Tài liệu Luận văn Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành dệt may khi Việt Nam là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTo: 1
Luận văn
Đề tài: Nâng cao năng lực cạnh
tranh của ngành Dệt May khi Việt
Nam là thành viên của tổ chức
Thương Mại Thế Giới WTO
2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................ 3
1.Lý do chọn đề tài ................................................................................ 3
2.Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................ 4
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................... 4
CHƯƠNG I: Những vấn đề cơ bản về năng lực cạnh tranh của một
ngành ................................................................................ 5
1.1Khái niệm cạnh tranh và năng lực cạnh tranh ..................................... 5
1.1.1Những quan niệm về cạnh tranh ........................................... 5
1.1.2Quan niệm về năng lực cạnh tranh ....................................... 7
1.1.2.1Khái niệm về năng ...
35 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1276 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành dệt may khi Việt Nam là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTo, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
Đề tài: Nâng cao năng lực cạnh
tranh của ngành Dệt May khi Việt
Nam là thành viên của tổ chức
Thương Mại Thế Giới WTO
2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................ 3
1.Lý do chọn đề tài ................................................................................ 3
2.Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................ 4
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................... 4
CHƯƠNG I: Những vấn đề cơ bản về năng lực cạnh tranh của một
ngành ................................................................................ 5
1.1Khái niệm cạnh tranh và năng lực cạnh tranh ..................................... 5
1.1.1Những quan niệm về cạnh tranh ........................................... 5
1.1.2Quan niệm về năng lực cạnh tranh ....................................... 7
1.1.2.1Khái niệm về năng lực cạnh tranh ............................. 7
1.1.2.2 Thực trạng năng lực cạnh tranh củaViệt Nam ...... 8
1.1.2.3 Những việc cần làm để nâng cao năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế quốc dân ........................... 8
1.1.3 Năng lực cạnh tranh của một quốc gia ................................ 9
1.2 Mô hình kim cương của Michael Porter ........................................ 10
1.2.1 Điều kiện về các yếu tố đầu vào sản xuất .......................... 11
1.2.1.1 Nhóm các yếu tố cơ bản ......................................... 11
1.2.1.2 Nhóm các yếu tố tiên tiến ....................................... 12
1.2.2 Điều kiện về cầu ............................................................... 13
1.2.3 Nhóm các ngành công nghiệp hỗ trợ và các ngành công
nghiệp có liên quan .......................................................... 14
1.2.4 Chiến lược, cơ cấu và mức độ cạnh tranh nội bộ ngành .... 15
1.2.5 Vai trò của Chính phủ ....................................................... 17
1.2.6 Cơ hội kinh doanh ............................................................. 17
3
CHƯƠNG II: Năng lực cạnh tranh của ngành dệt May Việt Nam trong bối
cảnh Việt Nam trở thành thành viên của WTO .............. 19
2.1 Thực trạng ngành Dệt May Việt Nam trong những năm gần đây .. 19
2.1.1 Đầu vào của ngành Dệt May ............................................. 19
2.1.1.1 Thị trường lao động của ngành Dệt May ................ 19
2.1.1.2 Công nghệ trong ngành Dệt May ............................ 21
2.1.1.3 Sợi nguyên liệu đầu vào của ngành Dệt May Việt Nam .......... 21
2.1.2 Các doanh nghiệp trong ngành Dệt May ........................... 23
2.1.2.1 Vitas - Hiệp hội Dệt May Việt Nam – Mái nhà chung
của các doanh nghiệp Dệt May .............................. 23
2.1.2.2Liên doanh đầu tiên giữa ngành Dệt May Việt Nam và Hoa Kỳ .. 25
2.1.3 Hàng Dệt May trên thị trường trong nước và quốc tế ........ 26
2.1.3.1 Thị trường nội địa làm nền tảng ............................. 26
2.1.3.2 Hàng Dệt May trên một số thị trường ..................... 27
2.1.4 Các ngành công nghiệp hỗ trợ và các ngành công nghiệp có
liên quan tới ngành Dệt May ............................................ 28
2.1.5 Vai trò của chính phủ đối với nâng cao năng lực cạnh tranh
của ngành Dệt May Việt Nam ........................................... 29
2.1.5.1 Vai trò của Chính phủ được thể hiện thông qua các
chính sách .............................................................. 29
2.1.5.2 Chính phủ có vai trò quan trọng trong việc tạo ra một môi
trường vĩ mô ổn định với lạm phát thấp và tăng trưởng ổn định .. 30
2.1.6 Cơ hội đối với ngành Dệt May Việt Nam khi Việt Nam là
thành viên của WTO ......................................................... 30
2.2 Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành Dệt May Việt
Nam trong bối cảnh Việt Nam là thành viên của WTO ................. 31
KẾT LUẬN .......................................................................................... 33
4
LỜI MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Vào lúc 17h (giờ Việt Nam) ngày 7.11.2006 tài trụ sở WTO
ở Thụy Sĩ, 149 thành viên của WTO đã chính thức thông qua quyết
định Việt Nam trở thành viên thứ 150 của tổ chức Thương Mại Thế
Giới (Trích Báo Ngoại Thương/ số32 ngày11-20/11/2006).
Như vậy nước ta đã chính thức là thành viên của tổ chức
Thương Mại Thế Giới WTO, đây vừa là cơ hội vừa là thách thức đối
với các ngành kinh tế Việt Nam trong đó có ngành Dệt May.
Ngành Dệt May là ngành kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế
quốc dân, nó không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và
hướng tới xuất khẩu mà còn là ngành có lợi nhuận cao, đóng góp to
lớn vào ngân sách quốc gia. Nhất là khi Việt Nam chính thức là thành
viên của tổ chức Thương Mại Thế Giới WTO – sân chơi chung của
các thành viên của WTO, ở đây ngành Dệt May của chúng ta được đối
xử công bằng theo luật của quốc tế. Bên cạnh đó ngành Dệt May cũng
gặp không ít những khó khăn, đó là sự cạnh tranh công bằng và gay
gắt. Vì thế để đứng vững trên thị trường quốc tế ngành Dệt May của
Việt Nam phải không ngừng đổi mới và hoàn thiện để có thể cạnh
tranh thành công trên trường quốc tế
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, cùng với sự tìm hiểu,
thu thập tài liệu của cá nhân em, em lựa chọn đề tài: ‘‘ Nâng cao năng lực
cạnh tranh của ngành Dệt May khi Việt Nam là thành viên của tổ chức
Thương Mại Thế Giới WTO” để viết đề án môn học Kinh tế Thương Mại.
5
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU.
- Cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh của ngành Dệt May.
- Phân tích năng lực cạnh tranh của ngành Dêt May Việt
Nam trên thị trường quốc tế khi Việt Nam là thành viên của WTO.
- Đề xuất một số giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh
của ngành Dệt May Việt Nam trong bối cảnh Việt Nam là thành viên
của WTO.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
- Đối tượng nghiên cứu: năng lực cạnh tranh của một
ngành công nghiệp Việt Nam.
-Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu năng lực cạnh tranh của
ngành Dệt May trên thị trường quốc tế trong những năm gần đây và
những năm tới.
6
CHƯƠNG I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA MỘT NGÀNH
1.1 KHÁI NIỆM CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC
CẠNH TRANH.
1.1.1 Những quan niệm cạnh tranh.
Theo báo cáo về sức cạnh tranh (1985) của diễn đàn kinh tế
thế giới (WEF): sức cạnh tranh quốc tế là năng lực và cơ hội trong
hoàn cảnh riêng trước mắt và tương lai của doanh nghiệp có sức hấp
dẫn về giá cả và chất lượng hơn.
Theo báo cáo về sức cạnh tranh (1995) củaWEF lại định
nghĩa: sức cạnh tranh quốc tế là năng lực của một công ty, một nước
trong việc sản xuất ra của cải trên thị trường thế giới nhiều hơn đối thủ
cạnh tranh của nó.
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam (tập 1) định nghĩa: cạnh
tranh trong kinh doanh là hoạt động ganh đua giữa những người sản
xuất hàng hóa, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền
kinh tế thị trường, bị chi phối bởi quan hệ cung – cầu, nhằm giành các
điều kiện sản xuất, tiêu thụ, thị trường có lợi nhất. Quan niệm này xác
định rõ các chủ thể của cạnh tranh là các chủ thể kinh tế và mục đích
của họ là nhằm giành được các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị
trường có lợi nhất.
7
Theo từ điển Kinh tế kinh doanh Anh – Việt định nghĩa:
cạnh tranh là sự đối địch giữa các hãng kinh doanh trên cùng một thị
trường để giành được nhiều khách hàng, do đó sẽ thu được nhiều lợi
nhuận hơn, thường là bằng cách bán theo giá cả thấp nhất hay cung cấp
một chất lượng hàng hóa tốt nhất. Quan niệm này khẳng định cạnh tranh
diễn ra giữa các doanh nghiệp hoạt động trên cùng một thị trường nhằm
mục đích tối đa hóa lợi nhuận. Đồng thời cũng chỉ ra hai phương thức
cạnh tranh là hạ thấp giá bán và nâng cao chất lượng của sản phẩm.
Theo giáo trình Kinh tế học chính trị Mác – Lênin thì định
nghĩa rằng: cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh giữa các chủ tham
gia sản xuất kinh doanh, tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ để thu được
nhiều lợi ích nhất cho mình. Mục tiêu của cạnh tranh là giành lợi ích,
lợi nhuận lớn nhất, bảo đảm sự tồn tại và phát triển của chủ thể tham
gia cạnh tranh.
Các quan niệm trên đây có sự khác biệt trong diễn đạt và
phạm vi, nhưng có những nét tương đồng về nội dung. Từ đó có thể
đưa ra một khái niệm tổng quát sau đây về cạnh tranh trong nền kinh
tế thị trường: Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh
tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp để đạt mục tiêu kinh tếcủa mình,
thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như
các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của
các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hóa lợi ích, đối
với người sản xuất – kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng
là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi.
8
1.1.2 Quan niệm năng lực cạnh tranh.
1.1.2.1 Khái niệm năng lực cạnh tranh.
Cạnh tranh là một tất yếu khách quan mà bất kỳ một doanh
nghiệp nào tham gia vào thị trường cũng phải chấp nhận nó thì mới có
thể tồn tại và phát triển được. Nhưng để có thể cạnh tranh được thì các
doanh nghiệp phải tự tạo ra năng lực cạnh tranh cho chính mình.
Theo quan điểm tân cổ điển: năng lực cạnh tranh của một
sản phẩm được xem xét thông qua lợi thế chi phí sản xuất và năng
suất. Với cụng một loại sản phẩm có chất lượng mã tương đương
nhau, sản phẩm nào có lợi thế hơn về chi phí sản xuất và năng suất
chắc chắn nó sẽ chiếm ưu thế hơn. Vì nếu chi phí sản xuất rẻ, năng
suất cao, doanh nghiệp có thể hạ giá bán sảm và người tiêu dùng
đương nhiên sẽ chọn sản phẩm có giá rẻ hơn mà chất lượng mẫu mã
không thua kém. Như vậy theo quan điểm này qua lợi thế về chi phí
sản xuất và năng suất của sản phẩm ta cũng có thể khẳng định được
doanh nghiệp nào có khả năng cạnh tranh cao hơn.
Theo quan điểm tổng hợp của Vanren, E.Martin và R.Westgren:
năng lực cạnh tranh của một ngành, một công ty là khả năng tạo ra và
duy trì lợi nhuận, thị phần trong nước và nước ngoài.
Từ các quan điểm trên ta có thể rút ra khái niệm chung cho
năng lực cạnh tranh: Năng lực cạnh tranh ngành là năng lực mà các
doanh nghiệp trong ngành có thể tự duy trì vị trí của nó một cách lâu
dài trên thị trường cạnh tranh, đảm bảo một mức lợi nhuận ít nhất là
bằng tỷ lệ đòi hỏi cho việc tài trợ cho các mục tiêu của doanh nghiệp
đồng thời thực hiện các mục tiêu mà doanh nghiệp đề ra.
9
1.1.2.2 Thực trạng năng lực cạnh tranh của Việt Nam
Dù Việt Nam có những bước phát triển khả quan gần đây,
nhưng sự thật thì năng lực cạnh tranh của Việt Nam còn yếu. Sau đây
là một số vấn đề bất cập về năng lực cạnh tranh của Việt Nam:
Thứ nhất, nhiều loại giá và chi phí ở Việt Nam cao hơn so
với mặt bằng giá trong khu vực
Thứ hai, năng lực sáng tạo và đổi mới khoa học công nghệ
của nước ta còn yếu. Số lượng các bằng phát minh sáng chế trên một
người dân chỉ bằng 1/11 so với Trung Quốc và Thái Lan, bằng 1/88 so
với Singapore.
Thứ ba, thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động đầu tư
kinh doanh đã được cải thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu
thực tiễn.
Thứ tư, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu nặng về hàng nguyên
liệu, sơ chế (trên 51%), tỷ lệ giá trị gia tăng trong hàng hóa xuất khẩu
còn thấp, chưa có các ngành công nghiệp hỗ trợ.
1.1.2.3 Những việc cần làm để nâng cao năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế quốc dân.
Tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), thực
thi Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ, trở thành thành viên của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO), thách thức cạnh tranh chắc chắn sẽ
ngày càng gay gắt đối với hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam. Thách
thức này đòi hỏi Chính phủ trong thời gian tới triển khai nhiều việc,
trong đó:
* Đẩy mạnh hơn nữa tốc độ cải thiện hệ thống chính sách, pháp luật.
* Nhanh chóng xây dựng và thực thi mạnh mẽ những chính sách
vĩ mô và vi mô theo hướng tạo thuận lợi hơn cho các doanh
nghiệp tiếp cận với các nguồn lực của nền kinh tế ( vốn, công
nghệ, cơ sớ hạ tầng…)
10
* Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng cho các
doanh nghiệp, trước hết là các doanh nghiệp trong nước, giảm
bớt các lĩnh vực kinh tế độc quyền, giảm trợ cấp đối với doanh
nghiệp Nhà nước.
* Xây dựng các ngành công nghiệp phụ trợ.
* Cải cách hệ thống tài chính ngân hàng, xây dựng thị trường
vốn mạnh làm tiền đề cho phát triển kinh tế.
* Tập trung nguồn lực cải thiện cơ sở hạ tầng.
* Chống tham nhũng mạnh mẽ.
Những cố gắng của Chính phủ nhằm cải thiện năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế là chưa đủ nếu không có sự nỗ lực từ phía
các doanh nghiệp. Chính doanh nghiệp mới là yếu tố quyết định năng
lực cạnh tranh quốc gia. Do vậy, mỗi doanh nghiệp cần xây dựng
những chiến lược sản xuất, kinh doanh ngắn hạn và dài hạn, phù hợp
với chiến lược phát triển chung của nền kinh tế quốc gia nhằm tận
dụng tối đa mọi nguồn lực sẵn có. Việc xây dựng và nâng cao năng
lực cạnh tranh của cả nền kinh tế đòi hỏi Đảng, Chính phủ, các bộ/ngành
và các doanh nghiệp phải đồng lòng và quyết tâm thực hiện mạnh mẽ.
1.1.3 Năng lực cạnh tranh của một quốc gia.
Theo Michael Porter, ông coi khả năng cạnh của một quốc
gia phụ thuộc vào khả năng cạnh tranh của ngành và cụ thể hơn là
cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành. Không có một nước nào
lại có khả năng cạnh tranh hơn một nước khác mà chỉ có các doanh
nghiệp nước này có khả năng cạnh tranh cao hơn doanh nghiệp nước khác.
11
Theo ông chỉ có chỉ số năng suất là có nghĩa cho khái niệm
tính cạnh tranh quốc gia bởi vì đây là yếu tố cơ bản quyết định việc
nâng cao mức sống của quốc gia xét về dài hạn. Điều này lại phụ
thuộc vào sự phát triển và tính năng động của các công ty. Chính vì
vậy, câu hỏi cho tính cạnh tranh hay lợi thế cạnh tranh quốc gia phải
là: Tại sao các công ty của một quốc gia nào đó lại thành công (trên
trường quốc tế) đối với một số ngành? Hay nói cách khác, những nhân
tố cơ sở tại gia nào của quốc gia, của công ty, cho phép công ty sáng
tạo và duy trì lợi thế cạnh tranh trên một lĩnh vực cụ thể?
1.2 MÔ HÌNH KIM CƯƠNG CỦA Michael Porter.
Theo M.Porter, khả năng cạnh tranh quốc gia được thể hiện
ở sự liên kết của 4 nhóm yếu tố, mối liên hệ này tạo thành mô hình có
tên là mô hình kim cương Porter. Các nhóm yếu tố điều kiện đó bao
gồm: một là điều kiện về các yếu tố đầu vào sản xuất; hai là điều kiện
về cầu: ba là các ngành công nghiệp hỗ trợ và các ngành công nghiệp
có liên quan; bốn là chiến lược, cơ cấu và mức độ cạnh tranh nội bộ
ngành. Cả bốn yếu tố này tác động qua lại lẫn nhau và hình thành nên
khả năng cạnh tranh của một quốc gia. Ngoài bốn yếu tố chính kể trên
còn có hai yếu tố nữa là vai trò của Chính phủ và cơ hội kinh doanh.
12
Sơ đồ 1:Mô hình kim cương
1.2.1 Điều kiện về các yếu tố đầu vào sản xuất.
Các yếu tố sản xuất được quan niệm là tất cả những gì
không phải là ‘‘đầu ra’’ cần thiết để cạnh tranh trong một ngành công
nghiệp như lao động, nguồn đất có thể sử dụng, nguồn tài nguyên
thiên nhiên, nguồn vốn và cơ sở hạ tầng. Các yếu tố đầu vào sản xuất
được chia ra làm hai nhóm là nhóm yếu tố cơ bản (các yếu tố chung)
và nhóm các yếu tố tiên tiến.
1.2.1.1 Nhóm các yếu tố cơ bản.
Các yếu tố cơ bản hay còn gọi là các yếu tố chung bao gồm
có nguồn tài nguyên thiên nhiên, khí hậu, vị trí địa lý, nguồn lao động
chưa qua đào tạo hoặc đào tạo giản đơn và vốn. Đây là nhóm yếu tố
được coi là nền tảng của học thuyết thương mại chuẩn.
Chiến lược, cơ
cấu cạnh tranh
nội bộ ngành
Điều kiện về các
yếu tố đầu vào
sản xuất
Các ngành công
nghiệp hỗ trợ và
có liên quan
Điều kiện
về cầu
Chính
phủ
Cơ
hội
13
Tài nguyên thiên nhiên: đó là những đó là những điều kiện
mà thiên nhiên ban tặng cho các quốc gia, đó là tất cả những gì có
trong tự nhiên như rừng, biển, các quặng mỏ... Đây là nguồn lực khan
hiếm, bởi tài nguyên thiên nhiên của mỗi quốc gia là có hạn chứ
không phải là vô hạn, không phải là rừng vàng biển bạc. Vì thế một
vấn đề cần được giải quyết trong việc khai thác tài nguyên thiên nhiên
của các quốc gia là phải vừa khai thác vừa tạo dựng lại tài nguyên ví
như vừa khai thác gỗ vừa phải trồng rừng. Và một điều cấp thiết nữa
là phải sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý tránh gây lãng
phí. Và nếu như một nước có tài nguyên thiên nhiên phong phú thì đây
là một điêu kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nâng cao được năng
cạnh tranh của mình
Khí hậu, vị trí địa lý: đây cũng là một yếu tố quyết định tới
năng lực cạnh tranh của quốc gia.
Nguồn nhân lực chưa qua đào tạo hoặc đào tạo giản đơn:
đây là đội ngũ công nhân với trình độ thấp kém, khả năng và năng suất
làm việc không cao.
Vốn: bao gồm có vốn trong nước và vốn đầu tư từ nước
ngoài. vốn trong nước là toàn bộ những yếu tố cần thiết để cấu thành
quá trình sản xuất – kinh doanh, được hình thành nên từ các nguồn lực
kinh tế và sản phẩm thặng dư của nhiều thế hệ của mỗi gia đình, mỗi
doanh nghiệp và cả quốc gia.
1.2.1.2 Nhóm các yếu tố tiên tiến.
Nhóm các yếu tố tiên tiến còn gọi là các yếu tố chuyên sâu,
nhóm yếu tố này bao gồm cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc viễn thông,
14
kỹ thuật số hiện đại, nguốn nhân lực chất lượng cao như các kỹ thuật
viên được đào tạo đầy đủ, những lập trình viên máy tính hoặc những
nhà nghiên cứu trong những lĩnh vực chuyên môn tinh xảo.
Trong hai nhóm yếu tố trên đây, nhóm các yếu tố tiên tiến
thường được hình thành trên cơ sở nhóm các yếu tố cơ bản. Sự hình
thành nhóm các yếu tố tiên tiến chủ yếu thông qua các hoạt động đào
tạo và cơ chế khuyến khích sự sáng tạo, đổi mới và phát triển.
Trong hai nhóm yếu tố trên thì nhóm yếu tố thứ hai tức
nhóm các yếu tố tiên tiến được Perter chú trọng và đề cao và coi đây
là nhóm yếu tố cốt lõi quyết định đến khả năng cạnh tranh quốc gia.
Mỹ là một cường quốc về phần mềm máy tính với đội ngũ cán bộ lập
trình viên hùng hậu. Nhật Bản là nước có đội ngũ đông đảo các kỹ sư
được đào tạo đầy đủ thay thế cho đội ngũ công nhân lao động giản
đơn...Xingapo là một nước có đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kỹ
thuật có trình độ cao trong lĩnh dịch vụ hàng không, sữa chữa tàu biển
và thị trường chứng khoán. Đây là những nước có nên kinh tế có năng
lực cạnh tranh cao.
1.2.2 Điều kiện về cầu.
Điều kiện về cầu được thể hiện trực tiếp ở tiềm năng của
thị trường. Thị trường là nơi quyết định cao nhất năng lực cạnh tranh
của một quốc gia. Thị trường trong nước có những đòi hỏi cao về sản
phẩm sẽ là động lực thúc đẩy các công ty thuờng xuyên cải tiến và đổi
mới sản phẩm nếu các công ty này muốn tồn tại và phát triển. Cũng
tương tự như vậy, thị trường nước ngoài đặt ra những tiêu chuẩn cao
15
đối với các sản phẩm và các dịch vụ đòi, đăt ra cho những công ty
muốn thành công trên thị trường quốc tế phải luôn đổi mới và đáp ứng
kịp thời các nhu cầu của thị trường nước ngoài (để kinh doanh thành
công thì phải biết bán cái gì người ta cần chứ không phải bán cái gì
mình có). Ví dụ thị trường các mặt hàng điện tử dân dụng hoặc ô tô du
lịch ở Nhật Bản chỉ có chỗ đứng cho các công ty có khả năng cạnh
tranh quốc tế cao.
Đồng thời, thị trường trong nước đang tiến đến xu hướng
quốc tế hóa nghĩa là không còn sự khác biệt giữa các thị trường nước
ngoài, thị trường nội địa và nhu cầu nội địa. Các sản phẩm được sản
xuất ra được tiêu chuẩn hóa ngày càng cao và có tính chất quốc tế. Vì
vậy, các yêu cầu đặt ra đối với thị trường nội địa sẽ càng ngày càng
cao gắn với nhu cầu của thị trường quốc tế. Thị trường phần mềm thế
giới không ngừng được tiêu chuẩn hóa cao và mức độ cạnh tranh hết
sức ác liệt.
1.2.3 Nhóm các ngành công nghiệp hỗ trợ và các ngành công
nghiệp có liên quan.
Khả năng cạnh tranh của một ngành nói riêng và khả năng
cạnh tranh của một quốc gia nói chung phụ thuộc rất lớn vào các
ngành công nghiệp hỗ trợ và các ngành công nghiệp có liên quan bởi
vì các công ty này nằm trong ngành không thể tồn tại một cách tách
biệt với các công ty của các ngành công nghiệp khác.
Các ngành công nghiệp hỗ trợ thường là các ngành cung
cấp các đầu vào cho ngành có khả năng cạnh tranh cao. Theo sự phát
16
triển có tính chất tự nhiên, khi một ngành công nghiệp nổi lên với khả
năng cạnh tranh hùng mạnh thì sẽ làm xuất hiện một loạt các ngành hỗ
trợ và các ngành có liên quan (các xí nghiệp vệ tinh) đến ngành công
nghiệp nổi lên đó. Hệ thống các ngành này có thể liên kết theo chiều
dọc hoặc liên kết theo chiều ngang tạo thành các cụm công nghiệp có
mối liên hệ ‘‘dây mơ rễ má” với nhau. Các mối liên hệ, tác động lẫn
nhau giữa các ngành giúp cho các ngành phát huy được thế mạnh kết
hợp, tăng được khả năng cạnh tranh của từng ngành trong cụm công
nghiệp đó. Cụ thể là các ngành công nghiệp hỗ trợ có thể giúp các
công ty nhận thức được các phương pháp mới và cơ hội mới để ứng
dụng công nghệ mới.
Quá trình trao đổi thông tin sẽ diễn ra mạnh hơn giữa các
ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan và các hoạt động phối hợp
nghiên cứu và triển khai, phối hợp giải quyết các vấn đề sẽ thúc đẩy
các công ty gia tăng khả năng thích ứng với các cơ hội và vấn đề.
Thực chất đây là quá trình gia tăng năng lực cạnh tranh về lâu dài.
Hơn nữa, các công ty có mối liên hệ với nhau trong một chuỗi giá trị
cho nên tác động hỗ trợ lẫn nhau sẽ rất lớn. Chẳng hạn,ngành công
nghiệp may mặc có thể phát triển khi ngành công nghiệp thời trang
phát triển và ngược lại. Các ngành công nghiệp bán dẫn, phần mềm và
thương mại là những ngành công nghiệp có ảnh hưởng lẫn nhau rất lớn.
1.2.4 Chiến lược, cơ cấu và mức độ cạnh tranh nội bộ ngành.
Chiến lược của công ty có ảnh hưởng lâu dài đến khả năng
cạnh tranh của nó trong tương lai bởi vì các mục tiêu, chiến lược và
cách tổ chức các công ty trong các ngành công nghiệp có sự khác nhau
17
rất lớn giữa các quốc gia. Yếu tố này chi phối đến hoạt động đầu tư
đào tạo nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ, phát triển sản phẩm và thị
trường của từng công ty và cả ngành. Khả năng cạnh tranh quốc gia là
kết quả của sự kết hợp hợp lý giữa các lựa chọn này với các nguồn lực
của lợi thế cạnh tranh trong một ngành công nghiệp cụ thể. Ngoài
chiến lược phát triển, cơ cấu của một ngành công nghiệp cũng quyết
định rất lớn đến khả năng cạnh tranh của toàn ngành. Cơ cấu của các
ngành công nghiệp liên quan đến ngành mũi nhọn các ngành được ưu
tiên, mức độ liên hệ và hỗ trợ lẫn nhau giữa các ngành đển phục vụ
cho mục tiêu nhất định. Cơ cấu của ngành công nghiệp ảnh hưởng đến
hiệu quả của toàn ngành. Bên cạnh đó, cạnh tranh trong nội bộ nghành
và giữa các công ty trong một nước càng gay gắt thì năng lực cạnh
tranh trên thị trương quốc tế của công ty đó sẽ càng cao. Các đối thủ
cạnh tranh trong nội bộ ngành gây sức ép lẫn nhau đối với việc giảm
chi phí, cải thiện chất lượng, giá cả và việc sáng tạo ra sản phẩm mới.
Điều này kích thích hoạt động đổi mới để vượt qua mối lo ngại bị tụt
hậu trong quá trình phát triển của công ty, giúp công ty đứng vững
trên cả thị trường trong nước và quốc tế.
Thực tế đã cho thấy, ở Nhật Bản các công ty có khả năng
cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế do các công ty này cạnh tranh
rất thành công ở thị trường trong nước. Việc cạnh tranh trong nước đã
giúp chúng tích lũy được nhiều kinh nghiệm và do đó chúng sẽ có
chiến lược cạnh tranh quốc tế hữu hiệu.
18
1.2.5 Vai trò của Chính phủ.
Chính phủ thông qua những chính sách (tỉ giá hối đoái, lãi
suất, trợ cấp,thuế và các công cụ khác) để tác động đến các ngành
công nghiệp. Chính phủ có thể khuyến khích hoặc hạn chế sự phát
triển của các ngành công nghiệp trong nước trong những giai đoạn tùy
theo mục tiêu đặt ra của chính phủ trong giai đoạn đó. Chẳng hạn,
Chính phủ Trung Quốc có chính sách khuyến khích suất khẩu thông
qua các biện pháp như thưởng xuất khẩu, giảm giá đồng tiền trong
nước, thành lập các trung tâm xúc tiến thương mại, giảm bớt mức độ
kiểm soát ngoại tệ, tham gia vào Tổ chức Thương Mại Thế Giới,
thành lập các khu chế biến xuất khẩu... đã góp phần thúc đẩy mạnh mẽ
hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Trung Quốc trên thị trường
thế giới. Chỉ đối với thị trường liên minh châu Âu trong năm 2001,
các doanh nghiệp ngành giày dép của Trung Quốc đã chiếm tới 33,4%
tổng khối lượng nhập khẩu giày dép của cả Liên.
1.2.6 Cơ hội kinh doanh
Các cơ hội thường tạo ra những thay đổi đột ngột và làm
thay đổi vị thế cạnh tranh. Các cơ hội có thể làm vô hiệu hóa các lợi
thế của các đối thủ cạnh tranh được hình thành từ trước đó và tạo ra
tiềm năng mà các công ty của một quốc gia mới có thể loại bỏ chúng
để đạt được lợi thế cạnh tranh khi có điều kiện mới và khác trước.
Chẳng hạn việc phát minh ra các chùm vi điện tử đã tạo ra điều kiện
cho Nhật Bản đạt được lợi thế cạnh tranh cân bằng với Đức và Mỹ.
Việc gia tăng nhu cầu về tàu thủy đã tạo điều kiện cho Hàn Quốc gia
nhập vào ngành công nghiệp tàu thủy có khả năng cạnh tranh với Nhật.
19
Như vậy khả năng cạnh canh của một ngành công nghiệp
được thể hiện ở khả năng sáng tạo và đổi mới của ngành đó. Điều này
được khái quát hóa cho một thực thể lớn hơn – một quốc gia. Trong
mô hình kim cương của Porter, bốn nhóm yếu tố chính tác động lẫn
nhau cùng với hai yếu tố là vai trò của Chính phủ và yếu tố cơ hội tác
động tới bốn yếu tố trên tạo nên năng lực cạnh tranh của một quốc gia.
20
CHƯƠNG II:
NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH DỆT
MAY VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH VIỆT NAM
TRỞ THÀNH THÀNH VIÊN CỦA WTO
2.1 THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH NGÀNH
DỆT MAY VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY.
2.1.1 Đầu vào của ngành Dệt May.
2.1.1.1 Thị trường lao động của ngành Dệt May.
Trong ngành Dệt May nói riêng trong các ngành công
nghiệp nói chung đều có nguồn lao động dồi dào và giá nhân công rẻ,
điều này tạo nên lợi thế so sánh trong cạnh tranh của Dệt May Việt
Nam với các nước khác. Nhưng đội ngũ công nhân của nước ta chỉ là
nguồn nhân lực chưa qua đào tạo hoặc đào tạo giản đơn. Và khi tự do
hoá thương mại, nó mang lại lợi ích chung cho cả nền kinh tế nhưng
nó lại mang lại áp lực cho thị trường lao động cũng như điều kiện lao
động. Việc loại bỏ hạn ngạch dệt may sẽ mang lại những ảnh hưởng
sâu rộng đến việc làm ở Việt Nam trong thời gian tới. Kinh nghiệm
cho thấy lao động mất việc làm trong ngành dệt may thường có mức
độ đào tạo thấp, kỹ năng làm việc thấp và lao động nữ chiếm tỷ lệ
cao. Những đặc điểm này khiến lao động trong ngành dệt may rất khó
khăn trong việc thay đổi để phù hợp với các điều kiện của thị trường
lao động (thay đổi công nghệ, chuyển dịch sản xuất...). Vì vậy, cần
phải có các chương trình tổng thể nhằm hỗ trợ những lao động có
21
nguy cơ mất việc làm trong ngành dệt may. Để đối phó với tình trạng
mất việc làm, nâng cao chất lượng lao động, Việt Nam cần tăng lượng
đào tạo đối với lực lượng lao động. Cụ thể là tổ chức các khoá đào tạo
theo chuẩn quốc tế. Nắm bắt được nhu cầu về nguồn nhân lực của
ngành, Hiệp hội Dệt May Việt Nam với sự hỗ trợ của các tổ chức
quốc tế đã triển khai các lớp đào tạo về quản lý – kinh tế - kỹ thuật.
Trong đó, triển khai hai lớp học quản lý do Thụy Điển tài trợ; 17 lớp
học tại các doanh nghiệp trong cả nước đào tạo tại chỗ về kỹ thuật
nhuộm, may cho trên 500 học viên do các chuyên gia Nhật Bản giảng
dạy với sự tài trợ của JPDC. Những hoạt động đào tạo này đã giúp
cho các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam nâng cao được trình độ cán
bộ quản lý và kỹ thuật. Như vậy thông qua đào tạo và cơ chế khuyến
khích nâng cao tay nghề của người thợ và nhu cầu về nguồn nhân lực
có trình độ đã hình thành đội ngũ cán bộ có trình độ quản lý và trình
độ kỹ thuật trong ngành Dệt May Việt Nam. Từ đó nâng cao năng lực
cạnh tranh của ngành Dệt May trên cả thị trường trong nước và quốc tế.
Tuy rằng trình độ của đội ngũ cán bộ và công nhân của
ngành đang được nâng cao nhưng vẫn còn nhiều bất cập trong vấn đề
nguồn nhân lực. Đó là, mặc dù Việt Nam có lợi thế là chi phí nhân
công trong công đoạn lắp ráp và gia công sản phẩm nhưng chắc chắn
không có lợi thế trong cả chuỗi cung ứng bao gồm các công đoạn có
giá trị g ia tăng cao như thiết kế, thu mua – cung ứng nguyên liệu,
quản lý sản xuất và quản lý phân phối... Nhằm đối phó những thách
thức này đòi hỏi các nhà cung ứng Việt Nam phải đẩy mạnh đầu tư
vào kế hoạch tìm nguồn nguyên liệu cụ thể, giáo dục các kỹ năng liên
22
quan đến dịch vụ nhằm khuyến khích thành lập các cấu trúc mà ở đó
các nhà cung ứng nội địa có thể chia sẻ kiến thức thị trường và những
giải pháp với các khách hàng tiềm năng.
2.1.1.2 Công nghệ trong ngành Dệt May.
Công nghệ là thứ khó có thể bắt chước được và giá nhân
công rẻ cũng không thể thay thế công nghệ được, vì thế để có thể
đứng vững trên thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế,
một điều đặt ra đối với ngành Dệt May Việt Nam là cần phải áp dụng
công nghệ vào sản xuất, không ngừng đổi mới công nghệ.
Hiện nay ở nước ta, công nghệ đã được áp dụng rộng rãi trong
ngành Dệt May, đây là điều đáng mừng đối với Dệt May của chúng ta.
Năm 2004 Bộ công nghiệp, sau khi nghiên cứu nhu cầu thị
trường, khẳng định rằng: mặc dù xơ sợi tổng hợp đang phát triển vượt
bậc về số lượng và chất lượng, nhưng trong lĩnh vực thời trang và may
mặc thế giới vẫn có xu hướng quay về sử dụng các sản phẩm dệt từ xơ
sợi thiên nhiên, trong đó tơ tằm với những tính chất ưu việt của nó
như: nhẹ, mềm mại, thoáng mát, hợp môi sinh, sang trọng vẫn luôn
được ưa chuộng. Bộ công nghiệp quyết định giao cho Phân Viện Kinh
tế Kỹ thuật dệt may Viện Kinh tế Kỹ thuật dệt may Tổng công ty may
Việt Nam nhiệm vụ: "Nghiên cứu công nghệ dệt mặt hàng tơ tằm co
dãn 4 chiều trên máy dệt kiếm". Kết quả nghiên cứu là có thể dệt mặt
hàng tơ tằm co dãn 4 chiều trên máy, loại vải này được dệt bằng sợi tơ
tằm có pha sợi lycra ở cả sợi dọc và sợi ngang. Đây là một bước tiến
của ngành Dệt May nước ta.
23
2.1.1.3 Nhập khẩu sợi nguyên liệu đầu vào của ngành Dệt May Việt Nam.
Tính đến tháng 11/2006 thì 11 tháng đầu năm, nhập khẩu
sợi của Việt Nam đạt 310,6 ngàn tấn, trị giá 496 triệu USD, tăng
61,6% về lượng và 54,5% về trị giá so với cùng kỳ 2005
( Số liệu: trang web www.detmay.com.vn).
Như vậy trong năm 2006 lượng nhập khẩu sợi nguyên liệu
tăng rất mạnh so với năm 2005, điều này đã chứng tỏ nhu cầu sợi
trong nước tăng nhiều so với năm trước, hứa hẹn một năm phát triển
của ngành Dệt May.
Bảng 1: Thị trường nhập khẩu sợi của Việt Nam tháng 11
và 11 tháng đầu năm
Nước ĐVT
Tháng11/2006 11 tháng năm2006
Lượng Trị giá (USD) Lượng Trị giá (USD)
Ấn Độ Tấn 362 891.681 4.302 8.850.448
Bỉ Tấn 96 169.735 4.302 443.923
Đài Loan Tấn 113.116 19.654.264 158.849 228.945.574
Hàn Quốc Tấn 2.462 4.826.823 26.834 48.322.298
Hồng Kông Tấn 166 420.825 3.507 13.303.989
Indonêsia Tấn 2.069 3.213.191 16.574 27.851.674
Italia Tấn 4 28.582 104 746.185
Malaysia Tấn 3.776 5.445.460 31.357 40.941.674
Mỹ Tấn 2.069 3.213.191 16.574 27.851.674
Nhật Bản Tấn 197 415.438 1.679 2.101.656
Pháp Tấn 51 881.671
Sigapore Tấn 51 243.046 426 1.140.093
Thái Lan Tấn 3.736 5.600.294 33.171 47.242.049
Trung Quốc Tấn 2.855 5.344.788 30.187 65.814.670
Nguồn: www.detmay.com.vn
24
Từ bảng trên ta thấy Đài Loan là thị trường sợi mà Việt
Nam chủ yếu nhập khẩu chiếm khoảng gần 90% trên tổng lượng sợi
nhập khẩu tháng 11nănm 2006 và chiếm hơn 55% trên tổng lượng
nhập khẩu trong 11 tháng đầu năm 2006.
Trong thời gian gần đây, lượng nhập khẩu sợi nguyên liệu
đã tăng mạnh, đây vừa là niềm vui nhưng nó cũng là nỗi lo đối với
ngành Dệt May của chúng ta, bởi tính đến 2006, năng lực sản xuất
toàn ngành về nguyên liệu: xơ bông 10.000 tấn/năm (chiếm 5% nhu
cầu); xơ sợi tổng hợp 50.000 tấn (30% nhu cầu), sợi xơ ngắn 260.000
tấn (60% nhu cầu). Đối với sản xuất dệt nhuộm: vải dệt kim 150.000
tấn (60% nhu cầu); dệt thoi 680 triệu m2 (chiếm 30% nhu cầu). Những
con số trên cảnh báo với chúng ta rằng, có thể từ lâu nay, ngành Dệt
May đang ‘‘đi trên đôi chân của người khác”, bởi lẽ 95% nhu cầu xơ
bông, 70% nhu cầu sợi tổng hợp, 40% nhu cầu sợi xơ ngắn, 40% nhu
cầu vải dệt kim và 60% nhu cầu vải dệt thoi cho cả một ngành công
nghiệp hoàn toàn phải nhập khẩu từ nước ngoài.
2.1.2 Các doanh nghiệp trong ngành Dệt May.
2.1.2.1 Vitas - Hiệp hội Dệt May Việt Nam – Mái nhà chung của các
doanh nghiệp Dệt May.
‘‘Buôn có bạn, bán có phường” câu phương ngôn đó không
chỉ đúng trong lĩnh vực Thương Mại mà nó còn đúng cho cả trong lĩnh
vực sản xuất – kinh doanh. Chính vì thế mà Hiệp hội Dệt May Việt
Nam đã được thành lập vào ngày 21 tháng 11 năm 1999 theo Quyết
định số 24/1999 ngày 16-7-1999 của Bộ trưởng Bộ Nội Vụ.
25
Có thể nói rằng, Hiệp hội Dệt May ra đời đã trở thành động
lực quan trọng trong việc thực hiện Chiến lược phát triển ngành Dệt
May nhằm đạt được kết quả: năm 2005, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt
may đạt 4,84 tỷ USD, trong 2 tháng đầu năm 2006, kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may đạt 867 triệu USD, tăng 45,5% so với cùng kỳ năm
2005. Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam kỳ vọng đến năm 2010
doanh thu của ngành sẽ tăng lên khoảng từ 9 đến 10 tỷ USD.
Sự ra đời của Hiệp hội Dệt May là một sự cần thiết thiết
yếu. Với hơn 1.200 doanh nghiệp lớn vừa và nhỏ, nhưng các doanh
nghiệp tiến hành sản xuất – kinh doanh mang tính tự phát, hầu như
không có sự liên kết trong sản xuất – kinh doanh, cũng như trong lĩnh
vực đào tạo nguồn nhân lực. Vì thế không tạo được một thế mạnh
tổng thể để ngành có thể phát triển một cách toàn diện, Vì vậy sự ra
đời của Hiệp hội Dệt May là yêu cầu bức thiết.
Hiệp hội Dệt May Việt Nam đã tạo được cầu nối giữa các
doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với Nhà Nước và với thị trường
bằng những chức năng chính như sau:
Một: Nắm bắt kịp thời tình hình hoạt động và tiềm năng của
ngành Dệt May Việt Nam và thế giới, từ đó tư vấn cho hội
viên trong việc sản xuất – kinh doanh .
Hai: Tư vấn về đầu tư, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật, liên
doanh, liên kết trong và ngoài nước; hỗ trợ hoạt động kinh tế
đối ngoại của các hội viên theo phương hướng phát triển
chung của hiệp hội nhằm bảo vệ lợi ích kinh tế của từng hội
viên và toàn ngành.
26
Ba: Tạo môi trường liên kết, hợp tác giữa các hội viên về sản
xuất – kinh doanh, nhằm phát huy thế mạnh và lợi ích của
từng hội viên cũng như toàn ngành, làm đầu mối giải quyết
các tranh chấp giữa các hội viên.
Bốn: Phối hợp trong phạm vi hiệp hội về lĩnh vực sản xuất – kinh
doanh, nghiên cứu khoa học, thông tin kinh tế đào tạo nguồn
nhân lực, trao đổi về kinh nghiệm công tác quản lý, áp dụng
kỹ thuật mới.
Năm: Tư vấn và kiến nghị với Chính phủ trong việc ban hành
chính sách, chế độ liên quan đến ngành Dệt May.
Sáu:Tham gia các hoạt động với các tổ chức dệt may quốc tế và
khu vực để đưa ngành Dệt May Việt Nam từng bước hội
nhập theo quy định của Luật pháp Việt Nam và quy tắc ứng
xử thương mại quốc tế.
2.1.2.2 Liên doanh đầu tiên giữa ngành Dệt May Việt Nam và Hoa Kỳ.
Sau khi Việt Nam đạt được thỏa thuận song phương Việt –
Mỹ về việc Việt Nam gia nhập WTO, tại hội trường Thống Nhất
Tp.Hồ Chí Minh, Tổng công ty Phong Phú và Tập đoàn ITC – Hoa Kỳ
đã tổ chức lễ ký kết hợp đồng liên doanh hợp tác xây dựng khu liên
hợp sản xuất hàng cotton cao cấp tại Tp – Đà Nẵng”. Theo Tổng Giám
đốc Tổng công ty Phong Phú, ông Trần Quang Nghị: ‘‘Sự ra đời của
Công ty TNHH ITC-Phong Phú ngay sau thời điểm Việt Nam gia
nhập WTO đã đánh dấu một bước hợp tác phát triển mới giữa ngành
Dệt May Việt Nam và Hoa Kỳ.
27
2.1.3 Nhu cầu hàng Dệt May trên thị trường trong nước
và quốc tế
2.1.3.1 Thị trường nội địa làm nền tảng.
Thị trường nội địa với dân số khoảng 80 triệu người vào
năm 2002 có thu nhập ngày càng được cải thiện, cùng xu hướng
chuyển dần sang dùng hàng may sẵn của người Việt Nam đã mở ra
một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam khi khai thác
thị trường trong nước. Hơn nữa, khi các sản phẩm của doanh nghiệp
được người tiêu dùng trong nước chấp nhận sẽ là một tiêu chuẩn để
đáng giá năng lực chất lượng của các doanh nghiệp Dệt May. Đồng
thời, thị trường nội địa cũng là bước đệm, là một phương vững chắc
cho các doanh nghiệp lui về khi thị trường thế giới có biến động.
Nhận thức được vai trò quan trọng của thị trường trong
nước, các doanh nghiệp Dệt May đã không ngừng phát triển và đã đạt
được nhiều thành tựu. Đó là từ năm 2000 đến nay, ngành Dệt May
Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng bình quân hơn 20% / năm, thu hút
gần 2 triệu lao động lao động, đóng góp 15% tổng kim ngạch xuất
khẩu cả nước. phát triển thị trường nội địa tăng trưởng 15%, doanh số
bán lẻ ước đạt 2.05 tỷ USD, kim ngạch xuất khẩu đạt gần 6 tỷ USD
(tăng 24%); giá trị sản xuất công nghiệp của ngành tăng trưởng
16%...Việc Việt Nam gia nhập WTO, ngành Dệt May có nhiều cơ hội
nhưng cũng phải đối mặt với nhiều thách thức lớn trong cạnh tranh, đó
là hàng rào bảo hộ hàng sản xuất trong nước đã giảm đến mức tối đa
theo cam kết của WTO.
28
2.1.3.2 Hàng Dệt May trên một số thị trường.
Trên thị trương Mỹ : Bắt đầu từ tháng 1/2007 hàng dệt may
Việt Nam sẽ không phải chịu hạn ngạch sang Mỹ, điều này tưởng như
niềm vui đối với các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam. Tuy nhiên,
dưới áp lực của các nhà sản xuất, Bộ Thương mại Mỹ đã đưa ra một
quy chế mà theo đó sẽ áp dụng hệ thống kiểm soát chặt chẽ, theo dõi
các nhóm hàng nhập khẩu từ Việt Nam, nhất là đối với quần ao sơ mi
trong 6 tháng đầu năm. Ngoài ra, phía Mỹ cũng sẽ giám sát chặt chẽ
việc nhập khẩu hàng dệt may từ Việt Nam định kỳ 6 tháng một lần
nhằm xem xét liệu có đủ bằng chứng để điều tra chống bán phá giá đối
với bất cứ mặt hàng dệt may nào của Việt Nam. Đây là một điều đáng
lo ngại cho ngành Dệt May của Việt Nam, bởi nếu như trước đây áp
dụng hạn ngạch, bên cạnh mặt tiêu cực làm hạn chế xuất khẩu đối với
Việt Nam còn có mặt tích cực là giảm thiểu tối đa khả năng bị áp dụng
các rào cản thương mại – trong đó có chống bán phá giá. Đến nay, cơ
chế cũ không còn và thay vào đó là áp dụng theo cơ chế mới, theo cơ
chê mới này thì bất cứ lúc nào phía Mỹ cũng có thể áp dụng mức cao
để ngăn chặn hàng dệt may từ Việt Nam. Đây là mối lo ngại cho các
doanh nghiệp trong ngành. Thực tế cho thấy, hiện tại, một số nhà nhập
khẩu Mỹ đang muốn chuyển đơn hàng sang các nước khác. Đây là
điều đáng lo ngại nhất vì có tới hơn 70% hàng dệt may Việt Nam là
xuất khẩu sang Mỹ.
Hàng Dệt May Việt Nam trên thị trường EU: Đối với thị
trường này, trong điều kiện hầu hết các doanh nghiệp Dệt May Việt
Nam là vừa và nhỏ vì vậy làm thế nào để có thể chủ động đi tìm khách
29
hàng mà không phải xách cặp đi nước ngoài liên tục. Để làm được
điều đó các doanh nghiệp phải tăng cường sử dụng thương mại điện tử
để quảng bá, giới thiệu. Phải tìm cách liên hệ với lực lượng người Việt
Nam ở EU để họ làm đầu mối cho mình. Hiện nay có khoảng 70.000
người Việt Nam làm thương mại tại EU. Tháng 5/2004 có thêm 10
nước gia nhập vào khối EU, đây là một cơ hội lớn cho các doanh
nghiệp Dệt May Việt Nam. Làm thế nào để đưa hàng Việt Nam vào
các chợ đầu mối, các hệ thống bán lẻ của người Việt Nam tại Nga,
Tiệp, Đức... thay vì từ trước tới nay chợ của người Việt Nam lại lấy
hàng Trung Quốc về bán. Đồng thời phải liên kết giữa các công ty ở
Việt Nam với các công ty khai thác thị trường của nước ngoài để tạo
đươc sự hợp tác thương mại hai bên cùng có lợi.
Từ thực tế trên, từ những từ thời cơ và thách thức đó,
ngành Dệt May Việt Nam đã đưa ra chiến lược trong thời gian tới là
lấy thị trường nội địa làm nền tảng và xuất khẩu làm động lực phát triển.
2.1.4 Các ngành công nghiệp hỗ trợ và các ngành công
nghiệp có liên quan tới ngành Dệt May.
Với chi phí nhân công rẻ, người lao động cần cù chịu khó
đấ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho ngành Dệt May Việt Nam, với lợi thế
này các doanh nghiệp Dệt May có thể giảm giá thành sản phẩm mà
chất lượng không giảm, giúp các doanh nghiệp có thể đứng vững trên
những thị trường có tiếng là cạnh tranh gay gắt như EU chẳng hạn.
Đối với ngành Dệt May Việt Nam người lao động có quyết
định lớn tới năng lực cạnh tranh của ngành. Sức khỏe của người lao
động được quan tâm đặc biệt, đó là tháng 4/1998 trung tâm y tế Dệt
30
May được chính thức thành lập, với chức năng quản lý và hướng dẫn
y tế cơ sở, chăm lo sức khỏe cho người lao động trong ngành. Từ đó
đến nay Trung tâm Y tế Dệt May đã góp sức vào thành tích chung của
ngành Dệt May Việt Nam. Đến tháng 11/2005 Trung tâm Y tế Dệt
May được nâng hạng thành Bệnh viện Dệt May thực hiện nhiệm vụ
thường xuyên khám bệnh và điều trị về các loại bệnh nghề nghiệp như
viêm phế quản mãn tính, bụi phổi bông, các bệnh xương khớp, tai mũi
họng, răng hàm, mặt,... phục hồi chức năng sau điều trị và sau khi mắc
bệnh nghề nghiệp, nghiên cứu khoa học phục vụ cho ngành như tổ
chức khám sức khỏe định kỳ cho người lao động, huấn luyện người
lao động thực hiện an toàn vệ sinh lao động,
Để đáp ứng nhu cầu về đội ngũ lao động có tay nghề, đội
ngũ cán bộ quản lý và đội ngũ cán bộ kỹ thuật ngày 10/10/2005,Bộ
Công Nghiệp cùng với Bộ Giáo dục và Đào Tạo quyết thành lập
Trường Cao Đẳng Công nghiệp Dệt May&Thời trang Hà Nội trên cơ
sở nâng cấp Trường Trung học Kỹ thuật May và Thời Trang. Nhiệm
vụ chính của Trường là đào tạo và bồi dưỡng cán bộ có trình độ Cao
đẳng và trình độ thấp hơn trong lĩnh vực Công nghệ may, Thiết kế
thời trang, Quản trị kinh doanh.
2.1.5 Vai trò của chính phủ đối với nâng cao năng lực cạnh
tranh của ngành Dệt May Việt Nam.
2.1.5.1 Vai trò của Chính phủ được thể hiện thông qua các chính sách.
Nhằm tạo ra mọi điều kiện cho việc tồn tại và phát triển
ngành Dệt May Việt Nam hướng ra thị trường thế giới, trong những
năm qua, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách quan trọng để
31
khuyến khích đầu tư và mở rộng sản xuất, xuất khẩu, nhằm biến
ngành Dệt May trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn trong chiến
lược phát triển kinh tế của đất nước. Như Quyết định 55/2001/QĐ –
TTg, theo quyết định này, Chính phủ sẽ giành cho ngành Dệt May
Việt Nam các ưu đãi về vốn, cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển nhằm
thực hiện thành công Chiến lược phát triển ngành Dệt May đến năm
2010 trong xu thế hội nhập toàn cầu.
2.1.5.2 Chính phủ có vai trò quan trọng trong việc tạo ra một môi
trường vĩ mô ổn định với lạm phát thấp và tăng trưởng ổn định.
Kinh nghiệm cho thấy, với một nền kinh tế tăng trưởng ổn
định, lạm phát sẽ thấp và tỷ lệ thất nghiệp giảm, có nhiều công ăn việc
làm được tạo ra hơn. Trong khi đó các chương trình tổng thể ở cấp vĩ
mô và vi mô như thuận hóa thương mại, điều chỉnh và đổi mới thị
trường lao động sẽ mang lại lợi ích to lớn cho ngành Dệt May Việt Nam.
2.1.6 Cơ hội đối với ngành Dệt May Việt Nam khi Việt Nam
là thành viên của WTO.
Việt Nam là thành viên của WTO, đã mở ra cho ngành Dệt
May những cơ hội mới. Đây là cơ hội thực sự cho ngành Dệt May
khai thác thị trường mới mở như Nam Mỹ, Trung Đông. Thực tế đã
chứng minh, những năm gần đây, hàng Dệt May Việt Nam đã có mặt
trên hầu hết các nước trên thế giới. Trong một tương lai không xa, sản
phẩm dệt may với thương hiệu‘‘Made in Vietnam” sẽ là một mặt hàng
cạnh tranh đáng kể với sản phẩm của các nước có năng lực sản xuất
lớn trên thế giới.
32
Những cơ hội lớn đã, đang và sẽ là những nhân tố quan
trọng cho sự phát triển của ngành Dệt May Việt Nam. Tuy nhiên, để
tận dụng được những cơ hội đó ngoài sự trợ giúp từ phía Chính phủ
đòi hỏi các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam cần phải cố gắng hơn
nữa mới có thể khai thác triệt để các cơ hội.
2.2 CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM TRONG BỐI
CẢNH VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN CỦA WTO.
Trước những cơ hội và thách thức của ngành Dệt May khi
Việt Nam là thành viên của WTO, ngành đã đưa ra chiến lược phát
triển trong thời gian tới là thị trường nội địa là cơ sở để tồn tại và thị
trường xuất khẩu là động lực để phát triển. Cụ thể, trong thời gian tới,
toàn ngành cần chú trọng thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất:Để nâng cao năng lực cạnh tranh ngành Dệt May,
cần phải đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, coi trọng việc
đào tạo nguồn nhân lực công nghệ, đồng thời có chính sách để thu hút
thêm nguồn nhân lực giỏi. Áp dụng công nghệ thông tin, đổi mới công
nghệ, nhằm giảm chi phí, giảm thời gian giao hàng, nâng cao chất
lượng hoạt động kinh doanh, chất lượng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ.
Thứ hai: Tập trung vào thực hiện đề án Thời trang hóa sản
xuất và kinh doanh ngành Dệt May Việt Nam cùng với việc đẩy mạnh
xây dựng thương hiệu sản phẩm trong nước và khu vực. Vào thời
điểm hiện nay, các doanh nghiệp Dệt May không nên quá tập trung
33
vào một thị trường mà cần chuyển hướng sang các thị trường còn
nhiều tiềm năng như Trung Cận Đông, Châu Phi, Châu Úc...
Thứ ba: Các doanh nghiệp cần đầu tư cơ sở sản xuất kỹ
thuật, tận dụng lợi thế sân nhà, củng cố và mở rộng mạng lưới phân
phối để giữ vững thị trường nội địa, đồng thời đẩy mạnh việc liên
doanh, liên kết với các đối tác để đầu tư mạnh hơn vào việc sản xuất
vải, phụ liệu ngay ở trong nước...
Thứ tư: Các doanh nghiệp Dệt May cần hạn chế xuất khẩu
đối với các lô hàng đẳng cấp thấp có giá trị quá thấp, chuyển sang sản
xuất sản phẩm có chất lượng cao và có thương hiệu đẳng cấp cao. Bên
cạnh đó, các doanh nghiệp cần tìm hiểu luật chống bán phá giá của đối
tác để kiện toàn hệ thống sổ sách, rõ ràng, minh bạch về xuất xứ hàng
hóa, chi phí và giá thành sản phẩm xuất khẩu.
34
KẾT LUẬN
Đối với Việt Nam, ngành Dệt May là ngành công nghiệp
lớn thứ hai, năm 2005 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 4,84 tỷ
USD, trong 2 tháng đầu năm 2006, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
đạt 867 triệu USD, tăng 45,5 so với cùng kỳ năm 2005. Các doanh
nghiệp Dệt May Việt Nam kỳ vọng đến năm 2010 doanh thu của
ngành sẽ tăng lên khoảng từ 9 đến 10 tỷ USD.
Việt Nam mới chính thức là thành viên của WTO được 7
tháng, ngành Dệt May đã có nhiều thành tựu, đó là sự phát triển không
ngừng của ngành, đã có sự thay đổi về chất của các doanh nghiệp Dệt
May, áp dụng khoa học công nghệ vào trong quá trình sản xuất và quá
trình tổ chức sản xuất, mở hàng loạt các lớp đào tạo ngắn hạn và dài
hạn cho công nhân cán bộ trong ngành.
Bên cạnh những thành công, ngành Dệt May cũng còn rất
nhiều cái chưa được như ngành dệt chưa khai thác được lợi thế sân
nhà để cung cấp vải cho ngành may, bộ máy quản lý con yếu kém, đội
ngũ lao động trìh độ còn thấp. Đối với thị trường trong nước, mặt
hàng dệt may của các doanh nghiệp nội địa kém sức cạnh tranh so với
các mặt hàng nước ngoài.
35
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh Tế Thương Mại.
2. Báo nghiên cứu kinh tế.
3. Báo Ngoại Thương.
4. Báo Kinh tế Việt Nam.
5. Báo Kinh tế phát triển.
6. Tạp chí Dệt May & Thời trang VN.
7. Trang web:www.detmay.com.vn.
8. Trang web: www.mot.gov.vn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành Dệt May khi Việt Nam là thành viên của tổ chức Thương Mại Thế Giới WTO.pdf