Tài liệu Luận văn Nâng cao hiệu quả kinh doanh tại chi nhánh ngân hàng công thương tỉnh An Giang: LUẬN VĂN:
Nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Chi
nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh
An Giang
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiệu quả kinh doanh là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp nói chung và các ngân hàng thương mại (NHTM) nói riêng. Trong điều kiện
kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, hiệu quả kinh doanh càng có ý nghĩa
quan trọng đối với các NHTM và nâng cao hiệu quả kinh doanh là vấn đề cực kỳ bức
xúc. Chính vì vậy, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là vấn đề được các NHTM đặc
biệt chú trọng tại các NHTM, trong đó có Ngân hàng Công thương (NHCT) Việt Nam
và Chi nhánh NHCT trên địa bàn tỉnh An Giang.
Là một bộ phận của NHCT Việt Nam, sau 20 năm thành lập, Chi nhánh NHCT
tỉnh An Giang đã có bước phát triển đáng kể. Tổng nguồn vốn hiện nay gấp 44 lần so
với khi mới thành lập (1988), dư nợ cho vay và đầu tư tăng gấp 62 lần. Hiệu quả hoạt
động kinh của Chi nhánh cũng đã được nâng cao, các chỉ tiêu về lợi nhuận, hiệu...
79 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 891 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nâng cao hiệu quả kinh doanh tại chi nhánh ngân hàng công thương tỉnh An Giang, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Chi
nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh
An Giang
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiệu quả kinh doanh là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp nói chung và các ngân hàng thương mại (NHTM) nói riêng. Trong điều kiện
kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, hiệu quả kinh doanh càng có ý nghĩa
quan trọng đối với các NHTM và nâng cao hiệu quả kinh doanh là vấn đề cực kỳ bức
xúc. Chính vì vậy, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là vấn đề được các NHTM đặc
biệt chú trọng tại các NHTM, trong đó có Ngân hàng Công thương (NHCT) Việt Nam
và Chi nhánh NHCT trên địa bàn tỉnh An Giang.
Là một bộ phận của NHCT Việt Nam, sau 20 năm thành lập, Chi nhánh NHCT
tỉnh An Giang đã có bước phát triển đáng kể. Tổng nguồn vốn hiện nay gấp 44 lần so
với khi mới thành lập (1988), dư nợ cho vay và đầu tư tăng gấp 62 lần. Hiệu quả hoạt
động kinh của Chi nhánh cũng đã được nâng cao, các chỉ tiêu về lợi nhuận, hiệu suất sử
dụng vốn… tăng lên đáng kể, đặc biệt là từ năm 2006 đến nay.
Tuy vậy, các chỉ tiêu về hiệu quả của Chi nhánh còn nhiều hạn chế, tỷ suất lợi
nhuận chưa cao, tăng trưởng lợi nhuận chưa vững chắc, các chỉ tiêu hiệu quả khác còn
nhiều hạn chế.
Trong điều kiện kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế tham gia, Chi
nhánh phải cạnh tranh với nhiều ngân hàng khác, thị phần cho vay của Chi nhánh có
nguy cơ bị thu hẹp, hiệu quả có nguy cơ giảm thấp và thiếu bền vững. Trước thực tế đó,
việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là một trong những vấn đề mấu chốt cho sự tồn tại
và phát triển của Chi nhánh. Do vậy, việc nghiên cứu để tìm ra giải pháp nâng cao hiệu
quả kinh doanh tại Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang là vấn đề bức xúc, đồng thời có ý
nghĩa lâu dài cả về lí luận và thực tiễn. Đó cũng là lý do chủ yếu của việc lựa chọn đề
tài: “Nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh An
Giang”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đề tài
Liên quan đến đề tài nghiên cứu đã có những công trình khoa học, các bài
nghiên cứu đã được công bố như:
- Phát triển dịch vụ ngân hàng tại Ngân hàng Công thương Việt Nam - thực trạng
và giải pháp, Trần Xuân Hiệu, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội, 2003.
- Năng lực cạnh tranh của các NHTM trong xu thế hội nhập, PGS.TS Nguyễn
Thị Quy, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
- Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Công thương Việt
Nam, Lê Thị Thiên Lý, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội, 2006.
- Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng
Công thương tỉnh An Giang, Trần Thị Thu Nguyệt, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học
kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, 2006.
Trong các công trình nghiên cứu trên, vấn đề hiệu quả và nâng cao hiệu quả
kinh doanh đã được tiếp cận dưới nhiều gốc độ khác nhau, chưa có công trình nào đi sâu
nghiên cứu một cách cụ thể về mặt lý luận, thực tiễn và đề xuất các giải pháp nâng cao
hiệu quả kinh doanh tại Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang trong điều kiện mới.
Tuy nhiên, hiện chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về hiệu
quả kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh của Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hiệu quả kinh doanh của NHTM trong điều
kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phạm vi nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu hiệu quả kinh doanh tại
Chi nhánh NHCT trên địa bàn tỉnh An Giang từ năm 2003 đến nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là trên cơ sở làm rõ vấn đề lý luận và thực tiễn có
liên quan để đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Chi nhánh NHCT
tỉnh An Giang trong điều kiện mới.
Để thực hiện mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra là:
- Hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lí luận về hiệu quả kinh doanh của NHTM trong
điều kiện kinh tế thị trường.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động và hiệu quả kinh doanh tại Chi nhánh
NHCT tỉnh An Giang.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Chi
nhánh NHCT tỉnh An Giang trong điều kiện mới.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin; tư
tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước, kế thừa
một cách có chọn lọc các công trình nghiên cứu có liên quan.
Ngoài phương pháp luận duy vật biện chứng, việc nghiên cứu luận văn trên cơ
sở sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản và điển hình được sử dụng trong quá
trình nghiên cứu như: phương pháp thống kê, tổng hợp, so sánh… để phân tích và làm
rõ những vấn đề của luận văn.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Hệ thống hoá có chọn lọc một số vấn đề lý luận về hiệu quả kinh doanh của
NHTM.
- Đánh giá đúng thực trạng hoạt động và hiệu quả kinh doanh tại Chi nhánh
NHCT tỉnh An Giang, chỉ rõ những hạn chế, trở ngại đối với việc nâng cao hiệu quả
kinh doanh của NHCT và những nguyên nhân chủ yếu.
- Đề xuất được các giải pháp thiết thực và khả thi về nâng cao hiệu quả kinh
doanh tại Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG ĐIỀU KIỆN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Ngân hàng thương mại và các hoạt động chủ yếu
NHTM là loại ngân hàng giao dịch trực tiếp với các công ty, xí nghiệp, tổ chức
kinh tế và cá nhân, bằng cách nhận tiền gửi, tiền tiết kiệm, rồi sử dụng số vốn đó để cho
vay, chiết khấu, cung cấp các phương tiện thanh toán và cung ứng sản phẩm dịch vụ
ngân hàng cho các đối tượng nói trên. NHTM là loại ngân hàng có số lượng lớn và rất
phổ biến trong nền kinh tế. Sự có mặt của NHTM trong hầu hết các mặt hoạt động của
nền kinh tế, xã hội đã chứng minh rằng, ở đâu có một hệ thống NHTM phát triển, thì ở
đó sẽ có sự phát triển với tốc độ cao của nền kinh tế, xã hội và ngược lại.
Theo Điều 20 Khoản 2 và 7 Luật các tổ chức tín dụng (12/12/1997): NHTM là
một tổ chức tín dụng thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh
doanh khác có liên quan. Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch
vụ ngân hàng với nội dung chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền
này để cấp tín dụng, cung cấp các dịch vụ thanh toán.
Nghị định số 49/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12/9/2000 qui định: "NHTM
là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh
khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của
nhà nước" [8].
Theo Điều 20 Khoản 2 và 7 Luật các tổ chức tín dụng (sữa đổi, bổ sung ngày
24/06/2004):
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính
chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng
thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách,
ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.
Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng
với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng
và cung cứng các dịch vụ thanh toán [27].
Như vậy, có thể nói NHTM là một loại định chế tài chính trung gian cực kỳ quan
trọng trong nền kinh tế thị trường. Nhờ hệ thống định chế tài chính trung gian này mà
các nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội được huy động, tập trung lại với số lượng đủ lớn để
cấp tín dụng cho các tổ chức kinh tế, cá nhân nhằm mục đích phục vụ phát triển kinh tế
- xã hội.
Các NHTM thực hiện rất nhiều hoạt động, trong đó có các hoạt động chủ yếu
như sau [13]:
Thứ nhất, tạo lập nguồn vốn. Nguồn vốn của NHTM gồm vốn điều lệ, các quỹ,
vốn huy động và vốn đi vay.
Vốn điều lệ là nguồn vốn ban đầu khi ngân hàng mới bắt đầu đi vào hoạt động và
được ghi vào bản điều lệ của ngân hàng. Đối với lĩnh vực ngân hàng, vốn điều lệ đạt
mức tối thiểu theo qui định của pháp luật (vốn pháp định). Tuỳ theo loại hình ngân hàng
mà vốn điều lệ có thể hình thành từ những nguồn khác. Đối với NHTM quốc doanh,
vốn điều lệ do ngân sách nhà nước cấp phát.
Vốn điều lệ là bộ phận chủ yếu của vốn tự có trong NHTM. Ở Việt Nam, theo
Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19 tháng 4 năm 2005 thì vốn tự có của NHTM
gồm: vốn tự có cơ bản và vốn tự có bổ sung [23].
Vốn tự có cơ bản (vốn cấp 1): Vốn điều lệ thực có (vốn đã được cấp, vốn đã
góp), quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển
nghiệp vụ, lợi nhuận không chia.
Vốn tự có bổ sung (vốn cấp 2): phần giá trị tăng thêm của tài sản cố định và của
các loại chứng khóan đầu tư được định giá lại, trái phiếu chuyển đổi hoặc cổ phiếu ưu
đãi do tổ chức tín dụng phát hành có thời hạn dài.
Các quỹ của ngân hàng được hình thành khi ngân hàng đã đi vào hoạt động, bao
gồm các quỹ trích từ lãi ròng hàng năm của ngân hàng như quỹ dự trữ bổ sung vốn điều
lệ, các quỹ dự phòng (tài chính, trợ cấp mất việc làm), quỹ đầu tư phát triển, quỹ khác
(khen thưởng, phúc lợi…). Ngoài ra, còn có các quỹ được hình thành bằng cách trích và
tính vào chi phí hoạt động của ngân hàng như: quỹ khấu hao cơ bản, sữa chữa tài sản,
quỹ dự phòng để xử lý rủi ro… Các quỹ này có chức năng: cũng cố và gia tăng năng lực
bảo vệ của vốn tự có của ngân hàng; bù đắp những thất thoát trong hoạt động tín dụng;
chống đỡ thiệt hại khi rủi ro phát sinh.
Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu sử dụng trong hoạt động kinh doanh của
NHTM, chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn kinh doanh của NHTM. Nguồn
vốn huy động gồm có: Tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng (còn được gọi là tiền gửi
giao dịch, tiền gửi thanh toán). Tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức và cá nhân. Tiền gửi
tiết kiệm của dân cư. Nguồn vốn huy động qua phát hành các giấy tờ có giá như kỳ
phiếu, trái phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi…
Nguồn vốn đi vay là nguồn vốn vay của NHNN, các NHTM, các tổ chức tài
chính trong nước và quốc tế.
Nguồn vốn khác bao gồm các nguồn vốn tiếp nhận từ NSNN để thực hiện các
chương trình, dự án theo kế hoạch tập trung của Nhà nước; vốn tiếp nhận để cho vay uỷ
thác; vốn chiếm dụng của khách hàng trong quá trình thực hiện thanh toán không dùng
tiền mặt…
Thứ hai, hoạt động sử dụng vốn. Đây là một hoạt động cơ bản của các NHTM.
Hoạt động này gồm: cấp tín dụng, đầu tư tài chính, thiết lập dự trữ, các hoạt động sử
dụng vốn khác.
Cấp tín dụng bao gồm các nghiệp vụ cho vay (ngắn, trung và dài hạn), chiết khấu
thương phiếu và chứng từ có giá, cho thuê tài chính, bảo lãnh, bảo đảm thanh toán…
Đầu tư tài chính là hoạt động mà NHTM sử dụng các nguồn vốn ổn định để thực
hiện các hình thức đầu tư nhằm kiếm lời và chia sẽ rủi ro với nghiệp vụ tín dụng. Các
hình thức đầu tư tài chính bao gồm: Góp vốn, liên doanh, mua cổ phần của các công ty,
xí nghiệp và các tổ chức tín dụng khác. Mua chứng khoán và các giấy tờ có giá trị để
hưởng lợi.
Thiết lập dự trữ là việc các NHTM dành một phần vốn để dự trữ nhằm đáp ứng
những yêu cầu như: duy trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo quy định của NHNN; thực hiện
các lệnh rút tiền và thanh toán chuyển khoản của khách hàng; chi trả các khoản tiền gửi
đến hạn, chi trã lãi; đáp ứng nhu cầu vay vốn hợp lý trong ngày của khách hàng; thực
hiện các khoản chi tiêu hàng ngày tại ngân hàng…
Ngoài ra, còn một số hoạt động sử dụng vốn khác như: mua sắm trang thiết bị,
dụng cụ phục vụ cho hoạt động kinh doanh, xây dựng trụ sở làm việc ngân hàng, hệ
thống kho bãi và các chi phí khác.
Thứ ba, cung cấp dịch vụ ngân hàng. Đây là các sản phẩm dịch vụ mà khi
NHTM cung cấp cho khách hàng sẽ nhận được các khoản hoa hồng và lệ phí như: dịch
vụ ngân quỹ; dịch vụ uỷ thác; tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt cho khách hàng;
nhận quản lý tài sản quý, giấy tờ có giá theo yêu cầu của khách hàng; kinh doanh vàng
bạc, đá quý, ngoại tệ; mua bán hộ chứng khoán, phát hành hộ cổ phiếu, trái phiếu cho
các công ty, xí nghiệp; tư vấn tài chính, đầu tư; bảo lãnh tín dụng, trong đó NHTM cam
kết đảm bảo hoàn trả khoản vay của khách hàng cho người thứ ba là người cho vay; các
hợp đồng trao đổi lãi suất, trong đó NHTM cam kết trao đổi các khoản thanh toán lãi
của chứng khoán nợ với một bên khác; các hợp đồng tài chính tương lai và hợp đồng
quyền chọn lãi suất, trong đó NHTM đồng ý giao hay nhận những chứng khoán từ một
bên khác tại một mức giá được bảo đảm; hợp đồng cam kết cho vay, trong đó NHTM
cam kết cho vay tối đa tới một số vốn nhất định trước khi hợp đồng hết hiệu lực; các
hợp đồng tỷ giá hối đoái, trong đó NHTM đồng ý giao hay nhận một lượng ngoại tệ
nhất định.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương
mại
Hoạt động của NHTM là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với
nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung
ứng các dịch vụ thanh toán cho khách hàng vì mục đích lợi nhuận. Vì vậy, hiệu quả
kinh doanh là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của các NHTM.
Hiệu quả kinh doanh nói chung là tỷ lệ giữa kết quả đầu ra so với chi phí đầu
vào. Hiệu quả kinh doanh của NHTM thường được đo bằng các chỉ tiêu cơ bản như: Lợi
nhuận, tỷ suất lợi nhuận và các chỉ tiêu trung gian khác.
Do đặc thù của hoạt động ngân hàng nên hiệu quả kinh doanh của NHTM có một
số đặc điểm như sau:
Một là, hiệu quả kinh doanh ngân hàng gắn với đặc thù của hoạt động ngân hàng
- kinh doanh tiền tệ và cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Đây là một lĩnh vực rất nhạy
cảm, chịu tác động mạnh của nhiều yếu tố đặc biệt là các yếu tố chính trị, kinh tế, xã
hội. Do vậy, kết quả hoạt động và hiệu quả kinh doanh ngân hàng phản ánh sự tác động
tổng hợp các yếu tố đó. Chẳng hạn, bên cạnh các chỉ tiêu hiệu quả của ngân hàng như tỷ
suất lợi nhuận, hiệu quả hoạt động ngân hàng còn thể hiện ở chổ góp phần thúc đẩy tăng
trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo…
Hai là, hiệu quả kinh doanh của ngân hàng là hiệu quả của một ngành dịch vụ
hiện đại với sự quay vòng vốn nhanh nên các chỉ tiêu về suất lợi nhuận/doanh số… có
thể không cao như một số ngành sản xuất.
Ba là, hiệu quả kinh doanh của ngân hàng gắn với hoạt động huy động và sử
dụng vốn vay, vốn của người khác. Do vậy, đòi hỏi huy động và sử dụng vốn phải cao.
Bốn là, hoạt động ngân hàng gắn với hoạt động của doanh nghiệp và dân cư. Do
vậy, hiệu quả kinh doanh của ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào năng lực kinh doanh và
hoạt động của các chủ thể này. Chẳng hạn, nếu các doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu
quả thì ngân hàng có thể tăng mức cho vay, hiệu quả kinh doanh cao hơn.
1.1.3. Các tiêu chí xác định hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại
Trong nền kinh tế thị trường hoạt động kinh doanh của NHTM mục tiêu cuối
cùng là phải đạt được lợi nhuận cao nhất, lợi nhuận càng cao chứng tỏ ngân hàng đó
hoạt động kinh doanh càng có hiệu quả. Muốn biết được NHTM đó hoạt động kinh
doanh hiệu quả ra sao thì phải xem xét qua một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động
kinh doanh như sau:
1.1.3.1. Lợi nhuận sau thuế
Lợi nhuận sau thuế (LNST) được tính theo công thức sau [13]:
LNST =
Thu
từ lãi
–
Chi từ
lãi
+
Thu
khác
–
Chi
khác
– Thuế TN
Lợi nhuận sau thuế (lợi nhuận ròng) là chỉ tiêu phản ánh tập trung nhất mức sinh
lợi của ngân hàng. Nhìn vào công thức trên ta thấy nếu mức chênh lệch giữa thu từ lãi
và chi từ lãi cao thì lãi ròng lớn, và ngược lại. Trong hoạt động kinh doanh của NHTM,
mức chênh lệch này có xu hướng giảm nên chênh lệch giữa thu khác và chi khác đóng
vai trò quan trọng. Điều này cho thấy xu hướng hoạt động kinh doanh của NHTM có xu
hướng chú trọng các sản phẩm dịch vụ.
Chỉ tiêu này cho biết khả năng sinh lãi của ngân hàng hay còn gọi là mức lãi
ròng.
1.1.3.2. Tỷ suất lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận
trên tài sản sinh lợi
=
Lợi nhuận sau thuế
× 100%
Tổng tài sản sinh lợi
Chỉ tiêu này nói lên tỷ lệ lợi nhuận do tài sản có sinh lời tạo ra lợi nhuận được
các nhà quản lý ngân hàng rất chú ý vì nó báo trước khả năng sinh lời của NHTM. Chỉ
tiêu này biểu hiện bằng một số chỉ tiêu cụ thể như: lợi nhuận trên tổng tài sản, lợi nhuận
trên vốn chủ sở hữu...
- Lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA)
ROA =
Lợi nhuận sau thuế
× 100%
Tổng tài sản bình quân
ROA là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý của ngân hàng, cho thấy khả năng của
NHTM trong quá trình chuyển tài sản của ngân hàng thành thu nhập ròng. Chỉ tiêu này
cho biết 1 đồng tài sản có bình quân mang lại bao nhiêu đồng lãi ròng cho ngân hàng.
ROA xác định hiệu quả kinh doanh của 1 đồng tài sản. ROA càng cao thì hiệu
quả hoạt động của ngân hàng đó càng tốt.
- Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE)
ROE =
Lợi nhuận sau thuế
× 100%
Vốn chủ sở hữu bình quân
Chỉ tiêu ROE đo lường chất lượng hoạt động của một ngân hàng. Hệ số ROE
phân tích lợi nhuận kiếm được từ đơn vị vốn đầu tư, vốn của một NHTM cổ phần được
hình thành từ vốn cổ phần hoàn toàn hoặc gồm một phần từ vốn cổ phần còn một phần
các chứng từ có giá như: tín phiếu, hoặc giấy nhận nợ…
Hệ số ROE quy định giá trị chứng khoán, nó cho các cổ đông biết khả năng sử
dụng vốn cổ phần của một ngân hàng nên nó có ý nghĩa quan trọng đối với các cổ đông.
Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng vốn chủ sỡ hữu mang lại bao nhiêu đồng lãi ròng cho ngân
hàng.
Mối quan hệ giữa ROE và ROA như sau:
ROE =
Lợi nhuận ròng
×
Tổng tài sản
Tổng tài sản Tổng vốn chủ sở hữu
Hay:
ROE = ROA ×
Tổng tài sản
Tổng vốn chủ sở hữu
Mối quan hệ trên cho thấy thu nhập của một ngân hàng rất nhạy cảm với phương
thức tài trợ tài sản (sử dụng nhiều nợ hơn hay nhiều vốn chủ sở hữu hơn). Một ngân
hàng có ROA thấp vẫn có thể đạt ROE ở mức cao nếu như sử dụng nhiều nợ (gồm cả
tiền gửi của khách hàng) và sử dụng tối thiểu vốn chủ sở hữu trong quá trình tài trợ tài
sản.
- Các chỉ tiêu trung gian gồm: như chênh lệch lãi bình quân, tỷ lệ tài sản sinh lời.
Cụ thể như sau:
+ Chênh lệch lãi suất bình quân (chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra): là chỉ
tiêu truyền thống đánh giá thu nhập của ngân hàng, đo lường hiệu quả đối với hoạt động
trung gian của ngân hàng trong quá trình huy động vốn và cho vay, đồng thời đo lường
mức độ cạnh tranh trong thị trường của ngân hàng. Trong điều kiện các nhân tố khác
không thay đổi, chênh lệch lãi suất bình quân của ngân hàng sẽ giảm khi cường độ cạnh
tranh tăng lên, buộc NHTM phải tìm cách bù đắp mức chênh lệch lãi suất bị mất đi bằng
cách thu phí từ các sản phẩm dịch vụ mới.
Chênh lệch lãi suất
bình quân
=
Thu từ lãi
×
Tổng chi phí lãi
Tổng tài sản sinh lời Tổng nguồn phải trả
+ Tỷ lệ tài sản sinh lời là chỉ tiêu cho thấy tài sản sinh lời chiếm bao nhiêu phần
trăm trong tổng tài sản của NHTM. Khi tỷ lệ này giảm, sẽ làm giảm mức thu nhập hiện
tại của NHTM.
Tỷ lệ tài sản sinh lời =
Tổng tài sản sinh lời
Tổng tài sản
Trong đó, tổng tài sản sinh lời bao gồm các khoản cho vay, các khoản cho thuê,
đầu tư chứng khoán (hay bằng tổng tài sản - tài sản không sinh lời).
- Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động bao gồm chỉ tiêu hiệu quả từ hoạt
động tín dụng và hiệu quả từ các hoạt động khác.
Hiệu quả từ hoạt động tín dụng: phản ánh quy mô, chất lượng hoạt động nghiệp
vụ tín dụng của một ngân hàng. Quy mô hoạt động tín dụng thông qua các chỉ tiêu: doanh
số cho vay, doanh số thu nợ và dư nợ. Để thực hiện tốt chỉ tiêu này các NHTM luôn tìm
kiếm cơ hội cho vay các khách hàng mới và mở rộng quan hệ tín dụng đối với các khách
hàng truyền thống của ngân hàng. Chất lượng các khoản vay được biểu hiện tỷ lệ giữa nợ
xấu trên tổng dư nợ cho vay. Đó là tỉ lệ để xác định khoản nợ mà khách hàng vay vốn của
NHTM nhưng khi đến hạn chưa trả được. Tỷ lệ này càng thấp thì chất lượng tín dụng càng
cao và ngược lại. Muốn sử dụng chỉ tiêu này để đánh giá chất lượng tín dụng một cách
chính xác cần lưu ý tới các nguyên nhân phát sinh nợ quá hạn.
Hiệu quả của hoạt động khác: bảo lãnh thanh toán hợp đồng xuất khẩu, nhập
khẩu, hợp đồng thi công (bằng nhiều hình thức), chiết khấu chứng từ,…
Hiệu quả hoạt động dịch vụ: dịch vụ mở tài khoản, dịch vụ ngân quỹ, dịch vụ
chuyển tiền, dịch vụ thanh toán trong và ngoài hệ thống ngân hàng, bảo lãnh, nhờ thu,
thư tín dụng nhập khẩu, chuyển tiền kiều hối, thu chi hộ, thư tín dụng xuất khẩu, chuyển
tiền cá nhân, chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất, thanh toán séc du lịch,…
1.2. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ YÊU CẦU NÂNG CAO HIỆU QUẢ
KINH DOANH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Các yếu tố bên trong ngân hàng thương mại
Nhân tố quyết định đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM không phải
do khách quan hay do lực lượng nào đó bên ngoài quyết định mà nằm ngay trong từng
NHTM. Các nhân tố bên trong (chủ quan) thường liên quan tới bản thân ngân hàng trên
tất cả các khía cạnh khác nhau của hoạt động ngân hàng như: năng lực về vốn, mô hình tổ
chức quản lý, nhân lực của ngân hàng, cơ sở vật chất và công nghệ ngân hàng, tình hình
duy trì và thực hiện kiểm tra kiểm soát nội bộ...
Năng lực về vốn: vốn tự có là yếu tố hết sức cơ bản để đánh giá sức mạnh tài
chính của các NHTM. Trong nền kinh tế thị trường, kinh doanh ngân hàng là lĩnh vực
kinh doanh có thể dẫn đến rủi ro cao. Chính vì vậy, hoạt động kinh doanh của NHTM là
hoạt động có điều kiện mà trước hết là điều kiện về mức vốn tự có phải đạt được để làm
"đệm an toàn" và "lá chắn" chống đỡ rủi ro. Bên cạnh đó, vốn tự có còn có ảnh hưởng
đến mức đầu tư vào công nghệ ngân hàng vì NHTM chỉ có thể sử dụng vốn tự có để đầu
tư vào công nghệ.
Mô hình tổ chức quản lý của NHTM: thể hiện ở chỗ phân biệt rõ ràng chức năng
quản trị và chức năng điều hành, xây dựng mục tiêu hướng tới khách hàng, quản lý và
hạch toán theo sản phẩm, mang lại tiện ích cho khách hàng nhiều hơn, tạo ra khả năng
điều hành và quản lý theo cơ chế tập trung đối với hoạt động kinh doanh của NHTM và
phát huy được kết quả tốt do các thông tin, dữ liệu được quản lý và cung cấp tập
trung. Tổ chức ngân hàng phải sắp xếp một cách khoa học, đảm bảo sự phối hợp chặt
chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban, các bộ phận nghiệp vụ của ngân hàng trong
từng chi nhánh của NHTM, trong toàn hệ thống cũng như giữa NHTM với các cơ
quan khác như tài chính, pháp lý… sẽ tạo điều kiện đáp ứng kịp thời yêu cầu của
khách hàng.
Nguồn nhân lực, quản trị điều hành: nguồn nhân lực là nguồn lực quan trọng
nhất của bất kỳ doanh nghiệp nào, là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp, đồng thời còn là mục tiêu, là động lực phát triển ngân hàng, là yếu tố quan trọng
và quyết định cho mọi thành công. Với nguồn nhân lực có trình độ nghiệp vụ cao, có
nhiều kinh nghiệm trong ngành cũng như có phẩm chất đạo đức tốt thì họ làm việc với
tinh thần trách nhiệm cao, sẽ tạo ra được năng suất làm việc cao hơn, có hiệu quả hơn,
phục vụ chu đáo và đem đến sự hài lòng cho khách hàng nhiều hơn. Đây là yếu tố quan
trọng vì ngân hàng sẽ dễ dàng thu hút khách hàng đến giao dịch nhiều hơn. Với những
con người có trình độ quản lý, điều hành tốt, họ sẽ giúp cho NHTM giảm bớt được rất
nhiều chi phí như: chi phí rủi ro, chi phí lao động, chi phí quản lý, tạo điều kiện cho
ngân hàng hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Quản lý tốt cũng có nghĩa là sử dụng
đúng người, đúng chổ, biết cách tổ chức điều hành công việc, biết giám sát, kiểm tra,
quản lý chặt chẻ, biết phân chia trách nhiệm rõ ràng cho từng phòng ban, biết chú trọng
vào những nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm. Những người lãnh đạo giỏi, có kinh
nghiệm, họ sẽ biết cách sử dụng các công cụ cạnh tranh một cách có hiệu quả nhất, ứng
phó một cách linh hoạt những biến động thường xuyên trên thị trường. Họ nhạy bén hơn
trong hoạt động kinh doanh, nhanh chóng phát hiện ra những thời cơ, đồng thời giảm
thiểu những sai sót không đáng có góp phần tạo ra hiệu quả kinh doanh cho NHTM.
Trang thiết bị, công nghệ ngân hàng: đặc biệt là công nghệ thông tin và tin học là
thành tố nhờ đó mà các NHTM trong nước có thể tạo ra các kênh phân phối sản phẩm,
dịch vụ ngân hàng hiện đại như E-banking, ATM, VISA/MASTER card, Option,
SWAP…. Các hoạt động huy động vốn, chi trả tiền gửi cho khách hàng đang được thực
hiện trên máy, ngân hàng đang mở rộng dịch vụ ngân hàng qua mạng, ngân hàng qua
điện thoại… công nghệ ngân hàng hiện đại cho phép NHTM vươn xa hơn ngoài trụ sở
ngân hàng, liên kết với nhau để cùng nhau sử dụng mạng công nghệ. Điều này tạo cơ
hội cho các NHTM cạnh tranh lẫn nhau. Thực hiện đổi mới trang thiết bị ngân hàng
theo hướng hiện đại có một vị trí cực kỳ quan trọng, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng
để tăng khả năng quản lý, tăng cường thu thập xử lý thông tin, tạo điều kiện thu hút
nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư, tăng cường khả năng kiểm tra, kiểm soát,
nâng cao chất lượng dịch vụ cho khách hàng, phát triển hệ thống thanh toán hiện đại,
nhanh chóng, chính xác, an toàn và hiệu quả.
Hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Đây là một khâu, một chức năng quan
trọng của NHTM là biện pháp giúp ban lãnh đạo ngân hàng có được các thông tin về
tình trạng kinh doanh nhằm duy trì có hiệu quả các hoạt động kinh doanh của NHTM
đang được thực hiện, phù hợp với chính sách, đáp ứng được các mục tiêu đã định.
Thông qua kiểm tra kiểm soát nội bộ phát hiện những sai sót trong quá trình hoạt động
từ đó kịp thời chấn chỉnh những sai sót, hạn chế những rủi ro tiềm ẩn có thể xảy ra ảnh
hưởng tới hoạt động kinh doanh của NHTM.
1.2.2. Các yếu tố bên ngoài tác động đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng
thương mại
1.2.2.1. Sự biến động của nền kinh tế trong nước và thế giới
Hiệu quả kinh doanh của các NHTM chịu tác động mạnh mẽ và trực tiếp bởi tình
trạng nền kinh tế trong nước và sự biến động của nền kinh tế thế giới. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, tình trạng của nền kinh tế trong nước. Nhóm yếu tố này gồm nhiều
yếu tố như tăng trưởng, kinh tế, lạm phát, lãi suất, tỷ giá...
Tốc độ tăng trưởng GDP là yếu tố đầu tiên của nền kinh tế trong nước ảnh hưởng
đến ngành ngân hàng. Khi nền kinh tế ở giai đoạn tăng trưởng cao sẽ tạo nhiều cơ
hội cho đầu tư mở rộng, hoạt động của các doanh nghiệp sôi động hơn, các doanh
nghiệp sẽ sẵn sàng vay vốn NHTM với số tiền lớn hơn, lãi suất cao hơn và kỳ hạn
dài hơn để mở rộng sản xuất đầu tư vào các dự án có hiệu quả. Các sản phẩm dịch vụ
ngân hàng như chi trả tiền, mua bán ngoại tệ, thanh toán xuất nhập khẩu, thẻ tín
dụng… sẽ được khách hàng sử dụng nhiều hơn. Ngược lại, khi nền kinh tế sa sút,
suy thoái dẫn đến giảm tiêu dùng và giảm đầu tư toàn xã hội, các khách hàng sẽ ít sử
dụng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, vì vậy sẽ kéo theo sự sa sút của ngành ngân
hàng trong một nước.
Lạm phát là một nhân tố ảnh hưởng đến nền kinh tế, tỷ lệ lạm phát cao thì việc
kiểm soát giá cả và đồng tiền càng khó. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp, lạm phát
tăng thì rủi ro từ các dự án đầu tư sẽ cao hơn, việc kinh doanh sẽ khó khăn hơn rất nhiều
làm cho các doanh nghiệp hạn chế đầu tư, không cần tới vốn vay NHTM. Còn người
dân sẽ hạn chế tích luỹ tiền, rút tiền ra khỏi ngân hàng để đầu tư vào các tài sản khác ổn
định hơn.
Lãi suất cao hay thấp cũng ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh tế. Trong mỗi thời kỳ
mặt bằng lãi suất bao gồm lãi suất của các trung tâm tài chính quốc tế, lãi suất tái chiết
khấu của các NHTW tại mỗi quốc gia sẽ làm ảnh hưởng tới việc qui định lãi suất của
các NHTM và có tác động trở lại đối với hoạt động kinh doanh của NHTM. Lãi suất
thấp sẽ kích thích các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng để mở rộng và phát triển kinh
doanh dài hạn nhưng cũng đồng thời không có sức thu hút được các nguồn tiền nhàn rỗi
trong dân cư và ngược lại.
Tỷ giá hối đoái là một nhân tố ảnh hưởng nhiều đến xuất nhập khẩu của một
quốc gia mà các doanh nghiệp xuất nhập khẩu là những khách hàng lớn và đầy tiềm
năng của các NHTM. Vì vậy, tình hình tỷ giá hối đoái cũng sẽ làm ảnh hưởng tới các
ngân hàng. Hơn nữa, do các NHTM luôn có một tỷ lệ đáng kể ngoại tệ trong tài sản của
mình và nhiều ngân hàng trực tiếp kinh doanh ngoại tệ nên tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng
trực tiếp đến các ngân hàng. Do vậy, các NHTM phải dự đoán được xu hướng biến
động của tỷ giá để chủ động luân chuyển tài sản của mình từ loại tiền này sang loại tiền
khác để làm giảm các rủi ro về tỷ giá hối đoái gây nên.
Sự biến đổi cơ cấu kinh tế bao gồm cơ cấu của ngành kinh doanh của một quốc
gia như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, du lịch… và cơ cấu các thành phần kinh tế
như quốc doanh, tập thể, tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Mỗi ngành
kinh tế có một đặc tính riêng ảnh hưởng đến độ dài kỳ hạn vay tiền nhất định, độ rủi ro
nhất định đến các dự án vay vốn. Hơn nữa nhu cầu và khả năng về vốn đối với từng
ngành nghề kinh doanh, từng khu vực cũng khác nhau, nên các NHTM phải có những
nắm bắt để linh hoạt trong hoạt động kinh doanh của mình.
Thứ hai, sự biến động của nền kinh tế thế giới, bao gồm các yếu tố như toàn cầu
hoá, sự phát triển của khoa học - công nghệ...
Bên cạnh sự ảnh hưởng của nền kinh tế trong nước, thì tình hình kinh tế toàn cầu,
kinh tế khu vực thể hiện ở tốc độ tăng trưởng GDP, tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu,
đầu tư trực tiếp nước ngoài, chỉ số giá, sự luân chuyển của các dòng đầu tư quốc tế,
cũng ảnh hưởng rất lớn đến lĩnh vực kinh doanh của NHTM, mà cụ thể ảnh hưởng đến
nghiệp vụ mua bán ngoại tệ, ấn định tỷ giá, lãi suất, đầu tư tài chính và các giấy tờ có
giá tại các thị trường tài chính quốc tế hoặc trực tiếp cho vay đối với các dự án nước
ngoài.
NHTM còn bị ảnh hưởng không nhỏ của xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa đang
là xu hướng chính của nền kinh tế thế giới hiện nay. Chính xu thế toàn cầu hóa, khu vực
hóa kinh tế này đã đẩy mạnh thương mại và đầu tư quốc tế, làm gia tăng cơ hội kinh
doanh quốc tế, vừa làm tăng áp lực cạnh tranh quốc tế đối với các NHTM. Thêm vào
đó, xu thế tăng tỷ lệ chất xám trong cấu thành các sản phẩm dịch vụ cũng buộc các
NHTM cần phải áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại phát triển các sản phẩm dịch vụ
mang nhiều chất xám như chương trình tư vấn đầu tư tài chính cho các doanh nghiệp,
thiết lập các hình thức giao dịch, thanh toán qua mạng Internet (E-Banking), giao dịch
tại nhà (Home - banking), hoặc các NHTM tham gia vào hoạt động kinh doanh của
khách hàng.
Sự phát triển của khoa học và công nghệ trên thế giới hiện nay phát triển rất
nhanh chóng và ngày càng hiện đại. Chính sự phát triển kỳ diệu của khoa học và công
nghệ đã tác động rất lớn đến nhiều ngành nghề trong nền kinh tế, trong đó có ngành
ngân hàng. Sự phát triển của khoa học và công nghệ đã thúc đẩy sự hiện đại hóa các sản
phẩm dịch vụ ngân hàng, tạo thuận lợi rất nhiều trong các giao dịch giữa khách hàng và
NHTM, tạo sự hấp dẫn nhiều hơn cho khách hàng sử dụng đến các sản phẩm dịch vụ
ngân hàng. Sự phát triển của khoa học và công nghệ đòi hỏi sự hiện đại hoá công nghệ
ngân hàng, nắm bắt được những công nghệ mới nhất có liên quan để áp dụng một cách
nhanh nhất nhằm cải tiến công nghệ ngân hàng của mình, nâng cao chất lượng phục vụ
và tốc độ giao dịch nhanh chóng, kịp thời của NHTM đối với khách hàng.
1.2.2.2. Cơ chế chính sách của Nhà nước
Cơ chế chính sách của Nhà nước, các quyết định, định hướng từ các cấp, các
ngành và của ngành ngân hàng như chính sách ưu đãi, chính sách tỷ giá, chính sách tiền
tệ tín dụng của Nhà nước, chính sách phát triển hệ thống tài chính, chính sách tín dụng
của NHNN, các quy định quản lý ngành của các cơ quan quản lý nhà nước, chiến lược
phát triển của hệ thống ngân hàng… có tác động không nhỏ đến sự phát triển, sự thành
công hay thất bại của NHTM. Những quyết định đưa ra đúng hay sai, phù hợp hay
không phù hợp sẽ có ảnh hưởng tốt hay xấu đến hoạt động kinh doanh của các NHTM
nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Vì vậy, cơ chế chính sách của Nhà nước
có tác động rất lớn đến khả năng cạnh tranh của các NHTM trong nước khi cạnh tranh
với các ngân hàng khác trên thế giới.
Nhà nước ưu đãi hay hạn chế sự phát triển của một ngành, một khu vực, một lĩnh
vực; về thuế; về tỷ giá hối đoái, khi Chính phủ có chính sách ưu đãi hạ thuế, bảo hộ
hàng sản xuất trong nước của một ngành nào đó bằng cách đưa ra hạn ngạch nhập khẩu,
hoặc cấm nhập hay nâng cao thuế nhập khẩu và ngược lại. Chính phủ đưa ra chính sách
giữ giá hay phá giá đồng nội tệ, tất cả đều ảnh hưởng đến nền kinh tế.
Các chính sách quản lý của NHNN có tác động rất lớn tới hoạt động của các
NHTM như chiết khấu, tái chiết khấu, tỷ giá ngoại tệ, chính sách tín dụng, Luật Ngân
hàng nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng… trực tiếp điều chỉnh hệ thống ngân hàng.
Luật lao động, quy chế tuyển dụng, đề bạt, chế độ nghĩ hưu, tiền lương, tiền
thưởng… là những điều kiện tác động trực tiếp đến con người, đây cũng là yếu tố quan
trọng mà các NHTM phải quan tâm.
1.2.2.3. Mức độ cạnh tranh và các yếu tố khác của môi trường kinh doanh
Mức độ cạnh tranh hiện tại của ngành ngân hàng tuỳ thuộc vào mức độ tăng
trưởng của ngành, quy mô thị trường, số lượng các đối thủ cạnh tranh và quy mô của họ
cũng như mức độ quan trọng của các rào cản rút lui (thu hồi vốn đầu tư, hình ảnh,
thương hiệu và uy tín của các NHTM, các trở ngại về pháp luật). Một trong những thách
thức của các NHTM hiện nay là không chỉ phải cạnh tranh trong một quốc gia mà còn
phải cạnh tranh với các ngân hàng khổng lồ trên thế giới. Do đó, các NHTM phải xem
xét tầm quan trọng chiến lược của hoạt động kinh doanh hiện tại đối với toàn bộ hoạt
động và mục tiêu mà đối thủ cạnh tranh đặt ra, đặc biệt là tiềm lực của đối thủ cạnh
tranh mạnh nhất trên thị trường như khả năng kinh doanh, nguồn lực cạnh tranh của họ,
trạng thái tài chính, thị phần hiện tại để có chiến lược và mục tiêu phù hợp cho hoạt
động kinh doanh của NHTM.
Môi trường văn hóa, xã hội ảnh hưởng rất nhiều đến điều kiện kinh doanh
của NHTM nhất là yếu tố con người. Nếu là khách hàng sẽ ảnh hưởng đến thị hiếu,
nhu cầu, thói quen…. Nếu là cán bộ, nhân viên trong ngành ngân hàng thì môi
trường xã hội, văn hoá có ảnh hưởng đến phong cách làm việc, phẩm chất nghề
nghiệp, thói quen… Những yếu tố trên có thể kích thích hay kiềm hãm sự phát triển
của các ngân hàng. Mặt khác con người ngày càng mở rộng phạm vi hoạt động và
mối quan hệ xã hội ra phạm vi toàn cầu. Điều này đòi hỏi các NHTM phải chuẩn
mực hóa bản thân theo các chuẩn mực ngân hàng quốc tế về việc đáp ứng các loại
sản phẩm dịch vụ, chất lượng dịch vụ ngang bằng với các ngân hàng khác trên thế
giới.
Môi trường tác nghiệp quyết định tính chất và khả năng cạnh tranh trong kinh
doanh mà ở đây chính là môi trường thuộc lĩnh vực tài chính ngân hàng. Môi trường
này sẽ tạo nên những yếu tố tác động không nhỏ tới khả năng cạnh tranh của các
NHTM. Có thể thúc đẩy các ngân hàng phát triển một cách mạnh mẽ, vững chắc nhưng
cũng có thể gây ra những cản trở kìm hãm sự cạnh tranh của các NHTM.
Điều kiện kinh tế - xã hội cũng ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của NHTM.
Xã hội ổn định, kinh tế của quốc gia, vùng, địa phương phát triển sẽ làm cho các ngành
kinh tế phát triển, hoạt động ngân hàng ổn định. Vì ngân hàng là sản phẩm bậc cao của
kinh tế thị trường, độ nhạy cảm lớn, do vậy mọi biến động của môi trường kinh tế xã
hội đều ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của NHTM.
Sự ổn định về chính trị - xã hội, sự nhất quán về các chính sách, quan điểm, hệ
thống pháp luật hoàn chỉnh luôn là sự hấp dẫn cho các nhà đầu tư vào ngành ngân hàng là
cơ sở cho hoạt động kinh doanh của NHTM luôn ổn định.
1.2.3. Các phương thức nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng
thương mại
Có nhiều phương thức để nâng cao hiệu quả kinh doanh của NHTM. Do hiệu quả
là quan hệ giữa kết quả (thu nhập) so với chi phí bỏ ra nên về nguyên tắc, nâng cao hiệu
quả kinh doanh có nghĩa là tăng thu nhập và giảm chi phí tương đối. Đồng thời, để bảo
đảm cho việc nâng cao hiệu quả một cách bền vững, cần chú trọng khía cạnh an toàn
cho hoạt động.
Một là, tăng thu nhập, bao gồm tăng tài sản sinh lời, tiết kiệm chi phí.
Tăng tài sản sinh lời: tài sản sinh lời là tài sản mang lại thu nhập từ lãi đầu tư
NHTM. Việc đầu tư vào những lĩnh vực có tài sản sinh lời cao sẽ làm tăng lợi nhuận
của ngân hàng. Nhưng đồng thời nó cũng làm tăng khả năng rủi ro, ảnh hưởng đến hoạt
động kinh doanh của NHTM.
Tiết kiệm chi phí, bao gồm chi phí trả lãi và các chi phí khác.
Về tiết kiệm chi phí trả lãi: nguồn vốn huy động của NHTM rất đa dạng và mỗi
một hình thức huy động vốn đều có những mức lãi suất huy động khác nhau. Muốn tiết
kiệm được chi phí trả lãi thì phải tìm kiếm những nguồn vốn có giá rẻ như: tiền gửi, tiền
tiết kiệm không kỳ hạn, đáp ứng các hình thức không dùng tiền mặt như phát hành thẻ
ATM và thanh toán thẻ ATM, VISA/MASTER CARD có chức năng đa dạng, sẽ tăng
thêm tiền gửi không kỳ hạn với ngân hàng, điều này có vai trò quyết định tới giảm lãi
suất huy động của NHTM.
Về tiết kiệm chi phí khác: bao gồm chi phí quản lý, chi phí lễ tân, khánh tiết, chi
phí dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, chi phí khác cho hoạt động kinh doanh… Việc tiết
kiệm chi phí này cũng góp phần tăng hiệu quả kinh doanh của NHTM.
Hai là, đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh. Đây chính là một yếu tố bảo
đảm cho hiệu quả kinh doanh bền vững. Đảm bảo an toàn bao gồm an toàn về nguồn vốn,
an toàn về tín dụng và an toàn cho các hoạt động khác.
Bảo đảm an toàn nguồn vốn: trong hoạt động kinh doanh của NHTM phần quan
trọng là huy động tiền nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp, các tầng lớp dân
cư trong xã hội gửi vào ngân hàng theo thỏa thuận của khách hàng. Khi khách hàng có nhu
cầu rút vốn thì NHTM phải đảm bảo thanh toán cho khách hàng. Do vậy, NHTM luôn luôn
phải có nguồn tiền mặt dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán khi có nhu cầu nhưng phải
hợp lý. Nếu quá thừa thì lãng phí, nếu thiếu thì sẽ tác động trực tiếp tới uy tín của NHTM.
Bảo đảm an toàn tín dụng và bảo đảm an toàn cho các hoạt động khác: các
NHTM thường tìm ở các khách hàng tiềm năng có khả năng vay vốn với lãi suất cao, có
khả năng hoàn trả tiền vay theo đúng tiến độ. Muốn có được khách hàng như vậy thì cần
phải làm tốt công tác marketing, tìm kiếm khách hàng phục vụ lợi ích của mình. Khi
xem xét một khoản vay cần được kết hợp nhiều yếu tố, thu thập nhiều thông tin, thông
tin về khách hàng, thông tin về thị trường. Mặc dù vậy, công tác điều tra phải thật nhanh
chóng và chính xác quyết định cho vay đáp ứng nhu cầu của khách hàng, không làm
mất cơ hội của khách hàng và mục đích cuối cùng là người vay vốn có khả năng hoàn
trả cả gốc và lãi vay đúng hạn.
1.3. KINH NGHIỆM VỀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA
MỘT SỐ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ BÀI HỌC RÚT RA
1.3.1. Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả kinh doanh tại một số ngân hàng
thương mại
1.3.1.1. Kinh nghiệm của các ngân hàng trên địa bàn
Hiện có nhiều ngân hàng và chi nhánh ngân hàng hoạt động trên địa bàn tỉnh. Từ
thực tế kinh doanh của một số ngân hàng có thể rút ra một số kinh nghiệp của các ngân
hàng này như sau:
- NHTM cổ phần Ngoại thương Chi nhánh An Giang là ngân hàng có bề dầy
kinh nghiệm tại địa bàn An Giang, hoạt động hàng năm có hiệu quả cao. Dư nợ cho vay
năm 2007 là 1.102 tỷ đồng, tăng 20% so đầu năm, vốn huy động 600 tỷ đồng, tăng 15%
so năm 2006, lợi nhuận 54 tỷ đồng [26]. Đạt được mức lợi nhuận cao là do chi nhánh
mở rộng cho vay bằng cách mở rộng địa bàn như mở Chi nhánh tại Thị xã Châu Đốc,
Phòng giao dịch Tứ giác Long Xuyên, Phòng giao dịch Tịnh Biên, Chi nhánh Đồng
Tháp, Phòng giao dịch Sa Đéc tỉnh Đồng Tháp… Đồng thời, Chi nhánh này tăng cường
tiếp thị thu hút khách hàng gửi tiền không kỳ hạn các tổ chức kinh tế tại chi nhánh từ đó
làm cho chênh lệch lãi suất cao mang lại lợi nhuận nhiều hơn. Mặc khác còn thu từ dịch
vụ và lợi thế về thanh toán xuất nhập khẩu, mua bán ngoại tệ cũng góp phần làm tăng
thu nhập của Chi nhánh NHTM cổ phần Ngoại thương An Giang. Ngoài ra tại NHTM
cổ phần ngoại thương An Giang còn đưa vào sử dụng các sản phẩm dịch vụ điện tử như
VCB Money, SMS Banking; dịch vụ ngân hàng bán lẻ…. và đào tạo cho cán bộ về kỷ
năng bán hàng, kỷ năng đàm phán. Chính vì áp dụng đa dạng sản phẩm dịch vụ đã thu
hút được khách hàng đến giao dịch.
- Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng Sông Cửu Long chi nhánh An Giang: năm
2007 dư nợ là 1.020 tỷ đồng, tăng 30% so đầu năm, vốn huy động 320 tỷ đồng, lợi
nhuận 30,1 tỷ đồng [26]. Đồng thời Chi nhánh tăng cường mở rộng mạng lưới giao dịch
tại các huyện Tân Châu, huyện Châu Phú, thị xã Châu Đốc, huyện Chợ Mới là những
nơi có tiềm năng về du lịch, thương mại, dịch vụ, làng nghề truyền thống… Đạt được
lợi nhuận cao là do chi nhánh tăng cường mở rộng cho vay, đầu tư vào các dự án có
nguồn vốn tài trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thu lãi từ cho vay có mức chênh
lệch lãi suất cao so với vốn huy động và vốn nhận từ NHTW lãi suất thấp từ đó nâng
cao được hiệu quả kinh doanh.
1.3.1.2. Ngân hàng ở các địa phương khác
Có nhiều kinh nghiệm từ các NHTM, đặc biệt là các chi nhánh NHCT trên các
địa bàn khác có thể rút ra và áp dụng cho Chi nhánh An Giang, trong đó đặc biệt là Chi
nhánh 14 Thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 2007, Chi nhánh này đã huy động tổng vốn là 1.266 tỷ đồng, tăng 8% so
năm 2006. Dư nợ cho vay 510 tỷ đồng, lợi nhuận là 25 tỷ đồng. Năm 2007 dư nợ cho
vay tăng 53%, tổng nguồn vốn huy động tăng 7,8% so năm 2006. Thu phí dịch vụ đạt
1,8 tỷ đồng, tăng 29% so năm 2006, tỷ lệ nợ xấu 0,68%. Chi nhánh thực hiện bảo lãnh
dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng… doanh số khoảng 17 tỷ đồng. Doanh số thanh
toán L/C nhập khẩu tăng 1,76 lần so năm 2006, thanh toán L/C xuất khẩu tăng 6,6 lần
so năm 2006 từ đó góp phần tăng thu phí dịch vụ. Chi nhánh 14 tập trung công tác huy
động vốn luôn ở mức cao, đồng thời phát triển mở rộng cho vay nhằm tăng doanh thu
mang lại lợi nhuận cao, số dư huy động vốn cao gấp 2 lần số dư nợ cho vay, chi nhánh
huy động vốn cao hơn cho vay cho nên thừa vốn và gửi vốn về Ngân hàng Công thương
Việt Nam để nhận chênh lệch lãi suất gửi vốn làm cho hiệu quả kinh doanh của chi
nhánh càng cao, ít rủi ro.
1.3.2. Một số bài học kinh nghiệm đối với Chi nhánh Ngân hàng Công
thương tỉnh An Giang
Một là, cần có sự chỉ đạo tập trung theo các chương trình, mục tiêu đã đề ra, có
bước đi giải pháp thích hợp, tạo nguồn lực, động lực cho kinh doanh, coi trọng mục tiêu
huy động nguồn vốn, chất lượng tín dụng, tạo thêm sản phẩm mới phù hợp với môi
trường cạnh tranh. Trong điều hành cần nhanh nhạy, thông suốt, giữ vững kỷ cương, kỷ
luật, nội bộ đoàn kết thống nhất, điều hành theo quy chế, cơ chế một cách kỷ cương,
phát huy tinh thần đoàn kết nội bộ và năng lực sở trường của từng cá nhân từ đó từng cá
nhân hoàn thành nhiệm vụ góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của chi nhánh.
Hai là, thực hiện nhanh chóng hiện đại hoá công nghệ thông tin và công nghệ ngân
hàng nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn trong phục vụ khách hàng.
Ba là, phải tổ chức tốt khâu tiếp thị và phục vụ khách hàng, cung cấp được nhiều
tiện ích, nhiều sản phẩm dịch vụ đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế thị trường.
Bốn là, tăng cường công tác huy động vốn bằng mọi biện pháp để đáp ứng nhu
cầu cho vay nền kinh tế, tiết giảm chi phí để hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
Năm là, mở rộng mạng lưới giao dịch đến các địa bàn trong tỉnh nhằm mở rộng
đầu tư và tăng thêm khách hàng đến giao dịch, đáp ứng nhiều hơn về nhu cầu dịch vụ
của khách hàng.
Chương 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH
TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG TỈNH AN GIANG
2.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA
CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG TỈNH AN GIANG
2.1.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh An Giang
Tỉnh An Giang chính thức được ghi vào hệ thống hành chính năm 1832 (thời
vua Minh Mạng thứ 13). An Giang là tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long,
có hai con sông Tiền Giang và sông Hậu Giang chảy qua bắt nguồn từ sông
Mêkông. Phía Đông giáp tỉnh Đồng Tháp; phía Bắc giáp Vương quốc Campuchia
với đường biên giới dài gần 100 km; phía Tây giáp tỉnh Kiên Giang; phía Nam giáp
thành phố Cần Thơ. Tỉnh có các cửa khẩu quốc tế là cửa khẩu Tịnh Biên, cửa khẩu
Tri Tôn và cửa khẩu Vĩnh Xương. Diện tích tự nhiên của tỉnh An Giang là 3.424
km2. Tỉnh có 11 đơn vị hành chính trực thuộc bao gồm: thành phố Long Xuyên, thị
xã Châu Đốc và 9 huyện là: Châu Thành, Thoại Sơn, Châu Phú, Tri Tôn, Tịnh
Biên, Chợ Mới, Phú Tân, Tân Châu, An Phú với 150 phường, xã, thị trấn [35].
Là tỉnh đầu nguồn Biên giới, An Giang vừa có đồng bằng, sông rạch, vừa có
rừng và hệ thống núi non hùng vĩ, có hệ thống giao thông thuỷ, bộ rất thuận tiện. Hàng
năm, có gần 70% diện tích tự nhiên bị ngập lũ, thời gian lũ từ 3-4 tháng vừa đem lại lợi
ích to lớn cho đồng ruộng như đưa lượng phù sa về rất lớn bồi đắp cho đồng ruộng, vệ
sinh đồng ruộng … nhưng cũng gây tác hại nghiêm trọng nếu nước ngập cao sẽ làm
thiệt hại tính mạng, mùa màng, cơ sở hạ tầng, nhà cửa dân cư... làm cho sức đầu tư của
tỉnh An Giang thường ở mức cao nhưng do phải sửa chữa hoặc xây dựng lại những thiệt
hại do lũ gây nên từ đó hiệu quả đầu tư mang lại không cao.
Dân số An Giang đến cuối năm 2007 là 2.232.000 người, với 4 dân tộc: Kinh
(94,24%), Hoa (0,9%), Chăm (0,63%), KhMer (4,23%) cùng sinh sống. Mật độ dân số
646 người/ km2. Dân số thành thị chiếm 27%, nông thôn chiếm 73%; tỷ lệ sinh là
17,6%, giảm 0,06% so năm 2006; tỷ lệ chết là 5,2%, giảm 0,04% so năm 2006; tỷ lệ
tăng dân số tự nhiên là 12,4%, giảm 0,10% so năm 2006. Tỷ lệ hộ nghèo là 8,93%, giảm
1,86% so năm 2006 [35].
Ngành nghề chủ yếu của An Giang là trồng cây lương thực và nuôi trồng thủy
sản với nghề nuôi cá trên sông và hiện nay là nuôi trên ao hầm. Sản lượng lương thực
năm 2007 đạt 3,1 triệu tấn. Kim ngạch xuất khẩu năm 2007 là 540 triệu USD tăng 21,5
% so năm 2006.
Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của tỉnh gồm thủy sản đông lạnh xuất khẩu với
sản lượng năm 2007 đạt 124,7 ngàn tấn, tương đương 147,6 triệu USD, về kim ngạch
tăng 5,1% so năm 2006 đây là ngành có mức tăng trưởng cao nhất trong khu vực; gạo
xuất khẩu đạt 501,9 ngàn tấn, tương đương 330 triệu USD, tăng so năm 2006 là 20,2%
về lượng và tăng 31,2% về kim ngạch xuất khẩu; còn lại là rau quả đông lạnh; may mặc;
giày thể thao…
Tốc độ tăng trưởng GDP từ năm 2003 đến năm 2007: năm 2003 là 9,04%; năm
2004 là 11,64%; năm 2005 là 9,9%, năm 2006 là 9,05%. Đặc biệt năm 2007 là 13,73%
cao nhất trong vòng 17 năm kể từ năm 1990.
GDP bình quân đầu người năm 2005 là 8,1 triệu đồng (510 USD); năm 2006 là
9,6 triệu đồng (600 USD), tăng 18,5% so năm 2005; năm 2007 là 11,8 triệu đồng (735
USD), tăng 22,9% so năm 2006 [9].
Cơ cấu kinh tế diễn biến tích cực, tăng dần tỉ trọng 2 khu vực công nghiệp - xây
dựng và thương mại - dịch vụ, hiện nay khu vực nông, lâm, thuỷ sản là 35,47%, Thương
mại - dịch vụ 52,39%, khu vực công nghiệp xây dựng 12,14% [9]. Khu vực thương mại
- dịch vụ tăng mạnh và giảm dần tỉ trọng khu vực nông, lâm, thuỷ sản, quy mô công
nghiệp của tỉnh còn nhỏ so với yêu cầu phát triển chung.
Bảng 2.1: Một số chỉ tiêu cơ bản của tỉnh An Giang
Chỉ tiêu
Đơn
vị
2003 2004 2005 2006 2007
Tổng sản phẩm GDP
Tỷ
đồng
8.519 9.508
10.44
9
9,6 11,8
Tốc độ phát triển GDP % 9,04 11,61 9,90 9,05 13,73
- Khu vực nông, lâm, thủy sản 2,76 8,57 9,10 - 2,96 9,36
- Khu vực công nghiệp, xây
dựng
11,90 11,86 13,59 17,96 15,55
- Khu vực thương mại, dịch
vụ
13,65 13,96 12,37 14,6 15,8
Cơ cấu % 100 100 100 100 100
Khu vực nông, lâm, thủy sản 38,90 37,90 37,74 34,56 35,47
- Khu vực công nghiệp, xây
dựng
12,50 11,98 12,01 12,78 12,14
- Khu vực thương mại, dịch
vụ
48,60 50,12 50,25 52,66 52,39
Sản lượng lương thực
nghìn
tấn
2.749 3.079 3.218 3,08 3,1
Thu nhập bình quân
người/năm
triệu
đồng
6,165 7,288 8,516 9,653
11,87
5
Thu Ngân sách Nhà nước
Tỷ
đồng
2.087 2.411 2.465 1.945 2.156
Chi Ngân sách Nhà nước
Tỷ
đồng
1.703 2.080 2.194 2.975 3.427
Kim ngạch xuất nhập khẩu
- Kim ngạch xuất khẩu
1000
USD
182 260 333 444 540
- Kim ngạch nhập khẩu 1000 39.08 47.31 46.29 55,7 52,7
USD 9 4 6
Tỷ lệ tăng dân số % 1,44 1,39 1,36 1.25 1.24
Số lao động được giải quyết
việc làm/ năm
người
25.00
0
26.50
0
27.50
0
30.25
0
33.80
0
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh An Giang 2007 [9].
Năm 2007, khu vực nông, lâm, thủy sản (khu vực I) có mức tăng trưởng vược
bậc, người dân được mùa, các mặt hàng nông sản được giá, xuất khẩu ổn định, đời sống
nhân dân được nâng cao. Tốc độ tăng trưởng cả năm đạt 9,36% cao nhất trong những
năm gần đây. Ngành nông nghiệp có diện tích gieo trồng tăng 20.916 ha so năm 2006.
Ngành thủy sản có mức tăng trưởng cao nhất khu vực, đạt 26,97% so năm 2006, do nhu
cầu tiêu thụ tăng, giá cá nguyên liệu luôn luôn ổn định ở mức cao, lợi nhuận nhiều, làm
cho diện tích nuôi trồng càng mở rộng thêm.
Khu vực công nghiệp – xây dựng (khu vực II) sản xuất công nghiệp ổn định và
đạt mức tăng trưởng cao. Năm 2007, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 15,5% so năm
2006, trong đó công nghiệp chế biến tăng mạnh (17,81%), những ngành nghề hoạt động
có hiệu quả như: chế biến thủy sản, quần áo may sẵn, gạch xây dựng, xay xát lúa gạo,
máy móc thương phẩm, thức ăn gia súc, thủy sản… tăng 10,5% so năm 2006 [9].
Khu vực thương mại - dịch vụ (khu vực III) hoạt động kinh doanh tiếp tục phát
triển, khu vực nông lâm thủy sản tăng về lượng, với các mặt hàng chủ lực là lúa, cá tạo
điều kiện cho khu vực công nghiệp phát triển sản xuất, giá lúa, giá cá ở mức cao, làm
tăng sức mua và khả năng thanh toán của người dân ở nông thôn, tăng sức mua của xã
hội. Thương mại phát triển đã bảo vệ được lợi ích của người sản xuất và kích thích sản
xuất phát triển, tốc độ tăng trưởng năm 2007 khu vực này tăng 15,8%, tăng 1,2% so
năm 2006 [9].
Từ điều kiện như trên, NHCT có thuận lợi trong việc tăng dư nợ, là tỉnh có kinh
tế phát triển do đó nhu cầu phát triển sản xuất rất lớn vì vậy nhu cầu vay vốn ngân hàng
cao để đáp ứng đầu tư mở rộng sản xuất đó là điều kiện thuận lợi để ngân hàng tăng dư
nợ cho vay.
Khó khăn đối với hoạt động và nâng cao hiệu quả kinh doanh của chi nhánh
NHCT An Giang: do điều kiện tự nhiên thường xuyên gặp thiên tai, lũ lụt, mất mùa,
dịch bệnh… cho nên rủi ro về tín dụng rất lớn.
2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển Chi nhánh Ngân hàng Công
thương tỉnh An Giang
Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang chính thức được thành lập theo Quyết định số
54/NH-TCCB ngày 14/07/1988 của Tổng giám đốc NHNN Việt Nam (nay là Thống
đốc NHNN Việt Nam).
Chi nhánh có trụ sở chính đặt tại số 270 Lý Thái Tổ, phường Mỹ Long, thành
phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Chi nhánh NHCT An Giang là một trong 138 Chi
nhánh của NHCT Việt Nam, thực hiện hạch toán phụ thuộc, là một NHTM nhà nước.
Từ khi thành lập năm 1988 đến nay, Chi nhánh NHCT An Giang phát triển
không ngừng, tổng dư nợ cho vay và đầu tư tăng gấp 62 lần, tổng nguồn vốn huy
động vốn tăng gấp 44 lần so với năm 1988 chi nhánh đã tận dụng tốt những điểm
mạnh để phát huy lợi thế của một NHTM quốc doanh có uy tín nhất trong hệ thống
ngân hàng, với chức năng kinh doanh trong lĩnh vực tài chính và tiền tệ, nên chi
nhánh hoạt động khá hiệu quả, lợi nhuận tăng trưởng qua các năm. Ngoài ra, Chi
nhánh NHCT An Giang còn góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế xã hội
trong tỉnh An Giang, tăng cường đầu tư vào các dự án có ý nghĩa kinh tế xã hội cao,
luôn bám sát chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và đề ra biện pháp chỉ
đạo thực hiện nhiệm vụ của ngành, để triển khai có hiệu quả thu hút nguồn vốn tại
địa bàn, đáp ứng mọi nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Chi
nhánh luôn đáp ứng kịp thời các nhu cầu của khách hàng, tạo được vị thế cạnh tranh
trong hoạt động kinh doanh của mình. Với những thành tích đạt được Chi nhánh đã
góp phần phát triển kinh tế địa phương, góp phần thực hiện tốt 3 chương trình kinh
tế lớn của tỉnh đề ra (khuyến công, khuyến nông, khuyến ngư).
Khi mới thành lập (tháng 7/1988), Chi nhánh NHCT An Giang ngoài trụ sở
chính, có 1 chi nhánh trực thuộc (Chi nhánh NHCT Thị xã Châu Đốc). Từ tháng
10/2006 đến nay, Chi nhánh NHCT An Giang có một hội sở chính, ba phòng giao dịch.
Trong những năm qua, Chi nhánh đã thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình với
trách nhiệm cao, thực hiện nghiêm Luật Ngân hàng nhà nước, Luật Các tổ chức tín
dụng, các nghị định của Chính phủ, các thông tư hướng dẫn, các văn bản của NHNN
cũng như của NHCT Việt Nam. Chi nhánh NHCT An Giang luôn tìm mọi cách để nâng
cao chất lượng kinh doanh và dịch vụ ngân hàng, cũng như đổi mới phong cách giao
dịch, xây dựng chính sách khách hàng nhằm thu hút khách hàng đến giao dịch ngày
càng nhiều hơn góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của Chi nhánh.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Chi nhánh Ngân hàng công
thuơng An Giang
Tổ chức mạng lưới gồm có Hội sở chính tại thành phố Long Xuyên, 3 Phòng
giao dịch đặt tại địa bàn thành Phố Long Xuyên, huyện Chợ Mới, huyện Thoại Sơn.
Chi nhánh NHCT An Giang có cơ cấu tổ chức bao gồm Ban Giám Đốc và các
phòng nghiệp vụ. Giám đốc là người lãnh đạo điều hành hoạt động chung của đơn vị và
chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc NHCT Việt Nam.
Giúp việc cho Giám đốc Chi nhánh có 2 Phó Giám đốc: Phó giám đốc phụ trách
nguồn vốn, đầu tư kinh doanh, dịch vụ ngân hàng; và Phó giám đốc phụ trách tiền tệ kho
quỹ, kế toán giao dịch, thanh toán xuất nhập khẩu, kinh doanh ngoại tệ. Chi nhánh có 7
phòng nghiệp vụ giúp việc cho Ban Giám đốc.
Cơ cấu tổ chức bộ máy gồm có Ban giám đốc và các phòng nghiệp vụ, phòng
giao dịch.
- Có 7 phòng nghiệp vụ: Phòng Khách hàng doanh nghiệp, Phòng Khách hàng
cá nhân, Phòng Kế toán giao dịch, Phòng Tiền tệ kho quỹ, Phòng Quản lý rủi ro, phòng
Thông tin điện toán, Phòng Tổ chức hành chính.
- Có 3 Phòng giao dịch: Phòng giao dịch Long Xuyên, Phòng giao dịch huyện
Thoại Sơn, Phòng giao dịch huyện Chợ Mới (Sơ đồ 2.1).
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Chi nhánh Ngân hàng Công thuơng
An Giang
GIÁM ĐỐC
PHÓ GIÁM
ĐỐC
PHÓ GIÁM
ĐỐC
Phòng KH -
DN
Phòng
KT -GD
P.TTỆ
Kho quỹ
Phòng KH -
CN
Nguồn: Chi nhánh NHCT An Giang.
Chi nhánh NHCT An Giang có 103 cán bộ, trong đó hơn 75% cán bộ có trình độ
cao đẳng, đại học và sau đại học.
Nhiệm vụ chính của các phòng chức năng cụ thể như sau:
- Phòng Khách hàng doanh nghiệp: là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với
khách hàng là các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, công ty… để khai thác nguồn vốn
bằng VNĐ và ngoại tệ; thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến tín dụng, quản lý các sản
phẩm tín dụng phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của NHCT Việt Nam,
trực tiếp quảng cáo, tiếp thị, giới thiệu và bán các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho các
doanh nghiệp; thực hiện nghiệp vụ về thanh toán xuất nhập khẩu và kinh doanh ngoại tệ
tại chi nhánh theo qui định của Ngân hàng công thương Việt Nam.
- Phòng Khách hàng cá nhân: là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách
hàng là các cá nhân, để khai thác vốn bằng VNĐ và ngoại tệ; thực hiện các nghiệp vụ
liên quan đến tín dụng, quản lý các sản phẩm tín dụng phù hợp với chế độ, thể lệ hiện
hành và hướng dẫn của NHCT Việt Nam, trực tiếp quảng cáo, tiếp thị, giới thiệu và bán
các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho các khách hàng cá nhân.
- Phòng Quản lý rủi ro: Phòng có nhiệm vụ tham mưu cho Giám đốc Chi nhánh
về quản lý rủi ro; quản lý giám sát thực hiện danh mục cho vay, đầu tư đảm bảo tuân thủ
các giới hạn tín dụng cho từng khách hàng; thẩm định hoặc tái thẩm định khách hàng,
dự án, phương án đề nghị cấp tín dụng; thực hiện chức năng đánh giá, quản lý rủi ro
trong toàn bộ các hoạt động ngân hàng theo chỉ đạo của NHCT Việt Nam; chịu trách
nhiệm về quản lý và xử lý các khoản nợ có vấn đề (bao gồm các khoản nợ: cơ cấu lại
thời hạn trả nợ, nợ quá hạn, nợ xấu); quản lý, khai thác và xử lý tài sản đảm bảo nợ vay
theo quy định của Nhà nước nhằm thu hồi các khoản nợ gốc và lãi tiền vay, quản lý theo
dõi và thu hồi các khoản nợ đã được xử lý rủi ro.
- Phòng Kế toán giao dịch: là phòng nghiệp vụ thực hiện các giao dịch trực tiếp
với khách hàng; các nghiệp vụ và các công việc liên quan đến công tác quản lý tài
chính, chi tiêu nội bộ tại chi nhánh; cung cấp các dịch vụ ngân hàng liên quan đến
nghiệp vụ thanh toán, xử lý hạch toán các giao dịch. Quản lý và chịu trách nhiệm đối
với hệ thống giao dịch trên máy, quản lý quỹ tiền mặt đến từng giao dịch viên, theo
đúng qui định của Nhà nước và NHCT Việt Nam, thực hiện nhiệm vụ tư vấn cho khách
hàng về sử dụng các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng.
- Phòng Tiền tệ kho quỹ: là phòng nghiệp vụ quản lý an toàn kho quỹ, quản lý
quỹ tiền mặt theo qui định của NHNN và NHCT Việt Nam; ứng và thu tiền cho các quỹ
tiết kiệm, các điểm giao dịch trong và ngoài quầy, thu chi tiền mặt cho các doanh
nghiệp có thu, chi tiền mặt lớn.
- Phòng Tổ chức hành chính: là phòng tổng hợp thực hiện công tác tổ chức cán
bộ và đào tạo tại Chi nhánh theo đúng chủ trương chính sách của Nhà nước và quy định
của NHCT Việt Nam; thực hiện công tác quản trị và văn phòng phục vụ hoạt động kinh
doanh tại Chi nhánh, thực hiện công tác bảo vệ an ninh an toàn Chi nhánh.
2.1.4. Tình hình các hoạt động chủ yếu của Chi nhánh Ngân hàng Công
thương tỉnh An Giang
2.1.4.1. Hoạt động huy động vốn
Chi nhánh NHCT An Giang thực hiện các hình thức huy động vốn như sau:
nhận tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn bằng VNĐ và ngoại tệ của các tổ
chức kinh tế và dân cư; nhận tiền gửi tiết kiệm với nhiều hình thức phong phú và hấp
dẫn như tiết kiệm không kỳ hạn, tiết kiệm có kỳ hạn bằng VNĐ và ngoại tệ, tiết kiệm
dự thưởng, tiết kiệm tích luỹ; phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi bằng
VNĐ và Ngoại tệ, các loại giấy tờ có giá...
Kể từ khi thành lập đến nay, Chi nhánh NHCT An Giang đã tạo được uy tín
trong dân cư và quan hệ mật thiết, lâu dài với nhiều doanh nghiệp lớn. Chi nhánh đã
thực hiện các hình thức huy động phong phú để thu hút khách hàng, đổi mới phong cách
giao dịch văn minh, theo hướng tận tình, chu đáo. Chính vì vậy mà nguồn vốn tăng
trưởng liên tục.
Nguồn vốn huy động qua các năm đều tăng: năm 2004 tăng 21,4% so năm
2003; năm 2005 tăng 19,9% so năm 2004. Tuy nhiên, tổng nguồn vốn huy động
năm 2006 lại giảm 14,5% so năm 2005. Năm 2007, nguồn vốn tăng trở lại 37,2%
so năm 2006 và tăng 170,93% so năm 2003. Nguồn vốn năm 2007 tăng do Chi
nhánh tập trung thực hiện tốt công tác huy động vốn với nhiều hình thức huy động
khác nhau, tạo sự hấp dẫn cho khách hàng.
Sơ đồ 2.2: Kết quả huy động vốn của Chi nhánh NHCT An Giang
Đơn vị: Tỷ đồng
Nguồn: Chi nhánh NHCT An Giang 2007 [6].
2.1.4.2. Hoạt động cho vay tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh An
Giang
Để đứng vững và phát triển trong nền kinh tế thị trường đầy tính cạnh tranh như
hiện nay, buộc các ngân hàng phải xây dựng cho mình chiến lược kinh doanh hợp lý và
luôn quan tâm đến vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng, trên cơ sở nguồn vốn huy động
để sử dụng vốn có hiệu qủa, làm sao vừa đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh, vừa
mang lại hiệu quả. Để đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế tại Chi nhánh NHCT An
Giang có các hình thức cho vay như sau: cho vay ngắn hạn bằng VNĐ và ngoại tệ
(USD); cho vay trung, dài hạn bằng VNĐ và ngoại tệ (USD); tài trợ xuất, nhập khẩu;
chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất; đồng tài trợ và cho vay hợp vốn đối với những dự án
lớn, thời gian hoàn vốn dài; cho vay tài trợ, uỷ thác theo chương trình: Đài Loan
(SMEDF); Việt Đức (DEG, KFW) và các hiệp định tín dụng khung; thấu chi, cho vay
tiêu dùng…
Kết quả hoạt động huy động vốn của Chi nhánh được thể hiện như sơ đồ 2.3 dưới
đây.
Sơ đồ 2.3: Kết quả sử dụng vốn của Chi nhánh NHCT An Giang
Đơn vị: Tỷ đồng
Nguồn: Chi nhánh NHCT An Giang 2007 [6].
Hàng năm, dư nợ cho vay của Chi nhánh tăng nhanh: năm 2003 là 608 tỷ đồng;
năm 2004 là 641 tỷ đồng, tăng 105,43% so năm 2003; năm 2005 là 726 tỷ đồng, tăng
113,26% so năm 2004; năm 2006 giảm 14,19% so năm 2005 do tách Chi nhánh cấp II;
năm 2007 là 842 tỷ đồng, tăng 135% so năm 2006 và tăng 138,5% so năm 2003.
2.1.4.3. Thực trạng các hoạt động dịch vụ ngân hàng
So với những năm 1990 trở về trước, dịch vụ ngân hàng hiện nay có phần tiến
triển hơn, nhưng nhìn chung vẫn còn đơn điệu, chưa tiện lợi, chưa hấp dẫn, vẫn là các
dịch vụ truyền thống.
Tại Chi nhánh NHCT An Giang thực hiện các hoạt động dịch vụ như sau:
bảo lãnh, tái bảo lãnh (trong nước và quốc tế); bảo lãnh dự thầu; bảo lãnh thực hiện
hợp đồng; bảo lãnh thanh toán; phát hành; thông báo, xác nhận, thanh toán thư tín
dụng nhập khẩu; nhờ thu xuất, nhập khẩu (Collection); nhờ thu hối phiếu trả ngay
(D/P) và nhờ thu chấp nhận hối phiếu (D/A); chuyển tiền trong nước và quốc tế;
chuyển tiền nhanh Western Union; thanh toán uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, séc; chi
trả lương cho doanh nghiệp qua tài khoản, qua thẻ ATM; chi trả Kiều hối; mua, bán
ngoại tệ (Sport, Forward, Swap…); mua, bán các chứng từ có giá (trái phiếu chính
phủ, tín phiếu kho bạc, công trái, thương phiếu…); thu, chi hộ tiền mặt VNĐ và
ngoại tệ; phát hành và thanh toán thẻ tín dụng nội địa, thẻ tín dụng quốc tế (VISA/
MASTER CARD…); dịch vụ thẻ ATM, thẻ tiền mặt (Cash card), internet banking;
dịch vụ mở tài khoản, chuyển tiền, thanh toán trong và ngoài hệ thống ngân hàng,
chuyển tiền kiều hối, chuyển tiền cá nhân, chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất, thanh
toán séc
du lịch,…
Sơ đồ 2.4: Kết quả thu phí dịch vụ của Chi nhánh NHCT An Giang
Đơn vị: triệu đồng
Nguồn: Chi nhánh NHCT An Giang 2007 [6].
Thu dịch vụ tăng đều qua các năm, năm 2003 là 653 triệu đồng, chiếm 1,15%/
tổng thu; năm 2007 là 1.621 triệu đồng, chiếm 1,4%/ tổng thu. Mặc dù so sánh về số
lượng thu là tăng qua các năm nhưng tính về tỷ trọng trên tổng thu qua các năm lại
giảm.
2.2. THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ KINH DOANH TẠI CHI NHÁNH NGÂN
HÀNG CÔNG THƯƠNG TỈNH AN GIANG
2.2.1. Hiệu quả kinh doanh chung
2.2.1.1. Tình hình thu nhập tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương An Giang
Thu nhập tại Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang giai đoạn 2003 - 2007 tăng 20%,
riêng năm 2006 thu nhập giảm do tách Chi nhánh Thị xã Châu Đốc từ chi nhánh cấp II
lên chi nhánh cấp I, các khoản thu nhập, chi phí cùng tách theo cho nên thu nhập giảm
5,7% so năm 2005. Tổng thu năm 2007 là 118 tỷ đồng, tăng gấp 2,1 lần so tổng thu năm
2003. Nguyên nhân tăng thu nhập cao là do tăng thu về hoạt động tín dụng và thu hồi
các khoản nợ xử lý rủi ro trong các năm 2003 và 2004 và thu được lãi gửi vốn về Trung
ương làm cho tổng thu năm 2007 tăng lên đáng kể.
Năm 2003, thu lãi điều chuyển vốn lên Trung ương là 595 triệu đồng. Năm 2004
và 2005 nguồn thu này không đáng kể, năm 2006 thu 1.085 triệu đồng chiếm 1,67%,
đến năm 2007 thu được 5.148 triệu đồng chiếm 7,9% trên tổng thu.
Thu dịch vụ tăng đều qua các năm, năm 2003 là 653 triệu đồng, chiếm 1,15%/
tổng thu; năm 2007 là 1.621 triệu đồng, chiếm 1,4%/ tổng thu. Mặc dù so sánh về số
lượng thu là tăng qua các năm nhưng tính về tỷ trọng trên tổng thu qua các năm lại
giảm.
Chi phí tại Chi nhánh NHCT An Giang giai đoạn 2003 - 2007, tăng bình quân
hàng năm là 15%. Riêng năm 2005, chi phí giảm so năm 2004 là 12% do thực hiện tốt
công tác tín dụng nên không phải trích dự phòng rủi ro từ đó chi phí giảm do năm 2004
quản lý không tốt dẫn đến phải trích dự phòng rủi ro chủ yếu là của công ty lương thực
An Giang làm ăn thua lỗ nhiều năm liền..
Năm 2005, chi phí giảm so năm 2004 là 12%. Nguyên nhân chủ yếu là do tiết
kiệm được chi phí quản lý và không phải trích dự phòng rủi ro.
Bảng 2.2: Các chỉ tiêu cơ bản của Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang
Đơn vị: Triệu đồng
Khoản mục 2003 2004 2005 2006 2007
1. Thu hoạt động tín
dụng
54.792 68.435 82.729 76.252 101.263
- Thu lãi cho vay 54.792 68.435 81.047 75.509 99.564
- Thu khác về tín dụng 0 0 1.682 743 1.699
2. Thu lãi tiền gửi 1 697 1.453 1.443 1
3. Thu lãi điều chuyển
vốn
595 0 0 1.085 5.148
4. Thu các loại phí dịch
vụ
653 810 913 1.472 1.621
5. Thu kinh doanh ngoại
tệ
24 67 81 69 60
6.Thu khác 622 543 826 1.443 10.794
Tổng thu 56.507 70.654 85.091 80.255 118.828
1. Chi về huy động vốn 31.925 41.104 42.879 44.199 55.651
- Trã lãi tiền gửi 12.931 28.981 18.875 18.042 24.728
- Trã lãi tiền vay 18.747 12.123 24.021 26.155 30.922
- Chi khác 247 350 473 352 421
2. Chi kinh doanh ngoại
tệ
6 9 26 45 47
3. Chi về dịch vụ thanh
toán
27 102 353 522 680
4. Chi về quản lý 10.161 12.982 11.510 15.359 18.919
- Chi lương 3.555 3.906 5.486 7.380 10.914
- Chi về quản lý và công 6.606 9.076 6.024 7.979 8.005
cụ
5.Chi dự phòng và
BHTG
10.956 13.744 221 291 1.181
6. Chi khác 14 520 630 4.609 11.369
Tổng chi 56.344 68.386 60.926 65.027 87.851
Lợi nhuận hạch toán nội
bộ
163 2.268 24.498 15.228 30.977
Nguồn: Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang 2007 [6].
Năm 2007, chi phí tăng so năm 2006 là 33% là do tăng chi phí trả lãi tiền gửi
(huy động tiền gửi tăng 37,9%), chi phí tiền lương cũng tăng lên 37,9% so năm 2006 do
đơn giá tiền lương của Nhà nước tăng và các chi phí khác cũng tăng do hoạt động kinh
doanh tăng lên.
2.2.1.2. Lợi nhuận hạch toán nội bộ
Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang là một đơn vị kinh doanh có hiệu quả cao so với
các ngân hàng trong hệ thống NHCT Việt Nam. Qua các năm từ 2003 - 2007 Chi nhánh
đều có lợi nhuận. Tuy vậy, công tác tín dụng chưa tốt, nợ xấu phát sinh nên phải trích
dự phòng rủi ro tương đối lớn đã làm giảm lợi nhuận của Chi nhánh trong các năm 2003
và 2004.
Năm 2003, lợi nhuận đạt 163 triệu đồng, do quản lý tín dụng chưa tốt để nợ xấu
phát sinh nhiều nên phải trích dự phòng rủi ro là 10,739 tỷ đồng, làm cho lợi nhuận quá
thấp.
Năm 2004, lợi nhuận là 2,268 tỷ đồng, tăng 1.391% so năm 2003. Tuy nhiên do
quản lý tín dụng chưa tốt để nợ xấu phát sinh nhiều, phải trích trích dự phòng rủi ro là
13,580 tỷ đồng, từ đó lợi nhuận đạt thấp.
Năm 2005, lợi nhuận đạt 24,498 tỷ đồng, tăng 1.080% so năm 2004. Do làm tốt
công tác tín dụng cho nên thu nhập về hoạt động tín dụng tăng, chi phí không tăng từ đó
lợi nhuận đạt cao so năm 2004.
Năm 2006, lợi nhuận đạt 15,228 tỷ đồng, bằng 62% so năm 2005 do tách Chi
nhánh thị Xã Châu Đốc từ chi nhánh cấp II lên chi nhánh cấp I trực thuộc Trung Ương
từ tháng 10/2006 Chi nhánh NHCT An Giang không phục hồi kịp số dư huy động vốn,
số dư nợ trong thời gian ngắn, từ đó làm cho doanh thu giảm và lợi nhuận giảm theo.
Năm 2007, lợi nhuận đạt 30.977 tỷ đồng, tăng 203,4% so năm 2006. Đây là năm
mà chi nhánh NHCT tỉnh An Giang đã thực hiện tốt công tác huy động vốn. Vốn huy
động tăng so năm 2006 là 37%, dư nợ tăng 27%, tăng thu dịch vụ, thu xử lý rủi ro góp
phần làm cho lợi nhuận tăng. Vốn huy động tăng, giảm nhận vốn điều hòa từ trung
ương, làm cho chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra giảm, đồng thời tăng dư nợ cho vay
làm tăng thu nhập về cho vay, mặt khác về công tác tín dụng quản lý tốt không để tăng
nợ xấu, không đề trích dự phòng rủi ro từ đó lợi nhuận năm 2007 tăng 203,4% so năm
2006 [6].
Bảng 2.3: Lợi nhuận hạch toán nội bộ của Chi nhánh NHCT An Giang
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007
Tổng doanh thu 56.507 70.654 84.879 80.255 118.828
Tổng chi phí 56.344 68.386 60.381 65.027 87.851
Lợi nhuận 163 2.268 24.498 15.228 30.977
Nguồn: Chi nhánh NHCT An Giang 2007 [6].
Nguyên nhân chính là do tỷ lệ tăng chi phí và tăng thu nhập tương ứng với tỷ lệ
tăng nguồn vốn và tăng tài sản sinh lời và xu thế chi phí tăng chậm hơn tăng thu nhập
dẫn tới lợi nhuận tăng cao.
2.2.2. Hiệu quả huy động vốn và cho vay
- Hiệu suất sử dụng vốn vay: là tiêu chí quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt
động kinh doanh của ngân hàng. Hiện tại, các ngân hàng lấy nghiệp vụ tín dụng làm
nghiệp vụ sinh lời chủ yếu trong thu nhập. Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn dung đánh giá
chính xác tình hình hoạt động của ngân hàng.
Hiệu suất sử dụng vốn =
Tổng dư nợ cho vay
Tổng nguồn vốn huy động
Thực trạng hoạt động huy động vốn của Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang cho
thấy tổng nguồn vốn huy động qua các năm 2003, 2004, 2005 đều tăng, tuy nhiên tổng
nguồn vốn huy động năm 2006 lại giảm so năm 2005 là 41 tỷ đồng do tách chi nhánh.
Năm 2007, Chi nhánh đã có nhiều cố gắng trong công tác huy động vốn bằng nhiều
hình thức và đã đạt được kết quả khả quan tăng so năm 2006 là 37% và đáp ứng được
58,7% nhu cầu sử dụng vốn. Tuy nhiên thực tế đó cho thấy tình hình huy động vốn còn
gặp khó khăn không ổn định, tỷ lệ huy động vốn so sử dụng vốn còn thấp, nên phải
nhận vốn điều hòa từ Trung ương làm cho chi phí đầu vào tăng lên, hiệu quả kinh doanh
giảm thấp (Bảng 2.4).
Bảng 2.4: Hiệu suất sử dụng vốn của Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007
Tổng huy động vốn 289 351 421 360 494
Tổng dư nợ cho vay 608 641 726 663 842
Hiệu suất sử dụng vốn (%) 210,47 182,62 172,46 183,89 170,57
Nguồn: Chi nhánh NHCT An Giang 2007 [6].
- Về huy động vốn:
Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang đã từng bước phát triển và phát triển vững chắc
về huy động vốn, là một ngân hàng có vị trí thuận lợi, có bề dầy kinh nghiệm, có uy tín
cao đối với khách hàng. Kế thừa và phát huy lợi thế trên Chi nhánh NHCT An Giang đã
có chính sách khách hàng đúng đắn, có nhiều hình thức huy động vốn phong phú, lãi
suất hợp lý, hấp dẫn và đặc biệt là biết đổi mới phong cách giao dịch, luôn tạo niềm tin
với khách hàng làm cho khách hàng yên tâm hơn khi giao dịch với ngân hàng. Tuy
nhiên, Chi nhánh cũng có lúc gặp khó khăn trong huy động vốn do trên địa bàn có quá
nhiều NHTM cổ phần và hệ thống quỹ tín dụng nhân dân cùng hoạt động cho nên huy
động vốn đạt thấp so với sử dụng vốn.
Từ thực tế hoạt động của Chi nhánh NHCT An Giang cho thấy tổng nguồn vốn
huy động qua các năm của Chi nhánh tăng nhanh: năm 2004 tăng 21,4% so năm 2003;
năm 2005 tăng 19,9% so năm 2004. Tuy nhiên, tổng nguồn vốn huy động năm 2006 lại
giảm 14,5% so năm 2005. Năm 2007, nguồn vốn tăng trở lại 37,2% so năm 2006 và
tăng 17,3% so năm 2005. Nguồn vốn năm 2007 tăng do tập trung thực hiện tốt công tác
huy động vốn. Trong cơ cấu huy động vốn, tiền gửi tổ chức kinh tế chiếm tỷ trọng tăng
dần qua các năm và tiền gửi tiết kiệm giảm dần qua các năm. Năm 2003, tiền gửi tổ
chức kinh tế chiếm 36%, tiền gửi tiết kiệm chiếm 54%/tổng nguồn vốn huy động. Năm
2004, tiền gửi tổ chức kinh tế tăng lên chiếm 43%, tiền gửi tiết kiệm giảm còn
50,4%/tổng nguồn vốn huy động. Năm 2005, tiền gửi tổ chức kinh tế chiếm 43%, tiền
gửi tiết kiệm giảm còn 50,4%/tổng nguồn vốn huy động. Năm 2006, tiền gửi tổ chức
kinh tế tăng lên chiếm 47%, tiền gửi tiết kiệm giảm còn 48,2%/tổng nguồn vốn huy
động. Năm 2007, tiền gửi tổ chức kinh tế tăng lên chiếm 51,2%, tiền gửi tiết kiệm giảm
còn 45,7%/tổng nguồn vốn huy động (Bảng 2.5).
Bảng 2.5: Kết quả huy động vốn tại Chi nhánh NHCT An Giang
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007
Tổng vốn huy động 289 351 421 360 494
- Tiền gửi tổ chức kinh tế 105 151 198 201 253
- Tiền gửi tiết kiệm 156 177 203 147 226
- Kỳ phiếu bằng tiền 9 10 19 6 0,2
- Trái phiếu 14 12 2 0 0
- Tiền gửi khác 6 0,1 0,7 7 15
Nguồn:Chi nhánh NHCT An Giang 2007 [6].
+ Huy động vốn theo kỳ hạn: nguồn vốn huy động từ năm 2003 - 2007 tăng.
Nguồn vốn phân theo kỳ hạn có xu hướng giảm và không kỳ hạn có xu hướng tăng.
Năm 2003 nguồn vốn có kỳ hạn chiếm tỷ trọng 70%, nguồn vốn không kỳ hạn chiếm
30%/ tổng nguồn vốn huy động. Năm 2007, nguồn vốn có kỳ hạn chiếm tỷ trọng 77,1%,
nguồn vốn không kỳ hạn chiếm 22,9%. Đặc biệt, năm 2007, mức vốn huy động đạt cao
nhất trong vòng 5 năm trở lại đây, tỷ lệ huy động không kỳ hạn giảm. Qua đó, cho thấy
tiền gửi đã ổn định hơn (Bảng 2.6).
Bảng 2.6: Cơ cấu huy động vốn của Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu 2003
2004 2005 2006 2007
Số
tiền
%
Số
tiền
%
Số
tiền
%
Số
tiền
%
Tổng huy động 289 351 100 421 100 360 100 494 100
Theo đối tượng:
- Tiền gửi tổ
chức kinh tế
105 151 43 198 47 201 55.8 253 51.2
- Tiền gửi dân
cư
184 200 57 223 53 159 44.2 241 48.8
Theo kỳ hạn
- Tiền gửi không
kỳ hạn
86 114 32.5 152 36.1 107 29.8 113 22.9
- Tiền gửi có kỳ
hạn
203 237 67.5 269 63.9 253 70.2 381 77.1
3. Theo loại tiền
- Nội tệ 265 326 92.8 404 96 341 94.7 437 88.5
- Ngoại tê 24 25 7.2 17 4 19 5.3 57 11.5
Nguồn: Chi nhánh NHCT An Giang 2007 [6].
+ Huy động theo loại tiền: từ năm 2003 - 2006, tiền gửi ngoại tệ tại Chi nhánh
có xu hướng giảm. Năm 2003 là 8,4%, đến năm 2005 xuống mức tỷ lệ thấp nhất là 4%.
Riêng năm 2007, tiền gửi ngoại tệ tăng đột biến chiếm tỷ lệ 11,5% và tăng so năm 2006
là 300%.
Nhìn chung, trong những năm qua, tình hình huy động vốn của Chi nhánh Ngân
hàng Công thương An Giang đạt được thành tích khả quan nhưng vẫn chưa đáp ứng
được nhu cầu sử dụng vốn và huy động vốn chưa ổn định, phải điều chuyển vốn từ
trung ương còn khá cao khoảng 50% cho nên chênh lệch lãi suất giữ huy động vốn và
sử dụng vốn không cao làm cho hiệu quả kinh doanh của chi nhánh đạt thấp.
+ Về sử dụng vốn: chủ yếu là hoạt động cho vay.
Doanh số cho vay tại Chi nhánh qua các năm tăng nhanh: năm 2003 đạt 693 tỷ
đồng; năm 2007 đạt 1.850 tỷ đồng, tăng 267 lần so năm 2003 (Bảng 2.7).
Bảng 2.7: Kết quả cho vay tại Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007
Doanh số cho vay 693 927 1.041 1.222 1.850
Doanh số thu nợ 837 895 956 1.147 1.670
Dư nợ 608 641 726 623 842
Nguồn: Chi nhánh NHCT An Giang 2007 [6].
Doanh số thu nợ năm 2003 là 837 tỷ đồng, năm 2007 là 1.670 tỷ, đồng tăng
200% so năm 2003.
Dư nợ năm 2003 là 608 tỷ đồng, năm 2007 là 842 tỷ đồng 138,5% so năm 2003.
Nhìn chung, doanh số cho vay qua các năm tại Chi nhánh đều tăng. Điều này
chứng tỏ Chi nhánh đã tăng được dư nợ do mở rộng được cho vay. Doanh số thu nợ qua
các năm cũng tăng cho thấy rằng hoạt động tín dụng thời gian qua có hiệu quả, vòng
quay vốn tín dụng được nâng cao đây là tín hiệu cho thấy hoạt động kinh doanh tại chi
nhánh có hiệu quả.
Để đảm bảo hiệu quả hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, việc
đảm bảo chất lượng tín dụng được đặt lên hàng đầu vì đây là một nghiệp vụ thu lợi
nhuận rất quan trọng của Chi nhánh và nguồn thu chiếm trên 90% tổng thu của ngân
hàng. Tuy nhiên, hoạt động này có mức độ rủi ro rất cao, vì vậy Chi nhánh NHCT tỉnh
An Giang rất quan tâm đến việc nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng để đảm bảo sử
dụng nguồn vốn huy động đạt hiệu quả cao.
2.2.3. Về hiệu quả của các dịch vụ
Hiệu quả của các hoạt động dịch vụ nói chung được đo bằng chỉ số lợi nhuận thu
từ dịch vụ trên tổng thu từ các hoạt động này. Giai đoạn 2003 - 2007, tổng thu dịch vụ
tăng nhanh. Tỷ trọng doanh thu dịch vụ trong tổng thu của Chi nhánh tăng từ 0,79%
năm 2003 tăng lên 1.83% năm 2006. Năm 2007 tỷ lệ này giảm xuống còn chiếm tỷ lệ
1,36%/tổng thu thấp hơn 0,47% so năm 2006. Nếu tính theo số lượng thì năm 2007 tăng
149 triệu đồng so năm 2006, nhưng xét về tỷ lệ thì giảm 0,47% do tổng thu tăng mạnh
so năm 2006 là 147,5%. Nhìn chung doanh thu về dịch vụ có tăng qua các năm 2003
đến 2006 nhưng năm 2007 tỷ lệ thu dịch vụ lại giảm so tổng thu, tỷ lệ này quá thấp
chưa đến 2% so tổng thu (Bảng 2.8).
Bảng 2.8: Kết quả hoạt động dịch vụ tại Chi nhánh NHCT An Giang
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007
Thu dịch vụ 450 736 1.270 1.473 1.622
Tổng thu 56.507 70.654 84.879 80.255 118.828
Tỷ lệ thu / tổng thu, % 0,79 1,04 1,49 1,83 1,36
Nguồn:Chi nhánh NHCT An Giang 2007 [6].
2.3. NHỮNG HẠN CHẾ, TRỞ NGẠI TRONG VIỆC NÂNG CAO HIỆU
QUẢ KINH DOANH TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG TỈNH
AN GIANG
2.3.1. Những hạn chế đối với việc nâng cao hiệu quả kinh doanh
Một là, vẫn còn nhiều hạn chế, trở ngại trong huy động vốn.
Trong những năm qua từ 2003 - 2007, Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang có nhiều
cố gắng trong công tác huy động vốn, song việc huy động vốn còn nhiều mặt hạn chế
cần khắc phục:
Nguồn vốn có tăng trưởng qua các năm, nhưng chưa ổn định và thiếu vững chắc.
Nguồn vốn huy động chủ yếu là vốn ngắn hạn, tổng nguồn vốn huy động của Chi nhánh
trên địa bàn hiện nay chỉ chiếm 40% - 50% nhu cầu sử dụng vốn do phải cạnh tranh với
hơn 43 chi nhánh, phòng giao dịch, điểm giao dịch, quỹ tín dụng nhân dân hoạt động
trên địa bàn [26]. Mặt khác, hiện nay Nhà nước đang tiến hành đẩy mạnh cổ phần hóa
các doanh nghiệp theo các mô hình doanh nghiệp khác nhau, do vậy cơ chế tài chính
của các doanh nghiệp này cũng sẽ thay đổi cho phù hợp với cơ chế thị trường, việc sử
dụng vốn phải tính toán hiệu quả ở mức tối đa nguồn vốn.
Việc huy động vốn khó khăn, một mặt, do lạm phát tăng cao trong những năm
gần đây. Chỉ số giá tiêu dùng tăng mạnh từ 0,3% năm 2003 lên 9,5% (2007) và hơn
20% hiện nay (giữa năm 2008). Như vậy, tuy lãi suất tiền gửi đã được điều chỉnh mạnh
nhưng lãi suất thực tế vẫn là số âm khá lớn. Điều đó làm ảnh hưởng tới lợi ích kinh tế
và tâm lý của người gửi tiền.
Mặt khác, lãi suất của Chi nhánh NHCT thấp hơn lãi suất các NHTM cổ phần do
cơ chế của hệ thống NHCT còn nhiều ràng buộc, hoặc kém hấp dẫn. NHTM cổ phần
thường có lãi suất cao hơn với nhiều hình thức huy động hấp dẫn như: lãi suất dự
thưởng lãi suất bậc thang khuyến mại, hình thức gửi tiền tiết kiệm gửi một nơi lĩnh
nhiều nơi khi có nhu cầu, thu tiền tại nhàn, tại doanh nghiệp.
Hai là, còn nhiều hạn chế trong việc sử dụng vốn.
Doanh số cho vay của Chi nhánh NHCT An Giang tăng trưởng liên tục qua các
năm. Tuy nhiên, việc cho vay vốn chủ yếu tập trung vào một số doanh nghiệp lớn và
DNNN. Cho vay DNNN từ năm 2003 đến 2005 là 90%, đến năm 2006 giảm xuống còn
60% [5]. Việc cho vay DNNN không có tài sản đảm bảo cho nên rủi ro rất lớn. Từ thực tế
đó, Chi nhánh NHCT An Giang tìm kiếm khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
doanh nghiệp tư nhân… có tài sản đảm bảo đủ điều kiện, có tình hình tài chính lành mạnh,
trả vốn, lãi đúng hạn, sử dụng vốn đúng mục đích… để đầu tư cho vay, không tập trung
vốn quá nhiều vào doanh nghiệp nhà nước nhằm phân tán và tránh rủi ro.
Ba là, vẫn còn nhiểu hạn chế trong các hoạt động kinh doanh khác.
- Hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu: doanh số hoạt động thấp dẫn đến phí
dịch vụ thu đạt thấp. Nguyên nhân là do hiện nay Chi nhánh vẫn còn thanh toán qua
NHCT Việt Nam, chưa thanh toán trực tiếp với nước ngoài, thời gian còn kéo dài, cho
nên khách hàng không thích thanh toán qua NHCT An Giang từ đó số lượng thanh toán
xuất nhập khẩu thấp.
- Các hoạt động dịch vụ khác
Việc phát triển các hoạt động dịch vụ ngân hàng trong thời đại hiện nay gắn liền
với quá trình hiện đại hóa công nghệ trong kinh doanh. Đòi hỏi nhu cầu vốn rất lớn để
trang bị và ứng dụng các công nghệ hiện đại. Mặt khác, sự triển khai, ứng dụng công
nghệ mới chưa nhiều, phần mềm ứng dụng chưa cao nên chưa mang lại hiệu quả tối đa
cho Chi nhánh. Thực tiễn ứng dụng các công nghệ hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, trình
độ công nghệ còn ở mức thấp, chưa khai thác, sử dụng hết tính năng, công nghệ hiện
đại, tính an toàn, bảo mật trong quá trình phát triển, ứng dụng công nghệ hiện đại phục
vụ hoạt động kinh doanh chưa cao để phát triển các hoạt động dịch vụ, nhất là hoạt
động thanh toán.
Tính đa dạng của sản phẩm dịch vụ còn chưa cao, các sản phẩm dịch vụ truyền
thống là phổ biến cho nên thu nhập từ hoạt động dịch vụ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu
nhập. Tính tiện ích của sản phẩm dịch vụ còn hạn chế, thể hiện rõ nét là trong các sản phẩm
dịch vụ thẻ ATM chủ yếu là rút tiền. Tính hiện đại của sản phẩm dịch vụ còn thấp do xuất
phát từ hạn chế về công nghệ, cơ sở hạ tầng còn thấp, làm hạn chế khả năng ứng dụng
công nghệ hiện đại.
Bốn là, do trình độ, năng lực của cán bộ còn hạn chế.
Đến cuối năm 2007, Chi nhánh NHCT An Giang có 103 cán bộ, trong đó hơn
75% có trình độ cao đẳng, đại học và sau đại học. Trong đó đào tạo chính quy 25 - 30%,
số còn lại là đào tạo tại chức [6]. Hầu hết cán bộ nghiệp vụ đều sử dụng thành thạo máy
vi tính, nhưng số người biết khai thác ứng dụng, hiểu biết về máy vi tính thì không
nhiều, khả năng cập nhật kiến thức chưa thường xuyên cho nên làm hạn chế trong việc
ứng dụng, khai thác thông tin.
Số lượng lao động dư thừa còn lớn, việc sắp xếp lại lao động trên cơ sở dự án
hiện đại hoá ngân hàng chưa đi liền với tinh giản lao động dư thừa, không đủ trình độ,
năng lực. Chưa xác định được định biên lao động cần thiết trên cơ sở khoa học cho Chi
nhánh, việc bố trí, sắp xếp, bổ sung cán bộ chưa hoàn toàn xuất phát từ nhu cầu công
việc và khả năng đáp ứng yêu cầu của cán bộ.
Năm là, trình độ công nghệ ngân hàng còn hạn chế.
Hiện nay, việc triển khai ứng dụng công nghệ tại Chi nhánh NHCT đang trong
quá trình nghiên cứu, xây dựng và thử nghiệm nên xét về phương diện công nghệ còn
thua kém nhiều so với các ngân hàng nước ngoài. Việc cập nhật trường xuyên về công
nghệ ngân hàng, đặc biệt là trong điều kiện những công nghệ và sản phẩm dịch vụ ngân
hàng mới liên tục ra đời và thay đổi đối với Chi nhánh NHCT cũng chưa thường xuyên.
Trình độ sử dụng và khai thác thông tin trên hệ thống còn thấp từ đó làm cho hiệu quả
đầu tư chưa cao. Công nghệ lạc hậu không những hạn chế khả năng cung ứng các sản
phẩm dịch vụ mới của ngân hàng mà còn làm giảm đi hiệu quả quản lý. Dự án hiện đại
hoá ngân hàng đang bước vào giai đoạn hoàn thiện cho nên việc phát triển hệ thống còn
mang tính đơn lẻ, chưa có sự thích hợp cao trong hệ thống dẫn đến việc lưu chuyển dữ
liệu cũng như hiệu suất làm việc chưa cao.
2.3.2. Những trở ngại đối với việc nâng cao hiệu quả kinh doanh
Một là, hiện còn một số trở ngại trong cơ chế chính sách.
Các chính sách và cơ chế quản lý vĩ mô của Nhà nước đang trong quá trình đổi
mới và hoàn thiện nên thường có những điều chỉnh làm biến động môi trường kinh tế
gây xáo trộn những dự báo trong kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp, sự biến động
của lãi suất cơ bản, điều chỉnh tăng giá xăng dầu làm vật tư hàng hóa tăng cao liên
tục… cũng làm ảnh hưởng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp
không theo kịp nên bị động dẫn đến kinh doanh thua lỗ không đủ khả năng hoàn trả nợ
ngân hàng.
Hai là, môi trường kinh doanh còn nhiều trở ngại.
An Giang là một tỉnh nằm trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, có 2 con
sông Tiền và sông Hậu thường xuyên bị bị lũ lụt, cộng với thiên tai, mất mùa, dịch
bệnh… đây là nguyên nhân bất khả kháng nằm ngoài tầm kiểm soát của các NHTM và
khách hàng. Tỉnh An Giang có khoảng 80% dân số làm nông nghiệp nên chất lượng tín
dụng thấp và thiên tai luôn có mối quan hệ khắng khít với nhau. Đường giao thông đi lại
giữa các vùng miền chưa thông suốt nhất là đi về thành phố Hồ Chí Minh phải qua phà
chờ đợi thời gian kéo dài không thuận tiện cho các nhà đầu tư.
2.3.3. Những nguyên nhân chủ yếu
2.3.3.1. Nguyên nhân chủ quan
Để đưa ra những giải pháp mang tính khả thi, toàn diện nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động kinh doanh của chi nhánh cần phải phân tích một số nguyên nhân đã làm phát
sinh rủi ro tín dụng và nguyên nhân dẫn đến hoạt động chưa đạt hiệu quả. Do một số
nguyên nhân chính sau:
+ Do số lượng cán bộ tín dụng của chi nhánh ít cho nên khó khăn trong việc mở
rộng cho vay nhất là cho vay sản xuất nông nghiệp không đủ cán bộ để cho vay và kiểm
tra sử dụng vốn vay.
+ Trình độ cán bộ chưa qua đào tạo, sơ cấp tại Chi nhánh còn nhiều chưa đáp
ứng được yêu cầu công việc, không đủ điều kiện để phân công làm nghiệp vụ. Mặt khác
chỉ tiêu từ NHCT Việt Nam cho phép tuyển cán bộ thay thế còn thấp không đủ thay thế
số cán bộ nghĩ việc, nghĩ theo chế độ, nghĩ hưu… từ đó không đủ cán bộ để mở rộng
mạng lưới.
+ Do trình độ cán bộ tín dụng còn yếu trong phân tích, thẩm định, nắm bắt thông
tin khách hàng chưa sâu sát cho nên còn phát sinh rủi ro khi cho vay mà không hiểu biết
rỏ về khách hàng từ đó phát sinh rủi ro không thu được vốn và lãi kịp thời.
2.3.3.2. Nguyên nhân khách quan
Hoạt động kinh doanh của các NHTM là hoạt động tài chính trung gian thông
qua các doanh nghiệp, do đó hoạt động ngân hàng chịu chi phối rất lớn của môi trường
kinh tế và môi trường pháp lý.
+ Do đặc thù An Giang là tỉnh nông nghiệp, đường giao thông vận tải chưa phát
triển nên gặp nhiều khó khăn trong việc phát triển kinh tế, nền kinh tế thuần nông của
tỉnh bị nhiều ảnh hưởng của thiên tai, lũ lụt, biến động thất thường của giá cả nông, thuỷ
sản từ đó làm cho tốc độ phát triển kinh tế không cao.
+ Do đặc điểm vị trí địa lý là vùng sông nước, hệ thống giao thông chưa phát
triển nên An Giang chưa có khu công nghiệp tập trung, công nghiệp phát triển chưa
mạnh từ đó không có các dự án đầu tư từ nước ngoài hoặc các dự án lớn cần nhiều vốn,
từ đó hoạt động kinh doanh của chi nhánh tập trung chủ yếu vào kinh tế hộ, hộ nông
dân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ do đó chi phí cho vay cao và cần nhiều con người để
thực hiện công việc.
+ Do địa bàn thuần nông, kinh tế chưa phát triển nên trình độ dân trí và thu nhập
của người dân còn thấp, chưa có nhiều người có nhiều tiền vốn để tích luỹ thông qua
hình thức tiền gửi tiết kiệm, từ đó huy động vốn của chi nhánh cũng bị hạn chế rất nhiều,
bên cạnh đó tại An Giang cũng không có doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và cũng
không có nhiều doanh nghiệp lớn nên nguồn vốn huy động từ các tổ chức kinh tế cũng gặp
khó khăn.
+ Nguyên nhân do khách hàng vay: Dư nợ tín dụng chủ yếu ở tỉnh An Giang là
của các NHTM nhà nước, trong danh mục tín dụng của các NHTM nhà nước cho vay
đối với các DNNN còn khá cao, trong khi đó các DNNN thường làm ăn kém hiệu quả,
khả năng cạnh tranh kém, nguồn vốn tự có ít, hoạt động chủ yếu bằng vốn vay ngân
hàng, thường xuyên sử dụng nguồn vay ngắn hạn để đầu tư tài sản cố định, không có tài
sản bảo đảm tiền vay, dễ dàng tiếp cận nguồn vốn tín dụng của ngân hàng… nên danh
mục tín dụng của các NHTM nhà nước thường có mức độ rủi ro cao, chất lượng tín
dụng thấp và gắn liền với sự yếu kém của các DNNN. Nguồn vốn lưu động kinh doanh
chủ yếu từ nguồn vốn vay ngân hàng vào mùa vụ thường ký hợp đồng xuất khẩu trước
mới tiến hành vay vốn thu mua lương thực, nguyên liệu thuỷ, hải sản…, do cạnh tranh
nên việc tính toán hiệu quả cho những thương vụ dựa trên giá cả thấp lúc mùa vụ,
nhưng sau khi tiến hành vay vốn để thu mua theo đúng tiến độ giao hàng, thông thường
từ 1 đến 2 tháng thì giá cả lương thực qua mùa vụ bắt đầu tăng lên làm cho các thương
vụ này thua lỗ, dẫn đến không đủ khả năng hoàn trả cho ngân hàng.
+ Do luật pháp chưa hoàn chỉnh, còn nhiều kẽ hở, các quy định của pháp luật về
kế toán, thống kê chưa đủ khả năng và hiệu lực buộc các doanh nghiệp phải thực hiện
nghiêm, do đó xảy ra tình trạng khách hàng báo cáo không minh bạch về tình hình tài
chính, báo cáo không trung thực với ngân hàng để được vay vốn như trường hợp của
Công ty Lương thực An Giang trước đây đã báo cáo không trung thực về tình hình tài
chính cho các cơ quan quản lý nhà nước, các khách hàng vay vốn không sợ ngân hàng
áp dụng các biện pháp chế tài khi sử dụng vốn vay sai mục đích làm tăng rủi ro cho
khoản vay đưa đến hoạt động tín dụng kém chất lượng.
+ Hiện nay việc chuyển vốn của chi nhánh về NHCT Việt Nam phải thực hiện
thanh toán qua NHNN tỉnh trước 15 giờ 30 hàng ngày trong khi đó các thanh toán
chuyển tiền đến lại kéo dài đến 16 giờ 30 hàng ngày, khi đến cuối ngày giao dịch, nếu
chi nhánh có thừa vốn cũng không thể chuyển về Trụ sở chính mà phải để lại chi nhánh làm
cho quỹ đảm bảo thanh toán thường có số dư rất cao, gây lãng phí vốn rất lớn, làm giảm
hiệu quả kinh doanh.
+ Hiện nay, các NHTM cổ phần đang mở rộng hoạt động đến các tỉnh và thực
hiện lôi kéo khách hàng của các NHTM nhà nước thông qua cạnh tranh không lành
mạnh bằng cách giảm các điều kiện cho vay vốn, tăng mức cho vay quá cao,… từ đó sẽ
làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng chung của hệ thống ngân hàng.
+ Cơ chế tiền lương đối với cán bộ ngân hàng còn mang tính bình quân, việc
giao đơn giá tiền lương cho các NHTM nhà nước chưa hợp lý, mang tính cào bằng
thu nhập, chưa gắn hoàn toàn với hiệu quả kinh doanh. Chưa xây dựng cơ chế
lương, phụ cấp, khen thưởng để kích thích cán bộ làm công tác tín dụng, cơ chế
này chưa mang tính khuyến khích vật chất thực sự gắn với trách nhiệm và chất
lượng tín dụng nên cơ chế tiền lương chưa thực sự khuyến khích các NHTM nhà
nước hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận và chưa là động lực đối với cán bộ làm công
tác tín dụng phấn đấu hết mình vì công việc đúng như bản chất của tiền lương nên
không thể nào tránh khỏi việc các NHTM nhà nước chỉ cố gắng hoàn thành kế
hoạch được giao và còn một bộ phận cán bộ làm công tác tín dụng chưa hết mình vì
công việc, chưa nhận thức đầy đủ về tư duy kinh tế thị trường, còn tư tưởng là
người làm công hưởng lương, chưa lấy phục vụ khách hàng là phương châm hành
động. Cơ chế tiền lương khuyến khích cũng mới chỉ áp dụng đối với cán bộ tín
dụng, còn đối với cán bộ ở các bộ phận khác thì chưa có cơ chế lương khuyến
khích. Hiện nay các NHTM đang thực hiện chi trả lương cho một số đối tượng cán
bộ rất cao để thu hút cán bộ từ các NHTM nhà nước đặc biệt là những cán bộ đã
được các NHTM nhà nước quy hoạch đào tạo. Hiện nay, mức lương và thu nhập
của NHCT còn thấp so với các NHTM khác, do đó nếu không kịp thời điều chỉnh
tiền lương và thu nhập cho phù hợp thì lực lượng cán bộ giỏi của hệ thống NHCT
sẽ bị các NHTM cổ phần và Ngân hàng nước ngoài thu hút kéo đi hết không thể giữ lại
được.
+ Việc xử lý thu hồi nợ quá hạn gặp rất nhiều khó khăn khi bán tài sản bảo đảm
tiền vay phải qua nhiều cơ quan đơn vị, nhất là qua Trung tâm bán đấu giá tài sản thủ
tục rất lâu.
+ Vốn của doanh nghiệp nhà nước là rất thấp so với chức năng và nội dung hoạt
động của doanh nghiệp. Do vậy, khi doanh nghiệp gặp rủi ro ngân hàng không thu hồi
được hết nợ đã cho vay.
+ Các báo cáo về tình hình tài chính (bảng cân đối, kết quả kinh doanh, bảng
luân chuyển tiền tệ …) các doanh nghiệp gửi cho ngân hàng rất chậm, từ đó ngân hàng
không đánh giá kịp thời thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Mặt khác, tính chính xác
của các báo cáo chưa cao, do các báo cáo chưa được một cơ quan khác kiểm duyệt, đây
cũng là khó khăn cho ngân hàng khi phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp.
+ Đặc trưng và thế mạnh phát triển kinh tế của tỉnh An Giang là thủy sản
xuất khẩu và nông sản xuất khẩu, theo số liệu niên giám thống kê tỉnh An Giang
kim ngạch xuất khẩu hai mặt hàng này từ năm 1995 đến nay chiếm bình quân 75%
kim ngạch xuất nhập khẩu và trên 90% tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh [33].
Tuy nhiên do ảnh hưởng của vụ Hiệp hội các nhà nuôi cá Mỹ kiện Việt Nam bán
phá giá cá tra - basa nên trong việc xuất khẩu cá da trơn của Việt Nam gặp nhiều
khó khăn, giá cá nguyên liệu sụt giảm liên tục làm ảnh hưởng trực tiếp đến các
khoản cho vay nuôi trồng và chế biến xuất khẩu cá basa và cá tra, đến nay hậu quả
đối với các khoản cho vay chăn nuôi và chế biến cá xuất khẩu đã được khắc phục
tuy nhiên những khoản cho vay ngư dân để nuôi trồng thủy sản vẫn chưa được khắc
phục hoàn toàn. Còn đối với sản phẩm nông sản xuất khẩu như gạo thì thị trường
tiêu thụ còn nhiều biến động và gặp sự cạnh tranh gay gắt của gạo Thái Lan có chất
lượng tốt hơn, Việt Nam chủ yếu cạnh tranh dựa vào giá cả nên hiệu quả xuất khẩu
mang về thấp, do giá nông sản thấp nên thu nhập nông dân thấp làm cho các khoản
cho vay sản xuất nông nghiệp thường có chất lượng kém và luôn gắn liền với sự bất
ổn của thị trường nông sản xuất khẩu.
+ Nhiệm vụ của các NHTM còn gắn liền với mục tiêu và kế hoạch phát triển
kinh tế của địa phương nên các NHTM chưa thực sự chủ động trong kinh doanh, còn ít
nhiều chịu ảnh hưởng tác động của chính quyền địa phương và các đơn vị quản lý hành
chính đối với các quyết định kinh doanh của các NHTM.
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH TẠI CHI NHÁNH
NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG TỈNH AN GIANG
3.1. BỐI CẢNH HIỆN NAY VÀ PHƯƠNG HƯỚNG NÂNG CAO HIỆU QUẢ
KINH DOANH TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG TỈNH AN
GIANG
3.1.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước hiện nay tác động đến hoạt động và
hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại
3.1.1.1. Bối cảnh quốc tế
Toàn cầu hóa: xu thế toàn cầu hóa kinh tế thế giới đang diễn ra ngày càng rõ nét.
Phần lớn các nước trên thế giới đều thể hiện mong muốn và thực hiện chính sách hội
nhập kinh tế quốc tế qua việc gỡ bỏ các hàng rào thuế quan, đẩy mạnh xuất nhập khẩu,
tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài… tự do hóa tài chính, tự do đầu tư đã tác động
mạnh đến thị trường vốn và chủ thể kinh doanh ngân hàng. Việc toàn cầu hoá với
những đặc trưng tự do hóa thương mại và tự do hóa tài chính ngày càng rộng khắp
mạnh mẽ đang chi phối khuynh hướng vận động hệ thống NHTM mở rộng kinh doanh
đối ngoại, tranh thủ nguồn vốn trên thị trường quốc tế thông qua ngân hàng nước
ngoài, hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài đặt trong nước để đầu tư phát triển kinh
tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế: hội nhập kinh tế, mở cửa tạo điều kiện thuận lợi cho
các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào trong nước. Vì vậy, nhu cầu ngoại tệ, mua bán
trao đổi… theo đó lĩnh vực làm vai trò trung gian của ngân hàng phát triển mạnh, ngân
hàng huy động được nguồn vốn nhàn rỗi qua công tác thanh toán. Sự hợp tác về tài
chính, đầu tư thương mại giữa các nước ngày càng tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh mới,
thị trường trong nước ngày càng phát triển. Quá trình toàn cầu hóa, tự do hóa và hội
nhập quốc tế trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng đã trở thành một trong những nội dung
chủ yếu có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hầu hết các quan hệ kinh tế, tài chính của mỗi nước
và trên toàn thế giới, nó vừa góp phần nâng cao hiệu quả phân phối nguồn lực và thúc
đẩy phát triển kinh tế.
3.1.1.2. Bối cảnh trong nước
Đất nước đang chuyển mình với những bước đi đúng hướng, những thành tựu
mới trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Việc Việt Nam trở thành thành
viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã mở ra nhiều cơ hội mới cho
mọi nhà, mọi doanh nghiệp, mọi lĩnh vực trong đó không thể không nói tới ngân hàng -
một lĩnh vực hết sức nhạy cảm ở Việt Nam. Chúng ta đang bắt đầu thực hiện các cam
kết mở cửa, khiến cho các doanh nghiệp đứng trước sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt,
cơ hội nhiều nhưng thách thức cũng không nhỏ. Điều này tạo ra những ảnh hưởng trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, vì thế ảnh hưởng đến hoạt động
của các NHTM trong điều kiện gia nhập WTO.
Khi gia nhập WTO được hưởng các mức thuế ưu đãi đặc biệt và không bị hạn
chế bởi hạn ngạch khi gia nhập WTO sẽ tạo điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu cho
hàng hoá Việt Nam. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo các cam kết mở cửa sẽ góp phần
giảm chi phí nguyên liệu đầu vào của nhiều ngành sản xuất kinh doanh, từ đó giúp hạ
giá thành sản phẩm và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trong nước. Các chính
sách khuyến khích tự do hoá đầu tư và thương mại của Chính phủ sẽ góp phần tăng
cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) vào Việt Nam. Hội nhập quốc
tế sẽ tạo môi trường, động lực cho tăng trưởng kinh tế, tạo thêm nhiều công ăn việc làm
cho xã hội, cũng như thêm nhiều cơ hội kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng. Cơ cấu
hình thức sở hữu NHTM đang có những thay đổi cơ bản; các NHTM nhà nước gấp rút
chuẩn bị cổ phần hoá, các NHTM cổ phần liên kết với các đối tác chiến lược, các ngân
hàng nước ngoài. Tuy nhiên, khi hàng rào bảo hộ doanh nghiệp trong nước giảm dần,
sức mạnh tài chính, công nghệ, trình độ quản lý cao của các doanh nghiệp nước ngoài
tạo ra sức ép cạnh tranh mạnh buộc các doanh nghiệp và các NHTM trong nước phải
điều chỉnh, cơ cấu lại để có thể đứng vững trên thị trường. Bên cạnh đó sự phát triển
chưa bền vững của thị trường chứng khoán Việt Nam, sự đóng băng của thị trường bất
động sản và nhiều yếu tố biến động khác trên thị trường cũng có tác động không nhỏ tới
hoạt động của các doanh nghiệp và chất lượng tín dụng các NHTM sẽ có nhiều doanh
nghiệp không chịu được sức ép cạnh tranh phải giải thể, phá sản. Cũng không thể không
nói tới công tác quản lý nhà nước về kế toán, thống kê chưa được quan tâm đúng mức;
các chuẩn mực kế toán chưa được tuân thủ nghiêm túc, chế độ kiểm toán nội bộ chỉ
mang tính hình thức trong khi kiểm toán độc lập lại có chi phí cao. Điều đó dẫn đến báo
cáo tài chính của các doanh nghiệp chưa tin cậy, khiến cho việc đánh giá, thẩm định tài
chính doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn,... Môi trường kinh doanh ngân hàng nói chung
đang có rất nhiều thuận lợi nhưng cũng gặp phải không ít khó khăn, thách thức.
Bối cảnh đó mở ra cho các NHTM nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức
[19].
Về cơ hội, việc tham gia ngày càng sâu vào quá trình hội nhập tạo ra những cơ
hội đối với các NHTM như sau:
- Các NHTM sẽ mở ra nhiều cơ hội được trao đổi, hợp tác quốc tế về các vấn đề
tài chính, kinh tế, các chiến lược hợp tác vĩ mô, tranh thủ nguồn vốn, tiếp cận nhanh
hơn với công nghệ hiện đại, mô hình tổ chức tiên tiến của các ngân hàng và khu vực,…
Qua đó ngân hàng có thể nâng cao được uy tín và vị thế của mình trên trường quốc tế,
tạo thế và lực để mở rộng hoạt động, linh hoạt hơn với tín hiệu của thị trường tài chính
trong nước và quốc tế, tối đa hoá lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro…. Thông qua hội nhập
kinh tế quốc tế, Việt Nam có cơ hội tăng cường phát triển ngành ngân hàng, chuyên
môn hóa sâu hơn các nghiệp vụ ngân hàng, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn trong
nền kinh tế, mở rộng quá trình tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng mới ưu việt. NHCT
với ưu thế có mạng lưới và phạm vị hoạt động rộng khắp sẽ có cơ hội mở rộng hơn nữa
thị phần hoạt động thông qua các dịch vụ mới mang lại hiệu quả cao hơn.
+ Hội nhập kinh tế quốc tế trong hoạt động ngân hàng sẽ là động lực thúc đẩy
công cuộc đổi mới và cải cách ngân hàng sâu rộng hơn và triệt để hơn nhằm đem lại
hiệu quả và lợi ích cho nến kinh tế. Trên cơ sở đó NHCT có thể khai thác lợi thế so sánh
để phát triển dịch vụ ngân hàng, nâng cao hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh quốc tế,
góp phần đắc lực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
+ Hội nhập quốc tế trong hoạt động ngân hàng sẽ là động lực thúc đẩy công cuộc
đổi mới và cải cách ngân hàng sẽ tiến nhanh hơn. Chính công cuộc cải cách thành công
sẽ làm cho hệ thống pháp lý về hoạt động ngân hàng của Việt Nam sẽ phù hợp hơn với
các chuẩn mực quốc tế.
+ Thông qua hội nhập quốc tế, ngành ngân hàng có cơ hội phát triển bằng cách
chuyên môn hóa sâu hơn các nghiệp vụ ngân hàng, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn
vốn trong nền kinh tế, mở rộng quá trình tiếp cận đối với các dịch vụ ngân hàng mới ưu
việt. Hơn nữa, việc áp dụng các loại hình dịch vụ tài chính ngân hàng phong phú và
hiện đại sẽ tạo cho thị trường tài chính - ngân hàng phát triển. NHCT với ưu thế có
mạng lưới và phạm vi hoạt động rộng khắp, quan hệ khách hàng và sự xâm nhập thị
trường trong nước có chiều sâu sẽ có
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh An Giang.pdf