Tài liệu Luận văn Nâng cao năng lực cạnh tranh của tổng công ty cơ điện xây dựng nông nghiệp và thủy lợi: 1
Luận văn
Nâng cao năng lực cạnh tranh của
Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng
Nông Nghiệp Và Thủy Lợi
2
MỞ ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam đang tích cực
chuẩn bị hành trang cho mình để đón nhận những cơ hội và thách thức do mở cửa
mang lại. Với việc thực hiện các cam kết song phương và đa phương, hướng tới gia
nhập WTO, một nhân tố đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp
cũng như sự phát triển của nền kinh tế, đó là nâng cao năng lực cạnh tranh bởi cạnh
tranh là đặc trưng vốn có của kinh tế thị trường và trong điều kiện hội nhập thì cạnh
tranh ngày càng trở nên gay gắt. Doanh nghiệp nào có sự chuẩn bị tốt về năng lực
cạnh tranh sẽ nắm được quyền chủ động trên thị trường.
Theo cách của mình, một số doanh nghiệp Việt Nam cũng đang phấn đấu
cho mục tiêu đó và đã đạt được những thành tích nhất định. Các doanh nghiệp Nhà
Nước, trong đó có Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Th...
123 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1199 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nâng cao năng lực cạnh tranh của tổng công ty cơ điện xây dựng nông nghiệp và thủy lợi, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
Nâng cao năng lực cạnh tranh của
Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng
Nông Nghiệp Và Thủy Lợi
2
MỞ ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam đang tích cực
chuẩn bị hành trang cho mình để đón nhận những cơ hội và thách thức do mở cửa
mang lại. Với việc thực hiện các cam kết song phương và đa phương, hướng tới gia
nhập WTO, một nhân tố đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp
cũng như sự phát triển của nền kinh tế, đó là nâng cao năng lực cạnh tranh bởi cạnh
tranh là đặc trưng vốn có của kinh tế thị trường và trong điều kiện hội nhập thì cạnh
tranh ngày càng trở nên gay gắt. Doanh nghiệp nào có sự chuẩn bị tốt về năng lực
cạnh tranh sẽ nắm được quyền chủ động trên thị trường.
Theo cách của mình, một số doanh nghiệp Việt Nam cũng đang phấn đấu
cho mục tiêu đó và đã đạt được những thành tích nhất định. Các doanh nghiệp Nhà
Nước, trong đó có Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi đã
không ngừng đổi mới bằng các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và tổ chức để nâng cao
năng lực cạnh tranh. Song so với yêu cầu của sự phát triển kinh tế thị trường, kết
quả đạt được còn khiêm tốn. Là một trong những Tổng Công ty lớn của bộ Nông
Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn, vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh để phát
triển và thực hiện tốt những nhiệm vụ kinh tế - chính trị do Nhà Nước giao là mối
quan tâm hàng đầu của Tổng Công ty.
Để tìm được câu trả lời cho vấn đề này cần có những nghiên cứu về lý luận
và thực tiễn nhằm tìm kiếm các giải pháp hữu hiệu. Trên tinh thần đó tác giả chọn
vấn đề “Nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng
Nông Nghiệp Và Thủy Lợi” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Cạnh tranh kinh tế không còn là vấn đề mới mẻ với thế giới. Trong bộ “Tư bản” và
những tác phẩm trước đó, Các Mác đã nói đến cơ sở ra đời và tồn tại của cạnh
tranh, các tiêu thức phân loại, những mặt tích cực và tiêu cực của cạnh tranh. Vấn
3
đề này cũng được Lê Nin nhắc đến khi phân tích giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc
quyền. Nhất là từ thập kỷ 80 của thế kỷ 20 trở lại đây, các lý thuyết về cạnh tranh đã
được phát triển thành những chiến lược cạnh tranh áp dụng trong quản lý kinh tế vĩ
mô và vi mô ở nhiều quốc gia.
Ở Việt Nam, vấn đề này bắt đầu được nhắc đến nhiều khi Việt Nam chuyển
đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đã có một số
cuộc hội thảo, công trình nghiên cứu và các bài viết trên các tạp chí về vấn đề này.
Một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ về cạnh tranh đã được công bố như: luận án
tiến sĩ của tác giả Nguyễn Quốc Dũng về đề tài “Cạnh tranh trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam” (2001), luận văn thạc sĩ về đề tài “Nâng cao sức cạnh tranh của
hàng hóa Việt Nam nhằm thực hiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” của tác giả
Bùi Văn Thành (2003). Nghiên cứu “Năng lực cạnh tranh quốc gia và năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp Việt Nam – nhân tố quan trọng trong hội nhập” của tiến sĩ
Lê Đăng Doanh – Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế trung ương (2003). Tác phẩm
“Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế” của tác giả Chu Văn Cấp (2003), nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia – Hà
Nội. Đề án phát triển Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi
từ năm 2001 đến 2010. Các nghiên cứu trên đã hệ thống được cơ sở lý luận về cạnh
tranh và những kinh nghiệm thực tế quí báu. Tuy nhiên nghiên cứu dưới góc độ
quản trị kinh doanh về năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng
Nông Nghiệp Và Thủy Lợi chưa được thực hiện. Tác giả mạnh dạn chọn đề tài
nghiên cứu theo hướng này.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Mục đích nghiên cứu: Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của Tổng
Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi, đánh giá những thành công
đã đạt được, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng, từ đó chỉ ra định hướng và giải
pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
4
Một là: Hệ thống hóa những cơ sở lý luận chung về năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Hai là: Nghiên cứu một số kinh nghiệm quốc tế và của các Tổng Công ty
khác của Việt Nam, rút ra bài học về nâng cao năng lực cạnh tranh.
Ba là: Khảo sát các điều kiện về nguồn lực và hoạt động kinh doanh, những
công cụ Tổng Công ty đang sử dụng trong cạnh tranh từ đó làm rõ năng lực cạnh
tranh của Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi, đánh giá
thành công, hạn chế, nguyên nhân thực trạng đó.
Bốn là: Đưa ra các định hướng, tìm kiếm và đề xuất giải pháp hữu hiệu để
nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu năng lực cạnh tranh
của Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi thuộc bộ Nông
Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn.
- Phạm vi nghiên cứu: Lĩnh vực hoạt động của Tổng Công ty khá rộng gồm
sản xuất sản phẩm cơ khí, xây dựng, thương mại. Trong phạm vi đề tài này, luận
văn đi sâu nghiên cứu lĩnh vực kinh doanh chủ yếu là năng lực cạnh tranh của Tổng
Công ty về các sản phẩm cơ khí xây lắp phục vụ nông nghiệp, thủy lợi và thủy điện.
Phạm vi thời gian: Luận văn chọn mốc thời gian từ năm 2003 đến nay.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu truyền thống của khoa học kinh
tế là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp giữa lôgíc và lịch
sử, phân tích và tổng hợp. Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp thống
kê, so sánh định lượng nhằm tạo một phương pháp tiếp cận phù hợp với đối tượng
và mục tiêu nghiên cứu.
6. DỰ KIẾN ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
5
Về lý luận: Khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về cạnh tranh trong kinh
tế thị trường và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó chỉ ra cách
thức vận dụng các lý luận về cạnh tranh để nâng cao năng lực cạnh tranh cho các
doanh nghiệp.
Về thực tiễn:
- Khái quát một số bài học kinh nghiệm về nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp từ đó chỉ ra những vấn đề cần quan tâm khi xây dựng chiến
lược cạnh tranh cho doanh nghiệp.
- Trên cơ sở phân tích thực trạng, luận văn cho thấy một bức tranh toàn
cảnh về năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp
Và Thủy Lợi, những điểm mạnh, điểm yếu và nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
cho Tổng Công ty.
7. KẾT CẤU LUẬN VĂN:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty Cơ Điện Xây
Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi.
Chương 3: Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi.
6
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. CẠNH TRANH VÀ SỰ CẦN THIẾT NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
Kinh tế thị trường được xem là nền kinh tế năng động nhất, mang lại nhiều
thành tựu đóng góp cho sự phát triển của văn minh nhân loại. Kinh tế thị trường vận
động dưới sự tác động tổng hợp của các quy luật kinh tế khách quan, trong đó phải
kể đến quy luật cạnh tranh. Quy luật này đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự thích
nghi với những biến chuyển của nền kinh tế để tồn tại và phát triển. Cạnh tranh đã,
đang và sẽ là vấn đề được quan tâm nghiên cứu cả trên lý luận và trong thực tiễn
nhằm vận dụng ngày càng hiệu quả quy luật này phục vụ cho sự phát triển của mỗi
doanh nghiệp, mỗi quốc gia.
1.1.1. Khái niệm và phân loại cạnh tranh
1.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh là một thuật ngữ đã được sử dụng từ khá lâu song trong những
năm gần đây được nhắc đến nhiều hơn, nhất là ở Việt Nam. Bởi trong nền kinh tế
mở hiện nay, khi xu hướng tự do hóa thương mại ngày càng phổ biến thì cạnh tranh
là phương thức để đứng vững và phát triển của doanh nghiệp. Nhưng “cạnh tranh là
gì” thì vẫn đang là một khái niệm chưa thống nhất, các nhà nghiên cứu đưa ra các
khái niệm cạnh tranh dưới nhiều góc độ khác nhau.
Theo diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và
Phát triển Kinh tế OECD: “Cạnh tranh là khả năng các doanh nghiệp, ngành, quốc
gia và vùng tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc
tế”. Định nghĩa trên đã cố gắng kết hợp cả hoạt động cạnh tranh của doanh nghiệp,
của ngành và quốc gia.
Ủy ban Cạnh tranh Công nghiệp của Tổng thống Mỹ đưa ra khái niệm cạnh
tranh đối với một quốc gia như sau: “Cạnh tranh đối với một quốc gia thể hiện trình
độ sản xuất hàng hóa dịch vụ đáp ứng được đòi hỏi của thị trường quốc tế, đồng
7
thời duy trì và mở rộng được thu nhập thực tế của nhân dân nước đó trong những
điều kiện thị trường tự do và công bằng xã hội” [3]. Trong định nghĩa này người ta
đề cao vai trò của các điều kiện cạnh tranh là “tự do và công bằng xã hội”.
Như vậy, xét trên góc độ vĩ mô các khái niệm về cạnh tranh đều cho thấy
mục tiêu chung của hoạt động cạnh tranh là thỏa mãn tối đa nhu cầu thị trường
trong nước và quốc tế, tạo việc làm và thu nhập cao cho nền kinh tế.
Các nhà kinh tế của trường phái tư sản cổ điển quan niệm: “Cạnh tranh là
một quá trình bao gồm các hành vi phản ứng. Quá trình này tạo ra cho mỗi thành
viên thị trường một dư địa hoạt động nhất định và mang lại cho mỗi thành viên một
phần xứng đáng so với khả năng của mình”. Theo quan niệm này cạnh tranh chủ
yếu là cạnh tranh về giá, vì thế lý thuyết giá cả gắn chặt với lý thuyết cạnh tranh.
Khi nghiên cứu về cạnh tranh tư bản chủ nghĩa, Mác cũng đã đưa ra khái
niệm về cạnh tranh: “Cạnh tranh tư bản là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa
các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ
hàng hóa nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch” [21]. Như vậy cạnh tranh là hoạt động của
các doanh nghiệp trong nền sản xuất hàng hóa với mục đích ganh đua, giành giật
những điều kiện thuận lợi tronh sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu lợi nhuận cao.
Kế thừa những tính hợp lý và khoa học của các quan niệm về cạnh tranh
trước đây, luận văn cho rằng để đưa ra một khái niệm đầy đủ cần chỉ ra được chủ
thể cạnh tranh, tính chất, phương thức và mục đích của quá trình cạnh tranh. Theo
đó chúng ta có thể quan niệm “ cạnh tranh là một quá trình kinh tế mà ở đó các chủ
thể kinh tế (quốc gia, ngành hay doanh nghiệp) ganh đua với nhau để chiếm lĩnh thị
trường, giành lấy khách hàng cùng các điều kiện sản xuất và tiêu thụ sản phẩm có
lợi nhất nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận”.
Như vậy về bản chất, cạnh tranh là mối quan hệ giữa người với người trong
việc giải quyết lợi ích kinh tế. Bản chất kinh tế của cạnh tranh thể hiện ở mục đích
lợi nhuận và chi phối thị trường. Bản chất xã hội của cạnh tranh bộc lộ đạo đức kinh
doanh và uy tín kinh doanh của mỗi chủ thể cạnh tranh trong quan hệ với những
người lao động trực tiếp tạo ra tiềm lực cạnh tranh cho doanh nghiệp và trong mối
quan hệ với người tiêu dùng và đối thủ cạnh tranh khác.
8
Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường, nó chịu
nhiều chi phối của quan hệ sản xuất giữ vị trí thống trị trong xã hội, nó có quan hệ
hữu cơ với các quy luật kinh tế khác như quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ,
quy luật cung cầu…, đây là một đặc trưng gắn với bản chất của cạnh tranh. Quy luật
cạnh tranh chỉ ra cách thức làm cho giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội, do đó nó
làm giảm giá cả thị trường, nó tạo ra sức ép làm gia tăng hiệu quả sử dụng các yếu
tố sản xuất, nó chỉ ra ai là người sản xuất kinh doanh thành công nhất.
1.1.1.2. Phân loại cạnh tranh
* Căn cứ tính chất cạnh tranh trên thị trường.
- Cạnh tranh hoàn hảo là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có rất
nhiều người bán và người mua, mỗi người bán chỉ cung ứng một lượng hàng rất nhỏ
trong tổng cung của thị trường. Họ luôn luôn bán hết số hàng mà họ muốn bán với
giá thị trường. Bất cứ doanh nghiệp nào gia nhập hoặc rút lui khỏi thị trường cũng
không gây ảnh hưởng tới giá cả thị trường. Để tối đa hóa lợi nhuận họ chỉ còn có
thể tìm mọi cách để giảm chi phí sản xuất. Trong thị trường này mọi thông tin đều
đầy đủ và không có hiện tượng cung cầu giả tạo. Khi chi phí biên của doanh nghiệp
giảm xuống bằng với giá thị trường doanh nghiệp sẽ đạt lợi nhuận tối đa.
- Cạnh tranh không hoàn hảo là hình thức cạnh tranh mà mỗi doanh
nghiệp đều có sức mạnh thị trường (dù nhiều hay ít), họ có quyền quyết định giá
bán của mình, qua đó tác động đến giá cả thị trường.
+ Cạnh tranh độc quyền (cạnh tranh có tính độc quyền) là thị trường có
nhiều người bán và nhiều người mua, sản phẩm của các doanh nghiệp có thể thay
thế cho nhau ở một mức độ nào đó. Bằng các biện pháp như thay đổi mẫu mã, chất
lượng, kiểu dáng, quảng cáo thương hiệu, uy tín … các doanh nghiệp cố gắng khác
biệt hóa sản phẩm của mình để cạnh tranh và thu hút khách hàng. Trong thị trường
này, bên cạnh các biện pháp khác biệt hóa sản phẩm, chiến lược giá cả và chính
sách đối với khách hàng là các vấn đề mỗi doanh nghiệp luôn quan tâm để đảm bảo
khả năng cạnh tranh.
+ Độc quyền tập đoàn là trường hợp trên thị trường chỉ có một số hãng
lớn bán các sản phẩm đồng nhất hoặc không đồng nhất. Họ kiểm soát gần như toàn
9
bộ lượng cung trên thị trường nên có sức mạnh thị trường khá lớn. Các hãng trong
tập đoàn có tính phụ thuộc lẫn nhau nên quyết định giá và sản lượng của mỗi hãng
đều ảnh hưởng trực tiếp đến hãng khác trong tập đoàn và giá thị trường. Vì vậy họ
thường cấu kết với nhau để thu lợi nhuận siêu ngạch.
Nguyên nhân sự hình thành thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là do quá
trình phấn đấu tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp, cạnh tranh thúc đẩy quá trình
tích tụ và tập trung tư bản diễn ra không đều ở các ngành, các lĩnh vực kinh tế khác
nhau. Mặc dù vậy, cạnh tranh độc quyền lại có tác động tích cực thúc đẩy sản xuất
phát triển, nó làm lợi cho xã hội nhiều hơn là gây thiệt hại.
- Độc quyền hoàn toàn là hình thái thị trường đối lập với cạnh tranh hoàn
hảo. Chỉ có một người bán (hoặc mua) duy nhất trên thị trường, hàng hóa là độc
nhất và không có hàng thay thế gần gũi nên họ có sức mạnh thị trường rất lớn.
Doanh nghiệp độc quyền luôn quyết định giá và sản lượng sao cho thu được lợi
nhuận siêu ngạch. Nguyên nhân của độc quyền là do họ đạt được lợi thế kinh tế nhờ
quy mô (độc quyền tự nhiên), hoặc do cấu kết, thôn tính, kiểm soát được đầu vào…
Độc quyền luôn có những tác động xấu đến kinh tế xã hội như sản lượng bán thấp
(không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng cho xã hội), giá quá cao và gây mất công
bằng xã hội. ở một số nước có luật chống độc quyền nhằm đảm bảo các lợi ích kinh
tế xã hội.
* Căn cứ chủ thể tham gia thị trường: Đây là sự cạnh tranh trong khâu lưu
thông hàng hóa nhằm tối đa hóa lợi ích cho những chủ thể tham gia cạnh tranh.
- Cạnh tranh giữa người bán và người mua với đặc trưng nổi bật là người
mua luôn muốn mua rẻ và người bán luôn muốn bán đắt. Hai lực lượng này hình
thành hai phía cung cầu trên thị trường. Kết quả sự cạnh tranh trên là hình thành giá
cân bằng của thị trường, đó là giá mà cả hai phía đều chấp nhận được.
- Cạnh tranh giữa những người mua là sự cạnh tranh do ảnh hưởng của
quy luật cung cầu. Khi lượng cung một hàng hóa quá thấp so với lượng cầu làm cho
người mua phải cạnh tranh nhau để mua được hàng hóa mà mình cần dẫn tới giá cả
tăng vọt. Kết quả là người bán thu được lợi nhuận cao còn người mua phải mất
10
thêm một số tiền. Như vậy sự cạnh tranh này làm cho người bán được lợi và người
mua bị thiệt.
- Cạnh tranh giữa những người bán là sự cạnh tranh nhằm tăng sản lượng
bán. Do sản xuất ngày càng phát triển, thị trường mở cửa, lượng cung tăng nhanh
trong khi lượng cầu tăng chậm dẫn tới người bán (các doanh nghiệp) phải cạnh
tranh khốc liệt để giành thị trường và khách hàng. Kết quả là giá cả không ngừng
giảm xuống và người mua được lợi. Doanh nghiệp nào thắng trong cuộc cạnh tranh
này mới có thể tồn tại và phát triển.
* Căn cứ cấp độ cạnh tranh: Đây là sự cạnh tranh diễn ra trong lĩnh vực sản
xuất.
- Cạnh tranh giữa các sản phẩm là sự cạnh tranh về mẫu mã, kiểu dáng,
chất lượng, giá cả, phương thức bán hàng … Sản phẩm nào phù hợp nhất với yêu
cầu của khách hàng thì sản phẩm đó sẽ đảm bảo được khả năng tiêu thụ, kéo dài chu
kỳ sống của sản phẩm và tạo cơ hội thu thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành (cạnh tranh nội bộ
ngành) là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất một loại hàng hóa
nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch. Trong nền kinh tế thị trường, theo quy luật, doanh
nghiệp nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ
thu lợi nhuận siêu ngạch. Các doanh nghiệp sẽ áp dụng các biện pháp như cải tiến
kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất nâng
cao sức cạnh tranh cho sản phẩm. Doanh nghiệp nào có nhiều sản phẩm có sức cạnh
tranh cao sẽ cạnh tranh thắng lợi trong ngành.
Như vậy cạnh tranh nội bộ ngành làm giảm chi phí sản xuất và giá cả hàng
hóa, là động lực thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất và tiến bộ kỹ thuật. Không
có cạnh tranh nội bộ ngành thì ngành đó không thể phát triển và kinh tế sẽ bị trì trệ.
- Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản
xuất ở các ngành khác nhau nhằm tìm nơi đầu tư có lợi nhất. Giữa các ngành kinh
tế, do điều kiện tự nhiên, kỹ thuật và một số nhân tố khách quan khác (như tâm lý,
thị hiếu, kỳ vọng, mức độ quan trọng,…) nên cùng với một lượng vốn, đầu tư vào
ngành này có thể mang lại tỷ suất lợi nhuận cao hơn ngành khác. Nhà sản xuất ở
11
những ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp có xu hướng di chuyển nguồn lực sang
những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao. Kết quả là trong những ngành có thêm nhiều
doanh nghiệp tham gia lượng cung tăng vượt quá cầu, giá giảm dẫn tới tỷ suất lợi
nhuận của ngành giảm. Ngược lại, những ngành có nhiều doanh nghiệp rút lui sẽ có
lượng cung nhỏ hơn lượng cầu, giá tăng và tỷ suất lợi nhuận của ngành lại tăng.
Việc di chuyển nguồn lực giữa các ngành kéo theo sự biến động của tỷ suất
lợi nhuận diễn ra cho đến khi với một số vốn nhất định dù đầu tư vào ngành nào
cũng sẽ thu được tỷ suất lợi nhuận như nhau. Đó là tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Như vậy cạnh tranh giữa các ngành dẫn tới sự cân bằng cung cầu sản phẩm
trong mỗi ngành và bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận, đảm bảo sự bình đẳng cho việc
đầu tư vốn giữa các ngành, tạo nhân tố tích cực cho sự phát triển.
- Cạnh tranh giữa các quốc gia: Là các hoạt động nhằm duy trì và cải
thiện vị trí của nền kinh tế quốc gia trên thị trường thế giới một cách lâu dài dể thu
được lợi ích ngày càng cao cho nền kinh tế quốc gia đó. Tuy nhiên chủ thể trực
tiếp tham gia cạnh tranh là các doanh nghiệp. Nên nếu quốc gia nào có nhiều
doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao thì quốc gia đó cũng có năng lực cạnh
tranh tốt hơn.
1.1.2. Vai trò của cạnh tranh
Từ thế kỷ 18, Adam Smith, nhà kinh tế học cổ điển vĩ đại của Anh đã chỉ ra
vai trò quan trọng của cạnh tranh tự do trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc”
(1776). Ông cho rằng sức ép cạnh tranh buộc mỗi cá nhân phải cố gắng làm công
việc của mình một cách chính xác và do đó nó tạo ra sự cố gắng lớn nhất. Kết quả
của sự cố gắng đó là lòng hăng say lao động, sự phân phối các yếu tố sản xuất một
cách hợp lý và tăng của cải cho xã hội. Cho tới nay, cạnh tranh được coi là phương
thức hoạt động để tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp, không có cạnh tranh
thì không thể có sự tăng trưởng kinh tế.
Vai trò của cạnh tranh được thể hiện ở hai mặt tích cực và hạn chế sau đây:
*Mặt tích cực:
12
- Đối với nền kinh tế: Cạnh tranh làm sống động nền kinh tế, thúc đẩy
quá trình lưu thông các yếu tố sản xuất. Thông qua cạnh tranh, các nguồn tài
nguyên được phân phối hợp lý hơn dẫn đến sự điều chỉnh kết cấu ngành, cơ cấu
lao động được thực hiện mau chóng và tối ưu.
Cạnh tranh là đòn bẩy mạnh mẽ nhất đẩy nhanh quá trình luân chuyển vốn,
luân chuyển các yếu tố sản xuất, phân phối lại tài nguyên, tập trung sản xuất và
tích luỹ tư bản.
Đồng thời cạnh tranh còn là cơ chế điều tiết việc phân phối lợi nhuận giữa
các ngành và trong nền kinh tế do chịu ảnh hưởng của quy luật bình quân hoá lợi
nhuận.
- Đối với chủ thể kinh doanh: Do động lực tối đa hoá lợi nhuận và áp lực
phá sản nếu dừng lại, cạnh tranh buộc các chủ thể kinh tế phải không ngừng tăng
cường thực lực của mình bằng các biện pháp đầu tư mở rộng sản xuất, thường
xuyên sáng tạo cải tiến kỹ thuật, công nghệ, tăng năng suất lao động, tăng chất
lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất...Qua đó cạnh tranh nâng cao trình độ mọi
mặt của người lao động, nhất là đội ngũ quản trị kinh doanh, đồng thời sàng lọc và
đào thải những chủ thể kinh tế không thích nghi được với sự khắc nghiệt của thị
trường.
- Đối với người tiêu dùng: Cạnh tranh cho thấy những hàng hoá nào phù
hợp nhất với yêu cầu và khả năng thanh toán của người tiêu dùng bởi cạnh tranh
làm cho giá cả có xu hướng ngày càng giảm, lượng hàng hoá trên thị trường ngày
càng tăng, chất lượng tốt, hàng hoá đa dạng, phong phú. Như vậy cạnh tranh làm
lợi cho người tiêu dùng. Bên cạnh đó cạnh tranh còn đảm bảo rằng cả người sản
xuất và người tiêu dùng đều không thể dùng sức mạnh áp đặt ý muốn chủ quan
cho người khác. Nên nói cách khác, cạnh tranh còn có vai trò là một lực lượng
điều tiết thị trường.
Như vậy, cùng với tác động của các quy luật kinh tế khách quan khác, cạnh
tranh đã giúp các doanh nghiệp trả lời các câu hỏi: sản xuất cái gì, sản xuất cho ai
và sản xuất như thế nào một cách thoả đáng nhất. Vận dụng quy luật cạnh tranh,
Nhà Nước và doanh nghiệp có điều kiện hoạch định các chiến lược phát triển một
13
cách khoa học mà vẫn đảm bảo tính thực tiễn, chủ động hơn trong đối phó với mọi
biến động của thị trường.
*Về hạn chế:
Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, cạnh tranh cũng có một số hạn chế. Do
chạy theo lợi nhuận nên cạnh tranh có tác dụng không hoàn hảo, vừa là động lực
tăng trưởng kinh tế vừa bao hàm sức mạnh tàn phá mù quáng. Sự đào thải không
khoan nhượng những doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả của cạnh tranh
mặc dù phù hợp quy luật kinh tế khách quan nhưng lại gây ra những hậu quả kinh tế
xã hội như thất nghiệp gia tăng, mất ổn định xã hội.
Cạnh tranh là quá trình kinh tế mà các chủ thể sử dụng mọi biện pháp trong
đó có cả những thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh để giành chiến thắng trên
thương trường như gian lận, quảng cáo lừa gạt khách hàng, tình trạng cá lớn nuốt cá
bé, lũng đoạn thị trường. Cuối cùng cạnh tranh có xu hướng dẫn đến độc quyền làm
cho nền kinh tế phát triển theo chiều hướng không tốt.
Tuy nhiên do cạnh tranh đã, đang và sẽ luôn là phương thức hoạt động của
kinh tế thị trường nên chúng ta cần nhận thức được các vai trò tích cực và hạn chế
của cạnh tranh để vận dụng quy luật này sao cho hiệu quả nhất.
1.1.3. Các công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp
Trong hoạt động cạnh tranh trên thị trường doanh nghiệp có thể sử dụng các
công cụ cạnh tranh khác nhau để chiếm lĩnh thị trường, tăng tốc độ tiêu thụ sản
phẩm, tăng thị phần... Các công cụ thường được các doanh nghiệp sử dụng là chất
lượng sản phẩm, giá cả, hệ thống phân phối.
1.1.3.1. Chất lượng sản phẩm
Để có thể sử dụng công cụ chất lượng sản phẩm để cạnh tranh có hiệu quả
cần làm rõ thế nào là chất lượng sản phẩm. Cách hiểu về chất lượng sản phẩm ảnh
hưởng trực tiếp đến quản lý chất lượng sản phẩm. Bởi chất lượng sản phẩm là một
phạm trù khá rộng và phức tạp phản ánh tổng hợp các nội dung kinh tế, kỹ thuật và
xã hội.
14
Về phía khách hàng hoặc người tiêu dùng chất lượng sản phẩm được định
nghĩa là sự phù hợp và thoả mãn nhu cầu hoặc mục đích sử dụng của họ.
Về phía doanh nghiệp hoặc nhà sản xuất thì chất lượng sản phẩm là sự hoàn
hảo và phù hợp của sản phẩm với một tập hợp các yêu cầu hoặc tiêu chuẩn quy cách
đã xác định trước.
Nếu chỉ xét từ mỗi loại sản phẩm thì chất lượng sản phẩm được phản ánh bởi
các thuộc tính đặc trưng của sản phẩm đó. Chất lượng sản phẩm phụ thuộc số lượng
và chất lượng các thuộc tính được thiết kế đưa vào sản phẩm. Những thuộc tính đó
phản ánh công dụng hoặc giá trị sử dụng của sản phẩm và biểu hiện ở những chỉ
tiêu chất lượng cụ thể.
Nếu xét trên góc độ giá trị, chất lượng sản phẩm được hiểu là đại lượng đo
bằng tỷ số giữa lợi ích thu được từ tiêu dùng sản phẩm với chi phí phải bỏ ra để có
được lợi ích đó.
Dựa trên nghiên cứu các định nghĩa trên, tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá
(ISO) đã đưa ra định nghĩa chất lượng sản phẩm trong bộ tiêu chuẩn ISO 9000 như
sau: “Chất lượng sản phẩm là một tập hợp các thuộc tính của sản phẩm, tạo cho sản
phẩm đó khả năng thoả mãn yêu cầu đã nêu ra hoặc tiềm ẩn ”. Định nghĩa trên cho
thấy sự thống nhất giữa các thuộc tính nội tại của sản phẩm, các nhu cầu của khách
hàng, giữa các yêu cầu của người sản xuất và người tiêu dùng, giữa nhu cầu hiện tại
và kỳ vọng trong tương lai của khách hàng về sản phẩm. Vì vậy định nghĩa này
được chấp nhận và sử dụng rộng rãi trong các hoạt động kinh tế hiện nay.
Chất lượng sản phẩm có vai trò quan trọng trong cạnh tranh của mỗi doanh
nghiệp. Một trong các căn cứ quan trọng khi người tiêu dùng quyết định lựa chọn sử
dụng sản phẩm của doanh nghiệp là chất lượng sản phẩm. Theo M.Porter thì năng
lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp được thể hiện thông qua hai chiến lược cơ bản
là phân biệt hoá sản phẩm (chất lượng) và chi phí thấp. Vì vậy chất lượng sản phẩm
trở thành một trong những công cụ quan trọng nhất làm tăng năng lực cạnh tranh
cho doanh nghiệp.
15
Chất lượng sản phẩm thể hiện khả năng thỏa mãn nhu cầu khách hàng của
doanh nghiệp. Sản lượng tiêu thụ sẽ tăng cùng với sự gia tăng mức độ thoả mãn của
khách hàng. Đặc biệt khi trình độ xã hội ngày càng cao, xã hội ngày càng văn minh,
thị hiếu của người tiêu dùng đòi hỏi những sản phẩm có chất lượng cao về mọi mặt
chứ không chỉ đơn giản là tốt - bền - đẹp như trước kia. Như vậy chất lượng và cạnh
tranh là hai phạm trù luôn đi cùng và gắn bó chặt chẽ với nhau, chất lượng làm tăng
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và ngược lại năng lực cạnh tranh cao lại tạo
cơ sở tài chính và vật chất cần thiết cho nâng cao chất lượng sản phẩm.
Mặt khác trong nền kinh tế mở hiện nay, khi tham gia các tổ chức thương
mại quốc tế (AFTA, WTO...) cùng với các cơ hội kinh doanh là việc mỗi nước phải
dỡ bỏ khá nhiều các hàng rào thuế quan để hàng ngoại tràn vào cạnh tranh tự do
ngay trên sân nhà. Tuy vậy, không một quốc gia nào lại không tìm cách bảo hộ nền
sản xuất trong nước và một hàng rào mới lại được dựng lên. Đó là những tiêu chuẩn
khắt khe về chất lượng sản phẩm như giấy chứng nhận về mức độ phóng xạ cho
phép đối với hàng thực phẩm, chất lượng đóng gói bao bì, nhãn mác, giấy chứng
nhận xuất xứ hàng hoá... Các doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm không
chỉ để đảm bảo cạnh tranh thắng lợi trên sân nhà mà còn nhằm hướng tới khả năng
vươn ra thị trường quốc tế.
Để sử dụng có hiệu quả công cụ chất lượng sản phẩm nhằm nâng cao năng
lực cạnh tranh, doanh nghiệp cần làm tốt công tác quản lý chất lượng sản phẩm.
Quản lý chất lượng là các hoạt động có phối hợp để định hướng và kiểm soát một tổ
chức về chất lượng. Nói cách khác quản lý chất lượng sản phẩm bao gồm toàn bộ
các hoạt động từ việc xây dựng các quy trình đảm bảo chất lượng, thiết lập các văn
bản xác định trình tự và tương tác các quy trình, đảm bảo nguồn lực và thông tin
cần thiết, theo dõi kiểm tra và phân tích các quá trình nhằm đảm bảo mục tiêu chất
lượng đã đề ra. Và hệ thống quản lý chất lượng là một hệ thống để định hướng và
kiểm soát một tổ chức về chất lượng [8]. Đây là một hoạt động không thể thiếu đối
với mỗi doanh nghiệp để phát huy được lợi ích cạnh tranh đích thực từ sản phẩm.
16
Trên cơ sở nhận thức đầy đủ hơn về vai trò của chất lượng sản phẩm và quản
lý chất lượng, các doanh nghiệp cần xây dựng và tổ chức triển khai các hoạt động
đẩy nhanh quá trình cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm, tận dụng tốt nhất
công cụ này cho nâng cao năng lực cạnh tranh.
1.1.3.2. Giá cả
Giá cả là một phạm trù kinh tế khách quan phát sinh, phát triển cùng với sự
ra đời và phát triển của sản xuất hàng hoá. Ngày nay, giá cả hiện diện trong tất cả
các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, các ngành, các khu vực của nền kinh tế,
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Giá cả không chỉ là sự biểu hiện bằng tiền của giá
trị hàng hoá, nó còn biểu hiện tổng hợp các quan hệ kinh tế như cung cầu hàng hoá,
tích luỹ, tiêu dùng ... Vì vậy giá cả hình thành thông qua quan hệ cung cầu hàng
hoá, thông qua sự thoả thuận giữa người mua và người bán, giá được chấp nhận là
giá mà cả hai bên đều có lợi.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì giá bán sản phẩm là một trong
những công cụ quan trọng thường được sử dụng. Bởi giá bán sản phẩm có ảnh
hưởng trực tiếp đến sự hấp dẫn của sản phẩm và sản lượng tiêu thụ. Hai hàng hoá
có cùng công dụng chất lượng như nhau, khách hàng sẽ mua hàng hóa nào có giá
thấp hơn. Có nhiều chính sách giá khác nhau được doanh nghiệp sử dụng phù hợp
với sản phẩm, mục tiêu, tình hình thị trường và khả năng thanh toán của khách
hàng. Trong quá trình hình thành và xác định giá bán, doanh nghiệp có thể tham
khảo một số chính sách định giá sau:
- Chính sách định giá thấp: Là chính sách doanh nghiệp đưa ra mức giá thấp
hơn giá thị trường. Có hai cách áp dụng chính sách này:
+ Thứ nhất: Định giá thấp hơn giá thị trường nhưng vẫn cao hơn giá
thành sản phẩm. Doanh nghiệp sử dụng chính sách này khi sản phảm mới thâm
nhập thị trường, doanh nghiệp cần thu hút sự chú ý của khách hàng. Trường hợp
này doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận thấp.
+ Thứ hai: Chính sách định giá thấp hơn giá thị trường và thấp hơn giá
thành sản phẩm. Trường hợp này doanh nghiệp không có lợi nhuận nhưng sẽ đẩy
17
nhanh tốc độ tiêu thụ tăng nhanh vòng quay của vốn, làm cơ sở cho chính sách định
giá cao sau này.
- Chính sách định giá cao: Doanh nghiệp áp dụng mức giá cao hơn giá thị
trường và cao hơn giá thành sản phẩm trong trường hợp sản phẩm mới tung ra thị
trường, chưa có đối thủ cạnh tranh, người tiêu dùng chưa biết rõ về sản phẩm và
chưa có cơ hội so sánh về giá. Giai đoạn này doanh nghiệp sẽ tranh thủ chiếm lĩnh
thị trường sau đó sẽ hạ dần đến mức bằng hoặc thấp hơn giá thị trường nhưng vẫn
đảm bảo thu lợi nhuận.
- Chính sách ổn định giá: Theo chính sách này doanh nghiệp sẽ chọn một
mức giá vừa phải và áp dụng trong thời gian dài để tạo uy tín và củng cố niềm tin
của khách hàng về sự ổn định của sản phẩm. Nó giúp sản phẩm có những nét độc
đáo khác biệt với đối thủ cạnh tranh từ đó doanh nghiệp có điều kiện giữ vững và
mở rộng thị phần.
- Chính sách bán phá giá: Là chính sách doanh nghiệp bán hàng với mức giá
rất thấp, không có lợi nhuận, thậm chí không bù đắp được chi phí sản xuất làm cho
đối thủ không thể cạnh tranh được về giá và phải tự rút lui khỏi thị trường. Khi đó
doanh nghiệp độc chiếm thị trường và lại chủ động nâng giá lên. Chính sách này rất
nguy hiểm, ít được sử dụng vì nó là con dao hai lưỡi. Hiện nay bán phá giá được coi
là phương thức cạnh tranh không lành mạnh và bị cấm sử dụng.
- Chính sách phân biệt giá: Là chính sách đưa ra những mức giá khác nhau
đối với cùng một loại sản phẩm khi bán cho những đối tượng khác nhau, cho những
khu vực thị trường khác nhau, hoặc khách hàng mua với số lượng khác nhau hoặc
trong những thời điểm khác nhau. Chính sách này giúp doanh nghiệp thoả mãn
được nhiều đối tượng khách hàng có nhu cầu và khả năng thanh toán khác nhau, tạo
nên sự linh hoạt về giá để hấp dẫn khách hàng đồng thời vẫn đảm bảo bù đắp được
những chi phí phát sinh do sản xuất những sản phẩm có chất lượng cao hơn hoặc do
vận chuyển sản phẩm đến những địa điểm khác nhau.
Như vậy việc nghiên cứu và vận dụng chính sách định giá là một vấn đề khá
phức tạp đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải luôn linh hoạt và sáng tạo bởi giá cả không
chỉ được quyết định bởi giá trị hàng hoá mà còn phụ thuộc khả năng thanh toán của
18
khách hàng. Để có thể vận dụng thắng lợi chiến lược giá cả trong cạnh tranh cần
chú ý một số vấn đề sau:
- Việc định giá chỉ là một yếu tố trong chiến lược tổng hợp nhằm đem lại
doanh thu và đảm bảo sức cạnh tranh cho doanh nghiệp nên không nhất thiết phải
giảm giá hoặc tăng giá trong mọi trường hợp có biến động.
- Việc định giá phải gắn liền với chính sách chiếm giữ thị phần. Doanh
nghiệp phải coi chiếm giữ thị phần là mục tiêu chiến lược và việc định giá phải góp
phần thực hiện mục tiêu này.
- Chiến lược định giá phải gắn liền với chiến lược cắt giảm chi phí. Dù việc
định giá phải dựa trên nhiều căn cứ khác nhau song chi phí vẫn là một yếu tố quan
trọng để định giá.
- Chiến lược giá cả phải dựa trên cơ sở cạnh tranh vì vậy doanh nghiệp cần
quan tâm thích đáng đến sự thay đổi giá và chính sách giá của đối thủ cạnh tranh.
- Chiến lược giá cả phải gắn với chiến lược phân khúc thị trường để có thể áp
dụng những chính sách giá khác nhau cho phù hợp.
- Một số nhóm khách hàng sẵn sàng chấp nhận giá cao để được sử dụng
những sản phẩm có chất lượng cao và nhãn hiệu nổi tiếng vì vậy doanh nghiệp nên
thực hiện chính sách đặt giá cao đối với những sản phẩm này để củng cố uy tín cho
sản phẩm, không bỏ lỡ cơ hội tăng lợi nhuận nhưng cần đảm bảo cung cấp cho
người tiêu dùng đủ những gì đã hứa hẹn trong sản phẩm.
- Cần xây dựng hệ thống đo lường để đánh giá kết quả công tác định giá.
Đây là hoạt động không thể thiếu để đánh giá hiệu quả công tác định giá, qua đó
đưa ra những điều chỉnh kịp thời, đáp ứng mọi biến động của thị trường.
Tóm lại, chiến lược giá cả là một công cụ cạnh tranh sắc bén của doanh
nghiệp, ảnh hưởng không nhỏ đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vì vậy
mỗi doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ các chiến lược giá và hoạch định chiến lược
giá cả sao cho phù hợp với biến động của thị trường và mục tiêu phát triển của
doanh nghiệp.
1.1.3.3. Hệ thống phân phối.
19
Có thể hiểu kênh phân phối là một tập hợp các cá nhân và tổ chức tham gia
vào quá trình làm cho sản phẩm tới được với khách hàng. Nếu doanh nghiệp lựa
chọn kênh phân phối không hợp lý có thể sẽ làm giảm sản lượng tiêu thụ rất nhiều
và gặp thất bại trong cạnh tranh. Nhất là trong giai đoạn hiện nay kênh phân phối
càng thể hiện vai trò quan trọng của nó vì :
- Chi phí vận chuyển thường tăng lên sau mỗi lần biến động giá nhiên liệu.
Điều đó thúc đẩy mỗi doanh nghiệp tìm ra phương thức vận chuyển hợp lý nhất, tiết
kiệm nhất.
- Mặc dù khoa học kỹ thuật đang phát triển với tốc độ chóng mặt nhưng lợi thế
cạnh tranh dựa vào công nghệ dễ bị đối thủ bắt chước. Hơn nữa hiệu quả sản xuất
không thể tăng vô hạn, nó gần như đã đạt điểm tối đa nên các doanh nghiệp khó hy
vọng vượt trội ở mặt này do đó phải đặt hy vọng vào kênh phân phối.
- Các sản phẩm ngày càng đa dạng và phong phú về mẫu mã, chất lượng, kích
thước, vì vậy các công ty dễ gặp khó khăn khi muốn giao hàng cho khách đúng sản
phẩm vào đúng thời điểm mà họ cần. Nhiệm vụ này lại đặt lên vai của bộ phận phân
phối.
- Đã có nhiều thay đổi lớn trong phương pháp quản lý tồn kho. Hiện nay thay
vì để hàng hoá tồn kho với số lượng lớn dẫn tới tăng chi phí bảo quản và lưu kho,
các doanh nghiệp có xu hướng giảm tồn kho xuống mức cần thiết tối thiểu để giảm
chi phí. Điển hình nhất là phương pháp quản lý “vừa kịp lúc” của Nhật Bản đã giúp
các doanh nghiệp Nhật Bản có lợi thế cạnh tranh rất lớn và thắng được các doanh
nghiệp của Mỹ. Để thực hiện hiệu quả phương pháp quản lý này không gì hơn là
phải lựa chọn được kênh phân phối hợp lý nhất và tốt nhất.
- Để xây dựng hoặc thay đổi được một kênh phân phối cần rất nhiều công sức
và thời gian vì nó còn phụ thuộc nhiều nhân tố khách quan khác chứ không chỉ phụ
thuộc mong muốn chủ quan của doanh nghiệp. Trên thực tế để lựa chọn và tiến
hành xây dựng một kênh phân phối vận hành trơn tru có khi phải mất nhiều năm. Vì
vậy chọn kênh phân phối hợp lý sẽ đảm bảo khả năng tiêu thụ và duy trì sức cạnh
tranh trong doanh nghiệp.
20
Tuy có rất nhiều hình thức tiêu thụ nhưng đa số các sản phẩm là những máy
móc thiết bị, nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng trong quá trình tiêu thụ nói chung đều
thông qua một số kênh chủ yếu như bán trực tiếp, bán thông qua các công ty bán
buôn của mình và các hãng bán buôn độc lập, sử dụng mạng lưới bán lẻ của hãng,
bán qua các cửa hàng, các hãng bán lẻ độc lập hoặc bán hàng qua điện thoại, qua
mạng. Việc lựa chọn và xây dựng kênh phân phối phải dựa trên các kết quả nghiên
cứu các đặc điểm thị trường bao gồm đặc điểm của nhóm khách hàng (cá nhân, tổ
chức, khách hàng mục tiêu, khách hàng tiềm năng,...), đặc tính sản phẩm (tính dễ hư
hỏng, tính thời vụ, đặc điểm kỹ thuật của sản phẩm,...), đặc điểm môi trường (điều
kiện kinh tế, khả năng quản lý, các ràng buộc pháp lý, điều kiện địa lý,...).
Trong những năm gần đây có nhiều thay đổi trong lựa chọn kênh phân phối,
các doanh nghiệp có xu hướng chọn kênh phân phối trực tiếp. Hình thức này cho
phép phát triển các quan hệ hợp đồng và hệ thống các đơn hàng cá biệt. Việc thực
hiện lịch giao hàng theo quy định sẽ tạo điều kiện cho khách hàng giảm được lượng
dự trữ tồn kho. Điều đó cũng là tiền đề để phát triển sản xuất kinh doanh có tính đến
yêu cầu cụ thể của khách hàng.
1.1.4. Khái niệm và sự cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp.
1.1.4.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Ở phần trên ta đã nghiên cứu các định nghĩa về cạnh tranh, để có thể cạnh
tranh thắng lợi mỗi doanh nghiệp phải có năng lực cạnh tranh nhất định. Vậy thế
nào là năng lực cạnh tranh? Các học giả và giới chuyên môn vẫn chưa có một sự
nhất trí cao về định nghĩa này.
Khi các chủ thể cạnh tranh với nhau để giành lợi thế về phía mình, các chủ
thể phải áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp nhằm duy trì và phát triển vị thế của
mình trên thị trường. Các biện pháp này thể hiện một sức mạnh nào đó, một khả
năng nào đó hoặc một năng lực nào đó của chủ thể được gọi là năng lực cạnh tranh
của chủ thể đó. Khi muốn chỉ một sức mạnh, một khả năng duy trì được vị trí của
một hàng hoá nào đó trên thị trường người ta cũng dùng thuật ngữ năng lực cạnh
21
tranh của hàng hoá, đó cũng là chỉ mức độ hấp dẫn của hàng hoá đó đối với khách
hàng. Có tác giả sau khi phân tích bản chất năng lực cạnh tranh đã đi đến kết luận
“năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện thực lực và lợi thế so sánh của nó
so với đối thủ khác trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu
lợi ích ngày càng cao cho doanh nghiệp của mình.”
Có quan điểm đã cho rằng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng
giành được và duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định.
Các quan niệm xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau nhưng đều liên quan đến
hai khía cạnh là chiếm lĩnh thị trường và lợi nhuận. Như vậy năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp có thể được hiểu là “khả năng tồn tại, duy trì hoặc gia tăng lợi
nhuận, thị phần trên thị trường của các sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp”.
Ở đây chúng ta cần phân biệt năng lực cạnh tranh của hàng hoá, năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của quốc gia.
Năng lực cạnh tranh của hàng hoá có thể hiểu khái quát là tổng thể các yếu tố
gắn trực tiếp với hàng hoá cùng với các điều kiện, công cụ và biện pháp cấu thành
khả năng cạnh tranh được chủ thể dùng trong ganh đua với nhau nhằm chiếm lĩnh
thị trường, giành khách hàng và đem lại nhiều lợi ích cho chủ thể tham gia cạnh
tranh.
Còn năng lực cạnh tranh quốc gia, theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF)
cho rằng “khả năng cạnh tranh của một quốc gia là khả năng đạt và duy trì được
mức tăng trưởng trên cơ sở các chính sách thể chế vững bền tương đối và các đặc
trưng kinh tế khác”.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của sản phẩm
khác nhau ở chỗ doanh nghiệp là một tổ chức chặt chẽ, có thể đồng thời sản xuất
nhiều mặt hàng với năng lực cạnh tranh khác nhau. Năng lực cạnh tranh của sản
phẩm thể hiện năng lực của sản phẩm đó thay thế một sản phẩm khác đồng nhất
hoặc khác biệt, có thể do đặc tính chất lượng sản phẩm hoặc giá cả sản phẩm. Năng
lực cạnh tranh của sản phẩm là một trong những yếu tố cấu thành năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp.
22
Trong khi đó cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có thể diễn ra khi họ cung
ứng những sản phẩm hoàn toàn giống nhau hoặc khác nhau và có thể thay thế cho
nhau. Nếu doanh nghiệp nào bán được nhiều sản phẩm hơn và ngày càng chiếm
nhiều thị phần hơn so với đối thủ thì doanh nghiệp đó có năng lực cạnh tranh cao
hơn.
Năng lực cạnh tranh quốc gia là tổng hợp năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp trong quốc gia đó. Vì vậy hai vấn đề này luôn có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Và nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp là một trong những vấn đề then
chốt mà mỗi doanh nghiệp nói riêng và mỗi quốc gia nói chung luôn quan tâm trong
giai đoạn hiện nay.
1.1.4.2. Sự cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang thúc đẩy mạnh mẽ, sâu sắc quá
trình chuyên môn hoá và hợp tác quốc tế, lực lượng sản xuất lớn mạnh đang được
quốc tế hoá. Công nghệ thông tin làm cho nền kinh tế thế giới gắn bó, ràng buộc lẫn
nhau dẫn tới không một quốc gia nào, một nền kinh tế dân tộc nào muốn phát triển
mà có thể tách rời khỏi hệ thống kinh tế thế giới, không hoà nhập vào sự vận động
chung của nền kinh tế thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế
của nước mình với kinh tế khu vực và thế giới, tham gia vào phân công lao động
quốc tế, gia nhập các tổ chức kinh tế song phương và đa phương, chấp nhận tuân
thủ những quy định chung được hình thành trong quá trình hợp tác và đấu tranh
giữa các thành viên của tổ chức. Trong quá trình hội nhập, các nước tham gia đều
phải tuân theo những luật chơi chung khá phức tạp được thể hiện trong nhiều điều
ước quốc tế:
Một là: Khái niệm thương mại đã được mở rộng, không chỉ gồm thương mại
các hàng hoá và dịch vụ thông thường mà còn bao gồm cả các lĩnh vực đầu tư bản
quyền, tư vấn, sở hữu trí tuệ...Nói cách khác các hàng hoá được buôn bán hiện nay
không chỉ bao gồm phần cứng mà còn cả phần mềm, trong đó phần mềm ngày càng
quan trọng hơn.
Hai là: Khi gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế, các quốc gia đều phải giảm
thiểu, thậm chí xoá bỏ hàng rào thuế quan. Ví dụ trong khuôn khổ AFTA, các nước
23
thành viên cam kết cắt giảm thuế quan xuống mức từ 0 đến 5% theo một lộ trình
nhất định [18]. Trong khuôn khổ WTO các nước công nghiệp phát triển phải giảm
thuế xuất nhập khẩu hàng công nghiệp xuống 3 đến 4%, hàng nông sản chỉ còn 6%.
Các nước đang phát triển được duy trì mức thuế suất cao hơn, khoảng 10 đến 12%.
Ba là: Giảm dần tiến tới xoá bỏ hàng rào phi thuế quan. Chỉ được áp dụng
một số biện pháp hạn chế để bảo vệ môi trường, vệ sinh, bản sắc văn hoá, an ninh.
Ngày nay, khi chất xám chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong sản phẩm, việc bảo hộ
bản quyền sở hữu trí tuệ, nhãn mác sản phẩm được quy định rất chặt chẽ.
Bốn là: Nhà Nước không được bao cấp cho doanh nghiệp, chỉ đối với nông
sản thì được phép bao cấp ở một số khâu hỗ trợ sản xuất.
Năm là: Mở cửa thị trường cho các doanh nghiệp nước ngoài vào kinh
doanh, tạo sân chơi bình đẳng cho doanh nghiệp trong và ngoài nước. Hệ thống luật
pháp về kinh tế - thương mại phải rõ ràng công khai.
Sáu là: Các nước đang phát triển, các nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế
hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường được hưởng một số ưu đãi về cam kết và
thời gian thực hiện.
Nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp và sự phát triển của doanh
nghiệp có sự tác động qua lại hỗ trợ lẫn nhau:
- Nâng cao năng lực cạnh tranh giúp doanh nghiệp phát triển và hội nhập. Nó
sẽ thúc đẩy tiến trình phát triển của doanh nghiệp bởi năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp tỷ lệ thuận với tốc độ phát triển của doanh nghiệp. Nó còn giúp doanh
nghiệp hội nhập kinh tế thuận lợi cả về chiều rộng và chiều sâu một cách chủ động.
- Khi doanh nghiệp đứng vững và phát triển sẽ tạo điều kiện ngược lại để
doanh nghiệp nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của mình. Bởi những thành tựu
của sự phát triển sẽ giúp doanh nghiệp có thêm nhiều cơ hội kinh doanh, có đủ khả
năng về nguồn lực để tiếp cận những tiến bộ về kỹ thuật, công nghệ mới, về tổ chức
quản lý sản xuất kinh doanh.
Trong giai đoạn hiện nay vấn đề có tính chất quyết định là mỗi doanh nghiệp
phải luôn phấn đấu nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để sẵn sàng nắm lấy cơ
24
hội và đủ khả năng đối mặt với các thách thức trong quá trình hội nhập để tồn tại và
phát triển bền vững.
1.2. PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH
NGHIỆP
Để lựa chọn các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp cần có các tiêu chí định lượng và định tính để đo lường và đánh giá
năng lực cạnh tranh. Có nhiều tiêu chí có thể sử dụng, trong đó tiêu chí được sử
dụng phổ biến nhất và có thể phản ánh tương đối đầy đủ và sát thực về năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp là thương hiệu và thị phần, chi phí sản xuất, tỷ suất lợi
nhuận.
1.2.1. Thương hiệu và thị phần của doanh nghiệp
Trong quá trình phát triển sản xuất và lưu thông, các nhà sản xuất hoặc cung
ứng dịch vụ đã đặc định hàng hóa của mình bằng cách sử dụng những dấu hiệu dưới
hình thức nào đó để thể hiện. Những dấu hiệu đó được gọi là thương hiệu, được nhà
sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ sử dụng trong thương mại nhằm ám chỉ sự liên
quan giữa hàng hóa và dịch vụ với người có quyền sử dụng dấu hiệu đó với tư cách
là người chủ sở hữu hoặc đăng ký thương hiệu.
Theo định nghĩa của Hiệp hội Marketting Hoa Kỳ “thương hiệu là một cái
tên, một từ ngữ, một dấu hiệu, một biểu tượng, một hình vẽ hoặc tổng hợp tất cả các
yếu tố trên nhằm xác định một sản phẩm hoặc dịch vụ của một (hoặc một nhóm
người) và phân biệt sản phẩm dịch vụ đó với các đối thủ cạnh tranh” [2]. Có thể nói
thương hiệu là hình thức thể hiện bên ngoài tạo ra ấn tượng, thể hiện cái bên trong
cho sản phẩm hoặc doanh nghiệp. Thương hiệu tạo ra nhận thức và niềm tin của
người tiêu dùng đối với sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp cung ứng. Giá trị của
một thương hiệu là triển vọng lợi nhuận mà thương hiệu đó có thể đem lại cho nhà
sản xuất trong tương lai. Nói cách khác thương hiệu là tài sản vô hình của doanh
nghiệp. Ví dụ, khi nói đến cà phê người ta nghĩ ngay đến Trung Nguyên, khi nói
đến xe máy người ta nghĩ ngay đến Honda, khi nói đến máy vi tính người ta nghĩ
25
ngay đến Microsoft, đó chính là thương hiệu. Tên hàng hóa gắn với thương hiệu trở
thành một cụm từ dễ nhớ và làm cho khách hàng nhớ đến doanh nghiệp.
Xây dựng thương hiệu là vấn đề đòi hỏi thời gian, khả năng tài chính và ý chí
không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Một doanh nghiệp có năng
lực cạnh tranh cao cũng có nghĩa là họ đã xây dựng được thương hiệu mạnh, thương
hiệu đó luôn được khách hàng nhớ và nhận biết rõ ràng. Một thương hiệu mạnh là
một thương hiệu có thể tạo được sự thích thú cho khách hàng mục tiêu, làm cho họ
tiêu dùng và tiếp tục tiêu dùng nó. Nếu khách hàng đã đam mê thích thú một thương
hiệu, họ sẽ trung thành với thương hiệu đó và như vậy doanh nghiệp đã đạt được
mục tiêu cạnh tranh của mình.
Qua việc xây dựng thành công một thương hiệu người ta có thể đánh giá về
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đó vì:
- Thương hiệu làm cho khách hàng tin tưởng vào chất lượng, yên tâm và tự
hào khi sử dụng thương hiệu.
- Thương hiệu tốt giúp tạo dựng hình ảnh công ty, thu hút khách hàng mới,
vốn đầu tư, thu hút nhân tài.
- Thương hiệu tốt giúp phân phối sản phẩm dễ dàng hơn, tạo thuận lợi khi
tìm thị trường mới.
- Uy tín cao của thương hiệu tạo lòng trung thành của khách hàng đối với sản
phẩm, đem lại lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp, giúp cho việc triển khai khuếch
trương sản phẩm dễ dàng hơn, đòng thời giảm chi phí tiếp thị, giúp doanh nghiệp có
điều kiện phòng thủ, chống lại sự cạnh tranh quyết liệt về giá.
- Thương hiệu của người bán khi đã đăng ký bao hàm sự bảo hộ của pháp
luật đối với những tính chất độc đáo của sản phẩm trước những sản phẩm bị đối thủ
cạnh tranh bắt chước.
Để có một thương hiệu mạnh doanh nghiệp phải xây dựng một chiến lược về
thương hiệu nằm trong chiến lược marketting tổng thể căn cứ các kết quả về nghiên
cứu thị trường, đồng thời phải đăng ký thương hiệu trong và ngoài nước. Như vậy
thương hiệu mới trở thành một tài sản thực sự có giá trị đối với doanh nghiệp.
26
Cùng với thương hiệu, thị phần cũng là một chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp. Thị phần của doanh nghiệp là tỷ trọng giữa số hàng hóa của
doanh nghiệp so với tổng số hàng hóa được bán trên thị trường. Hoặc là tỷ trọng
giữa doanh thu của doanh nghiệp về một loại sản phẩm nào đó so với tổng doanh
thu sản phẩm đó trên thị trường. Thị phần tương đối là tỷ lệ so sánh giữa doanh thu
của doanh nghiệp với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất. Nó cho biết vị thế của doanh
nghiệp trên thị trường. Doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao sẽ chiếm được thị
phần tương ứng với năng lực cạnh tranh đó và có nhiều khả năng tăng thị phần. Thị
phần là một loại tài sản vô hình của doanh nghiệp, để giành và giữ vững được thị
phần đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự nỗ lực không ngừng trong việc sản xuất các
sản phẩm đáp ứng yêu cầu của thị trường, làn tốt công tác marketting và đảm bảo
chất lượng sản phẩm như đã hứa. Năm 1997, kem đánh răng P/S có thị phần khoảng
80 đến 90% thị trường kem đánh răng Việt Nam, khi tham gia liên doanh góp 8
triệu đô la trong đó tài sản cố định hữu hình là đất được đánh giá 3,5 triệu đô la, còn
tài sản cố định vô hình là thị phần trên thị trường Việt Nam được đánh giá 4,5 triệu
đô la. Điều đó cho thấy, P/S có năng lực cạnh tranh cao và năng lực cạnh tranh đó
giúp P/S chiếm được một thị phần đáng kể, nó thực sự trở thành tài sản và là thế
mạnh của P/S.
1.2.2. Chi phí sản xuất.
Cạnh tranh thắng lợi trên thị trường, nói cách khác là có năng lực cạnh tranh
cao được thể hiện ở kết quả tuyệt đối là tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Trong
điều kiện hiện nay, khi giá cả hàng hóa có xu hướng giảm xuống, để tăng lợi nhuận
doanh nghiệp phải tìm mọi cách giảm chi phí sản xuất. Chi phí sản xuất cho đơn vị
sản phẩm là toàn bộ các chi phí về nguyên vật liệu, lao động, máy móc thiết bị và
các chi phí khác doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Một
loại sản phẩm có chất lượng tương đương, doanh nghiệp nào sản xuất với chi phí
thấp hơn có thể bán với giá thấp mà vẫn đảm bảo mục tiêu lợi nhuận. Trong trường
hợp phải cạnh tranh gay gắt về giá thì doanh nghiệp nào có chi phí thấp sẽ có lợi
thế, nhất là đối với những sản phẩm nhạy cảm về giá.
27
Giảm chi phí sản xuất là quá trình doanh nghiệp tìm mọi biện pháp về kỹ
thuật, công nghệ, quản lý, tổ chức để làm cho hao phí cá biệt của doanh nghiệp nhỏ
hơn hao phí xã hội. Nhất là hoạt động đầu tư cho máy móc thiết bị và công nghệ,
nếu lựa chọn và thực hiện tốt một dự án sẽ có tác dụng giảm chi phí một cách hiệu
quả và lâu dài, ngược lại, hoạt động đầu tư thiếu tính toán sẽ tăng thêm gánh nặng
chi phí cho doanh nghiệp và sẽ rất khó khắc phục. Quá trình này đòi hỏi phải có
những nỗ lực thực sự bởi để thực hiện giảm chi phí cho mục tiêu nâng cao năng lực
cạnh tranh, doanh nghiệp phải xem xét nghiên cứu kỹ và giảm chi phí đúng lúc,
đúng chỗ. Những chi phí nào là chi phí tạo ra giá trị gia tăng cho doanh nghiệp thì
không thể cắt giảm, những chi phí nào bất hợp lý không tạo ra giá trị gia tăng cho
doanh nghiệp thì phải giảm triệt để. Điều này đòi hỏi phải quản lý rất tốt tổng chi
phí và kết cấu chi phí của doanh nghiệp.
Để đạt được hiệu quả bền vững phải đảm bảo các mối quan hệ tốc độ tăng
năng lực sản xuất luôn luôn lớn hơn tốc độ tăng chi phí đầu tư hoặc đảm bảo được
mối tương quan mức biến động doanh thu phải luôn lớn hơn mức biến động chi phí.
1.2.3. Tỷ suất lợi nhuận
Để lượng hóa hiệu quả sản xuất kinh doanh người ta thường sử dụng các chỉ
tiêu tỷ suất lợi nhuận.
- Chỉ tiêu Tỷ suất lợi nhuận / Vốn kinh doanh = Lợi nhuận trước (hoặc sau
thuế) / Vốn kinh doanh cho biết mức sinh lời của một đồng vốn bỏ ra từ đó đánh giá
hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Tỷ suất lợi nhuận cần bù đắp được chi phí cơ hội
của việc sử dụng vốn. Thông thường một đồng vốn được coi là sử dụng có hiệu quả
nếu tỷ lệ nói trên cao hơn mức sinh lời khi đầu tư vào các cơ hội khác, hoặc ít nhất
phải cao lãi suất tín dụng ngân hàng.
- Chỉ tiêu Tỷ suất lợi nhuận / Vốn lưu động = Lợi nhuận trước (hoặc sau
thuế) / Vốn lưu động cho thấy mức sinh lời của vốn lưu động.
- Chỉ tiêu Tỷ suất lợi nhuận / Vốn cố định = Lợi nhuận trước (hoặc sau thuế)
/ Vốn cố định cho thấy mức sinh lời của vốn cố định.
28
- Chỉ tiêu Tỷ suất lợi nhuận / Doanh thu = Lợi nhuận trước (hoặc sau thuế) /
Doanh thu giúp doanh nghiệp biết được trong một đồng doanh thu của doanh
nghiệp có bao nhiêu đồng lợi nhuận.
- Chỉ tiêu Tỷ suất lợi nhuận / Vốn chủ sở hữu = Lợi nhuận sau thuế / Vốn
chủ sở hữu cho thấy hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu.
Tuỳ thuộc yêu cầu phân tích có thể lựa chọn sử dụng các chỉ tiêu thích hợp
để đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Đồng thời có thể so sánh tỷ suất lợi nhuận giữa các năm để thấy được sự gia
tăng lợi nhuận một cách tổng quát. Nếu tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp tương
đương hoặc cao hơn tỷ suất lợi nhuận của ngành thì doanh nghiệp đó được coi là có
năng lực cạnh tranh cao.
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
DOANH NGHIỆP.
Năng lực cạnh tranh mà doanh nghiệp có được là do sự phấn đấu bền bỉ và
lâu dài của doanh nghiệp. Nó là kết quả của rất nhiều hoạt động thực hiện theo
chiến lược cạnh tranh đã đề ra và phụ thuộc vào nhiều nhân tố bên trong và bên
ngoài doanh nghiệp.
1.3.1. Các nhân tố bên trong
1.3.1.1. Tài chính
Nguồn lực tài chính là vấn đề không thể không nhắc đến bởi nó có vai trò
quyết định đến hoạt động cạnh tranh của doanh nghiệp. Trước hết, nguồn lực tài
chính được thể hiện ở quy mô vốn tự có, khả năng huy động các nguồn vốn phục vụ
sản xuất kinh doanh và hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đó. Quy mô vốn tự có phụ
thuộc quá trình tích luỹ của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả,
lợi nhuận hàng năm cao, phần lợi nhuận để lại tái đầu tư cho sản xuất kinh doanh sẽ
lớn và quy mô vốn tự có sẽ tăng. Doanh nghiệp có quy mô vốn tự có lớn cho thấy
khả năng tự chủ về tài chính và chiếm được lòng tin của nhà cung cấp, chủ đầu tư
và khách hàng… Doanh nghiệp nên phấn đấu tăng vốn tự có lên một mức nhất định
29
đủ đảm bảo khả năng thanh toán nhưng vẫn đủ kích thích để doanh nghiệp tận dụng
đòn bẩy tài chính làm tăng lợi nhuận.
Để đáp ứng các yêu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có
thể huy động vốn từ rất nhiều nguồn, chiếm dụng tạm thời của các nhà cung cấp,
hoặc khách hàng, vay các tổ chức tài chính hoặc huy động vốn trên thị trường
chứng khoán. Khả năng huy động vốn của doanh nghiệp phụ thuộc vào mối quan hệ
của doanh nghiệp với các bên cung ứng vốn và sự phát triển của thị trường tài
chính. Nếu thị trường tài chính phát triển mạnh, tạo được nhiều kênh huy động với
những công cụ phong phú sẽ mở ra nhiều cơ hội đầu tư phát triển cho doanh nghiệp.
Lựa chọn phương thức huy động vốn hợp lý sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng
cường sức mạnh tài chính.
Mặt khác để đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp cũng cần xem xét
kết cấu vốn cố định và vốn lưu động của doanh nghiệp. Kết cấu vốn hợp lý sẽ có tác
dụng đòn bẩy góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Có những doanh nghiệp có
quy mô vốn lớn nhưng không mạnh, đó là do kết cấu tài sản và nguồn vốn không
phù hợp với quy mô và đặc điểm sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp đó chưa biết
cách khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính của mình. Ngược lại, có
những doanh nghiệp có quy mô vốn không lớn nhưng vẫn được coi là mạnh vì
doanh nghiệp đó đã duy trì được tình trạng tài chính tốt, biết cách huy động những
nguồn tài chính thích hợp để sản xuất những sản phẩm đáp ứng các nhu cầu của thị
trường mục tiêu. Một doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh sẽ có điều kiện
thuận lợi trong đổi mới công nghệ, đầu tư trang thiết bị, nâng cao chất lượng, hạ giá
thành sản phẩm, giữ vững được sức cạnh tranh và củng cố vị thế của mình trên thị
trường.
1.3.1.2 Máy móc thiết bị và công nghệ
Máy móc thiết bị là bộ phận chủ yếu và quan trọng nhất trong tài sản cố
định, nó là những cơ sở vật chất kỹ thuật chủ yếu quyết định năng lực sản xuất của
doanh nghiệp, là nhân tố đảm bảo năng lực cạnh tranh. Nếu máy móc thiết bị và
trình độ công nghệ thấp kém sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chất lượng sản
phẩm, làm tăng các chi phí sản xuất. sản phẩm của doanhnghiệp sẽ không đạt các
30
yêu cầu về tiêu chuẩn hoá và thống nhất hóa sẽ rất khó xuất khẩu, tham gia vào thị
trường khu vực và thế giới.
Để đánh giá về năng lực máy móc thiết bị và công nghệ có thể dựa vào các
đặc tính sau:
-Tính hiện đại của thiết bị công nghệ: Biểu hiện ở các thông số như hãng sản
xuất, năm sản xuất, công suất thiết kế, giá trị còn lại của thiết bị.
-Tính đồng bộ : Thiết bị đồng bộ là điều kiện đảm bảo sự phù hợp giữa thiết
bị, công nghệ với phương pháp sản xuất, với chất lượng và độ phức tạp của sản
phẩm do công nghệ đó sản xuất ra.
-Tính hiệu quả : Thể hiện trình độ sử dụng máy móc thiết bị sẵn có để phục
vụ mục tiêu cạnh tranh của doanh nghiệp.
-Tính đổi mới : Hoạt động sản xuất kinh doanh luôn có nhiều biến động, máy
móc thiết bị phải thích ứng được với yêu cầu sản xuất kinh doanh của từng giai
đoạn, từng phương án sản xuất kinh doanh, nếu máy móc thiết bị không thể sử dụng
linh hoạt và chậm đổi mới thì sẽ không đảm bảo năng lực cạnh tranh cho doanh
nghiệp.
Cùng với máy móc thiết bị, công nghệ là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Theo M. Porter mỗi doanh nghiệp phải làm
chủ hoặc ít ra là có khả năng tiếp thu các công nghệ có ảnh hưởng trực tiếp tới chất
lượng sản phẩm. Không đơn giản là việc có được công nghệ mà điều quan trọng
hơn là khả năng áp dụng công nghệ, đó mới là nguồn gốc của lợi thế cạnh tranh. Để
áp dụng được công nghệ, các doanh nghiệp phải kết hợp nhiều yếu tố khác nữa.
Người đi đầu vào thị trường công nghệ mới chưa chắc là người chiến thắng. Người
chiến thắng là người biết làm thế nào để công nghệ đó áp dụng rộng rãi trong doanh
nghiệp [35].
Có thể khẳng định một doanh nghiệp với hệ thống máy móc thiết bị và công
nghệ tiên tiến cộng với khả năng quản lý tốt sẽ tạo ra sản phẩm có chất lượng cao,
giá thành hạ và đảm bảo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp.
1.3.1.3. Nguồn nhân lực
31
Nhân tố con người là vô cùng quan trọng đối với hoạt động của mỗi doanh
nghiệp, để quản lý tốt các hoạt động sản xuất kinh doanh trước hết phải làm tốt
công tác về quản lý nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực không đảm bảo về số lượng và
chất lượng là nguyên nhân giảm sút năng suất và chất lượng sản phẩm. Làm tốt
công tác quản lý nguồn nhân lực là con đường dẫn tới thành công của các doanh
nghiệp bởi quản lý nguồn nhân lực giúp doanh nghịêp khai thác được mọi tiềm
năng của người lao động đóng góp vào sự phát triển, sử dụng chi phí tiền lương một
cách hiệu quả nhất, ngăn chặn mọi sự di chuyển lao động ra khỏi doanh nghiệp làm
ảnh hưởng đến hoạt động của bộ máy.
Nguồn nhân lực của doanh nghiệp cần đáp ứng được các yêu cầu về chuyên
môn, nghiệp vụ, trình độ đối với từng vị trí làm việc. Yêu cầu đối với giám đốc và
quản trị viên các cấp không chỉ cần trình độ về nghiệp vụ mà còn phải có khả năng
sáng tạo, tinh thần trách nhiệm, sự nhanh nhẹn, linh hoạt trong thu thập và xử lý
thông tin, sáng suốt dự báo và đối phó với các biến động của thương trường. Chất
lượng nguồn nhân lực của doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả sản xuất
kinh doanh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
- Ban giám đốc doanh nghiệp: Là những người vạch ra các chiến lược kinh
doanh, trực tiếp điều hành và tổ chức sản xuất kinh doanh, quyết định sự thành công
hay thất bại của một doanh nghiệp. Những thành viên của ban giám đốc cần có kinh
nghiệm lãnh đạo, trình độ và hiểu biết về các hoạt động của doanh nghiệp, biết cách
động viên sức mạnh tập thể cùng phấn đấu cho sự nghiệp chung.
- Cán bộ quản trị cấp trung gian và cấp cơ sở: Là những người trực tiếp điều
hành và thực hiện các kế hoạch, phương án kinh doanh do ban giám đốc đề ra. Họ
góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp của doanh nghiệp. Họ cần thành thạo chuyên
môn và có kinh nghiệm quản lý, năng động, có khả năng ra quyết định và tham mưu
cho ban giám đốc.
- Đội ngũ công nhân: Để đứng vững trên thị trường không chỉ cần cán bộ
lãnh đạo giỏi mà còn cần có đội ngũ công nhân lành nghề, trung thực và sáng tạo.
Họ là những người trực tiếp tạo nên chất lượng sản phẩm, lòng hăng say nhiệt tình
làm việc của họ là yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
32
1.3.1.4. Khả năng liên doanh liên kết của doanh nghiệp.
Liên doanh liên kết là sự kết hợp hai hay nhiều pháp nhân kinh tế để tạo ra
một pháp nhân mới có sức mạnh tổng hợp về kinh nghiệm và khả năng tài chính.
Đây là một trong những yếu tố đánh giá năng lực của doanh nghiệp. Nhất là đối với
những doanh nghiệp thường tham gia các dự án với quy mô lớn, những yêu cầu đôi
khi vượt năng lực một doanh nghiệp đơn lẻ trong cạnh tranh. Để tăng năng lực cạnh
tranh trên thị trường vấn đề mở rộng các quan hệ liên doanh liên kết dưới nhiều
hình thức thích hợp là giải pháp quan trọng và thích hợp. Qua đó doanh nghiệp có
thể đáp ứng một cách toàn diện những yêu cầu của dự án có quy mô lớn và độ phức
tạp cao.
Liên doanh liên kết có thể thực hiện theo chiều ngang, tức là doanh nghiệp sẽ
liên kết với các doanh nghiệp cùng ngành để đảm nhận các dự án lớn. Liên kết theo
chiều dọc là hình thức liên kết với các doanh nghiệp sản xuất nguyên vật liệu hoặc
trang thiết bị nhờ đó có thể giảm giá thành sản phẩm. Dù liên doanh liên kết dưới
hình thứ nào cũng đều dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi.
Liên doanh liên kết tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể đi sâu chuyên môn
hóa, khai thác được những thế mạnh, khắc phục những điểm yếu, thích ứng với cơ
chế thị trường, thúc đẩy ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, từ đó nâng cao năng
lực cạnh tranh cho doanh nghiệp.
1.3.2. Các nhân tố bên ngoài
Các nhân tố bên ngoài có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động
cạnh tranh của doanh nghiệp là khách hàng (người mua), nhà cung cấp, đối thủ cạnh
tranh, môi trường vĩ mô.
1.3.2.1. Khách hàng
Thị trường hay nói chính xác là khách hàng là nơi bắt đầu và cũng là nơi kết
thúc quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp. Căn cứ vào nhu cầu của khấch hàng,
doanh nghiệp đưa ra các quyết định sản xuất và khi quá trình sản xuất kết thúc, sản
phẩm của doanh nghiệp lại được đưa ra thị trường để đáp ứng các nhu cầu đó. Số
lượng khách hàng quyết định quy mô thị trường hàng hoá của doanh nghiệp. Nếu
33
quy mô thị trường lớn, doanh nghiệp có thể tăng đầu tư sản xuất sản phẩm, chiếm
lĩnh thị trường và tăng sản lượng bán.
Bên cạnh đó, khả năng thanh toán của khách hàng sẽ quyết định sức mua
hàng hoá của doanh nghiệp. Nếu khách hàng có khả năng thanh toán cao, đó là một
thị trường có nhiều tiềm năng, doanh nghiệp có thể tăng cường cải tiến mẫu mã,
tăng chất lượng sản phẩm đẩy mạnh xúc tiến bán hàng để mở rộng thị trường. Để
lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp luôn phải căn cứ vào nhu
cầu và sức mua của thị trường. Đặc tính của nhu cầu có vai trò quyết định hình
thành đặc tính của sản phẩm và tạo ra những áp lực để nâng cao chất lượng, gia tăng
giá trị sử dụng và phát triển sản phẩm mới.
Khách hàng hoặc người mua của mỗi doanh nghiệp có thể là người tiêu dùng
(nếu sản xuất hàng tiêu dùng), có thể là các doanh nghiệp, tổ chức (nếu sản xuất
nguyên vật liệu, máy móc thiết bị…), có thể là các chủ đầu tư (nếu doanh nghiệp
nhận thầu các dự án, công trình…). Mặc dù đối tượng có thể khác nhau song người
mua nói chung có xu hướng muốn tối hóa lợi ích của mình với chi phí thấp nhất nên
họ luôn tìm mọi cách gây áp lực để doanh nghiệp giảm giá hàng hóa, mặc cả để có
chất lượng tốt hơn và được phục vụ nhiều hơn. Cơ sở để đưa ra quyết định mua bán
là bình đẳng, đôi bên đều có lợi nhưng do sức ép cạnh tranh doanh nghiệp luôn phải
đối mặt với những đòi hỏi của khách hàng. Để phòng thủ trước những sức ép đó,
việc phải xem xét lựa chọn nhóm khách hàng mục tiêu là một quyết định rất quan
trọng đảm bảo sự tồn tại của doanh nghiệp.
Hơn nữa không chỉ đơn giản là đáp ứng tốt mọi nhu cầu khi khách hàng cần.
Doanh nghiệp cần xây dựng được mối quan hệ bền vững với khách hàng, nhất là
xây dựng quan hệ bạn hàng tin cậy với những khách hàng lớn, có nhu cầu sử dụng
sản phẩm của doanh nghiệp một cách ổn định và lâu dài. Việc doanh nghiệp sử
dụng linh hoạt các chính sách ưu đãi về giá cả, thời gian giao hàng, phương tiện vận
chuyển, khuyến mại,... với những khách hàng lớn, khách hàng truyền thống rất có
sức hấp dẫn và củng cố sự tin cậy lẫn nhau. Nhờ vậy duy trì được thị phần hiện có
và tăng khả năng mở rộng thị phần cho doanh nghiệp. Giữ được khách hàng là một
yếu tố thể hiện năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp.
34
1.3.2.2. Nhà cung cấp
Hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp không thể thiếu được
các yếu tố đầu vào, đó là vật tư, máy móc thiết bị, vốn,…Vai trò của nhà cung cấp
đối với doanh nghiệp thể hiện ở áp lực về giá các yếu tố đầu vào. Giữa nhà cung cấp
và doanh nghiệp thường diễn ra các cuộc thương lượng về giá cả, chất lượng và thời
gian giao hàng. Nhà cung cấp có nhiều cách để tác động đến khả năng thu lợi nhuận
của các doanh nghiệp như nâng giá, giảm chất lượng vật tư kỹ thuật mà họ cung
ứng, không đảm bảo tiến độ giao hàng theo yêu cầu, gây ra sự khan hiếm giả tạo.
Nếu trên thị trường có nhiều nhà cung cấp thì doanh nghiệp có thể lựa chọn
nhà cung cấp, điều đó tạo ra sự cạnh tranh trên thị trường yếu tố đầu vào, có tác
dụng làm giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp. Thế mạnh của nhà cung cấp tăng
lên nếu số lượng nhà cung cấp ít, không có hàng thay thế, doanh nghiệp không phải
là khách hàng quan trọng của nhà cung cấp hoặc loại vật tư được cung ứng là yếu tố
đầu vào quan trọng quyết định chất lượng sản phẩm hoặc hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Do đó, nhà cung cấp nói chung có ảnh hưởng không nhỏ
đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.3.2.3. Đối thủ cạnh tranh
Đối thủ cạnh tranh là nhân tố bên ngoài có tác động trực tiếp đến doanh
nghiệp. Trong một ngành nào đó mà tồn tại một hoặc một số doanh nghiệp thống
lĩnh thì cường độ cạnh tranh ít hơn và doanh nghiệp thống lĩnh đóng vai trò chỉ đạo
giá. Trong trường hợp này nếu doanh nghiệp không ở vị trí thống lĩnh thì sức cạnh
tranh là rất kém. Nhưng nếu tồn tại nhiều doanh nghiệp có thế lực và quy mô tương
đương nhau thì cạnh tranh trong ngành sẽ rất gay gắt. Cần phải coi trọng lợi thế so
sánh của mình và biến nó thành lợi thế cạnh tranh, doanh nghiệp nào có nhiều lợi
thế cạnh tranh thì doanh nghiệp đó có năng lực cạnh tranh cao hơn.
Trong thị trường tự do cạnh tranh, gần như không có rào cản gia nhập thị
trường, luôn có các đối thủ tiềm ẩn, sẵn sàng tham gia thị trường bất cứ lúc nào. Sự
xuất hiện của đối thủ mới có thể gây ra những cú sốc mạnh cho các doanh nghiệp
hiện tại vì thông thường những người đi sau thường có nhiều căn cứ cho việc ra
quyết định hơn và các chiêu bài của họ thường có tính bất ngờ.
35
Để chống lại các đối thủ tiềm ẩn, doanh nghiệp phải thường xuyên củng cố
năng lực cạnh tranh của mình bằng cách không ngừng cải tiến, hoàn thiện sản
phẩm, bổ sung những đặc tính mới ưu việt hơn cho sản phẩm, luôn phấn đấu giảm
chi phí để sẵn sàng tham gia các cuộc cạnh tranh về giá.
1.3.2.4. Môi trường vĩ mô
Môi trường vĩ mô của mỗi doanh nghiệp bao gồm ba yếu tố: thực trạng nền
kinh tế xã hội, hệ thống pháp luật và bối cảnh chính trị xã hội.
Nếu nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, thu nhập quốc dân tính
trên đầu người cao sẽ tạo điều kiện tăng tích luỹ, tăng đầu tư cho sản xuất, thị
trường có sức mua lớn là môi trường thuận lợi để doanh nghiệp phát triển.
Hệ thống pháp luật và các chế độ chính sách của Nhà Nước sẽ có tác dụng
tạo điều kiện hoặc kìm hãm sự phát triển của các doanh nghiệp. Trong nền kinh tế
thị trường, Nhà Nước có vai trò quan trọng trong việc tạo môi trường cạnh tranh.
Nhà Nước thúc đẩy và tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp thông qua các
chính sách như:
- Nhà Nước đầu tư nâng cao trình độ cho nguồn nhân lực. Hỗ trợ nghiên cứu
phát triển khoa học công nghệ, đầu tư cho cơ sở hạ tầng. Tạo điều kiện về cơ sở vật
chất và các yếu tố đầu vào.
- Thực hiện các chính sách kích cầu để mở rộng và tăng dung lượng thị
trường đầu ra cho doanh nghiệp. Đồng thời với công cụ chi tiêu Chính Phủ, Nhà
Nước cũng là người mua với nhu cầu đa dạng.
- Nhà Nước quy hoạch và tạo điều kiện phát triển các ngành công nghiệp phụ
trợ giúp doanh nghiệp có điều kiện chuyên môn hóa cao từ đó tăng năng lực cạnh
tranh.
Một trong những bộ phận của yếu tố chính trị ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp là hệ thống luật pháp. Mức độ ổn định của hành lang pháp
lý sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển. Ngược lại doanh nghiệp sẽ gặp khó
khăn khi phải đối diện liên tục với những thay đổi làm suy yếu năng lực cạnh tranh.
Nhà Nước cần tạo khuôn khổ pháp luật đồng bộ, phù hợp các nguyên tắc kinh
doanh thương mại quốc tế, đảm bảo cho sự cạnh tranh công bằng, bình đẳng.
36
Những chính sách đó phải giữ đúng vai trò là môi trường kinh doanh cho doanh
nghiệp, tránh can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh, giảm tính tự chủ của doanh
nghiệp. Luật “Chống Độc Quyền” của Mỹ, đạo luật về “Độc Quyền và Hợp Nhất” ở
Anh đều nhấn mạnh khía cạnh quan trọng là đảm bảo cạnh tranh công bằng giữa
các doanh nghiệp.
Yếu tố thứ ba của môi trường vĩ mô là các yếu tố chính trị xã hội. Một quốc
gia có nền chính trị ổn định sẽ giúp doanh nghiệp phát triển thuận lợi, các nhà đầu
tư trong và ngoài nước tin tưởng, yên tâm đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Các nhân
tố về xã hội như phong tục tập quán, mức sống, dân số,…quyết định thái độ tiêu
dùng và khả năng thanh toán của khách hàng mục tiêu. Khoảng cách giầu nghèo,
trình độ dân số là một trong những cản trở đến trình độ văn hóa và chất lượng
nguồn nhân lực.
Như vậy, bằng các hoạt động và chính sách Nhà Nước có thể tạo điều kiện
thuận lợi cũng có thể tạo ra những rào cản cho hoạt động cạnh tranh của doanh
nghiệp.
1.4. MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CHO DOANH NGHIỆP
Nâng cao năng lực cạnh tranh là vấn đề mỗi doanh nghiệp luôn quan tâm khi
hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Những doanh nghiệp nổi tiếng đều là những
doanh nghiệp đã thành công trong sử dụng các biện pháp nâng cao năng lực cạnh
tranh. Các biện pháp họ đã sử dụng dù thành công nhiều hay ít đều trở thành những
bài học quý báu cho các doanh nghiệp khác học tập, rút kinh nghiệm.
Thứ nhất: Bài học về độc lập công nghệ và công tác nghiên cứu phát triển.
Samsung Electronics là tập đoàn điện tử của Hàn Quốc đã thành công trong
cuộc cạnh tranh với tập đoàn Sony của Nhật Bản. Vào thời điểm lợi nhuận của Sony
giảm xuống còn 2,5% thì lợi nhuận của Samsung tăng lên 12%. Nếu như tổng vốn
của Sony dừng ở mức 30 tỷ đô la thì Samsung đã vượt quá ngưỡng 60 tỷ đô la [22].
Không chỉ Sony, Motorola là doanh nghiệp cũng phải chịu những đòn tấn công của
Samsung. Một trong những nguyên nhân thắng lợi của Samsung mà các nhà phân
37
tích đưa ra, đó là họ có được thành công nhờ độc lập về công nghệ và đã có những
đầu tư thích đáng cho hoạt động nghiên cứu phát triển (R&D). Trong 15 năm liền,
Samsung tích cực đầu tư vào thiết bị sản xuất và dây chuyền sản xuất, dần dần họ
đã độc lập về công nghệ. Hiện nay, Samsung chẳng phải mua gì của ai, họ đã tự sản
xuất được tất cả, ngay cả các sản phẩm điện tử từ màn hình, bộ nhớ, mạch điện, bộ
giải mã, phần mềm, đĩa cứng, bộ xử lý, … Bằng chính sách độc lập công nghệ,
Samsung đã mua tận gốc và bán tận ngọn. Hiện nay Samsung có 25 nhà máy trên
thế giới, họ không chỉ bán sản phẩm cho người tiêu dùng mà còn bán cho cả đối thủ
cạnh tranh. Dell là tập đoàn sản xuất máy tính cá nhân của Mỹ, từ lâu đã mua màn
hình vi tính LCD của Samsung. Ngay cả Sony cũng mua lại phần mềm lắp trong
màn hình LCD của Samsung. Bên cạnh đó, Samsung còn đặc biệt quan tâm đến
hoạt động nghiên cứu – phát triển bởi chỉ có hàng công nghệ cao mới giúp cho hàng
hoá của Samsung không bị làm nhái và như vậy mới có thể thu lợi nhuận cao. Lãnh
đạo Samsung đưa ra khẩu hiệu: “hoặc cách tân hoặc phá sản” và quyết định đầu tư ồ
ạt vào hoạt động nghiên cứu – phát triển, tăng số kỹ sư thiết kế từ 150 người lên
300 người chỉ riêng tại Seoul. Chiến lược phát triển này của Samsung nhận được 17
giải thưởng IDEA danh giá do công ty Thiết Kế Công Nghiệp Mỹ trao tặng. Điện
thoại di động của Samsung trở thành mặt hàng mà mọi người đều ưa chuộng vì
chúng đẹp về kiểu dáng, vượt trội về công nghệ. Trong năm 2003, Samsung đã tung
ra 40 model điện thoại đời mới, trong khi đó Nokia chỉ tung ra được 25 model.
Thành công đó giúp Samsung gia nhập câu lạc bộ các tập đoàn công nghiệp làm ăn
tốt nhất thế giới [35].
Thứ hai: Bài học về việc sử dụng lợi thế cạnh tranh về giá.
Wipro là tập đoàn công nghệ thông tin nổi tiếng của Ấn Độ. Năm 2000, giá
trị xuất khẩu các sản phẩm phần mềm của công ty là 6,2 tỷ đô la, năm 2001 là 9,3 tỷ
đô la, năm 2002 là hơn 13,5 tỷ đô la. Azim Premji, Chủ tịch tập đoàn này đã tính
toán, do chi phí sản xuất tại Ấn Độ rất thấp giúp cho các công ty nội địa cạnh tranh
được với các công ty nước ngoài về giá và tính năng sử dụng. Nhờ đó sản phẩm của
Wipro được nhiều công ty đặt hàng và cho đến nay, khách hàng của công ty là 300
công ty xuyên quốc gia hàng đầu về các lĩnh vực điện thoại, hàng không, phần
38
mềm. Theo các chuyên gia, bí quyết thành công của Wipro là biết sử dụng lợi thế
cạnh tranh về giá nhờ tận dụng ưu điểm cho phí thấp [35].
Thứ ba: Bài học về vấn đề thương hiệu
Hãng điện tử Samsung không chỉ thành công khi chọn biện pháp cách tân và
đổi mới công nghệ để cạnh tranh, họ còn đang theo đuổi chiến lược đưa thương hiệu
Samsung trở thành một trong những thương hiệu danh tiếng, chinh phục cả hành
tinh. Đây là một cuộc chiến lâu dài do đó Chủ tịch tập đoàn Jung Yong Yun yêu cầu
75.000 nhân viên của mình bằng mọi giá phải chiến thắng, xây dựng được một
thương hiệu Samsung nổi tiếng thế giới. Ngân sách hàng năm cho tiếp thị bằng 5%
tổng doanh thu của cả tập đoàn, khoảng 2,5 tỷ đô la. Đường lối đúng đắn xây dựng
thương hiệu đã giúp Samsung vươn lên vị trí thứ 25 năm 2003 so với vị trí thứ 34
năm 2002, vượt qua cả Nike, Kodak, Dell trong bảng xếp hạng 100 thương hiệu
danh giá nhất thế giới do InterBrand phối hợp với tạp chí Business Week tổ chức
đánh giá [22].
Thứ tư: Bài học về sử dụng nhân lực, cần phải biết đánh thức khả năng sáng
tạo của cán bộ công nhân viên.
General Electric là một tập đoàn quốc tế khổng lồ sản xuất và kinh doanh
chủ yếu trong lĩnh vực điện máy. Sự nổi tiếng của tập đoàn luôn gắn liền với tên
tuổi của Jack Welch, nhà lãnh đạo tài ba của tập đoàn. Ông nổi tiếng là người có tài
năng tổ chức và quản lý, đặc biệt là trong điều hành nhân sự. Jack Welch đã bác bỏ
quan điểm cần giám sát và kiểm tra. Thay vào đó, ông luôn động viên khuyến khích
nhân viên dưới quyền làm việc, phát huy sáng tạo. Các nhân viên đã thực hiện
những công việc mà trước đây lọ không dám làm và thu được những kết quả mà
họkhông bao giờ dám mơ ước tới. Jack Welch luôn trọng dụng người tài đồng thời
cũng rất cứng rắn. Chỉ trong 5 năm, ông đã sa thải 118.000 nhân viên, tương đương
1/4 số nhân viên của cả tập đoàn. Sau 5 năm, cả tập đoàn thoát khỏi tình trạng trì trệ
và trở thành một tập đoàn hùng mạnh nhất thế giới. Bí quyết lãnh đạo của ông là
một mặt tạo ra áp lực về cạnh tranh, mặt khác ộng điều tiết áp lực, giải toả tâm lý,
đánh thức tiềm năng sáng tạo của nhân viên, chỉ cho họ thấy kết quả thu được to lớn
không ngờ của họ.
39
Thứ năm: Bài học về sự thất bại do thiếu thông tin về đối thủ cạnh tranh và
thị trường.
Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay còn chưa có những hiểu biết cần thiết
về thị trường trong nước cũng như quốc tế. Tình trạng phổ biến của các doanh
nghiệp là thiếu thông tin thị trường, chưa quan tâm tìm hiểu kỹ thuật và năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm cùng loại ở trong nước và
thế giới nên gặp khó khăn trong đánh giá đối thủ để lựa chọn chiến lược cạnh tranh
cho phù hợp. Việt Nam là nước xuất khẩu gạo và cà phê hàng đầu thế giới nhưng
chúng ta mới chỉ quan tâm tăng sản lượng xuất khẩu mà chưa chú ý đến nhu cầu thị
trường nên thường phải chịu những tổn thất do giá gạo và cà phê suy giảm. Nhu cầu
thị trường thế giới về hai sản phẩm này đã gần bão hoà và sản phẩm nào cũng đều
có các ông chủ chiếm giữ thị phần. Việt Nam tăng xuất khảo gạo từ 2 triệu tấn năm
1995 lên 4 triệu tấn năm 1999, từ 248.000 cà phê năm 1995 lên 500.000 tấn năm
2000 làm cho cung về gạo và cà phê đã vượt cầu dẫn tới giá liên tục giảm. Mặt khác
chất lượng gạo của ta còn kém Thái Lan và loại cà phê Việt Nam xuất khẩu không
phải là loại cà phê được ưa chuộng và được giá trên thế giới nên kim ngạch xuất
khẩu thu về không cao so với sản lượng xuất khẩu.
Trường hợp cá basa của Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ lại có sự khác biệt là
trên thị trường Mỹ cũng có những người sản xuất cá da trơn tương tự Việt Nam. Do
các basa của Việt Nam rẻ hơn, thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường Mỹ với thị phần
khoảng 2% đã đặt người nuôi cá basa của Mỹ trước nguy cơ khá sản. Người nuôi cá
của Mỹ đã kiện Việt Nam bán phá giá cá da trơn và đòi Chính Phủ Mỹ bảo vệ. Vụ
việc này đã gây tổn thất rất lớn cho các nhà xuất khẩu cá da trơn của Việt Nam [16].
Các ví dụ trên cho thấy việc thu thập thông tin, nghiên cứu thị trường, xác
định dung lượng thị trường cũng như đánh giá đúng đối thủ cạnh tranh là một vấn
đề quan trọng trong các hoạt động nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh
nghiệp.
Thứ sáu: Bài học về chính sách vĩ mô.
Nhà Nước cần xây dựng chíên lược phát triển và có các chính sách hỗ trợ
cho các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh. Trong các thời kỳ phát triển
40
của kinh tế Nhật Bản giai đoạn 1955-1973 là một thời kỳ đặc biệt được các nhà
nghiên cứu gọi là giai đoạn thần kỳ hoặc thời đại phát triển cao độ. Kinh tế tăng
trưởng bình quân 10%/năm và kéo dài gần 20 năm. Sự khó khăn mà Nhật Bản gặp
phải trong những năm đầu của thập niên 50 của thế kỷ trước cũng gần giống như
Việt Nam hiện nay. Bắt buộc phải mở cửa kinh tế, phải hội nhập để phát triển
nhưng họ đã đưa ra được những chiến lược nâng đỡ để tăng năng lực cạnh tranh cho
doanh nghiệp trong nước, đảm bảo được sự tồn tại của các doanh nghiệp trong nước
trước xu thế hội nhập mạnh mẽ. Nhật Bản đã từng bước thực hiện tự do hoá mậu
dịch và bảo hộ sản xuất để tăng dần năng lực cạnh tranh cho các ngành công
nghiệp. Họ đã rất thận trọng và tỷ mỉ khi đưa ra các chương trình tự do hoá nhập
khẩu bắt đầu từ những ngành có lợi thế so sánh hoặc ít bị áp lực xã hội. Đồng thời
họ cải cách luật thuế, đưa ra mức thuế quan tuỳ theo năng lực cạnh tranh và công bố
thời gian biểu giảm dần thuế quan tạo áp lực cho doanh nghiệp trong nước tự nỗ
lực vươn lên và không cần bảo hộ.
Để mở cửa và hội nhập có hiệu quả, Nhật Bản biết rằng phải tăng năng lực
cạnh tranh quốc tế của các ngành công nghiệp. Họ đã chọn những ngành có lợi thế
so sánh động. Đó là những ngành có khả năng tăng năng suất lao động nhanh,
những ngành mà Nhật Bản có thể hấp thu công nghệ một cách có hiệu quả, hoặc
những ngành nhu cầu sẽ tăng cao khi lợi nhuận tăng. Những ngành được chọn hầu
hết là những ngành công nghiệp năng và ngành có công nghệ cao. Sau khi đưa ra cơ
cấu phát triển công nghiệp như trên Chính Phủ Nhật Bản ban hành ngay chính sách
nuôi dưỡng các ngành công nghiệp đồng thời có biện pháp trợ giúp về thuế, tín
dụng,…Ví dụ như chính sách nuôi dưỡng ngành hoá dầu ra đời vào tháng 7/1955,
luật chấn hưng công nghiệp điện tử tháng 6/1957,…Hầu hết các luật này chỉ có hiệu
lực đến năm 1971, một thời gian đủ dài để các ngành phát triển [4].
Nền kinh tế đang xuất hiện ngày càng rõ một thị trường hàng hoá dịch vụ có
tính chất thế giới, một thị trường đầu tư chung, một thị trường tài chính tiền tệ
chung. Trong đó thương mại luôn là lĩnh vực đi trước. Toàn cầu hoá thương mại đòi
hỏi phải xoá bỏ rào cản, chấp nhận tự do buôn bán. Mỗi nước phải mở cửa thâm
41
nhập thị trường quốc tế đồng thời cũng phải chấp nhận mở củă cho hàng hoá nước
ngoài tràn vào. Tất yếu các doanh nghiệp Việt Nam phải trực tiếp tham gia cuộc
cạnh tranh trong nước và quốc tế với rất nhiều đối thủ hoạt động trong mọi lĩnh vực
và ở mọi nơi trên thế giới. Các doanh nghiệp luôn đối mặt với nguy cơ phá sản nếu
họ không dứng vững trong cuộc cạnh tranh ngày càng gay gắt. Để tồn tại và phát
triển, các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
Dựa trên hệ thống lý thuyết về cạnh tranh các doanh nghiệp cần nghiên cứu và vận
dung khéo léo vào thực tế đơn vị mình. Như vậy để nâng cao năng lực cạnh tranh
không chỉ cần nắm chắc các lý thuyết mà còn phải hiểu rõ điều kiện và khả năng
thực tế của đơn vị mình, các mặt mạnh, các điểm yếu, mục tiêu phát triển, các cơ
hội và thách thức có thể có… Sự phối hợp chặt chẽ giữa lý thuyết và thực tế cùng
với các bài học kinh nghiệm trong nước và nước ngoài sẽ giúp doanh nghiệp đưa ra
được những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho đơn vị mình
đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển bền vững của mỗi doanh nghiệp.
42
CHƯƠNG 2THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦATỔNG CÔNG TY CƠ ĐIỆN XÂY DỰNG
NÔNG NGHIỆP VÀ THỦY LỢI
2.1. TỔNG CÔNG TY CƠ ĐIỆN XÂY DỰNG NÔNG NGHIỆP VÀ THỦY
LỢI VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA TỔNG CÔNG TY
2.1.1. Khái quát về Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy
Lợi
2.1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng
Nông Nghiệp Và Thủy Lợi
Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi là đơn vị thuộc
bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn. Năm 1996 Tổng Công ty được thành
lập trên cơ sở hợp nhất các đơn vị cơ điện của ngành nông nghiệp và thủy lợi trong
cả nước lấy tên là Tổng Công ty Cơ Điện Nông Nghiệp Và Thủy Lợi.
Năm 2003, bộ trưởng bộ Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn đã có
quyết định số 67/2003/QĐ BNN-TCCB sáp nhập hai tổng công ty là Tổng Công ty
Xây Dựng Thủy Lợi 1 và Tổng Công ty Cơ Điện Nông Nghiệp Và Thủy Lợi thành
Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi nhằm thiết lập một
tập đòan kinh tế mạnh đủ năng lực thực hiện những dự án lớn mang tầm cỡ quốc gia
và quốc tế, đồng thời đóng vai trò là đơn vị chủ chốt đáp ứng những nhiệm vụ chính
trị của bộ Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn.
Hiện nay Tổng Công ty có 21 đơn vị thành viên trong đó có 18 đơn vị hạch
toán độc lập, 3 đơn vị hạch toán phụ thuộc.
Hiện nay,Tổng Công ty tham gia hai lĩnh vực sản xuất kinh doanh chủ yếu là
cơ khí công trình và xây lắp với các sản phẩm như:
- Cơ khí thủy công là bộ phận quan trọng trong mỗi nhà máy thủy điện. Tổng
Công ty là đơn vị có truyền thống hàng chục năm chế tạo các thiết bị cơ khí thủy
43
công với đội ngũ cán bộ và công nhân kỹ thuật có trình độ và kinh nghiệm. Một số
công trình Tổng Công ty đã thực hiện như:
+ Thủy điện Sông Ba Hạ với các cửa cung tràn kích thước 17m * 5m là loại
cửa cung lớn nhất được chế tạo ở Việt Nam từ trước đến nay.
+ Cửa cung tràn hồ chứa nước sông Quao (Bình Thuận), kích thước 6m *
8m.
+ Đường ống áp lực bằng thép có đường kính đến 8.000mm, chiều dày đến
40mm.
- Xi lanh thủy lực là mặt hàng từ trước đén nay ta luôn phải nhập khẩu từ
nước ngoài trong khi nhu cầu trong nước rất lớn. Với mục tiêu phát triển bền vững,
Tổng Công ty đã đầu tư xây dựng một dây chuyền chế tạo xi lanh thủy lực. Tổng
Công ty đã cung cấp cho thị trường trong nước các loại xi lanh thủy lực phục vụ các
công trình thủy điện, thủy lợi và xây dựng có đường kính từ 50 đến 300mm, chiều
dài đến 13m, lực nâng 250 tấn.
- Các loại máy bơm phục vụ thủy lợi như:
+ Máy bơm nước lưu lượng từ 4.000 đến 36.000m3/h.
+ Máy bơm chìm có công suất động cơ đến 75kw.
+ Máy bơm có cột nước cao 15 đến 20m phục vụ tưới tiêu trong nông
nghiệp.
- Các sản phẩm phục vụ công nghiệp chế biến như dây chuyền chế biến cà
phê ướt, dây chuyền chế biến bột cá, dây chuyền chế biến gỗ ván dăm với công suất
7.000 đến 10.000m3/năm, dây chuyền chế biến chè, cao su, rau hoa quả.
Thành công bước đầu trong những năm vừa qua đã giúp nâng vị thế của
Tổng Công ty trên thị trường, khẳng định vai trò và uy tín của Tổng Công ty, tạo
nên sức mạnh và uy tín cho thương hiệu AGRIMECO
Hiện nay Tổng Công ty có 7740 lao động, trong đó trên 15% là kỹ sư, kỹ
thuật viên có trình độ và kinh nghiệm trong lĩnh vực cơ điện và công trình thủy lợi,
thủy điện. Tổng quỹ lương năm 2005 là 67.081 triệu đồng, đảm bảo ổn định đời
sống cán bộ công nhân viên với thu nhập bình quân 1.500.000đ/người/tháng.
44
Năm 2003, sau khi sáp nhập, Tổng Công ty có tổng tài sản là 796.712 triệu
đồng, đến năm 2005 Tổng Công ty đã có tổng tài sản là 1.209.004 triệu đồng, trong
đó vốn tự bổ sung là 44.555 triệu đồng, vốn góp của cổ đông là 23.389 triệu đồng
(biểu 2.1).
Biểu 2.1 Tóm tắt một số chỉ tiêu trên bảng cân đối kế toán năm 2005
(Đơn vị tính: triệu đồng)
CHỈ TIÊU 2003 2004 2005
I. Tài sản 796.712 903.291 1.209.004
1. Tài sản lưu động và ĐTNH 670.611 728.069 935.774
2. Tài sản cố định và ĐTDH 126.100 175.221 273.229
Trong đó: TSCĐ (giá trị còn lại) 110.475 143.087 177.640
- Nguyên giá 287.645 337.935 408.027
- Hao mòn lũy kế (177.170) (194.848) (230.387)
II. Nguồn vốn 796.712 903.291 1.209.004
1. Nợ phải trả 659.355 764.631 1.054.419
2. Nguồn vốn chủ sở hữu 137.357 138.660 154.585
(Nguồn: Phòng Kế Toán - Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thuỷ Lợi)
(Chữ viết tắt: ĐTNH: Đầu tư ngắn hạn; ĐTDH: Đầu tư dài hạn; TSCĐ: Tài sản cố định)
Mặc dù còn nhiều khó khăn sau khi sáp nhập, Tổng Công ty luôn cố gắng
vừa ổn định tổ chức vừa đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, vì vậy giá trị sản xuất kinh
doanh đã tăng mạnh, năm 2005 đạt 1.457.835 triệu đồng bằng 184,4% so với năm
2003. Doanh thu đạt 1.020.757 triệu đồng, bằng 173,9% so với năm 2003. Từ kết
quả sản xuất kinh doanh, Tổng Công ty đã luôn thực hiện được đầy đủ nghĩa vụ với
Nhà Nước, năm 2005 nộp Ngân sách 34.896 triệu đồng.
Những thành tích trên cho thấy ban lãnh đạo Tổng Công ty đã chọn đúng
hướng đi, mở ra tiềm năng phát triển cho đơn vị cả về lượng và chất. Cán bộ công
nhân viên trong Tổng Công ty đã lấy lại được niềm tin và khí thế làm việc, từng
bước ổn định sản xuất và phát triển.
45
Biểu 2.2 Một số chỉ tiêu kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
STT CHỈ TIÊU ĐVT 2003 2004 2005
1 Giá trị sản xuất KD Trđ 790.400 910.878 1.457.835
2 Doanh thu Trđ 586.921 701.248 1.020.757
3 Lợi nhuận Trđ 3.535 3.960 8.292
4 Nộp Ngân sách Trđ 21.928 26.801 34.896
5 Tổng quỹ lương Trđ 56.084 57.767 71.242
6 Tiền lương bình quân Đ/lđ 1.128.000 1.250.000 1.500.000
(Nguồn: Phòng Kế Toán - Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thuỷ Lợi)
(Chữ viết tắt: KD:Kinh doanh; Trđ: Triệu đồng; Đ/lđ: Đồng/lao động)
2.1.1.2. Đặc điểm mô hình tổ chức và quản lý của Tổng Công ty Cơ điện Xây
Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi
Tổng Công ty Cơ điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi thuộc bộ
Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn là loại hình Tổng Công ty 90. Thực hiện
quyết định số 65/2003/QĐ- TTg của Thủ Tướng Chính Phủ và sự chỉ đạo trực tiếp
của bộ Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn, Tổng Công ty đã tổ chức sắp xếp,
đổi mới và cổ phần hóa các đơn vị thành viên theo đúng tiến độ. Trong 21 đơn vị
thành viên hiện nay có 3 đơn vị hạch toán phụ thuộc, 18 đơn vị hạch toán độc lập.
Trong đó có 12 đơn vị hạch toán độc lập đã hoàn thành cổ phần hóa đi vào hoạt
động ổn định.
Các đơn vị thành viên trong Tổng Công ty dù hạch toán độc lập hay phụ thuộc
vẫn có được sự chủ động nhất định trong sản xuất kinh doanh. Tổng Công ty nắm
toàn bộ các đầu mối thị trường, đứng ra đấu thầu hoặc nhận thầu các công trình, sau
đó giao cho các đợn vị thành viên theo năng lực và yêu cầu công việc, đảm bảo sự
liên kết, phối hợp giữa các đơn vị thành viên. Để thực hiện các nhiệm vụ kinh tế
chính trị do bộ và Nhà nước giao và tự nâng cao năng lực để đảm bảo sức cạnh
tranh trên thị trường, mỗi công ty ở địa phương nào bên cạnh phần việc mà Tổng
Công ty giao (chiếm khoảng 80% nhiệm vụ của mỗi đơn vị) luôn cố gắng tự tìm
thêm công việc tại chỗ để chiếm lĩnh và giữ vững thị trường ở đó.
46
Về cơ cấu tổ chức, Tổng Công ty được quản lý bởi Hội Đồng Quản Trị và
được điều hành bởi Tổng Giám đốc.
* Ban lãnh đạo Tổng Công ty:
- Hội đồng Quản trị của Tổng Công ty gồm 5 thành viên do bộ trưởng bộ
Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn quyết định bổ nhiệm có chức năng quản lý
hoạt động của Tổng Công ty, chịu trách nhiệm về sự hoạt động của Tổng Công ty
theo nhiệm vụ Nhà Nước giao.
- Ban kiểm soát: gồm có ba thành viên có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát hoạt
động điều hành của Tổng Giám đốc, bộ máy giúp việc và các đơn vị thành viên
trong hoạt động tài chính, chấp hành pháp luật và điều lệ Tổng Công ty, các nghị
quyết, quyết định của Hội Đồng Quản Trị.
- Tổng giám đốc là đại diện pháp nhân của Tổng Công ty, chịu trách nhiệm
trước Hội Đồng Quản Trị, trước bộ trưởng bộ Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông
Thôn, trước pháp luật về điều hành hoạt động của Tổng Công ty. Tổng Giám đốc là
người có quyền điều hành cao nhất trong Tổng Công ty.
- Các Phó Tổng Giám đốc là người giúp Tổng Giám đốc điều hành hoạt động
của Tổng Công ty. Hiện nay có ba Phó tổng Giám đốc phụ trách ba khu vực miền
Bắc, miền Trung và miền Nam. Mỗi Phó Tổng Giám đốc điều hành và chịu trách
nhiệm trước Tổng Giám đốc về hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị thành
viên ở mỗi khu vực, liên hệ trực tuyến với các phòng ban chức năng của Tổng Công
ty.
* Các phòng ban chức năng
- Phòng Tổ chức: Tham mưu giúp việc về công tác tổ chức, biên chế, quy
hoạch về sử dụng lao động, quản lý và đào tạo lao động, xây dựng và quản lý định
mức, xây dựng kế hoạch về lao động tiền lương, bảo vệ chính trị nội bộ, an ninh
quốc phòng và thực hiện chế độ chính sách đối với người lao động của Tổng Công
ty.
- Phòng Tài chính - Kế toán: Quản lý chung về tài chính kế toán của Tổng
Công ty, tổ chức, chỉ đạo thực hiện toàn bộ công tác kế toán, thống kê, thông tin
47
kinh tế và hạch toán kinh tế ở Tổng Công ty theo cơ chế mới. Đồng thời làm nhiệm
vụ kiểm soát viên kế toán tài chính của Nhà Nước tại Tổng Công ty.
- Phòng Kế hoạch - Đầu tư: Nghiên cứu, xây dựng đề xuất chiến lược phát
triển dài hạn, trung hạn, kế hoạch năm của Tổng Công ty. Điều phối kế hoạch hoạt
động của các đơn vị thành viên. Tổng hợp tình hình thực hiện kế hôạch các đơn vị
thành viên, các dự án Tổng Công ty tham gia, lập báo cáo quản trị nội bộ.
- Phòng Kỹ thuật: Thiết kế mẫu mã sản phẩm, triển khai các bản vẽ công
trình để thi công. Quản lý tài liệu kỹ thuật, hồ sơ bản vẽ, công tác sáng kiến cải tiến
kỹ thuật, đổi mới công nghệ, quản lý chất lượng sản phẩm. Tổ chức và chỉ đạo thực
hiện hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001-2000.
- Phòng Thiết kế: Thiết kế kỹ thuật, thiết kế thi công phục vụ cho hoạt động
sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty trong đấu thầu tư vấn các công trình xây
dựng nông nghiệp và thủy lợi. Giám sát thi công và nghiệm thu công trình theo đồ
án thiết kế được phê duyệt.
- Phòng Đấu thầu - Thi công: Có nhiệm vụ thực hiện các hoạt động về đấu
thầu như tiếp thị, tiếp cận dự án, chuẩn bị hồ sơ thầu, xây dựng dự toán, tham gia
đấu thầu, theo dõi quá trình thực hiện và hoàn tất thủ tục khi đã thực hiện xong dự
án.
- Phòng Hành chính: Quản lý công tác hành chính quản trị , thi đua, khen
thưởng, y tế, phục vụ, bảo vệ cơ quan Tổng Công ty.
- Ban Quản lý dự án: Tham mưu và giúp Tổng Giám Đốc quản lý và tổ chức
thực hiện các dự án đầu tư xây dựng cơ bản, tăng năng lực sản xuất, các dự án do
Tổng Công ty trực tiếp đầu tư từ giai đoạn chuẩn bị, triển khai đến khi kết thúc
nghiệm thu công trình.
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty Cơ
điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi.
2.1.2.1. Các nhân tố về nội lực
*Nguồn lực tài chính
48
Vốn là một yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, giữ vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc duy trì và mở rộng quy mô sản xuất. Tình hình tài chính của Tổng
Công ty được thể hiện trong biểu 2.3.
Theo biểu 2.3, ta thấy quy mô vốn kinh doanh của Tổng Công ty đều tăng so
với năm trước cho thấy kết quả bước đầu những nỗ lực của Tổng Công ty trong
những năm qua.
Biểu 2.3Kết cấu tài sản và nguồn vốn
(Đơn vị tính: Triệu đồng)
CHỈ TIÊU 2003 2004 2005
A. Tài sản 796.712 903.291 1.209.004
I. Tài sản lưu động và ĐTNH 670.611 728.069 935.774
Trong đó: Các khoản phải thu 406.801 372.546 429.477
II. Tài sản cố định và ĐTDH 126.101 175.221 273.229
B. Nguồn vốn 796.712 903.291 1.209.004
I. Nợ phải trả 659.355 764.631 1.054.419
1. Nợ ngắn hạn 617.294 663.011 989.708
2. Nợ dài hạn 42.061 101.620 64.711`
II. Nguồn vốn chủ sở hữu 137.357 138.660 154.585
1. Vốn ngân sách 74.350 61.864 60.402
2. Vốn tự bổ sung 41.546 46.457 50.555
3. Vốn liên doanh 9.223 10.723 13.123
4. Vốn người lao động góp 4.030 5.695 23.389
5. Nguồn vốn chủ SH khác 8.208 13.921 7.116
(Nguồn: Phòng Kế Toán - Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thuỷ Lợi)
Trong đó phần lớn do Tổng Công ty tăng đầu tư cho tài sản cố định, năm
2005 quy mô tài sản cố định bằng 216,7% so với năm 2003. Năm 2004 và 2005,
nguồn vốn đầu tư từ ngân sách đã giảm nhưng Tổng Công ty vẫn cố gắng tăng năng
lực sản xuất bằng các nguồn vốn tự bổ sung và đi vay. Các khoản vay để đầu tư cho
49
tài sản cố định cùng với các khoản nợ đọng vốn xây dựng cơ bản, nợ nhà cung cấp
và các koản nợ khác đã làm tăng tổng nợ phải trả của Tổng Công ty. Biểu 2.4 cho
thấy nợ phải trả của Tổng Công ty chiếm tới trên 87,2%tổng nguồn vốn dẫn tới hệ
số nợ rất cao 0,87. Tình trạng nợ còn làm tăng lãi vay từ đó làm giảm kết quả kinh
doanh, nguy cơ ngân hàng ngừng cho vay vì dư nợ vượt hạn mức, nợ quá hạn và
người bán ngừng cung cấp.
Biểu 2.4 Một số chỉ tiêu tài chính tổng quát
CHỈ TIÊU 2003 2004 2005
I. Kết cấu tài sản và nguồn vốn
1. Kết cấu tài sản
- Tài sản cố định / Tổng tài sản 15,8% 19,4% 22,6
- Tài sản lưu động / Tổng tài sản 84,2% 80,6% 77,4
2. Kết cấu nguồn vốn
- Nợ phải trả / Tổng nguồn vốn 82,7% 84,6% 87,2
-Nguồn vốn chủ sở hữu/ Tổng nguồn
vốn
17,3% 15,4% 12,8
II. Tình hình tài chính
1. Hệ số nợ/ Tổng nguồn vốn 0,83 0,85 0,87
2. Tỷ suất tự tài trợ tài sản cố định 1,09 0,79 0,56
3. Khả năng thanh toán tổng quát 1,21 1,18 1,15
(Nguồn: Phòng Kế Toán - Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thuỷ Lợi)
Một trong những nguyên nhân khác của tình hình trên là số phải thu của
Tổng Công ty cũng rất lớn, quy mô các khoản phải thu chiếm tới trên 50% tài sản
lưu động. Tuy tình hình đã khả quan hơn sau mỗi năm song số phải thu vẫn còn rất
cao gây khó khăn cho tình hình tài chính thể hiện ở khả năng thanh toán tổng quát
của Tổng Công ty khá thấp 1,18. Tỷ suất tự tài trợ tài sản cố định của Tổng Công ty
giảm dần do Tổng Công ty phải đi vay một phần để đầu tư mua sắm tài sản cố định.
Tỷ trọng tài sản cố định của Tổng Công ty rất thấp mà tỷ suất tự tài trợ năm 2005
50
vẫn nhỏ hơn 1 do nguồn vốn chủ sở hữu của Tổng Công ty chiếm tỷ trọng nhỏ
12,8%.
Như vậy những tài sản cố định mà Tổng Công ty đã đầu tư nếu không mang
lại hiệu quả thực sự để đảm bảo khả năng thanh toán nợ thì nguy cơ không được
vay tiếp và suy giảm khả năng thanh toán rất lớn.
Phân tích trên cho thấy tình hình tài chính của Tổng Công ty còn rất nhiều
khó khăn, vấn đề đảm bảo nguồn lực tài chính cho tăng năng lực sản xuất và duy trì
sức cạnh tranh là một bài toán cần có lời giải thoả đáng.
* Thiết bị và công nghệ
Quá trình sản xuất là quá trình các nguồn lực hoặc các yếu tố đầu vào để tạo
ra sản phẩm hàng hóa dịch vụ hoặc đầu ra. Trong các yếu tố đầu vào thì máy móc
thiết bị và công nghệ có vai trò quyết định đối với năng lực sản xuất của Tổng Công
ty.
Nếu nói quy trình công nghệ có ảnh hưởng đến đặc tính chất lượng sản
phẩm thì máy móc thiết bị là phương tiện để thực hiện quy trình công nghệ đó. Khả
năng hoạt động của máy móc thiết bị, chất lượng cũng như mức độ hiện đại của
chúng đều có ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, đến hiệu quả sản xuất và năng
lực cạnh tranh của Tổng Công ty. Tùy thuộc vào tình trạng của máy móc thiết bị và
mục tiêu cạnh tranh mà Tổng Công ty sẽ lựa chọn phương án đổi mới công nghệ
sao cho thích hợp.
Máy móc phục vụ cơ khí bao gồm các thiết bị như máy tiện (231 chiếc), máy
phay (48 chiếc), máy bào (23 chiếc), máy khoan (92 chiếc), máy doa (19 chiếc) và
máy mài (19 chiếc), máy đột dập (43 chiếc), máy cưa (22 chiếc), máy hàn (285
chiếc).
Do Tổng Công ty còn tham gia thi công lắp đặt tại các công trình nên máy
móc thiết bị phục vụ thi công lắp đặt là một trong những nguồn nội lực quan trọng
để đảm bảo năng lực cạnh tranh khi đấu thầu cũng như khi thi công tại các công
trình. Hiện nay lực lượng máy móc thiết bị thi công của Tổng Công ty tương đối
hiện đại gồm các thiết bị thi công đất (446 thiết bị) như ô tô tự đổ, máy ủi, máy đào,
51
san tự hành, đầm đất các loại,… Các thiết bị thi công bê tông (290 thiết bị) như máy
trộn, các xe vận chuyển,… Các thiết bị khai thác đá (36 thiết bị) và thiết bị khác
như nạo vét bùn, bơm các loại,… Phục vụ cho cơ khí thuỷ công Tổng Công ty còn
có 360 máy móc thiết bị khác như ô tô vận tải, cẩu, máy vận thăng, cầu trục, thiết bị
sửa chữa, đo kiểm chất lượng sản phẩm, công trình xây dựng và các thiết bị thí
nghiệm khác.
Thoạt nhìn nguồn lực máy móc thiết bị và công nghệ, Tổng Công ty có lực
lượng máy móc thiết bị khá lớn. Tuy nhiên số máy móc thiết bị đó được dàn trải
cho khoảng 9 đơn vị thành viên sản xuất các sản phẩm cơ khí và khoảng 10 đơn vị
thành viên đang tham gia xây dựng tại hàng chục công trình lớn nhỏ trên cả nước
(các đơn vị còn lại hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu và tư vấn) thì lực lượng đó
lại là khá mỏng. (Xem phụ lục 2)
Về mặt giá trị, năm 2003, khi sáp nhập tổng nguyên giá máy móc thiết bị của
Tổng Công ty là 122.077 triệu đồng, sau những nỗ lực đầu tư tăng năng lực sản
xuất, đến năm 2005 tổng nguyên giá máy móc thiết bị là 206.028 triệu đồng, tăng
trên 68% và chiếm tỷ trọng 51% trong tổng nguyên giá tài sản cố định hữu hình.
Trong ba n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi.pdf