc đầu tư góp phần
thúc đẩy kinh tế phát triển.
Thực hiện đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước trong những năm qua ngành
ngân hàng nói chung và ngân hàng đầu tư đầu tư phát triển nói riêng đã không ngừng
đổi mới và hoàn thiện cho phù hợp với tình hình mới, tăng cường công tác huy động
mọi nguồn vốn cho đầu tư phát triển, đẩy mạnh cho vay đối với các thành phần kinh
tế, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng....Chính vì vậy đã góp phần quan trong vào
công cuộc đầu tư thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng với tốc đô cao, kiềm chế lạm phát
và ổn định đời sống nhân dân. Song bên những thành công và kết quả đạt được thì hệ
thống ngân hàng nói chung và ngân hàng đầu tư đầu tư phát triển nói riêng đang còn
tồn tại nhiều yếu kém đó là nguồn vốn huy động có thời gian dài cho đầu tư còn
thiếu, công tác huy động còn nhiều bất cập. Trong khi đó hoạt động cho vay đầu tư
thì tỷ lệ nợ quá hạn đang ở mức báo động, vốn cho vay ra bị sử dụng lãng phí, không
hiệu quả do vậy hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư ngày càng giảm sút...Chính vì
vậy: tăng cường khả năng huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển trong
các ngân hàng nói chung và đặc biệt là ngân hàng đầu tư phát triển nói riêng đang là
vấn đề thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà làm chính sách, các nhà quản lý
đầu tư và ngân hàng...
Nhận thức được vấn đề này, sau một thời gian thực tập tại ngân hàng đầu tư phát triển
Hà Tây, được tiếp cận với các hoạt động của ngân hàng, em đã chọn đề tài nghiên
cứu với nội dung:
“Một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu
tư phát triển tại ngân hàng đầu tư phát triển Hà Tây.
Bài viết được chia làm ba phần:
Phần I. Lý luận chung về đầu tư, nguồn vốn đầu tư và hoạt động sử dụng vốn cho đầu
tư phát triển của ngân hàng đầu tư phát triển.
Phần II. Thực trạng và đánh giá thực trạng về huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu
tư phát triển tại ngân hàng đầu tư phát triển Hà Tây.
Phần III. Giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường khả năng huy động vốn và sử dụng
vốn cho đầu tư phát triển tại ngân hàng đầu tư phát triển Hà Tây.
Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và vận dụng phương
pháp thống kê - tổng hợp, toán học và đồ thị trong phân tích số liệu của ngân hàng
nhằm làm rõ thực trạng hiệu quả hoạt động huy động và sử dụng vốn cho đầu tư phát
triển tại ngân hàng. Từ đó đưa ra biện pháp tích cực và những kiến nghị đối với ngân
hàng đầu tư phát triển Hà Tây và các cơ quan ban ngành có liên quan nhằm tăng
cường khả năng huy động vốn cho đầu tư phát triển . Để hoàn thành bài viết này đặc
biệt em xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ: Nguyễn Hồng Minh đã tận tình chỉ bảo và
hướng dẫn, cùng các thầy cô giáo và các cán bộ phòng Nguồn vốn kinh doanh Ngân
hàng đầu tư và phát triển Hà Tây đã giúp đỡ trong quá trình thực hiện.
Hà Nội, ngày 26 tháng 4 năm 2001.
Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Việt Cường
Phần I.
lý luận chung về đầu tư phát triển, nguồn vốn đầu tư và hoạt động huy động vốn và
sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của ngân hàng đâù tư phát triển.
I. Đầu tư và nguồn vốn đầu tư phát triển:
I. 1.Khái niệm, đặc điểm và vai trò của đầu tư phát triển.
I. 1.1. Khái niệm đầu tư
Thuật ngữ “đầu tư” được hiểu với nghĩa chung nhất là sự bỏ ra, sự hy sinh những cái
gì đó ở hiện tại ( tiền, của cải vật chất, sức lao động, trí tuệ...) nhằm đạt được các kết
quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai. Đó có thể là các mục tiêu kinh tế , xã hội,
văn hoá,chính trị...
Đầu tư trên giác độ nền kinh tế là sự hy sinh giá trị hiện tại gắn với việc tạo ra tài sản
mới cho nền kinh tế. Các hoạt động mua bán, phân phối lại, chuyển giao tài sản hiện
có dữa các cá nhân, các tổ chức, không phải là đầu tư với nền kinh tế.
Còn trong hoạt động kinh doanh, đầu tư là sự bỏ vốn( tiền, nhân lực, nguyên liệu,
công nghệ vào các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ nhằm mục đích thu lợi
nhuận. Đây được xem như bản chất cơ bản của các hoạt động đầu tư. Kinh doanh cần
nghiên cứu đầy đủ các khía cạnh khác nhau của hoạt động đầu tư như : bản chất, đặc
điểm, phân loại, vai trò... để có những đối sách thích hợp đối với các đối tác đầu tư
khác nhau.
Mặt khác, có thể hiểu đầu tư là việc đưa ra một khối lượng lớn vốn nhất định vào qúa
trình hoạt động kinh tế nhằm thu được một khối lượng lớn hơn sau một khoảng thời
gian nhất định.
Khái niệm đầu tư còn được hiểu theo quan niệm tái sản xuất mở rộng, đầu tư thực tế
là quá trình chuyển hoá vốn thành các yếu tố cần thiết cho việc tạo ra năng lực tái sản
xuất, tạo ra những yếu tố cơ bản, tiên quyết cho quá trình sản xuất. Đây là hoạt động
mang tính chất thường xuyên của nền kinh tế ...
Với đầu tư phát triển thì đây là hình thức đầu tư quan trọng và chủ yếu. Loại đầu tư
này, người có tiền bỏ tiền ra để xây dựng , sửa chữa nhà cửa và kết cấu hạ tầng, mua
sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng nguồn nhân lực thực hiện
chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này. Hoạt động đầu tư
này nhằm nâng cao năng lực hiện có của các cơ sở sản xuất hiện có cả về số lượng
và chất lượng, tạo ra năng lực sản xuất mới. Đây là hình thức tái sản xuất mở rộng.
Hình thức đầu tư này tạo việc làm mới, sản phẩm mới và thúc đẩy nền kinh tế phát
triển.
Tóm lại, hoạt động đầu tư vốn là quá trình huy động và sử dụng mọi nguồn vốn phục
vụ sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra sản phẩm cung cấp dich vụ đáp ứng nhu cầu cá
nhân và xã hội.
I. 1.2. Đặc điểm của đầu tư phát triển:
Đầu tư phát triển có những điểm khác biệt so với đầu tư tài chính và đầu tư
thương mại ở các điểm sau:
Thứ nhất : Tiền, vật tư, lao động cần cho công cuộc đầu tư là rất lớn.
Thứ hai : Thời gian cần thiết cho công cuộc đầu tư dài, do đó vốn ( tiền, vật tư, lao
động ) đầu tư phải nằm khê đọng, không tham gia vào quá trình chu chuyển kinh tế
và vì vậy, trong suốt thời gian này không sinh lời cho nền kinh tế.
Thứ ba : Thời gian vận hành các kết quả đầu tư cho đến khi thu hồi đủ lượng vốn đã
bỏ ra hoặc thanh lý tài sản do vốn tạo ra cần và có thể thường là vài năm, có khi hàng
chục năm và có nhiều trường hợp là hoạt động vĩnh viễn.
Thứ tư : Nếu thành quả đầu tư là các công trình xây dựng thì nó sẽ được sử dụng
ngay tại nơi nó tạo ra.
Thứ năm : Các kết quả là hiệu quả hoạt động đầu tư chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố
không ổn định trong tự nhiên, trong hoạt động kinh tế xã hội như các điều kiện địa lý,
khí hậu, chính sách, nghiên cứu thị trường và quan hệ quốc tế. Vì vậy, độ mạo hiểm
của loại hình này cao.
Để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư phát triển đạt hiệu quả kinh tế xã hội
cao, trước khi tiến hành đầu tư phải làm tốt công tác chuẩn bị. Sự chuẩn bị này thể
hiện trong việc soạn thảo các dự án đầu tư và mọi công cuộc đầu tư phải tiến hành
theo dự án.
I.1.3 Vai trò của đầu tư phát triển:
Lý thuyết kế hoạch hoá tập trung và lý thuyết kinh tế thị trường đều coi đầu tư
phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng.
Nó thể hiện các mặt sau:
Trên giác độ nền kinh tế:
-Đầu tư vừa có tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu : Đầu tư là
yếu tố chiếm tỷ trong lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Đối với tổng cầu tác
động của đầu tư là ngắn hạn, tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm
cho tổng cầu tăng. Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi
vào hoạt động thì tổng cung dài hạn tăng lên.
-Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định và phát triển kinh tế : Sự tác động
không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cung và tổng cầu của nền
kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa
là yếu duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mỗi
quốc gia. Chẳng hạn, khi đầu tư tăng, cần các yếu tố của đầu tư tăng làm cho giá trị
các hàng hoá liên quan tăng đến mức độ nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt
mình lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống người lao động khó khăn... Mặt
khác, tăng đầu tư làm cho cầu các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất của các ngành
này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tệ nạn xã hội. Còn khi giảm đầu tư thì tác
động ngược lại với hai chiều hướng trên.
Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kết quả nghiên
cứu của các nhà kinh tế cho thấy muốn giữ tốc độ tăng trưởng trung bình thì tỷ lệ đầu
tư phải đạt được tù 15-25% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước.
ICOR = Vốn đầu tư / Mức tăng GDP.
Từ đó suy ra :
Mức tăng GDP = Vốn đầu tư / ICOR.
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư.
- Đầu tư tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh tốc độ mong muốn là tăng cường
đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Vì các
ngành nông, lâm, ngư nghiệp bị hạn chế về đất đai và khả năng sinh học. Do đó chính
sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt
được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
Bên cạnh đó đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển
giữa các vùng, lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói
nghèo, phát huy tối đa lợi thế so sánh về tài nguyên, kinh tế, chính trị...
-Đầu tư tác động tới việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ đất nước:
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá và hiện đại hóa đất nước.Đầu tư là điều
kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường công nghệ của nước ta hiện nay.
Như chúng ta đã biết có 2 con đường cơ bản để công nghệ là nghiên cứu phát minh ra
công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù tự nghiên cứu hay nhập từ nước
ngoài vào cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư.
Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh và dịch vụ:
Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Chẳng hạn, để tạo
dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây
dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị... và thực hiện chi phí
khác với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất, kỹ thuật vừa tạo ra.
Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh
dịch vụ đang tồn tại : sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất kỹ thuật của các
cơ sở này hao mòn hư hỏng. Để duy trì hoặc đổi mới cũng có nghĩa là đầu tư.
Như vậy, đầu tư có vai trò rất lớn không chỉ với nền kinh tế mà còn đối với các cơ sở
sản xuất kinh doanh và dịch vụ. Tuy nhiên, khi đầu tư ta thường đặt câu hỏi : vốn đầu
tư lấy từ đâu ra và sử dụng vốn như thế nào ? Có rất nhiều cách và con đường để có
vốn và sử dụng vốn em xin đề cập ở phần sau.
I. 2.Vốn và nguồn vốn đầu tư:
I. 2.1.Nguồn vốn đầu tư:
Trong nền kinh tế mở nguồn vốn đầu tư được hình thành từ 2 nguồn đó là nguồn vốn
trong nước và nguồn vốn nước ngoài.
-Nguồn vốn trong nước: đó là nguồn vốn được hình thành và huy động trong nước nó
bao gồm 3 bộ phận: tiết kiệm của nhà nước (Sg), tiết kiệm của các tổ chức doanh
nghiệp ( Sc), tiết kiệm của khu vực dân cư ( Sh).
+ Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước: Đó là phần còn lại của thu ngân sách sau khi đã
trừ đi các khoản chi thường xuyên củ nhà nước:
Sg= T - G.
Trong đó: Sg là tiết kiệm của nhà nước.
T là tổng thu ngân sách nhà nước.
G là các khoản chi thường xuyên của nhà nước.
+Nguồn vốn từ các tổ chức doanh nghiệp: Đó là nguồn vốn được tạo ra từ các
tổ chức doanh nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó bao gồm lợi
nhuận để lại doanh nghiệp ( lợi nhuận sau khi đã trừ đi các khoản thuế và các khoản
phải nộp khác ) và quỹ khấu hao của doanh nghiệp.
Sc = Dp + Pr.
Trong đó : Sc : là tiết kiệm của các doanh nghiệp.
Dp: là quỹ khấu hao của doanh nghiệp.
Pr : là lợi nhuận để lại doanh nghiệp.
+Nguồn vốn từ khu vực dân cư : Đó là nguồn vốn được hình thành từ thu nhập
sau thuế của dân cư sau khi đã trừ đi các khoản chi phí thường xuyên.
Sh = DI - C.
Trong đó : Sh : là tiết kiệm từ khu vực dân cư.
DI : là thu nhập sau thuế của khu vực dân cư.
C : là chi thường xuyên của khu vực dân cư.
-Nguồn vốn nước ngoài: Bao gồm 2 hình thức chính là vốn đầu tư trực tiếp và
vốn đầu tư gián tiếp.
+ Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Đó là nguồn vốn đầu tư của các tổ
chức, cá nhân nước ngoài vào Việt Nam trong đó người bỏ vốn và người sử dụng vốn
là một chủ thể . Hình thức này hình thành các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiêp
100% vốn nước ngoài và hợp đồng hợp tác kinh doanh.
+ Vốn đầu tư gián tiếp (Ví dụ: ODA): Đó là nguồn viện trợ phát triển chính
thức, là nguồn tài chính mang tính chất hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội của các nước
hiện nay các tổ chức tài chính quốc tế cho các nước thuộc thế giới thứ ba. Trong đó
các tổ chức, các quốc gia bỏ vốn không trực tiếp sử dụng vốn đầu tư . Các hình thức
của đầu tư gián tiếp nước ngoài là viện trợ kinh tế không hoàn lại và viện trợ có hoàn
lại với lãi suất ưu đãi.
I.2.2. Vốn và vai trò của vốn đối với sự phát triển kinh tế .
-Vốn đầu tư:
Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch
vụ, là tiền tiết kiệm của dân và huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng
trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực mới
cho nền sản xuất xã hội. Vốn đầu tư tạo điều kiện cho sự bắt đầu hoạt động của các
cơ sở vật chất kỹ thuật mới hoặc được đổi mới, nâng cấp hiện đại hoá đồng thời tạo ra
các tài sản lưu động lần đầu tiên gắn liền với các tài sản cố định mới tạo ra hoặc được
đổi mới.
-Vai trò của vốn đầu tư với sự phát triển kinh tế:
Vốn là yếu tố quan trọng nhất trong qúa trình phát triển kinh tế của mỗi quốc
gia.ở Việt nam, để đảm bảo cho nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng và phát triển đạt 7-
8% trong gia đoạn tới, vốn đầu tư là một trong các yếu tố hết sức quan trọng. Theo
tính toán của các nhà kinh tế , nguồn vốn cho đầu tư phát triển gia đoạn 2001-2005
phải đạt ít nhất 58-59 tỷ USD : trong đó nguồn vốn trong nước chiếm tỷ trọng 60%,
cơ cấu nguồn vốn cho đầu tư phát triển bao gồm vốn đầu tư từ ngân sách, vốn đầu tư
tín dụng, vốn đầu tư của doanh nghiệp, vốn đầu tư dân cư và vốn đầu tư nước ngoài.
Dự tính trong vòng 5 năm tới vốn của các doanh nghiệp tự đầu tư chiếm tỷ trọng 14-
15% tổng số vốn đầu tư xã hội, chủ yếu đầu tư vào đổi mới công nghệ để nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh. Ngoài ra theo tính toán của các nhà kinh tế trong giai
đoạn 2001-2005, đòi hỏi tỷ lệ tiết kiệm nội địa phải đạt đến 25-26% GDP, trong đó
tiết kiệm từ khu vực ngân sách khoảng 6%, tiết kiệm từ khu vực dân cư và doanh
nghiệp là 19-20% GDP.Nguồn vốn huy động từ tiết kiệm trong nước để cho đầu tư
đạt 75% tổng tiết kiệm. Theo kinh nghiệm phát triển của thế giới, các nước có đạt
mức tăng trưởng kinh tế cao đều có mức huy động vốn đầu tư so với GDP khá lớn.
Nói cách khác là đều có tỷ lệ đầu tư phát triển trong GDP lớn hơn những nước có tốc
độ phát triển bình thường và chậm biểu sau đây có thể minh hoạ ý kiến trên.
Quốc gia Thời kỳ Mức tăng GDP bình quân năm % Tỷ lệ đầu tư phát triển
/GDP% Số năm tăng tốc độ cao
Nhật Bản 1964-73 9,28 35,17 10
Singapore 1965-93 8,80 38,32 29
Mỹ 1964-73 3,95 19,18 10
Canada 1964-74 5,55 23,74 10
Thái Lan 1964-90 7,64 25,58 27
Nguồn : Tổng cục thống kê thời báo kinh tế Việt nam.
Theo lý thuyết tăng trưởng kinh tế của Harrad và Domar thì sự phụ thuộc giữa mức
tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ vốn đầu tư trên GDP và hiệu quả và sử dụng vốn được
hiểu theo công thức sau:
G x K= I/K trong đó:
G - Tốc độ tăng trưởng / năm.
K - Hệ số ICOR ( vốn tăng thêm, hiệu quả vốn đầu tư).
I/K - Tỷ lệ vốn đầu tư trên GDP.
Như vậy, vốn đầu tư là một nhân tố quan trọng thiết yếu trong quá trình phát
triển kinh tế và nhiệm vụ đặt ra đối với các ngân hàng, các tổ chức tín dụng là làm thế
nào để có thể huy động và sử dụng có hiệu quả được các nguồn vốn, phục vụ cho đầu
tư phát triển kinh tế. Đối với Ngân hàng đầu tư nhiệm vụ này càng quan trọng và khó
khăn hơn vì hoạt động chính của Ngân hàng là huy động và cho vay các nguồn trung,
dài hạn là chủ yếu trong khi ngân hàng vẫn phải đảm bảo giữa hiệu quả hoạt động
kinh doanh của mình và hoạt động đầu tư phát triển.
I. 3.Vai trò hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn cho phát triển kinh tế.
I.3.1. Vai trò của hoạt động huy động vốn:
Như trên đã phân tích vốn đầu tư có ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế, không những
nó tạo ra của cải vật chất cho nền kinh tế, mà còn đưa đất nước phát triển theo hướng
ổn định, cân đối giữa các ngành nghề. Do vậyđể phát triển kinh tế ta phải có vốn đầu
tư, vậy vốn đầu tư lấy ở đâu và lấy bằng cách nào ? Câu hỏi này đã được trả lời một
phần ở trên ( bao gồm vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài ). Muốn có
nguồn vốn này, ta phải huy động. Mặt khác mỗi doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khi
thành lập, không phải lúc nào cũng có đủ vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong những tình huống thiếu vốn thì họ phải huy động để đáp ứng nhu cầu này. Tuy
nhiên, để có thể huy động được số vốn mong muốn thì các doanh nghiệp, tổ chức
kinh tế phải có các chiến lược huy động phù hợp với từng tình huống cụ thể, từng
thời kỳ ...
Tóm lại hoạt động huy động vốn là rất quan trọng cho sự phát triển kinh tế nói
chung và đầu tư phát triển nói riêng, nó đẩy nhanh quá trình Công nghiệp hoá -Hiện
đại hoá đất nước, phát triển kinh tế hoà nhập với kinh tế thế giới.
Trong hoạt động huy động này thì hệ thống ngân hàng đóng góp một phần
quan trọng đặc biệt là ngân hàng đầu tư và phát triển ngân hàng với nhiệm vụ chủ yếu
là cung cấp vốn cho vay đầu tư phát triển.
I.3.2 Vai trò của hoạt động sử dụng vốn:
Như đã trình bày ở trên vốn và hoạt động huy động vốn cho sự nghiệp phát
triển kinh tế xã hội đất nước là rất quan trọng. Nhưng một phần cũng không kém
phần quan trọng đó là hoạt động sử dụng vốn huy động này sao cho có hiệu quả để
đảm đem lại lợi ích và hiệu quả cao nhất. Nếu chúng ta sử dụng vốn hiệu quả thì các
nguồn lực dành cho đầu tư xẽ phát huy được tối đa lợi ích cho chủ đầu tư nói riêng và
nền kinh tế nói chung và ngược lại nếu chúng ta sử dụng vốn đầu tư không hiệu quả
thì các kết quả của những đồng vốn mà chúng ta bỏ ra sẽ không phát huy được tối đa
cho nền kinh tế. Để làm được vấn này đòi hỏi chúng ta phải làm tốt các chiến lược sử
dụng vốn cho đầu tư như: quản lý đầu tư, kế hoạch hoá đầu tư, cũng như các công tác
thẩm định dự án và quản lý dự án đầu tư.
II. Ngân hàng đầu tư trong quá trình huy động vốn và sử dụng cho vốn đầu tư phát
triển.
II.1.Vai trò và định hướng của ngân hàng đầu tư trong công cuộc đầu tư phát triển
kinh tế .
II.1.1.Vai trò của ngân hàng đầu tư.
Ngân hàng đầu tư là một thể chế tài chính nhằm thu hút, tập trung các nguồn vốn
trung và dài hạn phục vụ cho đầu tư phát triển nền kinh tế. Mục tiêu của ngân hàng
không phải chỉ là lợi nhuận mà chủ yếu vẫn là :” hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh
tế “. Từ những đặc điểm này ngân hàng đầu tư ở Việt Nam và các ngân hàng đầu tư
ở các nước khác có một số nét khác biệt cơ bản như: Trong hoạt động huy động vốn:
Được nhận, vay từ các nguồn tài trợ của chính phủ, các tổ chức nước ngoài, ngân
hàng ĐTTW ... Hoạt động sử dụng vốn cũng chủ yếu tập trung vào các dự án kinh tế,
kỹ thuật có tầm chiến lược, then chốt của quốc gia, chủ yếu là các lĩnh vực mà tư
nhân không đủ sức đầu tư như: Giao thông, năng lượng, xây dựng thông tin...
Vấn đề đặt ra là ngân hàng đầu tư có nên thụ động dựa vào các nguồn tài trợ từ ngân
sách và các tổ chức quốc tế hay chủ động mở rộng hoạt động tìm cách tạo nguồn vốn
cho mình. Ngoài ra, trong hoạt động sủ dụng vốn ngân hàng đầu tư cần phải chủ động
nâng cao nghiệp vụ, sức cạnh tranh và uy tín để thực hiện chiến lược phục vụ cho đầu
tư phát triển nền kinh tế ngày càng hiệu quả hơn.
II.1.2. Định hướng của ngân hàng đầu tư:
- Đối với việc huy động vốn cho đầu tư phát triển:
Ngân hàng đầu tư và phát triển chủ trương coi khâu tạo vốn là khâu mở đường, tạo ra
một nguồn vốn vững chắc cả VNĐ và ngoại tệ, Đa dạng các hình thức, biện pháp, các
kênh huy động từ mọi nguồn và xác định “ nguồn vốn trong nước là quyết định,
nguồn vốn nước ngoài là quan trọng ”. Với định hướng không ngừng tăng tỷ trọng
nguồn vốn trung và dài hạn để phục vụ đầu tư phát triển. Thông qua huy động dưới
các hình thức phát hành trái phiếu, kỳ phiếu và tiền tiết kiệm có thời hạn dài. Mặt
khác, tiếp tục tăng trưởng nguồn tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức kinh tế, khai thác
triệt để nguồn vốn nước ngoài thông qua chức năng ngân hàng đại lý, Ngân hàng
phục vụ để tiếp nhận ngày càng nhiều vốn từ các nguồn tài trợ, cộng tác đầu tư từ các
quỹ, các tổ chức quốc tế, các chính phủ và phi chính phủ cho đầu tư phát triển.
- Đối với hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển:
Ngân hàng đầu tư phát triển coi việc phục vụ trong sự nghiệp đầu tư phát triển là một
định hướng chính thể hiện vai trò ngân hàng đầu tư của mình. Trong hoạt động cho
vay đầu tư ngân hàng chú trọng quá trình tìm chọn dự án hiệu quả, thực hiện tốt công
tác thẩm định và quản lý dự án sau khi cho vay cũng như thực hiện công tác tư vấn
đầu tư giúp các chủ đầu tư hoạt động tốt nhằm đảm bảo nguồn vốn cho vay của Ngân
hàng.
Như vậy định hướng nhìn chung rất rõ ràng, cái khó hiện nay là các bước đi và giải
pháp cụ thể . Để có được những giải pháp hữu hiệu cần phải có sự nghiên cứu hệ
thống hoá có lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn qua nhiều năm để phục vụ tốt
hơn cho đầu tư phát triển.
II.2. Hoạt động huy động vốn cho đầu tư phát triển ở Ngân hàng đầu tư phát triển.
II. 2.1.Sự cần thiết của công tác huy động vốn ở Ngân hàng đầu tư & phát triển.
Huy động vốn là một trong những hoạt động chủ chốt của Ngân hàng đảm bảo cho
ngân hàng có thể tồn tại và thực hiện chức năng của một trung gian tài chính trong
nền kinh tế, bởi chức năng hoạt động chủ yếu của ngân hàng là “ đi vay để cho vay ”.
Như chúng ta đã biết, một ngân hàng muốn thành lập phải có đủ vốn ban đầu nhất
định do ngân hàng nhà nước quy định. Nhưng số vốn tự có chiếm khoảng 10% vốn
hoạt động. Do vậy huy động vốn là điều kiện cần cho hoạt động của ngân hàng.
Đối với ngân hàng đầu tư kể từ khi thực hiện chức năng như một ngân hàng thương
mại hoạt động chủ yếu phục vụ trong lĩnh vực đầu tư phát triển thì để có vốn cho vay
các dự án đầu tư đòi hỏi Ngân hàng phải huy động được vốn. Phần vốn tự có của
Ngân hàng chỉ đảm bảo năng lực pháp lý và năng lực thị trường cho hoạt động huy
động vốn của Ngân hàng. Pháp lệnh ngân hàng quy định một ngân hàng được phép
huy động một lượng vốn tối đa bằng 20 lần vốn tự có của mình.
II.2.2. Các nguồn vốn ở Ngân hàng đầu tư & phát triển cho đầu tư phát triển :
Nguồn vốn huy động của NH bao gồm : Ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Ngân
hàng để có thể đóng góp vào hoạt động đầu tư phát triển thì lượng vốn huy động đòi
hỏi phải là vốn trung và dài hạn (hay có thời hạn trên 1 năm). Nguồn vốn ngắn hạn
chỉ có vai trò là vốn lưu động đảm bảo các khoản cho vay ngắn hạn, và chỉ được dùng
một phần nhỏ để cho vay dài hạn khi lượng vốn ngắn hạn đủ lớn và ổn định.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế thì các nguồn vốn sau đây ở Ngân hàng
mới có đóng góp chính vào đầu tư phát triển.
+Các khoản tiền tiết kiệm và tiền gửi có thời hạn đến 1 năm.
+Các kỳ phiếu, trái phiếu có thời hạn dài, phát hành trên thị trường trong nước
và quốc tế.
+Các khoản đi vay trung hạn và dài hạn của các tổ chức tín dụng trong nước
và nước ngoài.
+Các khoản thu nợ của các dự án cũ.
+ Một phần huy động ngắn hạn có thể cho vay trung và dài hạn.
+ Các khoản thu nhập dành cho cho vay đầu tư phát triển khác(lợi nhuận,tiền thu bảo
l•nh...)
Như vậy trên cơ sở các nguồn vốn này để Ngân hàng đầu tư có thể huy động
được vốn cho đầu tư phát triển ta phải có được những giải pháp để phát triển các
nguồn vốn này.
II.2.3.Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả công tác huy động vốn cho đầu tư phát triển của
Ngân hàng.
Nhằm đánh giá hiệu quả huy động vốn cho đầu tư phát triển( chủ yếu là vốn
trung và dài hạn ) tại Ngân hàng thì cần có các chỉ tiêu. Sau đây là các chỉ tiêu chính
phản ánh hiệu quả công tác này:
Chỉ tiêu 1. Khối lượng vốn lớn, tăng trưởng ổn định:
-Vốn huy động cho đầu tư ( chủ yếu là trung và dài hạn ) có sự tăng trưởng ổn định
về mặt số lượng. Nguồn vốn tăng đều qua các năm ( vốn năm sau lớn hơn vốn năm
trước ), thoả mãn nhu cầu tín dụng đầu tư.
-Tuy nhiên, nguồn vốn này phải ổn định về mặt thời gian ( đảm bảo tránh rủi ro về
mặt thời gian ) .Nếu ngân hàng huy động được một lượng vốn lớn cho đầu tư nhưng
không ổn định thường xuyên, khối lượng vốn dành cho đầu tư, cho vay sẽ không lớn
nhi đó ngân hàng thường xuyên đối đầu với vấn đề thanh toán, ảnh hưởng đến hoạt
động của ngân hàng. Do đó, hiệu quả huy động vốn sẽ không cao.
Chỉ tiêu 2. Chi phí huy động:
Chi phí huy động được đánh giá qua chỉ tiêu lãi suất huy động bình quân, lãi
suất huy động từng nguồn, chênh lệch lãi suất đầu vào đầu ra, đồng thời cũng thông
qua chi phí phát hành. Nếu ngân hàng giảm chi phí huy động bằng cách hạ lãi suất
huy động thì việc huy động vốn sẽ rất khó khăn. Do vậy khó có thể thực hiện. Ngược
lại nếu lãi suất huy động càng cao thì lãi suất cho vay càng cao gây khó khăn cho
người vay tiền và có thể gây ứ đọng vốn cho Ngân hàng, khi đó ngân hàng cần phải
trả lãi cho người gửi tiền trong khi khoản vốn ứ đọng không sinh lãi.
Vì vậy ngoài việc tăng giảm lãi suất để có lợi cho người gửi tiền và người vay
tiền có thể giảm chi phí khác như : Chi phí in ấn phát hành, chi phí quảng cáo, tiếp
thị, trả lương cán bộ huy động, thuê địa điểm huy động ...
Chỉ tiêu 3 : Khả năng đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Chỉ tiêu này được đánh giá qua việc so sánh nguồn vốn huy động và nhu cầu
vay vốn vốn đầu tư phát triển ( chủ yếu là vốn trung dài hạn ) và các nhu cầu khác.
Từ đó xác định nguồn vốn có thể huy động được là bao nhiêu và nguồn vốn cần phải
huy động thêm là bao nhiêu để đáp ứng nhu cầu đó.
Để đạt đựơc mục tiêu này, Ngân hàng phải đặt ra cơ cấu huy động vốn trung
và dài hạn một cách hợp lý ( kỳ phiếu bao nhiêu ? trái phiếu lấy bao nhiêu?... ).
Để đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn đồng thời cũng đảm bảo cho ngân hàng huy
động được nguồn vốn này với chi phí thấp nhất có thể.
* Chỉ tiêu khác : Ngoài các chỉ tiêu trên hiệu quả công tác huy động vốn cho đầu tư
phát triển ở NH đầu tư còn được phản ánh qua các chỉ tiêu sau:
-Thời gian, mệnh giá huy động vốn cho đầu tư hợp lý.
-Mức độ thuận tiện cho khách hàng : Đánh giá qua các thủ tục nhận tiền và
làm các dịch vụ kèm theo.
-Thời gian hoàn thành số lượng vốn so với quy định.
-Số vốn bị rút trước hạn, hệ số sử dụng vốn.
Tóm lại, khi đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn nói chung và huy động vốn
cho đầu tư phát triển nói riêng thì một chỉ tiêu không thể phản ánh đầy đủ mà phải kết
hợp nhiều chỉ tiêu đánh giá đúng hiệu quả sử dụng vốn.
II.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình huy động vốn.
II.2.4.1.Nhân tố chủ quan:
- Các hình thức huy động vốn: Đây là một trong những nhân tố quan trọng ảnh
hưởng đến tình hình huy động vốn của ngân hàng. Hình thức huy động vốn của ngân
hàng càng phong phú thì khả năng đáp ứng nhu cầu gửi tiền của dân cư xẽ tăng và
vốn ngân hàng huy động được xẽ nhiều hơn.
- Chính sách lãi xuất cạnh tranh: lãi suất là yếu tố quan trọng khiến hành động
gửi tiền của dân chúng và ngân hàng, hay gửi từ ngân hàng này sang ngân hàng khác
hoặc chuyển từ tiết kiệm sang đầu tư do vậy lãi suất có ảnh hưởng rất lớn đến huy
động vốn của ngân hàng.
- Chính sách khách hàng: Nếu ngân hàng có chính sách khách hàng tốt thì khách
hàng xẽ gửi tiền vào ngân hàng xẽ càng cao và ngược lại.
- Công tác cân đối dữa huy động và cho vay: Chiến lược sử dụng vốn đúng đắn
và phù hợp còn phù thuộc vào chiến lược sử dụng vốn nếu sử dụng vốn không hiệu
quả thì ngân hàng cũng xẽ hạn chế khả năng huy động vốnvà ngược lại.
- Công nghệ ngân hàng: Trong cạnh tranh NH không ngừng cải tiến công nghệ,
bởi lẽ các dịch vụ đặc biệt về chuyên môn NH xẽ đa dạng đổi mới ngày càng tốt hơn
đáp ứng nhu câù khách hàng.
- Chính sách cán bộ: Một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn được đặt đúng
chỗ , luôn tạo nền tảng thành công của một tổ chức. Nói chung người ta muốn giao
dịch kinh doanh với một hãng có bề dày kinh nghiệm và có đội ngũ cán bộ công nhân
viên lịch thiệp và tận tình.
- Chính sách quảng cáo: Không thể phủ nhận vai trò to lớn của ngành quảng cáo
hiện nay. Ngân hàng nếu làm tốt công tác nay thì có khả năng huy động được nhiều
vốn hơn.
II.2.4.2. Nhân tố khách quan:
- Nhân tố tiết kiệm của nền kinh tế: Nguồn vốn huy động của ngân hàng chủ
yếu là nguồn vốn của dân cư, tổ chức kinh tế, ... do vậy nếu các đơn vị này có tỷ lệ
tiết kiệm cao thì nguồn vốn huy động được xẽ cao.
- Nhân tố thu nhập của dân cư: Nếu thu nhập của dân cư càng cao thì khả năng
có thể tiết kiệm càng cao và khi đó họ có tiền gửi vào các tổ chức tài chính và mua
các giấy tờ có giá sẽ càng cao và ngược lại.
- Nhân tố tâm lí tiêu dùng: Tiết kiệm và tiêu dùng là hai nhân tố đối lập nhau
nên tiêu dùng tăng thì tiết kiêm giảm và ngược lại . Do vậy nếu tâm lí thích tiêu dùng
của dân cư tăng thì tiền gửi vào ngân hàng xẽ giảm.
- Môi trường pháp lí: Nếu môi trường pháp lí ổn định cụ thể là cơ sở pháp lí cho
hoạt động của ngân hàng dược đảm bảo thì người dân xẽ an tâm gửi tiền vào ngân
hàng...
II.3.Hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của Ngân hàng đầu tư phát triển.
II.3.1.Vai trò của hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của Ngân hàng đầu tư
phát triển.
Trong điều kiện nền kinh tế đang gặp phải nhiều vấn đề khó khăn như về vốn cho
đầu tư của các dự án và các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng
như nâng cao chất lượng của sử dụng vốn đối với các dự án và sử dụng vốn đầu tư
của các doanh ngiệp đang đòi hỏi cấp bách. Để cung cấp vốn cho các dự án này và
các doanh nghiệp thì ngân hàng đầu tư có một vai trò quan trọng trong việc cung cấp
vốn cho các đơn vị này nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho các dự án và các doanh
nghiệp mặt khác hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng cũng giúp cho bản thân ngân
hàng có thể hoạt động được bởi hoạt động của ngân hàng là đi vay để cho vay.
Tóm lại, hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc cung
cáp vốn cho đầu tư phát triển của nền kinh tế mặt khác hoạt động sử dụng vốn của
ngân hàng cũng góp phàn cho việc hoạt động của các doanh nghiệp và các dự án đầu
tư hiệu quả hơn bởi khi tài trợ vốn cho các doanh nghiệp và các dự án ngân hàng đã
thực hiện rất kĩ khâu thẩm định, quản lí vốn vay để đảm bảo cho dự án hoạt động
hiệu quả.
II.3.2 Các loại hình cho vay và đặc điểm của hoạt động của hoạt động cho vay vốn
dầu tư phát triển của Ngân hàng đầu tư.
II.3.2.1 Các loại hình cho vay của NH.
Ngân hàng có thể cho vay dưới nhiều hình thức khác nhau sau đây:
* Theo mục đích sử dụng :
-Cho vay bất động tài sản.
-Cho vay công nghiệp và thương nghiệp.
-Cho vay nông nghiệp.
-Cho vay tiêu dùng.
* Theo mức độ tín nhiệm của khách hàng :
-Cho vay có bảo đảm.
-Cho vay không bảo đảm.
* Theo thời hạn cho vay.
-Cho vay ngắn hạn : Là loại cho vay có thời hạn dưới một năm, thường được dùng để
cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của các doanh nghiệp và cho vay
phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng cá nhân.
-Cho vay trung hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn trên 1 năm và dưới 5 năm. Loại
cho vay này thường được dùng để mua sắm tài sản cố định, mở rộng hoặc xây dựng
công trình nhỏ.
-Cho vay dài hạn: Là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm được sử dụng để cấp vốn
xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.
Đối với đầu tư phát triển thì hoạt động cho vay trung hạn và dài hạn mới có tác dụng
chủ yếu. Do vậy để tăng cường khả năng sử dụng vốn cho đầu tư phát triển chủ yếu
quan tâm đến 2 nguồn này.
II. 3.2.2 Đặc điểm khác biệt của hoạt động cho vay vốn đầu tư phát triển so với cho
vay ngắn hạn.
Sự khác biệt của hoạt động cho vay đầu tư với cho vay ngắn hạn được thể hiện
qua các đặc điểm sau:
-Về thời hạn cho vay : Cho vay ngắn hạn có thời hạn dưới 1 năm, cho vay đầu
tư thường có thời hạn dài hơn ít nhất là trên 1 năm.
-Về độ rủi ro : Với thời hạn cho vay dài hạn nên hoạt động cho vay đầu tư có
độ rủi ro cao hơn cho vay ngắn hạn.
-Về lãi suất: Do thời gian vay dài độ rủi ro của hoạt dộng cho vay đầu tư có độ
rủi ro cao hơn nên lãi suất của hoạt động cho vay đầu tư cao hơn l•i suất cho vay ngắn
hạn.
-Về mục đích: Hoạt động cho vay đầu tư dùng để đầu tư mở rộng sản suất mua
sắm trang thiết bị, xây dựng cơ sở hạ tầng... nói khác hơn là để đầu tư vào những dự
án chưa thể sinh lời trong thời gian ngắn. Còn mục đích của vay ngắn hạn là để phục
vụ chỉ tiêu, mua nguyên vật liệu, trả lương...tức là đáp ứng nhu cầu thanh toán ngắn
hạn.
-Nguồn trả nợ : Nguồn trả nợ của hoạt động cho vay đầu tư là nguồn từ khấu
hao và lợi nhuận để dành trước khi bước vào giai đoạn lạc hậu về công nghệ. Còn
nguồn để trả nợ cho vay ngắn hạn là nguồn từ vốn lưu động.
II.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay vốn đầu tư phát triển.
II. 3.3.1. Nhân tố chủ quan:
Trong thực tế quá trình hoạt động của Ngân hàng, chúng ta thấy trong cùng
một thời gian, cùng một thị trường nhưng có những ngân hàng chất lượng cao tổn thất
ít. Nhưng cũng có những ngân hàng gặp nhiều khó khăn, tổn thất cho vay lớn. Như
vậy nhân tố cơ bản quyết định đến chất lượng cho vay chủ yếu ngay bên trong ngân
hàng. Chúng ta xem xét một số nhân tố chủ yếu sau:
a.Công tác thẩm định dự án vay vốn đầu tư phát triển:
Ngân hàng với tư cách “ bà đỡ “ về mặt tài chính cho các doanh nghiệp và dự
án đầu tư, thường xuyên thực hiện công tác thẩm định để ngoài việc đánh giá hiệu
quả dự án còn nhằm đảm bảo cho sự an toàn cho các nguồn vốn ngân hàng tài trợ cho
doanh nghiệp và các dự án.
Thẩm định là một khâu quan trọng nhất trong quy trình cho các dự án đầu tư
của Ngân hàng. Làm tốt công tác thẩm định sẽ góp phần quyết định trong việc nâng
cao hiệu quả vốn vay, giảm rủi ro của ngân hàng, góp phần thúc đẩy sản suất phát
triển.
Thật vậy, công tác thẩm định chính là xem xét, đánh giá các yếu tố về tư cách
pháp lý của người vay, năng lực tài chính của người vay, và xem xét tính khả thi của
dự án vay vốn. Qua đó ngân hàng có được những nét cơ bản về khách hàng vay vốn
và dự án vay vốn từ đó có được các kết quả để quyết định cho vay và nâng cao được
hiệu quả vay vốn...
Có thể khái quát công tác thẩm định dự án vay vốn đầu tư phát triển của ngân hàng
đầu tư và phát triển tập trung vào các vấn đề như sau:
* Ngân hàng thẩm định tư cách pháp lí của đơn vị vay vốn.
- Người vay có đủ năng lực pháp lí theo quy định trong quan hệ vay vốn của
ngân hàng hay không.
- Người vay có thuộc đối tượng vay vốn theo quy định hiện hành của các chế
độ, thể lệ cho vay không.
- Tư cách của người đứng ra vay vốn: Khả năng quản lí, trình độ học vấn...
- Uy tín của đơn vị vay vốn : Chất lượng, giá cả hàng hoá, khả năng chiếm lĩnh
thị trường của sản phẩm trên thị trường, các quan hệ kinh tế tài chính, vay vốn, trả nợ
với khách hàng, bạn hàng và các ngân hàng.
* Tình hình tài chính của doanh nghiệp vay vốn:
Đánh giá chính xác về tình hình tài chính doanh nghiệp của đơn vị vay vốn nhằm xác
định sức mạnh tài chính. Khả năng độc lập, tự chủ tài chính trong kinh doanh, khả
năng thanh toán và khả năng trả nợ của người vay. Trong phân tích tài chính doanh
người ta thường áp dụng phương pháp tỷ lệ bởi ưu điểm của nó là.
+ Việc tính toán các chỉ tiêu là tương đối dễ dàng, có thể lập trình cho máy tính để
tính một loạt các chỉ tiêu một cách nhanh chóng qua đó rút ngắn thời gian thẩm định
tình hình tài chính doanh nghiệp.
+ Các chỉ tiêu có thể được tính theo từng năm hoặc từng giai đoạn. Do đó nó có thể
so sánh đối chiếu với nhau để thấy được sự thay đổi theo chiều hướng tích cực hay
tiêu cực cũng như su hướng trong tương lai.
+ Phương pháp này chủ yếu dựa trên các báo cáo tài chính, Đây là nguồn thông tin
sẵn có mà hầu như tất cả các doanh nghiệp đều có. Nếu các báo cáo tài chính có độ
chính xác cao thì thì kết quả tính toán theo phương pháp này có thể chấp nhận được.
Tuy vậy phương pháp này đòi hỏi phải đề ra các ngưỡng, các định mức làm cơ sở để
so sánh các giá trị tỷ lệ tính được của doanh nghiệp làm tham chiếu. Các tỷ lệ dùng để
tính toán thường là 4 nhóm chỉ tiêu sau.
- Tỷ lệ khả năng thanh toán các nghĩa vụ tài chính: Đây là nhóm chỉ tiêu được
sử dụng để đánh giá khả năng đáp ứng các khoản nợ của doanh nghiệp.
+ Tỷ lệ thanh toán hiện hành: Cho biết khả năng thanh toán của các khoản nợ thường
xuyên.
( Hệ số này nên lớn hơn hoặc bằng 1)
Tài sản lưu động có
+ Tỷ lệ:
Tài sản lưu động nợ
Thông thường tỷ lệ này bằng 2/1 hoặc 4/1 thì đảm bảo tính khả thi.
- Tỷ lệ khả năng cân vốn: Đo lường phần vốn góp của chủ sở hữu doanh nghiệp.
+ Tỷ lệ nợ trong tổng tài sản : Xác định nghĩa vụ của chủ sở hữu doanh nghiệp đối
với chủ nợ trong việc góp vốn vào dự án.
Tổng số nợ
Hệ số nợ =
Tổng tài sản
Đây là tỷ lệ mà ngân hàng rất quan tâm vì tỷ lệ nợ cao thì khả năng thanh toán
của doanh nghiệp sẽ gảm sút . Thông thường tỷ lệ nợ này không quá 50%.
+ Tổng tài sản nợ trên tổng vốn sở hữu: Xác định khả năng trả nợ của doanh nghiệp
bằng vốn chủ sở hữu.
- Tỷ lệ khả năng hoạt động: Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của các đơn vị vay vốn.
+ Hiệu xuất sử dụng tài sản cố định: Cho biết một đồng tài sản cố định đem lại bao
nhiêu đồng doanh thu( Tài sản cố định tính theo giá còn lại tại thời điểm báo cáo)
Tổng doanh thu của doanh nghiệp
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định =
Giá trị tài sản cố định
+ Hiệu suất sử dụng tổng tài sản: Cho biết một đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng
doanh thu:
Doanh thu tiêu thụ
Doanh thu tiêu thụ sản phẩm =
Tổng tài sản
- Tỷ lệ khả năng sinh lÃi: Phản ánh hiệu quả quản lí xản suất kinh doanh và khả
năng tiêu thụ sản xuất kinh doanh và hiệu năng quản lý của doanh nghiệp.
+ Khả năng sinh lời của tài sản.
+ Doanh lợi thu từ sản phẩm = Lợi nhuận sau thuế / Doanh thu tiêu thụ.
+ Tỷ suất sinh lợi vốn đầu tư = Lợi nhuận trước thuế và lãi( hoặc lợi nhuận sau thuế) /
Tổng tài sản.
+ Doanh lợi vốn tự có = Lợi nhuận sau thuế / Vốn tự có
* Tính pháp lí của dự án.
+ Dự án có phù hợp với mục tiêu phát triển và có được pháp luật cho phép không.
+ Về quản lý dự án có thể thực hiện được không.
+ Về mặt môi trường có hợp lí không...
* Các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án.
Một dự án làm ăn không hiệu quả, rủi ro lớn thì khả năng hoàn trả lại món nợ cho
ngân hàng là rất khó khăn. Chất lượng của hoạt động cho vay vốn các dự án đầu tư
phụ thuộc rất nhiều vào các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án. Việc đánh giá các
chỉ tiêu hiệu quả tài chính dự án xét trên quan điểm ngân hàng xem xét trên các chỉ
tiêu sau:
Chỉ tiêu thu nhập thuần(NPV): Dùng để đánh giá quy mô lợi ích của dự án. Thường
tính tổng thu nhập thuần về mặt bằng hiện tại hoặc mặt bằng tương lai. Chỉ tiêu này
đánh giá quy mô lợi nhuận của dự án.
Bi : Thu nhập năm i của dự án:
Ci : Chi phí năm i của dự án:
Sử dụng: - NPV được dùng để đánh giá hiệu quả của một dự á, dự án được chấp
nhận khi NPV> 0.
- Trong so sánh dự án đầu tư: Đối với dự án độc lập thì dự án được chọn là
dự án có NPV>0. Còn đối với nhiều dự án lựa cho chọn dự ns có NPV max trong
trường hợp dự án có tuổi thọ và đời dự án là như nhau.
Hạn chế: Chỉ tiêu này không thấy được lợi ích từ một đồng vốn bỏ ra và nó phụ
thuộc rất lớn vào tỷ suất triết khấu.
- Chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn(T): Thời gian thu hồi vốn là thời gian mà dự án
cần hoạt động để thu hồi đủ vốn bỏ ra. Thường ưu tiên cho những dự án có thời gian
thu hồi vốn ngắn nếu các yếu tố khác như nhau. Chỉ tiêu này được xem xét trên hai
góc độ:
+ Thời gian thu hồi vốn đầu tư từ lợi nhuân thuần:
Theo phương pháp cộng dồn:
Chỉ tiêu này càng lớn thì khả năng sinh lợi của dự án càng cao.
- Điểm hoà vốn: Khả năng sinh lời và mức độ hoạt động an toàn của các dự án
thường được diễn đạt bằng việc phân tích điểm hoà vốn. Trị số của các chỉ tiêu này
càng thấp chứng tỏ dự án khả năng hoà vốn( hoặc bắt đầu có lãi ở mức độ sản lượng
hoặc doanh thu thấp). Có nghĩa là dự án có khả năg sinh lời và mức độ an toàn trong
hoạt động cao.
Khả năng trả nợ của dự án =
Khấu hao Lợi nhuận dành
cơ bản để trả nợ từ dự án
Khả năng trả nợ càng cao chứng tỏ dự án hoạt động càng an toàn và càng hiệu quả.
- Tỷ số trả nợ của dự án
Tỷ số này lớn hơn 1 chứng tỏ khả năng trả nợ càng cao.-
Trên đây là 4 vấn đề quan trọng cần xem xét để quyết định cho vay vốn hay không.
Ngoài ra ngân hàng cần phải xem xét một số yếu tố khách quan khác có tác động đến
đơn vị vay vốn và dự án như:
- Những rủi ro tiềm ẩn của dự án có thể sảy ra trong tương lai.
- Môi trường kinh tế xã hội, môi trường pháp lý.
- Tài sản thế chấp...
Khi cho vay và sau khi cho vay ngân hàng cần phải xem xét đơn vị vay vốn sử dụng
khoản vốn đó như thế nào, có đúng mục đích hay không, có hiệu quả không, trong
quá trình sử dụng vốn doanh doanh nghiệp có gặp gì bất trắc hay không bản thân
doanh nghiệp có ý đồ lừa đảo hay không... Và cuối cùng việc khánh hàng hoàn trả nợ
gốc và lãi cho ngân hàng ra sao, có đúng thời hạn không. Để làm được điều này đòi
hỏi ngân hàng phải có các biện pháp hữu hiệu và sự hợp tác của khách hàng.
Tóm lại: thẩm định là khâu đầu tiên và quan trọng nhất để đem lại hiệu quả của các
công cuộc tài trợ vốn cho đầu tư và phát triển của ngân hàng đòi hỏi ngân hàng phải
thực hiện tốt khâu này thỉ dự án ngân hàng tài trợ mới có thể thu hồi được nợ và l•i
đồng thời góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
b.Công tác quản lý món vay.
Thẩm định là khâu đầu tiên nhằm phân tích, đánh giá được các đơn vị vay vốn,
hiệu quả kinh tế của các dự án vay vốn, khả năng trả nợ.Tuy nhiên trong giai đoạn
thẩm định cũng chỉ là dựa trên những cơ sở pháp lý dự đoán kết quả, của mục tiêu tài
trợ là công trình phát huy hiệu quả, trả được nợ cho ngân hàng lại phụ thuộc vào tình
hình thực hiện thi công có đúng mục đích ban đầu hay không, có đúng quy định
không. Do đó trách nhiệm của Ngân hàng không chỉ dừng ở việc ký kết hợp đồng mà
phải có trách nhiệm theo dõi, quản lý món vay trong suốt thời gian khách hàng sử
dung vốn của khách hàng vay vốn . Nếu sau khi cho vay ngân hàng không theo dõi
quản lí món vay thì trong thời gian dài khách hàng sử dụng vốn thực hiện dự án sẽ
không thể chắc chắn khoản tiền vay đó đã sử dụng đúng mục đích. Do vậy việc quản
lí món vay không chỉ giúp ngân hàng bảo toàn vốn , có lợi nhuận mà còn giúp đơn vị
vay vốn tránh được những rủi ro đáng tiếc. Chính việc quản lí thường xuyên , chặt
chẽ món vay xẽ giúp cho ngân hàng phát hiện ra những sai lệch trong quá trình vận
hành và quản lí dự án đó. Từ đó ngân hàng xẽ tư vấn cho doanh nghiêp, cùng với
doanh nghiệp tháo gỡ những khó khăn để hạn chế tối đa tình huống không tốt sảy ra .
Công tác quản lí món vay sẽ bắt đầu từ khi cho vay đến khi kết thúc hợp đồng cho
vay.
c. Chất lượng thông tin.
Chất lượng thông tin cũng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sử dụng vốn cho đầu
tư phát triển của ngân hàng. ở đây phải được xem xét tổng hoà trên ba khía cạnh tính
chính xác, tính kịp thời và tính đầy đủ của thông tin.
Thật vậy: để tiến hành công tác thẩm định dự án vay vốn, việc đầu tiên là phải thu
thập các thông tin liên quan cần thiết nói về tư cách pháp lí của khách hàng, thông tin
về năng lực tài chính, thông tin về hiệu quả dự án vay vốn. Sau khi cho vay để xem
xét quản lí món vay, cũng cần phải có thông tin, phải thu thập thông tin về việc sử
dụng vốn vốn vay của đơn vị vay vốn có đúng mục đích hay không, hiệu quả không.
Thông tin về những thuận lợi và khó khăn mà đơn vị vay vốn đang gặp phải, thông
tin về tính chung thực của khách hàng, về thu nợ, thu nợ như thế nào... như vậy thông
tin có chất lượng cao xẽ là đầu vào hoàn hảo cho mọi quá trình tiếp theo.Tuy nhiên,
cũng chưa thể khẳng định rằng cứ có chất lượng thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời
là có được những quyết định đúng đắn vì nó còn phụ thuộc vào những yếu tố khác
như việc sử lí thông tin có hiệu quả hay không. Nhưng chúng ta phải thừa nhận thông
tin chính là một công cụ hiệu quả để đảm bảo cho hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư
phát triển của ngân hàng hiệu quả.
d. Nguồn vốn huy động:
Đầu tư vốn tín dụng là nhu cầu khách quan của nền kinh tế. Nguồn vốn để cho vay
đầu tư của mỗi ngân hàng có thể từ các nguồn khác nhau nhưng có thể nói nguồn vốn
huy động là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất. Để tiến hành hoạt động cho
vay thì điều trước tiên là phải có nguồn vốn , do vậy hoạt động cho vay vốn cho đầu
tư phát triển phụ thuộc vào nguồn vốn huy động. Nếu trong cơ cấu có nguồn vốn có
thời gian dài cao thì trong cơ cấu sẽ cho vay xẽ có nguồn vốn cho vay có thời gian dài
cho đầu tư phát triển xẽ ổn định. Ngân hàng xẽ có thể chủ động hơn về kì hạn cho
vay, việc thực hiện rót vốn theo lịch trình được thực hiện đúng tiến độ, ngân hàng chủ
động chi trả các khoản tiền gửi của khách hàng , vốn ngắn hạn với một tỷ lệ nhất định
có thể cho vay dài hạn .
e. Nhân tố con người.
Bất cứ một khâu công việc nào trong hoạt động của ngân hàng nói chung và các hoạt
động sử dụng vốn nói chung cho đầu tư phát triển của ngân hàng đều do con người
thực hiện, con người đưa ra và quyết định. Con người chính là chủ thể của mọi hoạt
động. Mọi quyết định về đường lối, chính sách về hoạt động kinh doanh của ngân
hàng, việc thu thập thông tin, sử lý thông tin, quyết định cho vay, quản lý món vay,
tiến hành thu nợ đều do con người đảm nhiệm. Do vậy chất lượng sản phâm trước
tiên sẽ phụ thuộc vào người làm nó. Hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của
ngân hàng cũng không nằm ngoài lệ.
f. Các nhân tố khác:
* Khách hàng vay vốn.
Một khi người vay vốn hoạt động xản xuất không hiệu quả, sản phấm sản xuất ra
không tiêu thụ được , kinh doanh không có lãi, tình trạng thua lỗ sẽ là một nguyên
nhân trực tiếp ảnh hưởng đến các khoản tín dụng không được thực hiện đúng và đủ.
Trong trường hợp khách hàng vay vốn bị phá sản thì mất vốn của ngân hàng xẽ
nghiêm trọng hơn “ Thành công của khách hàng cũng chính là sự thàng công của
ngân hàng “. Như vậy chất lượng của hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển
không chỉ phụ thuộc vào bản thân ngân hàng mà nó còn phụ thuộc vào khách hàng
vay vốn. Trong quản lý hoạt động của ngân hàng đối với khách hàng vay vốn ta chú ý
đến các yếu tố sau đây. Tư cách pháp lý của người vay và năng lực của người vay.
* Ngoài ra hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng còn chịu tác động của các yếu tố
sau đây: Chính sách kinh tế vĩ mô, những biến động về thị trường, điều kiện tự
nhiên...
Để có thể đề ra được các giải pháp cho huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát
triển của ngân hàng ta đi xem xét và phân tích cụ thể tình hình huy động vốn và sử
dụng vốn cho đầu tư và phát triển của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây .
Phần II
Thực trạng và đánh giá thực trạng tình hình huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư
phát triển tại Ngân hàng đầu tư & phát triển Hà Tây:
I. Tổng quan về ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây:
Ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây là một trong những chi nhánh của ngân hàng
Đầu tư & phát triển Việt Nam. Tiền thân của nó là phòng đầu tư và phát triển Hà Sơn
Bình được thành lập ngày 1-6-1990. Cũng giống như các chi nhánh khác trực thuộc
ngân hàng Đầu tư & phát triển Việt Nam, toàn bộ hệ thống ngân hàng Đầu tư & phát
triển bên cạnh việc kinh doanh tổng hợp như những ngân hàng thương mại khác còn
tham gia vào cho vay đầu tư phát triển theo kế hoạch Nhà nước đề ra. Chính vì vậy,
để đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng đầu tư và phát triển không
chỉ căn cứ vào lợi nhuận mà còn phải căn cứ vào các đóng góp của nó thông qua việc
cho vay đầu tư phát triển đối với kinh tế địa phương. Kể từ năm 1998 đến nay, ngân
hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây đã cho vay trên dự án đầu tư với tổng số vốn là
389.968 triệu đồng. Hầu hết các dự án đầu tư do ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà
Tây cho vay đều đã và đang đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế
xã hội của tỉnh. Điển hình trong những dự án phát huy hiệu quả tốt có các dự án của
công ty xi măng Tiên Sơn, công ty thực phẩm Hà Tây, nhà máy cơ khí Sơn Tây, công
ty du lịch Ao Vua...
I.1. Mô hình tổ chức của ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây:
Ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây có bộ máy gọn nhẹ, tinh giảm nhìn chung đủ
các phòng ban cần thiết đảm bảo thực hiện những nhiệm vụ và chức năng của mình.
Hiện nay tổng số cán bộ công nhân viên của ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà
Tây là 85 người, trong đó bao gồm một chi nhánh trực thuộc và tám phòng nghiệp vụ,
hai phòng giao dịch với các bàn tiết kiệm ở thị xã Hà Đông và thị xã Sơn Tây. Trụ sở
chính của ngân hàng đóng tại 197 đường Quang Trung - thị xã Hà Đông - tỉnh Hà
Tây. Cơ cấu tổ chức của ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây như sau:
I.2. Những thuận lợi và khó khăn hiện nay đối với ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà
Tây:
I.2.1. Thuận lợi:
- Trung tâm giao dịch thanh toán của ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây nằm ở
thị xã Hà Đông gần sát thủ đô Hà Nội - một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của
cả nước. Đây là môi trường rất thuận lợi cho ngân hàng hoà nhập với nhịp điệu và cơ
chế mới trong hoạt động kinh doanh của cả nước đồng thời dễ dàng trang bị cho mình
những thiết bị công nghệ mới, học hỏi được nhiều kinh nghiệm quản lý kinh doanh
cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị bạn đến giao dịch tại hội sở. Cũng do
gần trung ương nên ngân hàng luôn nhận được sự chỉ đạo sát sao và chặt chẽ của cấp
chủ quản.
- Ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây là đơn vị thành viên của một ngân hàng
thương mại quốc doanh lớn và có truyền thống lâu đời, ngân hàng có thể học hỏi, tiếp
nhận những kinh nghiệm trong hoạt động ngân hàng, đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư
phát triển.
- Đội ngũ cán bộ công nhân viên của ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây có
trình độ tương đối cao, phẩm chất đạo đức tốt, nhiệt tình với công việc... Tính đến
thời điểm 31-12-2000 trong số 85 cán bộ công nhân viên của ngân hàng thì trên 60%
là có trình độ đại học.
I.2.2. Khó khăn:
Bên cạnh những mặt thuận lợi như trên, ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây cũng
đang phải đối đầu với không ít khó khăn thử thách mà cụ thể là:
- Nhu cầu đòi hỏi về vốn đầu tư để tăng trưởng phát triển kinh tế rất lớn nhưng việc
chuẩn bị được các dự án khả thi còn ít; doanh nghiệp yêu cầu vốn vay trong thời gian
dài, lãi suất thấp nhưng việc huy động vốn trung - dài hạn lại gặp nhiều khó khăn. Để
huy động được nguồn vốn đó thì phải đảm bảo lợi ích cho người gửi tiền (lãi suất
phải cao hơn lãi suất tiền gửi ngắn hạn). Huy động dài hạn với lai suất cao nhưng cho
vay đầu tư với lãi suất cao thì doanh nghiệp lại không chấp nhận. Đây là một khó
khăn thử thách rất lớn đối với ngân hàng để giữ vững và phát huy vai trò chủ đạo
trong phục vụ đầu tư phát triển.
- Ngân hàng hoạt động sát bên địa bàn Hà Nội, do vậy chịu sự cạnh tranh rất mạnh
mẽ từ phía các ngân hàng thương mại khác cả về nội dung hoạt động cũng như nguồn
nhân lực.
- Tình hình kinh tế nước ta nói chung và tỉnh Hà Tây nói riêng vẫn đang gặp phải
những khó khăn thử thách hết sức gay gắt, tình hình sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp vẫn chưa được cải thiện nhiều, sản phẩm sản xuất ra tiêu thụ chậm.
Điều này ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cũng như vay ngân hàng để đầu tư.
- Từ năm 1980 đến 1995 ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây luôn có sự biến động
về mô hình tổ chức, tách ra rồi lại sát nhập nhiều lần. Điều này gây tác động không
nhỏ đến tư tưởng, tình cảm của đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng cũng như tác
động không tốt đến các khách hàng có quan hệ thường xuyên với chi nhánh.
- Các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tây nhìn chung còn ở quy mô nhỏ bé, thiếu
dự án hiệu quả để đầu tư.
- Hệ thống pháp luật, chính sách còn nhiều bất cập, cụ thể là cơ chế chính sách về đầu
tư phát triển và tiền tệ tín dụng còn thiếu đồng bộ, chế độ về đầu tư xây dựng cơ bản
bị sửa đổi bổ xung nhiều lần gây khó khăn cho hoạt động ngân hàng.
Nhận thức được những khó khăn và thuận lợi của mình, ngân hàng Đầu tư &
phát triển Hà Tây đã đề ra nhiều biện pháp để thực hiện tốt kinh doanh như tạo điều
kiện thuận lợi ở mức có thể tối đa cho khách hàng, có ưu tiên đặc biệt đối với các
khách hàng truyền thống của mình, mở rộng cho vay đối với các khách hàng ngoài
quốc doanh, đổi mới phong cách phục vụ... Mặt khác chi nhánh luôn bám sát định
hướng phát triển của ngành, thực hiện nghiêm túc các quy định, quy tắc, nghiệp vụ
của ngành và thận trọng trong ký duyệt cho vay để đề phòng rủi ro trong cơ chế thị
trường, phục vụ tốt hơn công tác đầu tư phát triển.
II. Thực trạng và đánh giá thực trạng tình hình huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu
tư phát triển của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây.
II.1. Thực trạng tình hình huy động vốn và sử dụng vốn nói chung của Ngân hàng
Đầu tư & Phát triển Hà Tây.
Hoạt động huy động vốn và hoạt động sử dụng vốn là hai vấn đề không thể rời nhau,
sử dụng vốn là cơ sở và động lực cho công tác huy động vốn và huy động vốn lại
thúc đẩy sự mở rộng, phát triển việc sử dụng vốn. Vì vậy, ngân hàng trong quá trình
hoạt động của mình luôn cố gắng thực hiện tốt hơn công tác huy động vốn nhằm đáp
ứng cho việc sử dụng vốn.
Việc huy động vốn phải dựa trên kết quả xác định nhu cầu vốn và thực hiện đáp ứng
yêu cầu đó. Tuy nhiên trong phần sử dụng vốn thì việc sử dụng vốn sao cho có hiệu
quả và có lợi cho ngân hàng và nền kinh tế . Ví dụ việc cho vay vốn đầu tư tại ngân
hàng không chỉ sử dụng nguồn vốn huy động có thời hạn dài cho đầu tư mà còn sử
dụng vốn ngắn hạn, việc đó là đúng theo quy định của nhà nước ( được phép lấy 20%
vốn ngắn hạn cho vay đầu tư .).Đây chỉ là giải pháp tình thế nhằm tạo vốn cho nền
kinh tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Tóm lại huy động vốn và sử dụng vốn như thế nào là hợp lí để vừa đảm bảo an toàn
và hiệu quả đối với ngân hàng. Bởi nếu sự cân đối dữa huy động và cho vay không
tốt sẽ có thể ảnh hưởng sấu đến hoạt động của ngân hàng.
Đối với ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây để thấy rõ mối quan hệ dữa huy
động và cho vay nói chung được thể hiện qua bảng 1: Thực trạng huy động vốn và sử
dụng vốn của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây .
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu Năm 1998 Năm1999 Năm 2000
Giá trị Tỷ trọng Giá trị Tỷ trọng Giá trị Tỷ trọng
I. Huy động vốn 234.729 100% 339.785 100% 386.961 100%
1. Vốn huy động ngắn hạn 126.854 54% 242.232 71% 295.321
76%
2. Vốn huy động trung và dài hạn 69.013 29% 61.203 18% 58.369 15%
3. Vốn tài trợ uỷ thác đầu tư. 38.862 17% 36.35 11% 33.279 9%
II. Sử dụng vốn. 207.025 100% 239.944 100% 286.529 100%
1. Cho vay ngắn hạn 91.884 44% 134.123 56% 172.214 60%
2. Cho vay trung và dài hạn 74.879 36% 75.608 32% 78.456 27%
3. Tài trợ uỷ thác đầu tư. 40.262 20% 30.213 12% 35.859 27%
III. Phần dư trưng và dài hạn và tài trợ -7.266 -8.268 -22.675
Theo số liệu bảng 1 ta thấy, nguồn vốn huy động của ngân hàng Đầu tư & Phát triển
Hà Tây tăng lên rõ rệt, năm 1999 tăng ( 44,7%) so với năm 1998 và năm 2000 tăng
(13,9%) bằng 386.916 triệu. Tuy nhiên tỷ trọng vốn trung và dài hạn so với tổng
nguồn lại giảm, cụ thể qua ba năm 1998 – 2000 tưng ứng là 29%,18%,15%. Về số
tuyệt đối năm 1999 là 61.203 triệu đến năm 2000 chỉ còn 58.369 triệu. Điều này cho
thấy việc nguồn vốn tăng mạnh là do sự tăng lên của nguồn vốn huy động ngắn hạn .
Đây cũng là tình trạng chung của nhiều ngân hàng thương mại khác trong những năm
gần đây, nhiều ngân hàng thừa nhiều vốn ngắn hạn từ huy động, gây nên tình trạng “
ứ đọng vốn ngắn hạn” song lại thiếu vốn trung và dài hạn cho đầu tư của nền kinh tế.
Tiếp theo ta thấy tỷ trọng cho vay trung và dài hạn trong cơ cấu sử dụng vốn của
ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây có su hướng giảm, ,Năm 1998 tỷ lệ này là
36%, đến năm 1999 và năm 2000 tỷ lệ này còn tương ứng là 32% và 27%.Mặc dù
tổng cho vay trung và dài hạn chủa ngân hàng từ năm 1998 đến năm 2000 co sự tăng
về giá trị tuyệt đối từ năm 1998 đến năm 2000 có giá trị tương ứng là 74.879 triệu
đồng, 75.608 triệu đồng và 78.456 triệu đồng. nhưng ta thấy mức tăng này chưa đáng
kể và tương xứng với ngân hàng đầu tư một ngân hàng có nhiệm vụ chủ yếu là cho
vay trung và dài hạn cho các dự án đầu tư .Mặt khác nếu xét riêng tốc độ tăng trưởng
các khoản cho vay trung và dài hạn ta thấy rằng từ năm 1998 đến năm 2000 cũng đã
có sự tăng trưởng nhưng tỷ lệ tăng trưởng không cao cụ thể tốc độ tăng trưởng của
nguồn này tương ứng là 0,9%, 3,76%.Điều đó cho thấy việc cho vay trung và dài hạn
cũng gặp nhiều khó khăn , một phần có thể về phía khách hàng không giám vay do
làm ăn không hiệu quả về phía ngân hàng có thể không cho vay được vì các dự án
đưa ra có thể không mang tính khả thi, hay ngân hàng không thể huy động được
nhiều nguồn vốn này...
Xem xét mối quan hệ dữa huy động và cho vay trung và dài hạn và tài trợ cho đầu tư
phát triển ta thấy trong 3 năm từ 1998 đến năm 2000 số dư phần trênh lệch này kết
âm tương ứng là( -7.266, -8.268,-22.675 triệu đồng.) . Như vậy ta thấy nguồn vốn
trung và dài hạn và tài trợ uỷ thách đầu tư của ngân hàng chua đáp ứng đủ nhu cầu
vốn cho đầu tư phát triển. Mặt khác cũng nhìn vào tỷ lệ âm này ta thấy ngân hàng đã
có một sự cân đối trong cho vay ngắn hạn để lấy một phần vốn huy động ngắn hạn để
cho vay dài hạn cho đầu tư phát triển, theo dúng chỉ thị 12/CT-NH. của ngân hàng
nhà nước , đây là một giải pháp tình thế ngân hàng nhà nước cho phép các ngân hàng
thương mại được phép lấy 20% vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn
đáp ứng nhu cầu vốn cho nền tế trong điều kiện các ngân hàng thương mại đang thừa
vốn ngắn hạn. Do vậy dự nợ cho vay trung và dài hạn của ngân hàng lớn hơn mức
huy trung và dài hạn và tài trợ uỷ thách đầu tư.Tuy nhiên ngân hàng sử dụng vốn huy
động ngắn hạn để cho nay trung và dài hạn các dự án đầu tư sẽ làm giảm khả năng
thanh toán của ngân hàng. Do vây nếu khai thác được có hiệu quả nguồn vốn có thời
gian dài hơn nữa thì ngân hàng sẽ có thể cho vay đầu tư phát triển nhiều hơn nữa.
điều này ngân hàng nhận thức rõ vấn đề và cố gắng trong việc tìm kiếm nguồn vốn có
thời gian dài để cho vay đầu tư phát triển.
Trong tương lai , theo su hướng chung thì công tác huy động vốn có thời gian dài
cho đầu tư phát triển xẽ đựoc chú trọng , bởi nhu cầu về nguồn vốn có thời gian dài
trong các doanh nghiệp đang có đòi hỏi rất lớn do các doanh nghiệp có nhu cầu đổi
mới các trang thiết bị , xây dựng mới các nhà xưởn... để nâng cao trình độ sản xuất
phù hợp với nền kinh tế hiện nay. Do vậy ngân hàng cần phải đáp ứng nhu cầu của
các doạn nghiệp và cần đảm bảo an toàn và hiệu quả . Mặt khác đòi hỏi các doanh
nghiệp cũng phải nỗ lực phấn đấu để làm ăn hiệu quả và có thể đảm bảo chi trả đúng
hạn cho các khoản nợ của ngân hàng. Có như vậy ngân hàng mới tồn tại và phát triển
được.
Tóm lại : Việc cân đối dữa huy động nguồn và sử dụng vốn nói chung và vốn cho
đầu tư và phát triển của ngân hàng là rất khó cho sự đảm bảo an toàn cho ngân hàng.
Do vậy đòi hỏi ngân hàng phải đề ra đựoc những giải pháp hưu hiệu trong cả huy
động vốn và sử dụng vốn nhằm phục vụ tốt hơn cho đầu tư phát triển.
Để thấy rõ hơn và đề ra những giải pháp cho huy động vốn và sử dụng vốn cho đàu
tư và phát triển đòi hỏi ta phải xem xét cụ thể thực trạng tình hình huy động vốn và sử
dụng vốn cho đầu tư và phát triển của ngân hàng.
II.2. Thực trạng và đánh giá thực trạng hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn cho
đầu tư phát triển của ngân hàng.
II.2.1. Thực trạng huy về huy động vốn.
Như phần trên đã đề cập, việc huy động vốn cho đầu tư phát triển của ngân hàng
thường phải là những nguồn vốn có thời gian tương đối dài ít nhất là một năm hay
còn gọi là vốn trung và dài hạn . Đối với ngân hàng đầu tư phát triển với mục đích
chủ yếu phục vụ cho đầu tư phát triển thì nguồn vốn này đóng một vai trò quan trọng
đối với ngân hàng. Thực tế trong những năm qua nguồn vốn có thời gian dài cho đầu
tư phát triển của ngân hàng cũng có nhiều thay đổi , ảnh hưởng đến chi phí huy động
và và hiệu quả của ngân hàng .
Hiện nay vốn dành cho đầu tư của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây gồm có 4
nguồn vốn chính sau: nguồn đi vay ngân hàng đầu tư phát triển TW, nguồn huy động
bằng kì phiếu và trái phiếu, nguồn tài trợ uỷ thác đầu tư, nguồn huy động của các tổ
chức kinh tế và dân cư > 1năm. Cụ thể của các nguồn này được thể hiện
Bảng 2: Thực trạng huy động vốn cho đầu tư và phát triển của ngân hàng Đầu tư &
Phát triển Hà Tây :
Đơn vị: triệu đồng
Năm 1998 1999 2000
Chỉ tiêu Giá trị Tỷ trọng Giá trị Tỷ trọng Giá trị Tỷ trọng
1. Vay ngân hàng ĐT& PT Việt nam. 38.222 32% 35.471 36% 36.213 39%
2. Kì phiếu – Trái phiếu.(> 12 tháng) 12.422 12% 14.689 15% 14.892 16%
3. Nhận tài trợ uỷ thác đầu tư. 38.862 36% 36.350 37% 33.271 36%
4. Tiền gửi TCKT, Dân cư,(> 12 tháng) 18.369 17% 11.043 12% 7.264 9%
Tổng 107.875 100% 97.373 100% 91.69 100%
Nguồn: Phòng nguồn vốn kinh doanh ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây .
- Đối với nguồn vay từ ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.
Theo bảng trên ta thấy khoản đi vay trung và dài hạn cho đầu tư của ngân hàng đầu
tư và phát triển TW qua các năm xét về mặt giá trị có phần tăng lên chút ít trong các
năm. Từ năm 1998- 2000 tương ứng là 38.222(32%) triệu đồng, 35.471(36%) triệu
đồng, 36.213(39%) triệu đồng, điều này cho thấy ngân hàng đầu tư phát triển Việt
nam vẫn đang là một cơ quan chủ quản cung cấp một phần vốn cho đầu tư phát triển
của chi nhánh. Nhưng đây là nguồn có chi phí cao , ngân hàng chỉ sử dụng trong
trường hợp thiếu vốn do vậy xu hứng chung là nên giảm nguồn này cả về số tuyệt đối
và số tương đối.
Nếu xét chung cả cơ cấu vốn vay từ nguồn vay ngân hàng đầu tư và phát triển Việt
Nam thì tỷ trọng vốn vay trung và dài hạn cho đầu tư phát triển chiếm chủ yếu trong
tổng nguồn vốn vay còn nguồn vốn vay ngắn hạn của ngân hàng đầu tư phát triển
Việt Nam chỉ chiếm một phần nhỏ. Điều này là tất yếu bởi ngân hàng đầu tư phát
triển mục tiêu chủ yếu là phục vụ đầu tư và phát triển nên nguồn vay này tăng.
Tóm lại: Ngân hàng sử dụng hình thức để đáp ứng nhu cầu về vốn cho đầu tư phát
triển của mình trong trường hợp huy động nguồn vốn có thời gian dài cho đầu tư phát
triển còn thiếu . Tuy nhiên nếu ngân hàng sử dụng hình thức này nhiều khi không có
hiệu quả bằng hình thức tự huy động do lãi suất trả cho hình thức này cao hơn hình
thức tự huy động . Do vậy, để có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu vốn cho đầu tư phát
triển và đem lại hiệu quả cho ngân hàng thì đòi hỏi ngân hàng phải sử dụng tốt các
biện pháp tự huy động khác như phát hành kì phiếu và trái phiếu cho đầu tư và huy
động từ dân cư và các tổ chức kinh tế cùng các nguồn khác...
- Huy động kỳ phiếu và trái phiếu:
Kỳ phiếu và trái phiếu là hai công cụ quan trọng và có hiệu quả để huy động vốn cho
đầu tư và phát triển. Do vậy trong những năm qua và những năm tới ngân hàng Đầu
tư & Phát triển Hà Tây vẫn và xẽ sử dụng công cụ này một cách hữu hiệu để huy
động vốn cho đầu tư và phát triển.
Hình thức huy động vốn cho đầu tư và phát triển của ngân hàng đã được sử dụng lần
đầu tiên vào năm 1994. Nhưng mãi đến năm 1998 hình thức này mới chú trọng cho
công tác huy động vốn của ngân hàng. Hiện nay hai công cụ này đang là phương tiện
quan trọng cho công tác huy động vốn của ngân hàng nhằm giảm tính phụ thuộc
nguồn vốn cho đầu tư và phát triển từ ngân hàng đầu tư và phát triển trung ương.
Theo số liệu bảng 2 ta thấy nguồn vốn huy động bằng kì phiếu và trái phiếu cho đầu
tư và phát triển của ngân hàng đã được tăng lên trong các năm cụ thể năm 1998 là
12.422(12%) triệu đồng, 14.689 (15%) triệu đồng,14.892(16%) triệu đồng.
Tuy nhiên, đối với kì phiếu và trái phiếu do thời gian đáo hạn tương đối dài nên tuy
lãi xuất của kỳ phiếu và trái phiếu có thể cao hơn lãi suất của tiền gửi tiết kiệm nên rủ
ro và bất tiện cho người mua kỳ phiếu và trái phiếu là rất lớn do hiện nay lãi suất trên
thị trừng luôn biến động , và khi cần tiền mặt họ muốn chuyển từ kỳ phiếu và trái
phiếu sang tiền mặt xẽ gặp nhiều khó khăn. Do vậy để tăng cường khả năng huy
động nguồn này đòi hỏi ngân hàng phải có những giải pháp thích hợp tạo điều kiện
cho khách hàng.
Tóm lại: Nguồn vốn huy động bằng kỳ phiếu và trái phiếu để tạo vốn cho đầu tư và
phảt triển của ngân hàng là quan trọng, và đóng vai trò chủ chốt nhằm tạo tính chủ
động cho ngân hàng , phát huy nội lực của bản thân ngân hàng trong phục vụ cho đầu
tư và phát triển. Hy vọng rằng với đường lối, chiến lược huy động đúng đắn, chính
sách và giải pháp cụ thể phù hợp với tình hình và khả năng thì ngân hàng xẽ đạt được
mức cao hơn về kỳ phiếu và trái phiếu.
- Nhận tài trợ uỷ thác đầu tư:
Cũng qua số liệu của bảng 2 , ta thấy nguồn vốn tài trợ uỷ thác đầu tư có số vốn giảm
đi qua các năm về số tuyệt đối. Cụ thể năm 1998 là 38.862 triệu đồng, năm 1999 là
36.350 triệu đồng và năm 2000 là 33.271 triệu đồng. Đây là nguồn vốn cung cấp vốn
đầu tư trung và dài hạn cho đầu tư có chi phí thấp do ngân hàng chỉ làm đại lí cho nên
không lo đầu ra và đầu vào của nguồn vốn, cũng không phải trả lãi cho người gửi mà
được nhận một khoản phí từ công tác này. Tuy nhiên hiện nay nguồn này đang có xu
hướng giảm đi vì hiện nay không chỉ có ngân hàng làm đại lí thanh toán và tài trợ uỷ
thác đầu tư mà có rất nhiều ngân hàng và các tổ chức khác được tham gia nhận vốn
uỷ thác, thực hiện việc giải ngân thu nợ các dự án đầu tư tài trợ .
- Nguồn huy động từ các tổ chức kinh tế và dân cư cho đầu tư phát triển.
Tổ chức kinh tế và dân cư là hai nguồn vốn lớn để ngân hàng có thể huy động vốn .
Nhưng thực tế tiền giử của các nguồn này có thời gian dài lớn hơn 1 năm là rất thấp.
Cụ thể năm năm 1998 đến năm 2000 nguồn này giảm đáng kể tương ứng là.18.369
triệu đồng ( tương ứng 17%), 11.043 triệu đồng(12%), 7.264 triệu đồng(9%). Sở dĩ có
vấn đề này là do trong những năm gần đây nhà nước luôn cắt giảm lãi xuất để kích
thích đầu tư của các doanh nghiệp do vậy tiền gửi của các doanh nghiệp giảm xuống.
Mặt khác người dân không ưa thích giửi tiền tiết kiệm có thời gan tương đối dài do
họ sợ rủi ro do có các biến động về lãi suất,lạm phát...hoặc khi họ muốn rút khoản
tiền này ra sử dụng cho việc gì đó xẽ gặp khó khăn.
Tóm lại: Để có thể gia tăng được nguồn vốn huy động cho đầu tư và phát triển đáp
ứng nhu cầu cho tăng trưởng và phát triển kinh tế thì đòi hỏi phải có sự nỗ lực phấn
đấu của bản thân ngân hàng để đưa ra được các giải pháp hữu hiệu cho huy động vốn
.
Để có thể đưa ra được các giải pháp cho đầu tư phát triển của ngân hàng đâu ta và
phát triển của ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Tây ta cần xem xét thêm các nhân tố
ảnh hưởng đến công tác huy động vốn cho đầu tư và phát triển của ngân hàng.
II.2.2. Thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn của ngân hàng Đầu tư &
Phát triển Hà Tây .
a. Các chính sách huy động.
Một trong những yếu tố chủ yếu hấp dẫn khách hàng của ngân hàng Đầu tư & Phát
triển Hà Tây là sự đa dạng hoá của các hình thức huy động với nhiều loại kỳ hạn khác
nhau như tiền gửi và tiền tiết kiệm các loại , kỳ phiếu các loại :3,6,9,12,24,.. tháng
với lãi suất trả trước và lãi xuất trả sau. Huy động bằng VNĐ và ngoại tệ... Với các
hình thức huy động này, ngân hàng vừa đáp ứng được nhu cầu của nhiều tầng lớp
khách hàng, vừa theo kịp và vượt các đối thủ cạnh tranh trong việc thu hút khách
hàng. Đặc biệt trong những năm vừa qua ngân hàng đã huy động được các đợt kỳ
phiếu và trái phiếu lớn có thời gian tương đối dài như 1,2,3,4,5. năm. Hình thức huy
động của ngân hàng đã thu hút được sự quan tâm của nhiều khách hàng giúp ngân
hàng tăng được nguồn vốn huy động của mình.
b. Nhân tố lãi suất huy động.
Sau khi xây dựng một chiến lược vốn phù hợp và bắt đầu tiến hành huy động vốn thì
lúc này lãi suất có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng huy động vốn và cơ cấu huy động
vốn của ngân hàng vì mục đích lớn nhất của người giủi tiền là hưởng lãi suất lãi xuất
càng cao thì lượng vốn huy động vào càng nhiều, và lãi suất của các nguồn khác nhau
có mức lãi suất khác nhau thì lượng tiền gửi vào khác nhau. Do vậy chính sách lãi
suất luôn được sử dụng mềm dẻo, thường xuên được điều chỉnh cho phù hợp qua các
kì. Để xem xét nhân tố lãi xuất ảnh hưởng đến huy động ta xem xét bảng sau:
Bảng 2. Lãi suất trái phiếu của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây :
Thời điểm 26/3/1998 14/5/1999 30/6/2000
12 Tháng 0.85 0.95 0.95
24 Tháng 1.0 1.05 1.05
( Nguồn: Phòng nguồn vốn kinh doanh ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây )
Như ta thấy lãi suất huy động trái phiếu kỳ hạn 12 tháng và 24 tháng của ngân hàng
năm 1998 và 1999 tăng lên chút ít điều đó đã tăng được đáng kể nguồn vốn huy động
từ kỳ phiếu và trái phiếu của ngân hàng, cụ thể năm 1998 là 12.422 triệu đồng thì đến
năm 1999 tăng lên là 14.689 triệu đồng và đến năm 2000 lãi suất vẫn dữ nguyên như
cũ do vây khối lựng vốn huy động được không có sự biến động đáng kể so với năm
1999 ( năm 2000 là 14.892 triệu).
c. Các hình thức tiếp thị cho huy động vốn của ngân hàng.
Công tác quảng cáo tiếp thị có tác động rất lớn đến hoạt động huy động vốn và sử
dụng vốn của ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây trong thời
gian qua . Nhờ đẩy mạnh công tác này ngân hàng đã góp phần tăng đáng kể nguồn
vốn huy động qua các năm như đã phân tích.
Như vậy, qua phân tích ở trên ta có thể nhận thấy công tác huy động vốn đã đạt được
những thành tựu đáng kể đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Tuy nhiên công tác
này vẫn còn nhiều hạn chế đòi hỏi ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây cần phải có
được các giải pháp hữu hiệu cho công tác này.
II.3. Tình hình sử dụng vốn và đánh giá tình hình sử dụng vốn cho đầu tư phát triển
của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây.
II.3.1. Tình hình hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của ngân hàng Đầu tư
& Phát triển Hà Tây.
II.3.1.1. Thể lệ cho vay đầu tư phát triển của ngân hàng.
Nguồn vốn cho vay:
+ Vốn nhận từ nguồn do trung ương hỗ trợ.
+ Vốn uỷ thác tài trợ.
+ Vốn huy động trung và dài hạn để cho vay đầu tư.
+ Một phàn tỷ lệ nhất định vốn ngắn hạn để cho vay đầu tư.
Mục đích cho vay: Đáp ứng vốn cho đầu tư xây dựng các dự án mới, mở rộng cải
tạo, khôi phục, đổi mới kĩ thuật, phù hợp với chính sách phát triển kinh tế của đất
nước.
Đối tượng cho vay: Là chi phí cấu thành tổng mức đầu tư của dự án đầu tư xây dựng
mới, mở rộng cải tạo, khôi phục đối mới kĩ thuật, ứng dụng khoa học công nghệ...
Phưong thức cho vay: Trước mắt ngân hàng thực hiện các phương thức:
- Cho vay dự án đầu tư.
- Cho vay từng lần sản xuất kinh doanh.
Việc cho vay được đảm bảo bằng tài sản( Tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh của bên
thứ ba, bằng tài sản hình thành từ vốn vay...) hoặc cho vay không bảo đảm theo địa
chỉ của chính phủ.
Vốn tự có của các doanh nghiệp nhà nước tham gia đầu tư là mức vốn thực có tại
thời điểm vay, đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cá nhân, hộ gia đình ,
mức vốn tự có tham gia đầu tư tối thiểu là 50% so với vốn đầu tư của dự án. Mức vay
đối với một khách hàng tối đa khong quá 70% tổng tài sản có thế chấp.
Thẩm định và quyết định cho vay:
- Thẩm định cho vay:
+ Cán bộ tín dụng là người trực tiếp quản lí theo dõi khách hàng, trực tiếp tiếp nhận
hồ sơ vay vốn, chịu trách nhiệm trực tiếp trong thẩm định, có đề xuất ý kién rõ ràng
về việc có đồng ý hay không đồng ý cho vay.
+ Trưởng phòng tín dụng thực hiện việc kiểm tra công tác thẩm định của các cán bộ
tín dụng và có ý kiến rõ ràng về quyết định cho vay hay không cho vay. Sau đó trình
hợp đồng tín dụng lên cho ban giám đốc chi nhánh.
- Quyết định cho vay: Giám đốc chi nhánh có quền quyết định cho vay trong
phạm vi thẩm quyền. Vởi trường hợp ngoài thẩm quyền do tổng giám đốc ngân hàng
Đầu tư & Phát triển quyết định.
- Thời hạn thẩm định và quyết định cho vay:
+ Các dự án do chi nhánh trực tiếp thẩm định xét duyệt cho vay thời gian không quá
30 ngày.
+ các dứan thuộc ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam quyết định thời gian thẩm
định và quyết định cho vay không quá 45 ngày trong đó thời gian xét duyệt tại ngân
hàng TW không quá 20 ngày.
+ Trường hợp không cho vay phải thông báo bằng văn bản cho khách hàng biết trong
đó phải nêu rõ căn cứ từ chối cho vay.
Về phát tiền vay: Ngân hàng và đơn vị vay kí kết hợp đồng và làm thủ tục phát tiền
vay theo quy định của ngân hàng. Ngân hàng phát tiền vay theo quy định của ngân
hàng. Ngân hàng phát tiền vay theo tiến độ thực hiện dự án .
Về kiểm tra và giám sát vay vốn: Cán bộ tín dụng có trách nhiệm kiểm tra , giám sát
vay vốn, sử dụng vốn và trả nợ vay của khách hàng. Hệ thống kiểm tra nội bộ thực
hiện việc kiểm tra việc tuân thủ quy chế, quy định tín dụng, quá trình vay vốn theo
quy định kiểm tra hoạt động tín dụng của toàn ngành và tại từng chi nhánh.
Về trả nợ gốc và lãi: Đến kì hạn trả nợ đã thoả thuân, đơn vị vay phải chủ động trả
nợ đầy đủ cho ngân hàng. Đơn vị vay trả lãi cùng với trả gốc theo kì hạn trả nợ đã
được thoả thuận trước. Trường hợp khách hàng trả nợ trước hạn được dữ nguyên lãi
xuất và lãi vay được tính cho đến ngày trả nợ thực tế và ngân hàng xẽ có các biện
pháp ưu tiên khác.
Về gia hạn nợ và điều chỉnh kì hạn nợ:
Khi đến thời hạn trả nợ nếu khách hàng không có khả năng trả hết nợ cho ngân hàng
do nguyên nhân khách quan gây nên và có văn bản đề nghị ra hạn nợ thì chi nhánh
xem xét ra hạn nợ( thời gian ra hạn nợ cho vay đầu tư các món vay do chi nhánh xét
duyệt cho vay không quá 12 tháng. Riêng các mốn vay của chi nhánh do Ngân hàng
đầu tư phát triển trung ương cho vay thì do ngân hàng Đầu tư & Phát triển TW quyết
định.
Ngân hàng xem xét điều chỉnh nợ đối với các món vay không trả nợ đúng hạn do
nguyên nhân khách quan và có văn bản đề nghị. Đối với những món vay do Ngân
hàng đầu tư phát triển TW quyết định xét duyệt thì việc quyết định điều chỉnh gia hạn
nợ do ngân hàng TW quyết định.
II.3.1.2. Quy trình cho vay đầu tư phát triển tại Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà
Tây.
II.3.2 Thực trạng cho vay đầu tư phát triển của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây
:
Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây hiện nay tuy đã hoạt động như một ngân
hàng thương mại nhưng dưới sự chỉ đạo trực tiếp của ngân hàng Đầu tư & Phát triển
Việt Nam vói sự phấn đấu đi lên của bản thân, ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây
đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ trong hoạt động cho vay đầu tư phát triển
góp phần vào tăng trưởng và phát triển kinh tế và xã hội của đất nước và của tỉnh Hà
Tây. Để đánh giá tình hình sử dụng vốn cho đầu tư phát triển củn ngân hàng trong
những năm qua ta xét bảng sau.
Bảng 3: Thực trạng cho vay đầu tư của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây (
1998- 2000).
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000
1. Doanh số cho vay đầu tư phát triển trong năm. 36.128 26.389 35.569
2. Doanh số thu nợ đầu tư phát triển trong năm. 17.371 37.412 20.398
3. Tổng cho vay đầu tư phát triển còn tính đến cuối năm. 115.141 104.118
119.289
4. Trênh lệch dữa doanh số cho vay đầu tư và doanh số thu nợ đầu tư trong năm. -
18.757 11.023 - 15.171
(Nguồn: Phòng nguồn vốn kinh doanh ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây .)
Qua bảng 3 ta thấy doanh số cho vay đầu tư tương đối ổn định qua các năm. Năm
1999 doanh số cho vay đầu tư chỉ bằng 73% (bằng 26.389 triệu đồng)so với năm
1998 nhưng đó là do bộ phận tín dụng đầu tư theo kế hoạch nhà nước giảm đáng kể
trong năm này mặt khác việc cho vay của ngân hàng trong giai đoạn này chủ yếu tẩp
trung vào các doanh nghiệp nhà nước và khả năng tìm kiếm các dự án cho vay đối
với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh còn rất nhiều hạn chế trong giai đoạn
này trong khi nhu cầu vốn đầu tư cho thàng phần kin tế này là rất lớn.Việc cho vay
vốn vẫn chỉ dựa và kế hoạch nhà nước giao, việc tự tìm kiếm khách hàng và dự án
hiêu quả để cho vay còn rất hạn chế. Tuy nhiên, đẩy mạnh việc cho vay đối với các
thành phần kinh tế đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm ăn hiệu quả của ngân
hàng đã có xu hướng tăng lên qua các năm do vậy đến năm 2000 tuy vốn tín dụng
đầu tư theo kế hoạch nhà nước giảm xuống thì vốn cho vay đầu tư nói chung của
ngân hàng tăng 35% so với năm 1999( tương đương 35.569 triệu đồng).
Như vậy trong thời gan tới ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây cần đẩy mạnh hơn
nữa việc cho vay đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và việc tìm kiếm
khách hàng hiệu quả và dự án vay vốn hiệu quả ngày càng trở nên quan trọng đem lại
lợi ích cho ngân hàng và đáp ứng tốt hơn nhu cầu vốn cho nền kinh tế
- Nhưng việc cho vay sẽ trở nên không có ý nghĩa nếu không thu được nợ. Do
vậy để đánh giá tình hình cho vay đầu tư ta cần xem xét tình hình thu nợ cho vay đầu
tư. Việc thu nợ đối với ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây luôn được chú ý, ngân
hàng đã thực hiện việc giao kế hoạch thu nợ đến các phòng ban cụ thể của ngân hàng
với các biện pháp tích cực và hợp lý các đơn vị vay vốn đã cùng ngân hàng tìm mọi
cánh khắc phục nợ quá hạn trả lãi và nợ đến hạn kịp thời .Cụ thể năm 2000 thu nợ
cho vay đầu tư như sau:
VNĐ: là 15.476 triệu đồng đạt kế hoach trung ương giao là 120%.
USD: là 3380. Ngàn đạt kế hoạch trung ương giao là 103%.
Có được thành tích thu nợ tín dụng đầu tư năm 2000 vượt mức trung ương giao như
vậy là nhờ có sự phối kết hợp, tạo điều kiện của các bạn hàng. Năm 2000 có 23/ 25
đơn vị hoàn thành kế hoạch trả nợ cho ngân hàng, có những đơn vị hoàn thành vượt
mức kế hoạch trả nợ ngân hàng như công ty xi măng Tiên Sơn, Công ty may Hưng
Thịnh, Công ty Chè Long phú... Điều đó đã minh chứng cho công tác thu nợ tín dung
đầu tư của ngân hàng đã được chú trọng.
Việc thu nợ không những phản ánh hiệu quả và độ an toàn của đồng vốn cho vay mà
nó còn là một nguồn để ngân hàng tiếp tục cho vay. Đây là một trong những giải
pháp được ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chỉ đạo và được ngân hàng đầu
tư và phát triển Hà Tây thực hiện tốt, góp phần cùng với nguồn vốn TW hỗ trợ và
nguồn vốn huy động để kịp thời cho các dự án đầu tư vay.
- Đối với tổng nguồn vốn cho vay tính đến cuối năm: Nếu không tách riêng phần
cho vay tài trợ đầu tư của TW ra ta thấy tổng nguồn cho vay đầu tư tương đối ổn
định qua các năm năm 1998 (là 115.141 triệu), năm 1999(104.118 triệu ) và năm
2000 là 119.289 triệu đồng. Nếu tách riêng phần tín dụng tài trợ thì tổng doanh số cho
vay của ngân hàng qua các năm như sau:
Năm 1998: 75.682 triệu chiếm 65% so với tổng nguồn cho vay tính đến cuối năm.
Năm 1999: 75.682 triệu đồng chiềm 73% so với tổng nguồn cho vay tính đến cuối
năm.
Năm 2000: 78.872 triệu đồng chiềm 66% so với tổng nguồn cho vay tính đến cuối
năm.
Như vậy ta thấy trong tổng cho vay do ngân hàng tự lo đã có tỷ trọng tăng lên trong
các năm. Điều này thể hiện ngân hàng ngày càng chủ động trong hoạt động sử dụng
vốn cho đầu tư phát triển của mình. Nhưng là một chi nhánh ngân hàng đầu tư phát
triển thì tỷ trọng tín dụng cho đầu tư như vậy còn rất nhỏ. Ngân hàng cần tăng tỷ
trọng này cao hơn nữa để đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển, và trở thành một
chi nhánh ngân hàng đầu tư phát triển với đúng nghĩa của nó.
Mặt khác ta thấy tỷ phần trên lệc dữa phần thu hồi vốn đầu tư và cho vay đầu tư của
ngân hàng có giá trị âm năm 2000 là (- 15.171 triệu) điều này chứng tỏ ngân hàng
đang đẩy mạnh hoạt động cho vay vốn đầu tư phát triển.
Chỉ tiêu nợ quá hạn:
Để đánh giá thêm hyệu quả của công tác sử dụng vốn cho đầu tư phát triển ta xem xét
chỉ tiêu nợ qúa hạn và nợ khó đòi:
+ Các khoản nợ quá hạn: là các khoản nợ đã đến hạn thu hồi nhưng ngân hàng không
thu được về và không được gia tăng thêm hạn.
+ Các khoản nợ khó đòi: là các khoản nợ quá hạn nhưng khả năng thu hồi về thấp.
Như vậy, trong chỉ tiêu cho vay đầu tư phát triển bao gồm cả nợ quá hạn và trong số
nợ quá hạn đó tồn tại một lượng nợ khó đòi, đó chính là rủi ro mà ngân hàng luôn gặp
phải nếu tỷ lệ nợ quá hạn quá cao, điều đó có thể khẳng định chất lượng cho vay của
ngân hàng đó là thấp
Bảng 4. Tình hình nợ quá hạn cho vay đầu tư:
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu: Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000
Nợ quá hạn 1.387 2.039 2.550
Tỷ lệ nợ quá hạn 0.67% 0.85% 0.89%
Nợ quá hạn cho vay đầu tư 891 1.687 2.154
Tỷ lệ nợ quá hạn cho vay đầu tư trong tổng nợ quá hạn 65% 83% 85%
Nợ qua hạn khó đòi cho vay đầu tư 543 1.063 1.421
Tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi trong tổng nợ quá hạn cho vay đầu tư 61% 63%
66%
Nguồn: Phòng nguồn vốn kinh doanh ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây
Xem xét tỷ lệ nợ quá hạn và nợ khó đòi của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây
trong những năm qua ta thấy ngân hàng luôn dữ được một mức nợ quá hạn được coi
là lý tưởng chung <1%. Nhưng nếu xét riêng vềc cơ cấu cho vay trong tổng cơ cấu
thì tỷ lệ này lớn hơn hẳn tỷ lệ chung và có su hướng tăng trong các năm cụ thể năm
1998 (là 65% trong tổng nợ quá hạn) thì đến năm 1999 tăng lên là 83% và năm 2000
tỷ lệ này vẫn tiếp tục tăng là 85% trong tổng nợ quá hạn của ngân hàng. Song điều đó
là tất yêú vì tín dụng đầu tư có thời gian dài hơn nên khả năng rủi ro, bất trắc cũng
lớn hơn. Nhưng xét chung tỷ lệ nợ quá hạn của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà
Tây trong những năm qua vẫn luôn dữ ở mức dưới 1%. Tuy nhiên nợ quá hạn tín
dụng của ngân hàng đang có hướng tăng lên cả về số tương đối và số tuyệt đối. Đặc
biệt năm 2000 trong khi dư nợ tín dụng vẫn dữ ở mức gần như cũ thì tỷ lệ nợ quá hạn
lại tăng lên từ 0.67% năm 1998 và 0,85% năm 1999 lên 0,89% năm 2000. Tuy con số
0,89% như vậy vẫn là một con số lí tưởng song ngay từ bây giờ ngân hàng cần phải
có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn nợ quá hạn đặc biệt là nợ quá hạn trong tín dụng
đầu tư bằng cách đề ra các giải pháp hữu hiệu cho công tác thẩm định, quản lý vốn
vay...
Một chỉ tiêu nữa mà ta chưa đề cập đến đó là tỷ lệ nợ khó đòi. Ta thấy tỷ lệ nợ quá
hạn khó đòi chiếm một tỷ lệ tương đối trong tổng tỷ lệ nợ quá hạn tín dụng đầu tư, và
có su hướng tăng lên về cả số tuyệt đối và số tương đồi cụ thể năm 1998 là 61%(
tương đương 543 triệu) trong tỷ lệ nợ quá hạn cho vay đâù tư thì đến năm thì đến
năm 1999 và năm 2000 tỷ lệ này tương ứnglà 63%(1.063 triệu đồng), 66% ( 1.421
triệu đồng).Do vậy ngân hàng cần phải có những giải pháp hữu hiệu để thu nợ và sử lí
nợ qua hạn cũng như nợ khó đòi.
Tóm lại: Hoạt động tín dụng đầu tư của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây đã
góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn . Hầu hết các
doanh nghiệp vay vốn và các dự án vay vốn ngân hàng đều làm ăn hiệu quả , trả nợ
gốc và lãi cho ngân hàng , nộp ngấnách nhà nước và thu được nhiều lợi nhuận cho
chính họ, góp phần vào tăng trưởng và phát triển kinh tế và xã hội của đất nước và
của địa phương. Năm 2000 mới chỉ tính phục vụ đầu tư cho 31 doanh nghiệp với tổng
doanh số cho vay cả ngắn , trưng và dài hạn là 250 tỷ và doanh số thu nợ là 288 tỷ thì
hiệu quả của đồng vốn mà ngân hàng cho vay đạt dược là:
- Giá trị sản lượng thực hiện là: 1.059 tỷ.
- Doanh thu : 922 tỷ.
- Nộp ngân sách: 39 tỷ.
- Lợi nhuận: 16 tỷ.
- Tạo việc làm cho: 9.385 người.
Từ hoạt động trên đây ta có thể thấy hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của
ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây đã góp phần rất lớn cho việc đáp ứng nhu cầu
vốn cho đầu tư phát triển kinh tế của đất nước và cuả địa phương. thực hiện công
cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Đối với ngân hàng Đầu tư & Phát
triển Hà Tây thì hoạt động này thì đã luôn theo đúng đường lối và chính sách của
ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam, với phương châm phục vụ tốt hơn cho lĩnh
vực đầu tư phát triển.
Để có thể đưa ra được những giải pháp tăng cường khả năng sử dụng vốn cho đầu tư
phát triển ta cần xem xet thêm các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng sử dụng vốn cho
đầu tư phát triển của ngân hàng đầu tư và phát triển Hà tây.
II.3.3. Đánh giá thực trạng hoạt động cho vay đầu tư phát triển tại chi nhánh ngân
hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây trong thời gian qua:
II.3.3.1. Đánh giá chung:
Với thực trạng hoạt động tín dụng đầu tư như đã nêu ở phần trước về các mặt
doanh số cho vay, doanh số thu nợ, tỷ lệ nợ quá hạn, những thành tựu đối với bản
thân ngân hàng cũng như đối với tổng thể nền kinh tế cho ta những đánh giá chung
nhất về chất lượng tín dụng cho đầu tư tại chi nhánh ngân hàng như sau:
Nhìn chung chất lượng tín dụng đầu tư tại chi nhánh ngân hàng Đầu tư & phát
triển Hà Tây thời gian qua là khá tốt. Tuy có một số hạn chế về quy mô, tỷ trọng cho
vay đầu tư, phương thức cho vay còn đơn điệu, đối tượng khách hàng cho vay còn
hạn chế, những rủi ro tiềm ẩn đang có xu hướng tăng lên nhưng có thể thấy chất
lượng tín dụng đầu tư đạt được như vậy cũng là rất khả quan và kết hợp hài hoà giữa
lợi ích của ngân hàng, lợi ích của khách hàng và của nền kinh tế.
Có được những thành tựu đó trước hết là nhờ sự chỉ đạo sát sao của các cấp uỷ
Đảng, của ngân hàng Nhà nước tỉnh Hà Tây và đặc biệt là ngân hàng Đầu tư & phát
triển Việt Nam. Sự l•nh đạo, chỉ đạo đúng hướng của giám đốc ngân hàng Đầu tư &
phát triển Hà Tây và sự nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ công nhân viên trong
ngân hàng cũng như các khách hàng của ngân hàng. Trong thời gian tới ngân hàng
cần cố gắng hơn nữa để đảm bảo nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho đầu tư phát
triển.
II.3.3.2. Đánh giá công tác đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn cho đầu tư phát triển tại
ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây:
Hiệu quả sử dụng vốn được hình thành và đảm bảo từ cả hai phía: ngân hàng và
khách hàng. Nó được đảm bảo trong suốt quá trình cho vay. Để có thể đánh giá được
hiệu quả hoạt động cho vay vốn đầu tư phát triển tại chi nhánh ngân hàng Đầu tư &
phát triển Hà Tây ta lần lượt xem xét việc nâng cao hiệu quả thông qua các công tác
chính sau:
II.3.3.2.1. Công tác thẩm định:
Công tác thẩm định là khâu đầu tiên quyết định hiệu quả hoạt động cho vay
vốn. Nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của công tác thẩm định ngân hàng Đầu tư &
phát triển Hà Tây đã thực hiện khá tốt khâu này. Thẩm định là sự kiểm tra, phân tích
đánh giá và kết luận các mặt về khách hàng vay vốn và dự án vay vốn để đi đến quyết
định có cho vay hay không. Đây chính là khâu kiểm tra trước khi cho vay của ngân
hàng. Hầu hết các khoản cho vay của ngân hàng đều được kiểm tra trước khi cho vay.
Việc kiểm tra, phân tích, đánh giá hết các chi tiết tuân theo đúng các quy trình thẩm
định do ngân hàng Đầu tư & phát triển Việt Nam hướng dẫn, ít gây phiền hà đối với
khách hàng và đưa ra những ý kiến tham mưu cho ban lãnh đạo một cách cụ thể, rõ
ràng. Ngân hàng đã đề cập, xem xét trên nhiều khía cạnh, tiến hành phân tích nhiều
chỉ tiêu để đưa ra được những kết luận chung nhất về các khoản vay như tư cách - uy
tín của khách hàng vay, khả năng tài chính của doanh nghiệp vay vốn, tư cách pháp lý
của dự án vay vốn và tính khả thi của dự án đó. Việc thẩm định dự án về mặt tài
chính được chú trọng các chỉ tiêu cơ bản như: giá trị hiện tại thuần (NPV), hệ số hoàn
vốn nội bộ (IRR). Trong việc phân tích các vấn đề này ngân hàng cũng đã ứng dụng
các phần mềm tin học vào để phân tích, đặc biệt là phần mềm Excel với tính năng vô
cùng lớn.
Ngân hàng ngoài việc xem xét đánh giá những mặt hiện tại có liên quan đến
khách hàng và dự án vay vốn còn xem xét các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh,
môi trường pháp lý... để đánh giá mức rủi ro tiềm ẩn của dự án. Qua khâu thẩm định
ngân hàng đã phát hiện ra những điểm chưa hợp lý và tư vấn cho khách hàng làm ăn
hiệu quả hơn.
Tóm lại: Công tác thẩm định được ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây thực
hiện khá tốt, giúp ngân hàng đưa ra được những quyết định cho vay đúng đắn. Tuy
nhiên công tác thẩm định vẫn còn một số tồn tại cần phải khắc phục, đó là:
- Trong quá trình phân tích tài chính của doanh nghiệp, ngân hàng có xem xét đến sự
biến động và phát triển qua các năm song chủ yếu vẫn là sự tăng lên về số tuyệt đối,
chưa có sự so sánh tăng lên về các tỷ lệ nên không thấy được bản chất của sự tăng lên
đó, do đó không đánh giá được sự phát triển, lớn lên của doanh nghiệp.
- Trong quá trình phân tích ngân hàng mới chỉ chú ý đến phân tích theo chiều ngang
của bảng cân đối kế toán tức là mới chỉ xem xét sự biến động về tình hình tài chính
của doanh nghiệp qua các năm mà chưa chú ý đến phân tích theo chiều dọc, tức là
chưa chú ý đến phân tích sự hợp lý trong cơ cấu các khoản mục trong bảng cân đối kế
toán. Việc phân tích tài chính của doanh nghiệp chưa được đặt trong các mối quan hệ
nhiều chiều nên chưa thấy hết được mọi rủi ro tiềm ẩn của doanh nghiệp.
- Những phương pháp phân tích hiện đại mang tính khoa học cao đã được áp dụng
nhưng vẫn chưa được hiểu một cách thấu đáo nên việc thực hiện chúng có phần chưa
khoa học.
- Trong phần thẩm định về phương diện kỹ thuật, ngân hàng vẫn phải dựa vào phân
tích kỹ thuật trong luận chứng kỹ thuật mà doanh nghiệp đưa ra. Ngân hàng chưa có
khả năng đánh giá chính xác về phương diện này do sự am hiểu về lĩnh vực này còn
hạn chế.
- Về phân tích thị trường, đánh giá khả năng thâm nhập thị trường đối với sản phẩm
của dự án còn thiếu chính xác. Việc tính toán về giá thành, về giá trị tiêu thụ, giá bán
đều tính theo thời điểm hiện tạ, chưa dự tính cụ thể tình hình đó trong tương lai, ít
đánh giá đến sự thay đổi của các yếu tố trong suốt thời gian thực hiện dự án. Do vậy
ngân hàng không thấy hết được sự ảnh hưởng của các yếu tố đó đến hiệu quả của dự
án. Điều đó chứng tỏ việc xem xét độ nhạy của dự án còn chưa được quan tâm thoả
đáng.
- Khi thẩm định về vấn đề tổ chức quản lý, ngân hàng quan tâm nhiều đến chủ dự án
và mới chỉ đánh giá trình độ của chủ dự án chứ chưa xem xét đến người đứng ra chỉ
đạo cho việc vận hành của dự án, tức là người đứng ra quản lý, xây dựng cho việc
thực hiện dự án. Cho nên nhiều khi dự án đã được xem là có hiệu quả song người chỉ
đạo việc thực hiện dự án không có tài năng, uy tín và tư cách đạo đức, không đảm
đương nổi công việc thì dự án rất có thể sẽ bị thất bại.
II.3.3.2.2. Công tác quản lý món vay và khách hàng vay vốn:
Quyết định cho vay dù sao cũng chỉ dựa vào các cơ sở pháp lý và các dự đoán,
còn kết quả cuối cùng của mục tiêu cho vay vốn là công trình phát huy được hiệu quả
và trả được nợ vay. Điều này lại tuỳ thuộc vào tình hình thực hiện thi công có đúng
tiến độ, đúng mục đích ban đầu hay không. Điều đó đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có
trách nhiệm theo dõi, quản lý món vay trong suốt quá trình xây dựng và phát huy hiệu
quả của dự án, trả được nợ vay. Hay nói cách khác công tác này chính là khâu kiểm
tra trong quá trình cho vay và kiểm tra sau khi cho vay mà ngân hàng luôn quán triệt.
Công tác này được ngân hàng thực hiện rất tốt, từ việc theo dõi tiến độ thi công để có
kế hoạch giải ngân kịp thời đúng lịch trình đến việc theo dõi sử dụng vốn có đúng
mục đích, đúng tiến độ và có hiệu quả hay không bằng cách xuống tận cơ sở để xem
xét, thu thập các thông tin và đánh giá những thuận lơi, khó khăn của dự án, những
rủi ro tiềm ẩn để có biện pháp xử lý kịp thời. Cán bộ ngân hàng luôn bãm sát từng
khách hàng để tháo gỡ những khó khăn phát sinh trog quá trình sử dụng vốn vay, tích
cực trong công tác thu nợ bằng cách định ra thời hạn trả nợ gốc và lãi hợp lý, chủ
động nhắc nhở khách hàng về việc trả nợ. Ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây đã
luôn đạt vượt mức kế hoạch Trung ương giao về thu nợ tín dụng đầu tư, góp phần tạo
nguồn vốn để cho vay tiếp và đảm bảo an toàn hiệu quả cho đồng vốn đầu tư. Việc
quản lý món vay và khách hàng vay đã được giao thành nhiệm vụ trực tiếp cho từng
cán bộ tín dụng, góp phần nâng cao trách nhiệm của họ và thực hiện có hiệu quả, luôn
bám sát khách hàng - bám sát địa bàn, phân loại cho vay để có biện pháp xử lý kịp
thời những vướng mắc. Đặc biệt là việc phân loại tín dụng để có kế hoạch lập dự
phòng rủi ro thích hợp, tránh được những tổn thất lớn và đột ngột. Tiến hành công tác
kiểm tra, kiểm soát thường xuyên để đánh giá được tình hình cho vay vốn và hiệu quả
cho vay, phát hiện ra những thiếu sót và nguy cơ để không ngừng nâng cao chất
lượng hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng. Công tác xử lý các khoản cho vay cũng
đã được như ý và thực hiện tốt. Các khoản cho vay có vấn đề xấu đều được xử lý kịp
thời. Cán bộ ngân hàng luôn cùng khách hàng tháo gỡ mọi khó khăn, thực hiện giảm
nợ, điều chỉnh nợ hợp tình hợp lý, phân loại nợ, thực hiện khoanh nợ hoặc xoá nợ, xử
lý các vấn đề về tài sản thế chấp để thu nợ kịp thời.
Ngân hàng đã không ngừng tạo các mối quan hệ lâu dài với khách hàng, coi
khách hàng là những người bạn thân thiết của ngân hàng.
Khi vay vốn tín dụng đầu tư, doanh nghiệp vay vốn phải mở tài khoản tại ngân
hàng. Dựa vào tình hình gửi tiền vào và rút tiền ra cũng như sự biến động số dư tài
khoản ngân hàng có thể dự đoán được tình hình hoạt động của doanh nghiệp từ đó đề
ra những biện pháp nhất thời và lâu dài nhằm tránh rủi ro tín dụng, đảm bảo lợi nhuận
cho ngân hàng. Khi số dư tiền gửi bị giảm liên tục một cách bất thường điều đó
chứng tỏ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp gặp nhiều trục trặc và ngân hàng
cần tìm hiểu rồi yêu cầu doanh nghiệp phải giải trình rõ. Ngân hàng phải phối hợp với
doanh nghiệp giải quyết những khó khăn đó hay đề ra những biện pháp khẩn trương
để thu nợ.
Trong việc quản lý món vay và khách hàng vay ngân hàng còn gặp phải một
số khó khăn như sau: việc kiểm tra chất lượng tài sản hết sức khó khăn vì cán bộ ngân
hàng chưa hiểu biết sâu sắc về lĩnh vực kỹ thuật...
Xử lý tín dụng là vấn đề thường xuyên trong quá trình cho vay do nguyên nhân chủ
quan và khách quan trong triển khai vận hành dự án. Cơ sở để ngân hàng xử lý chủ
yếu dựa trên tài sản thế chấp trong khi đó tài sản thế chấp hầu như không được đánh
giá lại sau khi cho vay và trong suốt thời gian thực hiện món vay. Do vậy ngân hàng
không thấy được những biến động về giá cả của tài sản thế chấp, mặt khác những tài
sản thế chấp thường là lạc hậu, giá trị thanh lý không bù đắp nổi những tổn thất của
ngân hàng.
Việc nhận biết những rủi ro tiềm ẩn và những phát sinh trong quá trình sử
dụng vốn của khách hàng là rất khó do có sự gian lận cung cấp thông tin cho ngân
hàng về các rủi ro này.
Tóm lại: tuy còn nhiều khó khăn song những kết quả tốt đẹp trong tín dụng
đầu tư đã chứng tỏ côngtác quản lý món vay và khách hàng vay vốn tại ngân hàng
Đầu tư & phát triển Hà Tây là có chất lượng cao và xu hướng ngày càng được nâng
cao hơn.
d. Công tác thu thập và sử lý thông tin:
Ngân hàng đã xác định rõ các loại thông tin cần thu thập và ứng với mỗi loại
thông tin đó xẽ được thu thập từ những nguồn nào. Thực tế đã chỉ ra trong quá trình
cho vay vốn vốn nói riêng và hoạt động sử dụng vốn nói chung cho thấy. Ngoài thông
tin do khách hàng cung cấp, ngân hàng còn phải thu thập thông tin từ các nguồn khác
như: Thông tin qua các cơ quan quản lý, thông tin khách hàng , thông tin kiểm toán ,
thông tin báo chí, thông tin từ các trung tâm phòng ngừa rủi ro tín dụng (CIC) của
ngân hàng nhà nước và các nguồn thông tin khác . Ngân hàng đã có nhiều biện pháp
hữu hiệu để thu thập thông tin một cách chính sác và đầy đủ , kịp thời phỏng vấn
khách hàng vay vốn, cử cán bộ suống xem xét tình hình hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp tham gia vay vốn .. tuy nhiên nguồn thông tin thu thập được
vẫn chủ yếu dựa vào nguồn thông tin do khách hàng cung cấp, việc thu thập thông tin
từ các nguồn bên ngoài vẫn còn rất nhiều hạn chế . Nguồn thông tin từ trung tâm
thông tin tín dụng CIC là một nguồn đầy đủ , quan trọng và không tốn chi phí song
không riêng gì ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây và nhiều ngân hàng khác cũng
vậy chưa coi trọng nguồn thông tin từ đây .
Về sử lý thông tin: trong nguồn thông tin thu thập được , ngân hàng tiến hành
phân loại và sử lí thông tin một cách hệ thống theo các nội dung nhất định . Việc sử lí
thông tin ngân hàng đã đặt trong các mối quan hệ nhiều chiều để thấy được bản chất
của vấn đề . Bên cạnh đó việc sử lí thông tin luôn được thực hiện nhanh chóng kịp
thời . Các thông tin mang tính định lượng đã được tính toán theo một cách khoa học
và đặt nó trong mối quan hệ nhiều chiều để đề ra được các quyết định cho vay vốn
đúng đắn.
e. Đường lối và chính sách của ngân hàng đối với hoạt động cho vay đầu tư.
Trong những năm qua ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây luôn bám sát định
hướng kinh tế xã hội của trung ương và địa phương luôn chọn những dự án thiết thực,
trọng điểm để khai thác tiềm năng, tập trung đầu tư vốn cho các dự án trọng điểm của
nhà nước và địa phương để đầu tư lấy hiệu quả làm đầu. Trong mỗi thời kì, ngân
hàng đều đưa ra phương hướng hoạt động và giải pháp chung nhất và phù hợp cho
việc thực hiện của ngân hàng. Những phương hướng mà ngân hàng đề ra không
những luôn theo đúng chủ trương và đường lối của nhà nước, mà còn phù hợp với
thực trạng của chi nhánh của nhà nước, và phù hợp với thực trạng của chi nhánh.
Ngân hàng đã giao chỉ tiêu thực hiện xuống từng phòng ban và cho từng cán bộ tín
dụng để thực hiện tốt các chỉ tiêu đề ra. Các chính sách ngân hàng đưa ra trong từng
thời kỳ có thể nói là tương đối phù hợp song cũng có một số cũng có một số điểm hạn
chế cần phải khắc phục là :
- Ngân hàng chưa chú trọng đến các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
- Chính sách lãi suất cho của ngân hàng nhà nước trước đây còn một số điểm
hạn chế theo đó ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Tây cũng gặp phải một số vướng
mắc đó là: lãi suất cho vay đầu tư chưa có sự chênh lệch so với lãi suất cho vay ngắn
hạn mà ngược lại cho vay ngắn hạn lại có lãi suất cao hơn. điều đó khiến scho hoạt
động cho vay đầu tư chưa được coi trọng thoả đáng, chưa đáp ứng nhu cầu của nền
kinh tế.
- Về đảm bảo n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Ngân hàng đầu tưu và phát triển và chiến lược dành vốn tập trung cho đầu tư phát triển.pdf