Tài liệu Luận văn Ngân hàng công thương chi nhánh II và vai trò trong tín dụng ngắn hạn: Luận văn: Ngân hàng công thương chi
nhánh II và vai trò trong tín dụng ngắn
hạn
Lời nói đầu
Cùng với xu hướng đổi mới của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng
đang trong quá trình đổi mới, và đã đạt được những thành công nhất định. Xu thế
hội nhập, cạnh tranh ngày một diễn ra ngay gắt. Đặt hệ thống ngân hàng Việt Nam
trước những vận hội mới cũng như những khó khăn phải đối mặt. Hoạt động của
ngân hàng đạt kết quả tốt sẽ tạo điều kiện rất lớn cho nền kinh tế phát triển và
ngược lại ngân hàng hoạt động kém hiệu quả sẽ ảnh hưởng trầm trọng tới sự phát
triển của cả nền kinh tế, thẩm chí cả nền kinh tế thế giới. Xác định được tầm quan
trọng của tín dụng và vai trò của ngân hàng Chính phủ và NHNN Việt Nam đã có
nhiều giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng cũng như chất lượng tín
dụng trong toàn bộ hệ thống NHTM Việt Nam. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng
do nợ tồn đọng từ các năm khác chưa xử lý hết và những khoản quá hạn mới phát
sinh. Năm ...
101 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1113 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Ngân hàng công thương chi nhánh II và vai trò trong tín dụng ngắn hạn, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn: Ngân hàng công thương chi
nhánh II và vai trò trong tín dụng ngắn
hạn
Lời nói đầu
Cùng với xu hướng đổi mới của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng
đang trong quá trình đổi mới, và đã đạt được những thành công nhất định. Xu thế
hội nhập, cạnh tranh ngày một diễn ra ngay gắt. Đặt hệ thống ngân hàng Việt Nam
trước những vận hội mới cũng như những khó khăn phải đối mặt. Hoạt động của
ngân hàng đạt kết quả tốt sẽ tạo điều kiện rất lớn cho nền kinh tế phát triển và
ngược lại ngân hàng hoạt động kém hiệu quả sẽ ảnh hưởng trầm trọng tới sự phát
triển của cả nền kinh tế, thẩm chí cả nền kinh tế thế giới. Xác định được tầm quan
trọng của tín dụng và vai trò của ngân hàng Chính phủ và NHNN Việt Nam đã có
nhiều giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng cũng như chất lượng tín
dụng trong toàn bộ hệ thống NHTM Việt Nam. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng
do nợ tồn đọng từ các năm khác chưa xử lý hết và những khoản quá hạn mới phát
sinh. Năm 2001 , theo thống kê của NHNN Việt Nam thì nợ quá hạn của NHTM
Việt Nam là 11%. Đây là trở ngại rất lớn cản trở sự phát triển của ngân hàng. Để
phát triển ổn định và bền vững thì đòi hỏi hệ thống NHTM Việt Nam cần tiếp tục
đổi mới hơn nữa.
Hoà vào nhịp đổi mới toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam, chi nhánh NHCTII-
HBT cũng có sự đổi mới đáng khích lệ. Tuy nhiên, nhìn vào kết quả hoạt động
trong những năm gần đây có thể thấy có một số vấn đề cần phải khắc phục trong
thời gian tới, đó là tình trạng dư nợ tín dụng ngắn hạn có tỷ trọng ngày càng giảm
trong tổng dư nợ, mặc dù về số tuyệt đối thì có sự tăng lên trong các năm gần đây.
Số nợ xấu tồn đọng từ các năm trước mặc dù đã tích cực xử lý nhưng vẫn chưa đạt
yêu cầu, nợ quá hạn mới còn phát sinh, tình trạng nợ khoanh vẫn chiếm tỷ trọng cao
trong tổng nợ quá hạn. Để bắt kịp với sự đổi mới thì nâng cao chất lượng tín dụng
ngắn hạn tại chi nhánh NHCTII-HBT là điều hết sức cần thiết để để chi nhánh phát
triển vững chắc.
Xuất phát từ hoàn cảnh phát triển nền kinh tế và thực trạng hoạt động tín dụng
của chi nhánh NHCT-HBT, em đã nghiên cứu và tìm hiểu về tình hình hoạt động tín
dụng ngắn hạn tại chi nhánh NHCTII-HBT với để tài “Vai trò tín dụng ngắn hạn và
iải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh NHCTII-HBT”. Bài
viết tập trung nghiên cứu về các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn, tập
trung vào những vấn để liên quan đến hoạt động tín dụng ngắn hạn tại NHCTII-
HBT. Trong khuôn khổ bài viết này, em chia thành 3 phần:
ChươngI: Tổng quan về tín dụng và chất lượng tín dụng ngắn hạn.
ChươngII: Thực trạng chất lượng tín dụng ngắn hạn tại NHCTII-HBT.
ChươngIII: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn của NHCTII-
HBT.
Em xin chân thành cảm ơn GS – Tiến sĩ Cao Cự Bội đ• tận tình giúp đỡ em
hoàn thành bài viết này. Em cũng xin cảm ơn cán bộ công tác tại NHCTII-HBT đ•
tạo mọi đIều kiện và tận tình giúp đỡ trong thời gian em thực tập và hoàn thành bài
viết này.
Chương I: Tổng quan về tín dụng và chất lượng tín dụng ngắn hạn
1. Tổng quan về Ngân Hàng Thương Mại.
1.1 Khái niệm về NHTM.
Thuật ngữ Ngân hàng có từ rất lâu, trước khi nền sản xuất hàng hoá ra đời. Tuy
nhiên, ngay từ đầu nó không mang cái tên Ngân hàng. Xuất phát từ nhu cầu của
cuộc sống và công việc buôn bán mà các thương gia đã lập ra những nơi để đổi tiền,
nhận tiền gửi và thu phí của người gửi, họ giúp chi trả và thanh toán hộ người gửi
và ba nghiệp vụ đầu tiên hình thành, đó là: đổi tiền, nhận tiền gửi và thanh toán hộ.
Lúc đầu người gửi tiền phải trả một khoản tiền phí cho các thương nhân này, nhưng
về sau do áp lực cạnh tranh và do các khoản tiền gửi này sinh lợi nên các thương
nhân này đã trả phí cho người gửi để tăng khả năng huy động. Qua một thời gian
các thương gia này thấy rằng: luôn có một lượng tiền mặt ổn định đọng trong két
họ. Trong khi đó một số thương gia buôn bán lại có nhu cầu vay. Vì vậy họ cho vay
để kiếm thêm lợi nhuận, chính là mầm mống xuất hiện những nghiệp vụ nền tảng
của NHTM.
Hoạt động và vai trò của ngân hàng không phải là bất biến, mà liên tục phát triển
theo các điều kiện kinh tế xã hội. Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng càng ngày
càng phát triển, đã tạo một nghành công nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, đó
là NHTM. Nền kinh tế càng ngày càng phát triển, nhu cầu ngày càng phong phú và
được nâng cao, chính vì vậy bên cạnh những nghiệp vụ cơ bản, NHTM đ• cho ra
đời nhiều dịch vụ mới như: Dịch vụ bảo lãnh L/C, nghiệp vụ thuê mua, phát hành
các chứng chỉ tiền gửi, chiết khấu hối phiếu…
Hai ngân hàng thương mại đầu tiên trên thế giới đó là Banca di Baralone(1401) và
Banca di Valencia(1409) cả hai đều ở Tây Ban Nha.
Mặc dù NHTM ra đời từ rất lâu nhưng các nhà kinh tế học, các nhà kinh tế vẫn
chưa nhất trí với nhau về dịnh nghĩa ngân hàng bởi do sự khác biệt về luật pháp, số
lượng các nghiệp vụ, bối cảnh kinh tế, xã hội của các vùng khác nhau…
Ngày nay, việc kinh doanh dịch vụ tiền tệ không còn là độc quyền của ngân hàng.
Cùng với các ngân hàng, kinh doanh và làm dịch vụ còn có những tổ chức tài chính
kinh doanh những loại hình tương tự như công ty bảo hiểm các loại, các hiệp hội
tiết kiệm cho vay , các quỹ hưu trí, các tổ chức tín dụng tiêu dùng, các quỹ tín dụng,
hợp tác xã tín dụng… Tuy nhiên trong bất cứ nước nào trên thế giới, thì ngân hàng
thương mại vẫn là tổ chức tài chính lớn nhất, quan trọng nhất trong giới kinh doanh
tiền tệ.
Việt Nam, theo pháp lệnh “ NH, HTX tín dụng và công ty tài chính” ban hành
ngày24/05/1990 thì “ NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và
thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng
số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh
toán”. Còn theo luật các tổ chức tín dụng ban hành26/12/1997 NHTM là một doanh
nghiệp thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng đó là “ hoạt động kinh doanh tiền tệ
và dịch vụ ngân hàng với nội dung chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, sử
dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ thanh toán”.
Ngân hàng ra đời ở nước ta năm1951 với tên gọi “Ngân hàng quốc gia Việt Nam”.
Sự ra đời ngân hàng Việt Nam mang nét đặc trưng riêng biệt: Ngân hàng nhà nước
ra đời vừa làm chức năng quản lý tiền tệ vừa làm chức năng của NHTM( ngân hàng
một cấp). Cho đến 26/03/1988, nghị định 53/HĐBT quyết định chia hệ thống ngân
hàng Việt Nam thành 2 cấp, tách bạch chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ(Ngân
hàng nhà nước) và chức năng kinh doanh tiền tệ(Ngân hàng thương mại). Trong
những năm qua cùng với sự phát triển của đất nước, nghành ngân hàng đã có những
phát triển vượt bậc góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước. Ngành ngân hàng
ngày càng hiện đại về công nghệ, nâng cao trình độ cán bộ ngân hàng, tham gia
rộng rãi vào thị trương tiền tệ trong khu vực và quốc tế.
1.2 Chức năng của NHTM.
Tầm quan trọng của NHTM được thể hiện qua các chức năng của nó. Các chức
năng của NHTM có thể được nêu ra dưới nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng nhìn
chung có các chức năng sau:
1.2.1 Chức năng tạo tiền.
Để phục vụ cho lưu thông, giúp cho nền kinh tế phát triển, NHNN đưa một khối
lượng tiền nhất định vào trong lưu thông. Lượng tiền đó phải đảm bảo đáp ứng nhu
cầu của nền kinh tế, nhưng lượng tiền cung ứng vượt quá nhu cầu của nền kinh tế sẽ
gây ra lạm phát có hại cho nền kinh tế. Với một lượng tiền cung ứng ban đầu, thông
qua hoạt động nhận tiền gửi và cho vay của hệ thống NHTM đ• làm tăng lượng tiền
cung ứng so với ban đầu. Đây là chức năng chủ yếu của NHTM, chức năng tạo tiền.
Và thông qua chức năng này của NHTM mà NHNN với những công cụ của mình
như dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu… có thể thực hiện các chính sách tiền tệ
quốc gia nhằm đưa ra một khối lượng tiền phù hợp, ổn định được giá trị đồng tiền.
1.2.2 Chức năng trung gian thanh toán.
Với hoạt động này của mình, NHTM đã tạo điều kiện cho việc thanh toán giữa các
tổ chức cá nhân… được thuận tiện và đặc biệt là tiết kiệm được chi phí cho họ cũng
như tiết kiệm chi phí cho xã hội. Bởi vì việc thanh toán qua ngân hàng được thực
hiện tập trung, chuyên nghiệp và có công nghệ cao. Và cũng qua hoạt động thanh
toán NHTM thu được những lợi ích nhất định. Ngày nay hoạt động thanh toán ngày
càng phát triển tại các NHTM. Việc thanh toán không dùng tiền mặt được các ngân
hàng khuyến khích.
1.2.3 Hoạt động huy động tiền gửi.
Để có được nguồn vốn để thực hiện việc đầu tư tín dụng, NHTM đã tiến hành đã
tiến hành huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và dân cư. Việc huy động vốn này
giúp cho NHTM có đủ lượng vốn đáp ứng cho nhu cầu của nền kinh tế. Tạo ra thu
nhập cho người gửi tiền là một lợi ích mà hoạt động huy động vốn của ngân hàng
mang lại. Những người gửi tiền vào NHTM sẽ được nhận tiền l•i, tạo thu nhập cho
những khoản tiền nhàn rỗi của họ. Ngày nay để huy động được nhiều tiền gửi,
NHTM đã phát triển rất nhiều loại tiền gửi khác nhau: Có kỳ hạn hoặc không có kỳ
hạn, tiền gửi thanh toán hoặc tiền gửi tiết kiệm…
1.2.4 Hoạt động tín dụng.
Đây là hoạt động chủ yếu của NHTM bởi nó tạo ra thu nhập chính cho NHTM, duy
trì sự tồn tại của NHTM. Đây cũng là hoạt động cơ bản và lâu dài của NHTM.
NHTM dùng những khoản vốn huy động được để cho vay đối với nền kinh tế, nhằm
giúp những người có nhu cầu có được vốn để thực hiện quá trình sản xuất kinh
doanh của mình hoặc đảm bảo các nhu cầu khác. Với việc cho vay này NHTM đã
tạo cho sự phát triển kinh tế được thông suốt và hiệu quả. Bởi nếu không có nguồn
vốn vay từ ngân hàng thì rất nhiều doanh nghiệp không thể tiến hành quá trình sản
xuất kinh doanh được. Hầu như mọi doanh nghiệp hiện nay đều vay vốn ngân hàng.
Bên cạnh đó hoạt động cho vay mang lại thu nhập cho ngân hàng dưới dạng lãi vay.
Càng cho vay được nhiều thì lãi thu được càng lớn. Tuy nhiên hoạt động tín dụng
tiềm ẩn nhiều rủi ro, vì vậy việc nâng cao các khoản tín dụng là mục tiêu hàng đầu,
sống còn trong hoạt động kinh doanh của mình để vừa đảm bảo có thu nhập cao vừa
an toàn, hiệu quả.
1.2.5 Tài trợ hoạt động ngoại thương
ngày nay khi mà hoạt động thương mại quốc tế ngày một phát triển, xuất nhập khẩu
giữa các nước đã diễn ra mạnh mẽ thì đòi hỏi việc thanh toán quốc tế cũng như
những hộ trợ khác cho thanh toán ngày càng nhiều. Việc đảm bảo thanh toán cho
các doanh nghiệp giữa các nước đòi hỏi một tổ chức đứng ra phải có đủ khả năng và
uy tín như NHTM mới đảm trách được. Các NHTM giúp cho các doanh nghiệp có
hoạt động đối ngoại thực hiện việc thanh toán được hiệu quả, an toàn và đặc biệt là
giảm được chi phí cho họ. Ngoài ra NHTM còn có hỗ trợ về vốn, nghiệp vụ giúp
cho các doanh nghiệp có thể thực hiện một cách thuận lợi và an toàn các hoạt động
ngoại thương. Cụ thể ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ mở L/C, séc chuyển tiền,
hối phiếu…
1.2.6 Hoạt động bảo lãnh.
Một số doanh nghiệp khi thực hiện các dự án lớn mà đòi hỏi về vốn và uy tín vượt
qua khả năng tài chính của mình, nhưng dự án đó là có hiệu quả. Vì vậy các doanh
nghiệp này rất cần một tổ chức đứng ra bảo lãnh cho họ để họ ký kết hoạt động thực
hiện dự án. Ngân hàng chính là người bảo lãnh tốt cho các doanh nghiệp bởi NHTM
có tiềm lực về vốn và uy tín. Mặt khác, NHTM có thể tư vấn cung cấp tiền tệ,
nghiệp vụ giúp cho doanh nghiệp quản lý tốt dự án. Hiện nay, việc NHTM bảo lãnh
cho các doanh nghiệp là khách hàng của mình ngày càng phổ biến, điều đó mang lại
lợi ích cho cả hai bên: NHTM và doanh nghiệp.
Ngoài ra NHTM còn có nhiều chức năng khác như: Dịch vụ uỷ thác, bảo đảm an
toàn vật có giá…
1.3 Các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại.
1.3.1 Nghiệp vụ nợ
hoạt động của NHTM dựa chủ yếu trên nguồn vốn huy động còn nguồn vốn tự có
của NHTM là rất nhỏ, nó chỉ là tấm đệm để hạn chế những rủi ro. Số vốn huy động
tại các NHTM chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác nhau như: lãi suất, tình
hình kinh tế xã hội, cách thức gửi tiền và trả lãi, phong tục tập quán, địa điểm và
thái độ phục vụ của ngân hàng..
Các hình thức huy động bao gồm:
- Tiền gửi thanh toán: Đây là loại tiền gửi không kỳ hạn, có hoặc không có lãi
suất. Mục đích của người gửi tiền là để hưởng các dịch vụ của ngân hàng phục vụ
cho quá trình thanh toán của mình. Loại tiền gửi này tuy có chi phí thấp nhưng chứa
đựng rủi ro cao, do người gửi có thể rút bất kỳ lúc nào. Tỉ lệ tiền gửi thanh toán ở
Việt Nam còn thấp rất nhiều so với tỷ lệ chung trên thế giới vì người dân nước ta
vẫn giữ thói quen sử dụng tiền mặt trong lưu thông.
- Tiền gửi tiết kiệm: Mục đích của loại tiền gửi này là để hưởng l•i suất. Có
hai loại tiền gửi tiết kiệm là: Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và không có kỳ hạn. Các
kỳ hạn do sự thoả thuận giữa khách hàng và ngân hàng.
Ngoài hai loại tiền gửi chủ yếu trên ngân hàng còn thực hiện một số hình thức tiền
gửi khác và ngân hàng không chỉ huy động vốn bằng tiền gửi mà còn có nhiều hình
thức huy động vốn khác như phát hành chứng khoán, vay trên thị trường tiền tệ, vay
từ tổ chức tín dụng khác, vay từ NHTW… Tuy nhiên, các hình thức này không
thường xuyên mà chỉ thực hiện trong những trường hợp nhất định, bởi chứa đựng
trong đó ràng buộc và điều kiện.
1.3.2 Nghiệp vụ có.
Đây là hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng. Ngân hàng dùng vốn huy động được
cùng với vốn tự có để thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình nhằm tạo ra
nguồn thu nhập. Nghiệp vụ có của ngân hàng thể hiện ở các hoạt động sau:
- Hoạt động ngân quỹ: Mỗi ngân hàng đều phải giữ lại một khoản tiền tại két
của Ngân hàng để phòng những trường hợp rút tiền của người gửi, tránh được
những rủi ro về thanh toán. Nên có thể nói hoạt động này đảm bảo cho khả năng
thanh toán thường xuyên của ngân hàng. Khoản tiền bảo đảm khả năng thanh toán
của ngân hàng có thể là tiền tại két, tiền gửi NHTW, chứng khoán, tiền mặt trong
quá trình thu. Đó là những tài sản có tính thanh khoản cao. Những tài sản này không
sinh lời hoặc sinh lời thấp. Vì vậy, ngân hàng phải điều chỉnh lượng dự trữ này sao
cho hợp lý để đảm bảo khả năng sinh lời cao, vừa đảm bảo khả năng thanh toán tốt.
- Hoạt động cho vay: Đây là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của ngân
hàng, nó thường đem lại cho ngân hàng khoản lợi nhuận cao tới 60 – 70%. Mặt
khác, đây cũng là hoạt động nhạy cảm, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Có thể nói hoạt động
tín dụng có mức độ rủi ro cao nhất, do đó để thực hiện có hiệu quả hoạt động này
các ngân hàng phải có những biện pháp để hạn chế những rủi ro bằng cách quản lý
chặt chẽ các khoản cho vay.
- Hoạt động thuê mua: Đây là hoạt động còn khá mới mẽ ở Việt Nam. Đây là
hình thức cung cấp tài chính cho khách hàng dưới hình thức thuê. Hoạt động này
cũng là một hình thức cấp tín dụng, nhưng nó có điểm khác biệt là quyền sở hữu
vẫn thuộc về bên cho thuê. Chỉ đến khi kết thúc hợp đồng. Người thuê có quyền
mua lại tài sản có ở mức giá thoả thuận giữa hai bên, ấn định từ khi hợp đồng này.
- Hoạt động đầu tư trực tiếp: Bên cạnh các hình thức đầu tư gián tiếp bằng
cách cấp tín dụng ở trên, ngân hàng còn tham gia đầu tư trực tiếp vào một công
trình…Hoạt động này một mặt tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng, mặt khác giúp bổ trợ
cho các hoạt động khác bởi đa dạng hoá giảm rủi ro. Cùng với việc nắm giữ chứng
khoán, ngân hàng có thể đảm bảo cho khả năng thanh toán của tài sản có sinh lời.
1.3.3 Nghiệp vụ trung gian.
Ngoài 2 nghiệp vụ trên, ngân hàng còn thực hiện cung cấp các dịch vụ khác cho
khách hàng nhằm thu phí và khuyến khích khách hàng đến với ngân hàng. Ngày
nay, hoạt động này ngày càng mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng. Các hoạt
động trung gian bao gồm:
- Dịch vụ thanh toán và cung cấp phương tiện thanh toán: Ngân hàng đứng ra
làm trung gian thanh toán hộ cho khách hàng và phát hành các phương tiện nhằm
phục vụ cho thanh toán như: UNC, UNT, Sec, L/C…
- Dịch vụ môi giới: Ngân hàng tổ chức mua bán, lưu ký, bảo quản chứng
khoán cho ngân hàng. Tại Việt Nam, các ngân hàng thành lập ra các công ty chứng
khoán để thực hiện hoạt động này.
- Dịch vụ ngân quỹ: Ngày nay, khi mà thị trường không dùng tiền mặt thì hoạt
động này ngày càng phát triển rộng. Ngân hàng đứng ra thu hộ và phát tiền mặt cho
khách hàng.
- Dịch vụ chuyển tiền: Với sự trợ giúp của khoa học kỹ thuật thì dịch vụ này
ngày càng được nhiều người sử dụng.
- Dịch vụ bảo lãnh: Bằng uy tín và khả năng tổ chức của mình, ngân hàng
đứng ra bảo lãnh cho các công ty phát hành chứng khoán, bảo lãnh vay vốn, bảo
lãnh thực hiện hợp đồng…
- Dịch vụ tư vấn: Cung cấp thông tin và hỗ trợ về mặt chuyên môn cho khách
hàng.
- Dịch vụ bảo quản.
2. Lý luận chung về tín dụng
2.1. Khái niệm tín dụng
Danh từ tín dụng dùng để chỉ một hành vi kinh tế rất phức tạp như: bán chịu hàng
hoá, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, ký thác, phát hành giấy bạc. Trong mỗi một
hành vi tín dụng vừa nói, chúng ta thấy hai bên cam kết với nhau như sau:
- Một bên trao ngay một số tài hoá hay tiền bạc;
- Còn bên kia cam kết sẽ hoàn lại những đối khoản của tài hoá đó trong một thời
gian nhất định và theo một số điều kiện nào đó.
Trong quan hệ giao dịch trên thể hiện các nội dung:
Trái chủ hay còn gọi là người cho vay chuyển giao cho người thụ trái hay còn ngọi
là người đi vay một lượng giá trị nhất định. Giá trị này có thể dưới hình thái giá trị
hoặc dưới hình thái hiện vật như hàng hoá, máy móc, thiết bị bất động sản.
Người thụ trái hay là người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời một thời gian nhất
định, sau khi hết thời hạn sử dụng theo thoã thuận, người đi vay phải hoàn trả cho
người cho vay.
Giá trị hoàn trả thường lớn hơn giá trị cho vay hay nói cách khác người đi vay phải
trả thêm phần lợi tức. Thước đo phần lợi tức này là giá trị tài hoá hoặc tiền tệ và lãi
suất mà hai bên thoả thuận. Người cho vay phải tuân thủ nguyên tắc : L•i suất cho
vay phải chứa đựng các yếu tố như lạm phát, rủi ro và chi phí cơ hội. Người cho vay
phải chú ý đến giá trị thời gian của tiền.
Như vậy: Tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên
chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định,
đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả phần tài sản đã mượn cộng
thêm một phần lợi tức theo thời hạn đã thoả thuận.
Từ tín dụng xuất phát từ tiếng la tinh -credittum- có nghĩa là sự tín nhiệm. Trong
giới tài chính, một người được xem là có uy tín khi người khác tin tưởng và sẳn
sàng ký thác tài sản hoặc tiền bạc cho anh ta. Tín dụng là sự cho vay có hứa hẹn
thời tgian hoàn trả. Sự hứa hẹn biểu hiện mức độ tín nhiệm của người cho vay, yếu
tố tín nhiệm là yếu tố bao trùm trong hoạt động tín dụng, là điều kiện cần cho quan
hệ tín dụng phát sinh.
Do nhu cầu phát triển và đi lên của xã hội loài người mà quan hệ tín dụng đã hình
thành rất sớm. Quan hệ tín dụng đầu tiên trong lịch sử là tín dụng nặng lãi, quan hệ
tín dụng này hình thành từ đầu chế độ nô lệ và thậm chí còn tồn tại đến ngày nay.
Hình thức tín dụng này được coi là phương pháp tích luỹ nguyên thuỷ, là công cụ
đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn, tạo điều kiện cho phương thức sản
xuất mới ra đời ra đời. Quan hệ tín dụng phát triển hết sức đa dạng và phức tạp bắt
đầu từ khi chế độ chủ nghĩa tư bản ra đời. Cho đến ngày nay các quan hệ tín dụng
đã phát triển toàn diện. Trong thực tiễn thường có các chủ thể tham gia vào quan hệ
tín dụng cụ thể, ví dụ:
Quan hệ tín dụng giữa nhà nước với các doanh nghiệp và công chúng thể hiện
dưới hình thức nhà nước phát hành các giấy nợ như công trái, trái phiếu đô thị, tín
phiếu kho bạc.
Quan hệ giữa các doanh nghiệp với nhau hay còn gọi là tín dụng thương mại thể
hiện dưới hình thức bán chịu hàng hoá.
Quan hệ tín dụng giữa các công ty và công chúng thể hiện dưới hình thức các công
ty phát hành các trái phiếu, hoặc bán hàng trả góp.
Quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng, các tổ chức tài chính phi ngân hàng với các
doanh nghiệp và công chúng, thể hiện dưới hình thức nhận tiền gửi của khách hàng,
cho khách hàng vay, tài trợ thuê mua...
Quan hệ tín dụng giữa nhà nước và các tổ chức tài chính quốc tế, chính phủ các
nước thể hiện dưới hình thức vay nợ.
Với chức năng kinh doanh tiền tệ, các ngân hàng thương mại tham gia vào quan hệ
tín dụng với hai tư cách. Ngân hàng đóng vai trò thụ trái và hành vi này được gọi là
đi vay bao gồm nhận tiền gửi của khách hàng, phát hành trái phiếu để vay vốn trong
xã hội, vay vốn của ngân hàng trung ương và các ngân hàng khác. Ngân hàng đóng
vai trò trái chủ, hành vi này được gọi là cho vay. Vì tính chất phức tạp của hoạt
động cho vay vì thế khi nói đến tín dụng người ta thường đề cập đến hoạt động cho
vay mà bỏ quên mặt thứ hai đó là đi vay.
Quan hệ tín dụng mà ngân hàng đóng vai trò trái chủ gọi là tín dụng ngân hàng. Tín
dụng ngân hàng là một trong ba nghiệp vụ cơ bản khi hình thành nên các ngân hàng
thương mại và đây cũng là nguồn thu chủ yếu của các ngân hàng. Sự phù hợp về
nhu cầu của hai nhà tư bản ngân hàng và nhà tư bản sản xuất kinh doanh hàng hoá
đã dẫn đến sự ra đời mối quan hệ tín dụng này. Do chuyên môn hoá trong kinh
doanh và do đặc điểm của hàng hoá tiền tệ mà hình thức tín dụng này ngày càng
phát triển và trở thành hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế hàng hoá. Tín
dụng ngân hàng đã khắc phục được những hình thức tín dụng trước đó và thực sự
trở thành một yếu tố quan trọng thúc đẩy sản xuất phát triển.
Như vậy:Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn về vốn tiền tệ giữa ngân hàng
và các đơn vị kinh tế, các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và các tầng lớp dân
cư theo nguyên tắc có hoàn trả.
2.2. Phân loại tín dụng ngân hàng
2.2.1. Căn cứ vào mục đích
Dựa vào căn cứ này cho vay được chia ra làm các loại sau:
Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất
động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và
dịch vụ.
Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu
động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Cho vay tiêu dùng là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm
các vật dụng đắt tiền, ngày nay ngân hàng còn thực hiện các khoản cho vay để trang
trải các chi phí thông thường của đơì sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
Thuê mua và các loại khác.
2.2.2 . Căn cứ vào thời hạn tín dụng.
Tín dụng ngắn hạn: Loại tín dụng này có thời hạn dưới 12 tháng và được sử dụng
để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn
hạn của cá nhân. Đối với ngân hàng thương mại tín dụng ngân hàng chiếm tỉ trọng
cao nhất.
Tín dụng trung hạn: Theo quy định hiện nay của ngân hàng nhà nước Việt Nam,
tín dụng trung hạn có thời hạn từ 1 năm đến 3 năm, còn đối với các ngân hàng
thương mại trên thế giới loại tín dụng có thời hạn đến 7 năm. Tín dụng trung hạn
chủ yếu được đầu tư để mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công
nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời
gian thu hồi vốn nhanh.
Tín dụng dài hạn: Theo quy định ở Việt Nam loại tín dụng có thời hạn trên 3 năm,
còn trên thế giới loại tín dụng này có thời hạn trên 7 năm.Tín dụng dài hạn là loại
tín dựng cung cấp để đáp ứng nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị,
phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dung các xí nghiệp mới. Nghiệp vụ truyền
thống của các ngân hàng thương mại là cho vay ngắn hạn, nhưng từ những năm 70
trở lại đây các ngân hàng thương mại đã chuyển sang kinh doanh tổng hợp và một
trong những nội dung đổi mới đó là nâng cao tỉ trọng cho vay trung và dài .
2.2.3. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng.
Theo căn cứ này tín dụng được chia làm hai loại:
Cho vay không bảo đảm là loại cho vay không cần tài sản thế chấp, cầm cố hoặc
sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân
khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả
năng tài chính mạnh, quản trị tài chính hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng
dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ
sung.
Cho vay có bảo đảm là loại cho vay được ngân hàng cung ứng phải có tài sản thế
chấp hoặc cầm cố hoặc có sự bảo l•nh của người thứ ba. Đối với khách hàng không
có uy tín cao với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có bảo đảm. Sự bảo đảm này
là căn cứ pháp lý để ngân hàng có một nguồn thu thứ hai, bổ sung nguồn thu nợ thứ
nhất thiếu chắc chắn. Đồng thời tài sản thế chấp này bảo đảm khách hàng sử dụng
vốn đúng mục đích cam kết.
2.2.4 . Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng.
Theo căn cứ này tín dụng ngân hàng được chia làm hai loại:
Tín dụng bằng tiền là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được cung cấp
bằng tiền. Đây là loại tín dụng chủ yếu của các ngân hàng và việc thực hiện bằng
các kỷ thuật khác nhau như: Tín dụng ứng trước, thấu chi, tín dụng thời vụ, tín dụng
trả góp...
Tín dụng bằng tài sản là hình thức cho vay bằng tài sản rất phổ biến và đa dạng,
riêng đối với các ngân hàng cho vay bằng tài sản được áp dụng phổ biến đó là tài
trợ thuê mua. Theo phương thức cho vay này ngân hàng hoặc các công ty thuê mua(
công ty con của ngân hàng)cung cấp trực tiếp tài sản cho người đi vay được gọi là
người đi thuê và theo định kỳ người đi thuê hoàn trả nợ vay bao gồm cả vốn gốc và
lãi.
2.2.5. Căn cứ vào xuất xứ tín dụng.
Dựa vào căn cứ này cho vay chia làm hai loại:
Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho những người có nhu cầu, đồng
thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các
khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Các ngân
hàng thương mại cho vay gián tiếp theo các loại sau: Chiết khấu thương mại, mua
các phiếu bán hàng, mua các khoản nợ của doanh nghiệp.. Ngoài các loại cho vay
trên đây, ngân hàng còn thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh cho khách hàng bằng uy
tín của mình. Đối với nghiệp vụ này ngân hàng không phải cung cấp tiền, nhưng khi
người bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng thì người bảo lãnh
phải thay thế để thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Chính vì lý do trên đây, mà người ta
gọi hành vi cam kết bảo lãnh của ngân hàng là tín dụng bằng chữ ký. Tín dụng bằng
chữ ký bao gồm các loại: Tín dụng chứng từ, bảo lãnh của ngân hàng..
3. Tín dụng ngắn hạn.
3.1. Khái niệm.
Tín dụng ngắn hạn là những khoản cho vay có thời hạn nhỏ hơn một năm. NHTM
là nhà cung ứng phần lớn các khoản vay ngắn hạn cho các doanh nghiệp. Các khoản
vay này ít rủi ro về khả năng thanh toán cũng như về lãi suất so với vay trung và dài
hạn. Những khoản cho vay ngắn hạn thường được sử dụng rộng rãi trong việc tài trợ
mang tính thời vụ về vốn luân chuyển và tài trợ tạm thời cho các khoản chi phí sản
xuất.
3.2. Phân loại tín dụng ngắn hạn.
Nếu xét theo cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp, thì đây là tín dụng tài trợ vốn lưu
động. Nếu như vốn lưu động thường xuyên của doanh nghiệp không đủ trang trải về
loại vốn này, thì doanh nghiệp đó phải xin vay tín dụng ngân hàng. Nhu cầu về vốn
lưu động cao hay thấp tuỳ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh và khả năng
quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp. Nhưng dù nhu cầu cao hay thấp, doanh
nghiệp luôn sử dụng tín dụng vốn lưu động với tư cách là các khoản vay ít hay
nhiều thường xuyên theo cơ cấu tài chính của doanh nghiệp.
Dưới góc độ kỹ thuật tín dụng, Ngân hàng thương mại thực hiện cho vay ngắn hạn
theo các loại hình phổ biến sau đây:
3.2.1. Tín dụng ứng trước.
Các tín dụng ứng trước được gọi bằng các từ ngữ khác nhau. Các tên gọi của chúng
thường thể hiện những thực tế rất gần gũi như: Mở tín dụng khoản, thấu chi, tín
dụng vãng lai(hay còn gọi là cho vay luân chuyển)..Nhìn chung, các khoản tín dụng
ứng trước chủ yếu theo nhu cầu toàn bộ tài sản lưu động, nghĩa là không thực hiện
một tài sản xác định nào. Nói chung không có một đảm bảo riêng.
Tín dụng ứng trước bao gồm các loại sau đây:
3.2.1.1. Tín dụng thế chấp hoặc nghiệp vụ mở tín dụng khoản.
Loại tín dụng này là một thể thức cho vay được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín
dụng trong đó khách hàng được sử dụng một mức cho vay trong một thời hạn nhất
định.
Trong hình thức này, ngân hàng cho khách hàng vay bằng cách mở cho họ một tín
dụng khoản. Khi mở tài khoản như vậy khách hàng không phải bỏ tiền vào đấy, mà
trái lại có thể lấy tiền ra, tiền đó là tiền ứng trước của ngân hàng vì vậy nghiệp vụ
này còn gọi là nghiệp vụ ứng trước. Khách hàng có thể sử dụng tài khoản này để
phát hành séc chi trả hoặc có thể sử dụng cho nhiều mục đích khác.
Khi thực hiện một khoản tín dụng ứng trước tuỳ vào sự nhìn nhân của ngân hàng
đối với khách hàng mà có thể ngân hang đưa ra một trong hai hình thức sau:
Tín dụng ứng trước không bảo đảm:là việc cấp tín dụng không cần tài sản thế chấp,
cầm cố hoặc bảo lãnh, mà dựa trên cơ sở uy tín của khách hàng.
Trước khi cho vay ngân hàng phải xem xét, đánh giá, phân tích. Đánh giá khách
hàng dựa vào hang loạt chỉ tiêu như mức vốn, lợi nhuận hàng năm, uy tín của sản
phẩm trên thị trường, khả năng tiêu thụ sản phẩm, trình độ quản lý.
Tín dụng ứng trước có bảo đảm: là loại tín dụng được cấp phát trên cơ sở có tài sản
thế chấp(do đó có tên gọi là tín dụng thế chấp), cầm cố hay bảo l•nh của một hay
nhiều người khác.
3.2.1.2 . Thấu chi.
Thấu chi là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt trên cơ sở hợp đồng tín dụng
hay còn gọi là tín dụng hạn mức, được thực hiện bằng cách cho phép khách hàng
được sử dụng kết số thiếu(dư nợ) trong một giới hạn nhất định. Thấu chi là kỹ thuật
cho vay đặc biềt mà trong đó xí nghiệp được sử dụng vốn một cách linh hoạt, các
đảm bảo nếu có chỉ là yếu tố phụ, vì số nợ thường xuyên biến động không thể thực
hiện các đảm bảo trực tiếp. Thấu chi được xem là loại tín dụng không bảo chứng.
Thấu chi là một khoản tín dụng tổng hợp mà doanh nghiệp vay khi nhu cầu về vốn
lưu động của nó vượt khả năng của vốn lưu động. Khi cấp tín dụng thấu chi ngân
hàng không đòi hỏi việc nghiên cứu một nguyên nhân rất chính xác về sự phát sinh
và tìm sự hợp lý của nó trong cơ cấu tài chính của doanh nghiệp.
3.2.1.3. Tín dụng vãng lai.
Tín dụng vãng lai chưa được giới thiệu đầy đủ trên sách báo Việt Nam. Có rất nhiều
ý kiến khác nhau và đang còn có nhiều sự nhầm lẫn. Do vậy việc quy tụ những
thông tin, những tri thức về nội dung chủ yếu của tín dụng vãng lai, để hiểu thêm
những ưu điểm của nó trong nền kinh tế thị trường. Từ đó rút ra những thích ứng
với điều kiện Việt Nam đang trong quá trình đổi mới và phát triển đa dạng các loại
tín dụng của NHTM.
Tín dụng vãng lai được xem là hình thức tín dụng cổ điển nhất. Tín dụng vãng lai là
tín dụng ngân hàng do cơ quan tín dụng cấp cho khách hàng của mình : bằng bản tệ
hoặc ngoại tệ và theo nhu cầu khách hàng có thể được sử dụng với số lượng khác
nhau nhưng không vượt quá số tiền quy định trong hợp đồng. Việc tính số dư các
khoản nộp vào và rút ra khỏi tài khoản của khách hàng được tiến hành sau những
khoảng thời gian quy định trong hợp đồng, đồng thời với việc thanh toán các khoản
chi trả tín dụng trên tài khoản thống nhất của khách hàng .
3.2.1.4. Tín dụng thời vụ.
Hoạt động thời vụ là hoạt động sản xuất được thực hiện ở một thời điểm nào đó
trong năm trong khi việc tiêu thụ lại được thực hiện tại một thời điểm khác hoặc
ngược lại việc sản xuất được rải đêù trong cả năm để tránh chi phí đột biến và dàn
đều tổng chi phí trong khi việc tiêu thụ lại được tiến hành trong một thời gian rất
ngắn. Trong các trường hợp này doanh doanh nghiệp có nhu cầu thời vụ về tài trợ
vốn lưu động và nó được thoả mản bằng tín dụng thời vụ.
Doanh nghiệp yêu cầu ngân hàng phục vụ mình giúp đỡ tài chính ở các thời vụ. Dựa
vào điều tra nghiên cứu của mình, ngân hàng sẽ có kế hoạch tài trợ thời vụ cụ thể
của tong tháng, các nhu cầu và nguồn vốn dự kiến. Nói cách khác, khi có nhu cầu
vượt quá nguồn vốn trong một thời kỳ nào đó người ta đưa ra nhu cầu đặc biệt về
thời vụ mà nếu như mọi việc diễn ra tốt đẹp, sẽ được san bằng ở thời kỳ bán hàng.
Vốn lưu động phải bù đắp một phần nhu cầu này. Một doanh nghiệp có khả năng
suốt năm đương đầu với thời kỳ mùa vụ mà không cần tới tín dụng bên ngoài, thì
chắc chắn là một doanh nghiệp quản lý chưa tốt nguồn vốn, bởi vì nó chứng tỏ việc
không tận dụng số tư bản thường có trong một thời kỳ của năm và mức sinh lợi của
vốn này do đó cũng phải gánh chịu những hậu quả.
3.2.2. Cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền.
3.2.2.1. Chiết khấu thương phiếu.
Thương phiếu hay kỳ phiếu thương mại là một giấy nợ phát sinh trong quan hệ
thương mại và người hưởng thụ một trái quyền đối với người thụ trái khi giấy nợ
đến hạn. Thương phiếu là công cụ của tín dụng thương mại.
Từ thời Trung cổ các thương phiếu đã trở thành phương tiện quan trong trong kinh
doanh ngân hàng. Ngày nay, có rất nhiều nghiệp vụ ngân hàng được thực hiện thông
qua việc chiết khấu thương phiếu:
-Ngân hàng tham gia vào việc thanh toán các phiếu khoán khi các thương phiếu đó
được chiết khấu tại ngân hàng của họ.
-Ngân hàng cũng thực hiện việc thu ngân các phiếu khoán giúp khách hàng.
Ngoài thanh toán và thực hiên thu ngân hộ khách hàng, ngân hàng có thể giữ các
phiếu khoán làm vật bảo đảm. Nhưng thông thường thì ngân hàng chiết khấu
thương các phiếu.
-Chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ cổ điển của ngân hàng, ra đời rất sớm và m•i
đến ngày nay vẫn được các ngân hàng áp dụng một cách phổ biến. Đây là một
nghiệp vụ ít rủi ro và không làm đóng băng vốn của ngân hàng. Thời hạn cho vay
ngắn tối đa là 90 ngày, điều này nâng cao tính thanh khoản trong quản lý tài sản có
của ngân hàng. Mặt khác hai hình thức cơ bản của thương phiếu là hối phiếu và lệnh
phiếu được lập trên cơ sở hàng hoá đã được chuyển giao cho người mua. Đây chính
là tiền đề để người mua thực hiện kinh doanh của mình, để có khả năng hoàn trả
cho ngân hàng. Lại nữa nghiệp vụ chiết khấu lại ở NHTW khi ngân hàng ngặp khó
khăn về thanh khoản. Mặc dù chiết khấu thương phiếu mang lại nhiều lợi ích cho
khách hàng. Tuy nhiên vẫn có rủi ro xảy ra. Vì vậy trước khi chiết khấu thương
phiếu, ngân hàng phải xem xét kỷ khách hàng đến chiết khấu, xem xét kỷ các hối
phiếu và mối quan hệ của những người có liên quan đến hối phiếu.
Như vậy: Chiết khấu thương phiếu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, được thực
hiện dưới hình thức khách hàng chuyển giao quyền sở hữu thương phiếu để đổi lấy
một số tiền bằng mệnh giá trái phiếu trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí.
Ngoài ra tín dụng dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền còn gồm các loại:
Nghiệp vụ huy động các trái quyền thương mại, bao thanh toán hay mua uỷ nhiệm
thu..
3.2.3. Tín dụng bằng chữ ký của ngân hàng.
Loại tín dụng này thực chất là một cam kết lãnh nợ do ngân hàng đưa ra bằng việc
phát hành các chứng thư bảo lãnh hoặc bảo chứng, cam kết trả thay cho người đi
vay nếu người đi vay không trả được nợ. Có trường hợp đó là sự xác nhận khoản
tín dụng đã cấp cho một thời hạn nhất định. Khi thực hiện cho vay qua cam kết
bằng chữ ký, ngân hàng không phải xuất quỹ đễ cho khách hàng sử dụng một khoản
tiền nhất định, mà chỉ đưa ra một cam kết bảo lãnh cho con nợ đối với chủ nợ. Như
vậy, chỉ khi nào con nợ không trả được nợ thì ngân hàng mới trả nợ hộ. Thông
thường để thực hiện nghiệp vụ này thì ngân hàng phải lập một quỹ bảo lãnh theo
một tỷ lệ so với vốn pháp định. Hiện nay ở Việt Nam số tiền bảo lãnh tín theo tỷ lệ
phần trăm trên tổng giá trị bảo lãnh.
3.3. Vai trò của tín dụng ngắn hạn.
Tín dụng đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi chúng ta.
Tín dụng đã góp phần làm ổn định và phát triển sản xuất của nền kinh tế, các tổ
chức và mỗi cá nhân. Cũng như các loại tín dụng khác, tín dụng ngắn hạn có vai trò
cực kỳ quan trọng. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam là một nước trong giai đoạn
đang phát triển thì tín dụng ngắn hạn càng có vai trò quan trọng. Nó thể hiện:
3.3.1. Đối với nền kinh tến
Ngân hàng trong nền kinh tế với tư cách là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh
vực tiền tệ. Với tư cách là một trung gian tài chính, nó là kênh chuyển vốn từ những
nơi thừa vốn đến những nơi thiếu vốn và hoạt động hiệu quả trong nền kinh tế. Các
kênh truyền dẫn vốn có thể qua thị trường tài chính đó là các nghiệp vụ tín dụng
trung và dài hạn, nhưng nó đã bị cạnh tranh mạnh mãnh mẽ của các tổ chức tài
chính phi ngân hàng tham gia vào thị trường này như: Công ty Bảo hiểm, các quỹ
đầu tư, công ty tài chính.. Hoặc là thị trường tiền tệ là kênh dẫn và huy động những
ngồn vốn và các giấy tờ có giá ngắn hạn. Thị trường này hoạt động rất linh hoạt và
cung cấp một nguồn một nguồn vốn rất lớn cho nền kinh tế. Do đó tín dụng ngắn
hạn ngày càng phát triển mạnh mẽ.
3.3.2. Đối với các doanh nghiệp.
Tín dụng ngân hàng là nguồn bổ sung vốn lưu động để bảo đảm hoạt động kinh
doanh được liên tục
Không có sự ăn khớp về mặt thời gian giữa các khoản thu và các khoản chi của một
doanh nghiệp nên tại một thời điểm nhất định, trong nền kinh tế có những thời điểm
trong nền kinh tế có những doanh nghiệp thiếu vốn tạm thời và cần bổ sung ngay để
đảm bảo tính sản xuất được liên tục. Đối với các doanh nghiệp sản xuất mang tính
thời vụ như các doanh nghiệp bán lẻ, chế biến thực phẩm, các công ty chế biến nông
sản, các doanh nghiệp xây lắp..hoặc các doanh nghiệp có vòng quay vốn lưu động
chậm thì các khoản tín dụng từ ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc giúp cho
quá trình sản xuất không bị gián đoạn. Các khoản tín dụng ngắn hạn có ý nghĩa lớn
đối với các doanh nghiệp khi xuất hiện cơ hội kinh doanh trên thị trường, giúp
doanh nghiệp tận dụng được thời cơ phát triển sản xuất.
Tín dụng ngắn hạn tạo áp lực buộc các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả.
Một trong những nguyên tắc cơ bản là vay có hoàn trả ngốc lẫn lãi sau một thời
gian nhất định. Do vậy có thể trả nợ đúng hạn cho ngân hàng và tạo lập được uy tín
trong việc thực hiện hợp đồng tín dụng, các doanh nghiệp phải hoạt động có hiệu
quả để trả nợ cho ngân hàng.
Như vậy, tín dụng ngân hàng cũng là một yếu tố kích thích sản xuất của doanh
nghiệp, thúc đẩy đổi mới công nghệ và cải tiến mẫu mã sản phẩm để có thể rút ngắn
chu kỳ sản xuất, đưa nhanh sản phẩm vào lưu thông, tạo lập chỗ đứng trên thị
trường.
Đối với các doanh nghiệp lớn, công việc sản xuất đang phát triển thì phần lớn vốn
lưu động đều vay ngân hàng. Nhiều doanh nghiệp còn ký hợp đồng ứng trước để có
thể linh hoạt trong việc vay vốn, đáp ứng các cơ hội kinh doanh. Do tính chất của
tín dụng ứng trước là doanh nghiệp phải trả lãi kể cả trên phần dư nợ vay chưa sử
dụng đến. Do đó bắt buộc các doanh nghiệp phải quay vốn nhanh và tính toán hoạt
động kinh doanh có hiệu quả, mang lại lợi nhuận cho cả doanh nghiệp và cả cho
ngân hàng.
Nói tóm lại, tín dụng ngắn hạn không chỉ giúp các doanh nghiệp có được nguồn bổ
sung nguồn vốn lưu động mà còn là động lực giúp các doanh nghiệp làm ăn có hiệu
quả, trước là để trả các khoản nợ vay và sau là để phát triển doanh nghiệp.
3.3.3. Đối với ngân hàng.
Hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng ngắn hạn nói riêng đã đảm bảo nguồn thu
chủ yếu cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đó là công cụ để tạo nên lợi
nhuận và phòng chống rủi ro của ngân hàng. Trong quá trình hoạt động của các
ngân hàng, các nhà quản trị ngân hàng phải quan tâm đến các vấn đề : Phải tạo được
nguồn thu bù đắp được các chi phí( chi phí huy động vốn, chi phí trả lương, chi phí
quản lý... Mặt khác phải đảm bảo khả năng thanh khoản của ngân hàng. Tín dụng
ngắn hạn có thể giúp các nhà quản trị giải quyết vấn đề này.
3.4. Các quy định trong hoạt động tín dụng ngắn hạn.
3.4.1. Nguyên tắc tín dụng:
Khách hàng vay vốn của tổ chức tín dụng phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
-Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
-Phải hoàn trả nơ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín
dụng.
-Việc đảm bảo tiền vay phải thực hiện đúng quy định của chính phủ và ngân hàng
nhà nước.
3.4.2. Điều kiện vay vốn.
Ngân hàng sẽ xem xét và quyết định cho khách hàng vay khi khách hàng có đủ các
điều kiện:
*Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu quy định của pháp
luật.
*Có khả năng đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. Cụ thể :
-Đối với pháp nhân phải có vốn chủ sở hữu tham gia vào quá trình sản xuất kinh
doanh. Đối với hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân, cá nhân, công ty hợp
danh, mức vốn tự có tham gia trực tiếp vào phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ,
đời sống tối thiểu bằng 20% nhu cầu vốn thực hiện phương án.
-Sản xuất kinh doanh có lãi hoặc không bị lỗ, nếu bị lỗ thì phải có dự án khả thi
khắc phục hoặc cơ quan có thẩm quyền xác nhận bù lỗ.
-Có tình hình tài chính lành mạnh.
-Khách hàng phải mua bảo hiểm tài sản là đối tượng vay vốn.
*Mục đích sử dụng vốn hợp pháp.
*Có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh khả thi.
*Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay của NHNN.
3.4.3. Đối tượng cho vay.
*Giá trị vầt tư hàng hoá trong các khâu dự trữ, lưu thông và các chi phí cấu thành
giá mua hoặc giá thành sản phẩm, các khoản chi phí khác để doanh nghiệp tiến hành
phương án sản xuất kinh doanh.
*Số tiền thuế xuất nhập khẩu khách hàng phải nộp để làm thủ tục xuất khẩu mà giá
trị lô hàng xuất khẩu đó tổ chức tín dụng có tham gia cho vay. Ngân hàng không
cho vay ngắn hạn để nộp khấu khao, nộp thuế và phần lãi định mức(đối với các xí
nghiệp xây lắp). Những vầt tư hàng hoá là những đối tượng vay vốn có khả năng
luân chuyển. Ngân hàng không cho vay vốn để mua vật tư, hàng hoá ứ đọng hoặc
để thực hiện những khối lượng thi công ngoài kế hoạch vốn đầu tư của Nhà Nước
đã ghi, ngoài thiết kế dự án hoặc nguồn vốn chưa rõ nguồn vốn đầu tư.
3.4.4. Thời hạn cho vay.
Thời hạn cho vay được xác định phù hợp với các chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả
năng trả nợ của khách hàng, nhưng tối đa không quá 12 tháng.
3.4.5. Lãi suất cho vay.
Mức lãi suất cho vay do tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận phù hợp với quy
định của NHNN về lãi suất cho vay tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng. Tổ chức
tín dụng có trách nhiệm công bố công khai các mức l•i suất cho vay cho khách hàng
biết. Tuỳ các mức độ quan hệ của ngân hàng và khách hàng mà có các mức độ ưu
tiên về l•i suất khác nhau. Nếu khoản vay quá hạn trả nợ thì phải áp dụng l•i suất
quá hạn.
Phương pháp xác định lxai suất cho vay được xác định trước khi cho vay dựa trên
cơ sở lãi suất cơ bản.
Tại Việt Nam lãi suất cho vay ngắn hạn do tổng giám đốc tổ chức tín dụng ấn định
trong phạm vi khung lãi suất do NHNN ấn định trong từng thời kỳ.
3.4.6. Mức cho vay:
Tổ chức tín dụng căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng, tỷ lệ cho vay tối đa
so với giá trị tài sản làm bảo đảm tiền vay, khả năng trả nợ của khách hàng và khả
năng nguồn vốn của mình để quyết định mức cho vay nhưng không được vượt quá
mức quy định tại điều 79 của Luật các tổ chức tín dụng.
Ngân hàng xây dựng mức cho vay đối với tong doanh nghiệp trên cơ sở vốn vay chỉ
bổ sung cho vốn lưu động thiếu, sau khi doanh nghiệp đã tận dụng hết vốn tự có.
Các nguồn vốn khác bao gồm cả vốn được các chủ đầu tư ứng trước khi doanh
nghiệp trúng thầu.
Đối với những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có nguồn thu ổn định, tình hình
tài chính lành mạnh, có quan hệ vay vốn thường xuyên và có tín nhiệm đối với
khách hàng, ngân hàng có thể cho vay theo hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng là
giới hạn dư nợ tối đa mà ngân hàng cam kết cho khách hàng vay trong một thời hạn
nhất định và được xác định như sau:
Mức vốn vay quý = Chi phí cần thiết cho quá trình hoạt động kinh doanh quý kế
hoạch.
- Vốn tự có và coi như tự có - Các khoản
Huy động khác.
- Vốn ứng trước của chủ đầu tư
Vòng quay VLĐ quý
1. Chi phí cần thiết để sản xuất kinh doanh quý, kỳ hoặc thời vụ kế hoạch là giá trị
sản lượng thực hiện trong quý, kỳ hoặc thời vụ chuẩn bị làm loại trừ đi các khoản
khấu hao, thuế, lãi định mức và các khoản không thuộc đối tượng cho vay khác.
2. Là vốn lưu động tự có của khách hàng.
Ngoài ra hạn mức tín dụng dựa trên cơ sở:
-mức dư nợ cao nhất
-mức cho vay tối đa theo quy định của pháp luật
-mức cho vay tối đa theo quyết định của chính sách tín dụng mỗi ngân hàng thương
mại.
-Đảm bảo tiền vay.
Đối với những doanh nghiệp có nguồn thu không thay đổi, các doanh nghiệp doanh
nghiệp có quan hệ không thường xuyên với ngân hàng, các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh, hộ gia đình.. .ngân hàng thường áp dụng cho vay từng món trên cơ sở
thẩm định hồ sơ vay vốn của khách hàng, ngân hàng xác định được nhu cầu vay vốn
của doanh nghiệp và quyết định mức cho vay, thời hạn, phương thức trả nợ đối với
từng doanh nghiệp cụ thể. Mức cho vay được xác định:
Mức vốn vay = Tổng nhu cầu vốn vay - Vốn tự huy động - Vốn tự có và coi như tự
có.
3.4.7. Giải ngân và thu nợ.
Tuỳ theo nhu cầu vốn của doanh nghiệp trong từng thời điểm và những điều kiện cụ
thể khác mà ngân hàng thực hiện giải ngân theo đúng kế hoạch thoả thuận.
Khi đến hạn ngân hàng tiến hành thu nợ đối với các khoản cho vay. Doanh nghiệp
có trách nhiệm trả nợ theo phương thức thoả thuận và đúng hạn.
Nếu doanh nghiệp không tự động trả nợ khi đến hạn thì ngân hàng tự động trích tiền
gửi của khách hàng hoặc gửi giấy báo nhờ ngân hàng mà khách hàng có tài khoản
thu hộ. Trong trường hợp đến hạn mà doanh nghiệp không trả được nợ và không
được gia hạn nợ thì ngân hàng chuyển sang nợ quá hạn và áp dụng l•i suất nợ quá
hạn.
3.4.8. Quy trình cho vay ngắn hạn.
Cũng như các loại hình cho vay khác, cho vay ngắn hạn tuân theo một quy trình
nhất định từ khâu thẩm định khách hàng, xét duyệt cho vay, ký kết hợp đồng cho
đến giải ngân và thu nợ.
Bước 1: Hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và lập hồ sơ vay vốn.
Khi khách hàng đến đề xuất yêu cầu vay vốn, cán bộ tín dụng hướng dẫn khách
hàng cụ thể và đầy đủ về các điều kiện vay vốn. Nếu khách hàng đồng ý thì hướng
dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn.
Hồ sơ vay vốn gồm :
-giấy tờ chứng nhận về tư cách pháp nhân hoặc thể nhân.
-giấy đề nghị vay vốn
-phương án sản xuất kinh doanh và phương án trả nợ.
-các báo cáo tài chính thời điểm gần nhất(bảng tổng kết tài sản và bảng quyết toán
lỗ lãi). Nếu là doanh nghiệp tư nhân đòi hỏi phải có kiểm toán.
-hợp đồng thế chấp, bảo đảm, cầm cố tài sản và các giấy tờ gốc chứng nhận sở hữu
đối với tài sản thế chấp, bảo đảm, cầm cố, bảo lãnh.
-các giấy tờ khác liên quan đến việc vay vốn: Hợp đồng mua bán hàng hàng hoá
dịch vụ; giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu hoặc cota nhập khẩu.
Bước 2: Điều tra, tổng hợp, thu thập các thông tinvề khách hàng và phương án vay
vốn.
Sau khi tiếp nhận hồ sơ, để quyết định cho vay hay từ chối khoản vay cán bộ tín
dụng phải điều tra, thu thập, tổng hợp và phân tích các nguồn thông tin về khách
hàng bao gồm: Thông tin do khách hàng cung cấp(qua phỏng vấn, từ hồ sơ vay vốn
và sổ sách kế toán, báo cáo tài chính) và thông tin do cán bộ tín dụng tự điều tra.
Bước 3: Phân tích, thẩm định khách hàng và phương án vay vốn.
Nội dung cơ bản của bước này tập trung vào hai vấn đề chủ yếu:
-phương án vay vốn phải đầy đủ các điều kiện cho vay, đảm bảo khả năng cho vay
thu được gốc và lãi đúng hạn.
-hồ sơ, thủ tục vay vốn phải đầy đủ, hợp lệ, hợp pháp, nếu xảy ra tranh chấp, tố tụng
thì đảm bảo an toàn về pháp lý cho ngân hàng.
*Các vấn đề thẩm định bao gồm:
-năng lực pháp lý của khách hàng.
-tính cách và uy tín của khách hàng
-năng lực tài chính của khách hàng: Đánh giá chính xác năng lực tài chính của
khách hàng nhằm xác định sức mạnh tài chính, khả năng độc lập tài chính trong
kinh doanh, khả năng thanh toán và khả năng trả nợ của khách hàng. Ngoài ra, xác
định nhu cầu thực sự vay của khách. Dựa vào báo cáo tài chính, cán bộ tín dụng tính
các chỉ tiêu để đánh giá tình hình tài chính của khách hàng.
-phương án vay vốn và khả năng trả nợ của khách hàng: Đánh giá mức độ khả thi
của phương án sản xuất kinh doanh và tính toán chính xác nguồn trả nợ cuả khách
hàng.
-đánh giá các bảo đảm tiền vay của khách hàng(tài sản thế chấp, cầm cố, bảo
lãnh);kiểm tra tính pháp lý, quyền sở hữu của khách hàng đối với những tài sản này.
-phân tích và dự báo ảnh hưởng của môi trường kinh doanh đến phương án vay vốn
trả nợ vốn của khách hàng.
Bước 4: Quyết định cho vay.
Sau khi xem xét, thẩm định hồ sơ vay vốn thấy thoả mản các điều kiện và nguyên
tắc, ngân hàng quyết định cho vay đối với ngân hàng.
Bước 5: Kiểm tra và hoàn chỉnh hồ sơ cho vay và hồ sơ tài sản thế chấp cầm cố.
Bước 6: Phát tiền vay(giải ngân): Tuỳ theo thoả thuận trong hợp đồng vay vốn, tuỳ
theo mục đích sử dụng tiền vay; phương thức thanh toán có liên quan đến tiền vay
để ra quyết định hình thức phát tiền phù hợp.
Cán bộ tín dụng yêu cầu khách hàng lập chứng từ gồm bảng kê(như hợp đồng mua
bán hàng hoá, hoá đơn) uỷ nhiệm chi, séc chuyển tiền. Tiền vay được chuyển trả
trực tiếp cho đơn vị cung cấp vật tư, hàng hoá và chỉ phát tiền mặt hoặc phát ngân
phiếu thanh toán cho đơn vay khi người cung cấp không có tài khoản tại ngân hàng.
Bước 7: Giám sát khách hàng sử dụng vốn vay và theo dõi rủi ro.
- Giám sát và theo dõi nhằm kiểm tra tính hiện thực của kế hoạch trả nợ và khả
năng trả nợ và khả năng thực hiện, phát hiện dự báo những rủi ro có thể phát sinh;
phát hiện sớm những khoản vay có vấn đề trước khi trở nên nghiêm trọng nhằm đề
xuất giải quyết xử lý kịp thời.
- Cán bộ tín dụng mở sổ theo dõi doanh nghiệp đến tong khế vay, diễn biến dư có
trên tài khoản tiền gửi để thu nợ đúng hạn.
- Phân tích các báo cáo tài chính và tình hình sản xuất kinh doanh mới nhất của
khách hàng. Đối với khách hàng có dư nợ lớn, định kỳ 6 tháng và 1 năm, cán bộ tín
dụng phải phân tích toàn diện hoạt đồng sản xuất kinh doanh, tài chính của doanh
để áp dụng các biện pháp cho vay, thu nợ, quản lý tín dụng theo các loại doanh
nghiệp phù hợp.
- Phân tích, đánh giá, xếp loại các danh mục nợ quá hạn, khó đòi, nợ có vấn đề để
có biện pháp xử lý.
Bước 8: Thu hồi nợ, gia hạn nợ.
- Căn cứ vào khế ước nhận nợ, trước kỳ hạn thu nợ 5 ngày, cán bộ tín dụng lập
phiếu báo thu nợ trình giám đốc gửi cho doanh nghiệp vay vốn.
- Các khoản nợ có vấn đề, khách hàng có đơn đề nghị được gia hạn nợ, gi•n nợ, cán
bộ tín dụng them định, kiểm tra rồi lập tờ trình cho giám đốc xem xét và quyết định.
- Các khoản nợ đến hạn mà không trả được, không được gia hạn, gi•n nợ, khoanh
nợ.. thì áp dụng các biện pháp kiên quyết đê thu hồi nợ.
Bước 9 : Xử lý rủi ro.
Những khoản nợ đ• dùng mọi biến pháp giải quyết nhưng không thu hồi được thì
phải tiến hành xử lý rủi ro theo quyết định bằng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng của
ngân hàng.
Bước 10: Thanh lý hợp đồng vốn.
Sau khi khách hàng trả hết nợ gốc và lãi hoặc dư nợ vay đã được xử lý bằng quỹ rủi
ro hoặc xoá nợ, cán bộ tín dụng và cán bộ kế toán đối chiếu, tất toán tài khoản cho
vay của món nợ đó. Chuyển toàn bộ hồ sơ liên quan đến khoản vay vào kho lưu trữ
tài liệu.
4. Chất lượng tín dụng và tiêu thức đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn của
NHTM.
4.1.Khái niệm.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng không chỉ ảnh hưởng đến bản thân ngân hàng mà
còn ảnh hưởng trực tiếp đến trạng thái của nền kinh tế. Bởi vì ngân hàng giống như
một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, đó là một lĩnh vực rất nhạy cảm
và rủi ro rất cao. Trong các nghiệp vụ của ngân hàng thì có lẽ tín dụng là một
nghiệp mang lại phần lớn doanh lợi cho ngân hàng nhưng cũng là nơi ẩn chứa nhiều
rủi ro nhất. Ngay cả khi khoản vay có tài sản thế chấp, cầm cố thì rủi ro vẫn xảy ra
với tỷ lệ cao khoảng 50%(theo uỷ ban Bale quốc tế). Sẽ là sai lầm nếu quan niệm
cho vay có tài cầm cố thế chấp, nhưng không quá tỷ lệ quy định là an toàn nhất,
trong khi đó kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng tài chính của khách
hàng mới là quan trọng nhất đảm bảo khả năng trả nợ của khách hàng.
Chất lượng tín dụng được nhìn nhận từ các giác độ:
Chất lượng tín dụng được xét dưới giác độ doanh nghiệp: Do nhu cầu vốn vay được
đáp ứng để doanh nghiệp thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh bù đắp được
chi phí sản xuất, trả nợ ngân hàng và có lãi nên chất lượng tín dụng ngân hàng đứng
trên góc độ doanh nghiệp chỉ đơn giản là thoả mãn nhu cầu vay vốn của doanh
nghiệp và làm cho đồng vốn sử dụng có hiệu quả.
Xét dưới giác độ ngân hàng: Chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới
hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng, thực lực theo hướng tích cực của bản thân
ngân hàng và đảm bảo khả năng cạnh tranh trên thị trường đảm bảo nguyên tắc
hoàn trả đúng hạn và có lãi. Khi cho vay ngân hàng phải thực hiện theo pháp lệnh
ngân hàng và các văn bản chế độ hiện hành của nghành. Xác định đối tượng cho
vay và them định kỹ khách hàng trước khi cho vay, nắm bắt thông tin và hiểu được
tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính và mục đích sử dụng vốn vay, cơ
sở hoàn trả vốn vay để đảm bảo món vay được hoàn trả cả gốc và lãi đúng kỳ hạn,
hạn chế mức thấp nhất khả năng rủi ro có thể xảy ra, đây là nguyên tắc cơ bản nhất
đối với ngân hàng.
Chất lượng tín dụng xét từ giác độ nền kinh tế -xã hội: Tín dụng ngân hàng trong
những năm gần đây phản ánh rỏ rệt sự năng động của nền kinh tế khi chuyển sang
nền kinh tế thị trường. Tín dụng ngân hàng phải huy động mức tối đa vốn tiền tệ
tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế xã hội để cung ứng cho các doanh nghiệp, hỗ trợ
các doanh nghiệp phát triển. Tín dụng đầu tư cho nền kinh tế tạo ra sản phẩm chất
lượng cao, giá thành hạ làm tăng thêm sản phẩm cho xã hội, tạo thêm việc làm cho
người cho người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế và khai thác mọi khả năng
tiềm tàng, tích tụ vốn nhàn rỗi trong nước, tranh thủ vốn vay nước ngoài có lợi cho
kinh tế phát triển.
Chất lượng tín dụng thể hiện ở tính an toàn cao của hệ thống ngân hàng. Tín dụng
ngân hàng đảm bảo được chất lượng thì khả năng thanh toán chi trả cao, tránh được
rủi ro hệ thống. Nâng cao chất lượng tín dụng làm cho hệ thống ngân hàng lớn
mạnh, đáp ứng yêu cầu quản lý vĩ mô, thúc đẩy nền kinh tế phát triển hoà nhập với
thế giới.
Qua đó ta có thể rút ra rằng:
Chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể(thể hiện qua các chỉ tiêu tính toán
được), vừa trìu tượng(thể hiện qua khả năng thu hút khách hàng, tác động đến nền
kinh tế..). Chất lượng tín dụng chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ quan(khả năng
quản lý, trình độ cán bộ, sự tuân thủ quy trình nghiệp vụ..)và khách quan(sự thay
đổi của môi trường kinh tế, do chủ quan của khách hàng..)
Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ thích nghi của
NHTM với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức cạnh tranh của
một ngân hàng trong môi trường hoạt động.
Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố như: Thu hút được nhiều
khách hàng tốt, cho vay được nhiều, thủ tục đơn giản, mức độ an toàn của vốn tín
dụng..
Chất lượng tín dụng không phải tự nhiên mà có, nó là kết quả của một quy trình kết
hợp giữa các con người trong một tổ chức; giữa các tổ chức với nhau vì một mục
đích chung: An toàn, hiệu quả và khả năng cạnh tranh với các khoản tín dụng.
Như vậy, chất lượng tín được hình thành và bảo đảm từ hai phía là ngân hàng và
yếu tố bên ngoài. Để tránh rủi ro và thu được lợi nhuận trong hoạt động tín dụng,
không có cách nào khác là ngân hàng phải nâng cao chất lượng tín dụng của mình.
4.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng.
Xu hướng cho vay cho thấy rằng cơ hội cho vay của các ngân hàng đối với các
khách hàng có rủi ro thấp đã giảm. Các giấy tờ thương mại, chứng khoán và cạnh
tranh phi ngân hàng đã đẩy ngân hàng sang các loại khách hàng có độ rủi ro cao hơn
thay thế những khách hàng truyền thống. Ví dụ: những người vay là doanh nghiệp
lớn và ổn định đã từng có quan hệ trong danh mục cho vay của ngân hàng đã
chuyển sang các nguồn thị trường mở như thị trường như thị giấy tờ thương mại và
trái phiếu nhằm giảm chi phí giao dịch của họ. Các ngân hàng đã tìm cách thay thế
đối tượng khách hàng này bằng những khách hàng vay nhỏ và kém ổn định hơn.
Như vậy, do các khoản mục cho vay ngày càng ngày càng có độ rủi ro cao hơn và
không ổn định do tính chất cạnh cao và không ổn định của nền kinh tế. Do vậy việc
đánh giá chất lượng tín dụng đối với một ngân hàng là hết sức quan trọng. Bởi chất
lượng tín dụng biểu hiện khả năng hoạt động của ngân hàng tốt hay xấu, làm cơ sở
để để đánh giá ngân hàng. Mặt khác, việc đánh giá chất lượng tín dụng cũng giúp
cho ngân hàng có những thay đổi hợp lý, điều chỉnh hoạt động để nâng cao khả
năng cạnh tranh của mình. Việc nâng cao chất lượng tín dụng không những làm cho
ngân hàng tăng thu nhập mà còn giúp ngân hàng được an toàn. Phương pháp đánh
giá chất lượng tín dụng mang tính khoa học, nó vừa cụ thể vừa trừu tượng nên để
đánh giá chất lượng tín dụng người ta dựa vào 2 hệ thống chỉ tiêu: Chỉ tiêu định
lượng và chỉ tiêu định tính.
4.2.1. Nhóm chỉ tiêu định lượng
- Chỉ tiêu nợ quá hạn: Nợ quá hạn là những khoản cho vay đến hạn mà khách hàng
không trả được số tiền trong hợp đồng tín dụng và tiền lãi của số tiền đó và không
được ngân hàng gia hạn. Số tiền này ngân hàng chuyển thành nợ quá hạn và áp
dụng lãi suất quá hạn đối với những khoản nợ này(cao hơn lãi suất thông thường).
Đây là những khoản những khoản nợ có độ rủi ro cao và ngân hàng có khả mất vốn.
Để đánh giá chất lượng tín dụng trên cơ sở nợ quá hạn, người ta người ta thường
thông qua tỷ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ đầu tư rủi ro:
Tỷ lệ nợ quá hạn ngắn hạn = Tổng dư nợ quá hạn ngắn hạn/ Tổng dư nợ cho vay
ngắn hạn X 100%
Tỷ lệ đầu tư rủi ro = Tổng dư nợ món vay có phát sinh nợ quá hạn/Tổng dư nợ cho
vay
Hai chỉ tiêu này càng nhỏ thì chất lượng tín dụng càng cao.
Trong nền kinh tế thị trường rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng là tất
nhiên. Do đó nợ quá hạn của ngân hàng là tất yếu. Tuy nhiên, để đảm bảo an toàn,
sinh lời và tăng khả năng cạnh tranh ngân hàng phải cố gắng giảm thiểu tỷ lệ nợ quá
hạn. Hai chỉ tiêu trên rất quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn.
Cả hai chỉ tiêu này đều giúp ngân hàng quản lý rủi ro các khoản cho vay. Tuy nhiên,
sự khác biệt giữa hai tỷ lệ là nợ quá hạn chỉ xem xét đến giá trị khoản nợ quá hạn,
trong khi đó tỷ lệ đầu tư rủi ro xem xét món vay mà phát sinh nợ quá hạn.
Hai chỉ tiêu này đều chịu ảnh hưởng của chính sách xoá nợ của ngân hàng, một
ngân hàng có chính sách tốt là phải thiết lập quỹ dự phòng rủi ro đủ mạnh và thông
báo định kỳ về những món vay không đủ khả năng thu hồi, để tránh tình trạng trong
một lúc ngân hàng phải thông báo con số nợ không có khả năng thu hồi quá lớn và
làm giảm tài sản của ngân hàng một cách nghiêm trọng. Tuy nhiên, nếu ngân hàng
thực hiện xoá nợ quá nhanh thì hai tỷ lệ này sẽ ở mức thấp nhất nhưng không có ý
nghĩa thực tiễn. Thông thường khi lập bảng theo dõi nợ quá hạn ngân hàng thường
phân nợ quá hạn theo thời gian: 30, 60, 90, 120 ngày. Sự phân loại phân loại này có
ý nghĩa đối với việc quản lý chất lượng tín dụng và đánh giá để thiết lập dự phòng
mất vốn.
Tỷ lệ mất vốn = Tổng dư nợ quá hạn được xoá nợ/Dư nợ bình bình quân
Tỷ lệ này lệ này càng nhỏ càng tốt.
Những khoản nợ quá hạn, nếu khách hàng tiếp tục không trả được nợ thì ngân hàng
thực hiện khoanh nợ và xoá nợ bằng quỹ dự phòng rủi ro. Khi món nợ được xoá thì
các nỗ lực thu hồi vẫn tiếp tục nếu điều đó có ý nghĩa kinh tế. Xoá nợ đơn giản là
một phương pháp quản lý tài chính của ngân hàng chứ không phải là sự thừa nhận
về mặt pháp lý rằng người vay không còn nợ ngân hàng nữa.
Tỷ lệ dự phòng = Dự phòng mất vốn /Tổng dư nợ
Tỷ lệ này càng nhỏ càng tốt
Tỷ lệ này được hình thành dựa trên tỷ lệ vỡ nợ trước đây, tỷ lệ chỉ ra % dư nợ được
dự đoán là không có khả năng thu hồi. Tỷ lệ dự phòng mất vốn liên quan đến tỷ lệ
dự phòng mất vốn trích lập theo quy định và tỷ lệ mất vốn. Tỷ lệ dự phòng mất vốn
trích lập theo quy định đại diện cho khoản trích lập mất vốn được xoá nợ một thời
kỳ. Tỷ lệ mất vốn tính trên tổng giá trị các khoản nợ quá hạn được xoá trong một
thời kỳ.
-Chất lượng tín dụng ngắn hạn được đánh giá thông qua lợi nhuận thu được từ cho
vay ngắn hạn. Chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả của hoạt động tín dụng ngắn hạn.
Tỷ lệ sinh lời ngắn hạn # Lợi nhuận tín dụng ngắn hạn/Dư nợ tín dụng ngắn hạn
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của các khoản cho vay ngắn hạn. Tỷ lệ sinh
lời cao chứng tỏ khoản cho vay đó có hiệu quả, có chất lượng cao. Để đạt tỷ lệ sinh
lời cao thì việc thu nợ và giải quyết nợ quá hạn tốt. Tỷ lệ này cao một phần nói lên
kết quả kinh doanh tốt của ngân hàng, điều này rất quan trọng vì doanh thu từ hoạt
động tín dụng là nguồn thu chủ yếu của ngân hàng.
- Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay ngắn hạn.
Vòng quay vốn tín dụng:
Vòng quay vốn tín dụng # Doanh số thu nợ /Dư nợ bình quân
Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ vòng quay của tín dụng ngân hàng càng nhanh, điều
này cũng chứng tỏ việc thu hồi nợ nhanh và đúng hạn do đó tỷ lệ này cao cũng
chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng rất tốt. Mặt khác vòng quay vốn tín
dụng nhanh chứng tỏ tốc độ luân chuyển tiền tệ trong nền kinh tế nhanh, ngân hàng
đ• tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hoá. Với một lượng vốn
nhất định nhưng do tốc độ chu chuyển vốn tín dụng nhanh nên ngân hàng có thể đáp
ứng nhu cầu vốn tín dụng của doanh nghiệp trong phát triển kinh doanh.
Chi phí cho vay ngắn hạn:
Chi phí cho một đồng vốn cho vay ngắn hạn # Chi phí cho vay ngắn hạn/Tổng
doanh số cho vay ngắn hạn
Tỷ lệ này càng nhỏ càng tốt. Tỷ lệ này phản ánh hiệu quả của việc giải ngân vốn.
Chi phí cho vay ngắn hạn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm chi phí đầu vào như
chi phí trả lãi huy động vốn, chi phí bảo hiểm.. Chi đầu ra bao gồm chi phí để trả
lương công nhân, chi phí quản lý.. Tuy nhiên trong một số trường hợp chỉ số này
không phản ánh đúng thực tế: nếu chi phí cho vay tăng trong khi đó danh mục đầu
tư không tăng thì tỷ lệ này sẽ lớn, ngược lại nếu có nhiều món vay ngắn hạn được
thực hiện trong một thời kỳ( dẫn đến doanh thu cho vay và doanh số cho vay tăng
một kỳ) thì chi phí cho một đồng vốn sẽ giảm.
Hiệu suất sử dụng nguồn vốn ngắn hạn:
Hiệu suất sử dụng nguồn vốn ngắn hạn = Dư nợ ngắn hạn/Nguồn vốn ngắn hạn
Chỉ tiêu này rất quan trọng vì nó đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng, liệu
ngân hàng đã sử dụng hết khả năng của mình trong cho vay ngắn hạn hay chưa?
- Chỉ tiêu dư nợ, doanh số cho vay
Tỷ lệ dư nợ tín dụng ngắn hạn#Dư nợ ngắn hạn (%)/Tổng dư nợ
Tỷ lệ doanh số cho vay ngắn hạn = Doanh số cho vay (%)/Tổng doanh số cho
vayHai chỉ tiêu này cho biết cơ cấu dư nợ và cơ cấu doanh số cho vay của tín dụng
ngắn hạn trong tổng dư nợ và tổng doanh số cho vay. Từ đó có thể so sánh hiệu quả
hoạt động tín dụng ngắn hạn với các loại tín dụng trung và dài hạn
- Chỉ tiêu xử lý nợ:
Tỷ lệ thanh toán nợ do bán tài sản của KH#Số tiền thu nợ do bán tài sản của
KH/Tổng doanh số thu nợ
Để thu hồi nguồn vốn của mình ngân hàng có hai nguồn để thu đó là, từ hoạt động
kinh doanh của ngân hàng nếu khách hàng làm ăn thua lỗ thì ngân hàng có nguồn
thu thứ hai đó là tài sản thế chấp, cầm cố và bảo hiểm. Khi đến hạn nếu khách hàng
không trả được nợ thì ngân hàng có thể phát mãi tài sản. Như vậy nếu tỷ lệ này lớn
thì không thể đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng cao được, kể cả trường
hợp số tiền bán tài sản thu được nợ.
4.2.2. Nhóm chỉ tiêu định tính.
Trong quá trình đánh giá chất lượng tín dụng ngoài những chỉ tiêu có thể lượng hoá
được thì còn có rất nhiều yếu tố mà không thể lượng hoá được. Các chỉ tiêu định
tính được qua quy chế, chế độ, thể lệ tín dụng, qua độ thoả mãn của khách hàng đối
với sản phẩm của khách hàng, độ tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng.
4.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngắn hạn của NHTM.
NHTM là một chủ thể trong nền kinh tế và có quan hệ mật thiết với sự phát triển
của nền kinh tế. NHTM có quan hệ rất rộng với nền kinh tế, do đó để đánh giá chất
lượng tín dụng của ngân hàng thì chúng ta phải hiểu biết về những nhân tố tác động
đến nó. Những nhân tố tác động đến chất lượng tín dụng ngân hàng bao gồm những
nhân tố chủ quan và những nhân tố khách quan. Các nhân tố này được chia thành 3
nhóm:
4.3.1. Các nhân tố thuộc về ngân hàng.
Khả năng thẩm định cho vay:
Thẩm định cho vay là khâu quan trong hoạt động tín dụng và ảnh hưởng rất lớn đến
chất lượng tín dụng. Thẩm định đó là khâu đánh giá, dự đoán, thẩm tra về độ chính
xác, an toàn và hiệu quả của một hợp đồng tín dụng. Mặt dù không chính xác tuyệt
đối nhưng làm tốt khâu này sẽ tạo tiền đề cho việc thu hồi cả vốn và l•i đầy đủ khi
khoản vay đến hạn thanh toán. trong quá trình them định yêu cầu phải có trình độ
chuyên môn và sự phán đoán linh hoạt, tuy nhiên phải tuân thủ nghiêm ngặt về hồ
sơ và an toàn thông tin.
Đặc biệt đối với những khoản vay ngắn hạn, do tính đặc thù của hoạt động này là
cho vay thường xuyên nhằm đáp ứng kịp thời vốn lưu động cho các doanh nghiệp
do đó them định phải nhanh chóng kịp thời nhưng phải chính xác bảo đảm an toàn
cho đồng vốn bỏ ra.
Chất lượng cán bộ tín dụng:
Để đảm bảo chất lượng tín dụng được nâng cao thì đòi hỏi nhiều yếu tố, trong đó
con người là nhân tố trung tâm, là yếu tố quyết định sự thành bại trong quản lý vốn,
tài sản của ngân hàng. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì hoạt động của ngân
hàng cũng càng ngày càng tinh vi và phức tạp đòi hỏi cán bộ ngân hàng có đủ phẩm
chất đạo đức, trình độ chuyên môn để lĩnh hội và ứng dụng khoa học tiên tiến. Trình
độ cán bộ quản lý điều hành và cán bộ tín dụng có ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng tín dụng. Khách hàng của ngân hàng rất đa dạng do đó trình độ cán bộ tín
dụng phải cao và hiểu biết phong phú để đánh giá được một khoản cho vay.
Vấn đề thông tin tín dụng:
Trong nền kinh tế mở thì thông tin là một yếu tố rất quan trọng, là một kho tàng quý
báu cho những ai biết cập nhật và sử dụng hiệu quả thông tin. NHTM hoạt động
trong một lĩnh vực rất nhạy cảm đối với nền kinh tế và đầy tính rủi ro do đó thông
tin càng cực kỳ quan trọng. Đối với nghiệp vụ tín dụng, ngân hang thường không đủ
về thông tin về lợi tức tiềm ẩn và rủi ro kèm theo với dự án mà người vay định tiến
hành. Việc thiếu thông tin tạo ra sự lựa chọn đối nghịch, đó là hiện tượng người vay
tạo ra một kết cục không mong muốn – rủi ro không trả được nợ. Do vậy nắm bắt
không đầy đủ chính xác về thông tin sẽ ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Kiểm soát nội bộ:
Các quy chế, thể lệ cho vay và các nguyên tắc cho vay nếu cán bộ ngân hàng không
nắm vững sẽ gây nên tổn thất, ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Do đó, công tác
kiểm soát nội bộ giúp cho cán bộ điều hành công việc theo đúng cơ chế, đúng pháp
luật, mặt khác nắm được sai sót lệch lạc trong hoạt động tín dụng có biện pháp khắc
phục kịp thời.
4.3.2. Các nhân tố thuộc về khách hàng.
Khách hàng người trực tiếp sử dụng khoản vay từ ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn
đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Việc có nhiều khách hàng đủ điều kiện vay,
sử dụng vốn vay hợp lý, hiệu quả, thanh toán nợ và lãi đúng hạn sẽ làm cho chất
lượng tín dụng được nâng cao. Những yếu tố từ ngân hàng ảnh hưởng đến chất
lượng tín dụng, đó là :
Năng lực, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của doanh nghiệp:
Trong sản xuất kinh doanh phải có mọi phương án và tính đến mọi yếu tố có liên
quan như vật liệu được cung cấp từ đâu, điều kiện giao thông vận tải có thuận lợi
không, cơ sở hạ tầng như thế nào, hàng làm ra có tiêu thụ và cạnh tranh được không
vv... Những điều đó cán bộ kinh doanh không hiểu biết sẽ dẫn tới làm ăn thua lỗ.
Như vậy khi năng lực quản lý kinh doanh bị hạn chế thì các phương án sản xuất
kinh doanh là không phù hợp với thực tế do đó khả năng trả nợ của doanh nghiệp
kém ảnh hưởng xấu tới chất lượng tín dụng.
Khả năng điều kiện hiện tại của các doanh nghiệp:
Hiện nay hầu hết các khách hàng thiếu các điều kiện cần và đủ để thực hiện các
nguyên tắc và quy định cho vay thế chấp của ngân hàng. Theo pháp lệnh thì khi
khách hàng vay vốn phải có tài sản thế chấp, cầm cố, bảo l•nh và thực hiện đúng
chế độ hạch toán kinh tế. Trên thực tế 80% các pháp nhân và thể nhân khu vực kinh
tế ngoài quốc doanh và 100% tài sản của doanh nghiệp nhà nước không có chứng
nhận sở hữu. Mặt khác doanh nghiệp nhà nước vốn tự có rất bé. Trong khi đó chức
năng nhiệm vụ trong giấy phép kinh doanh là rất lớn, yêu cầu vay vốn gấp 20-50 lần
vốn tự có. Thực tế nhiều bộ phận khách hàng khi vay không thực hiện đúng pháp
lệnh về cho vay. Điều đó làm cho không có một ràng buộc pháp lý nào giữa ngân
hàng và khách hàng và làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Tuy nhiên xem xét từ khía cạnh trả nợ của khách hàng thì hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp mới là quan trọng. Khả năng trả nợ của ngân hàng ảnh
hưởng tới chất lượng tín dụng, đặc biệt là tín dụng ngắn hạn, bởi vì đặc trưng của
tín dụng ngắn hạn là thời gian khoản vay ngắn, do đó việc xác định khả năng trả nợ
của khách hàng là rất quan trọng. Do đó để đảm bảo chất lượng tín dụng, ngân hàng
chỉ bỏ vốn vào những dự án khả thi, phù hợp với tình hình tài chính, điều kiện thực
tế của doanh nghiệp để có thể thu được lợi nhuận.
Đạo đức của người vay:
Các ngân hàng sẽ quyết định cho vay sau khi đã phân tích cẩn thậnyếu tố liên quan
đến tính chân thật của người vay trong việc trả nợ. Tuy nhiên tính chân thật và khả
năng chi trả của người vay có thể thay đổi sau khi mon cho vay đã được thực hiện.
Rủi ro đạo đức xảy ra khi khách hàng sử dụng món vay vào mục đích khác nhiều rủi
ro hơn. Điều này ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
4.3.3. Các nhân tố thuộc về môi trường.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng luôn có quan hệ mật thiết với nền kinh tế. Từng
giai đoạn và biến cố kinh tế đều có những tác động đến hoạt động ngân hàng. Lạm
phát, suy thoái hay tăng trưởng kinh tế, thuế... đều ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của ngân hàng. Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn
đổi mới và đạt được nhiều kết quả khích lệ. Tuy nhiên còn một số những khó khăn
doanh nghiệp chuyển hướng và điều chỉnh phương án sản xuất kinh doanh không
theo kịp hoặc không phù hợp với sự thay đổi của chính sách, cơ chế vĩ mô. Do vậy
doanh nghiệp gặp những khó khăn trong sản xuất kinh doanh, hàng hoá tồn đọng,
thua lỗ kéo dài, mất khả năng thanh toán làm phát sinh nợ quá hạn, nợ khó đòi điều
này ảnh hưởng xấu đến chất lượng tín dụng.
Cùng với sự thay đổi của môi trường kinh tế thì môi trường pháp lý thay đổi cũng
ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng.
4.4. Phương pháp đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn của ngân hàng.
Trên thế giới có nhiều cách đánh giá khác nhau về chất lượng tín dụng ngân hàng.
Nhưng tại Việt Nam hiện việc quy định tiêu chuẩn cho các chỉ tiêu định lượng như
đã trình bày rất khó, do đó chỉ mang tính tương đối. Các phương pháp sử dụng:
Phương pháp định lượng:
Đây là phương pháp sử dụng các chỉ tiêu định lượng như đã trình bày ở mục 3.2.1
như tỷ lệ nợ quá hạn, cơ cấu vốn đầu tư, tỷ lệ thanh toán nợ do bán tài sản của
người vay, chỉ tiêu quay vòng vốn tín dụng... Nghiên cứu cụ thể và đem ra được
một tiêu chuẩn cho hệ thống ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là một
điều cần thiết. Hiện tại sử dụng các chỉ tiêu này mới chỉ phần nào đánh giá chất
lượng tín dụng trên những con số. Do đó ta cần đánh giá chất lượng tín dụng trên
phương pháp khác.
Phương pháp chuyên gia:
Đây là phương pháp nhằm đánh giá những yếu tố trừu tượng như: trình độ cán bộ
tín dụng, nghiệp vụ tín dụng, việc đánh giá này phải được căn cứ trên tiêu chuẩn
nhất định để có được tính đồng nhất trong toàn hệ thống, thuận lợi khi so sánh chất
lượng tín dụng các kỳ.
Thông thường để đánh giá đúng đắn chất lượng tín dụng của một ngân hàng người
ta sử dụng thang điểm cho từng chỉ tiêu đánh giá. Nếu sử dụng thang điểm 100 căn
cứ vào mức độ quan trọng của từng chỉ tiêu. cuối cùng ta tính tổng điểm cho chất
lượng tín dụng như sau:
CLTD # Dct1 + Dct2 + Dct3 + ....Dctn
Trong đó Dct1,2,3.. điểm cho chỉ tiêu 1,2,3...
Nếu tổng điểm CLTD <= 35 điểm đạt loại C.
Nếu tổng điểm CLTD từ 36 đến 65 điểm đạt loại B.
Nếu tổng điểm CLTD từ 66 điểm trở lên đạt loại A.
Rỏ ràng dùng hai phương pháp trên vẫn chưa đánh giá chính xác chất lượng tín
dụng của ngân hàng. Do đó cần nghiên cứu ra những phương pháp đánh giá chất
lượng tín dụng hiệu quả hơn để đảm bảo đảm an toàn, hiệu quả cho ngân hàng cũng
như nền kinh tế.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng ngắn hạn tại ngân hàng công thương chi
nhánh hai bà trưng.
1. Khái quát về ngân hàng công thương chi nhánh Hai Bà Trưng.
1.1. Nhiệm vụ, chức năng và bộ máy tổ chức.
Ngân hàng công thương khu vực II Hai Bà Trưng là một chi nhánh của NHCT Việt
Nam.Sau khi thực hiện nghị định số 53/HĐBT ngày 26/3/1988 của hội đồng bộ
trưởng về tổ chức bộ máy NHNN Việt Nam chuyển sang cơ chế ngân hàng hai
cấp,từ một chi nhánh NHNN cấp quận và một chi nhánh ngân hàng kinh tế cấp quận
thuộc địa bàn quận Hai Bà Trưng,trực thuộc NHNN thành phố Hà Nội chuyển
thành các chi nhánh NHCT khu vực I và II quận Hai Bà Trưng trực thuộc chi nhánh
NHCT thành phố Hà Nội thuộc NHCT Việt Nam. Tại quyết định số 93/NHCT-
TCCB ngày 1/4/1993 của tổng giám đốc NHCT Việt Nam sắp xếp lại bộ máy tổ
chức NHCT trên địa bàn Hà Nội theo mô hình quản lý hai cấp của NHCT Việt
Nam, bỏ cấp thành phố, hai chi nhánh NHCT khu vực I và II Hai Bà Trưng là
những chi nhánh trực thuộc NHCT Việt Nam được tổ chức hạch toán kinh tế và
hoạt động như các chi nhánh NHCT cấp tỉnh, thành phố.Kể từ ngày 1/9/1993,theo
quyết định của tổng giám đốc NHCT Việt Nam, sáp nhập chi nhánh NHCT khu
vựcI vào chi nhánh NHCT khu vực II Hai Bà Trưng. Như vậy kể từ ngày 1/9/1993
trên địa bàn quận Hai Bà Trưng(Hà Nội) chỉ còn duy nhất một chi nhánh NHCT.
Nhiệm vụ chủ yếu của chi nhánh công thương II- Hai Bà Trưng là hoạt động trên
lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và các dịch vụ ngân hàng.
Hiện nay: Chi nhánh có trụ sở chính tại 285 Trần Khát Chân và 2 phòng giao dịch
đặt tại chợ Hôm và chợ Trương Định, bên cạnh đó chi nhánh còn có 12 quỹ tiết
kiệm và một cửa hàng vàng bạc nằm rải rác trên khắp điạ bàn.
Bộ máy tổ chức của chi nhánh như sau:
- Phòng kinh doanh.
- Phòng kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế.
- Phòng kế toán.
- Phòng nguồn vốn.
- Phòng thông tin điện toán.
- Phòng hành chính tổ chức.
- Phòng kho quỹ.
- Phòng kiểm soát.
- 2 phòng giao dịch.
- Cửa hàng kinh doanh vàng bạc.
- 12 quỹ tiết kiệm.
Với đội ngủ trên 334 cán bộ và trên 60% có trình độ đại học và trên đại học.
Nằm trên địa bàn quận HBT là một quận tương đối rộng, đông dân cư và tập trung
khối sản xuất công nghiệp Trung ương và địa phương nhất là khu công nghiệp Sợi –
Dệt –May và công nghiệp cơ khí, công ty thương nghiệp và nhiều loại hình kinh
doanh khác như doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn và các loại hình hợp tác x• cùng các hộ tư thương buôn bán nhỏ. Nhưng trên địa
bàn này tỷ lệ các doanh nghiệp kinh doanh thương nghiệp,XNK, dịch vụ du lịch và
khách sạn không nhiều. Đây chính là điều kiện thuận lợi về mặt thị trường cho ngân
hàng, với những đặc điểm trên địa bàn như vậy NHCT II- HBT có nhiều thuận lợi
về huy động vốn chủ yếu là huy động tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu và nguồn gửi
của các tổ chức doanh nghiệp. Song cũng có những yếu tố không thuận lợi như khả
năng tăng trưởng đầu tư tín dụng là rất khó khăn vì tốc độ chững lại trong những
năm gần đây của khu vực sản xuất công nghiệp nhất là công nghiệp dệt may và cơ
khí.
Cùng với sự thăng trầm của kinh tế nước ta NHCT KVII-HBT nhiều lúc cũng phải
đối mặt với những khó khăn nhất định, hạn chế khả năng huy động tiền vốn cũng
như cho vay đối với các tô chức kinh doanh ở một số lĩnh vực như khách sạn, cơ
khí... với sự cố gắng không ngừng đến nay NHCT KVII-HBT đã khẳng định được
vị trí và vai trò của mình đối với kinh tế thủ đô, đứng vững và phát triển trong cơ
chế mới, chủ động mở rộng mạng lưới giao dịch, đa dạng các mặt kinh doanh dịch
vụ tiền tệ –ngân hàng, thường xuyên tăng cường nguồn vốn một cách có hiệu quả,
thay đổi cơ cấu đầu tư phục vụ phát triển kinh tế nhiều thành phần, tăng cường vật
chất kỹ thuật để từng bước đổi mới công nghệ, góp phần vào quá trình công nghiệp
hoá-hiện đại hoá đất nước.
Không dừng lại ở đó, hoạt động cuả ngân hàng không chỉ bó hẹp trong địa bàn quận
HBT mà còn vươn ra bình đẳng kinh doanh với các ngân hàng khác trên địa bàn Hà
Nội, hoà nhập với sự nghiệp đổi mới kinh tế, đổi mới hoạt động của nghành. Tập
thể lãnh đạo và cán bộ nhân viên chi nhánh NHCT KVII-HBT đã phấn đấu thực
hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ do cấp trên giao phó với mục tiêu:vì sự thành
đạt của mọi người, mọi nhà, mọi doanh nghiệp, sự thành đạt trong doanh nghiệp
cũng chính là sự thành đạt của ngân hàng.
1.2. Khái quát tình hình hoạt động của NHCT II- HBT trong những năm qua.
Cùng với quá trình đổi mới kinh tế của đất nước ta, trong hơn 10 năm qua NHCT II
–HBT đã vượt qua những khó khăn trở ngại bằng ý chí vươn lên, phát huy nội lực
tranh thủ ngoại lực, thực hiện nghiêm túc sự chỉ đạo sát sao của NHCT Việt Nam,
NHNN Hà Nội. Phương châm phát triển là an toàn- hiệu quả - cạnh tranh. Chi
nhánh đã đạt được những thành công nhất định cũng như mở rộng được các sản
phẩm và dịch vụ ngân hàng.
1.2.1. Hoạt động huy động vốn.
Chi nhánh đ• luôn chủ động tích cực và không ngừng mở rộng mạng lưới giao dịch
thông qua các quỹ tiết kiệm, giải quyết nhanh chóng và thông thoáng các thủ tục,
thái độ phục vụ văn minh lịch sự nhằm thu hút tối đa nguồn tiền gửi của dân cư.
Công tác tiết kiệm được thực hiện đúng quy trình, đảm bảo an toàn, đã được sự yên
tâm tin tưởng của người gửi tiền.
Song song với việc huy động vốn trong dân cư, chi nhánh đã chú trọng đến việc thu
hút tiền gửi của các doanh nghiệp, thông qua việc khẳng định uy tín của mình bằng
chất lượng dịch vụ không ngừng hoàn thiện với tiêu chí là: nhanh chóng, chính xác,
thuận tiện cho khách hàng.
Trong công tác huy động vốn, mặc dù lãi suất huy động vốn không cao so với mặt
bằng chung của các ngân hàng thương mại khác hệ thống trên địa bàn, đặc biệt là lãi
suất huy động USD giảm mạnh, nhưng thường xuyên coi trọng chất lượng dịch vụ
kết hợp tốt chính sách khách hàng nên nguồn vốn huy động của chi nhánh tăng đều,
đảm bảo được cân đối vốn cung cầu và tạo thế chủ động cho hoạt động kinh doanh.
Công tác quản lý tiền gửi dân cư được chi nhánh thực hiện nghiêm túc thông qua
công tác kiểm tra với nhiều hình thức. Qua đó đã khắc phục những sai sót, đảm bảo
an toàn tuyệt đối nguồn tiền gửi của dân cư và các giấy tờ quan trọng, nâng cao uy
tín của ngân hàng với khách hàng.
Bảng 1: Cơ cấu nguồn vốn huy động.
1. Tiền gửi của các TCKT. 527 33,4% 643 35% 695 34,5%
2. Tiền gửi dân cư. 1052 66,6% 1194 65% 1318 65,5%
3. Tiền gửi kỳ phiếu. 0 - - - - -
4.Theo nội và ngoại tệ:
* Tiền gửi VNĐ
* Tiền gửi ngoại tệ
(quy đổi VNĐ)
Tổng cộng
1.2.2. Hoạt động cho vay và đầu tư kinh doanh khác.
Cũng như mọi ngân hàng khác, NHCT khu vực II- Hai Bà Trưng cũng thực hiện
chức năng chính của mình là đi huy động tiền gửi của nền kinh tế để cho vay. Điều
này có ý nghĩa to lớn về mặt xã hội đó là tái sản xuất xã hội, còn đối với ngân hàng
hoạt động cho vay có ý nghĩa sống còn vì có cho vay thì mới tạo ra lợi nhuận đảm
bảo khả năng tồn tại của ngân hàng trong nền kinh tế. Xác định được điều quan
trọng đó NHCT khu vực II Hai Bà Trưng đang từng bước mở rộng thị phần và đối
tượng cho vay, đang từng bước tăng tổng dư nợ.
Trong công tác đầu tư cho vay, với bối cảnh môi trường đầu tư hết sức khó khăn,
chi nhánh đặt ra quyết tâm đưa dư nợ tăng trưởng một cách lành mạnh vững chắc.
Đã triển khai đồng bộ nhiều biện pháp, chủ động bám sát các doanh nghiệp, phân
tích kỹ những khó khăn, thuận lợi, dự đoán những vấn đề có thể nảy sinh để hạn chế
rủi ro, những đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp được vay
vốn ngân hàng. Quan trọng hơn là đồng vốn ngân hàng thực hiện đúng chức năng:
Góp phần thúc đẩy nền kinh tế thủ đô phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chất lượng được xác định là mục tiêu hàng đầu, do vậy chi nhánh đã tích cực mở
rộng thị phần, nâng cao chất lượng các khoản cho vay, không ngừng hoạn thiện việc
thực hiện quy trình tín dụng kết hợp nâng cao trình độ chuyên môn và đề cao công
tác thẩm định, bảo đảm hiệu quả các dự án cho vay nên vốn tín dụng của dự án có
hệ số an toàn cao. Bên cạnh đó theo chỉ đạo của NHCT Việt Nam, để khắc phục
những tồn tại cũ, làm lành mạnh các khoản nợ. Ban xử lý nợ tồn đọng đã được
thành lập. Dựa trên cơ chế mới như: Thông tư liên bộ 03/2001/TTLB/NHNN-BCA-
BTC-TCTD và các văn bản quy định khác, ban xử lý tài sản nợ tồn đọng đã nghiên
cứu từng khoản nợ và đề ra những bước xử lý thích hợp, với những động thái tích
cực đã tác động đến các khách hàng có nợ khó đòi.Kết quả đã làm tốt chỉ tiêu kế
hoạch NHCT Việt Nam giao. Trong năm 2002 thu nợ được 5456 triệu đồng, trong
đó xử lý nợ tồn đọng 4923 triệu đồng. Tỷ lệ nợ quá hạn chỉ chiếm 1.09% trong tổng
dư nợ và đầu tư trong năm 2002.
Ngoài cho vay chính là các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh thì
NHCT khu vực II Hai Bà Trưng còn thực hiện cho vay đối với sinh viên. Việc cho
vay sinh viên được triển khai thường xuyên và kịp thời hỗ trợ sinh viên trong quá
trình học tập. Tính đến 31/12/2002 đã có 2218 sinh viên của các trường đại học
:Bách Khoa, Xây Dựng, Viên Mở đã thực hiện vay vốn với tổng dư nợ 4,6 tỷ đồng
,tăng 35,3% so với cuối năm 2001.
Cho vay cán bộ công nhân viên không có bảo đảm tài sản.
Được thực hiện bảo đảm chế độ, cán bộ công nhân viên vay vốn chủ yếu là mua
sắm phương tiện đi lại,sữa chữa nhà...đều trả nợ đúng cam kết. Đã có 470 cán bộ
vay vốn với dư nợ là 3,6 tỷ đồng tăng 27% so với cuối năm 2000.
Cơ cấu dư nợ các năm qua được thực hiện ở bảng sau:
Bảng 2: Cơ cấu dư nợ(2000-2002) tại NHCT – HBT.
Đơn vị: triệu đồng
1.Phân theo kỳ hạn chovay:
Ngắn hạn
Trung và dài hạn
Cho vay sinh viên
Cho vay đặc biệt
2.Phân theo TPKT
Kinh tế QD
Kinh tế ngoài QD
3. Phân theo nội ngoại tệ:
VNĐ
Ngoại tệ(quy đổi)
Tổng cộng
1.2.3. Công tác kinh doanh đối ngoại.
Ngoài kinh doanh đối nội, hoạt động kinh doanh đối ngoại cũng đạt kết quả đáng
khích lệ, hổ trợ tích cực cho việc tăng trưởng dư nợ. Chất lượng dịch vụ, trình độ
năng lực của cán bộ nhân viên nhiều tiến bộ, đáp ứng tốt yêu cầu trong việc thực
hiện xử lý các nghiệp vụ, do vậy chi nhánh đã làm vừa lòng khách hàng, lượng
khách hàng tới giao dịch ngày càng tăng. Tuy nhiên kết quả còn hết sức khiêm tốn:
Mua bán ngoại tệ: Doanh số mua ngoại tệ đạt 36,7 triệu USD, tăng 55% so với năm
2001. Doanh số bán ngoại tệ đạt 38.7 triệu USD, tăng 75,7% so với năm 2001.Năm
qua nguồn ngoại tệ rất căng thẳng do tỷ giá USD tăng, áp lực về nguồn vốn ngoại tệ
rất lớn. Tuy nhiên chi nhánh đã cố gắng tìm mọi biện pháp để đáp ứng nhu cầu
ngoại tệ của doanh nghiệp.
Thanh toán quốc tế: Công tác thanh toán quốc tế không ngừng được nâng cao, kiểm
tra các bộ chứng từ nhanh chóng, chính xác, thường xuyên tư vấn tạo điều kiện
thuận cho khách hàng, phong cách giao dịch văn minh lịch sự đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ.
- L/C nhập:337 món = 20,5 triệu USD thanh toán 400 món = 24,7 triệu USD
- L/ C xuất: 311 món =9,7 triệu USD tăng 48% so với năm 2001
Dịch vụ trả kiều hối: Luôn đảm bảo cho khách hàng nhanh chóng, thuận tiện.
1.2.4. Công tác kế toán tài chính và kết quả kinh doanh.
Trong công tác tài chính kế toán, chấp hành nghiêm chỉnh pháp lệnh và chế độ quy
định. Đảm bảo tính kịp thời, chính xác trung thực, việc ghi chép sổ sách kế toán hợp
lệ, hợp pháp. Phối hợp với nghiệp vụ tín dụng thu nợ, thu l•i kịp thời, chính xác.
Thực hiện nghiêm túc các quy chế về quỹ đảm bảo thanh toán và ký quỹ bắt buộc,
tiết kiệm chi tiêu theo kế hoạch NHCT Việt Nam. Tuy nhiên do thực hiện cơ chế
hạch toán dự thu, dự trả với đặc điểm của chi nhánh, nguồn tiền gửi dân cư chiếm tỷ
trọng lớn(khoảng 70%) trong tổng huy động vốn, nên tổng số hạch toán dự trả 21,5
tỷ đồng đã làm ảnh hưỡng rất nhiều đến lợi nhuận năm 2002 nhưng chỉ tiêu lợi
nhuận vẫn đạt 109,7% so với kế hoạch do NHCT Việt Nam giao.
Công tác quyết toán năm hoàn thành tốt, các báo biểu kế toán thực hiện báo cáo về
NHCT Việt Nam trước giờ quy định. Phong cách thái độ tiếp khách được chú trọng
và nâng lên, do lượng khách hàng mới về giao dịch với khách hàng tăng 200 tài
khoản so với năm 2000.
1.2.5. Công tác tiền tệ kho quỹ.
Đảm bảo cân đối nguồn tiền mặt để đáp ứng đầy đủ, kịp thời các nhu cầu thu chi
tiền mặt, ngân phiếu, ngoại tệ. Tổ chức mạng lưới thu chi nhanh chóng cho khách
hàng với thái độ văn minh, lịch sự. Làm tốt các dịch vụ theo yêu cầu của khách
hàng như: Thu tiền lưu động, chuyển tiền nhanh đi các tỉnh
*Tổng thu tiền mặt: 3786 tỷ đồng.Tăng so cùng kỳ năm trước 41,1%.
*Tổng chi tiền mặt: 3360 tỷ đồng. Tăng so cùng kỳ năm trước 36,8%.
1.2.6 . Công tác thông tin điển toán.
NHCT khu vựcII Hai Bà Trưng tiếp tục duy trì và phát triển công nghệ thông tin.
Hệ thống máy vi tính của chi nhánh đã thực hiện tốt việc thu nhận, xử lý, kiểm soát
thu nhận, truyền nhận và cung cấp thông tin cho quản lý điều hành kinh doanh một
cách nhanh chóng có hiệu quả.
Triển khai thực hiện tốt các chương trình quản lý Kế toán –Tín dụng, tiết kiệm điện
tử, thanh toán quốc tế, thanh toán điện tử, quản lý nguồn nhân lực, phòng ngừa rủi
ro, chuyển đổi 12 đồng tiền Châu Âu sang đồng EUR và điện toán hệ thống thông
tin báo cáo theo quyết định 516 của thống đốc NHNN đúng yêu cầu của ngân hàng
công thương Việt Nam.
Đảm bảo môi trường kỹ thuật cho các phần mềm có hoạt động thông suốt. Bảo đảm
an toàn tuyệt đối cơ sở dữ liệu trong toàn chi nhánh, vận hành tốt hệ thống dự
phòng.
1.2.7. Công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ.
Để thực hiện tốt mục tiêu an toàn trong kinh doanh và phát huy tốt vai trò kiểm soát
theo tinh thần chỉ đạo của NHCT Việt Nam, công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ của
chi nhánh được chú trọng và duy trì thường xuyên. Trên cơ sở nhiệm vụ kinh
doanh, căn cứ vào chương trình kiểm tra của NHCT Việt Nam, đ• chủ động lập
chương trình và thực hiện kiểm soát trên tất cả các mặt nghiệp vụ: Tín dụng, bảo
l•nh, kế toán tài chính, tiền tệ kho quỹ, giao nhận tiền, chấp hành chế độ tại các quỹ
tiết kiệm...từ đó đôn đốc việc thực hiện chế độ quy định đi vào nề nếp.
2. Thực trạng công tác tín dụng ngắn hạn tại Ngân hàng công thương chi nhánh Hai
Bà Trưng.
Kinh doanh tín dụng vẫn là nghiệp vụ chính của ngân hàng. Với quyết tâm cao,
bằng nhiều giải pháp tích cực, kịp thời cùng với chủ trương, chính sách đúng đắn
của Nhà nước, của ngành nhằm thống nhất một mục tiêu chung là phục vụ khách
hàng một cách tốt nhất. Trong suốt thời gian hoạt động của mình NHCT II- HBT
luôn cố gắng thực hiện tốt nhiệm vụ được giao đồng thời nâng cao chất lượng hoạt
động của mình. Ngân hàng luôn tập trung đầu tư cho khách hàng truyền thống, tích
cực thực hiện tốt công tác tiếp thị mở rộng thị phần, chủ động tìm kiếm thu hút
khách hàng mới và tăng cường tiếp cận các dự án khả thi, dư nợ lành mạnh tăng
trưởng cao.
2.1. Tình hình huy động vốn:
Huy động vốn và cho vay luôn có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau.
Có huy động được vốn mới có nguồn để cho vay và ngược lại mở rộng và nâng cao
chất lượng sử dụng vốn thì huy động mới có hiệu quả. Trên cơ sở đó NHCT II-HBT
đã luôn chủ động tích cực quan tâm phát triển công tác huy động vốn dưới mọi
hình thức, để đảm bảo quy mô nguồn vốn tiếp tục tăng trưởng theo kế hoạch xác
định. Bằng những biện pháp đúng đắn thích hợp như:
- Đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn qua ngân hàng, thực hiện tốt những chính sách
khuyến khích lợi ích khách hàng mở tài khoản và thanh toán. Ưu đãi lã•i suất tiền
gửi cho các đơn vi có số dư tài khoản tiền gửi lớn.
- Bên cạnh đó là công tác huy động vốn tiền gửi dân cư được phát triển với mạng
lưới các quỹ tiết kiệm hợp lý, thái độ phục vụ văn minh lịch sự. Thông qua công tác
tự kiểm tra kiểm soát đảm bảo an toàn tiền gửi dân cư, đã tạo được truyền thống uy
tín cao của chi nhánh NHCT II- HBT. Đặc biệt đẫ triển khai thực hiện tốt quy trình
giao dịch bằng máy vi tính cho 4 quỹ tiết kiệm và hướng tới mục tiêu vi tính hoá hệ
thống quỹ tiết kiệm nhằm bảo đảm lợi ích của người gửi tiền, tạo thuận lợi cho
khách hàng. Do vậy có thể thấy mặc dù lãi suất trong các năm qua liên tục giảm
nhưng chi nhánh vẫn làm tốt công tác huy động vốn, nguồn vốn tăng liên tục và ổn
định, đáp ứng thoả mãn nhu cầu hoạt động đầu tư tín dụng của chi nhánh, ngoài ra
thường xuyên thực hiện vượt mức kế hoạch điều chuyển vốn về ngân hàng công
thương Việt Nam để điều hoà trong toàn hệ thống.
Xem xét cơ cấu nguồn vốn trong 3 năm qua từ 2000 đến năm 2002 :
Bảng 3: Cơ cấu nguồn vốn NHCTII-HBT
Chỉ Tiêu 2000 2001 2002
TG các TCKT 527 33,4 +32,7 643 34,9 +22,2 695 34,5 8,2
TG tiết kiệm 1052 66,6 +9 1195 65,1 +13,8 1318 65,5 10,2
TG kỳ phiếu 0 0 -100 0 0 0 0 0
Khác 0 0 0 0 0 0 0 0
(Theo nguồn báo cáo của NHCTII -HBT)
Nhìn vào bảng ta có thể thấy rằng khu vực tiền gửi dân cư luôn tăng lên qua các
năm tuy nhiên tốc độ tăng trưởng là không đều có thể là do lãi suất huy động tiền
gửi của dân cư có xu hướng giảm dần do khách hàng muốn dùng tiền gửi của mình
để đầu tư hoặc chi tiêu nhiều hơn. Tuy nhiên nguồn tiền gửi dân cư luôn chiếm tỷ
trọng lớn 66,6%( năm 2000), 65,1%(năm 2001), 65,5%(năm 2002) của tổng nguồn
huy động. điều này cho thấy ngân hàng đã có một vị trí đáng kể trong khu vực dân
cư, nguồn tiền gửi của dân cư chủ yếu vào loại tiền gửi có kỳ hạn với tỷ trọng lên
tới. Điều này giúp ngân hàng có sử dụng một lượng vốn lớn và tương đối ổn định,
ngân hàng có thể lường trước được thời gian rút vốn của khách hàng, từ đó có kế
hoạch sử dụng vốn hợp lý.
Bên cạnh đó nguồn huy động từ khu vực tổ chức kinh tế ngày một tăng cao điều này
tạo điều kiện cho hoạt động ngân hàng vì các doanh nghiệp sử dụng các dịch vụ của
ngân hàng nhiều hơn. Hơn nữa các khoản tiền gửi của các tổ chức này chủ yếu là
tiền gửi không kỳ hạn với lãi suất huy động thấp, từ đây có thể giúp ngân hàng tăng
thêm lợi nhuận cũng như tăng thêm sức cạnh tranh cho ngân hàng.
2.2. Tình hình sử dụng vốn của NHCT II- HBT.
Bảng 4: Bảng theo dõi tình hình dư nợ của NHCTII-HBT năm (1997-2002).
Tổng dư nợ
Ngắn hạn
Trung dài hạn
(nguồn: báo cáo dư nợ NHCT II- HBT 1997-2002)
Theo số liệu trên ta có thể thấy dư nợ tín dụng ngắn hạn liên tục tăng lên qua các
năm với tốc độ tăng đều nhau và khá ổn định. Điều này đảm bảo nguồn thu ổn định
cho ngân hàng và giúp ngân hàng dự đoán được tốc độ phát triển của tín dụng trong
thời gian tới. Nhìn vào bảng số liệu ta có thể tính được tỷ trọng của dư nợ ngắn hạn
giảm dần qua các năm: Năm 1997 nợ ngắn hạn chiếm 84,7% trong tổng dư nợ, năm
1998 tỷ trọng này là 78,5%, năm 1999 tỷ trọng này là 78%, năm 2000 tỷ trọng này
là 68,9%, năm 2001 tỷ trọng này là 64,7%, riêng năm 2002 tỷ trọng này là 63,05%.
Mặc dù tỷ trọng trong tổng dư nợ giảm dần qua các năm từ năm 1997 đến năm 2002
nhưng dư nợ tín dụng ngắn hạn vẫn tăng đều qua các năm, đóng vai trò quan trọng
trong hoạt động của ngân hàng. Đây cũng là một nét mới trong chiến lược kinh
doanh của NHCTII- HBT, đã có sự chuyển dịch đầu tư, khuyến khích tín dụng
trung và dài hạn phát triển. Đây là một bước tiến mới của ngân hàng.
Trong bảng cân đối kế toán của NHCTII- HBT thì hoạt động tín dụng và đầu tư
đem lại nguồn thu chính cho ngân hàng. Trong tổng dư nợ tín dụng thì tín dụng
ngắn hạn lại chiếm tỷ trọng lớn. Như vậy tín dụng ngắn hạn có vai trò quan trọng
đối với ngân hàng. Với đặc điểm của của tín dụng ngắn hạn đó là vòng quay của
tiền nhanh, do đó trong điều kiện nền kinh tế của chúng ta đang trong giai đoạn phát
triển và đang trong giai đoạn đổi mới nên có nhiều vấn đề mâu thuẫn và chưa bắt
kịp với thế giới dẫn đến nền kinh tế phát triển chưa ổn định. Mặt khác NHCTII-
HBT nằm trong một khu vực đông dân cư, nơi tập trung rất đông các doanh nghiệp
sản xuất, thương mại đặc biệt các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, sản xuất mang tính
thời vụ. Với những đặc điểm vĩ mô và vi mô như vậy thì tín dụng ngắn hạn không
những đem lại nguồn thu chính cho ngân hàng mà còn bảo đảm an toàn, khả năng
cạnh tranh cho ngân hàng. Đó là cơ sở để tín dụng ngắn hạn tại NHCTII-HBT phát
triển.
Cơ cấu tín dụng ngắn hạn của NHCTII- HBT:
Đặc điểm chung trong cơ cấu dư nợ cho vay nói chung và cho vay ngắn hạn nói
riêng là doanh nghiệp quốc doanh hay thành phần kinh tế quốc doanh chiếm tỷ
trọng lớn hơn thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. điều có thể giải thích là do lịch
sử hình thành và nhóm khách hàng truyền thống của ngân hàng. Từ khi hình thành
mục đích chính của NHCT nói chung là tài trợ vốn tín dụng để phát triển khu vực
công nghiệp và thương nghiệp của nền kinh tế bao cấp từ đó hình thành nhóm
khách hàng truyền thống của ngân hàng là các doanh nghiệp nhà nước, mặt khách
ngân hàng mở rộng cho vay đối với thành phần này vì đảm bảo an toàn hơn vì trong
trường hợp làm ăn thua lỗ thì vẫn được nhà nước bù lỗ. Ngoài ra, thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh phần lớn làm ăn hiệu quả vẫn chưa cao, quy mô lại rất nhỏ chưa
đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Để thấy rõ điều này chúng ta hãy
xem bảng sau:
Bảng 5: Báo cáo cho vay ngắn hạn theo khu vực kinh tế.
CHỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
1. Doanh số cho vay
- Ngoài quốc doanh
- Quốc doanh
2. Doanh số thu nợ
- Ngoài quốc doanh
- Quốc doanh
3. Dư nợ ngắn hạn
- Ngoài quốc doanh
- Quốc doanh
Nhìn bảng trên ta có thể thấy rằng khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chỉ chiếm một
tỷ trọng nhỏ trong tổng dư nợ ngắn hạn. Năm 2000 chiếm 2,1%, năm 2001 tỷ trọng
này là 1,88% và năm 2002 tỷ trọng này là 4%. Theo tôi đây là hạn chế của NHCTII
- HBT, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì khu vực này càng ngày càng năng
động trong hạch toán kinh doanh của mình. Đây là một thị trường tiềm năng mà
ngân hàng nên hướng tới. Mặt khác tỷ trọng dư nợ cho vay VNĐ lớn hơn ngoại tệ
do nhu cầu thanh toán ngoại tệ trong khu vực thấp và chỉ tập trung ở khu vực kinh
tế quốc doanh mà thôi. Tuy nhiên những năm gần đây ngân hàng mở rộng phạm vi
đầu tư sang những lĩnh vực khác mà không chỉ tập trung vào lĩnh vực công nghiệp,
đây là chiến lược hợp lý của ban lãnh đạo ngân hàng.
Bảng 6: Hoạt động tín dụng ngắn hạn phân theo nghành kinh tế năm 2002.
Đơn vị:trđồng
1. Ngành lâm nghiệp ,nông nghiệp
2. Thuỷ sản
3. CN khai thác mỏ
4. CN chế biến
5. Nghành sx phân phối điện
6. Nghành xây dựng
7.Thương nghiệp, sữa chữa.
8.Khách sạn nhà hàng
9.Vận tải, kho bãi, thông tin liên lạc.
10.Tài chính, tín dụng
11.Khoa học công nghệ
12.Các hoạt động KD và tư vấn
13.Quản lý nhà nước và an ninh qp.
14.Giáo dục và đào tạo
15.Y tế và hoạt động cứu trợ
16.Hoạt động văn hoá thể thao.
17.Hoạt động đảng, đoàn thể.
18.Hoạt động phục vụ cá nhân
19.Hoạt động làm thuê
Từ bảng số liệu ta có thể thấy rằng hoạt động kinh doanh của NHCT II- HBT không
còn chỉ tập trung vào nghành công nghiệp mà đã mở rộng sang lĩnh vực khác. Ta có
thể thấy rằng khách hàng của ngân hàng vẫn chủ yếu bó hẹp và chưa thực sự mở
rộng. Dư nợ tín dụng chủ yếu tập trung ở các nghành công nghiệp chế biến và
thương nghiệp đây vẫn được coi là nghành có thời gian thu hồi vốn nhanh do đặc
thù của nghành là chuyển hoá vốn chỉ diễn ra ở giai đoạn lưu thông và phân phối
hàng hoá trong quá trình tái sản xuất.
Có thể nói rằng trong vài năm qua, tín dụng ngắn hạn của NHCTII-HBT có vai trò
rất lớn trong sự phát triển của các doanh nghiệp. Bởi vì ngân hàng đã cung cấp một
lượng tín dụng ngắn hạn rất lớn cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế, đáp ứng
kịp thời lượng vốn mà doanh nghiệp cần để mở rộng sản xuất kinh doanh, thực hiện
đúng chủ trương của nhà nước tạo đà cho công cuộc đổi mới đất nước. Cụ thể một
số công ty được ngân hàng cung cấp vốn:
Khối kinh tế quốc doanh: Dư nợ chiếm 97% trong tổng dư nợ cho vay ngắn hạn, tập
trung ở một số doanh nghiệp lớn như: Công ty dệt Hà Nội, Công ty dệt 8/3, Dệt kim
đông xuân, Tổng công ty giấy, Tổng công ty lâm sản... Chi nhánh đã thực hiện cho
vay theo hạn mức tín dụng đối với từng doanh nghiệp, đảm bảo chất lượng tín dụng,
chú trọng đáp ứng nhu cầu lớn của khách hàng.
Khối kinh tế ngoài quốc doanh: Để đầu tư ở thành phần kinh tế này chi nhánh chú
trọng đầu tư theo món. Mặc dù bộ phận này chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong dư nợ của
ngân hàng nhưng nó được đánh giá là khu vực có tiềm năng và ngân hàng ngày
càng mở rộng cho vay đối với khu vực này. Khách hàng chủ yếu gồm: Hợp tác xã
Tiến bộ, Tổ thịnh vượng, Tổ đồng tâm, Công ty TNHH Anh Đạt, HTX Chiến thắng,
Công ty xây dựng và thiết bị nội thất, Công ty TNHH Mỹ Anh...
3. Chất lượng tín dụng ngắn hạn tại NHCT II – HBT.
Khi tham gia vào nền kinh tế thị trường mục tiêu lợi nhuận được đánh giá là mục
tiêu hàng đầu. Các tổ chức tín dụng cũng không loại trừ điều này, trong đó hoạt
động tín dụng là những hoạt động đem lại nguồn thu chính cho ngân hàng, do đó để
đánh giá chất lượng tín dụng người ta cũng dùng lợi nhuận như một thước đo chủ
yếu.
Bảng 7: Tình thu lãi trong hoạt động tín dụng NHCT II – HBT.
Đơn vị : đồng.
Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
Tổng doanh thu 93350907502 118894061509 128884820737
Thu lãi từ hoạt động cho vay 35452660037 46271883117 62814036012
Lãi cho vay ngắn hạn 27362435520 32397546214 39765384240
Lãi sau thuế 16923996472 3781079502 24132429060
Năm 2000 tổng doanh thu của ngân hàng là 93350907502 đồng trong đó lãi từ hoạt
động cho vay là 35452660037 đồng, chiếm 38% trong tổng doanh thu. Năm 2001
lãi từ hoạt động cho vay là 46271883117 đồng chiếm khoảng 40% trong tổng doanh
thu. Mặc dù lãi từ hoạt động cho vay năm 2001 tăng so với năm 2000 khoảng
30,5% nhưng về tỷ trọng thu lãi từ hoạt động cho vay so với tổng doanh thu tăng rất
nhỏ khoảng hơn 2% bởi vì ngân hàng mở rộng đầu tư vào những lĩnh vực khác :
liên doanh liên kết, đầu tư vào chứng khoán... Tình hình doanh thu của cho vay
ngắn hạn cũng tăng lên nhưng cũng không đáng kể vì trong giai đoạn này ngân
hàng mở rộng cho vay và đầu tư tín dụng dài hạn. Trong năm 2002 mặc dù tổng
doanh thu chỉ tăng khoảng 8% so với năm 2001 nhưng doanh thu từ hoạt động cho
vay lại tăng khoảng 35,7%, bởi vì trong giai đoạn này ngân hàng đã mở rộng cho
vay, cho vay ngắn hạn cũng được mở rộng điều này thể hiện ở doanh thu từ lãi cho
vay ngắn hạn năm 2002 tăng 22,7% so với năm 2002. điều này cho thấy rằng nguồn
thu lãi chủ yếu là hoạt động cho vay xuất phát từ hoạt động thu lãi ngắn hạn, từ đó
tạo niềm tin chất lượng tín dụng ngắn hạn của NHCT II – HBT là khá tốt và được
nâng cao qua các năm.
Tuy nhiên ngoài chỉ tiêu lợi nhuận thì để xem xét chất lượng tín dụng còn cần xem
xét nợ quá hạn bởi vì nợ quá hạn cao cũng có nghĩa là ngân hàng không thu được lãi
và gốc cho vay đúng hạn, nói cách khác làm giảm chất lượng tín dụng của ngân
hàng.
Bảng 8: Dư nợ quá hạn. Đơn vị:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Ngân hàng công thương chi nhánh II và vai trò trong tín dụng ngắn hạn.pdf