Tài liệu Luận văn Năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà xét xử án hình sự ở tỉnh An Giang: LUẬN VĂN:
Năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên
thực hành quyền công tố tại phiên toà xét
xử án hình sự ở tỉnh An Giang
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay,
về lĩnh vực tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Đảng chủ trương phải thực hiện đồng bộ
ba cuộc cải cách: cải cách tư pháp, cải cách pháp luật, cải cách hành chính. Đây là những
vấn đề rất quan trọng đã và đang được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học, của
các ngành, các cấp.
Tuy vẫn còn những ý kiến khác nhau từ nghiên cứu lý luận và thực tiển, nhưng nhìn
chung đã xác định rằng để đảm bảo cho công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính
thành công thì vấn đề trọng yếu của quá trình xây dựng Nhà nước Pháp quyền và cũng là
nhân tố không thể thiếu, đó là cải cách tư pháp.
“Về một số trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” của Nghị quyết 08–
NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị đã chỉ rõ “… nâng cao chất...
90 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1284 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà xét xử án hình sự ở tỉnh An Giang, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên
thực hành quyền công tố tại phiên toà xét
xử án hình sự ở tỉnh An Giang
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay,
về lĩnh vực tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Đảng chủ trương phải thực hiện đồng bộ
ba cuộc cải cách: cải cách tư pháp, cải cách pháp luật, cải cách hành chính. Đây là những
vấn đề rất quan trọng đã và đang được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học, của
các ngành, các cấp.
Tuy vẫn còn những ý kiến khác nhau từ nghiên cứu lý luận và thực tiển, nhưng nhìn
chung đã xác định rằng để đảm bảo cho công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính
thành công thì vấn đề trọng yếu của quá trình xây dựng Nhà nước Pháp quyền và cũng là
nhân tố không thể thiếu, đó là cải cách tư pháp.
“Về một số trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” của Nghị quyết 08–
NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị đã chỉ rõ “… nâng cao chất lượng công tố của
Kiểm sát viên tại phiên toà, đảm bảo tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và
những người tham gia tố tụng khác…” và nghị quyết 49–NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ
chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 tiếp tục khẳng định “Nâng cao chất
lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư
pháp…” là những định hướng và yêu cầu thúc đẩy việc nghiên cứu nhiều hơn nữa vấn đề
tranh tụng trong hoạt động tố tụng, về chất lượng tranh tụng của Viện Kiểm sát thực hành
quyền công tố, mở rộng yếu tố tranh tụng … và vì vậy, tranh tụng được xác định là một
trong những nội dung quan trọng về cải cách tư pháp.
Từ những vấn đề trên, về mặt lý luận, thực tiển và từ yêu cầu thực hiện nghị quyết
của Đảng về cải cách tư pháp, năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà là một
trong những nội dung cần được quan tâm nghiên cứu nhiều thêm. Do vậy, để góp phần, tác
giả luận văn chọn đề tài “Năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công
tố tại phiên toà xét xử án hình sự ở tỉnh An Giang” làm đề tài luận văn Thạc sĩ luật tại
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong tố tụng hình sự, tranh tụng giữa các chủ thể có liên quan trong quá trình xử lý
tội phạm qua những vụ án hình sự là vấn đề không phải mới trong khoa học pháp lý và
được ghi nhận thành nguyên tắc của tố tụng hình sự và áp dụng phổ biến hầu hết các nước
trên thế giới. Ở nước ta, tranh tụng chưa được quy định là một trong những nguyên tắc cơ
bản của Bộ luận Tố tụng hình sự hiện hành, chỉ được thể hiện tại một số điều của Bộ luật.
Vì vậy, vấn đề áp dụng nguyên tắc tranh tụng, đảm bảo tranh tụng dân chủ giữa các
chủ thể mà trong đó có vai trò của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố thể hiện năng lực
tranh tụng tại phiên tòa xét xử án hình sự cũng đang thu hút sự chú ý của các nhà khoa học
pháp lý nghiên cứu. Có những công trình và đề tài khoa học về lĩnh vực này, trong đó đáng
chú ý như:
─ Luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Đức Mai về “Vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình
sự” – năm 1996. Nội dung luận văn làm rõ tính khoa học và sự cần thiết trong hoạt động
tranh tụng, đáp ứng yêu cầu trong quan hệ tố tụng tại phiên tòa xét xử hình sự.
─ Luận văn Thạc sỹ luật học của Nguyễn Tiến Long về “Thực hiện pháp luật đảm
bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử hình sự sơ thẩm ở Việt Nam hiện nay” – năm 2005.
Qua nội dung của luận văn đã làm rõ thêm các khái niệm tranh tụng; vai trò, đặc điểm của
tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng trong xét xử hình sự từ đó đề xuất các giải pháp đảm
bảo tranh tụng trong xét xử hình sự sơ thẩm ở nước ta hiện nay.
─ Luận văn Thạc sỹ luật học của Hoàng Anh Phương “Năng lực tranh tụng của
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự ở Việt Nam
hiện nay” – năm 2007. Nội dung của luận văn đã phân tích và đánh giá một cách hệ thống
cơ sở lý luận năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên; các tiêu chí đánh giá và thực trạng về
năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm hình sự ở Việt Nam hiện nay và đề xuất các giải pháp để nâng cao năng lực tranh
tụng của Kiểm sát viên đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam hiện nay;
─ Đề tài khoa học cấp Bộ của Viện khoa học Kiểm sát – Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực tiễn hoạt động công tố ở Việt Nam từ
năm 1945 đến nay” – năm 1999, đã tập hợp những nghiên cứu so sánh những vấn đề lịch
sử và thực tiễn của chế định quyền công tố trong tư pháp hình sự trên thế giới, cũng như
việc phân tích khoa học các đặc điểm chủ yếu của mỗi chức năng của quyền công tố trong
luật tố tụng hình sự Việt Nam và đưa ra khái niệm khoa học về quyền công tố nhằm góp
phần xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
─ Đề tài khoa học cấp Bộ của Trường đào tạo các chức danh Tư pháp – Bộ Tư pháp
“Tranh tụng tại phiên tòa – một số vấn đề lý luận và thực tiễn” – năm 2003. Nội dung của
đề tài làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến tranh tụng tại phiên tòa; đánh giá thực trạng
thực hiện tranh tụng và đề ra giải pháp nhằm mở rộng tranh tụng tại phiên tòa nhằm định
hướng cho việc xây dựng và thực hiện các chương trình đào tạo chức danh tư pháp ở nước
ta.
─ Đề tài khoa học cấp Bộ của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao “Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn đổi mới thủ tục tranh tụng tại phiên tòa” – năm 2004. Nội dung chỉ ra
một số vấn đề lý luận cơ bản về hệ thống tranh tụng qua phương pháp so sánh với hệ thống
tố tụng hình sự thẩm vấn và những quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự cần sữa đổi bổ
sung để đáp ứng yêu cầu khi áp dụng tố tụng tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự.
─ “Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm” của Tiến sỹ Dương Thanh Biểu, Nxb Tư
pháp, năm 2007. Đề cập những vấn đề lý luận, vận dụng kiến thức pháp luật, về các trình
tự, nội dung liên quan việc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm và qua các ví dụ minh họa đã
nêu được những tồn tại, thiếu sót của Kiểm sát viên trong tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm
hình sự.
─ “Kỹ năng tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự liên quan
đến phụ nữ” – Nxb CAND, năm 2007 của nhóm nghiên cứu Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao với nội dung dẫn chứng từ công ước CEDAW và Luật Bình đẳng giới của Việt Nam,
tuyển chọn một số bản luận tội, bản đối đáp, tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ
thẩm hình sự liên quan đến phụ nữ đã góp phần khắc phục những khuyết điểm, tồn tại của
hoạt động thực hành quyền công tố, trong đó có hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên tại
phiên tòa hình sự nói chung và tại phiên tòa sơ thẩm hình sự có liên quan đến phụ nữ nói
riêng.
─ Bài đăng tải trong Tạp chí Kiểm sát số 12 năm 2005 của Lê Hữu Thể: “Vai trò
của Kiểm sát viên trong hoạt động tranh dụng tại phiên tòa”, có nội dung chỉ ra cách để
Kiểm sát viên thực hiện tốt hơn trong hoạt động tranh tụng và các giải pháp thực hiện vai
trò chủ động, tích cực qua tranh tụng.
─ Bài đăng trong Tạp chí Kiểm sát số 8 năm 2006 của Phạm Hồng Hải về: “Thực
trạng tranh tụng trong phiên tòa hình sự của Kiểm sát viên dưới góc độ luật sư”, có nội
dung nêu ra những mặt được, chưa được qua thực hiện tranh tụng của Kiểm sát viên thực
hành quyền công tố và những yêu cầu khắc phục để nâng cao chất lượng tranh tụng.
Tuy vẫn còn nhiều bài viết khác được đăng tải trên các tạp chí nghiên cứu lập pháp,
tạp chí Luật học, Thông tin khoa học pháp lý, Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Tòa án nhân dân,
... Nhưng nhìn chung, nội dung các đề tài phần nhiều xoay quanh nghiên cứu hoạt động
tranh tụng ở giai đoạn tố tụng sơ thẩm hình sự, còn mảng tranh tụng tại phiên tòa phúc
thẩm hình sự ít được đề cập và năng lực Kiểm sát viên cần được nghiên cứu nhiều thêm ở
cả giai đoạn tố tụng này của Bộ Luật tố tụng hình sự.
3. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận có liên quan đến năng lực tranh tụng của
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và những yếu tố đảm bảo năng lực tranh tụng của
Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử án hình sự sơ thẩm, phúc thẩm và thực tế thực hiện ở địa
phương.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Từ thực tiễn thực hành quyền công tố của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang,
luận văn nghiên cứu vấn đề về năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền
công tố tại phiên tòa hình sự sơ thẩm và phúc thẩm ở địa phương. Luận văn không nghiên
cứu vấn đề tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử
phúc thẩm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân tối cao.
Về thời gian nghiên cứu, luận văn chủ yếu tập trung làm rõ những vấn đề có liên
quan đến đề tài trong khoảng thời gian từ năm 1998 đến năm 2007.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
4.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Qua thực tiển, với mong muốn nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận và thực tiển liên quan đến đề tài của luận văn, luận chứng và đề xuất những giải pháp
để năng lực thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử án hình sự
thực hiện việc tranh tụng được tốt hơn, nhằm đảm bảo phiên tòa hình sự thể hiện đầy đủ
tính dân chủ, bình đẳng, khách quan, công khai và qua đó, Hội đồng xét xử ra quyết định,
bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật ; góp phần hoàn thiện các quy định về tranh
tụng của Bộ luật tố tụng hình sự, thực hiện cải cách tư pháp, lấy “xét xử là hoạt động trung
tâm” theo tinh thần của Nghị quyết 08 và Nghị quyết 49 của Bộ chính trị (Khóa IX).
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục đích nên trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
─ Làm rõ sở lý luận về năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công
tố tại phiên tòa xét xử án hình sự sơ thẩm, phúc thẩm.
─ Đánh giá thực trạng về năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền
công tố tại phiên tòa xét xử án hình sự sơ thẩm, phúc thẩm ở tỉnh An Giang.
─ Đề xuất quan điểm, giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật đảm bảo năng lực
tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử án hình sự ở
tỉnh An Giang.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận của luận văn
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, nhất là các quan điểm, chủ
trương của Đảng về cải cách tư pháp. Luận văn có dựa trên cơ sở lý luận của Khoa học luật tố
tụng hình sự, những nghiên cứu có liên quan đến áp dụng pháp luật theo hệ tố tụng tranh
tụng, hệ tố tụng thẩm vấn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa
duy vật lịch sử như phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiển, phương pháp lịch sử cụ
thể, phương pháp phân tích tổng hợp. Ngoài ra, còn sử dụng một số phương pháp của các
bộ môn khoa học khác như phương pháp so sánh, thống kê kết hợp với khảo sát thực tế.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
─ Phân tích và góp phần làm rõ thêm các khái niệm có liên quan đến đề tài như:
khái nhiệm quyền công tố, thực hành quyền công tố, năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên
thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự ; các yếu tố cấu thành năng lực tranh tụng
của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự.
─ Đề xuất các giải pháp để nâng chất lượng năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên
thực hành quyền công tốt tại phiên tòa xét xử án hình sự sơ thẩm, phúc thẩm, đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp.
7. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn, trong chừng mực, góp phần làm cơ sở tham khảo
cho việc nghiên cứu, phục vụ yêu cầu thực tiễn về các tiêu chí đánh giá năng lực tranh
tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử án hình sự sơ thẩm,
phúc thẩm theo phân cấp trong tố tụng hình sự.
Luận văn cũng có thể sử dụng nghiên cứu, tham khảo “đổi mới việc tổ chức phiên tòa
xét xử, xác định rõ vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng ...” theo yêu cầu cải cách tư pháp của Nghị quyết 49 Bộ chính trị (Khóa
IX).
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được
trình bày thành 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC TRANH TỤNG CỦA
KIỂM SÁT VIÊN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ ÁN HÌNH SỰ
1.1. KHÁI NIỆM NĂNG LỰC TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TẠI PHIÊN TOÀ XÉT XỬ ÁN HÌNH SỰ
Để làm rõ khái niệm năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố
tại phiên toà xét xử án hình sự, trước hết cần làm rõ một số khái niệm khác có liên quan
đến vấn đề này.
Trước hết là, Khái niệm quyền công tố
Hiện nay, trong khoa học pháp lý ở nước ta tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về
quyền công tố.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Công tố là quyền chỉ thuộc Nhà nước, không một cá
nhân, một tổ chức nào được thực hiện nếu không được Nhà nước cho phép. Từ đó đưa ra
quan điểm về quyền công tố:
Là một quyền năng của Nhà nước, quyền công tố được thực hiện trong tất cả các quá
trình giải quyết các vi phạm pháp luật bao gồm tố tụng hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng
kinh tế, tố tụng lao động, tố tụng hình sự [8, tr.87].
Quan điểm này đã coi quyền công tố là một quyền năng của Nhà nước và được giao
cho cá nhân, tổ chức thực hiện việc cáo buộc đối tượng có hành vi sai trái, vi phạm pháp
luật. Đối tượng bị cáo buộc là con người cụ thể hoặc một tổ chức, một cơ quan tùy theo vi
phạm đối với quan hệ pháp luật nào. Trong tố tụng hình sự, cả ba cơ quan tiến hành tố
tụng là Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và Tòa án đều có quyền công tố.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Quyền công tố có trong hai cơ quan tiến hành tố tụng
đó là cơ quan điều tra và cơ quan truy tố là Viện Kiểm sát và được Nhà nước giao quyền
khởi tố, điều tra, truy tố người phạm tội:
Quyền công tố là quyền của Nhà nước được giao cho các cơ quan nhất định khởi tố,
điều tra và truy tố người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử và thực hiện việc buộc tội
trước phiên tòa [35, tr.240].
Quan điểm này giải thích quyền công tố thuộc phạm vi tố tụng hình sự, nhưng chỉ có
hai cơ quan được Nhà nước giao quyền theo tố tụng, thu hẹp hơn so với quan điểm thứ
nhất.
Quan điểm thứ ba cho rằng: Không có quyền công tố chung chung mà có tính cụ thể,
quyền này xuất hiện một khi một tội phạm cụ thể đã được thực hiện bởi người phạm tội.
Thực chất của quyền công tố là quyền của Nhà nước, ủy quyền hoặc phân công cho một cơ
quan trong bộ máy Nhà nước thực hiện chức năng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội. Từ đó đưa ra khái niệm: Quyền công tố là quyền của một cơ quan Nhà
nước được Nhà nước ủy quyền thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội nhằm đưa người đó ra xét xử trước Tòa án và đồng thời bảo vệ sự buộc tội đó [7,
tr.52].
Quan điểm này cũng xác định quyền công tố là quyền năng của Nhà nước ủy quyền
hoặc phân công cho một cơ quan trong bộ máy Nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ
trong lĩnh vực tố tụng hình sự là buộc tội đối với người phạm tội hình sự.
Như vậy, giữa các quan điểm có khác nhau về việc xác định lĩnh vực phát sinh quyền
công tố; phạm vi; chủ thể thực hiện quyền năng công tố của Nhà nước.
Quan điểm thứ tư cho rằng: Khoa học luật tố tụng hình sự Việt Nam kế thừa luật tố
tụng hình sự các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô (cũ). Mô hình tổ chức, hoạt
động của Viện Kiểm sát nhân dân cũng được xây dựng theo mô hình tương tự. Do vậy,
theo luật định giao cho Viện Kiểm sát thực hành quyền công tố ngay trong giai đoạn xét
xử. Từ đó, thống nhất khái niệm:
Quyền công tố là quyền đưa vụ án ra tòa để xét xử và quyền công tố có thể thực hiện
từ khi kết thúc điều tra đến khi có bản luận tội của Viện Kiểm sát trước phiên tòa [19,
tr.21].
So với các quan điểm nên trên, quan điểm này xác định quyền công tố chỉ phát sinh
sau khi cơ quan điều tra đã hoàn tất, có kết luận điều tra và chấm dứt khi Kiểm sát viên
thực hành công tố công bố việc luận tội tại phiên tòa sơ thẩm hình sự. Nói cách khác, đây
là quan điểm thu hẹp khái niệm quyền công tố, đồng nhất quyền công tố với thực hành
quyền công tố tại phiên tòa xét xử án hình sự.
Nhìn chung, các quan điểm đã nêu trên đều dựa vào các quy định pháp luật làm cơ sở
và từ thực tiển ở nước ta để nghiên cứu. Do cách tiếp cận khác nhau nên vẫn còn có những
quan điểm chưa thống nhất về quyền công tố. Tuy vậy, vẫn có được nhận thức chung là nó
thuộc lĩnh vực hình sự tố tụng để nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội và quyền này được luật quy định giao cho một cơ quan thực hiện nằm trong hệ thống tổ
chức bộ máy của Nhà nước. Mặt khác, trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa và định hướng cải cách tư pháp đến năm 2020 mà Đảng và Nhà nước đang
quan tâm, các quan điểm nghiên cứu mang tính khoa học cũng đã gợi mở, kích thích việc
tìm tòi nhận thức về tính xác thực của quyền công tố. Để góp phần cho công việc nghiên
cứu này, tôi cho rằng: Quyền công tố là quyền riêng biệt của một trong những cơ quan nhà
nước trong hệ thống cơ quan tư pháp, được Nhà nước giao quyền truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm một hay nhiều tội danh được quy định trong Bộ luật hình sự
và bảo vệ việc buộc tội của người đó tại phiên tòa xét xử án hình sự.
* Từ khái niệm này, có thể xác định được:
─ Quyền công tố là quyền đặc thù được Nhà nước giao cho một trong những cơ
quan hoạt động trong lĩnh vực tư pháp nằm trong bộ máy nhà nước, ở nước ta hiện nay đó
là Viện Kiểm sát nhân dân. Và quyền này được thực hiện trong lĩnh vực tố tụng hình sự.
─ Buộc tội đối với người phạm tội tại phiên tòa xét xử án hình sự là nội dung của
quyền công tố qua từng vụ án cụ thể. Để thực hiện việc đó là cả một quá trình xác định
những căn cứ đối với những hành vi được xem là tội phạm được quy định trong Bộ luật
hình sự và đã được khởi tố, điều tra, cho đến lập cáo trạng chuyển hồ sơ sang tòa án để
truy tố, xét xử cho đến khi hiệu lực của bản án được xác định.
Như vậy, trong giai đoạn khởi tố điều tra, truy tố, xét xử thì quyền công tố luôn được
thể hiện.
Khái niệm thực hành quyền công tố.
Với khái niệm quyền công tố nêu ở phần trên thì thực hành quyền công tố là thể hiện
nội dung hoạt động của quyền công tố.
Trước những năm 1980 của thế kỷ trước, thực hành quyền công tố được hiểu như là
một nhiệm vụ của công tố viên (còn gọi là Kiểm sát viên) giữ quyền công tố tại các phiên
tòa hình sự của giai đoạm xét xử sơ thẩm; ở giai đoạn xét xử phúc thẩm thì xem Kiểm sát
viên chỉ tham gia phiên tòa khi bản án ở cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực thi hành do có
kháng cáo hoặc kháng nghị. Quyền công tố sẽ bị cắt xén nếu chỉ dừng lại việc thực hành
quyền công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm án hình sự. Kiểm sát viên thực hành quyền công
tố là thực hiện quyền năng theo luật định. Đây cũng là việc thực hiện một chức năng cơ
bản của Viện Kiểm sát thông qua các hoạt động ở các giai đoạn khác nhau được ghi nhận
trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001), Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi) năm 2003
và Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân.
Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân quy định .
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự Viện
Kiểm sát nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Đọc cáo trạng, quyết định của Viện Kiểm sát nhân dân liên quan đến
việc giải quyết vụ án tại phiên tòa;
2. Thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phát biểu
quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm, tranh luận với
người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa sơ thẩm,
phúc thẩm;
3. Phát biểu quan điểm của Viện Kiểm sát về việc giải quyết vụ án tại
phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm [26, Đ.17].
Thực hành quyền công tố của Viện Kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự có cả
trong giai đoạn tố tụng điều tra và tố tụng xét xử, qua đó mới đảm bảo được việc xác định
sự thật của vụ án, thực hiện quyền truy cứu trách nhiệm hình sự và công khai bảo vệ sự
buộc tội tại phiên tòa đối với người đã thực hiện tội phạm; Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng
Hiến pháp, Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, cũng ghi nhận Viện Kiểm sát nhân dân
còn một chức năng song hành với chức năng thực hành quyền công tố đó là Kiểm sát các
hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất. Do vậy, cần phân biệt qua đối tượng của hai chức năng luật định này, vì đối
tượng của chức năng Kiểm sát hoạt động tư pháp là việc sử dụng để yêu cầu xử lý các vi
phạm pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng; còn đối
tượng của chức năng thực hành quyền công tố là các quyết định liên quan đến cáo buộc
người phạm tội. Từ đó có thể hiểu: Thực hành quyền công tố là việc Viện Kiểm sát nhân
dân thực hiện quyền năng và các biện pháp pháp lý theo quy định của pháp luật để truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội và đưa người phạm tội ra phiên tòa xét xử
để bảo vệ việc quy buộc tội trạng đã được xác định đối với người đó.
Khái niệm về tranh tụng tại phiên tòa xét xử án hình sự
Một trong những nội dung cơ bản để xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta là cải
cách tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp.
... Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm
tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố
tụng khác ... việc phán quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả
tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý
kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên
đơn, bị đơn, người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định
đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định [2,
tr.4].
Nếu tiếp cận theo cách thức tiến hành tố tụng thì tranh tụng là một kiểu tố tụng được
áp dụng phổ biến ở hệ thống pháp luật Anh và Mỹ theo sự phân định của các chức năng
buộc tội, bào chữa và xét xử mà ở đó, công tố viên là phía buộc tội luôn đối lập với phía
thực hiện quyền bào chữa. Một kiểu tố tụng nữa là kiểu tố tụng “thẩm vấn” cũng được áp
dụng từ lâu và phổ biến ở nhiều nước theo hệ thống của Châu Âu lục địa, tại phiên tòa
Thẩm phán xét xử vẫn là người xét hỏi chính, phía công tố viên và phía bào chữa chỉ thẩm
vấn bổ sung để làm rõ thêm những vấn đề chưa rõ tại phiên xử công khai và ở chừng mực
về quan điểm thể hiện qua đối đáp, tranh luận thì nội dung đối lập có thể hiện nhưng
không nhiều:
Qua nghiên cứu cho thấy, kiểu tố tụng tranh tụng hay kiểu tố tụng thẩm vấn đều có
những mặt được và chưa được. Ngay trong các nước có truyền thống áp dụng cũng rút ra
những vấn đề có tính khoa học để khắc phục những nhược điểm và áp dụng đan xen nhằm
phục vụ yêu cầu đấu tranh chống tội phạm “như Italia vốn theo truyền thống tố tụng tranh
tụng nhưng đã lâm vào tình trạng bất lực trước tình hình xã hội đen maphia phạm tội, nay
đã chuyển sang kiểu tố tụng thẩm vấn kết hợp với các yếu tố tranh tụng để bảo đảm yêu
cầu xử lý tội phạm được nhanh chóng, kịp thời và bảo vệ các quyền cá nhân có hiệu quả”
[1, tr.17].
Như vậy, tranh tụng trong tố tụng hình sự nói chung và tranh tụng tại phiên tòa hình
sự nói riêng không phải là vấn đề mới trong khoa học pháp lý thế giới, nhiều nội dung liên
quan đến tranh tụng như khái niệm, bản chất của tranh tụng; phạm vi và nội dung tranh
tụng ... vẫn được tiếp tục nghiên cứu làm rõ.
Ở nước ta, trước khi có Nghị quyết 08 ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị thì vấn đề
tranh tụng ít được bóc tách, đề cập trong khoa học pháp lý mặc dù thực tế nó đang tồn tại
trong quá trình tố tụng hình sự và tại các phiên tòa xét xử án hình sự. Trong thời gian gần
đây, từ những góc độ và phạm vi tiếp cận khác nhau nhằm góp phần thúc đẩy tiến trình cải
cách tư pháp đã được các nhà khoa học pháp lý quan tâm nghiên cứu và đề cập nhiều hơn,
nhưng cũng có những vấn đề đang còn quan điểm chưa thống nhất.
Bàn về cải cách pháp luật ở nước ta hiện nay:
Có quan điểm cho rằng: “Nhà nước pháp quyền chỉ có thể xây dựng thành công khi
có một tổ chức tư pháp xứng đáng và luôn hướng tới đó” [4,tr.504] và qua sử dụng phương
pháp so sánh, tác giả cho rằng tố tụng hình sự Việt Nam không có các đặc trưng quan
trọng của tố tụng tranh tụng theo như hệ thống pháp luật Anh và Mỹ, cũng không theo hệ
thống tố tụng thẩm vấn như nhiều nước ở Châu Âu lục địa, mà đặc trưng quan trọng của tố
tụng hình sự hiện hành “... Là hệ tố tụng riêng biệt có thể gọi là “tố tụng buộc tội”” [4,
tr.588].
Quan điểm này có nhiều điểm mới với lập luận, đề xuất khá chặt qua cơ sở lý luận và
rất cần được quan tâm nghiên cứu trong tiến trình cải cách tư pháp ở nước ta. Đặc biệt là
về cải cách hoạt động xét xử nên hướng tới các nguyên tắc tranh tụng đã được định hướng
qua các Nghị quyết 08 và Nghị quyết 49 của Bộ chính trị đã nêu ở phần trên.
Có quan điểm khi nghiên cứu đổi mới pháp luật tố tụng hình sự để nâng cao tính
tranh tụng trong quá trình xét xử đã xuất phát từ thuật ngữ “tranh tụng” được hiểu là tranh
luận trong tố tụng và cho rằng: “Nâng cao tính tranh tụng trong quá trình xét xử án hình
sự có nghĩa là nâng cao hơn nữa hoạt động tranh luận” [5, tr.122].
Từ đó đặt ra yêu cầu chỉ cần chủ toạ phiên tòa tăng thời gian để luật sư và bị cáo
được trình bày hết các ý kiến của mình tại phiên tòa, không được ngắt lời hay hạn chế thời
gian phát biểu của họ bảo đảm sự tranh luận dân chủ giữa Kiểm sát viên và những người
than gia tố tụng khác là đủ.
Đây là quan điểm đồng nhất tranh tụng với tranh luận trong tố tụng hình sự
Nhưng có quan điểm cho rằng: “Không nên hiểu tranh tụng đơn thuần là việc tranh
luận một cách đầy đủ tại phiên tòa, mà cần phải hiểu bản chất của tranh tụng là một
phương thức xác định sự thật khách quan của vụ án. Trong đó, điểm mấu chốt là tổ chức tư
pháp” [4, tr.592].
Thực trạng phiên tòa ở địa phương nơi này, nơi khác còn có việc Hội đồng xét xử
ngắt lời hay hạn chế thời gian phát biểu của những người tham gia tố tụng, Kiểm sát viên
đã nắm chắc những chứng cứ được xây dựng qua hồ sơ và được công bố quy kết công khai
tại phiên xử nên ít tham gia xét hỏi và tranh luận sau lý đoán của người bào chữa ... Nhưng
không phải là tất cả các phiên tòa đều như vậy. Mặc khác, từ thực tiễn cho thấy, việc xem
như là hạn chế đó còn tùy thuộc vào trình độ lập luận có căn cứ hay không của phía người
tham gia tố tụng tại phiên tòa để tránh kéo dài thời gian không cần thiết và cũng không thể
cho rằng do vậy mà hạn chế dân chủ, thiếu khách quan trong các bản án, quyết định của
Hội đồng xét xử ...
Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành ghi nhận sau khi kết thức việc xét hỏi tại phiên tòa,
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trình bày lời luận tội, đề nghị kết tội bị cáo theo
toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng hoặc kết luận tội danh nhẹ hơn ... và tiếp đó, thực
hiện việc tranh luận, đối đáp qua ý kiến phát biểu bào chữa của bị cáo hoặc luật sư và
những người tham gia tố tụng khác với một bên là Kiểm sát viên giữ quyền công tố. Người
tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác, chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết
thúc tranh luận sau khi thấy rằng những người tham gia tranh luận không còn trình bày ý
kiến gì thêm. Như vậy “tranh luận tại phiên tòa là giai đoạn trong trình tự tố tụng hình sự,
được tiến hành sau phần xét hỏi tại phiên tòa” [22, tr.533] và kết thúc trước khi Hội đồng
xét xử nghị án và tuyên án. Do đó, tranh luận chỉ là một phần của phiên tòa hình sự nên
được xem như một thủ tục để bên buộc tội và bên bào chữa đánh giá kết quả xét hỏi, phân
định qua chứng cứ của vụ án để cân nhắc đề xuất Hội đồng xét xử về các vấn đề có liên
quan đến vụ án để giải quyết nên không thể đồng nhất tranh luận và tranh tụng là một.
Sẽ hợp lý khi xác định sự cần thiết vận dụng các nguyên tắc tranh tụng và xem đó là
phương thức, còn tranh luận chỉ là nội dung là đỉnh điểm của việc tranh tụng để nhằm làm
rõ sự thật khách quan của vụ án, áp dụng đúng pháp luật để giải quyết vụ án. Mặt khác,
cần xem “tranh tụng là nguyên tắc quan trọng, nguyên tắc đặc trưng của hoạt động tư pháp
và là đặc trung nổi bật nhất của tư pháp hình sự” [23, tr.6] để tiếp nhận những mặt ưu điểm
của nó, lượt bớt các nhược điểm nhằm phục vụ cho yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta.
Tuy còn khác nhau về quan điểm nghiên cứu, nhưng có sự thống nhất về mục đích
của tranh tụng tại phiên tòa là nhằm đảm bảo tính khách quan, công bằng và dân chủ giữa
các chủ thể là Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và những người tham gia tố tụng;
phía buộc tội và phía bào chữa có quyền lập luận, nêu ra những chứng cứ, căn cứ pháp luật
và tranh luận, phản bác để bảo vệ tính có căn cứ từ quan điểm của mình. Hội đồng xét xử
điều hành theo trình tự tố tụng tại phiên tòa và có trách nhiệm tạo điều kiện để các bên
thực hiện quyền và nghĩa vụ thực hiện tranh tụng, đồng thời lắng nghe, xem xét, cân nhắc
và ra các phán quyết.
Từ đó tôi đồng tình với quan điểm cho rằng :
Các hoạt động tố tụng được thực hiện bởi các bên tham gia tố tụng (bên
buộc tội và bên bị buộc tội) có quyền bình đẳng với nhau trong việc thu thập,
đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quan điểm và lợi ích của phía đối lập. Tranh tụng
tại Tòa là những hoạt động tố tụng được tiến hành tại phiên Tòa xét xử bởi hai
bên tham gia tố tụng, nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi bên và bác bỏ ý
kiến, luận điểm của phía bên kia, dưới sự điều khiển, quyết định của Tòa án với
vai trò trung gian trọng tài [24, tr.808].
Tranh tụng tại phiên tòa xét xử án hình sự có một số đặc điểm sau đây :
Một là : Sự bình đẵng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố với bị cáo, Luật sư
và những người tham gia tố tụng khác. Bình đẵng ở đây là bình đẵng trên cơ sở quyền và
nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng. Nói cách khác, sự bình đẵng giữa các bên
tranh tụng không hẵn là sự bình đẵng thực tế về địa vị pháp lý cũng như không có nghĩa là
các bên có quyền và nghĩa vụ như nhau do bên bào chữa và bên buộc tội thực hiện các
chức năng khác nhau trong tố tụng hình sự, nhất là tại phiên toà. Do đó, quyền bình đẵng
giữa bên bào chữa và bên buộc tội được hiểu là bình đẵng về phương diện tố tụng khi cả
hai đề có tư cách tố tụng là người tham gia phiên toà, đều được pháp luật quy định cho các
quyền ngang nhau để thực hiện hiệu quả các chức năng của mình.
Hai là : Sừ bình đẵng giữa Hội đồng xét xử với người tham gia tố tụng như bị cáo,
người bị hại, Luật sư, người bào chữa và các tổ chức cá nhân tham gia tố tụng khác. Tức là
Hội đồng xét xử phải tạo điều kiện cho những người tham gia tố tụng trình bày đầy đủ ý
kiến của mình, không những thế Hội đồng xét xử phải chú ý lắng nghe và tôn trọng lẽ phải
của bên công tố qua lời luận tội và những căn cứ buột tội và cả ý kiến phản biện của bị
cáo, người bị hại, Luật sư …
Ba là : Nâng cao vai trò, vị trí của Luật sư trong hoạt động tranh tụng tại phiên toà.
Bởi vì, quyền bào chữa là quyền luật định, các cơ quan và người tiến hành tố tụng phải
triệt để tôn trọng quyền này và đây cũng là nguyên tắc trong Bộ luật tố tụng hình sự hiện
hành. Do vậy, quyền của Luật sư trong giai đoạn xét xử được đưa ra chứng cứ và yêu cầu;
tham gia xét hỏi và tranh luận tại phiên toà. Là người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị cáo
trong quá trình tranh tụng, Luật sư có trách nhiệm tìm ra bằng chứng gỡ tội hoặc các tình
tiết giảm nhẹ cho bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử … để bị cáo không bị buộc
tội và xét xử oan, sai; trên cơ sở đó, Hội đồng xét xử xem xét những quan điểm nào được
coi là đúng đắn hợp lý để ra phán quyết một cách khách quan.
Bốn là : Sự tranh luận giữa bên buộc với bên bào chữa là Luật sư không bị hạn chế
thời gian và có sự tranh luận trực tiếp. Hội đồng xét xử phải có phương pháp điều hành
hợp lý và tạo điều kiện cho việc tranh luận đó tại phiên toà, tránh việc thiên vị đối với bất
cứ bên nào. Cần xác định rằng vấn đề cơ bản của nguyên tắc tranh tụng là phải tạo ra cơ
chế để các bên Nhà nước và bị cáo cũng như Luật sư của họ tranh luận, đưa ra chứng cứ
buộc tội hay gỡ tội. Do đó, tranh luận tại phiên toà là phần việc rất quan trọng, người bào
chữa, bên bị buộc tội và bên buộc tội có quyền tranh luận dân chủ, công khai và bình đẵng
theo quy định của Luật tố tụng hình sự hiện hành. Tranh luận đòi hỏi Kiểm sát viên, Luật
sư bào chữa, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác phải đối đáp về từng vấn
đề một cách rành mạch, rõ ràng, tránh việc tranh luận chung chung, không đi vào trọng
tâm nội dung chủ yếu của vụ án và Kiểm sát viên phải trả lời trực tiếp, không được né
tránh nhằm đảm bảo tính minh bạch trong tranh luận.
Năm là : Phán quyết của Hội đồng xét xử cũng phải căn cứ vào kết luận điều tra qua
hồ sơ vụ án, căn cứ vào cáo trạng truy tố của Viện Kiểm sát và quan trọng hơn nữa là căn
cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà dù cho kết quả này có thể khác với toàn bộ hoặc
một số tình tiết cụ thể trong kết luận điều tra, trong bản cáo trạng truy tố. Bởi vì, hoạt động
xét xử được coi là khâu quan trọng nhất trong toàn bộ quá trình tố tụng và hoạt động đặc
trưng cho toàn bộ hoạt động của Toà án. Trong quá trình xét xử tại phiên toà hình sự được
tổ chức và thực hiện theo một trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, phần tranh luận tại phiên toà
thường thu hút sự chú ý đặc biệt của công chúng và quan tâm nhiều đến vấn đề các cơ
quan và người tiến hành tố tụng thực hiện pháp luật như thế nào để đảm bảo tính công
minh của bản án trong quá trình tranh tụng và sẽ bị nghị ngờ, chê trách nếu bản ản quyết
định của Toà án cấp sơ thẩm bị cấp phúc thẩm cải, sửa và nhất là bị huỹ quá nhiều : Điều
đó cũng chứng tỏ tranh tụng tại phiên toà của cấp có án bị huỹ là chưa thực hiện tốt. Trên
cơ sở tranh tụng, Hội đồng xét xử xem xét những quan điểm nào được coi là đúng đắn,
hợp lý để ra phán quyết một cách khách quan dù có khác biệt gì với kết luận điều tra, cáo
trạng quy buộc tội trạng của Viện Kiểm sát.
Từ những đặc điểm vừa nêu cho thấy cần bổ sung nguyên tắc tranh tụng
vào Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (sửa đổi, bổ sung) nhằm nâng chất lượng thực hiện
một số điều trong chương 2: Về đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa; tôn trọng và bảo vệ
quyền cơ bản của công dân; bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật;
không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có
hiệu lực pháp luật; trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng.
Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh mình vô tội; bảo đảm quyền
bào chữa của bị can, bị cáo... Đặc biệt là quyền bình đẵng trước tòa án của phía buộc tội và
phía bào chữa được thực hiện tại phiên tòa theo yêu cầu tranh tụng giữa các chủ thể
Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện
hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền bình đẳng
trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật; nêu ra yêu cầu và tranh luận dân
chủ trước tòa án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các
quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án [17, Đ.19].
Như vậy, sự thật về vụ án sẽ được xác định một cách khách quan thông qua sự tranh
luận tại phiên tòa xét xử. Thẩm phán chủ tọa và Hội đồng xét xử đóng vai trò điều khiển
để phía buộc tội, phía bào chữa đối đáp và chứng minh bảo vệ quan điểm; việc chứng
minh bị cáo có phạm tội hay không thuộc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, kết
quả tranh tụng là bản án, quyết định của Hội đồng xét xử.
Khái niệm năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên
tòa xét xử án hình sự.
Nghiên cứu chất lượng, hiệu quả đạt được của tổ chức, cơ quan qua thực hiện chức
năng, nhiệm vụ được giao thì vấn đề cơ bản là phải xem xét vai trò, năng lực của các cá
nhân là thành viên trong tổ chức, cơ quan đó. “Năng lực là phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo
cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao” [35,
tr.661] của những cá nhân cụ thể thông qua các mối quan hệ xã hội mà cá nhân đó tiếp
nhận, thực hiện nhiệm vụ trong môi trường lĩnh vực công việc được xác định. Trong lĩnh
vực tố tụng hình sự, tại phiên tòa xét xử án hình sự đó là những chủ thể thể hiện khả năng
cụ thể của mình, thực hiện quyền và trách nhiệm trong khuôn khổ do pháp luật quy định.
Tranh tụng tại phiên tòa, nếu xét về bản chất là một cuộc điều tra công khai với đầy
đủ sự tham gia của phía buộc tội, phía bào chữa và Hội đồng xét xử. Năng lực tranh tụng
của Kiểm sát viên được thể hiện từ thời điểm mở phiên tòa và kết thúc sau khi Hội đồng
xét xử công khai phán quyết. Do vậy, nó không chỉ thể hiện riêng biệt ở một giai đoạn cụ
thể nào qua điều hành của Hội đồng xét xử mà là trong suốt quá trình xét xử vụ án tại
phiên tòa hình sự như: giai đoạn bắt đầu từ lúc khai mạc và kết thúc trước khi Kiểm sát
viên công bố cáo trạng; giai đoạn cáo trạng được công bố đến trước khi Kiểm sát viên trình
bày quan điểm vụ án; giai đoạn Kiểm sát viên trình bày quan điểm của Viện Kiểm sát (như
luận tội hoặc kết luận) và kết thức trước khi Hội đồng xét xử nghị án, đặc biệt là giai đoạn
tranh luận của phía buộc tội và phía bào chữa, xem “Đây là giai đoạn trung tâm, là đỉnh
điểm của quá trình tranh tụng giữa các bên và được thực hiện ở phần tranh luận tại phiên
tòa” [11, tr.54]; giai đoạn sau khi bị cáo nói lời sau cùng và kết thúc trước khi Hội đồng
xét xử công bố phán quyết của vụ án (xem như trùng với thời gian nghị án của Hội đồng
xét xử), còn gọi là giai đoạn thực hiện chức năng xét xử của tòa án; giai đoạn tuyên án
công khai của Hội đồng xét xử tại phiên tòa, đây là giai đoạn công bố kết quả của quá trình
tranh tụng. Là các giai đoạn khác nhau của quá trình tranh tụng nhưng giữa chúng có mối
liên hệ chặc chẽ theo trình tự luật định và nội dung của quá trình này chính là hoạt động
của các chủ thể thực hiện chức năng quy định của luật tố tụng hình sự để đánh giá, kiểm
tra chứng cứ tại phiên tòa và từ đó các bên tham gia tranh tụng đề nghị Hội đồng xét xử
cân nhắc, quyết định từ những lập luận, tranh luận trực tiếp. Như vậy, các giai đoạn có mối
liên hệ biện chứng không tách rời nhau.
Để thực hiện được tính dân chủ, bình đẵng giữa các chủ thể trong quá trình tranh
tụng thì đầu tiên Hội đồng xét xử phải kiểm tra sự có mặt hoặc vắng mặt của các chủ thể
được triệu tập tham gia vào quá trình chứng minh tại phiên tòa, thông suốt quyền và nghĩa
vụ của các chủ thể, xem xét yêu cầu và đề nghị của các bên. Có thể phân chia chủ thể trong
quá trình này thành hai phía, đó là phía buộc tội và phía bào chữa; các chủ thể thuộc bên
buộc tội như Kiểm sát viên, người bị hại, nguyên đơn dân sự, người đại diện và người bảo
vệ quyền lợi người bị hại, nguyên đơn dân sự... mà trong đó Kiểm sát viên có vai trò và vị
trí đặc thù qua thực hiện chức năng thực hành quyền công tố tại phiên tòa theo qui định
của Bộ luật tố tụng hình sự và Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân. Từ trách nhiệm pháp
lý này, năng lực Kiểm sát viên được thể hiện qua trình bày những luận cứ buộc tội trạng
của bị cáo đồng thời lắng nghe và chọn lựa để tranh luận, phản bác đối với những quan
điểm, lập luận từ phía bào chữa là luật sư, người bào chữa khác hoặc của bị cáo. Với yêu
cầu của tranh tụng phải khách quan, có căn cứ giúp cho Hội đồng xét xử xem xét, cân nhắc
tính hợp pháp, tính khách quan của các chứng cứ được đánh giá qua hoạt động điều tra
công khai tại phiên tòa (còn gọi là xét hỏi, thẩm vấn) thì các chủ thể phía buộc tội, phía
bào chữa và thành viên Hội đồng xét xử thực hiện quyền và trách nhiệm đó một cách độc
lập theo nhận thức của từng phía chủ thể đối với việc đang nghiên cứu, xử lý. Đó cũng là
sự tiếp nối rất quan trọng phục vụ cho phần tranh luận.
Thông qua tranh luận trực tiếp bằng lời, năng lực tranh luận tại phiên tòa
của các chủ thể (cả phía buộc tội và phía bào chữa) được thể hiện từ kiến thức tổng hợp, kỹ
năng nghề nghiệp, trình độ nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức, biểu lộ văn hóa ứng xử ... chủ
yếu ở Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và luật sư. Tuy không phải là chủ thể tham
gia tranh tụng, nhưng Hội đồng xét xử qua vai trò điều hành của chủ tọa phiên tòa cũng
cần hội tụ các yêu cầu nêu trên để thực hiện chức năng xét xử mà trong đó, có trách nhiệm
thẩm vấn với mục đích là làm sáng tỏ tất cả các tình tiết của vụ án cả buộc tội, gỡ tội, các
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đồng thời điều hành hợp lý để tạo
điều kiện cho phía buộc tội và phía bào chữa thực hiện đầy đủ quyền tranh luận, ghi nhận,
cân nhắc các ý kiến, các yêu cầu, đề nghị của các bên và “các thành viên Hội đồng xét xử
không được biểu lộ chính kiến của mình về bất kỳ vấn đề gì thuộc nội dung vụ án cũng
như chứng cứ đang xem xét tại phiên tòa” [9, tr.64].
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự cũng là chủ tiến hành tố
tụng được giao trách nhiệm thực hiện trong quá trình xét xử vụ án cụ thể. Năng lực tranh
tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố được thể hiện một cách tập trung ở giai
đoạn tranh tụng với các chủ thể khác (chủ thể của phía tham gia tố tụng). Như vậy, có thể
hiểu năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố là sự tổng hợp về kỹ
năng nghề nghiệp, kiến thức pháp lý, kiến thức xã hội, khả năng biện luận, khả năng ứng
xử, khả năng đối đáp trực tiếp của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử án hình sự để nhằm
bảo vệ quy buộc tội trạng của người phạm tội.
1.2. CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH NĂNG LỰC CỦA KIỂM SÁT VIÊN THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TẠI PHIÊN TOÀ HÌNH SỰ
Khi nghiên cứu về một sự vật, hiện tượng thì về mặt nhận thức, yêu cầu phải tìm hiểu
xem cái gì, bộ phận nào cấu tạo nên nó. Tìm hiểu về năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên
cũng vậy, tức là nghiên cứu về những yếu tố cơ
bản cấu tạo nên năng lực chủ thể đó hoạt động trong lĩnh vực tố tụng hình sự.
Kiểm sát viên của Viện Kiểm sát nhân dân là chức danh tư pháp. Người được bổ
nhiệm làm Kiểm sát viên phải có đủ tiêu chuẩn và tuân theo quy trình do pháp luật quy
định. Quyền năng pháp lý của Kiểm sát viên thông qua sự phân công của Viện trưởng chủ
yếu ở lĩnh vực thực hành quyền công tố (và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động tư pháp), đây cũng là chức năng được ghi nhận trong Hiến pháp, Luật tổ chức Viện
Kiểm sát nhân dân, Bộ luật Tố tụng hình sự, Pháp lệnh Kiểm sát viên ... hiện hành.
Tại phiên tòa hình sự, là chủ thể tranh tụng, năng lực Kiểm sát viên thực hành quyền
công tố được thể hiện một cách tổng hợp các mặt kiến thức, kỹ năng, thái độ ứng xử và ý
thức chấp hành pháp luật ... và được cấu thành từ những yếu tố về tiêu chuẩn, khả năng
hoàn thành nhiệm vụ và các yếu tố về điều kiện khác, như:đào tạo, cơ sở vật chất ...
1.2.1. Yếu tố tiêu chuẩn
Trước hết, yếu tố tiêu chuẩn được ghi nhận trong pháp luật
Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có trình
độ cử nhân luật, đã được đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát, có tinh thần kiên quyết bảo
vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có thời gian làm công tác thực tiễn theo quy định của
pháp lệnh này, có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, thì có thể
được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Kiểm sát viên [25, tr.35, Đ2].
Tuyển chọn, bổ nhiệm một người vào vị trí công việc là cả một quá trình sàng lọc và
được cân nhắc theo những tiêu chí nhất định. Bên cạnh những yêu cầu tiêu chuẩn cụ thể dễ
chứng minh thì yếu tố khó đánh giá nhất là phẩm chất, đạo đức. Nếu tài năng thường bộc
lộ dễ nhận biết thì phẩm chất, đạo đức lại tiềm ẩn bên trong khó có thể một sớm, một chiều
mà đánh giá công nhận ngay được. Là con người thì các quan hệ xã hội với xung quanh
trong công việc, trong đời thường chịu tác động nhiều chiều, nếu không vững vàng sẽ dễ bị
tha hóa dần dần về phẩm chất, đạo đức. Do vậy, mỗi cá nhân chủ động, tự rèn luyện giữ
gìn là chính.
Bổ nhiệm Kiểm sát viên là việc nhà nước trao quyền cho chủ thể thực hiện một số
quyền năng nhất định trong cơ quan Viện Kiểm sát nhân dân. Thực hành quyền công tố
của Kiểm sát viên là đấu tranh với hành vi phạm tội của những chủ thể khác trong xã hội
đã gây ra sự bất lợi cho cộng đồng nói chung phải được xử lý nghiêm minh. Tính chất
phức tạp của tội phạm, hoàn cảnh kinh tế, đời sống của cán bộ, công chức nói chung luôn
là sự thách thức đối với việc giữ gìn phẩm chất đạo đức của Kiểm sát viên thực hành quyền
công tố đang thực hiện nhiệm vụ vì lợi ích chung của xã hội, tránh bị cám dỗ vật chất và phải
vững vàng trong thực hiện pháp luật, nghiêm minh trong xử lý.
Không phải lúc nào cũng đúng với việc “cần phải biết đặt người thích đáng ở vị trí
thích đáng” [12, tr.629]. Thực tế cho thấy không phải tất cả Kiểm sát viên được bổ nhiệm
đều giữ gìn được phẩn chất đạo đức mặc dù trong công tác quản lý ngành luôn có những
biện pháp kiểm tra, đánh giá, nhận xét qua công tác cán bộ, công tác nghiệp vụ. Còn nơi
này, nơi khác tuy cá biệt, vẫn có Kiểm sát viên phải bị xử lý kỷ luật hoặc bị xử lý hình sự
do bị mua chuộc vật chất, tha hóa trong cuộc sống do không giữ vững đạo đức nghề
nghiệp, lơi lỏng, bị cám dỗ từ những quan hệ xã hội thiếu lành mạnh trong đời thường mà
trong đó, có người đã công tác nhiều năm trong ngành được bố trí giữ cấp chức ở địa
phương, đơn vị. Tuyển chọn để được làm Kiểm sát viên phải sàng lọc, cân nhắc. Thực hiện
chức năng, nhiệm vụ trong thực tiễn cũng là quá trình tiếp tục sàng lọc thông qua những
yêu cầu cụ thể như: phải gương mẫu chấp hành pháp luật, có lối sống lành mạnh và tôn
trọng các quy tắc sinh hoạt công cộng và đặc biệt là luôn tự soi rọi lại mình để giữ được
“Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn” theo lời dạy của Bác Hồ đối
với cán bộ ngành kiểm sát.
Như vậy, cần xác định phẩm chất đạo đức là một trong những thành tố của tiêu chuẩn
rất quan trọng trước tiên khi xem xét về năng lực thực hành quyền công tố.
Thứ hai, cùng với yếu tố tiêu chuẩn được luật quy định thì năng lực Kiểm sát viên
được cấu thành một cách tổng hợp từ kỹ năng nghề nghiệp; kiến thức pháp lý, kiến thức xã
hội; khả năng ứng xử, biện luận, đối đáp trực tiếp khi thực hành quyền công tố tại phiên
tòa xét xử án hình sự.
Trong hoạt động thực tiễn qua những môi trường và hoàn cảnh cụ thể, mỗi cá nhân
thể hiện được ít hay nhiều tính thạo việc, tính chuyên sâu từ công việc đang làm. Việc thể
hiện đó phản ánh sự phân định giữa việc làm ổn định, lâu dài với việc làm có tính thời vụ;
giữa tính chất lao động cần phải có đầu tư cho tư duy từ chất xám nhiều hơn so với lao
động cơ bắp đơn thuần.
Năng lực Kiểm sát viên được thể hiện trong quá trình lao động đặc thù. Do hoàn
cảnh lịch sử, cũng có giai đoạn tuyển chọn công tố viên từ các tổ chức khác để làm nhiệm
vụ công tố tại phiên tòa hình sự. Nhưng khi ngành kiểm sát được thành lập theo Hiến pháp
năm 1959 thì cùng với việc học tập kinh nghiệm của những người trước; việc tuyển dụng,
bổ nhiệm được chú trọng thêm đối với những người đã qua đào tạo, bồi dưỡng kiến thức
pháp luật, nghiệp vụ kiểm sát và dần dần xem đây là một trong những tiêu chuẩn phải có.
Ngành kiểm sát cũng có trường đào tạo riêng cho cán bộ, công chức của ngành.
Như vậy, kiến thức pháp lý và chuyên môn được đào tạo, cùng với quá trình công tác
giúp cho Kiểm sát viên thể hiện tính chuyên sâu trong tác nghiệp theo chức năng, nhiệm
vụ.
Nhưng trong lĩnh vực đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm thì kiến thức qua
trường lớp chỉ là điều kiện ban đầu. Do tính phức tạp của diễn biến tình hình tội phạm đòi
hỏi năng lực Kiểm sát viên thực hành quyền công tố phải luôn nâng cao trình độ và muốn
vậy, phải luôn học hỏi trong quá trình công tác đối với kiến thức, kinh nghiệm và tính
chuyên sâu của những người công tác lâu năm trong ngành để đảm bảo “Riêng về cán bộ,
ai lãnh đạo trong ngành hoạt động nào thì phải biết chuyên môn về ngành ấy” [13, tr.47].
Mặt khác, kiến thức xã hội và khả năng phán đoán, dự báo qua nghiên cứu diễn biến tình
hình kinh tế xã hội cũng góp phần quan trọng cho việc thể hiện năng lực của Kiểm sát viên.
Bởi vì nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm hầu hết đều bắt nguồn từ ý thức chấp hành
pháp luật trong xã hội, từ việc hệ thống pháp luật có được hoàn thiện hay chưa hoặc còn có
những sơ hở gì trong việc quản lý, điều hành ở từng địa phương, đơn vị hay tính đặc thù của
vùng, miền...
Do vậy, từ việc đấu tranh với từng loại tội phạm, đưa người phạm tội ra xét xử tại
phiên tòa hình sự thì việc phát hiện sơ hở để kiến nghị phòng ngừa chung là yêu cầu rất
quan trọng và qua đó cũng thể hiện vai trò, năng lực của Kiểm sát viên thực hành quyền
công tố.
Thực hiện quyền năng chủ thể tranh tụng tại phiên tòa của phía buộc tội, với kiến
thức tổng hợp thì năng lực Kiểm sát viên còn được thể hiện bởi khả năng ứng xử, biện
luận, đối đáp trực tiếp với các chủ thể tham gia tố tụng khác mà chủ yếu là luật sư hoặc
người bào chữa.
Tranh luận là giai đoạn tập trung nhất của tranh tụng ở phiên xử. Để bảo vệ việc quy buộc
tội trạng và “...bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội” [26, Đ.16] thì cùng với việc trình bày một cách tổng hợp
qua bản luận tội, Kiểm sát viên phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến mà
phía bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác trình bày phản bác hoặc
đề nghị do chưa đồng tình.
Đối đáp, tranh luận luôn có hai mặt chủ quan và khách quan. Với kiến thức và thái độ
ứng xử khi phát sinh tranh luận, Kiểm sát viên phải thể hiện cho được tính khách quan,
đúng đắn của các vấn đề đã kết luận trước đó. Đồng thời, lắng nghe ý kiến, lập luận phản
bác để lập lý, luận chứng nhằm làm cho những người tham dự tại phiên xử thấy rõ được
hành vi phạm tội của bị cáo, nêu các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nghẹ đã được xem xét
qua đề xuất mức hình phạt tương ứng với tính chất nguy hiểm cho xã hội mà người phạm
tội đã gây ra; rút ra những nguyên nhân nào trực tiếp hoặc gián tiếp trở thành điều kiện
phát sinh tội phạm ... và từ đó, nâng được tính thuyết phục với công luận, giúp cho Hội
đồng xét xử cân nhắc khi quyết định qua bản án.
Những năm qua, nguyên tắc tranh tụng luôn được chú trọng thực hiện trong tiến trình
cải cách tư pháp. Tranh luận cũng biểu hiện rõ về năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên
thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử theo trình tự tố tụng hình sự tại các phiên
tòa sơ thẩm và phúc thẩm. Nhưng cũng cần thấy rằng, để thực hiện được việc này còn có
sự tác động qua từng phiên tòa xét xử mà ở đó “tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ
thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án” [17, Đ.19],
cụ thể là việc điều hành của chủ tọa phiên tòa trong Hội đồng xét xử.
Thực hiện và vận dụng các nguyên tắc của tố tụng tranh tụng đan xen trong tố tụng
thẩm vấn thì việc điều hành phiên tòa cần bảo đảm cho các chủ thể thực hiện đúng và đầy
đủ quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định. Chủ tọa phiên tòa phải giữ đứng mực về thái
độ điều hành để đạt yêu cầu khách quan làm sáng tỏ mọi tình tiết của vụ án theo chức năng
xét xử, trên cơ sở đó xác định chính xác, toàn diện sự thật của vụ án nhằm đưa ra những
phán quyết đúng và có tính thuyết phục cao.
Thực tế cho thấy, vẫn còn dư luận chê trách rằng qua theo dõi thẩm vấn trực tiếp,
công khai tại phiên tòa là đoán được sự bất lợi nhiều hay ít đối với bị cáo hoặc còn tình
trạng chủ tọa phiên tòa cắt thời gian tranh luận của chủ thể tham gia tố tụng ... và như vậy,
chưa đảm bảo thực hiện nguyên tắc tranh tụng do bị hạn chế từ việc điều hành của Hội
đồng xét xử.
1.2.2. Khả năng hoàn thành nhiệm vụ
Để bảo vệ được cáo trạng truy tố người phạm tội là cả quá trình nối tiếp khả năng
thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên được giao nhiệm vụ qua các vụ việc cụ thể
như: phối hợp, hướng dẫn điều tra vụ án, nghiên cứu hồ sơ, xây dựng cáo trạng, dự thảo
bản luận tội, chuẩn bị các dự kiến tranh luận ... Đó là kết quả tổng hợp về kiến thức pháp
luật, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm công tác, kỹ năng nghề nghiệp ... và tại
phiên tòa, với khả năng phân tích tổng hợp, ứng xử, đối đáp trực tiếp các vấn đề được đặt
ra từ việc tranh luận.
Qua xét xử vụ án, năng lực tranh tụng được thể hiện trong suốt quá trình đó cho đến
khi Hội đồng xét xử công bố việc phán quyết.
Dựa vào kết quả phán quyết từ các quyết định, bản án có thể xem xét khả năng hoàn
thành nhiệm vụ của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố. Nêu như vậy, không có nghĩa
chỉ xem xét ở từng vụ việc mà là cả một quá trình thực hiện nhiệm vụ được phân công theo
số vụ án đã được xét xử cùng với việc đánh giá, nhận xét hàng năm từ công tác quản lý cán
bộ của ngành và sự quan tâm của công luận mà trong đó, đáng chú ý là sự nhận xét của các
cơ quan tiến hành tố tụng hình sự trong mối quan hệ theo quy định của pháp luật.
Để có thể đạt khả năng hoàn thành nhiệm vụ, cùng với những mặt chủ quan tự thân
vận động ở từng con người như đã nêu thì Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực
này cần có điều kiện khác để hỗ trợ, góp sức. Đó là sự phân công phù hợp với sở trường,
thế mạnh từng người, những phương tiện cần có để phục vụ cho công việc, sự động viên
kịp thời của tổ chức hoặc thường xuyên rút kinh nghiệm, bổ túc kiến thức từ thực tiễn qua
công việc. Mặt khác, cũng cần có trao đổi với thẩm phán chủ tọa phiên tòa nhằm lắng nghe
những mặt được, chưa được khi thực hành quyền công tố tại phiên tòa ...
Thực hiện nhiệm vụ tranh tụng tại phiên tòa, cùng với việc đảm bảo về mặt pháp
lý các điều kiện cần thiết khác, thì chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên còn chịu sự
tác động của các chủ thể khác qua trình độ năng lực của họ, chủ yếu là luật sư và sự
điều hành của Hội đồng xét xử. Mối quan hệ giữa các chủ thể cần đặt trong hoàn cảnh
cụ thể (là phiên tòa xét xử án hình sự) trên cơ sở thực hiện chức năng, nhiệm vụ do luật
quy định. Do vậy, khi nhận xét năng lực tranh tụng của từng chủ thể cần đặt trong mối
quan hệ tương tác đó để xem xét khả năng hoàn thành nhiệm vụ trên thực tế có đạt hay
chưa đạt.
Là chủ thể tranh tụng, năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công
tố tại phiên tòa hình sự qua kỹ năng, kiến thức, thái độ ... thực hiện chức năng luật định và
cũng được đánh giá chủ yếu qua nhiệm vụ bảo vệ việc buộc tội đối với bị cáo. Đây cũng là
đặc trưng riêng, khác biệt với các chủ thể khác trong tố tụng tại phiên tòa.
Nghiên cứu các yếu tố cấu thành năng lực Kiểm sát viên như trên nhằm góp phần xác
định các yêu cầu phải có đối với chủ thể đang thực hiện nhiệm vụ trong môi trường lao
động đặc thù. Từ đó làm rõ thêm các yếu tố bảo đảm để phát huy năng lực của chủ thể qua
hoạt động thực tiễn.
1.3. CÁC YẾU TỐ BẢO ĐẢM NĂNG LỰC TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT
VIÊN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TẠI PHIÊN TOÀ HÌNH SỰ
Quyền công tố là quyền nhân danh nhà nước buộc tội đối với người phạm tội trước
phiên tòa. Việc sử dụng tổng hợp các biện pháp do luật định để truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với người phạm tội trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử là thực hành quyền công
tố. Với trách nhiệm được phân công, Kiểm sát viên thực hiện tranh tụng tại phiên tòa là
biểu hiện tập trung cao nhất chức năng thực hành quyền công tố của Viện Kiểm sát. Do
vậy, cần có các yếu tố đảm bảo năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên.
1.3.1. Yếu tố chính trị tư tưởng
Là công chức trong bộ máy, người được bổ nhiệm chức danh tư pháp thực hành
quyền công tố là đã qua “nghiên cứu con người, tìm ra những cán bộ có bản lĩnh” [10,
tr.449] và trước hết yêu cầu phải có nhận thức sâu sắc chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Đây là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn của công chức, Kiểm sát viên
trong ngành kiểm sát nói chung và thực hành quyền công tố nói riêng.
Trách nhiệm mà Đảng và Nhà nước giao cho công tố viên là nhiệm vụ bảo vệ pháp
luật để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội và đấu tranh
chống tội phạm thì bản lĩnh chính trị được thể hiện qua phẩm chất đạo đức bởi tính trung
thực, liêm khiết, biết tự rèn luyện giữ gìn tránh bị cám dỗ, mua chuộc về vật chất và có
tinh thần đấu tranh không khoan nhượng với tội phạm.
Để phát huy năng lực tranh tụng hoàn thành có hiệu quả trách nhiệm thì
việc nhận thức đúng về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ngành cũng rất
quan trọng. Đặc biệt là nếu nhận thức và áp dụng pháp luật không đúng hoặc có động cơ lệch
lạc dễ dẫn đến sai lầm hoặc truy tố oan sai, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, bị công luận chê trách. Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn nhắc nhỡ “một người bị oan không chỉ họ
đau khổ mà gia đình họ còn đau khổ hơn, làm điều oan cho một người nào đó thì chúng ta
không còn lẽ sống nữa, bởi vì chúng ta là những người Cộng sản”[6, tr.59].
Không riêng với Kiểm sát viên thực hành quyền công tố mà đối với Kiểm sát viên
được bổ nhiệm đều là đảng viên trong tổ chức Đảng. Đây cũng là tiêu chuẩn phải đạt trong
công tác xây dựng ngành nhiều năm qua của ngành kiểm sát. Việc bồi dưỡng nhận thức,
định hướng phấn đấu qua trường lớp đào tạo chuyên ngành và sự quan tâm tạo điều kiện
của cấp ủy địa phương về học tập lý luận chính trị đang giúp cho đội ngũ Kiểm sát viên
vững vàng trên nền tảng của phẩm chất chính trị và đạo đức nghề nghiệp.
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố từ những vụ việc đã làm thì cần phải chú ý
đáp ứng phòng ngừa chung thông qua tập hợp những nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội
phạm ở địa phương, ở đơn vị để có văn bản kiến nghị đến cấp quản lý, điều hành và tham
mưu cho Đảng lãnh đạo, chỉ đạo uốn nắn, khắc phục. Thực tiễn cho thấy việc làm này còn
ít được thực hiện ở hai cấp Viện Kiểm sát địa phương, nhưng đây cũng là yêu cầu nhất
quán về nhận thức thể hiện qua năng lực của Kiểm sát viên trong lĩnh vực đấu tranh chống
và phòng ngừa tội phạm. Từ ý thức trách nhiệm “phải xác định nguyên nhân và điều kiện
phạm tội, tuyên truyền giáo dục pháp luật góp phần đấu tranh chống và phòng ngừa tội
phạm, vi phạm pháp luật” [27, Đ.23].
1.3.2. Yếu tố pháp lý
Để bảo đảm năng lực tranh tụng tại phiên tòa hình sự thì cùng với yếu tố
nhận thức về chính trị, tư tưởng còn phải có những quy định của pháp luật về thẩm quyền,
quyền hạn, nghĩa vụ của Kiểm sát viên. Nói cách khác là việc thực hiện nhiệm vụ được
xác định theo khuôn khổ pháp lý đối với Kiểm sát viên. Đây là một yếu tố quan trọng trực
tiếp ảnh hưởng đến việc phát huy năng lực của chủ thể trong cơ quan tiến hành tố tụng là
Viện Kiểm sát.
Tổ chức và hoạt động của Viện Kiểm sát nói chung, thực hành quyền công tố nói
riêng đều do Hiến pháp và Pháp luật quy định. Hệ thống pháp luật là nền tảng của mọi
quan hệ pháp luật, nó điều chỉnh từ tổ chức, hoạt động của bộ máy; quy định đối tượng,
nội dung và phạm vi của các chủ thể tham gia quan hệ cùng với việc áp dụng pháp luật.
Mặt khác, để thuận lợi cho Kiểm sát viên thực hiện trách nhiệm của mình, cần có cơ chế
quản lý, chỉ đạo, điều hành phù hợp với tính chất công việc theo hướng tăng cường tính
độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật để “trong phạm vi công tác được giao, Kiểm
sát viên có quyền ra quyết định, kiến nghị, kháng nghị yêu cầu theo quy định của pháp
luật, trừ những việc thuộc thẩm quyền của Viện trưởng” [25, tr 39].
Thực tế cho thấy thẩm quyền tố tụng rất quan trọng. Để khắc phục tình trạng ỉ lại vào
ý kiến “duyệt đường lối” của lãnh đạo trước khi thực hành quyền công tố tại phiên tòa,
Kiểm sát viên dễ bị gò bó, thiếu chủ động hoặc thiếu trách nhiệm trong hoạt động tranh
tụng. Do vậy, phân định rạch ròi, cụ thể giữa thẩm quyền trong hoạt động quản lý hành
chính và thẩm quyền trong tố tụng hình sự là rất cần thiết để thúc đẩy năng lực của Kiểm
sát viên.
1.3.3. Yếu tố về kỹ năng
Để vận dụng nguyên tắc tranh tụng thực hiện trong tố tụng hình sự ở nước ta thực sự
phát huy hiệu quả thì yêu cầu đặt ra phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ có chức danh
hoạt động trong lĩnh vực này của các cơ quan tiến hành tố tụng và tương ứng với đó cần có
đội ngũ luật sư giỏi, có chất lượng. Nói cách khác, các chủ thể tiến hành tố tụng và chủ thể
tham gia tố tụng (chủ yếu là luật sư) tại phiên tòa xét xử án hình sự phải có kỹ năng tốt để
thể hiện năng lực của mình, đó là: “khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được
trong một lĩnh vực nào đó trong thực tế” [34, tr.501].
Thực tế cho thấy, năng lực tranh tụng tại phiên tòa xét xử án hình sự chưa tốt do nhận
thức chưa đầy đủ về vai trò, trách nhiệm và các nội dung liên quan về tranh tụng như:
phạm vi, nội dung tranh tụng; phương pháp và kỹ năng tranh tụng; chức năng của các chủ
thể trong tranh tụng ... và ngay cả Kiểm sát viên vẫn chưa được trang bị sâu, kỹ lý luận về
tranh tụng cũng như kỹ năng tranh tụng, bởi vì: “kỹ năng được hình thành từ việc xác định
vai trò, trách nhiệm của Kiểm sát viên, kiến thức về pháp luật, hiểu biết xã hội, kinh
nghiệm thực tiễn, bản lĩnh nghề nghiệp, trạng thái tâm lý, phong cách, phương pháp tiến
hành trước, trong và sau phiên tòa” [37, tr.54] và kỹ năng đó, được thể hiện qua một chuỗi
công việc từ thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên trong suốt quá trình tố tụng cho
đến hết giai đoạn xét xử vụ án hình sự và được kết thúc bằng bản án, quyết định có hiệu
lực của cấp sơ thẩm hoặc phúc thẩm.
─ Tại phiên tòa sơ thẩm:
Để góp phần cho Hội đồng xét xử làm rõ sự thật khách quan về mọi tình
tiết buộc tội, tăng nặng, giảm nhẹ và ra một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật
thì kỹ năng tranh tụng của Kiểm sát viên thể hiện tập trung từ việc đọc cáo trạng, tham gia
xét hỏi, thực hiện việc luận tội và phát biểu tranh luận, đối đáp với những người tham gia
tố tụng.
Về mặt tác nghiệp, Kiểm sát viên phải nghiên cứu kỹ và trích cứu những chứng cứ,
lời khai có liên quan của bị can, người tham gia tố tụng và các tài liệu có liên quan của hồ
sơ, kiểm tra lại những căn cứ, quy kết trong bản cáo trạng, dự thảo bản luận tội, xây dựng
đề cương xét hỏi và dự kiến nội dung tranh luận. Chủ động trong công việc luôn là yêu cầu
phải có và được chứng
minh qua hồ sơ chuẩn bị trước (còn gọi là tiểu hồ sơ án hình sự).
Tại phiên tòa, địa vị pháp lý của Kiểm sát viên được xem xét trong mối quan hệ với
Hội đồng xét xử, bị cáo và người bào chữa. Năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên được
xác định tập trung từ kỹ năng tổng hợp, phân tích, chứng minh việc quy buộc tội trạng
cùng tác phong, thái độ, diễn đạt, biểu cảm được tích lũy, rèn luyện từ thực tiễn công tác.
Đáng chú ý là kỹ năng tranh luận.
“Tranh luận tại phiên tòa thể hiện sự rõ nét nhất nguyên tắc tranh tụng mà công cuộc
cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta đang hướng tới, là nơi các bên tham gia tố tụng
thực hiện các quyền tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình” [36, tr.607].
Tuy nhiên, kỹ năng tranh luận ở các chủ thể có đạt theo yêu cầu cải cách hay không còn
tùy thuộc bởi khả năng của chính họ.
Trong những năm gần đây, ngành kiểm sát có nhiều biện pháp nâng chất lượng thực
hành quyền công tố, nhất là chất lượng đối đáp, tranh luận của Kiểm sát viên và đặc biệt
đáp ứng yêu cầu thực hiện việc tăng thẩm quyền xét xử đối với tòa án nhân dân cấp huyện
được xử các vụ án có mức hình phạt đến 15 năm tù mà trước đây thuộc thẩm quyền truy
tố, xét xử sở thẩm ở cấp tỉnh. Nhưng có kiểm sát việc cấp huyện còn hụt hẫng kỹ năng;
miên man, dài dòng chưa đi thẳng vào trọng tâm đối đáp, cá biệt có hiện tượng dùng lời lẽ
gay gắt với bị cáo và người bào chữa. Cũng có phiên tòa bị “nóng lên” từ thái độ, lời lẽ của
phía bào chữa mà chủ yếu là luật sư gây phản cảm đối với người dự khán và dư luận xã
hội.
Ở cấp tỉnh, tại phiên tòa sơ thẩm xét xử một số vụ án do cấp trên kiểm sát điều tra,
kết thúc điều tra thấy thuộc thẩm quyền xét xử của cấp dưới, rồi lập cáo trạng chuyển hồ
sơ và ủy quyền cho Viện Kiểm sát cấp dưới thực hành quyền công tố. Do không được tiếp
cận hoạt động tố tụng ngay từ đầu và hồ sơ vụ án đều là những vụ tội phạm phức tạp,
nhiều đối tượng, liên quan đến nhiều địa phương qua mở rộng điều tra nên khi tiếp cận
nghiên cứu hồ sơ gặp khó khăn về trích cứu chứng cứ, lời khai, các tài liệu có liên quan,
triệu tập thêm nhân chứng hoặc những người có liên quan khác khi cần ... Nhất là loại tội
phạm liên quan đến trật tự quản lý kinh tế, tham nhũng; thời gian dự kiến cho việc tranh
tụng tại phiên tòa xét xử phải kéo dài … đang là vấn đề bất cập cho việc thực hiện kỹ năng
của Kiểm sát viên được giao nhiệm vụ mà tại đó, tranh luận làm rõ sự thật khách quan của
vụ án, thể hiện tính dân chủ trong tranh tụng là những thử thách, khó khăn cho việc thể
hiện năng lực tranh tụng trong thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên được ủy quyền.
Đây cũng là thực tế cần nghiên cứu khắc phục việc Kiểm sát viên né tránh tranh luận,
“công khai quan điểm” giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố vì cho đây là vụ án do cấp trên
ủy quyền ...
─ Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bộ luật tố tụng hình sự quy định việc xét lại bản án và quyết định chưa có hiệu lực
pháp luật theo thủ tục phúc thẩm do tòa án cấp trên trực tiếp xét xử từ các kháng cáo hoặc
kháng nghị của Viện Kiểm sát. (phạm vi của luận văn chỉ nghiên cứu theo trình tự phúc
thẩm do tòa án cấp tỉnh, không nghiên cứu phúc xử của Tòa án nhân dân tối cao)
Tại cấp này, ngoài việc thay đổi một số thủ tục tố tụng cụ thể, về cơ bản phiên tòa
phúc thẩm cũng được diễn ra theo trình tự như ở phiên tòa sơ thẩm. Bản án và quyết định
có hiệu lực ngay sau khi tuyên. Năng lực tranh tụng cũng được thể hiện bởi kỹ năng của
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố có kinh nghiệm và công tác lâu năm trong ngành
kiểm sát được chọn lựa, phân công.
Đối với những lập luận và nội dung của kháng cáo, kháng nghị những bản án sơ thẩm
cần nghiên cứu kỹ qua đối chiếu với hồ sơ đã xét xử của vụ án và tiểu hồ sơ do Kiểm sát
viên thực hành quyền công tố ở cấp đó tích hợp. Chú ý đến các chứng cứ buộc tội, gỡ tội,
lời khai của bị cáo, lý đoán, tranh luận giữa người bào chữa và Kiểm sát viên. Những vụ
án tính chất phức tạp, dư luận quan tâm, cần thực hiện thêm một số việc về tác nghiệp, có
thể trao đổi với Kiểm sát viên đã trực tiếp thực hành quyền công tố, thảo luận thêm với
đồng nghiệp và chú ý nghiên cứu các quy định của pháp luật có liên quan đến giải quyết
vụ án ... Từ đó, chủ động chuẩn bị nội dung thẩm vấn, tranh luận, dự kiến những tình
huống xảy ra, dự thảo phát biểu quan điểm kết luận có bổ sung theo diễn biến tại phiên tòa
phúc thẩm.
Nội dung tranh luận, đối đáp của Kiểm sát viên tại phiên tòa thường tập trung vào nội
dung của các ý kiến, đề nghị của bị cáo, người bào chữa, của những người tham gia tố tụng
khác. Những năm gần đây, tại phiên tòa hình sự cấp sơ thẩm hầu hết đều có tranh luận,
nhưng ở cấp phúc thẩm việc đối đáp, tranh luận khi có ý kiến không đồng ý với nội dung
phát biểu kết luận ... và từ đó, Kiểm sát viên phải lập luận, đối đáp với những ý kiến của
từng người.
Còn có nhận thức rằng tranh luận ở cấp này thể hiện không rõ nét như ở phiên tòa sơ
thẩm. Như vậy, là chưa thấy hết trình tự xét xử cấp phúc thẩm để nhằm kiểm tra lại tính
hợp pháp, tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm, sửa những sai lầm và vi phạm
nghiêm trọng của cấp sơ thẩm, bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật ... nên còn chủ
quan khi thực hành quyền công tố, bị động trong tranh luận, lúng túng qua đối đáp, kết
luận tại phiên tòa hình sự phúc thẩm. Những vụ án có bị cáo cấp phúc thẩm tuyên không
phạm tội hoặc phải hủy án giao lại để xử lý theo trình tự tố tụng hình sự sơ thẩm tuy không
nhiều, nhưng từ đó cũng là những cơ sở để đánh giá năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên
thực hành quyền công tố cấp sơ thẩm vẫn phải được bồi dưỡng, rút kinh nghiệm, nâng chất
lượng nhiều hơn nữa mới đáp ứng yêu cầu đòi hỏi về cải cách tư pháp.
Chương 2
THỰC TRẠNG NĂNG LỰC TRANH TỤNG CỦA
KIỂM SÁT VIÊN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ ÁN HÌNH SỰ Ở TỈNH AN GIANG
2.1. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TẠI PHIÊN TOÀ XÉT XỬ HÌNH SỰ Ở TỈNH
AN GIANG
2.1.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế-xã hội tỉnh An Giang
* Đặc điểm tự nhiên:
An Giang thuộc khu vực Tây Nam bộ, vùng kinh tế trọng điểm về nông nghiệp; nơi
đầu nguồn hội lưu của hai nhánh Sông Cửu Long là Sông Tiền và Sông Hậu từ Vương
quốc Campuchia sang.
Toạ độ địa lý từ 1000 đến 1100 Vĩ Bắc và 104070’ đến 105050’ Kinh Đông, với địa
hình có 2 dạng chủ yếu: Đồng bằng tập trung ở ven Sông Tiền, tả và hữu ngạn Sông Hậu;
vùng đồi núi tập trung ở hai huyện Tri Tôn, Tịnh Biên. Giáp ranh với các tỉnh:
- Phía Tây Bắc giáp hai tỉnh Kandal và TaKeo thuộc Vương quốc Campuchia, có
đường biên giới dài gần 100 km.
- Phía Tây Nam giáp tỉnh Kiên Giang.
- Phía Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Tháp.
- Phía Đông Nam giáp thành phố Cần Thơ.
Tổng diện tích tự nhiên của tỉnh là 340.624 ha, bằng 1.03% diện tích cả nước, đứng
thứ 4 so với 13 tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Địa giới hành chính chia thành 11 đơn vị, gồm: 01 Thành phố, 01 Thị xã và 09
Huyện trong đó có 5 Huyện biên giới (02 Huyện Miền núi giáp biên giới có đông đồng bào
dân tộc Khmer sinh sống); có 154 xã, phường, Thị trấn (có 17 xã biên giới). An Giang có
01 cửa khẩu quốc tế đường bộ (Xuân Tô, Tịnh Biên); một cửa khẩu đường sông (Vĩnh
Xương, Tân Châu) và 02 cửa khẩu quốc gia (01 đường thủy, 01 đường bộ). Đặc thù vùng
biên giới ở An Giang là núi liền núi, sông liền sông với Vương Quốc Campuchia và là
đồng bằng nên việc qua lại ở đường bộ, đường sông cũng không bị cách trở bởi địa hình,
địa vật.
* Đặc điểm kinh tế, xã hội:
- Về kinh tế:
So với các tỉnh trong khu vực, kinh tế đặc thù của An Giang chủ yếu vẫn còn là sản
xuất nông nghiệp, tập trung khai thác diện tích cây lương thực và nuôi trồng thủy sản: với
550.000 ha trồng lúa 03 vụ; 3.038 ha diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản nước ngọt.
Hàng năm, sản lượng lương thực đạt gần 3 triệu tấn và gần 270.000 tấn thủy sản đã góp
phần tăng trưởng kinh tế bình quân trên 10% mỗi năm và đang định hướng phấn đấu tốc
độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 12%, thu nhập bình quân trên 17.3 triệu/người/năm
đến năm 2010.
- Về văn hóa - xã hội:
An Giang có dân số gần 2.3 triệu nhân khẩu, trong đó có 91% người Kinh; Khmer
chiếm 04%; Hoa và Chăm mỗi dân tộc chiếm 01%. Người Khmer sống tập trung ở 02
Huyện Miền núi giáp biên giới Campuchia và rải rác ở một số Huyện phía sau; người
Chăm sống tập trung ở một số xã của 03 Huyện (có 02 Huyện biên giới).
An Giang là tỉnh có nhiều Tôn giáo, nhiều nhất là Phật giáo Hòa Hảo, (trụ sở Trung
ương giáo hội đặt tại Huyện Phú Tân) chiếm 41% dân số; Phật Giáo 39%; Cao Đài 04%;
Thiên Chúa Giáo 03%; Tứ Ân Hiếu Nghĩa 02%; Hồi Giáo 01%; Bửu Sơn Kỳ Hương
0.5%; Tin Lành 0.14%.
Văn hóa An Giang phong phú, đa dạng. Cùng với văn hóa truyền thống chung; mỗi
dân tộc, tôn giáo có những nét sinh hoạt văn hóa riêng và việc tổ chức lễ, hội theo tập
quán, phong tục hàng năm đều được các cấp, các ngành tạo điều kiện và bảo đảm trật tự
chung trong đời sống của cộng đồng, xã hội.
* Những tồn tại, khó khăn:
- Tuyến biên giới:
+ Hàng hóa nhập lậu, xuất lậu, trốn thuế từng lúc từng nơi diễn biến khá phức tạp,
nhất là vào những dịp lễ, tết công tác đấu tranh, ngăn chặn cũng gặp không ít khó khăn do
địa hình vận chuyển thuận lợi cả đường sông và đường bộ. Chủ yếu là những mặt hàng
xăng, dầu và hàng hóa tiêu dùng ...
+ Đáng chú ý về mặt an ninh, một số tổ chức chống đối của người Việt Nam lưu
vong trú ẩn trên đất Campuchia tìm cách đưa người, tài liệu xâm nhập qua biên giới để
hoạt động phá hoại trong nội địa. Hội “Khmer Crôm” (nhóm người Khmer lưu vong)
chuyển tài liệu có nội dung xuyên tạc, phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc; Kích động
người Khmer trong tỉnh tụ tập, kéo đông người đòi đất, tranh chấp đất sản xuất với hộ sản
xuất của người Kinh, gây rối, chống người thi hành công vụ ở một số ấp, xã vùng dân tộc;
Kích động người Khmer ở các tỉnh phía sau đấu tranh đòi tự trị ...
Việc truy bắt đối tượng vận chuyển Hêroin và chất gây nghiện khác qua biên giới,
luồn lách trong nội địa cũng gặp khó khăn không ít. Khi bị phát hiện thì bỏ hàng trốn chạy
qua biên giới về đất Campuchia ẩn náu rồi tiếp tục tổ chức đường dây vận chuyển khác để
thâm nhập.
- Trong nội địa:
+ Lợi dụng tôn giáo, một số phần tử cực đoan trong đạo phật giáo Hoà Hảo, đạo Cao
Đài cấu kết với người ngoài tỉnh hoạt động bằng nhiều hình thức: tuyên truyền xuyên tạc
chính sách tôn giáo, đòi xoá bỏ điều 4 Hiến pháp năm 1992 về vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam; yêu sách hành đạo trái tôn chỉ mục đích của đạo do Nhà nước thừa
nhận khi đăng ký thành lập. Đáng chú ý việc lợi dụng ngày giỗ, lễ của tín đồ để lôi kéo tụ
tập đông người, kích động gây rối trật tự công cộng, tạo cớ xuyên tạc chính quyền đàn áp
tôn giáo; lén lút chuyển tải thông tin, hình ảnh sai sự thật ra nước ngoài để dựng chuyện xuyên
tạc, xin rút tiền về để hà hơi, tiếp sức tiếp tục chống phá…
+ Cùng với công tác đấu tranh phòng và chống vi phạm, tội phạm trong lĩnh vực an
ninh-chính trị thì tình hình vi phạm, tội phạm trong lĩnh vực trật tự-an toàn xã hội xảy ra
từng lúc, từng nơi cũng rất phức tạp.
Các cơ quan tiến hành tố tụng trong tỉnh đã thực hiện việc phối hợp thường xuyên
qua công tác phân loại xử lý, nhưng bình quân hàng năm Viện Kiểm sát cũng phải thực
hành quyền công tố tại phiên toà xét xử án hình sự trên 800 vụ ở hai cấp sơ thẩm và phúc
thẩm (theo số liệu thống kê từ năm 1998 đến năm 2007 của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh
An Giang). Cùng với một số loại tội phạm truy tố, xét xử phải áp dụng mức hình phạt cao,
thì loại tội phạm về ma tuý có vụ đã áp dụng mức hình phạt tử hình 6 bị cáo trong một vụ
có 9 bị cáo, tang vật thu được từ nguồn vận chuyển qua biên giới và có liên quan tới đường
dây mua bán với nhiều tỉnh khác.
Từ những đặc điểm chung, khái quát nêu trên đã tác động đến công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm nói chung và hoạt động thực hành quyền công tố của Viện Kiểm
sát ở địa phương trong tỉnh.
2.1.2. Thực trạng năng lực của Kiểm sát viên tại phiên toà xét xử án hình sự,
từ năm 1998 đến năm 2007 ở tỉnh An Giang
Để đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, thực hiện
Điều 137 Hiến pháp và Điều 1 Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 1992 về kiểm sát
tuân theo pháp luật trong các lĩnh vực hành chính, kinh tế, an ninh-quốc phòng … ; thực
hành quyền công tố ở địa phương, hai cấp kiểm sát trong tỉnh đã thực hiện chức năng,
tham muu cho cấp uỷ, tư vấn uỷ ban cùng cấp, phối hợp với các ngành trong Khối nội
chính … đã góp phần thực hiện thắng lợi các Nghị quyết về kinh tế-xã hội của cấp uỷ ở địa
phương, công tác đấu tranh chống và phòng ngừa vi phạm, tội phạm cũng đạt kết quả tốt.
Từ năm 1998 đến năm 2002, Viện Kiểm sát hai cấp trong tỉnh đã thực hành quyền
công tố tại phiên toà xét xử án hình sự sơ thẩm là 4.000 vụ án với 5.582 bị cáo; Viện Kiểm
sát cấp tỉnh đã thực hành quyền công tố tại phiên toà phúc thẩm án hình sự 524 vụ với 688
bị cáo (trong đó có 37 vụ do Viện Kiểm sát kháng nghị) [28]. Đáng lưu ý, trong 02 năm
1998 và 1999 số vụ án truy tố xét xử ở cấp sơ thẩm đều trên 1.000 vụ, án có kháng cáo,
kháng nghị cấp phúc thẩm phải xử lý cũng tăng; các năm về sau giảm hơn, chỉ còn trên
dưới 800 vụ mỗi năm.
Từ đó cho thấy, công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm đạt hiệu quả. Hoạt
động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên ý thức ngày càng tốt hơn trách nhiệm vừa
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành, vừa phục vụ yêu cầu nhiệm vụ chính trị của cấp
uỷ địa phương và thực hiện nghiêm túc Chỉ thị công tác hàng năm của Viện trưởng Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao về mảng công việc này.
Thực hành quyền công tố tại phiên toà xét xử án hình sự, Kiểm sát viên đều thể hiện
được trách nhiệm tham gia thẩm vấn, luận tội có căn cứ để bảo vệ việc buộc tội, tranh luận
với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng, làm rõ thêm những tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo, những nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm …
để Hội đồng xét xử cân nhắc khi ra bản án, quyết định.
Thực tế cho thấy, tại phiên toà sơ thẩm, trước áp lực công việc, công luận, yêu cầu áp
dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội từ khung hình phạt và tội danh của
Bộ luật hình sự … cùng với việc công khai tranh luận với người tham gia tố tụng, luôn tạo
ra những thúc ép, buột Kiểm sát viên thực hành quyền công tố phải có chuẩn bị kỹ từ việc
nghiên cứu hồ sơ, trích cứu lập tiểu hồ sơ, chuẩn bị những vấn đề dự kiến thẩm vấn, tranh
luận và chuẩn bị kỹ bản luận tội …
Ở cấp Huyện, Kiểm sát viên được bổ nhiệm có tuổi đời bình quân 35 tuổi, đã qua
trường lớp đào tạo của ngành kiểm sát hoặc trung cấp Luật và một số ít có trình độ Cao
đẳng kiểm sát, Đại học luật. Nhưng nhìn chung, trình độ không đồng đều, nên cá biệt có
trường hợp được bổ nhiệm là Kiểm sát viên nhưng ngại nhận sự phân công thực hành
quyền công tố tại phiên toà hình sự, nhất là những vụ án có tính phức tạp về đánh giá
chứng cứ và phải tranh luận nhiều. Ở cấp tỉnh, Kiểm sát viên có tuổi đời bình quân 40 tuổi,
hầu hết đã qua cao đẳng nghiệp vụ của ngành và Đại học luật, công tác nhiều năm trong
ngành với những kinh nghiệm tích lũy và khả năng ứng xử, tranh luận tại phiên toà vững
chãi, chất lượng, nhưng vẫn còn có Kiểm sát viên chủ quan trong nghề nghiệp do ỷ lại qua
kinh nghiệm nên trích cứu hồ sơ còn sơ sài; chuẩn bị luận tội chưa kỹ, cá biệt còn gạch đầu
dòng đề cương bản luận tội nên phát biểu thiếu tính mạch lạc, logic, thẩm vấn trùng lấp,
tranh luận cũng chưa đảm bảo đầy đủ theo các nội dung phản bác do phía bào chữa nêu ra
…
Từ năm 2003 đến năm 2007, Viện Kiểm sát hai cấp trong tỉnh đã thực hành quyền
công tố 3.544 vụ toà án đưa ra xét xử sơ thẩm hình sự với 5.160 bị cáo; Viện Kiểm sát cấp
tỉnh đã thực hành quyền công tố tại phiên toà phúc thẩm hình sự 550 vụ với 759 bị cáo
(trong đó có 44 vụ do Viện Kiểm sát kháng nghị) [28]. Nếu so sánh với mốc thời điểm nêu
trên cho thấy, số vụ thực hành quyền công tố tại phiên toà sơ thẩm giảm 12%, nhưng số bị
cáo chỉ giảm 8%; số vụ xét xử tại phiên toà phúc thẩm tăng 01% và số bị cáo cũng tăng
hơn 01%. Đáng lưu ý, trong khoảng thời gian này, tập trung thực hiện tinh thần Nghị quyết
08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác
tư pháp trong thời gian tới; Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001), Luật tổ chức Viện Kiểm
sát nhân dân, Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003 (sửa đổi) được ban hành thay thế Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988, đã kế thừa và
phát triển một bước pháp Luật tố tụng hình sự của Nhà nước ta, phù hợp chủ trương cải
cách tư pháp.
Luật tố tụng hình sự đã quy định theo hướng mở rộng yếu tố tranh tụng tại phiên toà
mà cụ thể là nâng cao trách nhiệm của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên
toà, Kiểm sát viên có trách nhiệm hỏi, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ cáo trạng. Người
bào chữa và những người tham gia tố tụng khác khi tranh luận có quyền trình bày ý kiến
về việc luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra những đề nghị; Kiểm sát viên phải đưa ra
những lập luận đối với từng ý kiến nhằm đảm bảo cho việc tranh luận tại phiên toà được
dân chủ, bình đẳng, khách quan, công khai, từ đó Hội đồng xét xử cân nhắc ra bản án đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật …
Thực hiện chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp và những quy định về chức năng,
nhiệm vụ được sửa đổi bổ sung của Luật. Công tác chỉ đạo, lãnh đạo Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao yêu cầu phải nâng trách nhiệm, trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, Kiểm
sát viên; Kiện toàn tổ chúc bộ máy; Tập trung nâng cao chất lượng thực hành quyền công
tố, bồi dưỡng năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà xét xử án hình sự. Đồng
thời, tổ chức rút kinh nghiệm khắc phục những tồn tại thiếu sót qua tổng kết từ thực tiển.
Hàng năm, có những Chỉ thị về công tác, xây dựng những quy chế nghiệp vụ và tổ chúc
tập huấn chuyên đề nghiệp vụ … Và ở tỉnh, công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành cũng
được lãnh đạo quan tâm, có nhiều biện pháp rút kinh nghiệm kịp thời những thiếu sót, yếu
kém trong đội ngũ Kiểm sát viên ỏ hai cấp, theo dõi sâu sát năng lực tranh tụng của Kiểm
sát viên cấp huyện, phối hợp với Toà án tổ chức một số phiên toà điển hình rút kinh
nghiệm chung theo yêu cầu cải cách tư pháp, tổ chức chấm điểm để chọn Kiểm sát viên
giỏi, tiêu biểu và nhân rộng ở hai cấp Kiểm sát đã phối hợp với cơ quan điều tra, toà án rút
kinh nghiệm về công tác điều tra, truy tố, xét xử và tích cực thúc đẩy việc đầu tư cơ sở vật
chất, điều chuyển cán bộ, Kiểm sát viên, xây dựng mạng tin học trong nội bộ, phối hợp với
sở giáo dục mở lớp bổ túc riêng về Khmer ngữ cho Kiểm sát viên đang công tác tại khu
vực miền núi, biên giới và vùng có đông đồng bào dân tộc Khmer và các điều kiện khác
nhằm thực hiện việc tăng thẩm quyền xét xử của toà án cấp huyện theo khoản 1 Điều 170
của Bộ luật Tố tụng hình sự sớm hơn lộ trình quy định …
Với sự phối hợp chặt với các ngành, được sự chỉ đạo của cấp trên, sự quan tâm lãnh
đạo của cấp uỷ và Ban chỉ đạo cải cách tư pháp của tỉnh và sự nỗ lực phấn đấu của cán bộ,
Kiểm sát viên trong từng đơn vị nên nhiều năm qua, năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên
thực hành quyền công tố tại phiên toà xét xử án hình sự đã nâng được chất lượng thật sự.
Công tác thực hành quyền công tố luôn gắn với nhiệm vụ phục vụ nhiệm vụ chính trị ở địa
phương, chú trọng đến công tác xét xử lưu động những vụ án điểm, bình quân mỗi năm xét
xử 80 vụ đã góp phần tuyên truyền, giáo dục pháp luật, phòng ngừa tội phạm, ổn định tình
hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Những năm qua, chỉ “có 10
đơn thư có nội dung yêu cầu bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, nhiều nhất là khiếu nại liên quan đến xử lý
các vụ án trước năm 2003 và đã giải quyết xong, trong đó có 08 trường hợp yêu cầu bồi
thường không đúng, 02 trường hợp yêu cầu bồi thường sai; qua giải thích trực tiếp, họ tự
rút đơn thôi khiếu nại” [31, tr.4]; chưa có trường hợp nào phải xử lý Kiểm sát viên và phải
bồi thường liên quan đến việc thực hiện theo tinh thần nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH
11 ngày 07/3/2003 của Uỷ ban thường vụ quốc hội. Và đến nay, tất cả Toà án nhân dân
của 11 huyện, thị xã, thành phố đều được Uỷ ban thường vụ quốc hội cho phép thực hiện
việc tăng thẩm quyền xét xử theo khoản 1 điều 170 của Bộ luật tố tụng hình sự, trong đó
năm 2004 tăng thẩm quyền 02 đơn vị, năm 2006 được tăng 03 đơn vị, năm 2007 được thực
hiện tăng 06 đơn vị còn lại. Công tác chuẩn hoá cán bộ cũng được thực hiện xong từ năm
2007, tất cả Kiểm sát viên huyện, tỉnh đều có trình độ đại học luật và qua trung cấp, cao
cấp lý luận Mác-Lê nin, cử nhân chính trị…
Tính chung, từ năm 1998 đến năm 2007, Viện Kiểm sát hai cấp trong tỉnh đã thực
hành quyền công tố tại phiên toà sơ thẩm 7.544 vụ án hình sự các loại với 10.742 bị cáo và
đã kháng nghị phúc thẩm 81 vụ; thực hành quyền công tố tại phiên toà phúc thẩm hình sự
1.074 vụ với 1.447 bị cáo. Hầu hết các phiên toà hình sự ở hai cấp xét xử đều có Luật sư
hoặc người tham gia bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo và những
người tham gia tố tụng khác, nhiều vụ có đông luật sư thực hiện quyền và trách nhiệm theo
yêu cầu của những người có liên quan nên việc tranh luận tại phiên toà được thực hiện
ngày càng tốt hơn, tổ chức phiên toà hình sự theo tinh thần Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị
bảo đảm dân chủ và văn minh của pháp luật, phán quyết của toà án chủ yếu căn cứ vào kết
quả tranh tụng, thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên tại phiên toà đã được nâng chất
lượng…
Đáng chú ý là việc thực hiện tăng thẩm quyền xét xử theo Khoản 1 Điều 170 của Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2003 (sửa đổi), cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát điều chuyển điều
tra viên, Kiểm sát viên để tăng cường theo yêu cầu thực tế xử lý án hình sự của các đơn
vị cấp huyện tuy số vụ án hình sự thụ lý, xử lý có tăng hơn trước do phải tiếp nhận việc
chuyển giao thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử theo thẩm quyền từ những vụ do cấp
tỉnh đang thụ lý, xử lý; vừa phải thực hiện chức năng, nhiệm vụ đối với những vụ án
mới phát sinh mà trước đây thuộc thẩm quyền xử lý của cấp tỉnh …nên vẫn còn những
khó khăn nhất định nhưng cũng nhờ đó đã kích thích tinh thần phấn đấu mới của từng
người, từng đơn vị, thúc đẩy việc tự nghiên cứu, khắc phục tính chủ quan theo kinh
nghiệm nên đã nâng được trình độ, năng lực thực hiện nhiệm vụ.
Qua công tác kiểm tra và thực hành quyền công tố tại phiên toà xét xử phúc thẩm án
hình sự có kháng cáo, kháng nghị, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh kịp thời thông báo kết quả,
rút kinh nghiệm định kỳ về những sai sót ở cấp huyện qua đánh giá chứng cứ, tội danh,
khung hình phạt áp dụng … và tập hợp những vướng mắc từ xử lý các vụ án nhất là loại
tội phạm về đánh bạc; cố ý gây thương tích; vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ, đường thuỷ; chống người thi hành công vụ; tội phạm hiếp dâm …
nhằm tổ chức thảo luận chuyên đề chung trong tỉnh.
Bám sát chỉ đạo của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và rút kinh nghiệm nghiệp vụ
qua các chuyên đề hàng năm, thực hành quyền công tố tại phiên toà xét xử án hình sự phúc
thẩm ở tỉnh, các Kiểm sát viên được phân công chuyên trách cũng tích cực học tập, rút
kinh nghiệm qua thực hiện nguyên tắc tranh tụng, chú ý về tác nghiệp theo quy chế, vừa
thực hiện công tác kiểm tra án sơ thẩm cấp Huyện để phát hiện và xử lý theo thẩm quyền.
Nhìn chung, với kết quả và thực hiện các biện pháp nêu trên, năng lực tranh tụng của
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố qua các phiên toà xét xử án hình sự ở hai cấp sơ
thẩm, phúc thẩm đạt được những tiến bộ mới; chấp hành nghiêm túc chỉ đạo của Viện
trưởng viện Kiểm sát nhân dân tối cao; phối hợp thường xuyên cùng các ngành trong khối
nội chính thực hiện chức năng, nhiệm vụ qua công tác đấu tranh chống và phòng ngừa vi
phạm, tội phạm có hiệu quả trong việc phục vụ nhiệm vụ chính trị ở địa phương và góp
phần thực hiện theo yêu cầu cải cách tư pháp.
2.1.3. Những thiếu sót do năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành
quyền công tố tại phiên toà xét xử sơ thẩm, phúc thẩm hình sự từ năm 1998 đến năm
2007 ở tỉnh An Giang
2.1.3.1. Tại phiên toà xét xử sơ thẩm án hình sự
Trước khi có Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp thì vấn đề tranh tụng ít được nghiên cứu, đề cập
trong khoa học pháp lý. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988
qua các lần sửa đổi cũng ghi nhận Viện Kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền
công tố, điều tra tội phạm trong những trường hợp do Luật Tố tụng hình sự quy định (cùng
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật) và tại Điều 191 được hiểu rằng tranh luận
giữa Kiểm sát viên thực hành quyền công tố với bị cáo hoặc người bào chữa phát sinh “sau
khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên toà, Kiểm sát viên trình bày những lời luận tội và đề
nghị kết tội bị cáo … và xem đó là giai đoạn trong trình tự tố tụng hình sự” [22, tr.533].
Từ Thông báo 01-TB/BCĐCCTP ngày 31/05/2002 của Ban chỉ đạo cải cách tư pháp
về việc tổ chức phiên toà mẫu ở một số địa phương để rút kinh nghiệm nhằm “Bảo đảm
tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác …;
việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà” của
Nghị quyết 08 thì vấn đề tranh tụng tại phiên toà hình sự đã kích thích việc nghiên cứu
càng lúc càng nhiều hơn làm sáng tỏ về nhận thức giữa tranh tụng, tranh tố tụng hình sự và
tranh luận tại phiên toà; những yếu tố cấu thành, đảm bảo về năng lực tranh tụng của Kiểm sát
viên thực hành quyền công tố tại phiên toà hình sự … và tuy Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi,
bổ sung) 2003 không quy định tranh tụng thành Điều văn trong những nguyên tắc cơ bản của
Bộ luật, nhưng “cũng đã quy định theo hướng mở rộng yếu tố tranh tụng mà cụ thể là nâng cao
trách nhiệm của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà và Kiểm sát viên có trách
nhiệm hỏi, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ cáo trạng” [18, tr.40]. Thực tế vẫn còn có Kiểm sát
viên chưa nhận thức được.
Như vậy, trước yêu cầu Kiểm sát viên phải nhận thức kịp thời quy định của pháp luật
thì đây cũng là một trong những hạn chế khi được phân công thực hiện nhiệm vụ.
Mặt khác, tại Điều 9 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định “Không ai bị coi là
có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp
luật” là nguyên tắc khẳng định trong các giai đoạn tố tụng hình sự thì giai đoạn xét xử là
giai đoạn mang tính chất quyết định đối với vụ án và tương ứng với giai đoạn này là việc
Kiểm sát viên được uỷ quyền thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo các Điều 206, 207, 218,
247 và 282 của Bộ luật Tố tụng hình sự và các Điều 17, 18 Luật tổ chức Viện Kiểm sát
nhân dân năm 2002 liên quan đến việc giải quyết vụ án tại phiên toà như: Đọc cáo trạng,
quyết định của Viện Kiểm sát liên quan đến việc giải quyết vụ án; tham gia xét hỏi; thực
hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên toà sơ thẩm, phát biểu quan điểm về việc giải
quyết vụ án tại phiên toà phúc thẩm; tranh luận với người bào chữa và những người tham
gia tố tụng khác tại phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm … Vẫn còn bộc lộ những thiếu sót:
Trước hết cần xác định rằng xét xử án hình sự sơ thẩm: là giai đoạn tố tụng rất quan
trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tại phiên toà sơ thẩm, Toà án công khai
tiến hành điều tra chính thức toàn bộ các tình tiết của vụ án bằng cách kiểm tra chứng cứ,
tài liệu thu thập ở giai đoạn điều tra, thu thập chứng cứ, tài liệu, lời khai mới với sự tham
gia đầy đủ của những chủ thể phía tiến hành tố tụng, phía tham gia tố tụng thực hiện các
quyền và nghĩa vụ, theo quy định của pháp luật, nhất là những quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự. Và từ đó, Toà án xem xét, ra phán quyết công khai việc bị cáo có phạm tội
hay không, biện pháp áp dụng về trách nhiệm hình sự đối với bị cáo phạm tội, các biện
pháp tư pháp khác có liên quan đến tội phạm như xử lý tài sản, vật chứng … và quyết định
về án phí.
Tại phiên toà, năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố thể
hiện trong suốt giai đoạn này mà tập trung nhất là phần tranh luận để bảo vệ việc buộc tội
đối với bị cáo đã truy tố.
Thực hiện Quyết định 120/2003/QĐ-VTC (V9) ngày 09/04/2003 của Viện trưởng
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao về cơ cấu bộ máy làm việc của Viện Kiểm sát nhân dân ở
cấp tỉnh, Viện Kiểm sát An Giang có 9 phòng, trong đó có phòng thực hành quyền công
tố-kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự; phòng thực hành quyền công tố
và Kiểm sát xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm án hình sự. Trước đó, việc thực
hành quyền công tố và kiểm sát xét xử án hình sự của sơ thẩm và phúc thẩm được giao cho
một phòng chuyên trách; hoạt động kiểm sát điều tra của từng loại án là những phòng
riêng. Ở cấp huyện, chia làm 03 bộ phận, trong đó có bộ phận thực hành quyền công tố,
kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử và kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam.
Như vậy, ở tỉnh từ chuyên khâu thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm
và phúc thẩm được tách ra phần thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm giao
về cho các phòng kiểm sát điều tra.
Việc thực hiện trong những năm qua cho thấy Kiểm sát viên thực hành quyền công tố
tại phiên toà còn bộc lộ một số thiếu sót:
* Thiếu sót trước hết là chất lượng nghiên cứu hồ sơ vụ án:
Hồ sơ vụ án được xác lập là cả một quá trình thu thập của cơ quan điều tra. Cùng với
quá trình đó, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố thực hiện nhiệm vụ vừa hướng dẫn,
vừa phối hợp để củng cố chứng cứ và xem xét các vấn đề có liên quan đạt yêu cầu xử lý vụ
án và tất cả những mâu thuẩn tồn tại cần được giải đáp, xử lý trong thời gian luật định.
Cùng với sự tồn tại khách quan của vụ việc được xác định có tội phạm xảy ra và điều tra
tái hiện lại hành vi phạm tội của bị can thì điều tra viên, Kiểm sát viên tiến hành tố tụng
tuy đã thể hiện thái độ khách quan trong thực hiện trách nhiệm nhưng vẫn có những yếu tố
chủ quan thậm chí thoả mãn với kết quả đã đạt qua hồ sơ vụ án. Và sau khi có cáo trạng
truy tố chuyển hồ sơ sang Toà án thì Luật sư và Thẩm phán được phân công tiếp cận
nghiên cứu thực hiện việc xét xử, bào chữa …
Như vậy, Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố cần phải nâng chất
lượng nghiên cứu hồ sơ. Thực tế, vẫn còn tình trạng nghiên cứu hồ sơ vụ án còn sơ sài,
không sâu, không kỹ và dễ thoả mãn với kết quả điều tra của cơ quan điều tra nên nắm
không chắc các chứng cứ buộc tội, gỡ tội, các tình tiết của vụ án; những mâu thuẩn giữa
các chứng cứ buộc tội, gỡ tội hoặc những thiếu sót phải được điều tra bổ sung để làm rõ
thêm lại không được phát hiện. Cũng từ nghiên cứu hồ sơ không kỹ, không đầy đủ nên còn
tình trạng cáo trạng viết dập khuôn kết luận điều tra, luận tội thì lập lại cáo trạng do không
tổng hợp, phân tích được các chứng cứ, chuẩn bị không sát việc xây dựng đề cương xét hỏi
và các vấn đề dự kiến tranh luận tại phiên toà. Nên có vụ, cấp phúc thẩm huỷ bản án và
giao về cấp sơ thẩm để điều tra, xét xử lại, như:
Bản án xét xử sơ thẩm hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn Quới, phạm tội
“Lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản”. Bị cáo kháng cáo xin giảm
nhẹ hình phạt.
Quới là cán bộ chuyên trách của Uỷ ban nhân dân Phường được phân
công theo dõi những hộ nghèo đã được xác định theo tiêu chuẩn quy định. Theo
chủ trương, hộ nghèo được vay vốn Ngân hàng chính sách với thủ tục vay có đại
diện của Uỷ ban nhân dân Phường ký bảo lãnh cho từng hộ. Quới có trách
nhiệm lập danh sách, hướng dẫn lập thủ tục, theo dõi việc đôn đốc, trả vốn và lãi
cho Ngân hàng theo định kỳ. Từ đó, Quới trực tiếp thu, không giao nộp, giữ lại
để tiêu xài cá nhân số tiền 16.856.000 đồng của 25 hộ nghèo ở địa bàn phụ
trách. Ngoài ra, cũng tại địa bàn đó, Quới còn làm thủ tục vay tín chấp cho 04 tổ
viên của Tổ liên kết sản xuất, thu lại được 11.082.000 đồng vốn và lãi phải nộp
trả cho Ngân hàng, Quới giữ lại để tiêu xài. Ngân hàng nơi phát vay đòi nợ, vụ
việc được phát hiện, xử lý hình sự.
Qua tài liệu kiểm tra, đối chiếu ban đầu còn có việc Quới kê khống hơn
mức yêu cầu vay của 04 hộ trong Tổ liên kết sản xuất với số tiền chênh lệch là
15 triệu đồng và chiếm đoạn luôn.
Phần này, tài liệu thu thập ban đầu có trong hồ sơ của cơ quan điều tra,
nhưng không được xem xét, kết luận.
Án sơ thẩm xét xử bị cáo phạm tội “Lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm
đoạt tài sản” là có căn cứ, nhưng không đưa đại diện Uỷ ban nhân dân Phường
vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan trong
vụ án là vi phạm Luật Tố tụng hình sự. Kiểm sát viên thực hành quyền công tố
tại phiên toà xét xử sơ thẩm cũng không phát hiện việc sai sót này và cả đối với
việc điều tra làm rõ thủ đoạn của Quới kê khống (vượt mức yêu cầu vay của 04
Tổ viên) để chiếm đoạt số tiền nêu trên.
Bản án phúc thẩm xử huỷ bản án của cấp sơ thẩm và giao lại cơ quan điều
tra để điều tra làm rõ và xét xử lại theo trình tự tố tụng sơ thẩm [29, tr.4-5].
Mặt khác, do nghiên cứu hồ sơ không kỹ nên trích cứu không đầy đủ các
lời khai của bị can, người bị hại, người làm chứng … cùng các chứng cứ, tài liệu và còn
tình trạng chỉ sao chụp các tài liệu, chứng cứ rồi để trong hồ sơ vụ việc nên không trích
cứu có hệ thống … dẫn đến khi thực hành quyền công tố tại phiên toà phát sinh tình huống
mới, gặp vấn đề phức tạp cần có ý kiến của Kiểm sát viên thì bị động, lúng túng, không
đưa ra được ý kiến phù hợp; có phiên toà, Kiểm sát viên không chủ động tham gia xét hỏi
để củng cố chứng cứ, tài liệu làm cơ sở kết luận hành vi phạm tội của bị cáo hoặc có câu
hỏi lại trùng lấp với câu hỏi của Hội đồng xét xử. Cũng từ nghiên cứu không kỹ hồ sơ vụ
án nên việc đối đáp tranh luận với các ý kiến kiến nghị của bị cáo, người bào chữa, người
tham gia tố tụng khác … thì diễn giải lòng vòng, gần như nhắc lại nội dung bản cáo trạng,
không đưa ra được chứng cứ, lý giải, lập luận, chứng minh nhằm bác bỏ những ý kiến
không đúng của phía phản bác để bảo vệ việc buộc tội qua cáo trạng.
Do chất lượng nghiên cứu hồ sơ vụ án chưa tốt nên từ năm 1998 đến 2007, toà án trả
hồ sơ cho Viện Kiểm sát cấp tỉnh và cấp huyện để điều tra bổ sung 182 vụ án, trong đó ở
cấp tỉnh là 49 vụ án, cấp huyện 106 vụ án. Tuy vẫn có những vụ sau khi tiếp nhận Viện
Kiểm sát nghiên cứu, kiểm tra lại và có văn bản khẳng định không cần phải điều tra lại, hồ
sơ đó đã đủ căn cứ, giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố; một số do phát sinh chứng cứ mới
tại phiên toà xét xử hoặc một ít vụ khi toà án chuẩn bị xét xử lại có Nghị quyết 32 của Ban
Thường vụ Quốc hội hướng dẫn thi hành một số Điều luật mới trong Bộ luật Hình sự năm
1999 (sửa đổi, bổ sung) nên rút hồ sơ để xử lý khác … thì vẫn còn 69,4% số vụ Toà trả hồ
sơ do chất lượng nghiên cứu hồ sơ của Kiểm sát viên chưa tốt.
* Thiếu sót của Kiểm sát viên ở phần xét hỏi tại phiên toà:
Theo Điều 11 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (sửa đổi) thì trách nhiệm chứng
minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Tại phiên toà, Kiểm sát viên có
nhiệm vụ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo để bảo vệ cáo trạng (vừa thực hiện
nhiệm vụ kiểm sát tuân theo pháp luật) chủ yếu bằng việc xét hỏi, tranh luận. Nhưng thiếu
sót ở phần xét hỏi của Kiểm sát viên còn tập trung ở một số việc:
Về bản chất, tại phiên toà xét xử án hình sự là cuộc điều tra công khai với đầy đủ các
thành phần của phía buộc tội, bào chữa và xét xử. Xét hỏi tại phiên toà nhằm làm rõ sự thật
khách quan vụ án nên mục đích cũng có sự khác nhau giữa phía buộc tội, phía bào chữa về
trách nhiệm hình sự của bị cáo. Vì vậy, kế hoạch xét hỏi của Hội đồng xét xử, Kiểm sát
viên, luật sư hoặc người bào chữa đối với bị cáo và những người có liên quan tham gia tố
tụng tại phiên xử có khác nhau, nhất là những vụ án phức tạp, nhiều bị cáo bị truy tố với
nhiều tội danh liên quan nhiều chủ thể … vẫn còn tình trạng Kiểm sát viên do chủ quan
nên thiếu lập kế hoạch xét hỏi tỉ mĩ và dự kiến các tình huống có thể xãy ra trong quá trình
xét hỏi; lúng túng, bị động và có thái độ nóng nải khi bị cáo không nhận tội, phản cung;
hoặc cho rằng cáo trạng đã nêu đầy đủ nên không sử dụng các chứng cứ khác có trong hồ
sơ vụ án và các tài liệu được xét hỏi tại phiên toà để đấu tranh, thuyết phục bị cáo. Có
trường hợp do sự đan chéo mâu thuẩn giữa các ý kiến trả lời và ghi nhận không đầy đủ nên
Kiểm sát viên hỏi trung lấp với câu hỏi của chính mình, của Hội đồng xét xử đã nêu. Có
Kiểm sát viên khi xét hỏi, đặt câu hỏi phức tạp làm cho người được hỏi không hiểu hoặc
sử dụng từ ngữ quá thuần về chuyên môn nên phải giải thích lòng vòng, nhiều lần gây mất
thời gian của phiên toà.
Thực tế còn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà xét xử án hình sự ở tỉnh An Giang.pdf