Tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thanh Hóa: LUẬN VĂN:
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh
Thanh Hóa
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một tài nguyên, một nguồn lực.
Bởi vậy, việc phát triển con người phát triển nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị
trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con người là
yếu tố chắc chắn nhất cho sự phồn vinh thịnh vượng của mọi quốc gia. Đầu tư vào con
người là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững. Ngay từ những năm 60 của
thế kỷ XX, nhiều nước đã tăng trưởng kinh tế thông qua quá trình công nghiệp hóa, hay
nói cách khác là thông qua việc phát triển của khoa học - công nghệ gắn liền với việc
phát triển nguồn nhân lực. Lịch sử phát triển kinh tế thế giới đã chứng minh để đạt được
sự tăng trưởng kinh tế cao và ổn định phải thông qua việc nâng cao chất lượng đội ngũ
lao động kỹ thuật - nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Việt Nam đ...
128 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1229 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thanh Hóa, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh
Thanh Hóa
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một tài nguyên, một nguồn lực.
Bởi vậy, việc phát triển con người phát triển nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị
trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con người là
yếu tố chắc chắn nhất cho sự phồn vinh thịnh vượng của mọi quốc gia. Đầu tư vào con
người là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững. Ngay từ những năm 60 của
thế kỷ XX, nhiều nước đã tăng trưởng kinh tế thông qua quá trình công nghiệp hóa, hay
nói cách khác là thông qua việc phát triển của khoa học - công nghệ gắn liền với việc
phát triển nguồn nhân lực. Lịch sử phát triển kinh tế thế giới đã chứng minh để đạt được
sự tăng trưởng kinh tế cao và ổn định phải thông qua việc nâng cao chất lượng đội ngũ
lao động kỹ thuật - nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Việt Nam đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi nguồn lao động với chất lượng cao. Vận
mệnh của đất nước, tương lai phát triển, khả năng đi lên của Việt Nam đều phụ thuộc
vào chính bản thân con người Việt Nam. Vì vậy, để phát triển đất nước, chúng ta không
thể không quan tâm đến việc phát triển nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là vấn đề mà mỗi quốc gia đều phải quan
tâm chăm sóc, bồi dưỡng, phát triển và tìm cách phát huy có hiệu quả trên con đường
phát triển văn minh tiến bộ của mình.
Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn nhân lực nên Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: "Phát triển mạnh nguồn lực con người Việt Nam
với yêu cầu ngày càng cao" nhằm bảo đảm nguồn nhân lực cả về số lượng và chất
lượng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa [41, tr. 65].
Cũng như cả nước, tỉnh Thanh Hóa chỉ có thể thực hiện thành công công nghiệp
hóa, hiện đại hóa khi phát huy được cao độ nguồn lực con người.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XV (2001-2005)
đã đề ra nhiệm vụ sau: "Phải chăm lo phát triển nguồn nhân lực có chất lượng toàn diện,
cả về sức khỏe thể chất, trình độ học vấn, nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, tư tưởng
chính trị, đời sống văn hóa tinh thần…" nhằm đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa của tỉnh nhà. Căn cứ vào nhiệm vụ trên tỉnh Thanh Hóa phải lấy việc phát huy
nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển kinh tế-xã hội. Thanh Hóa có
thể trở thành một tỉnh có nền công nghiệp hóa, hiện đại hóa hay không điều đó còn tùy
thuộc vào việc xây dựng và thực hiện chiến lược nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Vì vậy, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Thanh Hóa vừa là vấn đề cấp thiết vừa căn bản và lâu dài đối với sự phát triển của tỉnh.
Với ý nghĩa đó, tôi chọn vấn đề " Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thanh Hóa " làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển lịch sử, do đó vấn
đề con người, đặc biệt là vấn đề nhân tố con người luôn luôn là đối tượng thu hút sự
quan tâm của nhiều ngành khoa học. Thực tiễn ngày càng chứng minh, sự phát triển bền
vững của mỗi quốc gia phụ thuộc vào việc đầu tư khai thác, phát huy có hiệu quả vai trò
nhân tố con người.
Từ những nghiên cứu chung về con người, các nhà khoa học Xô Viết trước đây
đã đi sâu nghiên cứu về nhân tố con người và phát huy vai trò của nhân tố con người.
Đã có nhiều đề tài và công trình của các nhà khoa học Xô viết đi sâu vào nghiên cứu
mối quan hệ giữa nhân tố con người với các nhân tố kinh tế, vật chất kỹ thuật trong cấu
trúc nền sản xuất xã hội. Công trình nghiên cứu của nữ viện sĩ GiaxlapxkaiA về công
bằng xã hội và nhân tố con người những năm 1986 - 1987 là một ví dụ tiêu biểu. Hội
nghị khoa học giữa các nhà khoa học Xô viết và Việt Nam tổ chức tại Hà Nội vào năm
1988, đã tập trung trao đổi ý kiến và thảo luận xoay quanh chủ đề về nhân tố con người
và phát triển kinh tế - xã hội.
ở nước ta các nhà khoa học đã có những hoạt động sôi nổi về nghiên cứu vấn đề
con người. Nhất là từ sau Đại hội Đảng lần thứ VIII, các nhà khoa học đi sâu nghiên
cứu về vấn đề nguồn lực con người, nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhiều công trình nghiên cứu khoa học, nhiều
bài viết đã thể hiện quan điểm coi con người là nguồn tài nguyên vô giá và sự cần thiết
phải đầu tư vào việc bảo toàn, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn tài nguyên này,
lấy đó làm đòn bẩy để phát triển kinh tế, để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Những bài viết, những công trình khoa học đó được đăng trên các sách báo, tạp chí, đó
là những bài viết về: "Xây dựng nền tảng tinh thần, tiềm lực văn hóa, tiếp tục thực hiện
chiến lược xây dựng và phát triển nguồn lực con người Việt Nam" của nguyên Tổng Bí
thư Lê Khả Phiêu (đăng trên Tạp chí phát triển giáo dục 4/1998); "Tài nguyên con
người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" của Nguyễn Quang Du
(thông tin lý luận số 11/1994); "Nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước" của GS,TS Nguyễn Trọng Chuẩn (Triết học số 2 - 1994); "Nguồn lực con
người, nhân tố quyết định của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa" của Phạm Ngọc
Anh (Nghiên cứu lý luận, số 2 - 1995); "Phát triển nguồn nhân lực của Thanh Hóa đến
năm 2010 theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa" của TS Bùi Sĩ Lợi (Nhà xuất bản
chính trị, quốc gia Hà Nội 2002); "Mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực và đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa" của Nguyễn Đình Hòa (tạp chí triết học số 1 -
2004); "Phát triển nguồn nhân lực kinh nghiệm thế giới và kinh nghiệm nước ta" (NXB
chính trị quốc gia Hà Nội 1996); "Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa" (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1996); "Từ chiến lược phát triển giáo
dục đến chính sách phát triển nguồn nhân lực" (NXB Giáo dục - 2002)… Đặc biệt là
công trình khoa học cấp Nhà nước KX-05 "Nghiên cứu văn hóa, con người, nguồn nhân
lực đầu thế kỷ XXI" (11/2003). Đề tài này có những công trình đáng chú ý như: "ảnh
hưởng của tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ đến việc nghiên cứu và phát triển
con người và nguồn nhân lực những năm đầu thế kỷ XXI" của TSKH Lương Việt Hải;
"Phát triển nguồn nhân lực Việt Nam đầu thế kỷ XXI" của TS Nguyễn Hữu Dũng; "Một
số những thay đổi của quản lý nguồn nhân lực Việt Nam trong quá trình chuyển đổi nền
kinh tế trong cơ chế thị trường" của TS Vũ Hoàng Ngân…
Như vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực trong công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Hầu hết các đề tài đã tập trung nghiên cứu các
phương diện khác nhau của sự phát triển con người Việt Nam và đề xuất những giải
pháp để phát huy nguồn lực con người, từ giáo dục-đào tạo đến giải quyết việc làm, đổi
mới cơ chế, chính sách nhằm phát huy nhân tố con người, phát triển nguồn nhân lực ở
nước ta. Ngoài những công trình đó còn rất nhiều tác giả với những công trình nghiên
cứu khác đã đề cập đến vấn đề nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau. Song những công trình đi sâu, phân tích
nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thanh Hóa chưa được đề cập
nhiều, đặc biệt là phân tích những điều kiện khả năng trong việc thực hiện nâng cao chất
lượng, nguồn nhân lực ở Thanh Hóa.
Qua luận văn này tác giả hi vọng đóng góp một cố gắng nhỏ bé, bước đầu của
mình vào sự nghiên cứu, phát triển con người và nguồn nhân lực cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thanh Hóa, cũng như cả nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích nghiên cứu:
Xuất phát từ tính cấp bách của đề tài và lịch sử nghiên cứu vấn đề, chúng tôi
xác định mục đích của đề tài là: Trên cơ sở phân tích thực trạng của nguồn nhân lực
Thanh Hóa hiện nay mà đề xuất một số giải pháp cấp bách nhằm xây dựng nguồn nhân
lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thanh Hóa.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Làm rõ quan điểm mácxít về vai trò của con người và nhân tố con người trong
lực lượng sản xuất, quan niệm về nguồn nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực và vai trò
của nó trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đánh giá tình hình dân số, thực trạng nguồn nhân lực và việc nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực ở Thanh Hóa. Từ đó, đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thanh
Hóa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu về lực lượng lao động của Thanh Hóa; không những
nghiên cứu về mặt số lượng mà còn tập trung nghiên cứu mặt chất lượng - yếu tố quyết
định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thanh Hóa.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử và tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng các quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta, các quan điểm khoa học hiện đại về nguồn nhân lực.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử và lô gíc, quy nạp và diễn dịch, phân
tích và tổng hợp.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Góp phần hệ thống hóa những luận điểm nghiên cứu có ý nghĩa lý luận và
phương pháp luận về nhân tố con người và nguồn nhân lực.
Làm rõ thực trạng nguồn nhân lực Thanh Hóa trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Làm rõ một số khía cạnh chủ yếu về xu hướng biến đổi của nguồn nhân lực
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thanh Hóa.
Đưa ra một số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thanh Hóa.
Góp phần nâng cao nhận thức về việc thực hiện nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thanh Hóa. Đây là việc làm của tất
cả các cấp, các ngành của mọi người, của tỉnh và của cả Trung ương.
7. ý nghĩa thực tiến của luận văn
Góp phần đưa Nghị quyết của Đảng vào thực tiễn cuộc sống tại Thanh Hóa.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng dạy và học
tập ở các trường Đại học, Trung học chuyên nghiệp, các trung tâm đào tạo, đồng thời
làm tài liệu tham khảo cho cán bộ quản lý cấp tỉnh, cấp huyện.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
Vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam
1.1. Quan điểm mácxít về nguồn nhân lực và chất lượng nguồn nhân lực
1.1.1. Từ quan điểm mácxít về con người đến nhân tố con người và nguồn
nhân lực
* Quan điểm về con người
Các nhà khoa học và chính trị từ cổ chí kim, từ Đông đến Tây, trong suốt chiều
dài của lịch sử luôn coi con người là vấn đề trung tâm của thế giới, là trung tâm chú ý
của mọi thời đại. Song các nhà tư tưởng trước Mác đã giải thích con người một cách
phiến diện, không coi con người là vị trí trung tâm của quá trình hình thành phát triển
của nhân loại. Họ lý giải sai lầm về bản chất con người. Họ không thấy được bản chất
con người là một bản chất xã hội, không thấy được con người là một thực thể tự nhiên -
xã hội. Chỉ đến Mác và Ăng ghen thì việc nhận thức về con người mới có sự thay đổi về
chất so với trước. Mác đã xuất phát từ phạm trù thực tiễn để lý giải bản chất của con
người trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người với con người và
những quy luật chi phối quan hệ đó. Cống hiến quan trọng của Mác là đã vạch ra được
những vai trò của các quan hệ xã hội trong những yếu tố cấu thành bản chất con người.
Theo Mác "Bản chất con người không phải là cái gì trừu tượng cố hữu của một cá nhân
riêng biệt, trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ
xã hội" [16 -11].
Bản chất con người là kết quả của sự tác động từ các nhân tố xã hội mà trước
hết là của hoạt động lao động sản xuất vật chất của đấu tranh xã hội của con người.
Thông qua quá trình này, con người cải tạo giới tự nhiên và xã hội, đồng thời cải tạo
chính bản thân mình. Như vậy, khi tác động vào giới tự nhiên, cải tạo giới tự nhiên sáng
tạo ra lịch sử, con người phát triển tư chất năng khiếu, tài năng, phẩm chất, ý chí… đó
là điều kiện để mỗi cá nhân trở thành chủ thể của hoạt động sáng tạo, xây dựng thế giới
mới. Họ là người sản xuất trực tiếp, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật
chất và văn hóa, mọi nền văn minh của các quốc gia.
Tóm lại, chủ nghĩa Mác quan niệm con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu
của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thấm nhuần một cách sâu sắc quan điểm của
Mác - Ăngghen về con người, và đã có những kiến giải rất sâu sắc về vấn đề con người.
Hồ Chí Minh không những nhận thức thấu đáo mà còn vận dụng và phát triển sáng tạo
quan niệm của Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện lịch sử cụ thể ở Việt Nam. Trong
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định
sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng dân tộc không tách rời nhau và đều nhằm
mục đích đem lại tự do, hạnh phúc cho con người. Nhân tố quyết định cho sự nghiệp
giải phóng con người không phải là ai khác chính lại là con người, quần chúng nhân
dân, là lực lượng quý nhất, vĩ đại nhất, bởi vì "Võ luận việc gì cũng do con người làm ra
và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa đều như thế cả" [56 -113].
Hồ Chí Minh luôn coi việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát triển con người, coi
con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của xã hội, là nhân tố quyết định
sự thành công của cách mạng. Do đó, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến "sự nghiệp trồng
người", "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người" tư tưởng chiến
lược về con người của Hồ Chí Minh đã và đang được Đảng ta từng bước thực hiện.
Dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, ngay từ khi
mới ra đời tư tưởng giải phóng dân tộc của Đảng ta luôn gắn liền, hòa quyện với tư
tưởng giải phóng con người. Thời kỳ đó, vấn đề con người được Đảng ta quan tâm
trước hết là vấn đề giải phóng con người khỏi ách nô lệ. Ngày nay, trong công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vấn đề con người là vấn đề được Đảng ta quan
tâm hàng đầu. Văn kiện Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ tư khóa VII đã
khẳng định: "…Sự phát triển con người đã trở thành tiêu chí ngày càng quan trọng trong
việc xếp hạng các nước trên thế giới"[15 - 6]. Phát triển con người, thực chất là mô hình
con người phát triển toàn diện. Mục tiêu con người phát triển toàn diện - hài hòa không
phải đến thời kỳ đổi mới mới được Đảng ta đặt ra, mà là mục tiêu xuyên suốt của Đảng
cộng sản Việt Nam.Từ khi Đảng ra đời cho đến nay, cách nhìn toàn diện về phát triển
con người của Đảng đã xây dựng nên quan điểm phù hợp với xu thế đi lên của thời đại:
Con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Để con người thực sự trở thành động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội thì
chúng ta phải phát huy được nhân tố con người.
* Quan niệm về nhân tố con người
Nói tới nhân tố con người là nói tới vai trò, vị trí của con người trong tổ chức
quản lý xã hội thông qua hoạt động thực tiễn của nó trước hết là sản xuất vật chất. Nói
tới nhân tố con người cũng có nghĩa nói đến tính chất, ý nghĩa của nó như là một động
lực quan trọng nhất trong các nhân tố có quan hệ với phát triển. Nhân tố con người là
một nhân tố xã hội, thể hiện sức mạnh tổng hợp của chủ thể người trong quan hệ với
khách thể là xã hội mà hoạt động thực tiễn của nó đem lại sự phát triển tiến bộ cho xã
hội.
Vậy, nhân tố con người là toàn bộ những dấu hiệu riêng có, những yếu tố,
những mặt nói lên vai trò của con người như là chủ thể hoạt động trong các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội. Nhân tố con người bao hàm toàn bộ tư chất, năng khiếu,
tài năng, phẩm chất ý chí của con người để nó đóng được vai trò là chủ thể hoạt động
sáng tạo xây dựng xã hội.
Nhân tố con người bao gồm các nội dung sau:
Thứ nhất, đó là một chỉnh thể các giai cấp và tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng
liên kết chặt chẽ với nhau, mà tác động qua lại và hoạt động của các giai tầng ấy bảo
đảm cho sự phát triển tiến bộ của xã hội.
Thứ hai, nhân tố con người được hiểu là những tiêu chí về số lượng, chất lượng,
nói lên khả năng của con người, của cộng đồng người như là một tiềm năng cần bồi
dưỡng, cần khai thác và phát huy. Đó là tiêu chí về số lượng lao động, tình hình sức
khỏe, trình độ học vấn, nghề nghiệp chuyên môn.
Thứ ba, đó là những tiêu chí về nhân cách, về chức năng xã hội của con người,
những tiêu chí này nói lên mức độ, khả năng sáng tạo của cá nhân trong hệ thống các
quan hệ xã hội, gồm các năng lực chuyên môn, kỹ thuật được đào tạo, lẫn thái độ lao
động, ý thức xã hội chính trị và lập trường xã hội của giai cấp công nhân.
Các nội dung trên của nhân tố con người có quan hệ biện chứng với nhau. Việc
phát huy nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải tính đến
đầy đủ những nội dung đó. Những sai lầm nghiêm trọng của chủ nghĩa xã hội trong thời
gian qua, ở các mức độ khác nhau đều có nguyên nhân từ việc không tính đến một cách
đầy đủ những nội dung của nhân tố con người. Do vậy, trên thực tế đã dẫn đến không
phát huy được nguồn lực con người. Vì vậy, việc nhận thức một cách toàn diện những
nội dung của nhân tố con người có liên quan trực tiếp đến việc xác định một tổng hợp
những điều kiện, biện pháp thực tiễn mà quá trình quản lý kinh tế, xã hội phải thực hiện
nhằm nâng cao và phát huy nhân tố con người. Phát huy nhân tố con người chính là quá
trình đào tạo, bồi dưỡng làm tăng nhân tố con người về thể lực, trí lực, phẩm chất, đạo
đức... Là quá trình khai thác yếu tố đó trong lao động, học tập, chiến đấu nhằm phục vụ
cho sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ tổ quốc.
Nhân tố con người không khai thác không phát huy được là lãng phí lớn nhất.
Vì vậy, trong công cuộc CNH, HĐH đất nước, Đảng ta phải từng bước cụ thể hóa đường
lối chính sách nhằm khơi dậy và phát huy nhân tố con người.
* Khái niệm nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực hay còn gọi là nguồn lực con người, vốn người. Hiện nay có
nhiều quan niệm về khái niệm nguồn nhân lực.
Theo thuật ngữ trong lĩnh vực lao động của Bộ Lao động thương binh và xã hội:
"Nguồn nhân lực là tiềm năng về lao động trong một thời kỳ xác định của một quốc gia,
suy rộng ra có thể được xác định trên một địa phương, một ngành hay một vùng. Đây là
nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế xã hội"[5-13].
Theo khái niệm này, nguồn nhân lực được xác định bằng số lượng và chất
lượng của bộ phận dân số có thể tham gia vào hoạt động kinh tế - xã hội.
Theo quan niệm của các nhà khoa học Việt Nam thì nguồn nhân lực được hiểu
là:
- Theo nghĩa rộng: Nguồn nhân lực (HumanRersources) là tổng thể các tiềm
năng (lao động) của con người của một quốc gia, một vùng lãnh thổ, một địa phương đã
được chuẩn bị ở mức độ nào đó khả năng huy động vào quá trình phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước hoặc một vùng, một địa phương cụ thể [72-22].
Với cách tiếp cận này, nguồn nhân lực như một bộ phận cấu thành các nguồn
lực của quốc gia, như nguồn lực vật chất (trừ con người), nguồn tài chính, nguồn lực trí
tuệ ("chất xám")… Những nguồn lực này có thể được huy động một cách tối ưu tạo
thành động lực để phát triển kinh tế - xã hội, ta có thể biểu đạt như sau:
N
g
u
ồ
n
lự
c
tà
i c
h
ín
h
N
g
u
ồ
n
n
h
ân
lự
c
N
g
u
ồ
n
lự
c
vậ
t
ch
ất
Phát triển
kinh tế xã
hội
Hình 1.1.
Xuất phát từ khái niệm trên và qua hình 1 ta thấy nguồn lực phát triển là một hệ
thống, mỗi một nhân tố trong hệ thống đó đều có vai trò riêng, trong đó nguồn lực con
người nằm ở trung tâm hệ thống. Bởi vì, các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất,
khoa học công nghệ... mà không được con người phát hiện khai thác thì nó vẫn chỉ tồn
tại ở dạng tiềm tàng mà thôi. Chính con người thông qua hoạt động của mình làm phát
triển các nguồn lực khác, sử dụng nó để phát triển xã hội. Do đó, nguồn lực con người
được coi là một thứ tài nguyên quý giá nhất, một nguồn lực quan trọng nhất, là nguồn
lực của mọi nguồn lực. Vì vậy, thực chất chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là chiến
lược phát triển con người và vì con người.
- Theo nghĩa hẹp: Nguồn nhân lực là toàn bộ lực lượng lao động trong nền
kinh tế quốc dân (hay còn gọi là dân số hoạt động kinh tế) nghĩa là bao gồm những
người trong một độ tuổi nhất định nào đó, có khả năng lao động, thực tế đang có việc
làm và những người thất nghiệp [72-24].
Với khái niệm trên và căn cứ ở Việt Nam thì lực lượng lao động Việt Nam bao
gồm: những người trong độ tuổi lao động, đang có việc làm; những người ngoài độ tuổi
lao động thực tế đang làm việc và những người thất nghiệp, nghĩa là không bao gồm
những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng đang đi học, đang làm
nội trợ trong gia đình, không có nhu cầu làm việc. Bộ luật lao động nước ta quy định độ
tuổi lao động là từ 15 tuổi đến 60 tuổi đối với nam, và từ 15 tuổi đến 55 tuổi đối với nữ.
Qua tiếp cận các khái niệm trên ta có thể hiểu nguồn nhân lực là tổng thể những
yếu tố thuộc về thể chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế xã hội
v.v.. tạo nên năng lực của con người, của cộng đồng người có thể sử dụng phát huy
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Khi chúng ta nói tới nguồn lực con người là ta
nói tới con người với tư cách là chủ thể hoạt động sáng tạo tham gia cải tạo tự nhiên,
làm biến đổi xã hội.
Chúng ta cũng có thể hiểu đầy đủ hơn về nguồn nhân lực thông qua khái niệm
phát triển nguồn nhân lực. Trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta, phát triển nguồn
nhân lực được hiểu là gia tăng giá trị con người trên các mặt đạo đức, trí tuệ, kỹ năng,
tâm hồn, thể lực... làm cho con người trở thành những lao động có những năng lực và
phẩm chất mới ngày càng cao, để đủ sức đáp ứng những yêu cầu to lớn của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay. Do vậy, phát triển nguồn nhân lực
còn bao hàm các mặt: giáo dục và đào tạo, việc làm, sử dụng lao động, chăm sóc nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần, xây dựng môi trường sống và lao động cho lực lượng
lao động. Phát triển nguồn nhân lực còn là các hoạt động (đầu tư) nhằm tạo ra nguồn
nhân lực với số lượng và chất lượng đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của
đất nước, đồng thời bảo đảm sự phát triển của mỗi cá nhân.
1.1.2. Khái niệm chất lượng nguồn nhân lực
Chất lượng nguồn nhân lực là khái niệm tổng hợp bao gồm những nét đặc trưng
về trạng thái, thể lực, trí lực, kỹ năng, phong cách đạo đức, lối sống và tinh thần của
nguồn nhân lực. Nói cách khác là trình độ học vấn, trạng thái sức khỏe, trình độ chuyên
môn kỹ thuật, cơ cấu nghề nghiệp, thành phần xã hội… của nguồn nhân lực, trong đó
trình độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp là tiêu chí quan trọng để đánh giá phân loại chất
lượng nguồn nhân lực [72 - 71].
Chất lượng nguồn nhân lực thể hiện trạng thái nhất định của nguồn nhân lực với
tư cách là một khách thể vật chất đặc biệt, đồng thời là chủ thể của mọi hoạt động kinh
tế và các quan hệ xã hội. Chất lượng nguồn nhân lực là tổng hợp những nét đặc trưng
phản ánh bản chất, tính đặc thù liên quan trực tiếp tới hoạt động sản xuất và phát triển
con người.
Nói tới chất lượng nguồn nhân lực là nói tới nguồn lực con người, nguồn lực
lao động, không chỉ được biểu thị về số lượng mà còn biểu thị về chất lượng, nó được
thể hiện ở trình độ học vấn tay nghề, kỹ năng nghiệp vụ của người lao động, thể hiện
người lao động đã được đào tạo, thể hiện ở sức khỏe của người lao động. Người lao
động phải có sức khỏe tốt mới hoàn thành tốt công việc của mình được; không những
thế người lao động còn phải có đạo đức, lối sống được thể hiện ra ở thái độ lao động,
trách nhiệm trong công việc mình làm.
Tóm lại, trong quá trình lao động sản xuất, nguồn lực lao động chất
lượng cao đã đem lại hiệu quả sản xuất tốt, đem lại năng suất chất lượng thành
phẩm cao. Thành quả lao động đó là sự kết tinh của sức lực và trình độ tay nghề của
người lao động, mặt khác nó còn là sự kết tinh của lòng ham mê hăng say lao động, ý
thức trách nhiệm của người lao động. TSKH Lương Việt Hải đã khẳng định: "Trong
thời đại cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ thể lực là… một điều kiện tất yếu
và tối cần thiết, là điều kiện cần của mọi quá trình lao động, nhưng nó không còn là điều
kiện đủ. Trí tuệ, với năng lực tinh thần và những phẩm chất tâm lý đóng vai trò quan
trọng và quyết định năng suất, hiệu quả và giá trị xã hội của lao động"[46 – 380]. Vì
vậy, trình độ học vấn, tay nghề của người lao động là quan trọng, là quyết định; song
cũng không thể thiếu được ý thức đạo đức và sức khỏe của người lao động. Có thể nói
chất lượng nguồn nhân lực được kết hợp bởi 3 yếu tố: Thể lực, trí lực và đạo đức lối
sống.
+ Thể lực: là trạng thái sức khỏe của con người biểu hiện ở sự phát triển sinh
học, không có bệnh tật, có sức khỏe lao động trong hình thái lao động ngành nghề nào đó,
có sức khỏe để học tập làm việc lâu dài... thể lực yếu sẽ hạn chế rất lớn đến sự phát triển trí
lực của cá nhân và cộng đồng xã hội nói chung.
+ Trí lực: Là năng lực trí tuệ, tinh thần, là trình độ phát triển trí tuệ, là học vấn
chuyên môn kỹ thuật, là kỹ năng nghiệp vụ, tay nghề. Nó quyết định phần lớn khả năng
sáng tạo của con người, nó càng có vai trò quyết định trong phát triển nguồn lực con
người, đặc biệt trong thời đại ngày nay khi khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão.
+ Lối sống đạo đức: Là sự phản ánh những chuẩn mực đạo đức xã hội. Những
giá trị từ chuẩn mực đó phản ánh bản chất của xã hội, lý tưởng đạo đức của xã hội vươn
tới, nhất là trong hoạt động, trong lối sống, nếp sống hàng ngày. Lối sống đạo đức con
người là sự thể hiện tính cách, tâm lý sự giác ngộ, các giá trị văn hóa được kết tinh
trong người lao động. Đạo đức gắn liền với năng lực tạo nên những giá trị cơ bản của
nhân cách chất lượng người lao động, từ phương diện cá nhân đến phương diện xã hội
và biểu hiện ra ở ý thức lao động, thái độ lao động.
Ngoài thể lực, trí lực, đạo đức lối sống, cái làm nên chất lượng nguồn nhân lực
là kinh nghiệm sống, nhu cầu thói quen vận dụng tri thức tổng hợp và kinh nghiệm của
mình vào các hoạt động sáng tạo, tạo ra các giải pháp mới đối với công việc như một
sáng tạo văn hóa. Xét theo ý nghĩa đó, chất lượng nguồn nhân lực bao gồm trong đó
toàn bộ sự phong phú, sâu sắc của các năng lực trí tuệ, năng lực thực hành, tổ chức và
quản lý, tính tháo vát và sự uyển chuyển của những phản ứng của con người trước hoàn
cảnh dựa trên sức mạnh của học vấn, kinh nghiệm, sự rộng mở các quan hệ xã hội, sự
tiếp thu tinh tế các ảnh hưởng văn hóa truyền thống từ gia đình tới xã hội. Nó kết hợp
với sức khỏe (thể lực) và dẫn dắt con người đi vào trường học thực tiễn của sáng tạo và
phát triển. Nói cách khác chất lượng nguồn nhân lực là một tập hợp các chỉ số phát triển
con người, là chất lượng văn hóa mà bản thân nó và xã hội có thể huy động vào sự sáng
tạo tiếp theo các giá trị văn hóa của toàn xã hội, vì lợi ích của cá nhân và toàn xã hội.
ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, nguồn lực con người đã được phát huy trên
nhiều lĩnh vực, góp phần tạo nên nhiều thành tựu quan trọng, đưa đất nước thoát khỏi
khủng hoảng kinh tế-xã hội và chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ CNH, HĐH.
Mặc dù nước ta đã thoát khỏi những khủng hoảng kinh tế xã hội, nhưng nhìn
chung nước ta vẫn là một nước nông nghiệp, tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu kinh tế còn
thấp, kỹ thuật lạc hậu, đặc biệt nguồn nhân lực với tư cách là động lực của CNH, HĐH
chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH. Số người được đào tạo và số người
có tay nghề bậc cao còn thấp, số người có trình độ học vấn từ cao đẳng trở lên còn ít. Đó là
một khó khăn lớn cho việc tiếp thu khoa học hiện đại, tiên tiến. Mặt khác sức khỏe của
nhân dân còn nhiều mặt yếu kém. Nói tóm lại, bước vào sự CNH, HĐH ở nước ta nói
chung và Thanh Hóa nói riêng, chỉ số phát triển con người chưa phù hợp với yêu cầu
của CNH, HĐH. Vì vậy, cần phải phát triển nguồn nhân lực hơn nữa, phải tạo ra nguồn
nhân lực với chất lượng cao đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước.
1.2. Vị trí, vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước
1.2.1. Nguồn nhân lực - nhân tố quyết định sự thắng lợi công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước
Theo quan điểm duy vật biện chứng về xã hội thì sản xuất vật chất là nhân tố
quyết định sự tồn tại và phát triển xã hội, trong quá trình sản xuất ấy thì lực lượng sản
xuất là yếu tố quyết định. Quá trình sản xuất vật chất của nhân loại đã hình thành mối
quan hệ tất yếu khách quan và phổ biến, đó là mối quan hệ giữa con người với tư cách
là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với giới tự nhiên. Lực lượng sản xuất chính
là biểu hiện quan hệ giữa con người với giới tự nhiên. Theo Mác lực lượng sản xuất là
một thể thống nhất giữa "một bên là con người và lao động của con người; bên kia là tự
nhiên và vật liệu của tự nhiên thế là đủ" [18-271]. Nhưng với tư cách là chủ thể của quá
trình lao động, con người không thỏa mãn với những gì đã có sẵn trong tự nhiên mà con
người kết hợp lao động của mình với những cái có sẵn tạo ra những cái không có sẵn
trong tự nhiên nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của mình. Vậy, lao động là hoạt động có
tính mục đích của con người nhằm tạo ra các loại sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã
hội.
Theo Mác: "Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và tự
nhiên, quá trình đó bằng hoạt động của chính mình con người làm trung gian điều tiết và
kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên " [19-20]. Nói đến sản xuất ra vật chất cho xã
hội tồn tại và phát triển là phải nói đến hoạt động lao động của con người. Tức là nói đến
người lao động; người lao động với sức khỏe, tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm lao động,
tiến hành lao động nhằm thực hiện những nhu cầu đáp ứng những lợi ích của mình
trong những điều kiện kinh tế-lịch sử nhất định. Mác khẳng định: "Do có được những
lực lượng sản xuất mới, loài người đã thay đổi phương thức sản xuất của mình và do
thay đổi phương thức sản xuất, cách làm của mình, loài người đã thay đổi tất cả những
quan hệ xã hội của mình" [20 - 125]. Như vậy, loài người làm nên lịch sử xã hội của
mình bằng chính sức lực của mình, bằng chính nguồn nhân lực.
Lênin cũng đã đánh giá "lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là
công nhân, là người lao động" [80 - 430].
Trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, Đảng ta
đã phân tích các nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay và khẳng định:
" Nguồn lao động dồi dào, con người Việt Nam có truyền thống yêu nước cần cù, sáng
tạo... đó là nguồn lực quan trọng nhất" [81 - 5].
Đối với nước ta hiện nay, bước vào CNH, HĐH thì "Nguồn nhân lực" chính là
"Nguồn lực con người". Chính vì nguồn lực con người là nội lực quan trọng nhất cho sự
phát triển nên Đảng ta đã "lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho
sự phát triển nhanh và bền vững..." [40-85].
Việt Nam phát triển đất nước trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế
giới. Vì vậy đòi hỏi Việt Nam phải tiến hành CNH, HĐH trong đó lấy việc phát triển
con người làm trung tâm. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình phát triển kinh tế -
xã hội từ thực trạng một nền sản xuất với năng suất chất lượng và hiệu quả thấp, dựa
vào sản xuất nông nghiệp, sử dụng lao động thủ công là chủ yếu chuyển sang một nền
sản xuất có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao dựa trên sản xuất công nghiệp và
những thành tựu mới của khoa học - công nghệ. CNH, HĐH cũng chính là một quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành có hàm lượng khoa
học - công nghệ cao, có giá trị tăng cao. Thực chất của CNH là sự phát triển công nghệ,
là quá trình chuyển nền sản xuất xã hội cả nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ từ trình
độ công nghệ thấp lên trình độ công nghệ tiên tiến, hiện đại. Trong giai đoạn hiện nay,
CNH, HĐH còn bao gồm những yếu tố của nền kinh tế tri thức. Như vậy, thực chất
CNH, HĐH chính là quá trình xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của nền sản xuất hiện
đại, xây dựng cái cốt vật chất của chủ nghĩa xã hội. Do đó, Đảng cộng sản Việt Nam đã
khẳng định CNH, HĐH: Đó không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỉ trọng của sản
xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới
căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền
của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện đại hóa, kết hợp những bước tiến tuần tự
về công nghệ với tranh thủ đi tắt, đón đầu, hình thành những mũi nhọn phát triển theo
trình độ tiên tiến của khoa học công nghệ thế giới [32-27].
Muốn đạt những yêu cầu trên chúng ta phải nỗ lực và sáng tạo rất cao, phải biết
tiếp cận và vận dụng những thành tựu mới về khoa học và công nghệ của nhân loại, phải
sử dụng và phát huy đến mức tối đa lợi thế vốn có của nguồn lực con người Việt Nam;
và hơn nữa biến nguồn lực con người thành động lực thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước.
Chỉ có nguồn nhân lực với những con người có năng lực phát triển toàn diện,
nắm bắt nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản xuất trong thực tiễn, đáp ứng được nhu cầu
khai thác và sử dụng các nguồn lực tự nhiên cho sự phát triển xã hội, chúng ta mới có
thể đưa sự nghiệp CNH, HĐH đến thắng lợi. Chính vì vậy, cần phải có nguồn nhân lực
và nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng công cuộc CNH, HĐH đất nước.
Để thực hiện CNH, HĐH đất nước cần thiết phải có một hệ thống nguồn lực.
Trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, Đảng ta đã đưa ra
các nguồn lực như: Nguồn vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất -kỹ thuật, vị trí
địa lý, nguồn nhân lực và nguồn lực nước ngoài… các nguồn lực này có quan hệ biện
chứng và cùng tham gia vào quá trình CNH, HĐH, nhưng mỗi nguồn lực có vai trò vị
trí và mức độ tác động riêng của chúng. Trong tổng thể các nguồn lực đó thì nguồn
nhân lực có vị trí trung tâm và giữ vai trò quyết định sự thắng lợi của sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước. Ta có sơ đồ sau:
Hình 1.2: Sơ đồ tổng thể các nguồn lực tác động đến quá trình
Sự nghiệp
công
nghiệp hoá
hiện đại
hoá ở Việt
Các
nguồn
lực
khác:
Nguồn
cơ sở
vật
chất -
kỹ
Nguồn nhân
lực
Nguồn vốn
Nguồn
lực
nước
ngoài
Nguồn
tài
nguyên
thiên
CNH,HĐH ở nước ta hiện nay
Sơ đồ trên (hình 2) hiển thị sự tác động lẫn nhau giữa các nguồn lực, các nguồn
lực này có mối quan hệ chặt chẽ, cùng tham gia vào quá trình CNH, HĐH nhưng mức độ
tác động và vai trò của chúng đối với toàn bộ quá trình CNH, HĐH không giống nhau,
trong đó nguồn nhân lực là yếu tố quyết định. Vai trò quyết định của nguồn nhân lực
biểu hiện ở những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, các nguồn lực như vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ
thuật, vị trí địa lý… là những khách thể chịu sự khai thác cải tạo của con người, và phục
vụ cho nhu cầu lợi ích của của con người. Các nguồn lực này tự nó chỉ tồn tại dưới dạng
tiềm năng, muốn phát huy một cách tích cực trong quá trình CNH, HĐH thì phải kết
hợp với nguồn lực con người, thông qua hoạt động có ý thức của con người.
ở một số nước, điều kiện tự nhiên thuận lợi là nhân tố làm cho đất nước giàu
mạnh, bởi vì con người biết tái tạo tự nhiên; còn ở một số nước khác, điều kiện tự nhiên
cũng tương tự, hoặc còn thuận lợi hơn, thì đất nước lại nghèo nàn, ngày càng kiệt quệ
nguồn tài nguyên vì ở những nước này con người chỉ biết tước đoạt tài nguyên thiên
nhiên, biến nó thành hoang mạc. Qua thực tế đó cho thấy vị trí địa lý, tài nguyên thiên
nhiên có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của đất nước, chúng đều phụ thuộc vào
khả năng sử dụng của con người. Còn vốn - tiền tệ cũng là nhân tố quan trọng cho sự
phát triển của bất cứ nước một nào. C. Mác đã có lý khi cho rằng: tiền tệ chỉ trở thành tư
bản thông qua sức lao động của công nhân, nhờ vậy nó tạo ra giá trị lớn hơn giá trị ban
đầu. Trong thời đại mở cửa, nhiều nước có thể thu hút vốn từ nước ngoài. Nhưng vốn ấy
chỉ có thể phát huy tác dụng tích cực nếu con người sử dụng hợp lý vốn đó để phát triển
nền sản xuất. Vì vậy, nguồn vốn chỉ trở thành động lực quan trọng và cấp thiết cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa khi được con người sử dụng đúng mục đích và có
hiệu quả.
Từ sự phân tích vai trò quyết định của nguồn nhân lực trong mối quan hệ với
các nguồn lực khác, như vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, vốn, các nguồn lực khác…
thì nguồn nhân lực là nguồn lực duy nhất, biết tư duy có trí tuệ và ý thức để sử dụng các
nguồn lực khác và gắn các nguồn lực lại với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp cùng tác
động vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai, nguồn nhân lực có vai trò quyết định trong các nhân tố, các nguồn lực
của sự phát triển lịch sử. Trước hết là do năng lực sáng tạo, trí tuệ của bản thân con
người và cộng đồng người theo chiều hướng tiến bộ của lịch sử. Từ thế kỷ XVI, nhà
triết học Ph.Bêcơn đã đưa ra nhận định: Tri thức là sức mạnh, khoa học tăng quyền lực
của con người đối với tự nhiên. Đến giữa thế kỷ XIX, trên cơ sở phân tích vai trò của
khoa học trong sự phát triển xã hội, C.Mác kết luận: Việc biến khoa học thành lực
lượng sản xuất trực tiếp là một quy luật khách quan của sự phát triển xã hội. Điều đó đã
trở thành hiện thực. Những năm đầu thế kỷ XX tỷ lệ lao động chân tay trong sản phẩm
là 9/10 đến những năm 90 tỷ lệ đó giảm xuống chỉ còn 1/5 nhưng khối lượng sản phẩm
đạt gần gấp 50 lần so với 80 năm về trước. Con người với trí tuệ lao động đã và đang là tài
sản quý giá nhất, là nguồn lực quan trọng nhất quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia.
Vì vậy, so với các nguồn lực khác thì "chỉ có con người là nguồn lực chủ yếu, lâu bền trong
sự phát triển của đất nước và cũng chỉ có tri thức con người là một nguồn lực vô hạn có khả
năng tái sinh và tự tái sinh không bao giờ cạn kiệt. Nếu không có con người đủ trí tuệ và
năng lực khai thác thì các nguồn lực khác cũng sẽ không được sử dụng có hiệu quả" [82
- 75].
Mặt khác vai trò quyết định của nguồn nhân lực đối với các nguồn lực khác là
do nguồn nhân lực mà cốt lõi trí tuệ là nguồn lực vô hạn, luôn đổi mới không ngừng và
phát triển về chất, còn các nguồn lực khác như đất đai, tài nguyên, vốn… thì có hạn,
khai thác mãi đến lúc cũng phải cạn kiệt. Vậy, nguồn nhân lực là nguồn lực quan trọng
nhất có vai trò quyết định đối với các nguồn lực khác, nên chúng ta phải chú trọng, bồi
dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tạo động lực
thúc đẩy quá trình CNH, HĐH nhanh chóng đi đến thắng lợi.
Thứ ba, con người với tất cả những phẩm chất tích cực của mình bao gồm trí
tuệ, kinh nghiệm, năng động, thích ứng, sáng tạo… thì tự mình có thể trở thành động
lực phát triển của toàn xã hội. Trí thông minh, tài năng sáng tạo, nhạy cảm với cái mới,
ý chí tự lực tự cường là những tiềm năng to lớn của dân tộc Việt Nam, là sản phẩm của
quá trình phát triển lâu dài của dân tộc, là nguồn lực to lớn cho sự phát triển đất nước.
Những đức tính đó đã được thể hiện và nhân lên trong quá trình đấu tranh dựng nước và
giữ nước của dân tộc Việt Nam. Ngày nay công cuộc đổi mới của đất nước đòi hỏi
nguồn nhân lực - lực lượng cơ bản, chủ yếu của sự nghiệp CNH, HĐH phải thực sự là
chủ thể sáng tạo có khả năng nắm bắt nhanh và thích nghi với cái mới để vận dụng vào
thực tiễn đầy khó khăn thách thức trên bước đường CNH, HĐH của nước ta. Những kỳ
tích của sự CNH, HĐH đều phụ thuộc vào trí tuệ, sự thông minh, tinh thần chủ động
sáng tạo của nguồn lực con người Việt Nam. Do đó trong số các nguồn lực thì động lực
chủ yếu của sự nghiệp CNH, HĐH chính là nguồn nhân lực. Đảng cộng sản Việt Nam
chỉ rõ: Những nguồn lực làm cơ sở cho việc thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước là nguồn lực con người. Đảng ta khẳng định "nguồn lao động dồi dào, con người
Việt Nam có truyền thông yêu nước cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hóa giáo dục, có
khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ… đó là nguồn lực quan trọng nhất " [32
- 5]. Để sự nghiệp CNH, HĐH thành công chúng ta phải biết phát huy sức mạnh tổng
hợp của các nguồn lực, trong đó "lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ
bản cho sự phát triển nhanh và bền vững "[40 - 85].
Nguyên phó thủ tướng Nguyễn Khánh cũng đã khẳng định: "Con người là chủ
thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa của mọi quốc gia… Từ một
nước nông nghiệp lạc hậu bắt đầu đi vào CNH, HĐH ta chưa có những chỉ số cao về
phát triển con người như mong muốn…Vì vậy, cùng với việc tạo ra nguồn lực vật chất,
tài chính và phát huy nguồn lực đó, điều quan trọng nhất hiện nay là chăm lo phát triển
nguồn lực con người Việt Nam, tạo ra lực lượng lao động với trình độ mới, khả năng
mới phù hợp với yêu cầu đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước"[51 - 1].
Như vậy, trong số các nguồn lực thì nguồn nhân lực giữ vị trí trung tâm của quá
trình CNH, HĐH mặc dù tất cả các nguồn lực đều rất cần cho công cuộc CNH, HĐH
nhưng xét đến cùng thì các nguồn lực đó sẽ vô nghĩa nếu thiếu nguồn lực con người. Tuy
nhiên con người mà chúng ta cần đến để đáp ứng các đòi hỏi của sự nghiệp này có những
điểm khác biệt với các đòi hỏi của giai đoạn trước. Trong thời đại hiện nay, khi nền kinh tế
thế giới đang từng bước chuyển sang kinh tế dựa trên cơ sở tri thức thì vai trò và tầm quan
trọng của trí tuệ con người tăng lên gấp bội. Để tiến hành CNH, HĐH đất nước, để
không bị tụt hậu về kinh tế, chúng ta phải nhanh chóng nâng cao năng lực trí tuệ, trình
độ học vấn, vốn văn hóa, kỹ năng và trình độ nghề nghiệp cho người lao động.
1.2.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực - động lực thúc đẩy quá trình
công nghiệp hóa, hiện đạo hóa đất nước
Trong thời đại hiện nay, sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ góp
phần đắc lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Cách mạng khoa học công nghệ dẫn đến
việc sử dụng những công cụ, phương tiện hiện đại, phức tạp, các ngành công nghiệp có
hàm lượng khoa học cao ngày càng phát triển đòi hỏi người lao động phải có tri thức,
hoàn thiện kỹ năng, kỹ xảo, mở rộng trình độ hiểu biết để tiếp thu và vận dụng có hiệu
quả các thành tựu khoa học - công nghệ vào sự phát triển kinh tế - xã hội. Khoa học
công nghệ càng tiến về phía trước, càng đòi hỏi phải có một sự phát triển cao về trí tuệ
của người lao động để không ngừng tạo ra tri thức mới, thúc đẩy tiến trình CNH, HĐH
nước nhà nhanh chóng đi tới thắng lợi.
Trong thời đại chúng ta, cuộc cạnh tranh khốc liệt đang diễn ra giữa các cường
quốc đế quốc và giữa các quốc gia trong cộng đồng thế giới về thực chất cũng là cuộc
cạnh tranh về trí tuệ. Trong điều kiện như vậy để tiến hành thành công sự nghiệp CNH,
HĐH chúng ta phải tạo điều kiện và môi trường để phát triển nguồn lực con người có trí
tuệ cao với tính cách là nguồn lực của mọi nguồn lực. Ăng ghen cho rằng: "Một dân tộc
muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận"
[17- 489], nghĩa là không thể thiếu trí tuệ ở trình độ cao.
Trong thời đại mà khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, có người đã
lầm tưởng rằng khoa học là yếu tố hoàn toàn độc lập trong lực lượng sản xuất và tách
khỏi con người. Chính quan niệm này đã dẫn đến tình trạng không đầu tư đúng mức cho
những con người làm khoa học mà chỉ quan tâm đến các yếu tố khác ngoài con người.
Vì vậy, muốn cho khoa học và công nghệ cùng với giáo dục và đào tạo trở thành nền
tảng và động lực đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước thì phải đầu tư vào con người. Đầu tư
để tạo dựng nguồn lực khoa học và công nghệ - nguồn nhân lực chất lượng cao. Chỉ có
trên cơ sở tạo ra một đội ngũ những người lao động phát triển cả về trí lực và thể lực, cả
về khả năng lao động, về tính tích cực chính trị - xã hội, về đạo đức, tình cảm trong
sáng thì chúng ta mới có nguồn lực quan trọng nhất, bền vững nhất trong CNH, HĐH
đất nước. Song với thực tiễn của một đất nước cơ sở vật chất còn nghèo nàn, đời sống
xã hội chưa cao, chúng ta không thể một sớm một chiều CNH, HĐH đất nước ngay mà
phải tạo ra một nguồn lực bên trong đó là: Lực lượng lao động xã hội. Do đó phải nhanh
chóng bồi dưỡng nâng cao chất lượng lao động, tạo ra được những người lao động vừa
có thể lực vừa có trí lực và tâm lực để thực hiện mục tiêu CNH, HĐH đất nước.
Xuất phát từ thực tế đó và do nhận thức được xu hướng đầu tư và phát triển của
các nước trên thế giới, bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VI, đặc biệt là Đại hội Đảng lần
thứ VII Đảng ta đã nhận thức ngày càng đầy đủ hơn về vai trò của nguồn nhân lực và
việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong sự phát triển kinh tế - xã hội, từ đó đến
nay Đảng ta luôn xác định vấn đề nguồn nhân lực vừa là mục tiêu vừa là động lực của
sự phát triển kinh tế - xã hội. Đảng ta đã nhiều lần khẳng định rằng: "Nâng cao dân trí,
bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn con người Việt Nam là nhân tố quyết định sự
thắng lợi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa " nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh [40-21].
Không thể nói đến CNH, HĐH đất nước trong thời đại văn minh trí tuệ, thời đại
cách mạng khoa học và công nghệ, thời đại sinh thái hóa mà lại thiếu nguồn nhân lực
chất lượng cao, thiếu đội ngũ cán bộ khoa học giỏi. Hội nghị lần thứ tư của Ban chấp
hành Trung ương khóa VII đã khẳng định: "Con người phát triển về trí tuệ, cường tráng
về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp
xây dựng xã hội mới, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội "[32 - 5].
Như vậy, trong số các nguồn lực thì động lực chủ yếu của sự nghiệp CNH, HĐH
chính là nguồn nhân lực. CNH, HĐH chỉ có thể thành công một khi chúng ta biết phát huy
sức mạnh tổng hợp của các nguồn lực, trong đó "lấy việc phát huy nguồn lực con người
làm yếu tố cho sự phát triển nhanh và bền vững".
Tóm lại, con người vừa là sản phẩm của lịch sử, vừa là chủ thể của lịch sử, vai
trò chủ thể sáng tạo ra lịch sử có ý nghĩa vô cùng to lớn. Phát huy vai trò chủ thể của
con người là nhằm phát huy tối đa nguồn lực con người, tạo ra động lực mạnh mẽ để
thực hiện thắng lợi công cuộc CNH, HĐH đất nước.
Đối với việc thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, nguồn nhân lực được
xem là một trong những nhân tố quyết định. Do đó, chỉ khi nào chúng ta đào tạo ra được
một nguồn lực với những con người có thể lực, trí lực, nhân cách, có năng lực phát triển
toàn diện, nắm bắt nhanh khoa học - công nghệ, đáp ứng được nhu cầu khai thác và sử
dụng các nguồn lực khác cho sự phát triển xã hội, thì chúng ta mới có thể đưa sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến thắng lợi. Đây là một luận điểm có ý nghĩa phương
pháp luận quan trọng cần được rút ra khi vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin về phát triển
con người, phát huy nhân tố con người vào việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực
cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
Chính vì vậy mà ở Việt Nam nói chung và ở Thanh Hóa nói riêng phải đi vào
nghiên cứu đánh giá thực trạng nguồn nhân lực, phân tích mặt mạnh, mặt yếu, thuận lợi,
khó khăn, từ đó làm rõ sự cần thiết và cấp bách về việc phát triển nguồn nhân lực, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước
ta cũng như ở tỉnh Thanh Hóa.
Chương 2
Thực trạng vấn đề nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thanh Hóa
2.1. Thực trạng nguồn nhân lực và vấn đề nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thanh Hóa
2.1.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến sự
phát triển nguồn nhân lực ở Thanh Hóa
Thanh Hóa là một tỉnh có diện tích tự nhiên là 11.106,09 km2, nằm ở cực Bắc
Trung Bộ Việt Nam, là chiếc cầu nối giữa Bắc Trung Bộ với Nam Trung Bộ. Phía Bắc
của Thanh Hóa giáp với 3 tỉnh: Sơn La, Hòa Bình, Ninh Bình; phía Nam giáp tỉnh Nghệ
An; phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn (Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào); phía Đông là Vịnh
Bắc Bộ với chiều dài bờ biển là 102km.
Thanh Hóa có một ưu thế lớn là có đường sắt xuyên Việt và quốc lộ 1A, quốc
lộ 10 chạy qua vùng đồng bằng ven biển, đường chiến lược 15A, đường Hồ Chí Minh
xuyên suốt vùng trung du và miền núi, tạo điều kiện thuận lợi giao lưu với các tỉnh và
các thành phố khác trong nước. Hệ thống sông ngòi của Thanh Hóa phân bố khá đều với
4 hệ thống sông đổ ra biển bằng 5 cửa lạch chính. Cảng biển Nghi Sơn là cửa ngõ của
Thanh Hóa trong giao lưu quốc tế và khu vực.
Do vị trí địa lý đem lại nên tỉnh Thanh Hóa nằm trên trục hành lang kỹ thuật
Quốc gia (đường sắt, bộ, cảng, điện...) trong vùng ảnh hưởng của những tác động từ khu
vực Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ. Trong tương lai gần là đỉnh phát triển của tam giác
phía Bắc (Nghi Sơn, Hà Nội, Quảng Ninh). Với sự tác động tổng hợp của các vùng trên,
Thanh Hóa có thể huy động nguồn lực của mình để đáp ứng nhu cầu của các vùng đó và
phát triển kinh tế của tỉnh nhà.
Không những có vị trí địa lý đa dạng mà Thanh Hóa còn có tài nguyên thiên
nhiên phong phú. Tài nguyên rừng với nhiều loại động vật, thực vật và gỗ quý hiếm; tài
nguyên biển với những cửa lạch, bãi cá, bãi tôm thuận tiện cho việc đánh bắt; tài
nguyên khoáng sản với 42 loại khoáng sản khác nhau như: quặng sắt, đôlônít,
secpentin... Với những điều kiện thuận lợi trên, Thanh Hóa có thể phát triển một nền
kinh tế toàn diện. Việc thực hiện đến đâu là do con người Thanh Hóa phấn đấu và thực
hiện.
Con người Thanh Hóa có truyền thống anh dũng trong chiến đấu, cần cù trong
lao động, ham mê hăng say trong học tập. Nhiều nhà nghiên cứu đã đánh giá Thanh Hóa
là đất "địa linh" đã sản sinh ra nhiều "nhân kiệt". Trong lịch sử dân tộc, trải qua một
nghìn năm Bắc thuộc và gần một nghìn năm xây dựng và bảo vệ quốc gia độc lập,
người Thanh Hóa đã anh dũng, kiên cường, đấu tranh bất khuất và đã ghi lại những mốc
son chói lọi trong lịch sử dựng nước, mở nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Trong cách mạng hiện đại người dân Thanh Hóa cũng đã đóng góp một phần xứng đáng
công sức để xây dựng đất nước, quê hương.
Thanh Hóa có truyền thống hiếu học và ngày càng được phát huy khi có sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Hơn 50 năm phát triển nền giáo dục cách mạng,
Thanh Hóa đã xây dựng được một hệ thống giáo dục phát triển mạnh mẽ từ giáo dục
mầm non đến giáo dục Cao đẳng, Đại học. Với tiềm năng của con người Thanh Hóa:
anh hùng, cần cù, hiếu học sẽ là một điều kiện tốt để tạo nên nguồn nhân lực tốt phục vụ
cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Một điều kiện nữa tác động đến quá trình phát triển nguồn nhân lực đó là đặc
điểm phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hóa. Thanh Hóa trong thời kỳ 1986 -
1990, tình hình sản xuất không ổn định, tốc độ tăng trưởng chậm, đạt 3,7%/năm, lương
thực bình quân đạt 800 ngàn tấn/năm. Dân số tăng tự nhiên vẫn ở mức cao 2,21%, thời
kỳ này đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn thiếu thốn.
Thời kỳ 1991 - 1995 tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 6,7%/năm, cao gần gấp
đôi thời kỳ 1986 - 1990, nhưng so với cả nước và tỉnh lân cận vẫn đang còn thấp (cả
nước 8,19, Nghệ An 7,68).
Thời kỳ 1996 - 2000 nền kinh tế của tỉnh tiếp tục tăng trưởng với tốc độ cao
hơn, GDP bình quân 7,30%/năm.
Trong mấy năm gần đây (2001 - 2005) nền kinh tế của Thanh Hóa duy trì được
mức tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước. Nhưng so với một số tỉnh thì mức tăng
trưởng của Thanh Hóa vẫn còn thấp. So bình quân cả nước thì Thanh Hóa cao hơn.
Bảng 2.1: Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP - tính theo giá hiện hành)
GDP (Tỷ đồng theo
giá hiện hành)
1990 1995 2000 2003
Cả nước 41.955 288.892 456.000 605.586,0
Thanh Hóa 1.504,5 6.370,6 10.100 13.492,8
Nghệ An 1.083,5 5.580,8 8.900 12.156,3
Nhịp độ
tăng trưởng (%)
1991 - 1995 1996 - 2000 2001 - 2003
Cả nước 8,19 6,94 7,26
Thanh Hóa 6,70 7,30 9,70
Nghệ An 6,77 6,73 11,52
Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư, Cục thống kê tỉnh Thanh Hóa 2004.
Qua bảng 2.1 ta thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thanh Hóa gia tăng liên
tục, tuy có thấp hơn so với tỉnh lân cận nhưng với tốc độ tăng trưởng như hiện nay
Thanh Hóa có thể phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn nữa.
Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sự chuyển dịch này của Thanh Hóa còn chậm,
do lịch sử phát triển kinh tế của tỉnh Thanh Hóa đã để lại một cơ cấu kinh tế không
thuận lợi, nông nghiệp chiếm 39,9% GDP, công nghiệp chiếm 26,4% GDP của tỉnh
(năm 2000).
Từ năm 2001 đến 2003, tốc độ tăng trưởng trong công nghiệp đã được nâng lên
GDP đạt 31,50%, tăng 5,1% so với năm 2000, nông lâm, thủy sản GDP đạt 35,40%
giảm 4,5% so với năm 2000. Bình quân về công nghiệp, và nông nghiệp của tỉnh Thanh
Hóa đã từng bước đuổi kịp mức trung bình của cả nước. (xem bảng 2).
Bảng 2.2: Cơ cấu kinh tế của cả nước và một số tỉnh
(tính theo GDP, giá hiện hành)
Đơn vị tính: %
Tổng số
Nông, lâm,
thủy sản
Công nghiệp
xây dựng
Dịch vụ
Thanh Hóa
1995 100,0 46,0 20,1 33,9
2000 100,0 39,9 26,4 33,7
2003 100,0 35,40 31,50 33,10
Cả nước
1995 100,0 29,04 29,08 41,88
2000 100,0 24,30 36,60 39,10
2003 100,0 21,83 39,95 38,22
Nghệ An
1995 100,0 36,61 18,81 44,58
2000 100,0 42,56 17,00 40,50
2003 100,0 37,95 25,88 36,17
Nguồn: + Bộ kế hoạch và đầu tư
+ Niên giám thống kê 2000 – 2004. Cục Thống kê Thanh Hóa.
Qua bảng 2.2 ta thấy, cơ cấu kinh tế của tỉnh Thanh Hóa đã có sự chuyển dịch
theo cơ cấu chung của cả nước và giảm tỷ trọng GDP nông, lâm, ngư nghiệp từ 46,0%
năm 1995, xuống 35,4% năm 2003, đồng thời tăng tỷ trọng GDP công nghiệp, xây dựng
từ 20,1% năm 1995 lên 31,50% năm 2003, dịch vụ có tăng nhưng không đáng kể.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ của Thanh Hóa tăng bình quân
hàng năm 12,4%, năm 2003 đạt 5089,2 tỷ đồng. Giá trị xuất khẩu hàng năm tăng bình
quân 28,6%, tính đến năm 2003 giá trị xuất khẩu bình quân đầu người là 16,30 USD
(niêm giám thống kê - cục thống kê Thanh Hóa 2000 - 2004). Nhìn chung, mặt hàng
xuất khẩu của tỉnh còn nghèo nàn, nặng nề thu gom chưa có mặt hàng chủ lực, chủ yếu
là nông sản chưa qua chế biến.
Việc thu, chi ngân sách trên địa bàn Thanh Hóa năm 2003 đạt trên 1 ngàn đồng
(1.096.498) nhưng chi ngân sách lại trên 2 ngàn tỷ đồng (2.974.534) thu không đủ chi.
Về đời sống, tỷ lệ hộ đói nghèo còn 15%, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn 23%.
Những đặc điểm kinh tế - xã hội nói trên gây ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển nguồn
nhân lực ở Thanh Hóa.
2.1.2. Thực trạng nguồn nhân lực ở Thanh Hóa.
Nguồn nhân lực được hiểu là dân số và chất lượng con người. Để nghiên cứu
nguồn nhân lực ở Thanh Hóa trước hết ta đi tìm hiểu về tình hình dân số và lao động.
2.1.2.1. Tình hình dân số:
Thanh Hóa là tỉnh đông dân đứng thứ 2 so với cả nước (sau thành phố Hồ Chí
Minh). Theo kết quả điều tra của cục thống kê Thanh Hóa, dân số Thanh Hóa đến năm
2004 là: 3.646.593 người.
Bảng 3: Dân số và tỉ lệ dân số thành thị nông thôn
Vùng và thời điểm
điều tra
Dân số
(nghìn
người)
Dân số
(%)
Chia ra
Thành thị Nông thôn
Cả nước
1/4/1994 76.596,7 100,0 23,6 76,39
2002 79.727,4 100,0 25,11 74,89
2003 80.902,4 100,0 25,78 74,22
Bắc trung bộ
1/4/1994 10.030,6 100,0 12,31 87,69
2002 10.299,1 100,0 13,42 86,58
2003 10.410,1 100,0 13,32 86,68
Thanh Hóa
1/10/1979 2.348,8 100,0 5,8 94,2
1/4/1989 2.993,2 100,0 7,2 92,8
1/4/1999 3.467,3 100,0 9,1 90,1
2002 3.593,1 100,0 9,5 90,5
2003 3.620,3 100,0 9,72 90,28
Nguồn: + Số liệu thống kê - Tổng cục thống kê, 2004.
+ Niêm giám thống kê - cục thống kê Thanh Hóa 2000-2004.
Qua bảng 2.3 ta thấy, dân số Thanh Hóa tăng nhanh và tăng nhanh nhất là vào
khoảng những năm 1979, 1989, 1999 vào thời điểm 1999 dân số Thanh Hóa là 3.467,3
nghìn người bằng 34,5% so với Bắc Trung Bộ và bằng 3,90% so với cả nước.
Đến 2002 dân số Thanh Hóa tăng lên 5999 nghìn người so với năm 1999, bằng
34,88% so với Bắc trung bộ và bằng 4.50% so với cả nước. Sang đến năm 2003 dân số
Thanh Hóa tăng lên 272 nghìn người so với năm 2002 bằng 34,77% so với Bắc Trung
Bộ, và 4.47% so với cả nước. Qua sự phân tích trên ta thấy Thanh Hóa có quy mô dân
số lớn và ngày càng tăng.
Về dân số giữa thành thị và nông thôn, dân số thành thị của Thanh Hóa không
lớn hơn nông thôn, nhưng tốc độ gia tăng mỗi năm ngày càng lớn. Song, so với cả nước
và Bắc Trung Bộ thì tốc độ tăng dân số ở thành thị của Thanh Hóa vẫn chậm hơn, so
năm 2003/1999 thì dân số thành thị Thanh Hóa tăng lên 0,62%. Trong khi đó Bắc Trung
Bộ là 1,01%, cả nước là 2,18%.
Nhìn một cách tổng thể thì dân số Thanh Hóa ngày càng tăng. Nhưng xét qua
các thời kỳ, các năm thì có lúc tăng lúc giảm. Dân số Thanh Hóa năm 1989 so với năm
1979 tăng 644.411 người; năm 1999 so với 1989 tăng 474.068 người, năm 2004 so với
1999 tăng 179.232 người. Trong 10 năm cuối thế kỷ XX Thanh Hóa đã hạn chế được
tốc độ gia tăng dân số và giảm sinh có hiệu quả.
Bảng 24. Dân số và tỉ lệ sinh, tỷ lệ chết và tỷ lệ tăng tự nhiên dân số
ĐVT: %.
Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004
Dân số trung bình 3540541 3565279 3593147 3620354 3646593
Tỷ lệ sinh 19,62 18,77 17,94 17,55 16,80
Tỷ lệ chết 5,58 5,58 5,85 6,10 6,00
Tỷ lệ tăng tự
nhiên
14,04 13,19 12,09 11,45 10,80
Nguồn: Niên giám thống kê 2000-2004 cục thống kê Thanh Hóa.
Qua bảng 4 cho thấy, tỉ lệ tăng dân số tự nhiên của Thanh Hóa mỗi năm ngày
càng giảm. Năm 2000 tỉ lệ tăng dân số tự nhiên trong tỉnh là 14,04%, đến năm 2004
xuống còn 10,80%. Nhưng nhìn chung Thanh Hóa vẫn là tỉnh có quy mô dân số lớn
nhất trong vùng Bắc Bộ, năm 2003 dân số Hà nội là 3015.0 nghìn người, Thái Bình
1837,0 nghìn người, Nghệ An 2977,3 nghìn người Thanh Hóa là 3620,3 nghìn người.
Tình hình dân số của Thanh Hóa hiện tại rất lớn và tương lai còn lớn hơn nhiều. Lao
động hiện chiếm một phần không nhỏ trong tổng dân số (50,26% bằng1819927người).
Dân số lớn thì nguồn nhân lực sẽ nhiều.
2.1.2.2. Thực trạng nguồn lao động ở Thanh Hóa
Nguồn lao động được hiểu là dân số đủ 15 tuổi trở lên có khả năng lao động,
đang có việc làm hoặc chưa có việc làm và không có nhu cầu làm việc.
Theo số liệu thống kê của Bộ lao động - Thương binh và xã hội thì số lao động
của Thanh Hóa năm 2004 là 1873053 người. Số lao động trong nông thôn chiếm phần
lớn 89,87%, số lao động ở thành thị chiếm 10,13%, cho thấy nền kinh tế Thanh Hóa với
đặc trưng chủ yếu là sản xuất nông nghiệp là phần lớn. Số lao động của Thanh Hóa
không phải là đã có việc làm 100%, mà số lao động có việc làm chiếm 98,81%, số lao
động thất nghiệp là 1,19%. Thực tế này đòi hỏi các cấp lãnh đạo, các nhà quản lý của
tỉnh phải hoạch định, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh tạo ra công ăn, việc làm cho
người lao động. Trong tổng số lao động của Thanh Hóa, số lao động nam thấp hơn số
lao động nữ. Lao động nam chiếm 48,62% (910713 người), số lao động nữ chiếm
51,38% (962340 người).
Bảng 5. Số người đủ từ 15 tuổi trở lên có việc làm và thất nghiệp,
phân theo giới tính và thành thị, nông thôn
ĐVT: người
Chung Thành thị Nông thôn
Tổng số Nữ Tổng số Nữ Tổng số Nữ
Có việc
làm
1850926 951936 176732 91651 1674194 860285
Thất
nghiệp
22127 10404 9887 4854 12240 5550
Cộng 1873053 962340 186619 96505 1686434 865835
Nguồn: Số liệu thống kê lao động - việc làm Việt Nam 2004.Bộ lao động -
thương binh xã hội.
Qua bảng 25 ta thấy, lực lượng lao động là nam giới có việc làm thấp hơn số lao
động nữ (nam: 898990 người bằng 48,56%, nữ: 951936 người bằng 51,44%), và ngược
lại số lao động nam thất nghiệp nhiều hơn nữ (nam chiếm 52,98%, nữ chiếm 47,02%).
Như vậy, lực lượng lao động nam, một lực lượng có sức khỏe hơn nữ giới (theo
cấu trúc sinh học) chưa được phát huy hết. Số lao động không được sử dụng (thất
nghiệp), không những là nam mà cả nữ đã làm mất đi một khối lượng lớn thu nhập quốc
dân. Vì vậy, để nguồn nhân lực phát triển một cách hợp lý thì phải có kế hoạch đầu tư
thích đáng trên nhiều phương diện cho việc đào tạo, bồi dưỡng, phát triển và sử dụng
nguồn nhân lực.
Thanh Hóa có nguồn nhân lực hùng hậu, nhưng phần lớn lực lượng lao động lại
tập trung trong khu vực sản xuất nông nghiệp. Theo niên giám thống kê 2000-2004, cục
thống kê Thanh Hóa thì số lao động trong nông nghiệp nông thôn năm 2004 là
14.853.292 người, và lao động bình quân sản xuất công nghiệp là 130.372 người. Song
tốc độ tăng GDP nông, lâm nghiệp, thủy sản năm 2004 là 5,4%; tốc độ tăng GDP trong
công nghiệp lại đạt 15,5 %, cao hơn nông nghiệp 10,1%. Một thực tế ở đây cho thấy là
số lao động trong nông nghiệp chiếm phần lớn nhưng sản phẩm xã hội lại thấp.
Vì vậy, chúng ta phải nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực:
Giảm ở nhóm ngành nông lâm nghiệp và thủy sản, tăng nhóm ngành công nghiệp, xây
dựng, dịch vụ. Đại hội tỉnh Đảng bộ Thanh Hóa lần thứ XV đã đề ra chủ trương: "Đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển nông nghiệp - nông thôn theo hướng CNH, HĐH"
nhằm phát triển kinh tế - xã hội [22-39].
Thực hiện chủ trương của tỉnh, Đảng bộ đề ra, trong những năm qua việc CNH,
HĐH nông nghiệp nông thôn đạt kết quả rõ rệt: Bê tông hóa kênh mương, phát triển
điện, đường giao thông nông thôn. Đưa ứng dụng tiến bộ sinh học về cây trồng, vật
nuôi, vào sản xuất thành công 8 giống lúa nước, sản xuất thành công 3 cặp bố mẹ lúa lai
hệ hai dòng và ba dòng. Năm 2004 đạt sản xuất được 842 tấn hạt giống lúa lai F1 tổ hợp
Nhị ưu 838, Bắc ưu 900…và được chỉ đạo tập trung sản xuất ở một số địa phương như:
Yên Định, Nga Sơn, Thọ Xuân. Khảo nghiệm tuyển chọn và đưa vào sản xuất thành
công các giống mía và dứa bằng phương pháp nuôi cấy mô thực vật… Phát triển chăn
nuôi bò sữa, chăn nuôi lợn hướng nạc theo hướng đưa chăn nuôi thành ngành sản xuất
chính trong nông nghiệp. Chuyển dịch một số diện tích trồng cây lương thực sang trồng
cây công nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Như trồng sắn cung cấp tinh bột, trồng mía
cung cấp cho nhà máy đường Lam Sơn, Việt - Đài, được triển khai trồng ở Thạch
Thành, Sao vàng; Giống lạc mới được trồng ở Tĩnh Gia, Quảng Xương, Hoằng Hóa
đem lại hiệu quả kinh tế lớn. Chuyển dịch sang nuôi trồng thủy sản như tôm sú, tôm
càng xanh, cá rô phi... ở Tĩnh Gia, Quảng Xương, Nga Sơn.
Những kết quả chuyển dịch cơ cấu vật nuôi, cây trồng trong nông nghiệp đã
góp phần tăng giá trị nông sản xuất khẩu, đáp ứng nguyên liệu chế biến công nghiệp,
góp phần tăng tốc độ GDP trong nông, lâm, ngư nghiệp từ 3,7% năm 2000 lên 5,2%
năm 2004. Đồng thời làm giảm lao động trong nông, lâm, ngư nghiệp xuống 2,7% (năm
2004 so với 2000).
Với sự phát triển kinh tế đúng hướng và thực hiện các chương trình kinh tế xã hội
trọng tâm, cùng với lực lượng lao động dồi dào, tỉnh Thanh Hóa nhất định sẽ tạo ra
năng lực sản xuất mới với năng suất chất lượng cao hơn, đáp ứng tình hình kinh tế - xã
hội trong tỉnh, hội nhập kinh tế quốc dân thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa của tỉnh nhà cũng như của đất nước.
2.1.3. Đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở
Thanh Hóa
2.1.3.1. Thực trạng giáo dục đào tạo
Giáo dục và đào tạo có vị trí, vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và phát
triển nguồn nhân lực, là nền tảng cho sự phát triển của xã hội, bởi thế Đảng ta khẳng
định: "Cùng với khoa học và công nghệ giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu" [12
– 107].
Xuất phát từ vai trò của giáo dục- đào tạo Đại hội tỉnh đảng bộ Thanh Hóa lần
thứ XV đã đề ra nhiệm vụ cho công tác giáo dục - đào tạo là " Phát triển quy mô đi đôi với
chú trọng nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực,
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh"[22-50].
Thực hiện nhiệm vụ của tỉnh Đảng bộ đề ra, trong những năm qua sự nghiệp
giáo dục - đào tạo của tỉnh Thanh Hóa có những chuyển biến tích cực. Mạng lưới
trường học phát triển rộng khắp, hầu hết các xã, phường đều có trường tiểu học, phổ
thông cơ sở. Các thành phố, thị xã, huyện đều có trường phổ thông trung học. Tiến độ
phổ cập giáo dục và xây dựng trường chuẩn quốc gia được đẩy nhanh. Theo số liệu
thống kê, Cục thống kê Thanh Hóa 2005 thì Thanh Hóa có 27/27huyện được công nhận
xóa mù chữ và phổ cập tiểu học, có 567/ 633xã được công nhận phổ cập trung học cơ
sở. Có 299 trường tiểu học, 22 trường trung học cơ sở và 4 trường phổ thông trung học
được công nhận đạt chuẩn quốc gia.
Việc giáo dục, bồi dưỡng học sinh giỏi các tuyến được duy trì và đạt thành tích
cao. Theo báo cáo của Tỉnh ủy Thanh Hóa, năm học 2004 - 2005 có 8.480 học sinh đạt
giải từ cấp tỉnh trở lên, trong đó có học sinh giỏi quốc gia, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp các
cấp đạt trên 95%.
Về đội ngũ giáo viên phổ thông, tính đến năm 2005 toàn tỉnh có 34.313 giáo viên,
tỉnh đã có sự sắp xếp cân đối giáo viên giữa các cấp học, các vùng. Đối với một số huyện
vùng sâu, vùng xa tỉnh đã có chính sách ưu đãi đặc biệt nhằm thu hút giáo viên về giảng
dạy. Công tác phổ cập giáo dục, chống mù chữ phát triển mạnh. Tỷ lệ biết chữ của dân số
từ 10 tuổi trở lên khá cao và tăng nhanh hơn trong những năm gần đây, thể hiện qua biểu so
sánh sau: (xem bảng 26).
Bảng 26: Tỷ lệ dân số 10 tuổi trở lên biết chữ
ĐVT: %
5 Chung
Chia ra
5 Nông thôn
1/4/1999 93.7 95,2 92,9
2002 94.8 96,1 93,6
2004 95.2 97,9 94,8
Nguồn: Kết quả tổng điều tra dân số và MSH năm 2002, 2004. Cục thống kê
Thanh Hóa.
Qua bảng 26, cho thấy tỷ lệ biết chữ cũng như trình độ học vấn của dân cư
được nâng lên. Năm 2002 tăng lên 1,1% so với 1999. Năm 2004 tăng lên 0,4% so
với năm 2002. Tỷ lệ biết chữ ở thành thị cao hơn chứng tỏ sự quan tâm và đầu tư cho
học hành cũng nhiều hơn. Mức chi tiêu cho giáo dục phổ thông ở Thanh Hóa theo
kết quả điều tra dân số, Cục thống kê Thanh Hóa 2004 thì mức chi cho giáo dục bình
quân một người đi học năm 2002 là 137,5 nghìn đồng bằng 5,4% trong tổng chi tiêu.
Năm 2004 là 636 ngàn đồng, bằng 19,9% trong tổng chi tiêu, tăng so với 2002 là
14,5%. Với đội ngũ giáo viên luôn trau dồi, học hỏi, nhiệt tình hăng say trong công
tác giảng dạy, chất lượng giáo dục của tỉnh ngày càng được nâng lên, tỷ lệ học sinh
giỏi, học sinh tốt nghiệp các cấp, học sinh thi trúng tuyển vào đại học mỗi năm đều
tăng. Năm 2004 tỷ lệ tốt nghiệp THCS đạt 97,83%, THPT đạt 98,7%, tổng số học
sinh các cấp phổ thông đậu tốt nghiệp năm 2004 là 8. 216.926 học sinh.
Nét mạnh trong giáo dục phổ thông của Thanh Hóa là mức độ phổ cập giáo dục
tương đối cao. Song việc phổ cập giáo dục phổ thông cơ sở mới chỉ tạo tiền đề cho việc
nâng cao trình độ học vấn của dân cư, còn việc tạo ra được nguồn nhân lực có trình độ
chuyên môn kỹ thuật thì đòi hỏi tỉnh Thanh Hóa phải có quy hoạch, sắp xếp, nâng cấp
và đầu tư cho các trường chuyên nghiệp, dạy nghề, cao đẳng, đại học.
Về công tác đào tạo nghề, những năm gần đây Thanh Hóa đã thực hiện đa dạng
hóa các loại hình đào tạo nghề, tăng cường công tác phổ cập, bồi dưỡng tập huấn nghề
nhằm không ngừng nâng cao trình độ lao động được đào tạo.
Từ năm 2001 mạng lưới cơ sở đào tạo nghề ở Thanh Hóa có 48 đơn vị, trong đó
có 40 cơ sở dạy nghề công lập, 8 cơ sở ngoài công lập. Đến nay (2004) hệ thống dạy
nghề ở tỉnh được ổn định và phát triển, số trường đã tăng lên 54 đơn vị: gồm 8 trường
dạy nghề công lập, 1 trường dạy nghề ngoài công lập, 2 trung tâm dạy nghề, 2 trung tâm
giới thiệu việc làm, 22 trung tâm giáo dục thường xuyên dạy nghề cấp huyện, 19 cơ sở
dạy nghề trong các hội, đoàn thể các doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất có đăng ký
hoạt động dạy nghề cho lao động xã hội. Về kinh phí cho việc đào tạo nghề được chi rất
ít. Số lượng trường và các trung tâm dạy nghề được các cấp chi phí đầu tư cho đào tạo
nghề chỉ đảm bảo cho các hoạt động thường xuyên và chi nghiệp vụ theo quy định mức
biên chế của các đơn vị. Năm 2004 kinh phí cho đào tạo nghề là 12,372 tỷ đồng chiếm
19,7% (Các trường dạy nghề là 8,172 tỷ đồng; các trung tâm dạy nghề, trung tâm giáo
dục thường xuyên - dạy nghề cấp huyện là 4,2 tỷ đồng). Nguồn thu đóng góp của người
học nghề và các nguồn thu khác được 7,57 tỷ đồng. Các cơ sở đào tạo nghề đã huy động
ngân sách đầu tư của Nhà nước, các ngành, các địa phương và huy động mọi nguồn lực, tận
dụng mọi khả năng hiện có để xây dựng cơ sở vật chất, nâng cấp trang thiết bị dạy nghề.
Đội ngũ giáo viên dạy nghề Thanh Hóa có 608 giáo viên trong đó giáo viên có
trình độ trên đại học là 4 người, giáo viên có trình độ cao đẳng, đại học là 391 người,
trung học chuyên nghiệp là 75 người; công nhân kỹ thuật là 13 người. Tỉnh luôn quan
tâm đến đội ngũ giáo viên, hàng năm tỉnh tổ chức cho đi học bồi dưỡng nghiệp vụ sư
phạm, bồi dưỡng nâng cao trình độ. Chất lượng dạy nghề trong tỉnh từng bước được
nâng lên, số học sinh tốt nghiệp hàng năm đạt trên 90%, trong đó: loại giỏi đạt 8%, loại
khá đạt 27%, trung bình khá 36%, trung bình 29%.
Về đào tạo trong các trường Đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp. Thanh
Hóa có các cơ sở đào tạo đa dạng về loại hình và trình độ, đào tạo đa hệ và cấp độ đào
tạo khác nhau như Đại học Hồng Đức, Trung tâm giáo dục thường xuyên của tỉnh,
huyện...
Hiện nay Thanh Hóa có 1 Trường Đại học, 2 trường cao đẳng, 7 trường trung
học chuyên nghiệp, đội ngũ giáo viên là 989 người, trong đó tiến sĩ là 35 người, Thạc sĩ
189 người, Đại học 436 người, cao đẳng 87 người. Với đội ngũ giáo viên đông đảo, có
năng lực trình độ chuyên môn, có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, gắn bó với nghề
nghiệp, sẵn sàng vượt khó đã đóng góp một phần lớn công sức cho sự nghiệp giáo dục
đào tạo của tỉnh. Hàng năm đã tạo ra những lớp người có trình độ chuyên môn kỹ thuật,
có năng lực thực hành công việc, có lối sống trong sáng lành mạnh phục vụ cho sự
nghiệp CNH-HĐH của tỉnh. Theo kết quả điều tra dân số và lao động 2001-2005, Cục
thống kê Thanh Hóa thì các trường chuyên nghiệp hàng năm đào tạo ra trường trên 5
nghìn sinh viên, cung cấp một số lượng khá lớn cán bộ các ngành khoa học - kỹ thuật
đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và khu vực.
Bảng 7: Số trường, số giáo viên, số học sinh
các trường chuyên nghiệp và dạy nghề
Chỉ tiêu
Năm học
2000-
2001
Năm học
2001-
2002
Năm học
2002-
2003
Năm học
2003-
2004
Năm học
2004-
2005
Bình
quân
2001-
2005
Trung học chuyên
nghiệp
- Số trường 8 8 8 7 7 7.8
- Số GV (người) 399 421 394 454 419 417
- Số học sinh (người) 8.457 6.771 6.620 7.125 9.054 7.605
- Số HS đã tốt nghiệp
(người)
3.563 3.477 3.883 3.542 4.748 3.843
Cao đẳng và đại học
- Số trường 1 1 1 1 3 1
- Số GV (người) 590 565 518 480 579 546
- Số HS (người) 5.474 4.668 4.780 6.098 6.999 5.604
- Số HS đã tốt nghiệp
(người)
1.809 1.775 1.584 1.343 1.683 1.638
Đào tạo CN kỹ thuật
- Số học sinh(người) 4.381 3.390 5.072 5.446 5.500 4.758
Dạy nghề
-Số học sinh(người) 22.125 25.965 28.592 31.834 34.200 28.547
Nguồn: Dân số và lao động 2001-2005, Cục thống kê Thanh Hóa.
Qua bảng 7, cho thấy số học sinh ngày càng tăng. Học sinh trung học chuyên
nghiệp năm 2004 tăng lên 7,0% so với năm 2001, số tốt nghiệp ra trường cũng tăng lên
33,25%. Học sinh Đại học và Cao đẳng năm 2004 tăng lên 2,78% so với năm 2001, số
tốt nghiệp ra trường cũng tăng lên 6,96%. Số công nhân kỹ thuật đi học và tốt nghiệp ra
trường ngày một nhiều, năm 2004 tăng lên 25,54% so với năm 2001. Số học sinh được
đào tạo nghề cũng tăng lên 54,57%, đưa tỷ lệ lao động đã qua đào tạo từ 15,50% năm
2001 lên 23,96% năm 2004.
Nhìn chung, thời gian qua, trong những lĩnh vực giáo dục đào tạo của tỉnh
Thanh Hóa đã có bước tiến bộ bước đầu có ý nghĩa. Đã tạo ra một nguồn lao động lớn
có trình độ nghiệp vụ từ đại học, cao đẳng đến dạy nghề phục vụ cho yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh góp phần vào chương trình giải quyết việc làm, xóa đói, giảm
nghèo và thị trường sức lao động.
Những năm qua, tỉnh Thanh Hóa đã quan tâm đầu tư xây dựng cơ bản và nâng
cấp cơ sở vật chất, tăng cường thêm trang thiết bị cho một số trường như trung học sư
phạm, trung học văn hóa - nghệ thuật, trường đại học Hồng Đức. Đồng thời chú trọng
việc đào tạo nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ, giáo viên các khối, các trường.
Về ngân sách đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực của tỉnh ngày càng tăng, từ
497.526 triệu đồng năm 2000 lên 587.298 triệu đồng năm 2001, và 689.392 triệu đồng
năm 2002 lên 911.605 triệu đồng năm 2003, và năm 2004 lên 930.555 triệu đồng. Trong
đó kinh phí dạy nghề chiếm 19,7% (Niên giám thống kê 2001-2004 Cục thống kê
Thanh Hóa). Xét về tổng ngân sách đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực tuy có tăng
nhưng so với yêu cầu phát triển nguồn nhân lực vẫn còn thấp, đặc biệt tỷ trọng đầu tư
cho đào tạo nghề còn quá thấp.
Bảng 2.8: Chi cho giáo dục bình quân 1 học sinh đi học.
ĐVT: Nghìn đồng Việt Nam.
Thanh Hóa Cả nước ĐB sông
Hồng
Bắc Trung
Bộ
Đông Nam
Bộ
Chung các
khoản chi
phí giáo dục
636.2 464.08 532.07 373.10 892.79
Nguồn: + Số liệu thống kê xã hội những năm đầu thế kỷ XXI. Nhà xuất bản
thống kê Hà Nội 2004.
+ Đánh giá thực trạng mức sống dân cư Thanh Hóa 2004. Cục thống kê Thanh
Hóa.
Từ bảng 2.8 ta thấy mức chi cho giáo dục ở Thanh Hóa cao hơn 1 số vùng và so
với bình quân cả nước, nhưng vẫn thấp hơn so với Đông Nam Bộ và điều chủ yếu là vẫn
thấp so với yêu cầu thực tế phát triển nguồn nhân lực ở Thanh Hóa. Mức chi như vậy
cũng chỉ đủ để chi phí về cơ sở vật chất, dụng cụ học tập, trang thiết bị học tập đơn
thuần chưa thể trang bị được những thiết bị hiện đại, tiên tiến.
Hiện nay, khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ trên thế giới, giữa nhiều
nước đang diễn ra sự hợp tác và chuyển giao công nghệ, đó là điều kiện tốt để chúng ta
tiếp cận nền tri thức mới tiếp thu thành tựu khoa học công nghệ của thế giới thông qua
con đường học tập. Nhưng trang thiết bị trường học cũ kỹ lạc hậu thì làm sao có thể tiếp
cận nhanh chóng thành tựu khoa học công nghệ được. Do đó, đối với sự nghiệp giáo
dục đào tạo ở nước ta nói chung và Thanh Hóa nói riêng việc quan trọng hàng đầu là
đầu tư đúng mức cho nó. Hội nghị lần thứ II ban chấp hành trung ương khóa VIII của
Đảng đã quyết định tăng dần tỷ trọng ngân sách cho giáo dục - đào tạo đạt 15% tổng
ngân sách vào năm 2000. Nhưng hiện nay bình quân khu vực Đông Nam á là 20% đến
25%, nên mức 15% của Việt Nam vẫn là mức thấp (mà nay đã là năm 2005 rồi). "Ngay
từ cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX, tỷ lệ ngân sách đầu tư cho giáo dục và đào tạo của
Xingapo đã ở mức 20,8%, Hàn quốc 20,1%, Hồng Kông 16%, Thái Lan 17%, trong khi
đó Việt Nam chỉ đạt 3%" [29-191]. Vì vậy, một trong những nguyên nhân dẫn đến sự
yếu kém trong chất lượng giáo dục ở Việt Nam nói chung và Thanh Hóa nói riêng là cơ
sở vật chất cho giáo dục và đào tạo còn nghèo nàn, phần lớn học sinh học chay thiếu
trang thiết bị thí nghiệm.
Về hệ thống dạy nghề của Thanh Hóa, hệ thống này vẫn còn nhỏ bé (đầu tư cho
một trường dạy nghề đắt tiền hơn nhiều lần cho một trường phổ thông), đây là khâu yếu
nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân cũng là khâu yếu nhất trong hệ thống giáo dục ở
Thanh Hóa. Nhưng đó lại chính là nơi đào tạo ra nguồn nhân lực có tay nghề cao phục
vụ cho CNH, HĐH.
Qua thực trạng đào tạo nguồn nhân lực ở Thanh Hóa cho thấy sự nghiệp giáo
dục - đào tạo ở Thanh Hóa còn tồn tại yếu kém, bất cập cả về hệ thống trường lớp quy
mô, cơ cấu ngành nghề, chất lượng và hiệu quả đào tạo. Chất lượng giáo dục đào tạo
vẫn còn chênh lệch khá cao giữa các vùng, các miền. Số lượng học sinh miền núi, vùng
nông thôn, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế chậm phát triển vào học các
trường đại học còn quá ít.
Nhìn một cách khái quát, thời gian qua trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo của
Thanh Hóa có bước chuyển biến đi lên đã gặt hái được một số kết quả bước đầu có ý
nghĩa và tạo tiền đề cho bước tiến cao hơn trong thời gian tới. Sự nghiệp giáo dục - đào
tạo của Thanh Hóa đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao dân trí, đào tạo đội ngũ
lao động có trình độ học vấn phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Nhất là trong
thời kỳ hiện nay, nguồn nhân lực con người trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang
đòi hỏi lao động lành nghề, lao động có chuyên môn kỹ thuật cao.
2.1.3.2. Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực ở Thanh Hóa
Chất lượng nguồn nhân lực thể hiện trạng thái nhất định của nguồn nhân lực
như: Sức khỏe, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, năng lực phẩm chất của
người lao động.
Yếu tố tạo nên chất lượng nguồn lực trước hết là sức khỏe.
* Tình hình sức khỏe:
Tình hình sức khỏe phụ thuộc nhiều yếu tố, trước hết là mức sống. Mức sống
dân cư trong tỉnh Thanh Hóa nhìn chung ổn định và từng bước được cải thiện. Thu nhập
bình quân của các tầng lớp dân cư hàng năm GDP tính theo đầu người là 3.720 nghìn
đồng. Nhưng so với cả nước và Bắc Trung Bộ thì dân cư Thanh Hóa vẫn có mức sống
thấp (xem bảng 2.9).
Bảng 2.9. Số liệu so sánh GDP giữa Thanh Hóa, cả nước
và một số tỉnh năm 2003
ĐVT: nghìn đồng
Chỉ tiêu
GDP bình quân đầu người
(Theo giá trị thực tế)
Thanh Hóa 3720
Cả nước 4785
Ninh Bình 3249
Thái Bình 3887
Nghệ An 4083
Quảng Nam 4164
Hà Nội 15902.6
Hải Phòng 8313.7
Hà Tây 4235.8
Hưng Yên 5097.1
Hải Dương 5892.8
Nam Định 3845.3
Nguồn: Niên giám thống kê 2000-2004 Cục thống kê Thanh Hóa.
Qua bảng 2.9 thấy GDP bình quân đầu người của Thanh Hóa thấp nhất so với
các tỉnh và chỉ hơn Ninh Bình. Trong khi GDP bình quân đầu người của Thanh Hóa là
3720 nghìn đồng, thì Hà Nội là 15902.6 nghìn đồng; Hải Phòng 8313.7 nghìn đồng; Hải
Dương là 5892.8nghìn đồng, cả nước 4785 nghìn đồng... So với bình quân cả nước vẫn
thấp hơn 1065 nghìn đồng.
Đánh giá mức sống của dân cư không những nhìn góc độ thu nhập mà còn nhìn
nhận từ góc độ chi tiêu cho đời sống. So sánh chi tiêu trong 2 năm 2002 và 2004, cơ cấu
chi tiêu đời sống các tầng lớp dân cư Thanh Hóa có xu hướng tiến bộ, bởi chi tiêu ăn
uống hút năm 2002 là 50,1%, đến năm 2004 giảm xuống còn 45%, và chi tiêu cho may
mặc, đi lại, đời sống văn hóa... từ 31,1% năm 2002 lên 35,1% năm 2004 (xem bảng 10).
Bảng 10: Chi đời sống bình quân một người một tháng
so với thu nhập năm 2002 và 2004
Năm
Bình quân 1 người 1 tháng (nghìn
đồng)
Bình quân 1 người 1 tháng
so với thu nhập (%)
Thu
nhập
Chi đời
sống
Chi ăn
uống
Chi không
ăn, uống hút
Chi đời
sống
Chi ăn
uống
Chi không
ăn, uống,
hút
A 1 3= 4 +
5
4 5 6=3/1*1
00
7=4/1*1
00
8=5/18*10
0
Thanh Hóa
2002 224,83 182,6 112,71 69,95 81,2 50,1 31,1
2004 311,11 250,40 141,19 109,21 80,5 45,5 35,1
Cả nước 356.80 268.35 151.96 116.38 75.2 42.6 32.6
BTB
(2004)
235.49 192.77 112.35 80.41 81.9 47.7 34.2
ĐNB
(2004)
622.95 447.59 235.65 2119.3 71.8 37.8 34.0
Nguồn:+ Tổng cục thống kê- số liệu thống kê xã hội những năm đầu thế kỷ XXI,
nhà xuất bản thống kê 2004.
+ Cục thống Thanh Hóa - Đánh giá thực trạng mức sống dân cư Thanh Hóa
2002-2004.
Qua bảng 10 ta thấy khi (còn nghèo) thu nhập thấp thì người dân thường dành
phần lớn chi tiêu của mình để đảm bảo nhu cầu ăn uống hút. Khi thu nhập khá thì các
hộ gia đình chi nhiều hơn cho nhu cầu ngoài ăn uống, gồm: may mặc, ở, đi lại, đồ dùng,
chăm sóc, sức khỏe, giáo dục, văn hóa. Qua số liệu trên đã chứng minh đời sống của các
tầng lớp dân cư Thanh Hóa đã được cải thiện trong 2 năm qua. Nhưng so với cả nước và
vùng Bắc Trung Bộ, Đông Nam Bộ thì mức sống của dân cư Thanh Hóa vẫn thấp. Bởi
tỷ trọng chi tiêu cho ăn uống (Chi ăn, uống, hút, cột 7=4/1*100) trong chi tiêu (Chi cho
đời sống cột 3 = 4+5) là một tiêu chí đánh giá mức sống cao hay thấp, tỷ trọng này càng
cao thì mức sống càng thấp và ngược lại.
Từ bảng 10 cho thấy tỷ trọng chi tiêu cho ăn, uống, hút của Thanh Hóa trong chi
tiêu cao hơn cả nước và vùng Bắc Trung Bộ, Đông Nam Bộ. Do đó, mức sống của
Thanh Hóa đang còn thấp. Mức sống thấp nên phần lớn chi tiêu dành cho ăn, uống, hút.
Còn chăm sóc sức khỏe, giáo dục văn hóa... được chi phần nhỏ, cũng do mức sống thấp
nên đã hạn chế đến việc đầu tư cho con người, đầu tư cho giáo dục... làm ảnh hưởng đến
sự phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực. Mức thu nhập của Thanh Hóa thấp
nên số hộ nghèo là tương đối nhiều 19% (Trung bình từ 1999 - 2003) xem bảng 11.
Bảng 2.11: Đời sống
1999 2001 2002 2003
1. Lương thực có hạt BQ đầu người - kg/người 338 370 389 400
2. Số mày điện thoại BQ trên 1.000 dân -
cái/1.000dân
8,7 18,6 21,5 24,8
3. Tỷ lệ hộ được dùng điện % 84,1 87,0 88,4 90.0
4. Tỷ lệ hộ nghèo % 23,4 19,9 18,0 15,0
5. Thu nhập bình quân một người/1tháng -nghìn
đồng
211 237 252 270
- Thành thị 393 441 468 501
- Nông thôn 177.8 201 214.5 230
6. Thu nhập của nhóm 20% số hộ có thu nhập cao
nhất - nghìn đồng.
485.1 545 589 631
7. Thu nhập của 20% số hộ có thu nhập thấp nhất
nghìn đồng
882 92 95 103
Chênh lệch giữa 2 nhóm hộ - lần 5.5 5.92 6.2 6.13
Nguồn: Tình hình kinh tế - xã hội chủ yếu tỉnh Thanh Hóa thời kỳ 2001-2003,
cục thống kê Thanh Hóa.
Qua bảng 11 ta thấy, hộ có thu nhập thấp năm 2003 là 103 nghìn đồng một tháng,
số hộ có thu nhập cao là 631 nghìn đồng một tháng. Mức thu nhập thành thị cao gấp đôi
nông thôn: thành thị 501 nghìn đồng, nông thôn 230 nghìn đồng. Từ chỗ thu nhập thấp
nên đầu tư cho học hành cũng thấp. Vì vậy, tỷ lệ học sinh nông thôn, học sinh miền núi
vào học các trường đại học, các trường chuyên nghiệp, dạy nghề cũng rất thấp.
Mặc dù thu nhập thấp nhưng nhà ở của Thanh Hóa tương đối cao so với mức
bình quân của cả nước và một số vùng (xem bảng 12).
Bảng 2.12: Tỷ lệ nhà chia theo loại nhà
ĐVT: %
Nhà kiên cố Nhà bán kiên cố Nhà tạm ở
Thanh Hóa
2002 13.8 71.6 14.6
2004 20.3 66.5 13.2
Cả nước 2004 15.48 58.77 26.44
ĐB sông Hồng
2004
38.05 55.43 6.52
Bắc Trung Bộ
2004
12.6 72.94 14.39
Đông Nam Bộ
2004
13.69 58.51 27.79
Nguồn:+ Tổng cục thống kê.Số liệu thống kê xã hội những năm đầu thế kỷ XXI.
Nhà xuất bản thống kê 2004.
+ Cục thống kê Thanh Hóa. Đánh giá thực trạng mức sống dân cư Thanh Hóa
2002-2004.
Về nhà ở: Thì loại nhà tạm ở của Thanh Hóa ngày càng giảm, nhà kiên cố ngày
càng tăng. Năm 2002 nhà kiên cố của Thanh Hóa bình quân cũng gần bằng cả nước và
một số vùng. Đến năm 2004 nhà kiên cố ở Thanh Hóa tăng 20% cao hơn bình quân cả
nước 4.82% cao hơn Bắc Trung Bộ 7.7% và cao hơn Đông Nam Bộ là 6.61% nhưng so
với vùng đồng bằng Sông Hồng thì thấp hơn nhiều.
Nhìn chung, tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hóa đã có bước
tăng trưởng. Tuy nhiên chỉ tiêu so với cả nước và khu vực Bắc Trung Bộ vẫn còn thấp.
Điều này đòi hỏi tỉnh Đảng bộ Thanh Hóa phải có chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
ngắn hạn, dài hạn để tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân. Song cũng phải
nói rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế trong tỉnh Thanh Hóa bốn năm qua đã tăng liên tục.
Từ năm 2001 - 2004, tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) theo giá so sánh bình quân mỗi
năm đạt 9.607,4 tỷ đồng, tăng liên tục qua các năm, với tốc độ tăng bình quân mỗi năm
9,3%, cao hơn thời kỳ 1996 - 2000 (7,3%) và cao hơn bình quân chung của cả nước (cả
nước tăng bình quân mỗi năm thời kỳ 2001 - 2004 là 7,3%), hai tỉnh lân cận: Nghệ An
10%, Ninh Bình 9,6%.
Đáng chú ý là bốn năm qua, các khu vực kinh tế và các ngành kinh tế chủ yếu
đều đạt tốc độ tăng trưởng cao.
Bảng 2.13: Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong tỉnh
Đơn vị tính: %
Toàn
tỉnh
Chia ra
Nông, lâm
nghiệp,
thủy sản
Công
nghiệp,
xây dựng
Dịch vụ
Tốc độ tăng bình quân thời
kỳ
1991 - 1995 7,0 3,7 10,6 8,8
1996 - 2000 7,3 3,7 13,6 7,2
2001 - 2004 9,3 5,1 15,4 7,8
Tốc độ tăng hàng năm
2001 8,2 4,8 13,7 7,2
2002 9,2 4,9 16,3 7,5
2003 9,7 5,3 15,9 8,2
2004 9,9 5,4 15,5 8,5
Nguồn: Niên giám thống kê Thanh Hóa.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: Giảm ở nhóm ngành nông,
lâm nghiệp và thủy sản; tăng ở nhóm ngành công nghiệp, xây dựng; ngành dịch vụ số
tuyệt đối tăng chậm nên tỷ lệ giảm.
Bảng 2.14: Cơ cấu kinh tế trong tỉnh
Đơn vị: %
2000 2004
Tổng số 100,0 100,0
Nông, lâm, thủy sản 39,6 34,0
Công nghiệp và xây dựng 26,6 33,2
Dịch vụ 33,8 32,8
Nguồn: Niên giám Thống kê 2000 - 2004 Thanh Hóa.
Nhìn chung, các khu vực kinh tế và ngành kinh tế đều đạt tốc độ tăng trưởng
cao, các ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 5,1%; công nghiệp và xây dựng 15,4%;
dịch vụ 7,8%. Vì vậy, đời sống các tầng lớp dân cư Thanh Hóa được cải thiện, công cuộc
xóa đói giảm nghèo tiếp tục được phát huy có hiệu quả.
Các lĩnh vực văn hóa - xã hội đều có bước phát triển và hoàn thành mục tiêu kế
hoạch hàng năm. Tình hình an ninh, chính trị ổn định, trật tự xã hội được đảm bảo. Các
thành tựu trên đã tác động tích cực đến đời sống, đến lao động, việc làm và thu nhập của
nhân dân trong những năm qua.
Về cơ sở y tế và chăm sóc sức khỏe ở Thanh Hóa vẫn còn hạn chế. Số bác sĩ ở
các trạm xá xã thiếu trầm trọng. Theo số liệu của niên giám thống kê 2000-2004, Cục
thống kê Thanh Hóa thì số y, bác sỹ của Thanh Hóa năm 2000 là 4.517 người, đến năm
2004 tăng thêm lên 419 người trong khi dân số Thanh Hóa tăng thêm 1.05.998 người.
Tính ra số y bác sĩ năm 2000 là 13 người trên 1 vạn dân thì đến năm 2004 là 14 người
trên 1 vạn dân, số y bác sĩ như vậy là thấp so với yêu cầu chăm sóc sức khỏe của nhân
dân, nhất là vùng sâu, vùng xa và các tuyến xã, phường. Thanh Hóa có 32 bệnh viện
thuộc tuyến tỉnh, huyện với 3.587 y bác sĩ trong đó có 1.123 người có trình độ bác sĩ trở
lên. Còn trạm y tế của xã phường là 622 trạm thì có 2.828 y bác sĩ, trong đó có 369
người là có trình độ bác sĩ trở lên. Như vậy, số bác sĩ chỉ chia cho được hơn một nửa số
trạm (59,325%) còn gần một nửa các trạm ở xã phường là không có bác sĩ. Tình hình
này rất khó khăn cho người dân. Hiện nay, số người ốm đau không đi viện còn nhiều (ở
xã, phường, vùng nông thôn) lý do vì thu nhập thấp là chủ yếu nên họ chỉ khám ở trạm
và điều trị tại nhà.
Cơ sở y tế ở tuyến tỉnh, huyện về chất lượng khám chữa bệnh có nâng lên, số y
bác sĩ tăng, số giường bệnh tăng, năm 2000 là 427 giường, năm 2004 tăng lên 4.460
giường.
Về phương tiện y tế, thì hầu hết cũ kỹ, lạc hậu, máy móc, thiết bị y tế hiện đại chưa
được trang bị nhiều. Vì vậy, việc khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân
cũng phần nào bị hạn chế.
Hiện tại, sức khỏe của nhân dân chưa được đảm bảo, do mức thu nhập ở Thanh
Hóa thấp nên đời sống nhân dân có nhiều khó khăn, thiếu thốn. Số lượng calo cho người
lớn và trẻ em còn ở mức nghèo đói. Tình trạng trẻ em suy dinh dưỡng còn cao, tuy rằng tỷ
lệ trẻ em suy dinh dưỡng mấy năm gần đây đã giảm. Năm 2000 là 39,8%; năm 2002 là
37,2%; năm 2004 là 33,8% (Dân số lao động... 2001-2005. Cục thống kê Thanh Hóa). Tình
hình vệ sinh môi trường cũng chưa đảm bảo, số hộ sử dụng nước ao hồ còn nhiều, số hộ
dùng nước sạch năm 2000 là 48,0%. Năm 2004 đã tăng lên thành 78,0%, số hộ dùng hố
tiêu hợp vệ sinh năm 2000 là 21,6%, đến năm 2004 đã tăng lên thành 25,9%.
Nhìn chung, sức khỏe của người Thanh Hóa chưa được đảm bảo về dinh dưỡng,
mức thu nhập chi tiêu thấp, tình trạng này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển
thể lực, khả năng tư duy, khả năng học tập để nâng cao trình độ học vấn chuyên môn kỹ
thuật của lực lượng lao động trong nhiều năm tới.
* Trình độ nguồn nhân lực
Trình độ nguồn nhân lực không chỉ thể hiện ở trình độ học vấn, mà còn thể hiện
ở trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề thông qua số lượng và chất lượng lao động đã
qua đào tạo.
Về trình độ học vấn (Trình độ văn hóa) qua nghiên cứu thực trạng ở Thanh Hóa
cho thấy trình độ, học vấn của Thanh Hóa ngày càng được nâng lên. Thể hiện trước hết là
mặt bằng dân trí được nâng lên. Số người biết chữ của lao động Thanh Hóa khá cao so với
khu vực Bắc Trung Bộ và một số tỉnh trong nước.
Bảng 2.15: Cơ cấu lao động chia theo trình độ học vấn phổ thông
và tỉnh năm 2004
Đơn vị tính: %
Tổng số
Chưa
biết chữ
Chưa
TN tiểu
học
Đã tốt
nghiệp
tiểu học
Đã tốt
nghiệp
PTCS
Đã tốt
nghiệp
PTTH
Thanh Hóa 100.000 3,13 8,03 26,62 44,95 19,28
Cả nước 100.000 4,44 13,38 29,73 32,36 19,60
Bắc Trung Bộ 100.000 1,84 8,02 24,96 43,74 21,44
Đông Nam
Bộ
100.000 3,32 13,97 33,96 43,74 21,44
Thái Bình 100.000 0,44 4,37 18,37 61,97 14,85
Nam Định 100.000 1,09 6,00 20,40 52,18 20,33
Nghệ An 100.000 1,92 5,76 21,18 46,03 25,11
Trà Vinh 100.000 9,03 29,40 39,29 15,55 6,73
Nguồn: + Niên giám thống kê lao động - thương binh và xã hội 2004.
Bộ lao động - Thương binh và xã hội. Nhà xuất bản lao động - xã hội Hà Nội
2005.
Năm 2004 tổng số lao động Thanh Hóa là 1.870.053 người, trong số đó lao
động không biết chữ chiếm 1,13%, thấp hơn so với bình quân cả nước (cả nước 4,44%) và
vùng Bắc Trung Bộ (1,84%), vùng Đông Nam Bộ (3,32%) và một số tỉnh trong nước. Số
lao động tốt nghiệp phổ thông trung học là 19,28% đạt mức xấp xỉ so với cả nước
(19,28%). Đây là một tỷ lệ thấp so với nhu cầu đẩy mạnh công cuộc CNH, HĐH ở Thanh
Hóa. Bởi tỷ lệ lao động có trình độ phổ thông thấp thì sẽ không thuận lợi cho việc đẩy
mạnh hoạt động đào tạo nghề, cũng như giải quyết việc làm, tạo thêm việc làm cho lực
lượng lao động.
Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng của Thanh Hóa trong giai đoạn tới là phải phát
triển giáo dục để phổ cập bậc trung học cơ sở và tiến tới phổ cập bậc trung học phổ
thông cho lao động cả tỉnh. Có như vậy mới tạo điều kiện để tăng năng suất lao động
của vùng đất đầy tiềm năng này. Để nâng cao năng suất lao động, không chỉ nâng cao
trình độ học vấn phổ thông mà còn phải nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật. Lao
động có chuyên môn kỹ thuật và lao động có trình độ đào tạo từ sơ cấp, học nghề trở
lên.
Lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở Thanh Hóa tuy có tăng đáng kể cả
về số lượng và tỷ lệ chiếm trong tổng lực lượng lao động, nhưng so với cả nước thì thấp
hơn bình quân chung của cả nước. Năm 1996 tỷ lệ này của cả nước là 12,30%, thì
Thanh Hóa chỉ là 10,44%. Năm 2000, cả nước tăng lên 15,7%, thì tỉnh Thanh Hóa tăng
lên 13,04%, năm 2003 cả nước tăng lên 20,99%, thì Thanh Hóa cũng chỉ tăng lên được
13,45%. Mức tăng bình quân của cả nước ngày càng cao, còn mức tăng của Thanh Hóa
thật chậm. Năm 2000 tỷ lệ tăng lên của Thanh Hóa so với 1996 là 2,6%, nhưng đến năm
2003 tỷ lệ tăng lên so với 2000 chỉ được 0,41%, và tỷ lệ tăng lên của lao động có
chuyên môn kỹ thuật chủ yếu là ở khu vực thành thị (Xem bảng 2.16).
Bảng 2.16: Lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật
phân theo thành thị nông thôn 1996-2000-2003
Chỉ tiêu 1996 2000 2003
Tổng số lao động có trình độ chuyên
môn kỹ thuật từ sơ cấp học nghề trở lên
168.000 239.933 246.212
Trong đó công nhân kỹ thuật có bằng trở
lên
121.053 196.833 203.094
1. Thành thị 60.751 86.287 85.649
% So với tổng số 36,16 35,97 34,79
- Trong đó công nhân kỹ thuật có bằng trở
lên
45.034 73.101 72.434
% So với tổng số 37,2 37,14 36,67
2. Nông thôn 107.249 153.646 160.563
% so với tổng số 63,84 64,03 65,21
- Trong đó công nhân kỹ thuật có bằng trở
lên
76,019 123.732 130.660
% so với tổng số 62,8 62,86 63,33
Nguồn: + Thống kê lao động - việc làm ở Việt Nam 1996-2000, 2003.
+Bộ lao động thương binh xã hội. Nhà xuất bản lao động - xã hội, Hà
Nội 2001, 2004.
Số liệu bảng 2.16 cho thấy, còn nhiều bất hợp lý trong phân bổ lực lượng lao
động có trình độ chuyên môn ở tỉnh Thanh Hóa, giữa thành thị và nông thôn. Tính
chung trong toàn tỉnh, lực lượng lao động ở nông thôn chiếm 89,93% nhưng lao động
có chuyên môn kỹ thuật (CMKT) từ sơ cấp, học nghề trở lên chỉ chiếm 65,21% trong
tổng số lực lượng lao động có trình độ CMKT của cả tỉnh; (lao động có trình độ từ công
nhân kỹ thuật có bằng trở lên tỷ lệ này chỉ chiếm 63,33% - Năm 2003). Ngược lại lực
lượng lao động ở thành thị chiếm 10,07% nhưng lao động có trình độ CMKT lại chiếm
34,79% trong tổng số lực lượng lao động có trình độ CMKT của cả tỉnh. Vì vậy, Thanh
Hóa cần phải tăng nhanh về số lượng và lao động có chuyên môn kỹ thuật ở khu vực
nông thôn, nhất là lao động có trình độ từ công nhân kỹ thuật có bằng trở lên. Nếu
không thì khó có thể khai thác có hiệu quả nguồn lực của tỉnh khi chuyển sang giai đoạn
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Một thực trạng nữa diễn ra ở Thanh Hóa là sự bất cập giữa công nhân. Kỹ thuật
có tay nghề với kỹ sư, lâu nay chúng ta đào tạo kỹ sư nhiều hơn thợ bậc bao. Hiện tại
Thanh Hóa rất ít công nhân kỹ thuật bậc bao, nếu không có chính sách để điều chỉnh cơ
cấu đào tạo thì tình hình này càng thêm gay gắt.
Bảng 2.17: Lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật
chia theo trình độ
Chỉ tiêu ĐVT
Lực lượng
lao động
có chuyên
môn kỹ
thuật
Chia theo trình độ
Sơ cấp và
công nhân
kỹ thuật
Trung học
chuyên
nghiệp
Cao đẳng,
đại học và
trên đại
học
1. Lao động có CMKT
2000 Ngườ
i
239.933 89.053 106.653 44.227
2003 Ngườ
i
246.212 107.793 99.512 38.907
2. Cơ cấu lao động có
CMKT chia theo trình
độ
2000 % 100 37,12 44,45 18,43
2003 % 100 43,78 40,42 15,80
3. Tỉ lệ so với tổng lực
lượng lao động
2000 % 13,04 4,84 5,80 2,37
2003 % 13,45 5.90 5,43 2,12
4. Chỉ số phát triển
2000 %
2003 % 102,61 121.05 93,30 87,97
Nguồn số liệu tính toán: Thống kê lao động thương binh xã hội Việt Nam 2000-
2003. Nhà xuất bản lao động - xã hội, Hà Nội 2001-2004.
Qua bảng 15 cho thấy, năm 2000 tỷ lệ sơ cấp và công nhân kỹ thuật chiếm
37,12% trong tổng lực lượng lao động có CMKT; trung học chuyên nghiệp chiếm
44,45%; cao đẳng, đại học trở lên chiếm 18,43%. Năm 2003 tỷ lệ này là 43,78%.- 40,42% -
15,80%. So sánh giữa năm 2000 và năm 2003 thì sơ cấp và công nhân kỹ thuật tăng với mức
độ cao nhất so với trung học chuyên nghiệp và cao đẳng, đại học. Thời kỳ này lực lượng
lao động có trình độ sơ cấp và công nhân kỹ thuật tăng 21,04%. Còn trung học chuyên
nghiệp giảm 6,7%, cao đẳng và đại học giảm 12,03%. Lực lượng lao động có chuyên môn
kỹ thuật nói chung của Thanh Hóa trong thời kỳ 2000 - 2003 bình quân hàng năm tăng
2,61%.
Về cấu trúc đào tạo chia theo trình độ cũng chưa đáp được nhu cầu của xã hội
cũng như thị trường lao động. Tính riêng tỉnh Thanh Hóa cấu trúc đào tạo là:
1/2,41/2,01. Cứ 1 lao động có trình độ cao đẳng, đại học thì có 2,41 lao động có trình độ
có trình độ trung học chuyên nghiệp và 2,01 lao động có trình độ sơ cấp, học nghề, công
nhân kỹ thuật. Đến năm 2003 tỉ lệ này là: 1/2,6/2,8. Cả nước là: 1/0,91/2,81.
Kinh nghiệm của các nước phát triển chỉ ra rằng, cơ cấu lao động theo trình độ
chuyên môn kỹ thuật hợp lý sẽ là: Cứ một lao động trình độ cao đẳng, đại học cần có 5
lao động trình độ trung học chuyên nghiệp và 10 công nhân kỹ thuật. [30-134].
Như vậy, ở Việt Nam nói chung và Thanh Hóa nói riêng đều thiếu lao động có
trình độ trung học chuyên nghiệp cũng như công nhân kỹ thuật. Qua đây cũng thấy
được việc đào tạo lao động còn nhiều hạn chế, bất hợp lý. Đào tạo không gắn với nhu
cầu của thị trường. Đây cũng chính là nguyên nhân cơ bản làm gia tăng tỷ lệ thất
nghiệp. Đặc biệt là lực lượng lao động trẻ. Điều này đòi hỏi lĩnh vực giáo dục đào tạo,
nhất là đào tạo nghề cần có sự đổi mới và phát triển rộng khắp hơn nữa để tạo ra một cơ
cấu lao động có chuyên môn kỹ thuật hợp lý hơn. Tất nhiên là chúng ta không nhất thiết
phải có một cấu trúc đào tạo như một số nước phát triển mà cần kết hợp với tình hình
thế giới, trong nước và vùng miền, mà quan trọng là căn cứ vào thực tế phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh để có biện pháp đào tạo - sử dụng nguồn nhân lực, phục vụ tốt nhất
cho quá trình CNH, HĐH. Trong những năm qua tỉnh Thanh Hóa đã có nhiều cố gắng
và nỗ lực trong phát triển giáo dục đào tạo nhân lực, đặc biệt là lĩnh vực dạy nghề. Do
vậy, lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật của toàn tỉnh gia tăng ngày
càng nhanh về quy mô và tốc độ. Song số lượng công nhân kỹ thuật vẫn thiếu hụt so với
nhu cầu, nhất là trong lĩnh vực sản xuất chế biến nông - lâm - ngư nghiệp.
Nền kinh tế Thanh Hóa là nền kinh tế nông nghiệp, cơ cấu tổng sản phẩm nông
nghiệp trong tỉnh năm 2004 là 33,6%, nhưng số lao động trong nông nghiệp lại chiếm
77,80%. Vì vậy nói công nghiệp hóa, hiện đại hóa cơ bản và trước hết ở Thanh Hóa là
phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp. Song hiện tại lao động trong lĩnh vực
nông nghiệp có trình độ CMKT chiếm tỷ lệ thấp, lại sử dụng không hợp lý nên càng dẫn
đến sự thiếu hụt lớn về lao động có kỹ thuật trong lĩnh vực nông nghiệp.
Bảng 2.18: Cơ cấu nguồn nhân lực có trình độ cao đẳng, đại học trở lên đang làm
việc trong các ngành kinh tế quốc dân của Thanh Hóa
Nhóm ngành Tổng số % so với tổng số
nguồn nhân lực có
trình độ CMKT
cao
Tổng số chung 29.451
1. Nông - Lâm nghiệp - Thủy sản 3.126 10,61
2. Sản xuất, phân phối điện, khí đốt 151 0,51
3. Công nghiệp chế biến 1.464 4,97
4. Xây dựng 585 2.00
5. Thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ 1.300 4,41
6. Vận tải kho bãi, thông tin liên lạc 531 1,80
7. Tài chính, tín dụng 1.464 4,97
8. Hoạt động liên quan kinh doanh tài sản, dịch vụ
tư vấn
455 1,55
9. Quản lý nghiên cứu, an ninh quốc phòng, bảo
đảm xã hội bắt buộc.
5.245 17,81
10. Giáo dục và đào tạo 10.642 36,07
11.Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội 2870 9,75
12. Hoạt động văn hóa thể thao 151 0,51
13. Hoạt động Đảng, đoàn thể hiệp hội 1.334 4,35
14. Hoạt động phục vụ cá nhân, công cộng 151 0,51
Nguồn: Số liệu thống kê, lao động - việc làm ở Việt Nam năm 2003. Bộ lao
động - Thương binh xã hội và xã hội. Nhà xuất bản lao động xã hội - Hà Nội 2004
Qua bảng 16 cho thấy, ngành nghề đào tạo của đội ngũ có trình độ, từ cao đẳng,
đại học trở lên của tỉnh Thanh Hóa rất đa dạng từ lĩnh vực khoa học cơ bản, khoa học xã
hội nhân văn, pháp luật, kỹ thuật, kinh tế giáo dục, y tế, dịch vụ... Tuy nhiên có sự
chênh lệch nhau rất lớn về cơ cấu chia theo nhóm ngành đào tạo. Số người có trình độ
cao đẳng, đại học trở lên chủ yếu tập trung ở nhóm ngành khoa học giáo dục (36,07%),
tiếp đến là nhóm ngành quản lý nghiên cứu, an ninh quốc phòng (17,80%), nhóm ngành
nông, lâm, thủy sản (10,61) nhóm ngành y tế(9,69%)... Còn các lĩnh vực trọng điểm như
nông nghiệp, công nghiệp, thương mại, dịch vụ còn đang rất thiếu cả về số lượng và
chất lượng, đặc biệt là ở lĩnh vực nông nghiệp (bởi tách riêng khỏi nhóm ngành nông,
lâm, thủy sản thì ngành nông nghiệp cũng rất ít cán bộ có trình độ CMKT từ cao đẳng trở
lên), công nghiệp chế biến và vật liệu xây dựng.
Thực trạng này đòi hỏi tỉnh Thanh Hóa phải có giải pháp để phân bổ nguồn
nhân lực có trình độ chuyên môn tương ứng giữa các ngành, nghề và với yêu cầu của sự
phát triển kinh tế - xã hội.
Hiện nay, nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao
(những người có trình độ từ cao đẳng trở lên) của Thanh Hóa, đại bộ phận là ở trình độ
cao đẳng và đại học (90,13%) và gồm 2/3 trong số này đang ở tuổi đời trên 40, số có
trình độ trên đại học chiếm tỷ lệ rất ít, đặc biệt là tiến sĩ. Cứ 1000 người có trình độ cao
đẳng và đại học thì có một tiến sĩ và những người này
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thanh Hóa.pdf