Tài liệu Luận văn Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay: LUẬN VĂN:
Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cỏn bộ
lónh đạo chủ chốt cấp tỉnh trong giai đoạn
hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh là vấn đề
có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài. Bởi lẽ, năng lực tư duy lý luận là
cơ sở quan trọng để cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh hoạch định đường lối, chủ trương, chỉ đạo
hoạt động thực tiễn.
Đường lối, chủ trương của Đảng là đường lối chung, khái quát ở tầm vĩ mô, khi
triển khai ở các địa phương đặc biệt là ở cấp tỉnh đòi hỏi một sự năng động, sáng tạo thì
kết quả mới cao. Để đáp ứng được yêu cầu đó, những cán bộ lãnh đạo chủ cốt của tỉnh
phải có trình độ tư duy lý luận mới đáp ứng được đòi hỏi của nhiệm vụ trong giai đoạn
hiện nay.
Sẽ là sai lầm khi cho rằng, ở địa phương chỉ là nơi triển khai nghị quyết của Trung
ương, nên yêu cầu về năng lực tư duy lý luận không cao. Thực ra, việc triển khai nghị
quyết, chủ trương, chính s...
86 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1353 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cỏn bộ
lónh đạo chủ chốt cấp tỉnh trong giai đoạn
hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh là vấn đề
có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài. Bởi lẽ, năng lực tư duy lý luận là
cơ sở quan trọng để cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh hoạch định đường lối, chủ trương, chỉ đạo
hoạt động thực tiễn.
Đường lối, chủ trương của Đảng là đường lối chung, khái quát ở tầm vĩ mô, khi
triển khai ở các địa phương đặc biệt là ở cấp tỉnh đòi hỏi một sự năng động, sáng tạo thì
kết quả mới cao. Để đáp ứng được yêu cầu đó, những cán bộ lãnh đạo chủ cốt của tỉnh
phải có trình độ tư duy lý luận mới đáp ứng được đòi hỏi của nhiệm vụ trong giai đoạn
hiện nay.
Sẽ là sai lầm khi cho rằng, ở địa phương chỉ là nơi triển khai nghị quyết của Trung
ương, nên yêu cầu về năng lực tư duy lý luận không cao. Thực ra, việc triển khai nghị
quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở địa phương đòi hỏi một sự năng
động sáng tạo lớn ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Hơn nữa, công cuộc đổi mới của
Đảng ta đã thu được những thành tựu quan trọng nhưng đồng thời đã và đang đặt ra nhiều
vấn đề gay gắt. Chính ở các địa phương là nơi nảy sinh những mâu thuẫn, những vấn đề
mới rất cần được giải quyết và khái quát cho nên năng lực tư duy lý luận có ý nghĩa hết sức
to lớn đối với cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh.
Theo chúng tôi, cấp tỉnh là cấp có đủ các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, an
ninh, quốc phòng, văn hóa, giáo dục... để chúng ta nghiên cứu, thể nghiệm, đề xuất những
vấn đề thuộc về đường lối chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước.
Thực tiễn 15 năm đổi mới vừa qua cho thấy, các cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh
đã năng động trong triển khai nghị quyết của Trung ương, song đó mới là những giải pháp
trước mắt chưa mang tính chiến lược lâu dài. Nhiều cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh vẫn thụ động
chờ sự chỉ đạo của cấp trên, chưa dám mạnh dạn đề xuất những biện pháp mới phù hợp với
địa phương, vì thế nhiều vấn đề thực tiễn nảy sinh chưa được giải quyết kịp thời... Tình
hình ấy phải chăng phản ánh năng lực tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh
chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình?
Vấn đề này đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Với mong
muốn được đóng góp phần nào vào việc nghiên cứu vấn đề này, tôi chọn đề tài: " Nâng
cao năng lực tư duy lý luận cho cỏn bộ lónh đạo chủ chốt cấp tỉnh trong giai đoạn hiện
nay " làm luận văn thạc sĩ khoa học triết học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề trình độ lý luận và năng lực tư duy lý luận của người cán bộ lãnh đạo đã
thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Cho đến nay đã có nhiều công
trình được công bố với những mức độ thể hiện khác nhau trong đó có những công trình có
liên quan trực tiếp đến đề tài như: "Yêu cầu mới về năng lực, trí tuệ của Đảng trong giai
đoạn hiện nay" của GS.TS Phạm Ngọc Quang, Tạp chí Triết học, Số 2-1994; Hồ Bá
Thâm: "Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã hiện nay", Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; "Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở nước ta hiện nay qua thực tế tỉnh Kiên Giang" luận văn
thạc sĩ triết học của Vũ Đình Chuyên; "Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi mới tư
duy" của GS.TS Nguyễn Ngọc Long, Tạp chí Cộng sản, Số 10-1987; "Tư tưởng Hồ Chí
Minh về vai trò của năng lực trí tuệ và lý luận" của PGS Trần Đình Huỳnh, Tạp chí Xây
dựng Đảng, Số 2-1995; "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng dạy lý luận
Mác - Lênin ở các trường Chính trị tỉnh" luận án tiến sĩ triết học của Nguyễn Đình Trãi...
Cùng với những công trình nghiên cứu chuyên sâu về trình độ tư duy, năng lực tư
duy của cán bộ, đảng viên còn có những bài viết, những công trình nghiên cứu đánh giá về
những hạn chế, yếu kém về tư duy lý luận của cán bộ, đảng viên, chẳng hạn như: "Chống
chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo điều
trong quá trình đổi mới"; "Mấy vấn đề về đổi mới tư duy", Học viện Nguyễn ái Quốc, Hà
Nội, 1988; "Một số căn bệnh trong phương pháp tư duy của cán bộ ta", Tạp chí Triết học,
số 2-1988...
Tuy nhiên, việc nghiên cứu về năng lực tư duy lý luận như một phẩm chất tư duy của
người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay với tư cách là một luận văn
thạc sĩ khoa học triết học thì chưa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu. Vì vậy, việc chọn nghiên
cứu đề tài này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn, nhằm góp phần vào công tác cán bộ trong
sự nghiệp đổi mới hiện nay ở tỉnh Bắc Giang nói riêng và trong cả nước nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn: Trên cơ sở làm rõ vai trò của năng lực tư duy lý luận đối
với hoạt động lãnh đạo của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh và thực trạng năng lực
tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ này (qua thực tế Bắc Giang), đề xuất một số phương
hướng và giải pháp chủ yếu nhằm từng bước nâng cao năng lực tư duy lý luận cho họ.
Nhiệm vụ của luận văn:
- Làm rõ vai trò năng lực tư duy lý luận đối với hoạt động lãnh đạo của người cán
bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh và những yêu cầu nâng cao năng lực tư duy lý luận trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (qua thực tế Bắc Giang).
- Phân tích thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ
chốt cấp tỉnh từ năm 1986 đến nay và những nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất một số phương hướng và những giải pháp chủ yếu để từng bước nâng
cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh hiện nay.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Luận văn không nghiên cứu tất cả những đối tượng cán bộ lãnh đạo, cũng không
nghiên cứu tất cả các phẩm chất của người cán bộ lãnh đạo theo yêu cầu của sự nghiệp đổi
mới, mà chỉ nghiên cứu về năng lực tư duy lý luận và vai trò của nó với hoạt động của
người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh (qua thực tế Bắc Giang).
Cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh là toàn bộ Ban chấp hành tỉnh Đảng bộ.
Luận văn không nghiên cứu về người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh như là đối
tượng của khoa học xây dựng Đảng, cũng không nghiên cứu về năng lực tư duy với tư
cách là đối tượng của tâm lý học; mà nghiên cứu năng lực tư duy lý luận với tư cách là một
phẩm chất của tư duy dưới góc độ nhận thức luận theo lập trường của chủ nghĩa duy vật
biện chứng mácxít.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng lý luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng ta về con người, về trình độ tư duy
lý luận và năng lực tư duy lý luận của người cán bộ lãnh đạo nói chung và cán bộ lãnh đạo
chủ chốt cấp tỉnh nói riêng. Luận văn kế thừa các tác giả đi trước về vấn đề này.
Luận văn sử dụng các phương pháp lịch sử và lôgíc, trừu tượng và cụ thể, phân
tích và tổng hợp, điều tra, thống kê...
Luận văn còn sử dụng những tài liệu của các cấp ủy Đảng và chính quyền ở tỉnh
Bắc Giang...
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn bước đầu xác định được những phẩm chất tối thiểu thuộc về năng lực tư
duy lý luận - một năng lực cơ bản trong năng lực của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
tỉnh; làm rõ vai trò của năng lực tư duy lý luận đối với hoạt động của người cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp tỉnh.
Đồng thời, luận văn cũng đã vạch ra được thực trạng năng lực tư duy lý luận của
đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh (qua thực tế Bắc Giang), trên cơ sở đó, luận văn
đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu để phát huy và từng bước nâng cao
năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ này.
7. ý nghĩa của luận văn
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng, hoạch định chiến
lược, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh Bắc Giang.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để giảng dạy, học tập triết học nói chung
và phần lý luận nhận thức nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm
2 chương, 5 tiết.
Chương 1
Năng lực tư duy lý luận
và vai trò của nó đối với hoạt động lãnh đạo
của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh
1.1. Năng lực tư duy lý luận
1.1.1. Bản chất tư duy lý luận
Để xác định được nội dung của phạm trù năng lực tư duy lý luận, trên cơ sở ấy mà
nhận rõ vai trò của nó cũng như nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp tỉnh, trước hết cần làm rõ nội dung khái niệm tư duy.
Để hiểu khái niệm tư duy, một mặt chúng ta phân biệt nó với "ý thức" và "nhận
thức" vì chúng là những khái niệm có mối liên hệ mật thiết, thống nhất hữu cơ với nhau.
Mặt khác, chúng ta nghiên cứu tư duy như một phạm trù có tính lịch sử.
Theo Mác, ý thức chỉ là vật chất được di chuyển vào trong bộ óc người và được cải
biến đi ở trong đó [41, tr. 35]. Còn Lênin thì cho rằng ý thức là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan [24, tr. 138]. Nói ý thức là hình ảnh chủ quan là theo nghĩa sự phản ánh thế
giới bởi bộ óc người gắn liền với hoạt động khái quát hóa, trừu tượng hóa, có định hướng, có
lựa chọn, nhằm tạo ra những hình ảnh sâu sắc và nhiều mặt về thế giới khách quan. Tuy là
hình ảnh chủ quan nhưng ý thức lại lấy thế giới khách quan (các sự vật, hiện tượng, quá
trình...) làm tiền đề, bị chế định bởi "cái khách quan" và có nội dung phản ánh là "cái
khách quan" ấy. Cố nhiên, không phải chỉ cần thế giới xung quanh tác động lên bộ óc con
người là mặc nhiên sinh ra ý thức. Bởi vì, ý thức là một hiện tượng xã hội, "... ngay từ đầu ý
thức đã là một sản phẩm xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại" [39, tr.
43]. Sự ra đời, tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người, chịu sự
chi phối không chỉ của các quy luật sinh học mà chủ yếu của các quy luật xã hội, do nhu
cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của con người quy định. ý thức có
kết cấu phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố như tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí... trong đó,
tri thức là thành tố quan trọng nhất. Quá trình hình thành và phát triển ý thức cũng chính là
quá trình con người tìm hiểu, tích lũy tri thức về thế giới xung quanh. Hiểu biết về sự vật
càng nhiều thì ý thức của con người về sự vật đó càng sâu sắc.
Tóm lại, ý thức là hình thức phản ánh riêng có ở con người, khác về chất so với
phản ánh tâm lý ở động vật. ý thức là toàn bộ các quá trình tâm lý tích cực tham gia vào sự
hiểu biết của con người đối với thế giới khách quan... [63, tr. 711].
Nhận thức - theo lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng - là quá trình
phản ánh tích cực và sáng tạo hiện thực khách quan bởi con người trên cơ sở của thực tiễn
lịch sử - xã hội. Nhận thức cũng là sự phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ óc của con
người. Nhưng sự phản ánh đó không phải là một hành động nhất thời, máy móc giản đơn,
thụ động mà là một quá trình phức tạp của hàng loạt hoạt động trí tuệ tích cực và sáng tạo.
Bởi vì, "... con người không chỉ phản ánh thế giới khách quan mà còn tạo ra thế giới khách
quan" [28, tr. 228].
Nhận thức, tuy cũng là sự phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ óc con người
nhưng khác với ý thức và hoàn toàn khác với hành vi phản ánh ở động vật về chất.
Nhận thức của con người là quá trình phản ánh hiện thực khách quan một cách
tích cực và sáng tạo là nhờ có hoạt động thực tiễn.
Theo Lênin, nhận thức là một quá trình "từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức
chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan [28, tr. 179]. Nhận thức là một quá trình
biện chứng, quá trình ấy bao gồm hai giai đoạn là nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
Tuy khác nhau về chất nhưng nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính có sự thống nhất
hữu cơ, tác động biện chứng với nhau. Chúng bổ sung, hỗ trợ cho nhau, đem lại cho con
người những hiểu biết ngày càng đầy đủ hơn, toàn diện hơn và sâu sắc hơn về các sự vật,
hiện tượng, quá trình trong thế giới.
Tóm lại, nhận thức là quá trình phản ánh và tái tạo lại hiện thực trong đầu óc của
con người, được quyết định bởi những quy luật phát triển xã hội và gắn liền với hoạt động
thực tiễn [72, tr. 407].
Vậy tư duy khác gì với nhận thức?
Tư duy không phải là hệ ý thức mà là hình thức cao của sự phản ánh tích cực thực
tại khách quan của con người [72, tr. 634].
Đó là hoạt động phản ánh ở giai đoạn cao nhất của nhận thức. Nếu chỉ bằng cảm
giác, tri giác thì nhận thức của con người rất hạn chế, bởi vì con người không thể bằng cảm
giác mà nhận thức, mà hiểu được những vấn đề như tốc độ ánh sáng, âm thanh hay những
hiện tượng xã hội phức tạp khác... Muốn hiểu được những vấn đề đó không thể có gì thay
thế ngoài việc sử dụng sức mạnh của tư duy.
Tư duy là sự phản ánh khái quát và gián tiếp hiện thực khách quan. Đó là quá trình
năng động, sáng tạo, nó có thể phản ánh được những mối liên hệ bản chất, tất nhiên bên
trong của sự vật, đem lại cho nhận thức khoa học những tri thức mới về tính quy luật chi
phối sự vận động và phát triển của sự vật.
Tư duy phải gắn liền với ngôn ngữ, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, tư duy
phải được biểu đạt thành ngôn ngữ, nhờ đó mà con người có thể sáng tạo ra những khái
niệm và những phạm trù khoa học, nêu lên những quy luật của các khoa học và do đó hiểu
sâu sắc hơn bản chất của các sự vật. Nếu không có ngôn ngữ sẽ không có phương tiện để
tư duy và tư tưởng của loài người không thể lưu giữ kế thừa và phát triển được.
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng, tư duy là sản vật của bản nguyên siêu tự nhiên, độc
lập, không phụ thuộc vào vật chất, đó là "ý niệm tuyệt đối", "ý niệm siêu nhiên"... song, sự
phát triển của khoa học đã bác bỏ những quan điểm đó và đã chứng minh được rằng tư duy
là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người. Hoạt động của bộ óc
người phản ánh hiện thực khách quan bằng các hình thức khái niệm, phán đoán, suy lý...
thông qua các phương pháp như so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát
hóa. Như vậy, xét về thực chất, tư duy là sự hoạt động đặc biệt của quá trình con người
phản ánh thế giới, là quá trình phản ánh dựa trên sự hoạt động của bộ não nhằm nhận thức
bản chất, quy luật vận động của thực tại khách quan và định hướng quan hệ đối với thực
tại khách quan đó. Những quy luật của tư duy là sự phản ánh các quy luật của thực tại
khách quan. Những hình ảnh của sự vật trong thế giới, từ những hình ảnh trực tiếp, nguyên
vẹn của cảm giác được tư duy chắt lọc loại bỏ những mặt, những yếu tố bề ngoài ngẫu
nhiên trên cơ sở sáng tạo mà tìm ra những mặt cơ bản, tất yếu, những quan hệ bản chất,
bền vững. Từ đó hình thành nên những khái niệm, phạm trù tương ứng với các mặt, các
quan hệ tất yếu của chúng; dựa vào đó mà xây dựng nên hình ảnh mới, những quy luật
khái quát xu hướng vận động và phát triển của các sự vật. Với ý nghĩa đó, tư duy chỉ có ở
con người và là trình độ cao nhất của nhận thức con người trong quá trình phản ánh thế
giới khách quan. Nhưng đó không phải là sự phản ánh thụ động, phụ thuộc mà con người
chủ động tác động vào thế giới và phản ánh chủ động sáng tạo.
Để có thể tác động, biến đổi hiện thực, trước tiên con người phải tìm cách nhận
thức và hiểu biết về nó. Hoạt động tác động, biến đổi hiện thực lại là cơ sở cho nhận thức,
tư duy mang tính sáng tạo và phát triển không ngừng. Bởi vì, xuất phát từ hoạt động làm
biến đổi hiện thực đó mà các sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực bộc lộ các thuộc
tính, tính chất... Trên cơ sở đó con người mới hiểu biết về sự vật, hiện tượng. Đây là quá
trình không có giới hạn cuối cùng của hoạt động nhận thức của con người. Hơn nữa, hoạt
động của tư duy còn là hoạt động vận dụng, sử dụng, kết hợp các khái niệm để sáng tạo ra
các khái niệm mới, phản ánh các quan hệ tất yếu, các quy luật vận động, phát triển của thế
giới khách quan. Đồng thời, hoạt động của tư duy cũng là quá trình vận dụng tri thức thu
được vào hoạt động thực tiễn của con người, làm cho hoạt động đó phát triển, từ đó mà tư
duy lý luận cũng không ngừng phát triển. Chính vì thế, cả nội dung và hình thức của tư
duy đều phụ thuộc vào thực tiễn lịch sử - xã hội. Lịch sử không phải bắt đầu từ tư duy mà
là từ hoạt động thực tiễn của con người. Trong đó, hoạt động lao động sản xuất của cải vật
chất tạo ra nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của xã hội là hoạt động cơ bản nhất. Hoạt
động này càng phát triển thì tư duy, trí tuệ của con người cũng càng phát triển theo.
Ăngghen đã nhận định rằng: "Trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta
đã học cải biến tự nhiên" [40, tr. 720].
Như vậy, thông qua hoạt động thực tiễn của mình, con người đã chủ động nhận
thức và cải tạo thế giới. Tư duy của con người là do hiện thực khách quan quy định; nhưng
chính hoạt động thực tiễn của con người lại là cơ sở, động lực cơ bản cho sự xuất hiện và
phát triển của tư duy, thực tiễn cũng là tiêu chuẩn để kiểm tra, điều chỉnh quá trình tư duy,
xác nhận cho tính đúng đắn của tư duy, loại bỏ những sai lầm, tạo sự phát triển liên tục của
tư duy con người.
Tư duy của con người luôn mang tính sáng tạo, hoạt động của tư duy luôn vươn
tới những nhận thức mới thông qua hoạt động thực tiễn và nhận thức. Hoạt động thực tiễn
là cơ sở, động lực của tư duy. Do vậy, khi hoạt động thực tiễn còn ở một trình độ thấp thì
ứng với nó là cấp độ tư duy ở trình độ thấp. Khi hoạt động thực tiễn đạt đến trình độ cao
hơn thì phương pháp tư duy, trình độ tư duy cũng được nâng lên.
Như vậy, tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức nảy sinh trên cơ sở nhận
thức cảm tính. Đó là trình độ phản ánh khái quát hóa, trừu tượng hóa, mang tính tích cực
sáng tạo, hướng sâu vào nhận thức bản chất, quy luật vận động và phát triển của thế giới
khách quan.
Tư duy là quá trình suy nghĩ, tìm tòi, vận dụng kết hợp các khái niệm, phạm trù
theo các nguyên tắc, quy luật lôgíc hình thức và lôgíc biện chứng nhằm đạt đến chân lý.
Tư duy là quá trình sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần, là sự tìm tòi đề xuất
những nhận thức mới và không ngừng bổ sung phát triển các nhận thức đó trên cơ sở hoạt
động thực tiễn của con người.
ở trình độ tư duy, sự vật được phản ánh khái quát trong các hình thức khái niệm,
phán đoán, suy lý. Tư duy luôn gắn liền với ngôn ngữ, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư
duy, tư duy phải được diễn đạt thành ngôn ngữ bởi vì đó là hiện thực trực tiếp của tư tưởng,
là phương tiện để diễn đạt kết quả của sự nhận thức, để lưu giữ và tiếp tục phát triển kết quả
của nhận thức đó.
Tư duy xuất hiện, biến đổi và phát triển trong quá trình hoạt động thực tiễn của
con người. Thực tiễn là cơ sở, động lực và là tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng, sai của tư duy.
Mục đích của tư duy hướng tới là để phục vụ cho thực tiễn; chính quá trình tư duy sẽ tìm
ra những biện pháp, cách thức để hiện thực hóa mình thông qua hoạt động thực tiễn của
con người.
Tư duy là sản phẩm của lịch sử. Trong những thời đại khác nhau, với những điều
kiện phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, khoa học... khác nhau, thì trình độ của tư duy xét
cả về nội dung và hình thức cũng ở mức cao, thấp khác nhau.
Tư duy của con người không phải là bất biến mà nó cũng có quá trình biến đổi và
phát triển ngày càng đạt được trình độ cao hơn. Khi xem xét tư duy như một quá trình, một
bản tính phát triển chung của con người thực tiễn xã hội, tư duy thể hiện ra khuynh hướng
phát triển tất yếu của nó. Tư duy con người theo Ăngghen vừa tối cao vừa không tối cao. Xét
theo sự thực hiện cá biệt - chủ thể cụ thể của tư duy thì nó không tối cao và có hạn. Xét
theo bản tính và khả năng thì tư duy của con người là tối cao và vô hạn. Lênin khi đề cập
về khả năng nhận thức của con người đã cho rằng, chỉ có những cái con người chưa biết chứ
không có những cái mà con người không thể biết.
Tư duy là vấn đề mấu chốt trong hoạt động nhận thức hoạt động của con người
cũng phải dựa trên cơ sở của tư duy. Tùy thuộc vào trình độ tư duy và năng lực tư duy mà
đạt tới những kết quả nhất định trong mỗi hoàn cảnh cụ thể. Nhìn chung, trình độ tư duy
được xem xét ở các cấp độ như tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận. Tư duy kinh nghiệm
có đối tượng là những khách thể hiện thực tồn tại trong không gian thời gian với sự thống
nhất giữa chung và riêng, đặc thù và phổ biến... Tư duy kinh nghiệm mang tính chất tác
động trực tiếp cải biến khách thể hiện thực; thiên về phản ánh các hiện tượng, nặng về mô tả
các sự kiện. Tư duy lý luận có đối tượng là những khách thể trừu tượng, những hình ảnh,
khái niệm phạm trù. Bởi thế, tư duy lý luận mang tính chất tác động gián tiếp đối với khách
thể hiện thực, nặng về sự định hướng. ở trình độ phản ánh thì tư duy lý luận phản ánh sâu sắc
hơn bản chất của sự vật, hiện tượng. Nếu tư duy kinh nghiệm chỉ mới dừng lại ở việc mô
tả những đặc điểm, những mối liên hệ bên ngoài của các sự vật hiện tượng thì tư duy lý
luận đi sâu phản ánh các thuộc tính, mối liên hệ có tính bản chất, tất yếu, tính quy luật của
chúng. Khác với tư duy kinh nghiệm, tư duy lý luận có khả năng phê phán rất sâu sắc và triệt
để. Tư duy lý luận cũng có khả năng dự báo khoa học về xu hướng vận động, phát triển
của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, nó đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của khoa
học cũng như thực tiễn xã hội. Tư duy lý luận cũng chính là biểu hiện trình độ phát triển cao
của năng lực tư duy lý luận.
Từ những điều trình bày trên đây, chúng ta thấy: ý thức, nhận thức, tư duy là
những khái niệm có sự thống nhất hữu cơ với nhau; chúng đều là sự phản ánh hiện thực
khách quan bởi bộ óc người, cùng bị chi phối bởi những quy luật sinh học và xã hội trong
đó các quy luật xã hội giữ vai trò quyết định. Nhưng chúng không phải là những khái niệm
đồng nhất.
Trong mối quan hệ nội tại giữa ý thức, nhận thức và tư duy, cần thấy rằng, ý thức
là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người, nó là phạm trù đối lập với vật chất.
Nhận thức là quá trình phản ánh đó. Tư duy là trình độ cao của nhận thức. Như thế, nhận
thức, tư duy đều là quá trình hoạt động để mang lại tri thức về sự vật. Tư duy cũng thuộc
hoạt động nhận thức nhưng là giai đoạn cao của quá trình nhận thức. Nhận thức là quá
trình phản ánh hiện thực khách quan bởi con người trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Nói đến
tư duy lý luận là nói đến tư duy ở trình độ khái quát hóa, trừu tượng hóa, phản ánh gián
tiếp nhưng sâu sắc về mối liên hệ bản chất, tính tất yếu, tính quy luật của sự vật, hiện
tượng.
1.1.2. Năng lực tư duy lý luận và những yếu tố ảnh hưởng đến nó
Năng lực tư duy lý luận là một trong những phạm trù quan trọng của nhận thức
luận. Đã có những công trình, những bài viết đề cập đến bản chất, cấu trúc và vai trò của
năng lực tư duy lý luận hướng tới việc làm sâu sắc thêm lý luận nhận thức và làm cơ sở lý
luận cho việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho con người Việt Nam hiện nay. Khi bàn
về khái niệm năng lực tư duy, có ý kiến cho rằng, "năng lực tư duy là tổng hợp những
phẩm chất trí tuệ đáp ứng yêu cầu nhận thức thế giới và bảo đảm cho hành động sáng tạo
của con người". Năng lực đó "được biểu hiện ở khuynh hướng nhận thức và hành động, ở
kết quả xử lý thông tin và nhất là kết quả hoạt động. Phương pháp tiếp cận vấn đề khác
nhau chính là biểu hiện trình độ khác nhau của năng lực tư duy" [34, tr. 26]. Trong quan
điểm trên, vấn đề trung tâm, bản chất của năng lực tư duy là tổng hợp những phẩm chất trí
tuệ và trên cơ sở phẩm chất trí tuệ mới có hành động sáng tạo.
Tác giả Hồ Bá Thâm trong sách "Nâng cao năng lực tư duy cho đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã" xem năng lực tư duy là "khả năng hiển thị tri thức thành phương pháp và
sử dụng thành thạo chúng để tiếp tục nhận thức tìm ra bản chất, quy luật, xu hướng tất yếu
của sự vật và vận dụng đúng đắn các quy luật đó trong cuộc sống. Khả năng ấy được cụ
thể: "Năng lực tư duy là tổng hợp những khả năng ghi nhớ, tái hiện trừu tượng hóa, khái
quát hóa, liên tưởng, luận giải và xử lý trong quá trình phản ánh, phát triển tri thức và vận
dụng chúng vào thực tiễn trên cơ sở quy luật khách quan mang lại những kết quả nhất
định" [66, tr. 13-15]. Tác giả cũng đã đề cập đến ba yếu tố cơ bản cấu thành năng lực tư
duy trong sự phân biệt với năng lực cảm giác đó là: a) Năng lực ghi nhớ, tái hiện những
hình ảnh bằng ngôn ngữ khái niệm, hình ảnh, do nhận thức cảm tính đem lại; b) Năng lực
trừu tượng hóa, khái quát hóa trong phân tích và tổng hợp; c) Năng lực tưởng tượng suy
luận, liên tưởng để nhận biết, phát triển, lựa chọn xử lý trong nhận thức và hành động.
Như đã trình bày ở phần trên, tư duy là một quá trình nhận thức ở trình độ cao,
phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ có tính quy luật của đối tượng mà
trước đó chưa biết. Tư duy bao giờ cũng mang tính khái quát và tính gián tiếp. Với những
đặc trưng đó, quá trình hoạt động của tư duy phải dựa trên những phương pháp khác nhau
và phải tuân theo một trật tự lôgic nhất định. Những phương pháp đó là phân tích, tổng
hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa... Trong quá trình hoạt động của tư duy, những
phương pháp ấy không nhất thiết phải được kết hợp với nhau một cách tuần tự mà có thể
chúng đồng thời được tiến hành trong sự tương hỗ lẫn nhau giữa các phương pháp. Bởi vì,
mỗi phương pháp tuy có nội dung tác dụng khác nhau nhưng lại quan hệ chặt chẽ với các
phương pháp khác. Phương pháp này là điều kiện, tiền đề để phương pháp khác phát huy
hiệu quả. Chẳng hạn khi phân tích, tổng hợp các thuộc tính của sự vật thì đòi hỏi phải có
trừu tượng hóa để tách cái chung khỏi cái riêng v.v...
Tuy nhiên, mỗi phương pháp khi được tiến hành theo những cách thức đặc trưng
của nó thì cũng được xem là một thao tác của quá trình tư duy. Như vậy, quá trình tư duy
được tiến hành trong sự huy động sức mạnh của mỗi phương pháp tư duy và sự kết hợp
các phương pháp ấy theo một trật tự lôgic phù hợp với lôgíc vốn có của đối tượng nhận
thức.
Quá trình tư duy được thể hiện ở các hình thức như khái niệm, phán đoán, suy lý.
Những hình thức này quan hệ mật thiết với nhau và giữ vai trò quan trọng trong tư duy
khoa học. Chính vì thế, năng lực tư duy còn thể hiện ở năng lực lựa chọn các vấn đề có
liên quan để liên kết các hình thức tư duy mà tìm ra các kết luận nhất định. Chẳng hạn,
năng lực lựa chọn các khái niệm để hình thành một phán đoán đúng và liên kết các phán
đoán để có suy lý đúng nhằm phát hiện khái niệm mới. Như vậy, năng lực tư duy bao gồm
cả năng lực lựa chọn, sắp xếp, kết hợp các phương pháp, hình thức tư duy và khả năng sử
dụng thành thạo, nhuần nhuyễn mỗi phương pháp, mỗi hình thức tư duy theo những cách
thức, tác dụng riêng của nó cho phù hợp với tính quy định khách quan của các đối tượng
nhận thức.
Năng lực tư duy là khả năng sử dụng một cách thành thạo, nhuần nhuyễn cả nội
dung và phương pháp của tư duy để phát hiện vấn đề và xây dựng được những phương án
tối ưu để giải quyết vấn đề đó.
Năng lực tư duy thường được tiếp cận ở các kiểu: Năng lực tư duy thực hành,
năng lực tư duy hình tượng và năng lực tư duy lý luận... Xét theo cấp độ phát triển của
năng lực tư duy có thể phân ra thành năng lực tư duy kinh nghiệm và năng lực tư duy lý
luận. Năng lực tư duy lý luận khác với năng lực tư duy kinh nghiệm. Năng lực tư duy lý
luận là khả năng tư duy về những vấn đề chung, tổng thể, toàn vẹn, nắm bắt đối tượng
trong tính chỉnh thể của sự tồn tại, vận động và phát triển. Đó là khả năng tư duy khoa học,
sáng tạo trong sử dụng các khái niệm phạm trù để phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng
hóa, khái quát hóa đem lại những tri thức mang tính chính xác, sâu sắc, chặt chẽ, lôgíc và
hệ thống, phù hợp với tính quy luật khách quan của hiện thực. Hơn nữa, năng lực tư duy lý
luận còn có sức mạnh đưa lý luận vào cuộc sống, cụ thể hóa lý luận thành mục tiêu, phương
hướng, giải pháp cụ thể để giải quyết các vấn đề của cuộc sống có hiệu quả cao. Như vậy,
năng lực tư duy lý luận còn được thể hiện ở khả năng xác lập tri thức, khả năng xác lập
quan hệ giữa các tri thức và khả năng đối tượng hóa tri thức.
Năng lực tư duy lý luận và trình độ tư duy lý luận là những phạm trù dùng để chỉ
những mặt của quá trình hoạt động thống nhất của tư duy. Trình độ tư duy là trình độ trừu
tượng hóa, khái quát hóa trong phân tích và tổng hợp, là trình độ tưởng tượng, phán đoán,
suy lý để liên tưởng và phát hiện, khám phá lựa chọn, xử lý trong nhận thức và hành động.
Còn năng lực tư duy là bản thân sự trừu tượng hóa, khái quát hóa, liên tưởng, luận giải...
Như vậy, trình độ tư duy gần với kết quả của quá trình rèn luyện năng lực tư duy. Vì thế,
có thể hiểu trình độ tư duy như là cấp độ của khả năng hoạt động nhạy bén của các yếu tố
cấu thành năng lực tư duy và khả năng liên kết sử dụng các yếu tố đó như là những
phương pháp tư duy khoa học. Tuy vậy, sự phân biệt năng lực tư duy và trình độ tư duy
chỉ là tương đối. Năng lực tư duy nào thì thể hiện một trình độ tư duy như thế ấy. Trình độ
tư duy là mức độ đạt được về nội dung và phương pháp tư duy. Để đạt đến trình độ tư duy
lý luận cao đòi hỏi phải không ngừng phấn đấu nâng cao năng lực tư duy lý luận. Từ
những phân tích ở trên có thể xem, năng lực tư duy lý luận là tổng hợp các phẩm chất trí
tuệ của chủ thể đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức nhanh, nhạy, đúng đắn đối với hiện
thực ở trình độ lý luận, nhờ vậy, có những đề xuất sắc bén, sáng tạo, thiết thực góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Năng lực tư duy có nhiều cấp độ phát triển, nhiều loại hình khác nhau. ở mỗi
người lại mạnh về một loại hình tư duy riêng, với cấp độ phát triển cao thấp khác nhau.
Điều đó không phải chỉ do sự chi phối của lịch sử, mà ngay trong cùng một điều kiện môi
trường cũng diễn ra sự khác nhau đó. Chính vì thế, năng lực tư duy lý luận không chỉ bị
ảnh hưởng bởi các điều kiện chung mà còn do các yếu tố chủ quan của mỗi người chi phối.
Trước hết, năng lực tư duy lý luận phụ thuộc vào yếu tố bẩm sinh, di truyền của
từng người. Đó là những yếu tố sinh ra đã có và do thế hệ trước di truyền lại như cấu tạo
của hệ thần kinh, gen... Những yếu tố này đóng vai trò chính trong việc tạo ra năng khiếu
thông minh, trí nhớ, khả năng trực giác, nhạy cảm. Đó là cơ sở, tiền đề, là điều kiện của
năng lực trí tuệ nói chung và năng lực tư duy lý luận nói riêng. Như thế, tố chất bẩm sinh
di truyền mới chỉ là những khả năng tiềm tàng nó cần phải được khơi dậy phát triển, rèn
luyện thường xuyên, nếu không sẽ dẫn đến mai một. Như Ph. Ăngghen đã viết: "Tư duy lý
luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người ta mà có thôi" [40, tr.
487].
Thứ hai, quá trình giáo dục, đào tạo, quá trình học tập rèn luyện một cách tự giác
để nâng cao trình độ tri thức, trí tuệ có ảnh hưởng trực tiếp, đóng vai trò quyết định đến
năng lực tư duy lý luận. Trình độ tri thức, trí tuệ là điều kiện tiên quyết để con người phát
triển năng lực của mình về mọi mặt. Để đạt được một trình độ tri thức, trí tuệ nhất định,
không có con đường nào khác ngoài việc phải thông qua quá trình giáo dục, đào tạo và tự
đào tạo. Quá trình này mang lại cho con người không chỉ nội dung các tri thức mà còn là
những phương pháp tư duy khoa học ngày một hoàn thiện hơn. Đó chính là nền tảng, là cơ
sở để con người mài dũa khả năng tư duy, rèn luyện năng lực tư duy nhạy bén sáng tạo.
Nếu bị hạn chế về tri thức, trí tuệ thì không thể nâng cao được năng lực tư duy lý luận.
Thứ ba, môi trường kinh tế - xã hội, nền tảng văn hóa, khoa học của xã hội có ảnh
hưởng quan trọng đến năng lực tư duy lý luận của con người. Sự phát triển về năng lực tư
duy lý luận phụ thuộc vào môi trường kinh tế - xã hội mà trong đó chủ thể tư duy sống và
hoạt động. Đó là toàn bộ những điều kiện, hoàn cảnh khách quan liên quan đến đời sống,
đến quá trình học tập, rèn luyện và công tác của mỗi người. C. Mác đã chỉ rõ, "con người
là sản phẩm của hoàn cảnh", hoàn cảnh kinh tế - xã hội như thế nào sẽ sản sinh ra con
người thực tiễn như thế ấy. Bản thân tư duy cũng là sự phản ánh của tồn tại xã hội, là sản
phẩm của lịch sử - xã hội. Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã góp phần hình thành thói
lười suy nghĩ, tìm tòi, tư tưởng thụ động, trông chờ, ỷ lại. Cơ chế kinh tế thị trường dễ hình
thành được phong cách tư duy năng động, sáng tạo... Năng lực tư duy lý luận của con
người đặc biệt phụ thuộc vào nền tảng văn hóa, khoa học mà xã hội đạt được. Thật vậy,
năng lực tư duy lý luận chịu sự chi phối chặt chẽ bởi sự phát triển của bản thân khoa học
và trình độ văn hóa xã hội. Nền tảng văn hóa với sức mạnh cuốn hút của cái chân, thiện,
mỹ, có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển các tư chất đặc thù của mỗi người, mở rộng,
khơi sâu thêm nền tảng tâm - sinh lý, khơi dậy mọi năng lực tiềm ẩn của con người. Cùng
với sự phát triển của khoa học, năng lực tư duy lý luận cũng có quá trình phát sinh, phát
triển của mình; nó không phải là một cái gì vĩnh viễn, sinh ra và mãi mãi như vậy. Khi
đánh giá về sự phát triển của năng lực tư duy lý luận, Ăngghen nhận xét: "Tư duy lý luận
của mỗi một thời đại, cũng có nghĩa là cả thời đại chúng ta là một sản phẩm lịch sử mang
những hình thức rất khác nhau trong những thời đại khác nhau và do đó có một nội dung rất
khác nhau" [40, tr. 487]. Điều đó có nghĩa là, ứng với mỗi giai đoạn khác nhau trong sự
phát triển của khoa học, tư duy của con người cũng có những loại hình khác nhau. Ngày
nay, do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, sự nâng cao trình độ văn hóa,
khoa học, sự phát triển nhanh chóng các phương tiện thông tin hiện đại... nên việc nâng
cao năng lực tư duy lý luận lại càng gắn liền với sự phát triển của khoa học. Vì vậy, nâng
cao năng lực tư duy lý luận trước hết phải nâng cao trình độ tri thức khoa học, phương
pháp tư duy khoa học, đặc biệt là phương pháp tư duy biện chứng.
Thứ tư, hoạt động thực tiễn là yếu tố cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực tư
duy lý luận của con người. Ăngghen đã chỉ rõ, "chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ
không phải một mình giới tự nhiên với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở trực tiếp nhất, chủ
yếu nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người
ta đã học cải biến tự nhiên" [40, tr. 720]. Như vậy, con người quan hệ với thế giới bắt đầu
không phải bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính thông qua hoạt động thực tiễn mà con
người có được những hiểu biết, những tri thức về hiện thực khách quan và phát triển
những năng lực của mình. Mọi tri thức, năng lực của con người, nhất là năng lực tư duy lý
luận, xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn. Hơn nữa, sự phát triển liên tục, không
ngừng của thực tiễn luôn luôn đặt ra những yêu cầu mới đòi hỏi con người phải luôn suy
nghĩ, tìm tòi, phát hiện quy luật vận động, phát triển của sự vật, hình thành những phương
thức, nội dung mới trong năng lực tư duy hướng về việc phát hiện và giải quyết các vấn đề
theo yêu cầu của thực tiễn. Như thế, trong hoạt động thực tiễn, năng lực trí tuệ con người
nói chung, năng lực tư duy lý luận nói riêng được phát triển. Thông qua hoạt động thực
tiễn năng lực tư duy lý luận, đặc biệt là khả năng xác lập tri thức và đối tượng hóa tri thức
của con người mới được hình thành và cũng thông qua đó mà những năng lực ấy mới được
trau dồi, phát triển.
Thứ năm, nhu cầu và lợi ích là những yếu tố hình thành thái độ, động cơ cho mọi
hoạt động của con người. Trong đó, có hoạt động rèn luyện để hình thành và phát triển năng
lực tư duy lý luận. Xét cho cùng, mọi hoạt động của con người đều nhằm đạt được một lợi
ích nhất định nào đó về vật chất hoặc tinh thần để thỏa mãn nhu cầu của mình. Hêghen đã
viết: "Những lợi ích thúc đẩy đời sống của các dân tộc và các cá nhân [28, tr. 98]. Như vậy
cái chi phối mục đích hoạt động của con người là lợi ích.
Nhu cầu, lợi ích có ảnh hưởng thường xuyên và trực tiếp đến ý thức, động cơ hoạt
động thực tiễn, học tập và rèn luyện để nâng cao năng lực tư duy lý luận. Người có động
cơ không trong sáng, trong hoạt động, học tập, rèn luyện chỉ vì lợi ích cá nhân, trước mắt,
lợi ích cục bộ... thì khó có thể rèn luyện được năng lực tư duy lý luận sắc bén. Hoặc có
được năng lực tư duy lý luận tốt những người đó có động cơ không trong sáng thì cũng chỉ
là "người có tài mà không có đức cũng trở thành vô dụng".
Những điều kiện, hoàn cảnh và nhân tố trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác
động bổ sung lẫn nhau tạo thành một hệ thống các yếu tố cùng tác động đến năng lực tư
duy lý luận. Nếu những yếu tố trong hệ thống ấy cùng tác động đến năng lực tư duy lý
luận theo một chiều tích cực sẽ có tác dụng phát triển năng lực tư duy lý luận nhanh chóng
hơn. Ngược lại, sự tác động không thuận chiều giữa các yếu tố trong hệ thống sẽ làm cho
năng lực tư duy lý luận khó có khả năng phát triển. Tuy nhiên, phải thấy rằng các yếu tố đó
có vai trò, tác dụng, có mức độ ảnh hưởng rất khác nhau đối với năng lực tư duy. Trong
đó, yếu tố bẩm sinh, di truyền, sự phát triển của khoa học và thực tiễn xã hội là điều kiện
cần thiết; quá trình giáo dục, đào tạo đóng vai trò chủ đạo; quá trình tự giáo dục rèn luyện
để có được động cơ trong sáng là yếu tố mang tính quyết định trực tiếp đến việc phát triển
năng lực tư duy lý luận. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: Năng lực của con người không
phải hoàn toàn do tự nhiên mà có mà một phần lớn do công tác, do luyện tập mà có. Như
vậy, cùng với thực tiễn xã hội và sự phát triển của khoa học, quá trình học tập nâng cao
trình độ trí tuệ, trình độ lý luận là cơ sở chủ yếu của năng lực tư duy lý luận.
Năng lực tư duy lý luận chịu sự chi phối chặt chẽ bởi sự phát triển của khoa học và
thực tiễn xã hội. Vì thế, cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học và thực tiễn, do
nhu cầu khách quan của sự tồn tại và phát triển của con người, năng lực tư duy lý luận
cũng luôn trong quá trình phát sinh, phát triển và ngày càng hoàn thiện nâng cao hơn. V.I.
Lênin đã viết: "Trí tuệ con người đã tìm thấy nhiều điều kỳ diệu trong tự nhiên và sẽ tìm
thấy nhiều điều kỳ diệu hơn nữa, do đó làm tăng thêm quyền lực của mình với tự nhiên"
[29, tr. 348]. Lẽ dĩ nhiên, đó không phải là một quá trình tự phát mà là quá trình con người
tự giác rèn luyện, học tập nâng cao năng lực tư duy, tự giác tham gia tích cực vào hoạt
động thực tiễn nhằm trau dồi, phát triển khả năng xác lập những tri thức phù hợp với tính
quy luật khách quan của sự vật, khả năng xác lập quan hệ giữa các tri thức và khả năng "đối
tượng hóa" những tri thức của loài người vào hoạt động thực tiễn. Chính vì thế mà ý tưởng
nâng cao năng lực tư duy lý luận chủ yếu là nhằm nắm bắt bản chất sâu xa của sự vật, biến
chúng thành tri thức lý luận trên cơ sở đó mà hình thành được các cách thức, phương pháp
tối ưu cho hoạt động thực tiễn.
1.2. Năng lực tư duy lý luận với hoạt động lãnh đạo của người cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp tỉnh
1.2.1. Thực chất hoạt động lãnh đạo của người cán bộ chủ chốt cấp tỉnh
Khái niệm "cán bộ lãnh đạo" nhìn chung là chỉ những người đứng đầu, phụ trách
một tổ chức, đơn vị, phong trào nào đó do bầu cử hoặc chỉ định. Cán bộ lãnh đạo có trách
nhiệm đề ra những phương hướng, chủ trương, quyết định, trước hết là những quyết định
có tính chiến lược về đơn vị mình. Cán bộ lãnh đạo là người có quyền lực, ra những quyết
định có tính chất quan trọng nhất. Ngoài ra, cán bộ lãnh đạo còn là người dẫn dắt, tổ chức
phong trào theo một hướng đi cụ thể; là người điều hành, chỉ đạo bằng quyền hành qua các
mệnh lệnh. Cán bộ lãnh đạo còn là người điều chỉnh những quyết định cho phù hợp với sự
thay đổi của điều kiện, hoàn cảnh khách quan.
Hoạt động lãnh đạo có bản chất là sự tác động định hướng, sự điều hành, điều
chỉnh hoạt động của con người nhằm vươn tới những mục đích nhất định. Điều đó đòi hỏi
chủ thể lãnh đạo, phải đạt được một trình độ nhất định về năng lực tư duy lý luận. Bởi
trình độ đó có tác dụng rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả
của công tác lãnh đạo.
Hoạt động lãnh đạo là hoạt động tác động điều khiển mang tính chất định hướng
của chủ thể lãnh đạo đến đối tượng bằng các phương pháp động viên, giáo dục, thuyết
phục... nhằm đạt mục đích nhất định. Trong Từ điển tiếng Việt ghi: "Lãnh đạo bằng đề ra
đường lối, chủ trương và tổ chức, động viên thực hiện" [62, tr. 720].
Đối tượng của chủ thể lãnh đạo, quản lý là những con người cụ thể có tri thức,
năng lực, có ý chí, mục đích và những ước vọng riêng nhất định. Vì thế, đòi hỏi chủ thể
lãnh đạo một mặt phải hiểu biết công việc; mặt khác phải có những hiểu biết nhất định về
năng lực, về thể chất, về tâm tư và ước vọng riêng của các đối tượng lãnh đạo. Từ đó mà
tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng lãnh đạo làm việc đạt hiệu quả tối đa. Chính vì
thế, hoạt động lãnh đạo nếu được nâng lên trình độ nghệ thuật, khoa học làm việc với con
người, tác động đến con người để hình thành các quan hệ tốt đẹp giữa họ với nhau và với
công việc thì hiệu quả lãnh đạo sẽ cao hơn.
Hoạt động lãnh đạo có nhiều khâu, nhiều bước, có thể diễn đạt các khâu đó ở hai
trình độ; đó là, chủ thể lãnh đạo suy nghĩ, lựa chọn quyết định và điều hành tổ chức hành
động. Do đó, mặt hiện hữu của năng lực lãnh đạo là tổ chức hoạt động thực tiễn, còn mặt
năng lực tư duy trí tuệ, lý luận là cái ẩn giấu vào bên trong. Vì vậy, nhà lãnh đạo khác với
nhà khoa học. Nhà khoa học hoạt động chính là nghiên cứu, suy nghĩ, tìm tòi, phát hiện,
nêu ra lý thuyết, lý luận, vạch ra phương án thực hành, ứng dụng. Người lãnh đạo cũng là
người lao động trí óc dù ở họ không phải là lao động tìm tòi, tạo ra lý luận khoa học mà
chủ yếu là lao động cụ thể hóa, hiện thực hóa lý luận. Nhưng để có thể hiện thực hóa lý
luận đòi hỏi họ phải suy nghĩ, nghiên cứu phát hiện các tình huống thực tiễn cụ thể, trên cơ
sở đó mà đề ra các biện pháp giải quyết tình huống, ra quyết định, tổ chức thực hiện quyết
định thông qua hoạt động tập thể hoặc cá nhân.
ở đây cần phân biệt cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý. Trong nhiều trường hợp,
chức năng, nhiệm vụ của cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý trùng lặp nhau. Sự phân loại
hai khái niệm này chỉ có tính chất tương đối. Tuy nhiên, hoạt động lãnh đạo và quản lý có
những điểm khác nhau căn bản về mục tiêu, nội dung, về phương pháp và phương tiện tác
động. Nếu như hoạt động lãnh đạo nhằm mục tiêu định hướng chung, thì mục tiêu của hoạt
động quản lý là tổ chức, sắp xếp, chỉ huy các vấn đề theo một trật tự nhất định. Do mục
tiêu có sự khác nhau, nên nội dung hoạt động lãnh đạo, quản lý cũng không đồng nhất, dù
trong lãnh đạo và quản lý có những khâu tưởng chừng như có sự trùng lặp. Nội dung lãnh
đạo là đề ra chủ trương, đường lối chung, phương hướng triển khai, thực hiện đường lối,
kiểm tra việc thực hiện và bổ sung, sửa chữa, phát triển đường lối theo yêu cầu của thực
tiễn. Nội dung của quản lý là xây dựng các phương án, các mô hình với những chỉ tiêu kế
hoạch cụ thể, xây dựng các mối quan hệ giữa các đối tượng quản lý và giữa đối tượng với
chủ thể quản lý một cách hợp lý nhất để đạt hiệu quả cao trong tổ chức thực hiện. Về
phương pháp và phương tiện tác động, hoạt động lãnh đạo dùng phương pháp động viên
thuyết phục là chính, bằng uy tín và nghệ thuật mà tập trung giáo dục xây dựng niềm tin,
tính tự giác của con người. Quản lý tác động đến đối tượng bằng mệnh lệnh có tính chất
bắt buộc. Song, tùy thuộc vào tính chất của quan hệ giữa cơ quan lãnh đạo với cơ quan
quản lý, tùy thuộc vào cơ cấu tổ chức và hoạt động trong cơ quan lãnh đạo và cơ quan
quản lý, chủ thể lãnh đạo đồng thời phải thực hiện cả chức năng quản lý và chủ thể quản lý
phải đảm nhận cả chức năng lãnh đạo.
Như vậy, hoạt động lãnh đạo và hoạt động quản lý có đặc trưng riêng của nó
không nên xóa nhòa ranh giới giữa chúng dẫn đến chồng chéo công việc. Mặt khác, không
nên xem đây là hai hoạt động tách biệt hoàn toàn. Trong một chừng mực nào đó, chúng
đan xen hòa hợp vào nhau bổ sung cho nhau. Trong đó, lãnh đạo là khâu quan trọng của
quản lý, đồng thời là cơ sở, tiền đề cho quản lý. Quản lý nhằm hiện thực hóa đường lối
lãnh đạo và giúp cho hoạt động lãnh đạo đạt hiệu quả hơn.
Từ đó có thể thấy rằng, người lãnh đạo phải là người có trình độ lý luận và am
hiểu thực tiễn. Họ là người góp phần xây dựng, đồng thời cũng là người vận dụng đường
lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào những lĩnh vực cụ thể, biến chúng thành hiện
thực trong cuộc sống. Do vậy, đối với người lãnh đạo, năng lực tổ chức thực tiễn là rất
quan trọng. Đồng thời họ vẫn rất cần phải có năng lực tư duy lý luận, năng lực đó giúp họ
nghiên cứu thực tiễn, nắm bắt và vận dụng đường lối của Đảng để tổ chức thực tiễn, tổng
kết kinh nghiệm thực tiễn và vận dụng kinh nghiệm ấy vào hoạt động thực tiễn.
Hoạt động của chủ thể lãnh đạo về bản chất là có sự giống nhau ở các cấp; nhưng
có sự khác nhau về hình thức, mức độ, phạm vi và lĩnh vực hoạt động.
ở nước ta, cơ cấu tổ chức hệ thống chính trị được chia thành bốn cấp là: Trung ương;
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; quận, huyện, thị xã và xã, phường, thị trấn. Trong
đó tỉnh là một đơn vị hành chính độc lập. Trong số 61 tỉnh thành trong cả nước hiện nay thì
tỉnh chiếm tỷ lệ đa số. Có thể nói tỉnh là khâu trung gian, là gạch nối giữa Trung ương và
địa phương. Đối với Việt Nam, ở thời kỳ này, hoạt động ở cấp tỉnh như thế nào sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến bộ mặt quốc gia như thế ấy. Bởi thế, vai trò lãnh đạo của cán bộ chủ
chốt cấp tỉnh có ý nghĩa vô cùng to lớn đến chất lượng triển khai các nghị quyết của Trung
ương xuống cơ sở. Nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước có triển khai được ở
cấp quận, huyện hay không là tùy thuộc vào sự lãnh đạo của đội ngũ này. Mặt khác, tỉnh là
khâu đầu tiên tổng kết thực tiễn có quy mô nhằm phát hiện những vấn đề nảy sinh để Trung
ương nghiên cứu; bổ sung, phát triển đường lối, chủ trương mới cho phù hợp thực tiễn.
Người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh là những người thuộc ban chấp hành tỉnh
đảng bộ, họ giữ các cương vị chủ chốt ở cấp tỉnh và cấp huyện.
Hoạt động lãnh đạo của người cán bộ chủ chốt cấp tỉnh đòi hỏi phải ra được những
văn bản, quyết định đúng đắn nhằm chỉ đạo kịp thời các lĩnh vực phát triển theo đúng đòi
hỏi của thực tiễn và phù hợp với địa phương. Điều đó đòi hỏi ở người cán bộ lãnh đạo chủ
chốt cấp tỉnh, một mặt phải nắm chắc, hiểu sâu sắc đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước; mặt khác, phải tường tận tình hình thực tế của địa phương về mọi mặt
và xu hướng vận động của tình hình đó. Đồng thời, họ còn phải biết huy động sức mạnh trí
tuệ của tập thể, của quần chúng. Đó chính là những điều kiện để người lãnh đạo chủ chốt
cấp tỉnh xây dựng được các quyết định, các chương trình, kế hoạch vừa phù hợp với thực
tiễn địa phương vừa là sự cụ thể hóa sinh động, sáng tạo chủ trương đường lối, chính sách
của Trung ương. Những quyết định, chương trình, kế hoạch hóa vừa mang tính khái quát
chung, phản ánh mọi mặt đời sống xã hội của toàn tỉnh, vừa mang tính chất chỉ đạo cụ thể
đối với mỗi lĩnh vực, mỗi địa bàn thuộc tỉnh.
Trong hoạt động lãnh đạo cấp tỉnh, dù phạm vi tác động điều khiển có hẹp hơn cả
nước. Nhưng các lĩnh vực cần tác động điều khiển thì lại đa dạng phong phú không kém.
Xét theo lĩnh vực của đời sống xã hội, hoạt động lãnh đạo cấp tỉnh cũng tác động bao quát
mọi vấn đề từ chính trị, tư tưởng đến kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng... Mỗi
lĩnh vực ấy lại còn bao gồm nhiều chuyên ngành, chuyên nghề khác nhau. Có thể ví mỗi
tỉnh như một quốc gia thu nhỏ. Do vậy, hoạt động lãnh đạo của người cán bộ chủ chốt cấp
tỉnh phải phản ánh được sự liên kết giữa các lĩnh vực, các ngành, nghề chuyên môn thành
một tổng thể các quan hệ ở tầm khái quát cao. Tuy nhiên, mỗi tỉnh đều có những đặc thù
riêng đòi hỏi người lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh phải hết sức tường tận những cái riêng của địa
bàn mà mình lãnh đạo, phát huy thế mạnh của cái riêng bằng sự lãnh đạo có trọng tâm, trọng
điểm. Tất cả những cái đó giúp cho người cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh tránh được lối suy nghĩ
hời hợt, thiển cận, theo thói quen, kinh nghiệm; loại bỏ cách nhìn: thấy cây mà không thấy
rừng, hoặc thấy rừng mà không thấy cây.
Như trên đã trình bày, bản chất của hoạt động lãnh đạo là sự điều khiển và đối
tượng của sự điều khiển đó là con người với những đặc điểm riêng về trình độ tri thức,
năng lực nhất định, có nguyện vọng, tâm tư tình cảm và mục đích riêng. Người lãnh đạo
cần phải có phương pháp tác động đến con người một cách hợp lý, hợp tình để họ hoạt
động, công tác một cách có hiệu quả nhất. Đối tượng tác động của người lãnh đạo cấp tỉnh
là đội ngũ cán bộ các ban ngành đoàn thể ở tỉnh, là đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện, thị
xã và quần chúng nhân dân cư trú trên địa bàn tỉnh. Đây là những đối tượng không thuần
nhất về trình độ tri thức, năng lực, tâm tư, nguyện vọng... cho nên trong hoạt động lãnh
đạo, công tác tư tưởng, công tác cán bộ, công tác vận động quần chúng phải biết sử dụng
nhiều phương pháp nhằm thu phục nhân tâm, khơi dậy ở họ niềm tin tưởng, say mê với
công việc để phát huy hết khả năng của mình. Phải biết chia sẻ khó khăn với cấp dưới,
phải đặt mình vào địa vị người khác, tạo mọi điều kiện để họ làm việc tốt hơn, có hiệu quả
hơn. Đặc biệt, người lãnh đạo cấp tỉnh phải biết lắng nghe ý kiến của cấp dưới ở cơ sở, biết
lắng nghe ý kiến của quần chúng nhân dân. Từ đó hiểu tâm tư nguyện vọng như là một
luồng thông tin ngược trở lại để hiểu những quyết định lãnh đạo của mình có phù hợp với
cuộc sống không, trên cơ sở đó mà có sự điều chỉnh hợp lý. Trong thực tế, nhiều vấn đề
nảy sinh từ cơ sở nếu được giải quyết kịp thời đều tạo ra sự phát triển mới ở địa phương.
Cũng không ít trường hợp, cái mới được tổng kết, khái quát có giá trị chỉ đạo trong phạm
vi tỉnh hay thậm chí cả nước. Muốn vậy, trong hoạt động lãnh đạo phải tạo được bầu
không khí dân chủ, phải thực sự làm cho "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Điều
đó giúp cho người lãnh đạo phát huy được sức mạnh trí tuệ tổng hợp trong hệ thống chính
trị và toàn dân trong việc xây dựng các quyết định, các giải pháp tổ chức thực hiện có hiệu
quả nhất.
Nếu ở cấp huyện, hoạt động lãnh đạo mang tính chất khép kín ở một đơn vị hành
chính độc lập thì ở cấp tỉnh, hoạt động lãnh đạo mang tầm bao quát toàn bộ tỉnh và là cầu
nối trung gian từ địa phương đến Trung ương. Bởi thế, hoạt động lãnh đạo cấp tỉnh còn có
yêu cầu một mặt, phát huy nội lực trong tỉnh, mặt khác quán triệt các nghị quyết của trung
ương sao cho hiệu quả nhất trên những đặc thù của tỉnh. Đó là quá trình sáng tạo, bền bỉ,
vừa làm vừa rút kinh nghiệm, kịp thời phát hiện những vấn đề mới nảy sinh để cùng Trung
ương giải quyết.
1.2.2. Vai trò của năng lực tư duy lý luận đối với hoạt động lãnh đạo của
người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh
Những nội dung cơ bản trong hoạt động lãnh đạo ở cấp tỉnh đã phân tích ở trên
(1.2.1) cũng đồng thời thể hiện được những yêu cầu về năng lực tư duy lãnh đạo của người
cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh. Đó là sự nắm bắt sâu sắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng, dựa vào hệ thống lý luận ấy mà cụ thể hóa các
chính sách vào địa phương. Đồng thời, trong lãnh đạo, người cán bộ chủ chốt cấp tỉnh còn
phải thu nhận kịp thời những thông tin từ đời sống thực tiễn, xử lý các thông tin ấy một
cách nhanh chóng chính xác. Trên những cơ sở ấy mà vận dụng cái chung một cách đúng
đắn chính xác cho những lĩnh vực cụ thể ở địa bàn tỉnh. Đó chính là năng lực vận dụng
sáng tạo cái chung vào cái riêng. Cũng trong quá trình lãnh đạo yêu cầu về năng lực tư duy
lý luận của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh còn thể hiện ở năng lực tư duy về con
người, hiểu biết về con người để thu hút tập hợp họ, động viên, lôi cuốn họ để họ hoạt
động tích cực. Lãnh đạo ở cấp tỉnh vừa mang tính định hướng chung vừa mang tính thực
tiễn cụ thể, cho nên trong quá trình hoạt động của mình, người cán bộ lãnh đạo còn phải có
năng lực tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm để có cơ sở hình thành các giải pháp cho
việc giải quyết các vấn đề ở quá trình thực tiễn tiếp theo.
Để đạt được những mục đích, yêu cầu nội dung của hoạt động lãnh đạo một cách
hiệu quả nhất, để có được năng lực tư duy lãnh đạo nhất định, người cán bộ lãnh đạo nói
chung, cấp tỉnh nói riêng phải có không chỉ phẩm chất đạo đức cách mạng mà cả năng lực
tư duy lý luận nhất định. "Vì lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng
ta trong việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi" [43, tr. 233-234].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Vì kém lý luận nên gặp mọi việc không biết xem xét rõ,
cân nhắc cho đúng, xử lý cho khéo, không biết nhận rõ điều kiện hoàn cảnh khách quan ý
mình nghĩ thế nào làm thế ấy. Kết quả thường thất bại" [43, tr. 234].
Năng lực tư duy lý luận là vũ khí sắc bén nhất trong hoạt động lãnh đạo của đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh. Năng lực ấy được thể hiện ở khả năng nắm bắt được bản
chất, linh hồn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của
Đảng, pháp luật của Nhà nước... trong quan hệ với nhiệm vụ của mình; ở khả năng nắm bắt
vấn đề thực tiễn trên địa bàn mình phụ trách và ở khả năng đề ra phương hướng tối ưu để
giải quyết vấn đề đó. Như vậy tổng hợp những biểu hiện ấy, có thể diễn đạt năng lực tư
duy lý luận người cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh biểu hiện ở những vấn đề sau:
Một là, năng lực xác lập tri thức. Đó là khả năng tiếp nhận số lượng và chất lượng
tri thức lý luận để hình thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho hoạt động
lãnh đạo cũng như những kiến thức cần thiết phục vụ cho hoạt động đó. Cụ thể hơn, đó là
khả năng tiếp thu lý luận, đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước, khả năng phát hiện những vấn đề mới, khả năng tổng kết thực tiễn và học tập kinh
nghiệm thực tiễn.
Hai là, năng lực xác lập quan hệ giữa các tri thức. Đó là khả năng liên kết các loại
tri thức ở các lĩnh vực, các ngành nghề chuyên môn khác nhau thành một tổng thể ở mức
độ khái quát cao, bao quát nhiều vấn đề trên nhiều lĩnh vực và phạm vi rộng lớn. Đồng
thời, cũng phân định được tính đặc thù giữa các loại tri thức. Từ đó, khi vận dụng vào thực
tiễn vừa phải bảo đảm nhìn nhận vấn đề trong tính nhiều mặt như một chỉnh thể, vừa phải
bảo đảm sự phù hợp với địa bàn tỉnh.
Ba là, năng lực hiện thực hóa tri thức. Đây là khả năng biến những tri thức đã lĩnh
hội được thành các chủ trương, chương trình, kế hoạch hành động làm biến đổi trực tiếp
hiện thực. Điều này thể hiện khả năng vận dụng lý luận vào thực tiễn, liên hệ giữa lý luận
với thực tiễn vận dụng cái chung một cách đúng đắn cho từng tình huống cụ thể. Đó là
năng lực vận dụng, cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng một cách thiết thực, sáng
tạo trên địa bàn tỉnh mà mình phụ trách.
Bốn là, năng lực phát triển tri thức. Đó là khả năng phát triển những tri thức cho
phù hợp hơn nữa với sự phát triển của thực tiễn. Đây là thể hiện khả năng tư duy lý luận
của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh. Họ vừa vận dụng sáng tạo tri thức vào thực tiễn. Vừa
đề xuất, tổng kết những vấn đề nảy sinh từ địa phương kiến nghị lên Trung ương để góp
phần bổ sung, phát triển hoàn thiện chủ trương, đường lối, chính sách.
Như vậy, năng lực tư duy lý luận của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh có
giá trị định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của họ. Chất liệu trực
tiếp tạo nên năng lực đó là những tri thức lý luận tiếp thu từ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, từ đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước và từ sự
trải nghiệm trong hoạt động thực tiễn của chính người cán bộ. Nội dung của năng lực ấy
thể hiện trước hết ở năng lực phản ánh những vấn đề bản chất, tìm ra mâu thuẫn, phát hiện
những cái mới; ở khả năng tư duy khoa học trong sử dụng các hình thức và phương pháp
tư duy để hình thành tri thức mới làm cơ sở cho việc giải quyết những vấn đề thực tiễn nảy
sinh ở địa phương.
Như đã trình bày ở trên, năng lực tư duy lý luận là khả năng tư duy khoa học về
những vấn đề chung, tổng thể, toàn vẹn nắm bắt đối tượng trong tính chỉnh thể của sự tồn
tại, vận động và phát triển. Đó là khả năng sáng tạo trong sử dụng các khái niệm, phạm trù
để phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa đem lại những tri thức mang
tính chính xác, sâu sắc, hệ thống, phù hợp với tính quy định vốn có của hiện thực khách
quan. Hơn nữa, năng lực tư duy lý luận còn có sức mạnh đưa lý luận vào cuộc sống, cụ thể
hóa lý luận, dựa vào lý luận mà xây dựng các giải pháp, các phương án giải quyết các vấn
đề của thực tiễn một cách tối ưu. Với những đặc trưng cơ bản đó, rõ ràng năng lực tư duy
lý luận đóng vai trò hết sức to lớn, là một trong những phương tiện quan trọng nhất đảm
bảo cho hoạt động lãnh đạo đạt hiệu quả tối ưu.
Dưới đây xin đề cập đến vai trò chủ yếu của năng lực tư duy lý luận đối với hoạt
động của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
- Năng lực tư duy lý luận giúp người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh nâng cao khả
năng nhận thức chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, pháp
luật của Nhà nước và tiếp thu những tri thức khoa học khác.
Thực tế chỉ rõ, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh thường xuyên va chạm với
những vấn đề vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn. Cho nên, họ phải hiểu rõ và
nắm được thực chất bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Trên cơ sở đó mà hình thành
năng lực định hướng đúng đắn và phương pháp luận khoa học cho nhận thức và hoạt động
thực tiễn của họ. Nhận thức không đúng bản chất khoa học cách mạng của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước
đã là một trong những nguyên nhân làm cho hoạt động lãnh đạo của cán bộ kém hiệu quả.
Hơn nữa, việc học tập, nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhuần
nhuyễn cả về phương pháp và nội dung lại góp phần nâng cao năng lực tư duy lý luận.
Năng lực tư duy lý luận giúp cho việc nhận thức sâu sắc lý luận chung cũng như
đường lối của Đảng, đồng thời giúp người cán bộ lãnh đạo truyền đạt, triển khai lại cho đối
tượng lãnh đạo của mình nắm được thực chất các vấn đề. Nhận thức càng sâu sắc thì hành
động càng hiệu quả do vậy công việc lãnh đạo cũng sẽ hiệu quả hơn. Như vậy, năng lực tư
duy lý luận đóng vai trò rất quan trọng trong việc chuẩn bị tích lũy các tri thức cho hoạt
động lãnh đạo.
- Năng lực tư duy lý luận giúp người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh nâng cao
năng lực nhận thức thực tiễn và vận dụng sáng tạo lý luận, đường lối của Đảng, pháp luật
của Nhà nước trong việc đề ra những nghị quyết, chủ trương, chính sách cụ thể trên địa
bàn tỉnh mà mình phụ trách.
Nhờ có năng lực tư duy lý luận, người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh phát hiện
bản chất vấn đề thông qua nhiều hiện tượng phức tạp ngẫu nhiên, phát hiện các mối liên hệ
mang tính quy luật cũng như xu hướng và phương thức vận động biến đổi của các sự vật,
hiện tượng đặc biệt là những hiện tượng xã hội. Từ đó giúp người cán bộ lãnh đạo có được
những chủ trương, nghị quyết đúng đắn khoa học, phù hợp với thực tiễn địa phương. Năng
lực tư duy lý luận còn giúp người cán bộ lãnh đạo có thể thâm nhập sâu vào sự vật hiện
tượng, phát hiện ra mâu thuẫn, tìm ra những vấn đề mới, những mâu thuẫn mới nảy sinh
cần giải quyết; giúp họ so sánh để phân biệt cái giống và khác nhau, cái đúng cái sai; giúp
họ từ những vấn đề riêng lẻ khái quát tìm ra những đặc tính chung, những nguyên nhân cơ
bản, chủ yếu cũng như nắm bắt vấn đề trong chỉnh thể, hệ thống v.v... Trên cơ sở đó hoạt
động lãnh đạo của họ mới thiết thực, hiệu quả.
Năng lực tư duy lý luận tạo khả năng vận dụng lý luận một cách sáng tạo vào thực
tiễn, vận dụng cái chung một cách đúng đắn cho những lĩnh vực, những phạm vi cụ thể.
Đó là năng lực cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng một cách thiết thực, sáng tạo.
Năng lực này rất quan trọng đối với người lãnh đạo cấp tỉnh. Bởi nhiệm vụ chính trị cơ bản
nhất của người lãnh đạo cấp tỉnh là xây dựng được những phương hướng, nhiệm vụ và
những giải pháp cơ bản cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Xuất phát từ thực
tế địa phương, từ đường lối của Đảng mà xây dựng các mục tiêu, mô hình, các chương
trình hành động cũng như những giải pháp phát triển kinh tế - xã hội. Nhờ vậy mà người
lãnh đạo cấp tỉnh kết hợp được lý luận và thực tiễn trong một quy trình lãnh đạo thống
nhất, góp phần vào việc xây dựng đường lối của Đảng. Trong điều kiện đổi mới ở nước ta
hiện nay, năng lực tư duy lý luận giúp người cán bộ nâng cao khả năng nhạy bén, dám
nghĩ, dám làm, dám sáng tạo mô hình mới, phát huy sáng kiến, phát hiện cái mới tạo điều
kiện cho cái mới phát triển.
Đúng như đồng chí Nguyễn Văn Linh đã viết: "Có nhận thức đúng và sâu mới làm
đúng và làm có hiệu quả. Do đó muốn đổi mới trong cuộc sống trước hết phải đổi mới
trong tư duy. Nói đến tư duy là nói đến trình độ nắm bắt các quy luật khách quan, nói đến
việc suy nghĩ theo đòi hỏi của các quy luật đó và áp dụng phù hợp với điều kiện của đất
nước, nói đến quá trình sáng tạo và đề xuất các ý kiến mới, nói đến việc tìm tòi các biện
pháp có hiệu quả cho hành động. Điều này phải chống chủ nghĩa kinh nghiệm hời hợt
trong nhận thức, chống suy nghĩ chủ quan, bảo thủ, giáo điều, chống tách rời giữa lý luận
và thực tiễn" [32, tr. 10].
- Năng lực tư duy lý luận giúp người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh nâng cao
năng lực xử lý thông tin để trên cơ sở đó ra được các quyết định đúng, chính xác, kịp thời.
Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của thông tin có ảnh hưởng trực tiếp và sâu rộng
đến mọi khía cạnh của đời sống xã hội. Nhờ có thông tin, người cán bộ lãnh đạo có thể tự
điều chỉnh mình, tự khắc phục, tránh được một số khâu mò mẫm khi chưa có được sự
hướng dẫn, chỉ đạo của lý luận. Nhờ đó, có thể học hỏi lẫn nhau giữa các vùng, các dân
tộc, các tỉnh bạn tránh lặp lại thất bại, sai lầm trong chỉ đạo thực tiễn.
Năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói chung, cấp tỉnh nói riêng
phân tích, xử lý thông tin, kịp thời bổ sung, điều chỉnh những quyết định lãnh đạo cho
đúng đắn hơn, hoàn chỉnh hơn, phù hợp hơn với thực tiễn. Vì vậy có thể nói, nếu xử lý
thông tin tốt sẽ góp phần quan trọng làm cho việc chỉ đạo thực tiễn tốt hơn, hiệu quả hơn.
Từ đó, thực tiễn cũng lại cung cấp nhiều thông tin, dữ liệu kịp thời và phong phú hơn cho
sự khái quát lý luận.
- Năng lực tư duy lý luận giúp cho người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh nâng
cao khả năng nắm bắt, đánh giá tình hình thực tiễn, tìm ra nguyên nhân của thành công và
thất bại, đúc rút bài học kinh nghiệm, định hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn
tiếp theo. Do vậy năng lực tư duy lý luận có tác dụng giúp họ nâng cao năng lực tổng kết
thực tiễn.
Năng lực tổng kết thực tiễn được thể hiện ở khả năng nắm bắt vấn đề thực tiễn cần
tổng kết; khả năng phân tích, tổng hợp, chắt lọc những thông tin cơ bản, chủ yếu của vấn
đề, đúc rút bài học góp phần xây dựng đường lối, bổ sung phát triển lý luận. Để đạt được
những yêu cầu này cần phải có sự hỗ trợ của năng lực tư duy lý luận. Bởi vì, năng lực đó
giúp người cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh có khả năng định hướng công tác tổng kết thực tiễn,
biết sử dụng những phương pháp tư duy khoa học để phát hiện kịp thời cái mới, cái tiến
bộ, tìm ra những mâu thuẫn phát sinh trong thực tiễn để xây dựng các phương án khuyến
khích, nâng đỡ cái mới tiến bộ, giải quyết mâu thuẫn một cách tối ưu nhất.
Hơn nữa, không phải cứ có nhiều kinh nghiệm thực tiễn là khái quát được thành lý
luận đúng. Đó mới chỉ là điều kiện cần cho khái quát lý luận. Muốn khái quát kinh nghiệm
thực tiễn thành lý luận thì phải có năng lực tư duy lý luận, có lý luận.
Chỉ trên cơ sở lý luận khoa học và phương pháp tư duy biện chứng duy vật, hoạt
động tổng kết thực tiễn của người cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh mới đảm bảo được tính khách
quan, khoa học và tính mục đích đúng đắn. Tức là bảo đảm cho những bài học, những kết
luận rút ra mang tính lý luận khoa học, có giá trị chỉ đạo cho hoạt động thực tiễn tiếp theo
cũng như điều chỉnh, bổ sung phát triển lý luận, đường lối chủ trương của Đảng nói chung
và những phương hướng, giải pháp ở mỗi tỉnh nói riêng.
- Năng lực tư duy lý luận giúp người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh nâng cao
năng lực phân tích, tổng hợp, khái quát trong nhận thức và góp phần nâng cao năng lực
tổng kết thực tiễn, trên cơ sở đó nâng cao năng lực dự báo, định hướng trong hoạt động
lãnh đạo của họ.
Từ việc nâng cao năng lực phân tích, tổng hợp, khái quát để nâng cao năng lực
tổng kết thực tiễn, người cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh sẽ nâng cao được cho mình năng lực dự
báo, định hướng cho hoạt động lãnh đạo. Đây là một yêu cầu khách quan trong công tác
lãnh đạo của cán bộ nói chung, cán bộ cấp tỉnh nói riêng. Dự báo trên cơ sở nghị quyết
đang đi vào cuộc sống, xử lý thông tin, tổng kết thực tiễn đề ra những chủ trương mới, giải
pháp mới cho phù hợp với tình hình mới. Trên cơ sở ấy mới có được những dự báo khoa
học, chính xác. Mặt khác từ những dự báo ấy có thể điều chỉnh những chủ trương, quyết
sách cho phù hợp với xu hướng vận động phát triển của thực tiễn.
- Năng lực tư duy lý luận còn có vai trò giúp người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
tỉnh nâng cao năng lực tổ chức, động viên, giáo dục, thuyết phục, tập hợp cán bộ cấp dưới
và quần chúng để tạo thành phong trào cách mạng rộng rãi. Trên cơ sở đó mới đưa được
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống trên địa bàn tỉnh.
Rõ ràng để giáo dục, thuyết phục, động viên tập hợp quần chúng và cán bộ cấp
dưới có hiệu quả, người cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh không chỉ có đạo đức cách mạng, liêm
khiết, chí công vô tư, có uy tín mà còn phải có năng lực tư duy lý luận, có trình độ lý luận.
Bởi lẽ, có năng lực tư duy lý luận, người cán bộ lãnh đạo nói chung, cán bộ lãnh đạo cấp
tỉnh nói riêng mới hiểu và biết cách giải thích, thuyết phục cho cán bộ cấp dưới và thông
qua cán bộ cấp dưới là quần chúng nhân dân hiểu đúng các chủ trương, chính sách của cấp
trên cũng như của tỉnh. Chỉ trên cơ sở của hiểu đúng chủ trương, chính sách quần chúng
nhân dân mới tin vào chủ trương, chính sách mới tin vào cán bộ lãnh đạo. Có như vậy họ
mới tích cực tham gia để thực hiện chủ trương, chính sách một cách nhiệt tình, tự giác và
có hiệu quả.
Từ những phân tích trên có thể khẳng định, năng lực tư duy lý luận có vai trò hết
sức to lớn đối với hoạt động lãnh đạo của cán bộ nói chung, cán bộ chủ chốt cấp tỉnh nói
riêng. Có năng lực tư duy lý luận, hoạt động chỉ đạo thực tiễn của người cán bộ lãnh đạo
cấp tỉnh vừa ở tầm khái quát, hệ thống, vừa cụ thể, vừa chặt chẽ, vừa mềm dẻo sinh động.
Đối với thực tiễn đổi mới ở nước ta hiện nay, vai trò của năng lực tư duy lý luận đối với
cán bộ nói chung, đặc biệt là đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh nói riêng
lại càng quan trọng do phải đáp ứng những yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Tính chất khó khăn, phức tạp và bề rộng, chiều sâu của công cuộc đổi
mới cùng với những diễn biến của tình hình thế giới và khu vực luôn đặt ra những vấn đề
mới đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo phải biết phân tích lý giải để nhận thức và lãnh đạo
quần chúng đạt hiệu quả. Muốn vậy, người cán bộ lãnh đạo cùng với việc rèn luyện trau
dồi đạo đức cách mạng thì phải nâng cao năng lực tư duy lý luận - một trong những yếu tố
nền tảng cơ bản nhất của năng lực lãnh đạo. Vì
vậy, cán bộ lãnh đạo nếu không nâng cao năng lực tư duy lý luận thì cũng khó mà nâng
cao được năng lực lãnh đạo đáp ứng đòi hỏi của thời kỳ cách mạng mới.
Chương 2
Năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ
lãnh Đạo chủ chốt cấp tỉnh - thực trạng và giải Pháp
(Qua thực tế Bắc Giang)
2.1. Thực trạng và những nguyên nhân hạn chế về năng lực tư duy lý luận
của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh (qua thực tế Bắc Giang)
2.1.1. Thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ
chốt tỉnh Bắc Giang
Bắc Giang là tỉnh miền núi ở vùng Đông Bắc của Việt Nam. Nằm cách Hà Nội
50km về phía đông, tiếp cận với trục kinh tế trọng điểm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng
Ninh, có nhiều tuyến đường bộ, sắt đi qua nối với các tỉnh trong vùng và đến cửa khẩu
Đồng Đăng của Lạng Sơn.
Bắc Giang có 10 huyện, thị với tổng diện tích tự nhiên 382.250 ha, lãnh thổ chạy
dài theo hướng Đông - Tây. Phía Đông và Đông Bắc có các dãy núi cao, thấp nghiêng dần
về phía Tây Nam. Địa hình chủ yếu là đồi trung bình và núi cao, các huyện phía nam có
đồng bằng xen các đồi thấp. Trong cơ cấu kinh tế, nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất
chính (chiếm 52,4%), công nghiệp, xây dựng cơ bản chỉ chiếm 16,8%, dịch vụ 30,08%.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Bắc Giang chỉ ở mức trung bình so với cả nước. Nếu tính
theo đầu người thì tốc độ tăng trưởng còn bị kéo xuống do tỷ lệ tăng dân số còn cao. Tốc
độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm. Công nghiệp chưa hỗ trợ thúc đẩy nông nghiệp
phát triển, đặc biệt công nghiệp chế biến hàng hóa nông lâm sản.
Nền kinh tế đang ở điểm xuất phát thấp, tỷ lệ huy động vào ngân sách thấp, tỷ lệ
tiết kiệm đầu tư tại chỗ nhỏ nên thường thiếu vốn cho mở rộng sản xuất.
Dân số Bắc Giang khoảng 1,5 triệu người, tỷ lệ tăng dân số 1,61%. Dân số nông
thôn chiếm 94% trong đó dân nông nghiệp chiếm 91%. Sự phân bố dân cư giữa các vùng
không đồng đều: Cao nhất 1.002 người/km2, thấp nhất 76 người/km2. Do chủ yếu sống dựa
vào nông nghiệp nhưng bình quân đất nông nghiệp thấp, năng suất sản xuất thấp nên tỷ lệ
hộ nghèo còn cao, đặc biệt các vùng sâu, vùng cao, xa các trục đường, các trung tâm. 7%
trong tổng số lao động không có việc làm. Chỉ có 79% người lao động ở nông thôn có việc
làm thường xuyên. ở các vùng núi cao tình trạng nghèo đói gắn liền với du canh, du cư và
trình độ dân trí thấp, phục vụ y tế yếu kém.
Hệ thống hạ tầng cơ sở bị xuống cấp nghiêm trọng. Năng lực phục vụ của cơ sở hạ
tầng tỉnh Bắc Giang cho thấy thấp hơn các tỉnh khác trong vùng. Mặt bằng đời sống kinh
tế - xã hội như vậy ảnh hưởng đến việc nâng cao trình độ dân trí của nhân dân nói chung
và năng lực tư duy lý luận của người cán bộ lãnh đạo nói riêng.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh Bắc Giang hiện nay là lực lượng nòng
cốt chỉ đạo quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Họ là những người đóng vai
trò quan trọng trong việc triển khai, vận dụng đường lối, chủ trương, chính sách của Trung
ương vào địa bàn tỉnh.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo tỉnh Bắc Giang là những người có độ tuổi hợp lý vừa có
kinh nghiệm sống, công tác vừa đang ở độ chín của tư duy sẽ góp phần phát huy tác dụng
to lớn trong công tác lãnh đạo.
Cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh Bắc Giang có độ tuổi từ 40 - 50 tuổi chiếm tỷ lệ
93,6%, từ 55 tuổi trở lên chỉ có 4,3%. Trong khi tỷ lệ này ở Hải Phòng là 87,23% và
12,76%; ở Bắc Ninh là 84,8% và 13,3%. ở độ tuổi như trên, cán bộ lãnh đạo tỉnh Bắc
Giang vừa có cơ sở để dễ dàng hòa hợp, có kinh nghiệm cần thiết vừa có sức bật trong tư duy
để đảm bảo sự lãnh đạo vừa chắc chắn đúng hướng vừa táo bạo trong đề xuất đường lối,
chủ trương lãnh đạo của tỉnh (xem phụ lục 2).
Năng lực tư duy lý luận của đội ngũ này được thể hiện chủ yếu ở: năng lực tiếp thu
lý luận, đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước; năng lực suy nghĩ, tìm
tòi phát hiện những vấn đề mới trong thực tiễn ở địa phương; năng lực vận dụng linh hoạt
sáng tạo lý luận, đường lối để xây dựng các phương hướng, các mô hình, chương trình, kế
hoạch phù hợp với thực tế địa phương; năng lực hoạt động thực tiễn sáng tạo cũng như
tổng kết kinh nghiệm rút ra các bài học để góp phần xây dựng, bổ sung cho đường lối
chính sách của Đảng, Nhà nước; năng lực xử lý thông tin, dự báo về sự phát triển của địa
phương. Đó cũng chính là những tiêu chí có thể căn cứ vào để đánh giá về ưu điểm cũng
như hạn chế về năng lực tư duy lý luận của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt Bắc Giang có những ưu điểm về năng lực tư duy
lý luận chủ yếu sau:
Thứ nhất, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh Bắc Giang có sự nhạy cảm chính
trị nhất định. Khả năng đó được nâng lên thành năng lực định hướng chính trị trong hoạt
động nhận thức và tổ chức thực tiễn.
Đa số cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh đã được thử thách, rèn luyện và trưởng thành
qua thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc và trong quá trình xây dựng kiến thiết đất nước.
Trong quá trình ấy họ đã được giáo dục, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp của truyền
thống yêu nước, cần cù trong lao động v.v... Họ lại được đào tạo tương đối có hệ thống,
cho nên đội ngũ cán bộ này có bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý thức trách nhiệm cao, kiên
định đường lối đổi mới và định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, tất cả những điều ấy
được hun đúc nên từ yếu tố tâm lý, tình cảm, truyền thống là chính chứ chưa phải từ tư duy
khoa học để có được niềm tin trên cơ sở khoa học.
Trong tổng số 47 ủy viên Ban chấp hành tỉnh Đảng bộ Bắc Giang, số có trình độ học
vấn từ đại học trở lên chiếm 93,6%, cử nhân chính trị 12,8%, cao cấp chính trị 57,4%, trung
cấp chính trị 29,8% (xem phụ lục 2). Do được nâng cao về trình độ học vấn, trình độ lý
luận, do rèn luyện phấn đấu nên các cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh Bắc Giang có khả năng
nắm bắt được thực chất quan điểm, đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật của
Nhà nước trong quan hệ khăng khít với bản chất của các vấn đề đặt ra ở địa phương. Từ đó họ
biết huy động kiến thức vốn có của mình để làm sáng tỏ con đường, phương thức để giải
quyết một cách tốt nhất những vấn đề nảy sinh ở địa phương. Họ đã thấy được mối quan hệ
giữa kinh tế và chính trị; giữa phát triển kinh tế với giải quyết những vấn đề văn hóa,
xã hội, đã thấy được nhiệm vụ của từng giai đoạn trong tính tổng thể của một quá trình
phát triển, gắn sự phát triển của tỉnh với cả nước và khu vực. Họ đã xây dựng được
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương với những chỉ tiêu và hệ thống giải
pháp cụ thể, đồng bộ nhằm đạt được chỉ tiêu đó. Các vấn đề do họ đưa ra thể hiện sinh
động việc cụ thể hóa đường lối của Đảng với những nét riêng, độc đáo của tỉnh. Do vậy
qua 10 năm đổi mới, Bắc Giang đã có những bước phát triển trên tất cả các mặt kinh tế
- xã hội. Giai đoạn 1991 - 1995 kinh tế tăng trưởng bình quân 7,42%/ năm. Giai đoạn
1996 - 2000 là 5,93%/ năm. GDP/đầu người năm 1995 đạt 1,326 triệu đồng, năm 1999
đạt 2,216 triệu đồng/người và năm 2000 đạt 2,342 triệu đồng/người (giá thực tế).
Lương thực bình quân đầu người năm 1995 đạt 300,6kg, năm 1999 đạt 332,2kg, năm
2000 đạt 350kg. Đời sống đại bộ phận nông dân Bắc Giang đã được cải thiện, số thoát
khỏi đói nghèo tăng lên, từ 23,9% số hộ nghèo năm 1997 xuống còn 9,87% số hộ nghèo
năm 2000 [74, tr. 10-12].
Công tác giáo dục và đào tạo đã được chú ý phát triển từ mẫu giáo đến phổ thông
trung học. Chất lượng giáo dục và đào tạo ngày càng tăng, số trường đạt chuẩn quốc gia và
số học sinh giỏi của tỉnh tăng hàng năm.
Công tác y tế dự phòng và chăm sóc sức khỏe cộng đồng đã đạt được nhiều tiến bộ.
Tỷ lệ tăng dân số đã giảm xuống mức xấp xỉ 1,2% trong năm 2000; các tuyến đường giao
thông nông thôn tiếp tục được quan tâm cải tạo.
Một số chỉ tiêu phúc lợi khác cũng được cải thiện. Năm 1991 có 203/227 số xã,
phường đã có hệ thống lưới điện phục vụ sinh hoạt. Bình quân có 11 máy điện thoại/1.000
dân. Trên 80% số dân thị xã đã được dùng nước sạch hợp vệ sinh, 39% dân cư nông thôn
được dùng nước sạch. An ninh chính trị được đảm bảo, an toàn trật tự xã hội được củng
cố. Trong quá trình đổi mới, Bắc Giang chưa có "điểm nóng" đáng tiếc nào xảy ra. Điều
này góp phần làm cho nhân dân trong tỉnh tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng,
vào sự nghiệp đổi mới.
Thứ hai, đội ngũ cán bộ lãnh đạo tỉnh Bắc Giang có thế mạnh về kinh nghiệm
thực tiễn. Toàn thể 47 đồng chí trong Ban chấp hành tỉnh Đảng bộ đều được trưởng thành
từ phong trào thực tiễn ở cơ sở. Họ lần lượt nắm giữ các cương vị công tác từ cơ sở,
huyện, tỉnh. Bởi thế, họ luôn đắm mình trong phong trào quần chúng, hiểu tâm tư, nguyện
vọng của quần chúng, hiểu rõ đặc điểm thực tế của địa bàn mình phụ trách. Mặt khác, tỉnh
có
10 huyện, thị thì cả 10 đồng chí bí thư huyện, thị đều tham gia Ban chấp hành tỉnh Đảng
bộ và một đồng chí là thường vụ Tỉnh ủy. Các trưởng ban ngành đoàn thể đa số tham gia
Ban chấp hành, vì thế họ vừa đóng vai trò lãnh đạo vừa là người lăn lộn trong hoạt động
thực tiễn, trực tiếp xử lý nhiều vấn đề cụ thể trong nhiều tình huống cụ thể. Do đó, họ đã
tích lũy được nhiều kinh nghiệm từ thực tiễn phong phú, tạo khả năng phát hiện những vấn
đề và các giải pháp giải quyết vấn đề nảy sinh từ thực tiễn, đặc biệt là những giải pháp
mang tính chất tình huống. Họ có khả năng vận dụng những kinh nghiệm được rút ra từ
chính hoạt động của mình và những kinh nghiệm có được từ tỉnh khác nữa. Những điều đó
phản ánh trình độ, năng lực tư duy kinh nghiệm của người cán bộ lãnh đạo tỉnh Bắc Giang;
nó có giá trị nhất định trong hoạt động lãnh đạo của họ và trong việc phát triển năng lực tư
duy lý luận. Đây là ưu điểm xét trên phương diện, nó là cơ sở để người lãnh đạo tỉnh có
được những chủ trương, chính sách phù hợp với thực tiễn địa phương. Tuy nhiên, nếu
không được kết hợp với năng lực tư duy lý luận với cái nhìn tổng thể của người lãnh đạo
toàn tỉnh thì nó làm hạn chế tầm nhìn bao quát chiến lược - một phẩm chất cần có và nhất
thiết phải có của người lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh Bắc Giang có năng lực nhất định
trong việc vận dụng đường lối đổi mới của Đảng vào việc xây dựng các chủ trương, chính
sách phát triển kinh tế - xã hội cụ thể trên địa bàn tỉnh. Biểu hiện rõ nét là họ rất mau
chóng trong việc chuyển đổi tư duy kinh tế, sớm thích nghi với nền kinh tế sản xuất hàng
hóa vận hành theo cơ chế thị trường. ở họ đã có tính năng động, sự nhạy bén trong các
hoạt động chỉ đạo phát triển kinh tế như quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn Bắc
Giang đến 2010; phát triển các làng nghề truyền thống, chuyển dịch mạnh cơ cấu cây trồng
cho phù hợp với điều kiện đất đai khí hậu Bắc Giang...; mạnh dạn xây dựng, áp dụng những
mô hình kinh tế mới, phát triển ngành nghề mới, những quy trình kỹ thuật sản xuất và chế
biến tiến bộ, năng động trong các quan hệ giao dịch kinh tế, chú trọng hiệu quả của các
hoạt động kinh tế.
Trong sản xuất nông nghiệp đã chỉ đạo đổi mới cơ cấu giống, cơ cấu mùa vụ, áp
dụng các tiến bộ kỹ thuật canh tác, xây dựng thêm cơ sở vật chất phục vụ sản xuất, chú
trọng đầu tư thâm canh cộng với yếu tố thời tiết tương đối thuận lợi nên tổng sản lượng
lương thực hàng năm tăng 5%, bằng mức tăng bình quân chung của cả nước.
Từ kinh nghiệm trồng vải thiều của huyện Lục Ngạn, tỉnh đã chỉ đạo hình thành và
phát triển vùng cây ăn quả tập trung có quy mô lớn. Đến nay tỉnh đã có trên 34.000 ha
(tăng 17.000ha so với năm 1997), riêng diện tích vải thiều, nhãn 23.330 ha, tạo ra sản
phẩm hàng hóa có giá trị kinh tế cao và vùng nguyên liệu phục vụ cho công nghiệp chế
biến. Sản lượng vải thiều năm 2000 đạt 32.000 tấn, doanh thu đạt trên 200 tỷ đồng, góp
phần đáng kể tăng thu nhập của các hộ nông dân.
Công nghiệp ngoài quốc doanh và sản xuất tiểu thủ công nghiệp ở các làng nghề
với các ngành nghề như: Chế biến nông lâm sản, thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng,
sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, cơ khí, may mặc... Cũng có bước phát triển, đã góp phần
giải quyết việc làm cho hàng nghìn lao động và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông
thôn.
Kinh tế đối ngoại cũng có bước phát triển: Từ 1997 đến nay Bắc Giang thu hút và
triển khai thực hiện được 44 dự án viện trợ và đầu tư nước ngoài với tổng số vốn 216,5 tỷ
đồng. Nhiều dự án thực hiện có hiệu quả như các dự án trong lĩnh vực lâm nghiệp, dự án
xây dựng hệ thống nước sạch ở thị xã Bắc Giang...
Thứ tư, cán bộ lãnh đạo chủ chốt Bắc Giang đã có năng lực nhất định trong việc
tổng kết việc thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trên địa bàn
tỉnh. Đồng thời họ đã có khả năng dự báo xu hướng phát triển kinh tế - xã hội của Bắc
Giang, trên cơ sở đó họ cũng đề ra được những phương hướng cho phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh nhà trong những năm tới. Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu và mở
rộng quy mô càng đòi hỏi người lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh không chỉ biết triển khai đường
lối chính sách của Đảng và Nhà nước ở tỉnh mà còn đòi hỏi ở họ khả năng dự báo xu
hướng phát triển của địa phương. Khả năng dự báo có chính xác hay không là tùy thuộc
vào khả năng nắm bắt thực tế địa phương, khả năng tổng kết thực tiễn ở địa phương và khả
năng vận dụng, chỉ đạo sáng tạo chủ trương đường lối của Trung ương vào tỉnh. Chính ở
đây, năng lực tư duy lý luận của người cán bộ lãnh đạo tỉnh thể hiện rõ nét nhất.
Bởi thế, đánh giá những cái đã làm được và những cái chưa làm được một cách
đúng đắn, khách quan trên cơ sở ấy mà đề ra phương hướng một cách phù hợp là một việc
làm không đơn giản, đòi hỏi người lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh ngoài nhiệt tình, đạo đức
cách mạng ra phải có năng lực lãnh đạo mà trước hết và chủ yếu là năng lực tư duy lý luận.
Về nguyên nhân dẫn tới kết quả, tiến bộ đã đạt được, báo cáo chính trị của Ban
chấp hành tỉnh Đảng bộ Bắc Giang tại Đại hội lần thứ XV chỉ rõ: Các chủ trương chính
sách của Đảng, Nhà nước và của địa phương đề ra trong thời gian qua là đúng đắn, phù
hợp, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, được đông đảo các tầng lớp nhân dân trong tỉnh
đồng tình hưởng ứng và tích cực thực hiện [74, tr. 17].
Đồng thời, Đại hội XV còn chỉ rõ những khuyết điểm, tồn tại như kinh tế phát
triển chưa ổn định, mức tăng trưởng còn thấp so với tiềm năng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch
chậm, các thành phần kinh tế phát triển chưa mạnh. Những khuyết điểm, tồn tại trên có nguyên
nhân khách quan, song nguyên nhân chủ quan là chính mà một trong những nguyên nhân chủ
yếu là việc dự báo và nắm tình hình kinh tế - xã hội ở trong và ngoài tỉnh chưa tốt [74, tr. 23].
Trên cơ sở đánh giá ấy, Đại hội đã đề ra phương hướng và mục tiêu chủ yếu.
Trong thời gian tới bên cạnh việc lãnh đạo toàn diện, đảng bộ tỉnh sẽ tập trung ưu tiên để
lãnh đạo, chỉ đạo 6 lĩnh vực trọng điểm mà trước hết là tiếp tục đầu tư phát triển nông
nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; chuyển dịch nhanh cơ cấu
kinh tế; phát triển cơ cấu hạ tầng phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội; thúc đẩy
kinh tế đối ngoại phát triển...
Rõ ràng, phải bằng năng lực tư duy lý luận, lãnh đạo tỉnh mới có được những
phương hướng lớn trên cơ sở tổng kết hoạt động lãnh đạo những năm qua tìm ra thế mạnh
của địa phương để có giải pháp phù hợp để tỉnh Bắc Giang phát triển nhanh, mạnh, vững
chắc.
Với những ưu điểm trên, kết hợp với quá trình học tập và tự rèn luyện trong thực
tiễn công tác, năng lực tư duy lý luận của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh Bắc Giang
đã có một sự phát triển nhất định. Trong hoạt động nhận thức và chỉ đạo thực tiễn người
cán bộ lãnh đạo đã chủ động, sáng tạo và khách quan hơn. Họ đã hình thành được năng lực
nắm bắt bản chất của lý luận, của đường lối, nhạy bén, chính xác hơn trong việc phát hiện các
vấn đề mới nảy sinh, khách quan, toàn diện hơn trong việc xây dựng các chủ trương, phương
hướng phát triển đời sống kinh tế - xã hội ở địa phương. Sự vận dụng lý luận, đường lối
vào hoạt động thực tiễn và tổng kết thực tiễn để rút ra những bài học kinh nghiệm cũng được
thực hiện một cách khoa học, sáng tạo và chính xác hơn, góp phần tích cực vào việc xây
dựng, bổ sung, phát triển chủ trương đường lối chính sách ở tỉnh và Trung ương.
Nguyên nhân đạt được sự phát triển về năng lực tư duy lý luận kể trên, trước hết, đó
là sự nỗ lực, tự giác phấn đấu trong học tập và rèn luyện của bản thân người cán bộ lãnh đạo
chủ chốt ở Bắc Giang. Đó là sự đổi mới phương thức, nội dung đào tạo theo hướng nâng cao
chất lượng, hiệu quả đào tạo của hệ thống các cơ sở đào tạo các cấp. Bên cạnh đó là do các
chủ trương của Đảng và Nhà nước về tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ công chức. Do sự
quan tâm chỉ đạo thường xuyên của các cấp ủy Đảng và chính quyền nhà nước về nâng cao
trình độ tri thức, trí tuệ, lý luận và năng lực công tác cho đội ngũ cán bộ. Những điều đó đã
tạo nhiều điều kiện thuận lợi và là động lực to lớn thúc đẩy người cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh
bằng mọi hình thức, tự cố gắng vươn lên để nâng cao trình độ năng lực trí tuệ, năng lực tư
duy lý luận của mình.
Thực tế cho thấy, đội ngũ cán bộ lãnh đạo tỉnh Bắc Giang có trình độ học vấn,
chuyên môn tương đối cao. Trong tổng số 47 tỉnh ủy viên, số có trình độ từ đại học trở lên
chiếm 93,6% so với cả nước thì con số này là 64%; trình độ cao đẳng trung cấp là 6,4%.
Điều này là một lợi thế quan trọng đối với một tỉnh miền núi như Bắc Giang. So với tỉnh
Cao Bằng miền núi tỷ lệ này là 78,71%; so với Bắc Ninh là tỉnh bạn được tách ra từ tỉnh
Hà Bắc cũ từ 1/1997 tỷ lệ này là 93,3%; tỷ lệ này ở Hải Phòng là 100%. Trình độ học vấn
là cơ sở quan trọng để phát triển tư duy lý luận. Họ được đào tạo ở trình độ đại học của
nhiều chuyên ngành kinh tế, kỹ thuật, sư phạm, văn hóa... điều này giúp cho lãnh đạo tỉnh
Bắc Giang có được sự hiểu biết phong phú trong tất cả các lĩnh vực mà mình lãnh đạo.
Tuy nhiên, sự phát triển về năng lực tư duy lý luận nêu trên vẫn chưa đủ đáp ứng cho
yêu cầu của thời kỳ cách mạng mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. ở Bắc
Giang phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa bắt đầu từ đâu và làm như thế nào để kinh tế - xã
hội phát triển nhanh, mạnh, vững chắc; để tỉnh trở thành tỉnh tiên tiến của cả nước. Đây là một
đòi hỏi khách quan của nhiệm vụ cách mạng, của cuộc sống. Báo cáo chính trị của Ban chấp
hành Đảng bộ tỉnh tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV chỉ rõ: "...Việc dự báo và nắm
tình hình kinh tế - xã hội ở trong và ngoài tỉnh chưa
tốt, khi xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch chưa lường hết những khó khăn về kinh tế - xã hội
của địa phương, nên một số mục tiêu, chỉ tiêu đề ra quá cao so với khả năng, do vậy mặc
dù đã có nhiều cố gắng chỉ đạo thực hiện, nhưng vẫn chưa đạt kế hoạch... Năng lực tổ chức
chỉ đạo thực hiện của một số cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành còn hạn chế, chưa năng
động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, còn tư tưởng trông chờ ỷ lại cấp trên.
Chưa đào sâu suy nghĩ, tìm tòi, mạnh dạn đề ra các chủ trương, giải pháp tích cực, phù hợp
để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương..." [74, tr. 23-24]. Chính vì vậy,
cần phải phân tích, đánh giá đúng những hạn chế về năng lực tư duy lý luận của người cán bộ
lãnh đạo tỉnh Bắc Giang, tìm nguyên nhân của nó để có giải pháp khắc phục đạt hiệu quả
cao nhất.
Nhìn chung, năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh
ở nước ta còn hạn chế. Biểu hiện là còn kinh nghiệm, giáo điều, chủ quan, tư duy lôgíc còn
hạn chế. Người cán bộ lãnh đạo tỉnh Bắc Giang cũng ở trong thực trạng chung đó, tuy
nhiên có thể khác về mức độ, về cách thức biểu hiện. Dưới đây là một số đánh giá cụ thể:
Trước hết, cần thấy rằng, mặc dù đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh Bắc Giang đã có
sự phát triển nhất định về năng lực tư duy lý luận nhưng cấp độ đạt được còn thấp, tư duy
lôgíc yếu - mới chỉ bước đầu làm quen với tư duy khoa học.
Tư duy khoa học là sự thống nhất giữa tư duy chính xác và tư duy biện chứng.
Năng lực tư duy chính xác bảo đảm cho tính đúng đắn, nhất quán, chặt chẽ trong quá trình
xác lập tri thức. Nếu biết nhất quán, chặt chẽ trong quá trình xác lập tri thức, nếu biết phát
hiện chọn ra những tiền đề đúng đắn và tuân theo các quy luật tư duy lôgíc thì quá trình
xác lập tri thức sẽ đem lại những tri thức chân thực. Tuy nhiên, điều kiện của nó là phải
phản ánh các vấn đề trong trạng thái ổn định, tĩnh tại. Chính vì thế cùng với tư duy chính
xác, cần phải có tư duy biện chứng, nó là sự phản ánh các quan hệ phổ biến trong sự vận
động và phát triển. Và như vậy, để đạt được trình độ tư duy khoa học thì đòi hỏi phải có
khả năng tư duy lôgíc, tức là phải có năng lực trừu tượng hóa, khái quát hóa trong phân
tích và tổng hợp. Về mặt này, người cán bộ lãnh đạo Bắc Giang còn bị hạn chế. Biểu hiện
cụ thể là số người có trình độ lý luận từ cao cấp trở lên mới đạt 70,2%. ở Bắc Ninh là
49,4%; Hải Phòng là 97,86%, Cao Bằng là 87,23% (xem phụ lục 2). Bình quân cả nước là
79,3%. Tất nhiên, không phải cứ có trình độ lý luận là có năng lực tư duy lôgíc. Nhưng rõ
ràng, trình độ lý luận là một trong những tiền đề không thể thiếu để nâng cao năng lực tư
duy lôgíc. Vì vậy, cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh dứt khoát phải có trình độ lý luận ít nhất
là cử nhân trở lên mới đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. ở Bắc Giang cán bộ cấp tỉnh có
trình độ cao cấp trở lên là 70,2% thấp hơn bình quân cả nước, trong khi tỷ lệ trình độ học
vấn, chuyên môn lại cao. Chính vì lẽ đó họ ngại tiếp cận những vấn đề có tính lý luận, hiệu
quả tổng kết kinh nghiệm thực tiễn chưa thật cao, tổng kết kinh nghiệm còn hạn chế về
mặt khái quát. ở giai đoạn cách mạng hiện nay, nếu cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh
không ý thức được việc này thì đường lối lãnh đạo của Trung ương khó được bổ sung hoàn
thiện. Bởi lẽ, những vấn đề đường lối có đi vào cuộc sống để phát huy hiệu quả hay không là
tùy thuộc trước hết vào sự cụ thể hóa đường lối ấy ở cấp tỉnh và việc tổng kết kinh nghiệm
thực tiễn ở địa phương. Chẳng hạn, ở Bắc Giang, cây vải thiều đã trở thành cây xóa đói
giảm nghèo cho một huyện và cho đến nay đã trở thành cây trồng mũi nhọn có thu nhập
cao trong toàn tỉnh (sản lượng vải thiều năm 2000 đạt 32.000 tấn, doanh thu đạt trên 200 tỷ
đồng) thì ngay trong sự thành công này đã đặt ra vấn đề tiêu thụ sản phẩm. Nếu chỉ trông
chờ vào bán quả tươi trong tỉnh và các tỉnh lân cận thì thụ động và không thể mở rộng
thêm diện tích trồng vải nữa.
Vấn đề đặt ra ở đây là: khẳng định cây vải thiều được trồng với quy mô lớn là
đúng, phù hợp với điều kiện đất đồi bãi ở Bắc Giang nhưng phải tính đến khâu tiêu thụ. Phải
đẩy nhanh việc xây dựng nhà máy chế biến với quy mô được dự báo trước nhằm tiêu thụ hết
nguyên liệu, sản phẩm đủ sức hấp dẫn ngay tại địa phương. Làm được như vậy chính là địa
phương đã thực sự tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngay tại mảnh đất vốn còn nghèo
nàn lạc hậu, là cụ thể hóa từng chính sách của Nhà nước vào địa bàn tỉnh. Tư duy khoa học
yếu kém, nên không ít cán bộ lãnh đạo tỉnh nhìn nhận vấn đề còn thiếu hệ thống, thiếu nhìn xa
trông rộng, không chặt chẽ, kém sinh động; chưa có được cái nhìn toàn diện tổng thể. Việc
xây dựng các chương trình, kế hoạch phát triển còn biểu hiện thiếu tính chiến lược, nặng tính
sự vụ trước mắt.
Tư duy lôgíc yếu, năng lực trừu tượng hóa khái quát hóa cũng như khả năng phân
tích tổng hợp yếu, dẫn đến sự yếu kém về tư duy khoa học, cùng với sức ỳ của tư duy kinh
nghiệm là lực cản lớn đối với sự phát triển năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo tỉnh Bắc Giang.
Thứ hai, trong chỉ đạo thực tiễn, người cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh Bắc Giang
còn biểu hiện của bệnh giáo điều, dập khuôn, máy móc.
Trước hết còn biểu hiện của việc tiếp thu lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước một cách thụ động theo
kiểu sao chép lại nội dung mà không hiểu thực chất vấn đề để hình thành phương pháp
luận cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của mình. Còn hiện tượng cứ nghị quyết Trung
ương nói tới vấn đề gì thì ở địa phương cũng đề cập ngay đến vấn đề đó mà không tính đến
đặc điểm riêng của tỉnh mình. Lãnh đạo tỉnh chưa tự trả lời vấn đề mà Trung ương đề cập.
Chẳng hạn, đối với mô hình kinh tế trang trại là rất phù hợp với điều kiện đất đai đồi bãi ở
Bắc Giang nhưng cho phát triển quy mô bao nhiêu là phù hợp thì tỉnh chưa trả lời được,
chưa tổng kết những mô hình làm ăn kinh tế hiệu quả để khẳng định và nhân rộng ra. Bệnh
giáo điều còn biểu hiện ở chỗ học tập và vận dụng theo kiểu dập khuôn máy móc kinh
nghiệm của người khác, của địa phương khác mà chưa biết chắt lọc, kết hợp nhiều yếu tố,
nhiều mặt trong kinh nghiệm của nhiều người, nhiều địa phương để hình thành mô hình
mới, cách làm mới, thể nghiệm để hoàn chỉnh nó theo yêu cầu thực tế của địa bàn, lĩnh vực
mình phụ trách.
Qua tìm hiểu chúng tôi thấy, ở Bắc Giang cây ngô vụ đông được tỉnh chỉ đạo nhân
rộng bằng cách có hỗ trợ về vốn, giống, phân bón... mà người dân vẫn không hào hứng bởi
hiệu quả kinh tế không cao. Cuối cùng tỉnh phải thay đổi định hướng này. Phát triển các
làng nghề truyền thống là một chủ trương đúng, song làng nghề của Bắc Giang còn hết sức
nhỏ bé, chưa đem lại hiệu quả kinh tế cao như nghề làm bánh đa, gạch, ngói, nấu rượu...
thì không thể coi đây là một định hướng cơ bản để phát triển kinh tế địa phương. Thế
mạnh của Bắc Giang là cây ăn quả, cây công nghiệp thì hướng phát triển kinh tế phải là
công nghiệp chế biến ngay tại địa phương. Trong khi đó, tỉnh Bắc Ninh với cơ cấu làng
nghề truyền thống đa dạng, quy mô lớn đã thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển, đem lại
hiệu quả kinh tế cao.
Bắc Giang là tỉnh miền núi nhưng trong chủ trương, biện pháp của lãnh đạo tỉnh
không thấy có sự chỉ đạo mang tính đặc thù đối với các huyện miền núi, nhất là các xã
vùng sâu, vùng xa. Chẳng hạn, để hạn chế tốc độ tăng dân số ở tỉnh thì biện pháp ở thị xã,
thị trấn phải khác với các vùng miền núi cao. Có như vậy chủ trương của tỉnh mới được
thực hiện và đem lại kết quả như mong muốn.
Thứ ba, trong hoạt động lãnh đạo của mình, cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh Bắc
Giang vẫn nặng ở việc triển khai nghị quyết chưa coi trọng đúng mức khâu tổng kết thực
tiễn để cùng Trung ương giải quyết những vấn đề mới nảy sinh. Biểu hiện của hạn chế này
là lãnh đạo tỉnh ra chỉ thị nghị quyết xuống cho cấp dưới thực thi nếu có vướng mắc thì
cấp dưới tự báo cáo lên tỉnh. Lãnh đạo tỉnh chưa thực sự coi trọng việc tổng kết việc thực
hiện chỉ thị, nghị quyết của tỉnh ở huyện, xã cho nên còn những vấn đề nào bất cập chưa
kịp thời tổng kết. Tư tưởng thích thành tích, không dám chịu trách nhiệm dẫn đến việc chỉ
thích giải quyết những việc ngắn, trước mắt mà quên đi chiến lược lâu dài của tỉnh vẫn còn
ở một số cán bộ chủ chốt. Bắc Giang tiếp giáp với vùng kinh tế trọng điểm ở miền Bắc là
Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; có quốc lộ 1 đi dọc tỉnh lại gần với cửa khẩu Đồng
Đăng đi Trung Quốc. Vậy mà chưa thu hút được nhiều đầu tư trong nước và nước ngoài.
Phong trào điện, đường, trường, trạm phát triển rất rầm rộ ở nông thôn nước ta trong mấy
năm qua và có tỉnh làm rất tốt như Hà Nam, Thái Bình... Vậy mà ở Bắc Giang phong trào
này không phát triển được. Đây không phải do điều kiện kinh tế yếu không làm được mà là
do lãnh đạo tỉnh không khơi dậy được sức mạnh trong dân để tạo ra bộ mặt mới cho nông
thôn Bắc Giang. Vùng nguyên liệu cây ăn quả đã hình thành và phát triển, dây chuyền sản
xuất hoa quả đóng hộp ở Lục Ngạn không hiệu quả. Nhà máy hoa quả đóng hộp đang xây
dựng ở Bắc Giang liệu có phát huy được tác dụng là nơi tiêu thụ sản phẩm cho bà con
nông dân hay không? ở vị trí tương tự như Bắc Giang, tỉnh Đồng Nai rất mạnh về kêu gọi
vốn đầu tư kể cả trong và ngoài nước bởi họ có một đội ngũ lãnh đạo năng động, dám
nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Một tỉnh muốn phát triển mạnh phải có kinh tế mũi
nhọn. ở Bắc Giang điều này chưa thật nổi rõ.
Thứ tư, trong hoạt động lãnh đạo của mình, năng lực chỉ đạo điều phối các
huyện, các ban ngành chưa thật nhịp nhàng, hiệu quả chưa thật cao còn thiếu trọng tâm,
trọng điểm. Thực tế Bắc Giang cho thấy, sự chỉ đạo, lãnh đạo của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh
đối với các huyện, các ban ngành chưa thật nhịp nhàng, hiệu quả. Dường như sự lãnh đạo,
chỉ đạo của cán bộ chủ chốt mới tập trung nhiều vào thị xã Bắc Giang, các thị trấn, các
huyện điểm của tỉnh. Huyện miền núi, xã vùng sâu, vùng xa dường như chưa được quan
tâm đúng mức. Trong nông nghiệp, chăn nuôi, thủy sản, ngành nghề thủ công cũng chưa
được quan tâm đúng mức; phát triển kinh tế chưa gắn với công tác dân số kế hoạch hóa gia
đình v.v... Sự thiếu nhịp nhàng, đồng bộ này có nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó có
nguyên nhân cơ bản là năng lực tư duy lý luận của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh còn có hạn chế
nhất định. Đối với lãnh đạo cấp tỉnh, phải có cái nhìn bao quát, toàn diện, trong điều kiện
hiện nay phải mạnh dạn chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng coi trọng hiệu quả
kinh tế chứ không được dàn trải để rơi vào tình trạng hết đói, không nghèo nhưng cũng
chưa giàu. Căn cứ vào tình hình cụ thể của tỉnh, lãnh đạo tỉnh phải tìm được khâu đột phá
mũi nhọn để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển nhanh, mạnh và bền vững. Phát triển kinh
tế phải gắn với những vấn đề xã hội, an ninh, chính trị, quốc phòng...
Những yếu kém phân tích trên của người cán bộ lãnh đạo tỉnh Bắc Giang đã và
đang tiếp tục được khắc phục, sửa chữa đã có sự chuyển biến tích cực nhất định. Thực tiễn
địa phương cũng như yêu cầu của nhiệm vụ đang đòi hỏi họ phải có tư duy khoa học, phải
nâng cao năng lực tư duy lý luận để lãnh đạo tỉnh phát triển tương xứng với tiềm năng, lợi
thế so sánh.
2.1.2. Những nguyên nhân chủ yếu của sự hạn chế về năng lực tư duy lý luận
của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh Bắc Giang
Những hạn chế về năng lực tư duy lý luận của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh
Bắc Giang xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trong đó có những
nguyên nhân chung dẫn tới sự yếu kém về nhiều mặt ở nhiều đối tượng cán bộ trong cả
nước, đồng thời lại có những nguyên nhân đặc thù riêng có ở địa phương. Dưới đây là một
số nguyên nhân chủ yếu của sự yếu kém về năng lực tư duy lý luận của người cán bộ lãnh
đạo chủ chốt tỉnh Bắc Giang.
- Hoàn cảnh kinh tế - xã hội, môi trường sống, làm việc và trình độ dân trí thấp đã
ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ Bắc Giang
nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh nói riêng.
Trong số 10 huyện, thị của Bắc Giang thì không có huyện nào thật sự mạnh về
kinh tế. Trừ Sơn Động là huyện miền núi cao kinh tế kém phát triển và thị xã Bắc Giang là
trung tâm của tỉnh có phát triển hơn nơi khác, các huyện còn lại đều ở mức trung bình.
GDP bình quân đầu người năm 2000 đạt 208 USD. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, giá
trị nông lâm nghiệp chiếm tỷ trọng cao (51,1%), giá trị công nghiệp - xây dựng và dịch vụ
thấp (công nghiệp - xây dựng: 14,3%; dịch vụ: 34,6%). Trong sản xuất nông nghiệp, giá trị
ngành trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng lớn (67%); trong trồng trọt, sản xuất cây lương thực
vẫn là chủ yếu chiếm 81,5% diện tích gieo trồng cây hàng năm. Cơ cấu kinh tế trong nông
thôn chuyển biến chậm, ngành nghề kém phát triển. Thực chất nền kinh tế của tỉnh vẫn là
thuần nông, sản xuất lương thực là chủ yếu, sản phẩm hàng hóa ít thế mà năng suất lúa ở
thời điểm cao nhất (vụ chiêm xuân năm 2000 mới đạt 43 tạ/ha thấp hơn bình quân chung
cả nước 8 tạ/ha). Các cây công nghiệp ngắn ngày như lạc, đậu tươ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay.pdf