Tài liệu Luận văn Một số ý kiến về phát triển nguồn nhân lực trong huyện Lập Thạch: LUẬN VĂN:
Một số ý kiến về phát triển nguồn
nhân lực trong huyện Lập Thạch
Lời nói đầu
Từ sau chiến tranh trở lại đây nền kinh tế của Việt Nam đã được khôi phục và đang
từng bước trên con đường phát triển. Việt Nam là một nước đi sau, được kế thừa các thành
tựu khoa học, các kinh nghiệm một cách có chọn lọc, đây là một điều kiện thuận lợi để có
thể phát triển tiến xa hơn với các cường quốc năm Châu.
Phát triển nền kinh tế đất nước trong hệ thống nền kinh tế toàn cầu là vấn đề bức
xúc được đặt ra đối với mọi cấp, mọi ngành, mọi đơn vị. Đây là vấn đề rất phức tạp được
đặt ra và luôn phải giải quyết một cách hợp lý nhất. Một tất yếu khách quan đặt ra là,
muốn có một nền kinh tế phát triển thì phải hoàn thiện, khai thác triệt để nhiều yếu tố trong
hệ thống kinh tế. Các yếu tố này có liên quan đến nhau một cách chặt chẽ và mang tính hai
chiều. Điển hình như yếu tố về nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế. Đây là một yếu tố
quan trọng nó đóng vai trò như là một...
61 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1191 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Một số ý kiến về phát triển nguồn nhân lực trong huyện Lập Thạch, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Một số ý kiến về phát triển nguồn
nhân lực trong huyện Lập Thạch
Lời nói đầu
Từ sau chiến tranh trở lại đây nền kinh tế của Việt Nam đã được khôi phục và đang
từng bước trên con đường phát triển. Việt Nam là một nước đi sau, được kế thừa các thành
tựu khoa học, các kinh nghiệm một cách có chọn lọc, đây là một điều kiện thuận lợi để có
thể phát triển tiến xa hơn với các cường quốc năm Châu.
Phát triển nền kinh tế đất nước trong hệ thống nền kinh tế toàn cầu là vấn đề bức
xúc được đặt ra đối với mọi cấp, mọi ngành, mọi đơn vị. Đây là vấn đề rất phức tạp được
đặt ra và luôn phải giải quyết một cách hợp lý nhất. Một tất yếu khách quan đặt ra là,
muốn có một nền kinh tế phát triển thì phải hoàn thiện, khai thác triệt để nhiều yếu tố trong
hệ thống kinh tế. Các yếu tố này có liên quan đến nhau một cách chặt chẽ và mang tính hai
chiều. Điển hình như yếu tố về nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế. Đây là một yếu tố
quan trọng nó đóng vai trò như là một xuất phát điểm để giải quyết các vấn đề khác. Phát
triển nguồn nhân lực có thể nói là vấn đề quyết định trong công việc phát triển nền kinh tế
đất nước, đưa đất nước quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội. Do đó việc nâng cao hiệu quả công
tác phát triển nguồn nhân lực là một yêu cầu đặt ra đối với các cấp, các ngành, các đơn vị.
Đề tài: “Một số ý kiến về phát triển nguồn nhân lực trong huyện Lập Thạch”
nhằm mục đích đánh giá phần nào hiệu quả công tác phát triển nguồn nhân lực và một số
biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác phát triển nguồn nhân lực huyện Lập Thạch.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là lấy cơ sở thực tiễn, các hoạt động của công tác
phát triển nguồn nhân lực huyện Lập Thạch, với các hiệu quả đạt được và các bất cập xung
quanh một số vấn đề liên quan đến công tác này.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài đã được nghiên cứu bằng một số phương pháp cơ
bản như: phương pháp phân tích đa dạng, phương pháp thống kê, tổng hợp, kết hợp với số
liệu khảo sát và thống kê báo cáo thông qua thực tế của các giai đoạn để từ đó đưa ra các
hình thức so sánh và các ý kiến về công tác phát triển nguồn nhân lực huyện.
Nội dung của đề tài bao gồm 4 phần:
Phần I:
Lý luận chung về vấn đề phát triển nguồn nhân lực.
Phần II:
Thực trạng về vấn đề phát triển nguồn nhân lực trong huyện Lập Thạch.
Phần III:
Các giải pháp cho vấn đề phát triển nguồn nhân lực trong huyệnLập Thạch.
Phần IV:
Kết luận.
Phần I
Lý luận chung về vấn đề phát triển nguồn nhân lực
I. Một số vấn đề về phát triển nguồn nhân lực
1. Đặc điểm, vị trí của phát triển nguồn nhân lực
Việt Nam đang bước vào thời kỳ của sự phát triển, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá hiện đại hoá đất nước, từng bước hội nhập với cộng đồng quốc tế chuẩn bị hành trang
bước sang thế kỷ 21. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhằm phát triển và sử dụng có hiệu
quả năng lực của nguồn nhân lực, tạo thêm công ăn việc làm, đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng kinh tế trên cơ sở phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ, bảo đảm an ninh,
chính trị, lãnh thổ ổn định và phát triển đất nước, cải thiện hơn nữa đời sống nhân dân, đòi
hỏi dặt ra những yêu cầu về số lượng, cơ cấu và chất lượng cao của nguồn nhân lực trong
từng thời kỳ phát triển tương ứng.
Nguồn nhân lực có chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định tăng
trưởng kinh tế. Kinh nghiệm này chỉ thấy rõ ở mô hình tăng trưởng kinh tế của một số
nước như: Nhật, Singapo và các nước khác trong khu vực..., đồng thời cũng được chứng
minh từ thực tế Việt Nam qua hơn 10 năm đổi mới.
Khi nghiên cứu lý thuyết mới về sự phát triển, một trong những vấn đề cơ bản nhất
trong cấu trúc của nó là phát triển nguồn nhân lực, ở đó đặc biệt lưu ý đến nguồn nhân lực
trẻ, coi phát triển nguồn nhân lực là mục tiêu cuối cùng, là đỉnh cao nhất của quá trình phát
triển mỗi quốc gia.
Thực chất phát triển nguồn nhân lực là phát triển yếu tố con người lại là trung tâm
của sự phát triển. Xét đến cùng chiến lược phát triển nguồn nhân lực phải đươch đặt trong
chiến lược phát triển kinh tế xã hội nói chung, hơn nữa phải được đặt ở vị trí trung tâm, là
chiến lược của mọi chiến lược phát triển kinh tế xã hội đất nước. “Không còn là vấn đề
chúng ta muốn hay chúng ta nên phát triển tài nguyên nhân sự... phát triển tài nguyên nhân
sự là vấn đề sống còn của xã hội chúng ta”. Triết lý này của Jame L.Hages, cho chúng ta
thấy được phần nào tính cấp thiết của công tác phát triển tài nguyên nhân sự. Nền kinh tế
của chúng ta đang trải qua những thay đổi to lớn thông qua các tiến bộ về công nghệ đang
làm biến đổi cơ cấu kinh tế. Phát triển nguồn nhân lực đối với các cấp, các ngành trở nên
ngày càng quan trọng đối với người lao động, nhằm từng bước phát triển và nâng cao
chuyên môn nghiệp vụ của người lao động một cách có hệ thống thông qua quá trình làm
việc, trên cơ sở đó đánh giá khả năng của họ một cách toàn diện trong từng giai đoạn. Xuất
phát từ lợi ích và yêu cầu đó, đòi hỏi mỗi người lao động phải có trình độ đáp ứng yêu cầu
công việc. Và để có được một đội ngũ nguồn nhân lực giỏi có trình độ năng lực, phục vụ
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, của một tổ chức, một đơn vị thì hoạt
động phát triển cần phải dựa trên một số nguyên tắc như:
Một là: Con người luôn có năng lực phát triển, mọi người đều có khả năng phát
triển và sẽ thường xuyên phát triển để giữ vững sự ổn định và phát triển của tập thể cũng
như cá nhân họ.
Hai là: Mỗi cá nhân đều có chân giá trị riêng, và nhân cách riêng khác nhau và đều
có khả năng đóng góp sáng kiến.
Ba là: Lợi ích của con người và tập thể kết hợp với nahu. Hơn nữa phát triển nguồn
nhân lực là một hoạt động đầu tư sinh lợi đáng kể, vì phát triển nguồn nhân lực là những
phương tiện để đạt được sự phát triển của tổ chức. Còn về phía người lao động thì họ được
sự ổn định và phát triển, có cơ hội tiến bộ, thăng chức, có những vị trí làm việc thuận lợi
mà ở đó người lao động có thể đóng góp cống hiến được nhiều nhất, được cung cấp nhưng
thông tin về đào tạo có liên quan đến họ.
Trên đây là những nguyên tắc cơ bản trong công tác phát triển nguồn nhân lực mà
chúng ta cần quan tâm đến khi giải quyết vấn đề này. Để có thể nghiên cứu vấn đề này một
cách triệt để có cơ sở và có hướng đi đúng đắn chúng ta đi vào làm rõ một số các khái
niệm có liên quan.
Phát triển (Development): bao gồm các hoạt động nhằm chuẩn bị cho người lao
động theo kịp với cơ cấu tổ chức khi nó thay đổi và phát triển. Các khoá học tại đại học
cung cấp cho các nhà quản trị những kiến thức mới là một loại điển hình của sự phát triển.
Nguồn nhân lực (Human resouce): là nguồn lực về con người và được nghiên cứu
dưới nhiều khía cạnh. Trước hết với tư cách là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội,
bao gồm toàn bộ dân cư có cơ thể phát triển bình thường (không bị khiếm khuyết, dị tật
bẩm sinh).
Nguồn nhân lực với tư cách là một yếu tố của sự phát triển kinh tế xã hội được hiểu
theo nghĩa hẹp hơn bao gồm nhóm dân cư trong đoọ tuổi lao động có khả năng lao động.
Với cách hiểu này nguồn nhân lực tương đương với nguồn lao động.
Nguồn nhân lực còn có thể hiểu là tổng hợp cá nhân những người cụ thể tham gia
vào quá trình lao động. Với tư cách hiểu này nguồn nhân lực bao gồm: những người từ
giới hạn dưới tuổi lao động trở nên (ở nước ta là tròn 15 tuổi).
Các cách hiểu trên chỉ khác nhau về quy mô nhân lực, song đều nhất trí với nhau đó
là nguồn nhân lực nói nên khả năng lao động của xã hội.
Nguồn nhân lực được xem xét trên góc độ số lượng và chất lượng. Số lượng nguồn
nhân lực được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu như quy mô và tốc độ phát triển nguồn
nhân lực.
Về chất lượng: nguồn nhân lực được xem xét trên các mặt: sức khoẻ, trình độ văn hoá,
trình độ chuyên môn, năng lực, phẩm chất. Cũng như các nguồn nhân lực khác, số lượng
và đặc biệt là chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo ra
của cải vật chất và tinh thần cho xã hội.
Sau khi đã nghiên cứu, xác định rõ từng thành tố, chức năng của vấn đề phát triển nguồn
nhân lực chúng ta sẽ nghiên cứu sang để làm rõ đối tượng và nội dung của vấn đề này.
2. Đối tượng, nội dung phát triển nguồn nhân lực
Phát triển nguồn nhân lực là một nhu cầu không thể thiếu được đối với bất kỳ giai
đoạn nào trong một chiến lược phát triển kinh tế, nó thể hiện cho một sự phát triển tương
lai.
Mỗi cơ sở, mỗi bộ phận trong một bộ máy tổ chức là một mắt xích của một dây
truyền, đóng vai trò thúc đẩy sự phát triển cho cả bộ máy. Một tổ chức chỉ có thể phát triển
được một cách có hiệu quả khi mà tất cả các mắt xích trong bộ máy đều được hoạt động có
hiệu quả. Để thúc đẩy sự phát triển này thì việc phát triển nguồnlực con người là có vị trí
quan trọng nhất. Tuy nhiên, đối tượng của chương trình này không phải đâu xa lạ, ta có thể
chia đối tượng theo các tiêu thức khác nhau, như tầng lớp người lao động và tầng lớp
người quản lý.
a, Người lao động
Đội ngũ này bao gồm những người lao động là những công nhân kỹ thuật và nhân
viên nghiệp vụ họ trực tiếp thực hiện công việc trong quá trình sản xuất, cần có những kỹ
năng trong công việc nhất định, cần phải được nâng cao kiến thức nghề nghiệp trong lao
động để thực hiện một cách có hiệu quả hơn trong công việc, nâng cao năng suất lao động
để thực hiện một cách có hiệu quả hơn trong công việc, nâng cao năng suất lao động, nâng
cao chất lượng sản phẩm.
Nội dung bồi dưỡng và phát triển nghề nghiệp cho người lao động cần phải luôn luôn chú
trọng, xem xét và đánh giá thường xuyên, liên tục để có định hướng đáp ứng yêu cầu thay
đổi của công nghệ mới, người được bồi dưỡng phải tập trung tiếp thu các kiến thức khoa
học nhằm làm cơ sở tốt hơn cho việc rèn luyện những kỹ năng nghề nghiệp với mức độ
của công nghệ mới đòi hỏi. Với hướng kỹ năng, họ giành được nhiều thời gian làm các
công việc thực tế để đạt được sự lành nghề hơn nữa trng kỹ năng nghề theo như công nghệ
mới đặt ra. Hàng năm nước ta cần khoảng 1,2-1,5 triệu chỗ làm việc mới. Trong đó có
khoảng 1,5-1,7 người bước vào độ tuổi lao động, có khoảng 70% lao động chưa được đào
tạo, khoảng 40% công nhân kỹ thuật được qua trường lớp.
Đây là những con số cụ thể căn cứ vào số liệu thực tế này để nhà nước nói chung và các tổ
chức, đơn vị nói riêng nhìn thấy được những bất cập trong công tác đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực, để có những nội dung bồi dưỡng và phát triển cho phù hợp.
b, Đối với cấp quản trị và các chuyên viên.
Dù chúng ta có lý luận gì đi chăng nữa, tương lai của một tổ chức, một đơn vị hay
nói rộng hơn là của một đất nước chủ yếu nằm trong tay cấp quản trị.
Kinh nghiệm ở Việt Nam và trên thế giới cho thấy rằng vai trò của cấp quản trị là
rất quan trọng, và là nhân tố quyết định sự thành bại, sự phát triển hay suy vong của một tổ
chức. Chúng ta đã từng chứng kiến được những thực tế nhiều ngành địa phương vẫn những
người lao động đó, vẫn những cơ chế đó của nhà nước qui định đó nhưng với một ban lãnh
đạo có trình độ có khả năng nhạy bén, năng động sẽ tạo nên được những bước ngoặt đáng
kể trong sự phát triển của một tập thể, làm cho tổ chức, đơn vị mình sẽ khởi sắc hơn và
phát triển nhanh hơn. Tuy nhiên chúng ta cũng không thể phủ nhận vai trò của người lao
động trực tiếp.
Đội ngũ quản trị bao gồm những người trực tiếp điều hành lãnh đạo, quản lý tổ chức hay
đơn vị. Họ đảm nhận những chức năng đặt ra nhưng chính sách phương hướng phát triển
cho toàn đơn vị mình đảm nhận một số chức năng khác như cố vấn kỹ thuật, cố vấn kinh
tế, nghiên cứu thiết kế hoặc điều hành quá trình công nghệ. Đội ngũ này đòi hỏi phải có
trình độ có khả năng nhạy bén và năng động.
Mục tiêu và nội dung bồi dưỡng cho đối tượng này phụ thuộc vào yêu cầu cụ thể
của từng lĩnh vực chuyên môn hay từng quá trình lao động vào nguyện vọng cá nhân hoặc
đòi hỏi của đơn vị.
Nói chung nội dung chương trình bồi dưỡng phát triển thiết kế cụ thể cho từng
khoá, từng chuyên đề thường được chia theo từng công đoạn dựa trên nguyên tắc nội dung
hoá, đảm bảo khả năng phát triển của họ theo các hướng ngang và dọc. Nghĩa là mở rộng
phạm vi và nâng cao trình độ chuyên môn tuỳ thuộc vào từng nhiệm vụ cụ thể của thực tế
đơn vị đặt ra.
3. Vai trò, mục đích của phát triển nguồn nhân lực
Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, đất nước ta bước sang thời kỳ đổi mới, nền kinh tế
được chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản
lý vĩ mô của nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường, sức lao động được nhìn nhận theo
một quan điểm mới. Nó được coi là một loại hàng hoá đặc biệt, hơn thế nữa lao động còn
được coi là một trong những yếu tố đầu vào của một quá trình sản xuất. Bởi vì trong cơ
chế thị trường, các doanh nghiệp phải tự hoạch toán kinh doanh nên họ phải tìm cách tối
thiểu hoá các chi phí, hiệu quả các yếu tố đó để mong đạt được lợi nhuận lớn nhất từ các
khoản chi phí. Với cách nhìn nhận mới như vậy, một yêu cầu đặt ra với các nhà quản trị là
phải bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ lao động như thế nào? Để trả lời cho câu hỏi đó thì các
nhà quản trị phải có kế hoạch cụ thể, xây dựng một qui trình đào tạo và phát triển rõ ràng,
có sự phân công kiểm tra chặt chẽ. Và quan trọng hơn nhất là chất lượng lao động phải
đảm bảo đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của công việc.
Trước kia trong cơ chế cũ, người ta không mấy chú trọng đến chất lượng lao động,
việc nhận người vào làm là do quan hệ thân thuộc, quen biết và dựa vào chỉ tiêu phân bổ
của nhà nước dẫn đến hình thành đội ngũ cán bộ công nhân viên làm việc không hiệu quả,
bị động. Mặt khác công tác bồi dưỡng và phát triển cán bộ công nhân viên không mấy khi
được tiến hành. Nhưng ngày nay, trước sự đòi hỏi bức xúc của cơ chế thị trường cũng như
mục tiêu kinh tế thì công tác bồi dưỡng và phát triển cán bộ công nhân viên là một việc
lamf cấp bách không thể thiếu được đối với bất kỳ một đơn vị nào.
Bên cạnh đó một xã hội tồn tại được hay không là do đáp ứng được sự thay đổi. Một đơn
vị tiến hay lùi là do cấp quản trị có thấy được sự thay đổi để kịp thời bồi dưỡng và phát
triển nguồn nhân lực của mình. Trong thời đại mà khoa học công nghệ tiến bộ nhanh như
vũ bão, một doanh nghiệp muốn thành đạt, một đất nước muốn tăng trưởng phát triển
nhanh... đều cần điều kiện kiên quyết: phải tạo được cho mình một nnm có trình độ tay
nghề và trình độ chuyên môn tương xứng. Có vậy mới đáp ứng được yêu cầu về kỹ thuật
công nghệ ngày càng hiện đại và phát triển.
Cùng với sự phát triển cơ chế thị trường thì việc mở rộng sự hợp tác về kinh tế ngày
càng phát triển, hàng hoá được giao lưu một cách rộng rãi. Điều này rất thuận tiện cho việc
xuất khẩu hàng hoá cũng như thu hút sự đầu tư của nước ngoài. Song để làm được điều
này thì đòi hỏi phải có được nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao cũng
như trình độ quản lý giỏi.
Trong các yếu tố để phát triển nhanh và bền vững của doanh nghiệp của nền kinh tế
thì nguồn nhân lực con người là yếu tố cơ bản nhất. Bởi lẽ khi đã có trình độ văn hoá, kỹ
thuật nghiệp vụ cao có tay nghề vững sẽ là yếu tố quyết định để tạo ra phương pháp công
nghiệp và công nghệ hiện đại. Nguồn nhân lực này vừa là người sáng tạo vừa là người sử
dụng một cách đầy đủ, có hiệu quả, cần phải đầu tư để đào tạo và bồi dưỡng lại đội ngũ
cán bộ công nhân viên kỹ thuật chuẩn bị hế hoạch để phát triển đào tạo mới có chất lượng
cao nhằm đáp ứng kịp thời sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật cũng như việc chuyển đổi cơ
chế thị trường...
Trong công tác phát triển nguồn nhân lực thì đào tạo là bước đầu là tiền đề là
phương tiện cho công tác phát triển. Vì vậy việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là
cấn thiết cấp bách đối với mọi tổ chức đơn vị. Phát triển nguồn nhân lực là vấn đề hết sức
phức tạp bởi vì nó bao gồm rất nhiều các hoạt động khác nhau. Để hiểu được vai trò của
phát triển ta phải đi vào tìm hiểu các hoạt động đó. Mục đích của chương trình đào tạo và
phát triển chính bao gồm:
Thứ nhất là: Định hướng cho người được đào tạo. Mục đích của loại hình đào tạo
này là cung cấp và chỉ dẫn về những kiến thức mới. Nó bao gồm phổ biến cho những
người lao động mới về chương trình phúc lợi của một đơn vị và giải thích cho họ về cơ cấu
tổ chức.
Thứ hai là: Phát triển kỹ năng có nhiều công việc đòi hỏi những kỹ năng mới.
Những người lao động mới cần đạt được những kỹ năng mới khi công nghệ thay đổi, công
việc phức tạp hơn.
Thứ ba là: đào tạo trong điều kiện an toàn loại hình đào tạo được thiết kế một cách
an toàn nhất tránh tai nạn lao động xảy ra và tuân thủ theo nội quy đề ra. Người lao động
sẽ không được phép thực hiện bất cứ một công việc gì cho đến khi họ biết cách thực hiện
công việc một cách đảm bảo an toàn.
Thứ tư là: giáo dục về chuyên môn kỹ thuật. Mục đích của loại đào tạo này là tránh
sự lỗi thời trong chuyên môn nghề nghiệp. Bởi vì cùng với sự tiến bộ khoa học kỹ thuật,
những người lao động có chuyên môn kỹ thuật cần phải được đào tạo theo từng thời kỳ.
Việc đào tạo này bao gồm việc trang bị các kiến thức mới được đưa vào ứng dụng gần đây
nhất.
Thứ năm là: giáo dục và đào tạo dưới sự giám sát: Việc đào tạo dưới sự giám sát và
quản lý cần thiết cho việc ra quyết định quản lý và làm việc với mọi người. Bởi vì có rất
nhiều loại hình đào tạo, các chuyên gia trong lĩnh vực đào tạo cần phải xác định một cách
cẩn thận nhu cầu đào tạo trong đơn vị.
Với một vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động tổ chức lao động, quản trị nguồn nhân
lực, việc phát triển nguồn nhân lực giúp cho công việc cải tiến kỹ năng trình độ của người
lao động, tăng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Quá trình đào tạo và phát triển
thành công sẽ đem lại những lợi ích như:
- Cải tiến về năng suất chất lượng hiệu quả công việc.
- Giảm thời gian thực tập cho người lao động để đạt được tiêu chuẩn công việc.
- Tạo thái độ tán thành và hiệp tác trong lao động.
- Đạt được yêu cầu trong công tác kế hoạch hoá nguồn nhân lực.
- Giảm bớt tai nạn trong lao động vì nhiều tai nạn xảy ra là do những hạn chế của con
người hơn là do những hạn chế của trang thiết bị hay điều kiện làm việc.
- Sự ổn định và năng động của tổ chức tăng lên, chúng đảm bảo giữ vững hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp ngay cả khi thiếu những người chủ chốt do có nguồn đào tạo dự trữ
thay kế.
II. Công tác phát triển nguồn nhân lực
1. Tiến trình xây dựng một chương trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của ĐCSVN đã đề ra một quyết
định lịch sử “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá để từ đây đến năm 2000 ra sức phấn
đấu đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp”.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá để tăng năng suất lao động đòi hỏi phát
triển ở trình độ cao khoa học và công nghệ cùng các yếu tố khác có liên quan. Trong các
yếu tố đó, vai trò của khoa học, kỹ thuật công nghệ đối với tăng năng suất lao động rất to
lớn. Các thành tựu của khoa học kỹ thuật công nghệ đem ứng dụng vào sản xuất đã đưa lại
sự sáng tạo và hoàn chỉnh các công cụ sản xuất, các đối tượng lao động và các phương
pháp sản xuất mới. Tất cả những thay đổi có tính chất cách mạng đó đã làm tăng năng suất
lao động lên gấp bội. Ngược lại, khi năng suất lao động tăng nhanh chóng lại tạo điều kiện
cho khoa học, kỹ thuật công nghệ phát triển mạnh mẽ.
Giờ đây, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, đúng như luận điểm nổi
tiếng của C.Mac: “Thiên nhiên không tạo ra máy móc, đầu máy xe lửa, điện báo. Tất cả
những thứ đó là thành quả của bộ óc con người, được bàn tay con người tạo ra, là sức
mạnh tri thức đã được vật hoá. Sự phát triển của vốn cố định là chỉ tiêu cho thấy rằng, tri
thức xã hội chung đã biến thành lực lượng sản xuất trực tiếp với mức độ phụ thuộc và biến
đổi chính những điều kiện của hoạt động xã hội với trí tuệ chung...”. đến nay đất nước ta
đã có một đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ, bao gồm hơn 9000 tiến sỹ, hơn 900000
đại học và cao đẳng, 1400000 trung cấp kỹ thuật và 2500000 công nhân kỹ thuật. Số lượng
này so với trước đây đã tăng đáng kể. Song vẫn cong thấp so với nhu cầu. Bởi vậy, việc
đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn cho các loại lao động là một nhiẹm vụ thường
xuyên nằm trong quá trình tái sản xuất sức lao động về mặt chất lượng. Điều đó có liên
quan đến đòi hỏi của tiến bộ kỹ thuật, của năng suất lao động, của chất lượng sản phẩm để
có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Đồng thời còn liên quan đến sự phát triển của con
người.
Việc xác định qui mô, cơ cấu nguồn nhân lực được thực hiện thông qua tổng điều
tra dân số hoặc điều tra thực trạng lao động việc làm hàng năm. Phương pháp xác định
cũng được qui định cụ thể và áp dụng cho từng thời kỳ. Ví dụ những qui định điều tra thực
trạng lao động và việc làm được áp dụng từ 1996 do Bộ lao động thương binh xã hội tiến
hành:
a,Dân số hoạt động kinh tế:
Dân số hoạt động kinh tế còn gọi là lực lượng lao động, bao gồm những người đủ
15 tuổi trở nên đang có việc làm hoặc không có việc làm nhưng có nhu cầu tìm việc làm.
Trong loại dân số này, dân số hoạt động kinh tế trong tuổi lao động chiếm vị trí quan trọng
nhất, bao gồm những người từ đủ 15 tuổi đến 55 tuổi (nữ) và 60 (nam) đang có việc làm
hoặc không có việc làm.
b, Dân số không hoạt động kinh tế:
Dân số không hoạt động kinh tế bao gồm toàn bộ số người đủ 15 tuổi trở lên không
thuộc bộ phận có việc làm và không có việc làm. Những người này không hoạt động kinh
tế vì các lý do như: đang đi học, đang làm công việc nội trợ, già cả mất sức, mất khả năng
lao động...
c, Người thất nghiệp:
Là người đủ 15 tuổi trở nên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế trong thời điểm
điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc.
d, Tỷ lệ người có việc làm:
Là tỷ lệ % của số người có việc làm so với dân số hoạt động kinh tế
Tvl =
Dvl
Nvl
trong đó Tvl: % người có việc làm,
Nvl: số người có việc làm,
Dkt: dân số hoạt động kinh tế.
e, Người thất nghiệp:
Là tỷ lệ % người thất nghiệp so với dân số hoạt động kinh tế.
Ttn =
Dkt
Ntn
trong đó Ttn: tỷ lệ thất nghiệp
Ntn: số người thất nghiệp.
f, Tỷ lệ người thiếu việc làm
Là % số người thiếu việc làm so với dân số hoạt động kinh tế.
Ttvl =
Dkt
Ntvl
trong đó Ttvl: tỷ lệ thiếu việc làm
Ntvl: số người thiếu việc làm.
g, Tỷ lệ người có việc làm đầy đủ:
Là tỷ lệ % số người có việc làm đầy đủ so với dân số hoạt động kinh tế.
Tđvl (%) =
Dkt
Ndvl
trong đó Tđvl: tỷ lệ đủ việc làm
Ndvl: số người đủ việc làm.
h, Tỷ lệ thời gian lao động được huy động:
Là tỷ lệ % của tổng thời gian làm việc thực tế so với quỹ thời gian có nhu cầu làm
việc (bao gồm thời gian làm việc thực tế và thời gian có nhu cầu làm thêm) của dân số
hoạt động kinh tế.
Ttg =
Tq
Ttt
Trong đó Ttg: tỷ lệ thời gian huy động,
Ttt : thời gian làm việc thực tế,
Tq: qũy thời gian làm việc.
Việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là một công tác phức tạp, đòi hỏi phải
được thiết lập và dựa trên các tình hình cụ thể của từng tổ chức, từng doanh nghiệp để xây
dựng được một tiến trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đạt hiệu quả cao nhất.
Xây dựng một tiến trình để đào tạo và phát triển bao gồm nhiều nội dung như:
- Xây dựng chương trình và lựa chọn phương pháp đào tạo.
- Đánh giá kết quả đào tạo ...
Dự tính các nhu cầu về đào tạo: Đó là công việc xây dựng các kế hoạch về đào tạo, dự tính
về nhu cầu nhân lực, dự tính các chi phí, dự tính các nguồn tài chính...
Nhu cầu về công nhân có thể được xác định bằng công thức sau:
Nhu cầu công nhân =
Iw
IkSo Im**
So : số công nhân thực tế của nghề nào đó trong doanh nghiệp của kỳ báo cáo,
Im: chỉ số về chất lượng máy móc thiết bị,
Ik: chỉ số về hệ số ca làm việc bình quân của thiết bị ở kỳ kế hoạch,
Iw: chỉ số về năng suất lao động.
- Xác định nhu cầu về nhân viên kỹ thuật:
Kti =
HiQi
Ti
*
Kti: Nhu cầu nhân viên kỹ thuật thuộc nghề hoặc chuyên môn i,
Ti: Tổng chi phí thời gian lao động kỹ thuật thuộc nghề hoặc chuyên môn i cần thiết
cho sản xuất,
Qi: Quỹ thời gian hoạt động thuộc nghề hoặc chuyên môn i,
Hi: khả năng hoàn thành vượt mức kế hoạch của kỳ kế hoạch của nhân viên kỹ
thuật thuộc nghề hoặc chuyên môn i.
Bên cạnh việc xác định các nhu cầu về lao động trong tổ chức thì chúng ta còn phải
lựa chọn các hình thức, đối tượng, thời gian và tốc độ đào tạo.
Sau khi đã xây dựng được các nhu cầu và đã thực hiện đào tạo và phát triển ta phải làm
công tác điều tra và đánh giá kết quả đào tạo bằng nhiều hình thức và nhiều phương pháp
khác nhau sao cho có hiệu quả nhất.
Có thể xây dựng một mô hình về tiến trình đào tạo như sau:
Nguồn: Quản trị nhân lực.
Tác giả: Nguyễn Hữu Thân – NXB Tiến Giang, năm 1996.
Trước hết cần xác định rõ nhu cầu đào tạo và phát triển, ấn định các mục tiêu cụ
thể, lựa chọn các phương pháp và phương tiện thích hợp, thực hiện chương trình đào tạo
và phát triển và sau cùng là đánh giá chương trình đào tạo và phát triển.
Bước đầu tiên trong chương trình đào tạo và phát triển. Thật vậy các chi phí bỏ ra
để bồi dưỡng và phát triển tương đối lớn do đó cần tiến hành một cách hợp lý, đúng mức
với nhu cầu đào tạo trong đơn vị. Nếu bồi dưỡng và phát triển không hợp lý, không đảm
bảo chất lượng sẽ gây nên lãng phí và tác động tiêu cực đối với người lao động.
Môi trường bên ngoài
Môi trường bên trong
Định rõ nhu cầu đào tạo và
phát triển
ấn định các mục tiêu cụ thể
Lựa chọn các phương pháp thích
hợp
Lựa chọn các phương tiện thích
hợp
Thực hiện chương trình đào tạo
và phát triển
Đánh giá chương trình đào tạo
và phát triển
- Nhu cầu cá nhân: Con người với tư cách là một sinh vật cao cấp có ý thức, tồn tại và phát
triển của nó đòi hỏi phải có những điều kiện nhất định. Chính những điều trên là những
yêu cầu cấp thiết để con người có thể tồn tại và phát triển được. Ngoài những nhu cầu thiết
yếu như ăn, mặc, ở... con người tồn tại và phát triển về mặt trí lực. Chính vì thế mỗi cá
nhân đều mong muốn mình có được năng lực và địa vị cao, được xã hội và cộng đồng tôn
trọng từ đó nhu cầu về đào tạo và phát triển tự hoàn thiện hơn nữa là nhu cầu thiết yếu.
- Đối với đơn vị: Xu hướng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của một đơn vị thường
dựa trên ba lý do chủ yếu sau:
+ Lý do thứ 1: Để chuẩn bị bù đắp vào những chỗ bị thiếu bị bỏ trống. ngân sáchự bù đắp
và bổ sung này diễn ra thường xuyên nhằm làm cho doanh nghiệp hoạt động trôi chảy.
+ Lý do thứ 2: Để chuẩn bị cho những người lao động thực hiện được trách nhiệm và
nhiệm vụ mới do có sự thay đổi trong mục tiêu, cơ cấu, những thay đổi về luật pháp, chính
sách và kỹ thuật công nghệ mới tạo ra.
+ Lý do thứ 3: Để hoàn thiện khả năng của người lao động (thực hiện những nhiệm vụ
hiện tại cũng như trong tương lai một cách hiệu quả hơn).
Khi tiến hành đào tạo phải nắm được nhu cầu đào tạo, xác định được mục tiêu và
xây dựng chương trình đào tạo thực tế trên cơ sở nhu cầu sử dụng lao động. Cần phải
nghiên cứu đánh giá những kết quả đào tạo và có được thông tin phản hồi kiểm tra lại
chương trình đào tạo (theo sơ đồ dưới đây).
Tiến trình thay đổi trong tổ chức
Nguồn: “Phát huy nguồn nhân lực yếu tố con người trong sản xuất kinh doanh”.
Tác giả: Đặng Vũ Chủ – Nguyễn Văn Quế.
Việc phân tích nhu cầu đào tạo một cách hiệu quả sẽ chỉ ra mục tiêu đào tạo góp
phần vào chất lượng của việc phát triển hoạt động đào tạo và thuận tiện cho việc đánh giá
quá trình đào tạo. Xét cho cùng việc đánh giá mục tiêu đào tạo là đạt được hiệu quả kinh
Nắm được
nhu cầu
đào tạo
Xây dựng
chương
trình đào
Lập kế
hoạch
đào
Thực
hiện
việc đào
Đánh giá
kết quả
đào tạo
Thông tin phản
hồi
doanh của một đơn vị. Vì vậy đào tạo và phát triển nguồn nhân lực liên quan chặt chẽ đến
quá trình phát triển của doanh nghiệp, của đơn vị. Mục tiêu đặt ra của các đơn vị là:
- Nâng cao thành tích đơn vị thông qua những chỉ tiêu đánh giá về mặt kinh tế thu được và
số lượng, chất lượng của người lao động có thể đáp ứng để thực hiện công việc.
- Tăng sự thích nghi của đơn vị mình đối với môi trường bên ngoài, và thích nghi của mỗi
cá nhân của đơn vị đối với môi trường bên trong.
Trên cơ sở những mục tiêu đề ra của doanh nghiệp, chúng ta tiến hành xây dựng
chương trình đào tạo và phát triển. Việc xây dựng chương trình đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực chỉ là một trong những bước đầu tiên, nhưng đồng thời nó cũng bước tương đối
quan trọng trong quá trình đào tạo và phát triển.
Việc xây dựng một chương trình đào tạo và phát triển hợp lý phù hợp với nhu cầu,
mục tiêu đào tạo và có những phân tích kỹ càng chính xác thì đã hoàn thành được 50%
công việc đào tạo và phát triển. Công việc này hết sức quan trọng, vì nó mất nhiều thời
gian, tiền của và nhân lực, đồng thời phải có kỹ thuật và phương pháp thu thập thông tin
dữ liệu cần thiết, phân tích và áp dụng kết quả vào xây dựng chương trình đào tạo.
Việc xây dựng chương trình đào tạo bao gồm các bước cơ bản sâu đây:
- Bước 1: Kiểm tra sự khác nhau của phạm vi công việc.
Nghiên cứu phạm vi công việc mà học viên sẽ tham gia trong các hoạt động sau khi
mãn khoá học.
- Bước 2: Kiểm tra trình độ theo yêu cầu công việc sau này.
- Bước 3: Kiểm tra nội dung học tập có thích ứng với thiết bị và phương tiện dạy học phù
hợp với thiết bị và công việc sẽ làm không?
- Bước 4: Kiểm tra tiêu chuẩn học phần, an toàn và kiểm soát độ ô nhiễm của môi trường
đã áp dụng trong quá trình giảng dạy.
- Bước 5: Kiểm tra trình độ đầu vào của học viên để tổ chức đào tạo.
- Bước 6: Kiểm tra quá trình học bằng việc chuẩn bị một danh mục những học trình sắp
xếp theo thứ tự hợp lý cho quá trình học tập.
- Bước 7: Xây dựng một phương thức, phương pháp đào tạo và phát triển nhằm tạo động
cơ động viên khuyến khích học.
- Bước 8: Điều chỉnh thời gian đào tạo chính thức cho quá trình đào tạo và phát triển,
những kỹ năng và môn học quan trọng phải thực hiện trước.
- Bước 9: Lập kế hoạch đánh giá quá trình đào tạo, hoàn thành chỉ tiêu đánh giá và làm thế
nào đưa ra kết quả đánh giá chính xác để cải tiến hơn nưã quá trình đào tạo.
Qua việc xác định rõ mục tiêu đào tạo và xây dựng chương trình đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực, những người có trách nhiẹm đối với chương trình đào tạo và phát
triển cần phải lựa chọn các phương pháp phù hợp.
2. Một số phương pháp trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
Một chân lý luôn luôn đúng là giá trị sức lao động cao hay thấp phụ thuộc vào trình
độ phát triển lành nghề của nguồn nhân lực.
Trình độ lành nghề là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất, thể hiện chất lượng
nguồn nhân lực có được một trình độ lành nghề nhất định. Nói một cách khác, để người
lao động có thể trở thành một nguồn vốn không thể có con đường nào khác ngoài công tác
đào tạo nghề cho họ.
Đã có những thời kỳ người ta chỉ coi trọng máy móc thiết bị, coi công nghệ là trung
tâm của sự phát triển, cho nên chỉ hướng vào hiện đại hoá máy móc và công nghệ. Trong
những năm gần đây người ta mới nhận thấy những khiếm khuyết do chất lượng nguồn
nhân lực không tương xứng với trình độ phát triển, và vì vậy người ta xem xét lại chất
lượng đội ngũ nguồn nhân lực hướng vào việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
Đào tạo nguồn nhân lực là quá trình trang bị kiến thức nhất định về chuyên môn
nghiệp vụ cho người lao động, để họ có thể đảm nhận được một công việc nhất định.
Đào tạo nguồn nhân lực bao gồm các nội dung sau:
- Đào tạo kiến thức phổ thông (giáo dục phổ thông).
- Đào tạo kiến thức chuyên nghiệp (giáo dục chuyên nghiệp). Trang bị kiến thức đào tạo
được chia ra:
+ Đào tạo mới: đã được áp dụng đối với những người chưa có nghề.
+ Đào tạo lại: đào tạo lại những người đã có nghề song vì lý do nào đó nghề của họ không
phù hợp nữa.
+ Đào tạo nâng cao trình độ lành nghề: nhằm bồi dưỡng nâng cao kiến thức và kinh
nghiệm làm việc để người lao động có thể đảm nhận những công việc phức tạp hơn.
Trình độ lành nghề của nguồn nhân lực thể hiện mặt chất lượng của sức lao động.
Nó biểu hiện ở sự hiểu biết về lý thuyết về kỹ thuật của sản xuất và kỹ năng lao động để
hoàn thành những công việc có trình độ phức tạp nhất định, thuộc một nghề nghiệp, một
chuyên môn nào đó. Trình độ lành nghề liên quan chặt chẽ đến lao động phức tạp. Lao
động có trình độ lành nghề là lao động có chất lượng cao hơn, là lao động phức tạp hơn.
Trong cùng một đơn vị thời gian lao động lành nghề thường tạo ra giá trị lớn hơn so với
lao động giản đơn. Trình độ lành nghề biểu hiện ở tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật (đối với
công nhân) và ở tiêu chuẩn nghiệp vụ viên chức nhà nước tức là các tiêu chuẩn về trình
độ học vấn, chính trị, tổ chức, quản lý...Để đảm nhận được các chức vụ được giao (đối với
cán bộ chuyên môn).
Để đạt tới trình độ lành nghề nào đó, trước hết phải đào tạo nghề cho nguồn nhân lực, tức
là giáo dục kỹ thuật, sản xuất cho người lao động để họ nắm vững một nghề, một chuyên
môn, bao gồm có người đã có nghề, có chuyên môn rồi hay học để làm nghề chuyên môn
khác. Cùng với đào tạo, đẻ nâng cao năng suất lao động cần phải quan tâm nâng cao trình
độ lành nghề cho nguồn nhân lực là giáo dục, bồi dưỡng cho họ hiểu biết thêm kiến thức,
kinh nghiệm sản xuất nâng cao thêm khả năng làm được trong giới hạn nghề, chuyên môn
họ đang đảm nhận.
Để nâng cao được hiệu quả của nguồn nhân lực thì đòi hỏi phải có những phương
pháp đúng đắn. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam hiện nay đã có rát nhiều các phương
pháp đào tạo mới ra dời nhưng đã khẳng định được tính chất, hiệu quả của nó. Nhìn chung
các phương pháp đào tạo và phát triển thì có rất nhiều các tên gọi khác nhau nhưng cách
đào tạo và nội dung thì tương đối giống nhau. Đối với mỗi đối tượng khác nhau thì có các
hình thức, phương pháp khác nhau cho phù hợp và mang lại kết quả tốt nhất. Các phương
pháp đào tạo rất đa dạng tuy nhiên thường được áp dụng ở hai dạng:
a. Đào tạo trong công việc:
Là phương pháp đào tạo trực tiếp tại nơi làm việc trong đó người học sẽ được học
các kiến thức, kỹ năng cần thiết cho công việc thông qua thực tế thực hiện công việc dưới
sự hướng dẫn của người lao động lành nghề, phương pháp này chỉ có kết quả nếu hội đủ
các điều kiện như: đòi hỏi nỗ lực của các cấp trên và cấp dưới, cấp trên phải có kinh
nghiệm nghề nghiệp tạo nên được một bầu không khí tin tưởng, cấp trên phải là một người
biết lắng nghe. Có 3 cách để thực hiện phương pháp này:
- Đào tạo theo kiểu chỉ dẫn công việc:
Phương pháp này dùng để dạy các kỹ năng thực hiện công việc cho công nhân,
người học sẽ nắm vững kỹ năng công việc thông qua quan sát, trao đổi, học hỏi và làm
thử.
- Đào tạo theo kiểu học việc:
Chương trình đào tạo bắt đầu bằng việc học lý thuyết ở trên lớp sau đó học viên
được đưa đến làm việc dưới sự hướng dẫn của công nhân lành nghề. Đào tạo theo phương
pháp này dùng đào tạo cho người lao động một nghề hoàn chỉnh.
- Đào tạo ban đầu:
Cung cấp các kỹ năng thực hiện công việc cho công nhân mới được tuyển trước khi
bố trí vào công việc cụ thể. Thực chất là kèm cặp người lao động lành nghề với những
người lao động mới vào làm việc. Theo cách đào tạo này thì có một số ưu điểm như: Tính
kinh tế cao, ít tốn kém, công nhân nhanh chóng nắm vẵng kỹ năng của công việc. Bên
cạnh đó cũng có một số nhược điểm như: nắm lý thuyết không có hệ thống, người lao
động có thể cũng bắt chước một cách máy móc, không thiên biến. Khi sử dụng phương
pháp này thì giáoa viên phải là người cẩn thận, quá trình đào tạo phải chặt chẽ và có kế
hoạch.
Dạng đào tạo trong công việc thường sử dụng nhiều nhất đối người lao động. Còn
đối với cấp quản trị thì ít được sử dụng hơn và đôía tượng này thường được đào tạo bằng
phương pháp ngoài công việc.
b. Đào tạo ngoài công việc:
Đây là phương pháp đào tạo tách khỏi công việc thực tế để cung cấp các kiến thức
và kỹ năng cần thiết cho người lao động.
Theo phương pháp này thường có 3 cách đào tạo như sau:
- Tổ chức các lớp cạnh doanh nghiệp: Các doanh nghiệp hay đơn vị có thể tổ chức các lớp
riêng cho mình hoặc phối hợp với một số đơn vị khác để đào tạo. Theo phương pháp này
chương trình đào tạo gồm hai phần: Phần lý thuyết và phần thực hành. Phần lý thuyết đơn
giản tập trung cho các kỹ sư và cán bộ trực tiếp, phần này có thể được giảng dạy bằng các
thiết bị hiện đại nhằm tạo điều kiện cho người học tiếp thu dễ dàng. Phần thực hành được
tiến hành ở các xưởng thực tập hoặc trong các phân xưởng sử dụng máy móc trực tiếp thực
hiện các vấn đề trong quá trình thực hiện công việc. Phương pháp này có ưu điểm là phối
hợp chặt chẽ các phần thực hành và phần lý thuyết, đem lại kết quả cao, giúp cho học viên
học tập tốt có hệ thống hơn, tuy nhiên, có đòi hỏi tốn kém nhiều công sức, thời gian, tiền
bạc của đơn vị.
- Cử đi học ở các trường chính quy: Trong phương pháp này người học được trang
bị tương đối đầy đủ cả kiến thức lý thuyết và kỹ năng thực hành. Phương pháp này đòi hỏi
tốn nhiều thời gian và chi phí đào tạo, người học trong trường hợp này thường có trình độ
nghiệp vụ cao hơn, đáp ứng theo tiến độ phát triển ngày càng hiện đại của xã hội.
- Tổ chức các buổi giảng bài hoặc hội nghị để phổ biến kiến thức kỹ năng, các
buổi giảng bài hoạt động hội nghị ngắn ngày có tác dụng rất tốt, hình thức này có thể được
tổ chức ngay tại Công ty, đơn vị hoặc một cơ sở bên ngoài, có thể được tổ chức riêng biệt
hoặc kết hợp với các chương trình đào tạo khác, đào tạo theo kiểu chương trình hoá với sự
trợ giúp của máy tính. Chương trình đào tạo đã được viết sẵn trên cơ sở bên ngoài, có thể
được tổ chức riêng biệt hoặc kết hợp với các chương trình khác, đào tạo theo kiểu chương
trình hoá với sự trợ giúp của máy tính . Chương trình đào tạo đã được viết sẵn trên đĩa
mềm của máy tính và người học chỉ làm theo hướng dẫn của máy. Đào tạo theo sự trợ giúp
của các phương tiện nghe nhìn như video – cattset đây là hình thức đào tạo tân tiến có thể
giảng dạy người học mà không cần đưa giáo viên đến nơi làm việc. Tuy nhiên, phương
pháp này có hạn chế là thiếu sự trao đổi trực tiếp giữa người học với người dạy.
Phương pháp này đào tạo ngoài công việc thường dùng cho cấp quản trị, các
chuyên gia để bổ sung kiến thức, kỹ năng, trình độ nghiệp vụ của mình nhằm đáp ứng cho
chiến lược phát triển tương lai của tổ chức đơn vị.
Các phương pháp đào tạo rất đa dạng và phù hợp với từng loại đối tượng từ sinh
viên thực tập, công nhân trực tiếp sản xuất, cấp quản trị tuyến thứ nhất (kiểm soát viên,
quản đốc phân xưởng) đến cấp quản trị trung cấp và cao cấp. Có 18 phương pháp đào tạo
và phát triển cho 3 đối tượng gồm các nhà quản trị, các chuyên viên ở mức khởi điểm và
công nhân trực tiếp sản xuất. Các phương pháp này được áp dụng hoặc tại nơi làm việc (on
the job) hoặc ngoài nơi làm việc (off the job)> Tuy nhiên, có 16 phương pháp thường được
sử dụng sẽ được thể hiện dưới hình thức sau:
Các phương pháp đào tạo và phát triển:
Phương pháp
áp dụng cho áp dụng cho
Quản trị giỏi và
chuyên viên
Công
nhân
Cả hai
cấp
Tại nơi làm
việc
Ngoài nơi
làm việc
1 Dạy kèm - - X X O
2 Trò chơi kinh doanh X O O O X
3.Điển quản trị X O O O X
4. Hội nghị/ Thảo luận X O O O X
5. Mô hình ứng xử X O O O X
6. Huấn luyện tại bàn giấy X O O O X
7. Thực tập sinh X O O X O
8. Đóng lệnh X O O O X
9. Luân phiên công việc - - X O X
10. Giảng dạy theo thứ tự
chương trình
- - X O X
11. Giảng dạy nhờ máy
tính hỗ trợ CAI
- - X O X
12. Bài thuyết trình trong
lớp
- - X O X
13 Đào tạo tại chỗ O X O X O
14. Đào tạo học nghề O X O X O
15. Dụng cụ mô phỏng O X O O O
16 Đào tạo xa nơi làm
việc
O X O O O
Nguồn: Quản trị nhân lực – Tác giả: Nguyễn Hữu Thân
NXB Thống kê - Năm 1998
Nói chung công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là rất đa dạng có nhiều
phương pháp. Tuy nhiên, tuỳ theo điều kiện thực tế của từng đơn vị, căn cứ vào nhu cầu
thực tế, tuỳ theo từng loại đối tượng khác nhau để có sử dụng các phương pháp đào tạo và
phát triển khác nhau, có thể tách biệt, có thể kết hợp các phương pháp lại sao cho có thể
đem lại kết quả tốt nhất, tạo điều kiện thuận lợi nhất trong quá trình thực hiện.
Phần II
Thực trạng về vấn đề phát triển nguồn nhân lực trong
huyện Lập thạch.
I>Đặc điểm, vị trí và tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ảnh hưởng đến đạc điểm của
nguồn lực nhân.
1.Đặc điểm, vị trí địa lý.
Huyện Lập Thạch là một huyện trung du, miền núi nằm ở phiqs Bắc tỉnh Vĩnh
Phúc. Toàn huyện có 39 xã, thị trấn, có 28 xã miền núi, đặc điểm địa hình đa dạng, toàn
huyện được chia làm 3 vùng kinh tế rõ rệt là vùng ven sông, vùng đất giữa và vùng đồi
núi.
Vị trí địa lý: nằm ở toạ độ: 1050 30’ – 1050 45’ độ kinh đông, 210 10’ – 210 30’ vĩ
độ Bắc.
- Phía Bắc giáp tỉnh Tuyên Quang
- Phía Nam giáp thành phố Việt Trì
- Phía Đông giáp huyện Tam Dương tỉnh Vĩnh Phúc
Toàn huyện có tổng diện tích tự nhiên là 41.474 ha, đất đai nông nghiệp 15.848,9
ha. Toàn huyện có tổng dân số 223.900 người. Trong đó lao động hoạt động trong các lĩnh
vực kinh tế 113.000 lao động, bao gồm lao động nông nghiệp 100.000 người chiếm 80%
lao động thương nghiệp dịch vụ 7500 chiếm 6,0%. Lao động quốc doanh 155 người chiếm
0,12%. Lao động các doanh nghiệp tư nhân 94 người chiếm 0,07. Lao động HCSN (hành
chính sự nghiệp) 2.615 số lao động thiếu và không có việc làm là: 12000 người chiếm
9,6%. Trong đó đáng quan tâm là có 120 lao động có trình độ đại học, trung học, cao đẳng
tại các địa phương chưa bố trí được việc làm. Là một huyện nông nghiệp, lao động thuần
nông, trình độ lao động thấp, số lượng đào tạo là: 14.000 người chiếm 11,2 %. Sản lượng
nông nghiệp bình quân 2 năm 1999 – 2000 toàn huyện đạt trung bình 68.200 tấn, bình
quân lương thực đầu người đạt 303 kg/người/năm, bình quân thu nhập đầu người 1,785
triệu đồng/ năm/ người. Tỷ lệ phát triển dân số trung bình là 1,2%. Bình quân đất nông
nghiệp là: 720 m2/người.
Tình hình đời sống nhân dân trong huyện còn gặp nhiều khó khăn, có trên 8000 hộ
nông dân thuộc diện đói nghèo chiếm 17,2%. Sản lượng lương thực năm đạt cao nhất là
325 kg/năm, quá trình phân công lao động xã hội trong huyện không đồng đều. Do tình
hình kinh tế chậm phát triển đã dẫn đổi một bộ phận lao động dôi thừa trong nông nghiệp,
lao động về thôi việc theo quy định 176/CP, lao động hợp tác quốc tế trở về không có việc
làm, đó là chưa kể đến số học sinh đến tuổi lao động hàng năm tốt nghiệp PTTH.
Do đặc điểm có tính đặc thù của huyện Lập Thạch, là huyện sản xuất thuần nông,
công nghiệp không có gì, tiểu thủ công nghiệp nhỏ bé, chưa phát huy được thế mạnh của
các làng nghề, nghề truyền thống của địa phương. Những đặc điểm này có ảnh hưởng rất
lớn đến công tác phát triển nguồn nhân lực của huyện.
2. Kinh tế- xã hội
* Sản xuất nông nghiệp: Lập Thạch là một huyện có 80% dân số hoạt động nông
nghiệp, cho nên, đã có nhiều các chương trình mục tiêu đặt ra theo hướng mở rộng sản
xuất trên các lĩnh vực sản xuất nông, lâm nghiệp, thực hiện nồng ghép các chương trình dự
án, trồng rừng phòng hộ, phủ xanh đất chống đồi trọc, chương trình 773 và một số các dự
án khác đem lại nhiều kết quả khả quan.
- Về trồng trọt năm 2000 tổng diện tích giao trồng 24.808 ha, tăng 685, 35 ha,
bằng 102,7% so với cùng kỳ đạt 101,26% kế hoạch
Trong đó:
- Diện tích lúa 13.704 ha, tăng 800 ha = 106,2% so với cùng kỳ đạt 101,5% kế
hoạch.
- Diện tích ngô 3.842ha, tăng 255 ha = 107,1% so với cùng kỳ đạt 101,1% kế
hoạch.
- Diện tích khoai 2.162ha, giảm – 193,7 ha = 91,7% so với cùng kỳ kế hoạch.
- Diện tích sắn 1.508 ha, tăng 119 ha = 108,4% so với cùng kỳ = 100,5 kế hoạch.
- Diện tích cây công nghiệp ngắn ngày: 2.471 ha giảm 211ha bằng 92,1% cùng kỳ.
Ngoài ra, huyện còn gieo trồng một số các loại cây như các loại rau xanh, đậu...
Tổng sản lượng của nông nghiệp nhìn chung là tăng nhanh bình quân lương thực
theo đầu người khoảng 303 kg/năm
Nhìn chung về trồng trọt huyện đã tận dụng được hết diện tích gieo trồng. Cơ cấu
giống có thay đổi theo hướng tận dụng mặt thuận lợi của thời tiết.
Về chăn nuôi: tính đến thời điểm ngày 01/10/2000. Đàn trâu có 13.344 con tăng
nên 287 con so với cùng kỳ, tổng đàn bò có 31.624 con tăng 498 con. Tổng đàn lợn có
96.504 con tăng 6234 con. Bên cạnh đó huyện còn chăn nuôi thêm được một số các loại
gia cầm như gà, vịt, ngan, ngống... tận dụng triệt để lợi thế của vùng
Kết quả về phát triển lĩnh vực chăn nuôi tuy có tăng nhưng vẫn còn chưa tương
xứng với tiềm năng của địa phương. Nguyên nhân chủ yếu do tác động của giá sản phẩm
chăn nuôi thấp, nhiều lúc, nhiều nơi còn bị tư thương ép giá, hiệu quả thấp. Tuy nhiên có
nhiều hộ chăn nuôi theo mô hình vườn, ao, chuồng (VAC) vẫn có hiệu quả khá.
Có thể nói kết quả chăn nuôi vẫn đóng vị trí quan trọng trong giá trị thu nhập của
người nông dân...
Về thuỷ sản: Huyện sử dụng biện pháp giao khoán đến từng hô gia đình, diện tích
nuôi trồng thuỷ sản các hệ nông dẫn vẫn duy trì ổn định khoảng 1.054 ha. Sản lượng đánh
bắt 430 tấn/năm.
Về lâm nghiệp: Diện tích trồng rừng tập trung khoảng 250 ha. Công tác bảo vệ
rừng đã được tăng cường, đã có sự phối hợp giữa các địa phương với lực lượng kiểm lâm.
Tuy nhiên tình trạng phá rừng, vận chuyển, buôn bán lâm sản trái phép còn diễn biến phức
tạp nhất là ở khu vườn quốc gia Tam Đảo.
Về phong trào cải tạo vườn tạp trồng cây ăn quả:
Tiếp tục được thực hiện dự án trồng cây ăn quả đã tranh thủ nguồn vốn tín dụng
đầu tư phát triển 6 tỷ đồng, vốn từ dự án 120 giải quyết việc làm tạo điều kiện cho hộ nông
dân có vốn mua cây giống, phân bón, mua sắm thiết bị trước tiên, tổ chức tập huẫn kỹ
thuật trồng cây ăn quả, hỗ trợ cây giống cho hộ đói nghèo... kết quả đã tạo ra 180 ha diện
tích chăm sóc trên diện tích trống. Kết quả còn rất hạn chế chỉ tiêu trồng mới đạt 60% kế
hoạch. Kết quả trên cho thấy một số hộ vay vốn sử dụng chưa đúng mục đích , sự chỉ đạo
của cấp uỷ, chính quyền, cơ sở chưa tích cực đối với chương trình này.
* Công tác giao thông thuỷ lợi, xây dựng cơ bảnm, tiểu thủ công nghiệp.
Giao thông: Tổng vốn đầu tư hàng năm cho giao thông khoảng 9 triệu đồng. Vốn
đầu tư cho giao thông được cấp do ngân hàng thế giới WB cho 7 tuyến là 4.263 triệu đồng
năm 2000. Một số các nguồn vốn khác được huy động từ các ngân sách của huyện và của
các xã. Bên cạnh việc xây dựng nâng cấp các tuyến đướng giao thông trong huyện, thì
công tác thủy lợi và xây dựng điện cũng được giải quyết một cách đồng thời. Ví dụ năm
2001, vốn đầu tư cho thuỷ lợi ước tính khoảng 6.3000 triệu , cứng khoá kênh mương:
2.950 triệu. Trong đó vốn tỉnh hỗ trợ 2.890 triệu, vốn huyện đầu tư từ 4 nguồn 500 triệu.
Vốn xã huy động 1.060 triệu , vốn tĩnh kuỹ đầu tư cho các cong trình thuỷ lợi nâng cấp đê:
1.850 triệu
Xây dựng trường học: Huyện đã xây dựng được một số các trường tầng: PHTH
Sáng Sơn, Trần Nguyên Hãn, các trường PTTHCS Vân Trục, Phương Khoan, Yên Dương,
NGọc Mỹ. Số các nhà trẻ khoảng 247, trường cấp I có 4 trường. Bên cạnh đó còn xây
dựng được một số các công trình xây dựng khác. Nhìn chung công tác quản lý xây dựng cơ
bản đã có chuyển biến chấp hành quy chế quản lý đầu tư xây dựng được một số các công
trình xây dựng cơ bản đã có chuyển biến chấp hành quy chế quản lý đầu tư xây dựng theo
nghị định 25 CP. Nghị định 1,2 CP, 88CP, 44CP của chính phủ. Tuy nhiên, còn bộc lộ một
số tồn đọng về chuyên môn nghiệp vụ của một số công trình do chưa đầu tư không đủ khả
năng giám sát kỹ thuật, chất lượng công trình không đảm bảo yêu cầu thiết kế dẫn đến sai
sót, hư hỏng công trình làm song chậm được quyết toán,. tình trạng nợ xây dựng ở một số
các xã sau khi xây dựng không có vốn thanh toán, tiếp tục được phát sinh.
* Sản xuất tiểu thủ công nghiệp: Tiểu thủ công nghiệp sản xuất với quy mô nhỏ,
sản phẩm truyền thống ít được đổi mới. Chưa có nhân tố phát triển lĩnh vực này vẫn duy trì
sản xuất, sản phẩm vẫn tiêu thụ được do nhu cầu địa phương như gạch nung, ngói, cát, sỏi,
một số các ngành dịch vụ khác như điện , đồ gỗ, xay sát,.. dịch vụ bưu điện. Thông tin
bưu điện được thông suốt, chất lượng được nâng lên, đến nay, đã lắp đặt điện thoại đến
100% các xã. Công tác phát hành báo chím thư tín đến kịp thời trong ngày. Doanh thu các
ngành dịch vụ, thương nghiệp, ngành vận tải đang có xu hướng ngày càng tăng.
c) Công tác tài chính, hoạt động tiền tệ.
Công tác quản lý điều hành ngân sách có chuyển biến đảm bảo đúng luật ngân
sách, thu chi theo kế hoạch, đúng định mức. Mặt yếu công tác tài chính là huy động vốn để
xây dựng cơ sở hạ tầng, không đáp ứng được nguồn vốn đối ứng cơ chế đầu tư theo chính
sách như: xây lắp điện, kiên cố hoá, kênh mương, trường học...
Nguồn tín dụng cho vay, phát triển sản xuất được huy động nhiều, nguồn tương
đối thoả mãn nhu cầu địa bàn, lãi xuất thấp, thời gian dảm bảo cho chu kỳ sản xuất. Song
nhiều hộ vẫn dám vay, hc tín dụng không cho vay vì chưa có phương án sản xuất kinh
doanh có hiệu quả.
*) Hoạt động văn hoá thông tin
công tác thông tin tuyên truyền có sự phân phối chặt chẽ giữa các ngành, các tổ
chức chính xã hội phục vụ tốt các ngày lễ, các ngày kỷ niệm trọng đại trong năm 2000 và
bám sát phục vụ tốt ccs nhiệm vụ chính trị của huyện. Hệ thống đài truyền thanh cơ sở
trong huyện đã được lắp đặt.
Hoạt động thể dục thể thao ở cơ sở phát triển mạnh, đã tổ chức thi đấu ở huyện và
tham gia thi đấu ở các tỉnh giành được một số thành tích nhưnh vẫn còn rất khiêm tốn, do
chưa có nhiều về cơ sở vật chất cho luyện tập, chưa có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng lâu
dài cho đội ngũ vận động viên.
*) Công tác y tế, dân số và kế hoạch hoá gia đình.
- Các chương trìnhquốc gia về y tế trong huyện cũng đã được thực hiện đầy đủ,
các chỉ tiêu đề đạt ở mức cao. Các chương trình như phòng chống bướu cổ bằng sử dụng
muối iốt, phòng chống sốt rét, phòng chống lao, thanh toán bệnh phong, đã được triển khai
tích cực và đã có hiệu quả.
Công tác khám chữa bệnh trong huyện, chất lượng đã được nâng lên thực hiện
khám bệnh cho 370 nghìn lượt người hàng tháng, điều trị nội trú khoảng 5.750 bệnh
nhânm công suất sử dụng giường bệnh khoảng 95%.
Công tác dân số kế hoạch hoá gia đình đã có chuyển biến rõ rệt, đã làm thay đổi
nhận thức đại bộ phận nhân dân và công tác dân số kế hoạch hoá gia đình, tỷ lệ phát triển
dân số trong huyện tiếp tục được giảm xuống, tỷ lệ số người sinh con thứ ba đã giảm đáng
kể.
*) Công tác lao động và thực hiện các chính sách xã hội: Công tác giải quyết việc
làm để thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo được các cấp uỷ, chính quyền các tổ
chức đoàn thể, chính trị, xã hội như: hội thanh niên, phụ nữ, hội nông dân nghèo vay để
phát triển sản xuất, trong năm đã tạo việc làm cho rất nhiều lao động và giảm tỷ lệ hộ đói
nghèo xuống một cách rõ rệt. Tuy nhiên, một só cơ sở chính quyền chưa chỉ đạo tốt nên
việc sử dụng vốn vay, khai thác tiềm năng đất đai hiệu quả thấp, chương trình xoá đói
giảm nghèo tiến triển chậm, các chính sách xã hội đựoc thực hiện đầy đủ kịp thời với các
đối tượng, phong trào cứu trợ cho đồng bào bị thiên tai, lụt bão do Mặt trận tổ quốc phát
động được cán bộ và nhân dân trong huyện hưởng ứng thu được kết quả tốt.
3. An ninh chính trị
nhìn chung tại Lập Thạch thì tình hình an ninh, chính trị ổn định, trật tự xã hội
được giữ vững, công tác tiếp dân giải quyết các đơn thư khiếu nại của huyện được các cơ
quan giải quyết thường xuyên, kịp thời, đúng pháp luật. Dưới sự chỉ đạo của Đảng và kết
hợp chặt chẽ của các cấp uỷ, mọi vấn đề thắc mắc của nhân dân đều được làm rõ nên nhân
dân rất tin tưởng.
Trật tự an toàn xã hội đã có nhiều cố gắng cho nên nhìn chung tình hình trật tự xã
hội ở huyện Lập Thạch rất ổn định. Bên cạnh đó vẫn còn một số các đối tượng như trộm
cắp, huỷ hoại tài sản của công dân, tệ nạn xã hội, tàng trữ sử dụng chất ma tuý.đang được
đẩy lùi.
Công tác quân sự địa phương coi trọng thực hiện tốt nghị định 19Cp của chính phủ
về việc hoàn thiện phương án xây dựng khu vực phòng thủ, quản lý chặt chẽ lực lượng dự
bị động viên, thực hiện chương trình gọi thanh niên nhập ngũ đều đạt được kế hoạch,
Từ những thực tế của điều kiện kinh tế – xã hội, văn hoá, chính trị của huyện Lập
Thạch ta có thể thấy rằng đây là một huyện đang trong giai đoạn của sự phát triển kinh tế,
có những tiềm năng để phát triển kinh tế chúng ta phải xem xét và phát triển tận dụng một
cách triệt để nguồn lực về con người. sau đây là một số các thực trạng về tình hình phát
triển nguồn nhân lực của huyện.
II> Thực trạng phát triển nguồn nhân lực của huyện Lập Thạch
Dưới sự lãnh đạo của UBND huyện – phòng lao động _ TBXH đã tham mưu và
xây dựng các chương trình mục tiêu về phát triển nguồn nhân lực trong huyện. Theo
hướng mở rộng lao động vào sản xuất hàng hoá, dịch vụ trên nhiều lĩnh vực với nhiều
thành phần kinh tế, nâng cao nhận thức của người lao động về vấn đề lao động và việc
làm. Coi một bộ phận sức lao động trở thành hàng hoá và đươc trao đổi trên thị trường sức
lao động mở rộng hướng đào tạo và đào tạo đội ngũ kinh doanh trên nhiều hình thức, tại
chỗ, gửi đi các trung tâm, các trường, mở lớp tập huấn ngắn ngày... Đề nghị thành lập
trung tâm dạy nghề của huyện. Tranh thủ các nguồn vốn cho vay và vốn đầu tư được huy
động ở nhiều nguồn.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác phát triển nguồn nhân lực, ban lãnh
đạo huyện đã có nhiều những phương hướng biện pháp thúc đẩy mạnh công tác này, nhằm
tiền đề quyết định cho công việc đẩy mạnh phát triển kinh tế bước sang thế kỷ 21.
Nhìn một cách tổng thể, để đánh giá về nguồn nhân lực ở huyện Lập Thạch thì:
Lập Thạch có một lực lượng tương đối dồi dào độ tuổi lao động trẻ vì phần đông lao động
là thanh niên, lực lượng lao động tăng nhanh qua các năm. Đây vừa là cơ hội cũng vừa là
thách thức lớn đối với huyện, lao động đông thuận lợi để phát triển kinh tế do giá trị sản
xuất tạo ra lớn, những áp lực về việc làm cũng không nhỏ. Việc không tận dụng hết nguồn
nhân lực sắn có đã lãng phí thì những tác động ngược lại của nó cũng rất tác hại. Một đặc
điểm nữa của lao động nông thôn huyện Lập Thạch là chất lượng lao động, hầu hết lao
động mang tính phổ thông không có trình độ chuyên môn kỹ thuật, không có trình độ văn
hoá, đây là một khó khăn rất lớn trong việc phát triển kinh tế. Vì vậy, một vấn đề mang
tính giải pháp là phải đào tạo, hướng dẫn và phát triển trình độ của nguồn nhân lực bằng
nhiều hình thứcm, nhằm khai thác hết tiềm năng của nguồn nhân lực.
Khi xem xét đến thực trạng về phát triển của nguồn nhân lực chúng ta phải xem
xét một cách chi tiết về tình hình biến động dân số của huyện và các biến động về nguồn
lao động.
1) Thực trạng về tình hình biến động dân số của huyện
quay trở lại vài năm trước đây ta có thể thấy tình hình biến động dân số của
huyện qua bảng sau:
Bảng 1: Biến động của huyện Lập Thạch giai đoạn 1989-1997
Chỉ tiêu 1989 1995 1996 1997
1. Dân số trung bình (1000 người) 188,157 217,3447 220,358 222,904
2. Dân số nam (1000 người) 88,928 102,987 104,570 106,994
3.Dân số nữ (1000 người) 99,229 114,387 115,788 115,910
Số người trong độ tuổi lao động
(1000 người)
98,153 104,886 105,990 106,602
Số người dưới độ tuổi lao động
(1000 người)
67,263 77,708 79,774 79,784
Số người trên độ tuổi lao động
(1000 người)
22,741 34,780 34,594 36,518
Mật độ dân số (1000 người/ 1Km2) 0,454 0,524 0,531 0,537
Số sinh sống (1000 người) 6,217 4,739 4,328 4,050
Số người chết (1000 người) 1168 967 9223 876
Tỷ suất sinh thô (0/00) 28,3 22,05 19,35 18,1
Tỷ suất chết thô (0/00) 7,61 4,42 4,16 3,93
Tỷ suất biến động tự nhiên (0/00) 20,69 17,63 15,81 14,17
Số người nhập cư (1000 người) 0,915 1,267 1,332 1,384
Số người xuất cư (1000 người) 1,427 1,427 1,493 1,525
Tỷ suất nhập cư (0/00) 4,86 5,83 6,04 6,21
Tỷ suất xuất cư (0/00) 7,58 6,77 6,795 6,84
Tỷ suất biến động cơ học (0/00) -2,72 -0,94 -0,76 -0,63
Tỷ suất biến động dân số (0/00) 17,97 16,69 15,3 13,54
Bảng 1 đã cho chúng ta thấy rõ được dân số và các nhân tố ảnh hưởng đến sự biến
động của dân số. Đi sâu vào tìm hiểu thì chúng ta nhân thấy rằng dân số từ năm 1989 đến
357 người /1km2 năm 1997, vì Lập Thạch là một huyện 80% dân số sống bằng nghề nông
nghiệp cho nên mật độ dân số ngày càng tăng cũng ảnh hưởng đến rất lớn về mặt đời sống
sinh hoạt người dân. Tuy nhiên, dân số trong các giai đoạn từ 1989-1997 vẫn tăng nhưng
tỷ suất biến động dân số qua các năm có thể nói là ngày càng giảm: năm 1989 là
17,970/00;năm 1995 là 16,69
0/00; năm 1997 là 13,54
0/00 những con số về tỷ suất biến động
dân số giảm nói lên tình hình phát triển về các mặt của huyện như công tác thông tin tuyên
truyền, công tác giáo dục và nhận thức rõ của người dân ngày càng nâng cao một cách rõ
rệt, các chương trình về KHHGD thực hiện đã có hiệu quả rõ rệt. Quy mô của dân số hàng
năm tăng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sự gia tăng tự nhiên và sự tăng phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như sự tăng tự nhiên và tăng cơ học, nhìn vào những nhân tố ảnh hưởng này
ta có thể đánh giá phần nào về tình hình các hoạt động kinh tế của huyện. Từ giai đoạn
1989-1997 tỷ suất nhập cư liên tục tăng lên qua các năm , có thể nói lực lượng này phần
đông là những người tập trung về đây theo các chương trình làm việc, thực hiện các dự án
di dân xây dựng các vùng kinh tế mới và một số lực lượng khác là bộ đội xuất ngũ, sinh
viên ra trường và trở về quê hương làm việc, số ngưòi xuất cư của huuyện hàng năm cũng
tăng lên, lý do là họ chuyển đi các nơi khác để tìm việc làm và lập nghiệp. Tuy nhiên hàng
năm thỉ tỷ lệ số người xuất cư luôn luôn lớn hơn số người nhập cư từ năm 1989-1997, con
số này đánh giá một điều rằng dân số trong huyện có xu hướng ra đi bởi vì họ mong muốn
tìm được một cuộc sống tốt hơn ở nơi khác , trước khi họ phải trở về huyện mình có thể
nói con số này phần đông là số lượng học sinh, sinh viên, sau khi đã ra trường, một số
khác là những người lao động được xuất khẩu lao động sang nước khác như PRUNAY.
Singapore, Côoét , bên cạnh đó lực lượng lao động chủ yều là còn rất trẻ nên họ có nhu
cầu hơn về mặt di dân.
Số người trong độ tuổi lao động tại huyện là lực lượng chủ yếu và hàng năm gia
tăng rất nhanh từ 1998-1999 đã gia tăng khoảng 112%, bên cạnh đó số người dưới độ tuổi
lao động và số người trên độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ cũng không nhỏ. Tuy nhiên, từ năm
1995-1997 thì sự gia tăng hầu như không đáng kể. Một số vấn đề được đặt ra rất bức xúc
là để ổn định được cuộc sống cho một lực lượng không tham gia lao động thì số người
trong độ tuổi lao động cần phải có việc làm đầy đủ và có thu nhập ổn định đòi hỏi về công
tác giải quyết việc làm phải được thực hiện một cách kịp thời và triệt để.
Tuy nhiên, huyện còn một số lượng người thiếu việc làm khá đông, khoảng 10%,
nói là thiếu việc làm hoàn toàn không phải vì hầu hết là lao động nông nghiệp họ vẫn có
việc làm nhưng hiệu suất sử dụng thời gian lao động rất thấp. Nếu lực lượng này chuyển
sang ngành khác thì năng suất cũng như chất lượng hầu như không giảm sút, người ta gọi
lực lượng này là thất nghiệpn trá hình. hàng năm tìm mọi biện pháp để tạo việc làm tại
chỗ, chuyển và mở các ngành nghề mới, đi xây dựng vùng kinh tế mới hay xuất khẩu lao
động. Mặc dù đã được Đảng bộ và các ban ngành quan tâm, giải quyết vấn đề tạo việc làm
nhưng do nhiều lý do như tiềm lực chưa được thực hiện đồng bộ và thị trường tiêu thụ sản
phẩm nông nghiệp không ổn định cho nên hàng năm những việc làm mới tạo ra chưa đáo
ứng được so với yêu cầu, đời sống người lao động nhiều khó khăn.
Thực tế hiện nay, trình độ học vấn và trình độ chuyên môn của lao động còn nhiều
bất cập, điều này là do tàn dư của những năm trước đây, ta có thể thấy trình độ, chất lượng
nguồn nhân lực của huyện Lập Thạch còn rất thấp.
Dân số là cơ sở hình thành nguồn nhân lực. Quy mô nguồn nhân lực phụ thuộc vào
quy mô của dân số. Quy mô dân số lớn, tốc độ tăng dân số nhanh sẽ báo hiệu quy mô lớn
và tốc độ tăng trưởng nhanh của nguồn nhân lực trong tương lai. Sự ảnh hưởng giữa dân số
tới nguồn nhân lực phải sauạt thời gian nhất định phụ thuộc vào việc xác định giới hạn của
độ tuổi lao động thì (thời gian để đưa trẻ sinh ra ở thời) kỳ này sẽ bước vào độ tuổi lao
động). Để xác định nguồn nhân lực của huyện Lập Thạch trong tương lai chúng ta sẽ tìm
hiểu cơ cấu dân số theo tuổi và giới tính.
Bảng 2: Cơ cấu dân số theo tuổi và giới tính.
(trang sau)
Nguồn: UBND Huyện Lập Thạch - Tỉnh Vĩnh Phúc.
Tỷ lệ tham gia của lực lượng lao động được tính bằng so sánh giữa lực lượng lao động
thực tế với tỷ lệ lao động tiềm năng. lực lượng lao động thực tế là do bộ phận dân cư trong
độ tuổi lao động có khả năng lao động hiện đang làm việc trong các ngành của nền kinh tế
quốc dân và những người chưa có việc làm và đang đi tìm việc làm. Lực lượng lao động
tiềm năng là khả năng lao động của xã hội tức là những người trong độ tuổi lao động, có
khả năng lao động (nguồn vốn nhân lực có sẵn trong dân số hoặc dân số hoạt động).
Những nhân tố tác động đến sự tăng giảm của tỷ lệ tham gia lực lượng lao động có nhiều
và tuỳ thuộc vào từng bộ phận của nguồn nhân lực. Song có thể kể ra một số nguyên nhân
cơ bản sau đây:
- Tăng giảm của tiền lương thực tế.
- Điều kiện sống thay đổi
- Sự tác động của Nhà nước thông qua hệ thống các chính sách xã hội.
Ngoài những nguyên nhân có tính chất chung, người ta còn nghiên cứu tìm ra các nguyên
nhân làm tăng giảm tỷ lệ tham gia của từng nhóm dân cư.
Nhìn vào bảng 2, ta thấy qua 2 năm 1989-1999 thì số lượng nữ giới bao giờ cũng nhiều
hơn số lượng về nam giới. Tỷ lệ sinh ban đầu thì tỷ lệ sinh của nam lớn hơn nư nhưng
càng về sau thì số lượng nữ giới lại tăng lên nên số lượng nữ giới về già thì sống nhiều hơn
nam chúng ta có thể đánh giá qua một số nguyên nhân sau đây:
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động nữ tăng do mức lương thực tế được quy định cho
phụ nữ tăng lên, sự thay đổi sở thích và hành vi, sự nhận thức ngày càng cao hơn làm cho
phụ nữ có thể bình đẳng tham gia lực lượng lao động nhiều hơn. Nhìn chung cuộc sống ở
nông thôn thì người đàn ông phải lo toan mọi việc cho gia đình dẫn đến sức sống bị suy
giảm nhanh chóng. Tuy nhiên, nhìn vào biểu 2 ta thấy lực lượng lao động nữ khá cao, nếu
phát huy nguồn lực này thì sẽ tận dụng hiệu quả triệt để và tạo nên được tiềm lực mới cho
huyện tuy nhiên cần phải đào tạo họ một cách có hệ thống, có trình độ chuyên môn, đặc
biệt nữ giới thường rất khéo kéo thích nghi với các công việc mang tính nhẹ nhàng, khéo
léo.
Nhìn vào bảng 2 ta thấy số lượng người tham gia vào lực lượng lao động rất đông.
Dân số trong độ tuổi từ 15 đến 65 đối với nam là 43.028 chiếm tỷ lệ 23% trong tổng dân
số, độ tuổi từ 15-55 đối với nữ là: 46.753 chiếm 23% tổng số dân số của năm 1998. Sang
năm 1999 thì dân số nam độ tuổi từ 15 đến 65 là 50.365; chiếm sấp xỉ 23%, đối với nữ từ
15-55 là 56.727 chiếm sấp xỉ 26% trong tổng số dân, ta có thể nhận thấy rằng số người
trong độ tuổi lao động của huyện Lập Thạch là rất cao, cần phải có sự cố gắng, nỗ lực của
Đảng, chính quyền địa phương, các tổ chức xã hội để giải quyết cho vấn đề phát triển
nguồn nhân lực của huyện. Bên cạnh đó huyện đã thiết lập, triển khai một số chương trình
tạo môi trường, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động các cấp ngành đã giúp địa
phương giới thiệu việc làm tổ chức đào tạo nghề cho người lao động. Tuy nhiên, trong quá
trình thực hiện còn bộc lộ những yếu kém ở từng mặt, từng khâu, từng lĩnh vực hoạt động
là do những nguyên nhân sau:
- Sản xuất chậm phát triển, việc quy hoạch, kế hoạch, phát triển kinh tế – xã hội còn
nhiều mặt hạn chếm manh mún. Nông nghiệp thuần nông mang tính tự túc, tự cấp, sản
xuất công nghiệp không có gì, tiểu thủ công nghiệp yếu kém, chậm chuyển đổi cơ cấu kinh
tế theo cơ chế thị trường, điều đó đã ảnh hưởng đến quá trình phân công lao động và giải
quyết việc làm.
- Phương hướng mục tiêu của các cấp chính quyền từ huyện xuống cơ sở, các ngành, các
tổ chức xã hội về giải quyết việc làm chưa quan tâm đúng vị trí. Chưa coi việc tạo ra chỗ
làm việc mới là một chỉ tiêu quan trọng.
- Trình độ chuyên môn,. nghiệp vụ của đa số lao động còn thấp kém. Việc đào tạo nghề
chưa được quan tâm thích đánh, chưa có trung tâm dạy nghề, làng nghề chậm phát triển.
- Công tác thống kê phân loại lao động hàng năm chưa được cải tiến, chưa đáp ứng cho
quá trình nghiên cứu và đề xuất các giải pháp quản lý lao động việc làm. giải quyết việc
làm còn thụ động, còn trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước là chính, sự phối hợp chỉ đạo
một số ngành tham gia dự án giải quyết việc làm chưa thường xuyên, chưa nhịp nhàng, thủ
tục còn nhiều phức tạp.
2> Tình hình biến động của nguồn lao động.
Để có thể sống và phát triển, con người phải tiêu dùng một lượng của cải nhất định: lương
thực, thực phẩm, vải vóc, nhà ở, phương tiện giao thông liên lạc, thuốc phòng, chữa bệnh...
Những tư liệu sinh họat này không phải là “gia tăng” của tự nhiên mà do con người sản
xuất ra. Song không phải toàn bộ dân số tham gia sản xuất mà chỉ một bộ phận có đủ sức
khoẻ và trí tuệ mà thôi. Khả năng đó chỉ gắn với một độ tuổi nhất định, gọi là “độ tuổi lao
động” đối với nam từ 15-64; một số nước khác từ 15-59, thậm chí 10-59. Đối với nữ giới
hạn trên của độ tuổi lao động thường thấp hơn.
cùng với xu hướng giảm sinh và tuổi thọ được kéo dài, tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động
ngày càng tăng lên. Năm 1999 ở các nước phát triển, tỷ lệ này là 66,5%, các nước đang
phát triển khoảng 60%.
Như vậy, cả quy mô cơ cấu dân số theo độ tuổi và giới tính có ảnh hưởng trực tiếp đến số
lượng người “trong độ tuổi lao động” Việc so sánh số người “ngoài độ tuổi lao động” và
số người “trong độ tuổi lao động” cho ta tỷ số phụ thuộc. Tỷ số này càng cao sẽ quan hệ
tiêu dùng và tích luỹ sẽ càng căng thẳng.
Để xác định khả năng lao động của xã hội, ngưòi ta quy định ra loại lao động chính
và tỷ lệ 1/3 đối với người dưới tuổi và 1/2 đối với người trên tuổi lao động.
Người ta chia ra:
Lực lượng lao động: Bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao
động đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân và những người thất nghiệp song đang có
nhu cầu làm việc.
Nguồn lao động: bao gồm những người thuộc lực lượng lao động và những người tốt
nghiệp song không có nhu cầu tìm việc làm (tức là bao gồm những người đang làm việc
kinh tế quốc dân và những người thất nghiệp).
Đối với Lập Thạch là một huyện miền núi với lực lượng
Lao động rất dồi dào và hoạt động chủ yếu bằng nghề nông nghiệp. Có thể nói rằng
hiện tượng thất nghiệp thực tế thì không có, chỉ có thể xảy ra tình trạng thất nghiệp trá
hình và thiếu việc làm. Biến động của nguồn lao động huyện Lập Thạch có thể được biểu
hiện qua bảng dưới đây:
Bảng 3: Biến động nguồn lao động của huyện Lập Thạch
Chỉ tiêu 1989 1994 1999
I. Dân số trong độ tuổi lao động
(1000 người)
98153 103741 109222
1. Trong độ tuổi có việc làm 85826 88487 91090
2.Thất nghiệp 0 0 0
3. Đi học 4992 7273 9779
4. Nội trợ 5297 5556 5834
5. Không có nhu cầu làm việc 0 0 0
6. Không có khả năng lao động 1649 1823 1931
7. Tình trạng khác 389 611 588
II. Tỷ trọng dân số trong độ tuổi
lao động trên tổng số dân(%)
52,16 48,3 48,9
III. tỷ trọng dân số trong độ tuổi
15-24 (%)
28,2 28,6 28,34
Nhìn vào bảng 3 ta thấy tình hình lao động của huyện Lập Thạch một cách tổng
quát nhất là số người thất nghiệp và không có nhu cầu làm việc là coi như không có tuy
nhiên thu nhập bình quân theo đầu người lại rất thấp bình quân cho năm 1999 là : 1,785
triệu đồng/năm. Điều đó chứng tỏ rằng một lực lượng rất lớn tuy vẫn hoạt động lao động
nhưng thực chất đã bị lãng phí. Khi nói đến nguồn nhân lực là chúng ta đang nói đến dân
số trong độ tuổi lao động bao gồm những người trong độ tuổi có việc làm, những người
thất nghiệp, đi học, nội trợ, không có nhu cầu làm việc, không có khả năng lao động, tình
trạng khác.
Xét về lượng tuyệt đối thì ta nhận thấy số lượng dân số trong độ tuổi lao động từ
năm 1989 đến 1999 sau 10 năm tăng lên một lượng là 11069. Tuy nhiên tỷ trọng dân số
trong độ tuổi lao động trên tổng số dân số lại giảm đi từ 52,16% năm 1998 xuống 48,9%
năm 1999, điều đó thể hiện rằng trong điều kiện hiện nay nền kinh tế của đất nước nói
chung và huyện Lập Thạch nói riêng cũng đã có xu hướng phát triển cho nên chi phí cơ
hội cho học tập, nghỉ nghơi cũng như làm các công việc gia đình cũng tăng nên chính vì
vậy đã tạo nên một bộ phận lao động không tham gia hoạt động kinh tế, có thể nói tỷ trọng
dân số trong hoạt động kinh tế giảm xuống.
Mặt khác, khi xem xét mức độ tham gia lực lượng lao động của mỗi giới ở các độ
tuổi khác nhau. Thông thường tỷ lệ tham gia hoạt động lao động của nữ ở một nhóm tuổi
nào đó thường thấp hơn của nam giới điêù này xảy ra với nhiềulý do khác nhau. Trước hết
ta có thể nói rằng tỷ lệ phụ nữ tham gia vào các hoạt động kinh tế trong xã hội tạo nên
phúc lợi cho xây dựng thường ít hơn, đa số họ làm các công việc nội trợ, giúp việc gia
đình... có thể tạo ra thu nhập tạo ra phúc lợi trong gia định nhưng có thể không được tính
vào các hoạt động kinh tế. Thứ hai, là theo truyền thống thì nam giới thường được coi là
người chủ yếu để no cho cuộc sống sinh hoạt của gia đình và thường là người đóng nhân tố
chính để tạo ra thu nhập.
Tuy nhiên, để đánh giá tình hình thực tế của huyện Lập Thạch một cách chính xác
ta có thể xem xét về lực lượng lao động theo tuổi và giới tính của Huyện lập Thạch qua
biểu 4
Nhìn vào bảng 4 ta thấy: nhìn chung tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nam giới cao
hơn của nữ giới. Năm 1999 thì ASSLFPR nam = 58,88 , ASSLFPR nữ = 51,24 , năm
1999 thì ASSLFPR nam = 49,34; ASSLFPR nữ = 47,06. Điềunày do tính chất công việc
và truyền thống trong gia đình.
Tuy nhiên, nếu xét tỷ lệ tham gia lực lượng lao động theo giới và theo từng nhóm
tuổi của huyện Lập Thạch thì ta thấy ở nhóm tuổi 15-24 thì khả năng tham gia lực lượng
lao động nữ thường lớn hơn của nam, điềunày có thể giải thích rằng nam giới trong nhóm
tuổi này thường ít tham gia lực lượng lao động hơn nữ giới vì phải chi phí cơ hội cho công
việc học tập và các công việc khác lâu dài trong tương lai, nhưng cho đến nhóm tuổi từ 22-
55 thì lực lượng lao động của nam giới lại tăng nên so với nữ điềunày có thể nói lên rằng
một lực lượng lao động nam đã quay trở lại ra nhập lực lượng lao động thực tế có thể là họ
trở về sau khi đã học song hoặc có thể ra quân trở về địa phương làm việc đối với bộ đội
xuất ngũ, hoặc cũng có thể đã tốt nghiệp trong nghề nghiệp của mình, đến nhóm tuổi 60+
thì khả năng tham gia lực lượng lao động của cả nam và nữ đều suy giảm rất nhanh. Một
điều thực tế có thể lý giải là phụ nữ thường bận với công việc gia đình, sinh nở, dẫn đến
khả năng làm việc nglài và tự nâng cao trình độ học vấn, trình độ nghề nghiệp đã bị hạn
chế rất nhiều.
Nhóm
tuổi
1989 1999
Nam Nữ Tổng Nam Nữ Tổng
SN % SN % SN % SN % SN % SN %
15-24 6518 45,6 7685 43,2 14203 44,5 7126 42,6 8161 53,2 15287 47,9
25-55 36429 71,56 27936 68,24 64365 69,9 37398 55,7 30587 46,72 67985 51,21
56-60 3850 65,27 577 46,39 4427 55,83 4117 41,6 636 40,11 4753 40,85
Trên 60 2418 50,12 413 34,18 2831 42,15 2606 39,47 459 30,21 3065 34,84
Tổng số 49215 58,08 36.611 51,24 85286 53,09 51247 49,34 39843 47,06 91090 45,7
Khi xét về cơ cấu lực lượng lao động của huyện chia theo nhóm tuổi và giới tính
cho thấy lực lượng lao động ngoài độ tuổi lao động cũng còn rất nhiều. Tuy nhiên,
thực tế của huyện cho thấy, nguồn nhân lực của huyện có cơ cấu trẻ, có thể lực, trí
lực, cần cù, chịu khó, có khả năng tiếp thu kiến thức khoa học nhanh chóng nhưng
chất lượng của nguồn nhân lực huyện Lập Thạch vẫn còn nhiều bất cập điều này
được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 5: Cơ cấu lao động theo trình độ học vấn và chuyên môn.
Tiêu thức 1989 1999
SN % SN %
1. Không biết chữ 3075 6,63 2890 13,74
2. Chư a tốt nghiệp 15770 34,22 11230 52,89
3.Tốt nghiệp trung học cơ sở 23794 51,63 2987 14,07
4.Tốt nghiệp PTTH 3461 7,5 4125 19,43
-Không bằng cấp 46704 96,46 54750 93,93
- Trình độ sơ cấp 1277 2,6 2567 4,4
Trung cấp 280 0,58 560 0,9
Đại học 156 0,33 410 0,7
Nguồn: Phòng thống kê huyện Lập Thạch
Qua bảng số liệu trên về trình độ học vấn và chuyên môn nghề nghiệp của
huyện Lập Thạch ta thấy từ năm 1989 đến 1999 đã có những biến chuyển lớn về
nền giáo dục, nhìn chung số lao động có trình độ học vấn và trình dộ nghề nghiệp
đã không ngừng tăng nên, cụ thể ta có thể thấy rằng số người không biết chữ đã
giảm đi rõ rệt từ 3075 người năm 1989 đến năm 1999 chỉ còn lại 2890 điều này
chứng tỏ rằng nhận thức của người dân về nền giáo dục đã có những cải cách theo
chiều hướng tích cực bên cạnh đó thì số người chưa tốt nghiệp cũng đã giảm đi từ
15770 người/năm 1989 đến năm 1999 chỉ còn 11280 người, tốt nghiệp trung học cơ
sở và tốt nghiệp phổ thông trung học cũng tăng nên đáng kể, đây là một đóng góp
rất lớn cho sự phát triển của nguồn nhân lực và sẽ làm tiền đề, điều kiện tốt cho
công tác phát triển kinh tế sau này. Bên cạnh công tác giáo dục của huyện thì huyện
còn tạo điều kiện thuận lợi, trang bị cơ sở hạ tầng, giúp đỡ vật chất để làm tăng nên
một lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, những người nằm trong
diện lao động có trình độ chuyên môn, có bằng cấp cũng tăng nên đáng kể cụ thể là:
đối với trình độ sơ cấp 1277 người năm 1989 đến năm 1999 tăng nên 2567 người;
trình độ trung cấp 280 người năm 1989 tăng nên 560 người năm 1999, trình độ đại
học năm 1989 là 156 người đến năm 1999 đã tăng lên 410 người, và lao động thuộc
loại không bằng cấp có xu hướng giảm xuống trong 10 năm là 8046 người. Điều
này cho thấy rằng nguồn nhân lực của huyện đã có những chiều hướng phát triển
tích cực, nhưng phải nói rằng các con số này vẫn còn khiêm tốn và ta có thể giải
thích nguyên nhân của nó như sau: một số người có trình độ cao sau khi đã được
đào tạo thì kỳ vọng vào một công việc tốt hơn ở nơi khác, không có mong muốn trở
về địa phương làm việc, một nguyên nhân nữa là điều kiện kinh tế của huyện vẫn
còn rất nhiều khó khăn cho nên công tác giáo dục vẫn còn nhiều hạn chế.
Như trên chúng ta đã đi nghiên cứu lực lượng lao động theo tuổi và giới tính
đó là một nhân tổ thể hiện được thực trạng phát triển nguồn nhân lực, bên cạnh đó
còn nhiều các chỉ tiêu khác cũng thể hiện sự phát triển của nguồn nhân lực trong
huyện như lực lượng lao động theo giới và thành thị nông thôn, ngành nghề hoạt
động của lao động có việc làm, cơ cấu lao động có việc làm theo khu vực kinh tế...
Bây giờ chúng ta nghiên cứu sang lực lượng lao động theo giới và thành thị – nông
thôn, nó được thể hiện qua biểu sau đây:
Bảng 6: Cơ cấu dân số theo thành thị và nông thôn cho ta thấy năm 1989 thì dân số
là 188.157 tập trung toàn bộ ở nông thôn trong giai đoạn này vẫn còn chưa phát
triển thành thị nhưng đến năm 1999 thì một lực lượng dân số đã tập trung ở thành
thị với số lượng là 6512 người còn lại ở nông thôn với số lượng là 216.641 chứng tỏ
rằng trong huyện đã có xu hướng đô thị hoá. Những khác biệt giữa thành thị và
nông thôn trong các xu hướng dân số tồn tại ở hầu hết các nước. Một số yếu tố
quan trọng làm nên sự khác biệt là trình độ biết chữ, học vấn cao hơn, giao thông và
thông tin đại chúng thuận tiện và hiệu quả hơn, các vấn đề như mật độ dân số cao,
đất đai, nhà ở, việc làm, thất nghiệp, thu nhập tiền công, môi trường... đều mang
tính đặc thù. Người dân thành thị có tính linh hoạt về xây dựng và lãnh thổ cao, tư
duy và lối sống cũng khác so với nông thôn. Tổng thể các yếu tố kể trên quyết định
nhận thức, thái độ, hành vi dân số.
Bảng 6. Cơ cấu dân số theo thành thị và nông thôn
1989: 188.157 1999: 223.153
Nông thôn Nông thôn:216641 Thành thị: 6512
Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ
0-4 15789 14847 18179 17094 503 556
5-9 14562 13945 16766 16056 506 481
10-14 11421 10999 13149 12664 394 380
15-19 8189 9047 9428 10416 284 313
20-24 6102 8688 7025 10003 211 301
25-29 7619 9142 8772 10526 266 312
30-34 5610 6649 6459 7656 194 229
35-39 3666 4413 4221 5081 127 153
40-44 2467 2948 2840 3394 85 102
45-49 2210 2799 2545 3223 76 97
50-54 2394 3068 2756 3532 83 106
55-59 2735 3161 3149 3639 95 110
60-64 2036 2759 2344 3177 70 96
65-69 1895 2704 2182 3143 65 94
70-74 1095 1677 1260 1930 38 58
75-79 730 1307 841 1505 25 45
80 408 1077 215401 1240 17 39
Lối sống thành thị ảnh hưởng lớn đến hành vi của dân số, trước hết là hôn nhân,
sinh đẻ và nuôi dạy con cái. Nhìn chung, tuổi kết hôn trung bình ở thành thị cao hơn
ở nông thôn. Các đôi nam nữ kết hôn muộn hơn sẽ rút ngắn thời kỳ sống trong hôn
nhân, khả năng sinh đẻ giảm đi. Tỷ lệ sống độc thân và tỷ lệ ly hôn cao lên, ngoài ra
quan niệm sinh con ít và duy trì qui mô gia đình nhỏ cũng là các yếu tố quan trọng
để giảm mức sinh. Mức sinh và mức chết ở thành thị đều thấp hơn ở nông thôn,
chăm sóc sức khoẻ ở thành phố cũng có chất lượng cao hơn ta có thể thấy cụ thể
hơn dưới các biểu sau đây.
Bảng 7 Biến động mức sinh
Chỉ tiêu 1989 1993 1995 1999
I. Tổng số sinh 7.249 5.410 4.511 3.686
II. Con thứ3 2.397 1.230 854 443
Trong đó
1. Số con muốn sinh thêm 1.524 819 626 407
2.Số vỡ kế hoạch 873 4 228 36
+ Do không áp dụng BPTT 873 372 212 36
+ Đã sử dụng BPTT vỡ kế hoạch 0 39 16 0
Nguồn: UBDS - KHHGD huyện Lập Thạch.
Ta thấy rằng từ khi xuất hiện đô thị hoá thì tổng số sinh qua các năm 1993,
1995, 1999 giảm xuống một cách rõ rệt. Chỉ sau 10 năm con số đã giảm đi là 3563
người. Trong đó tỷ lệ sinh con thứ 3 cũng giảm đi từ năm 1989 đến năm 1999 là
2791 người. Bên cạnh đó thì chủ yếu vẫn là số muốn sinh thêm con thứ 3 có thể
đánh giá nguyên nhân rằng trình độ dân trí nhận thức vẫn chưa được đầy đủ và vẫn
còn bị ảnh hưởng bởi phong tục, tập quán, tâm lý xã hội... nhưng tỷ lệ sinh con thứ
3 do không áp dụng các biện pháp tránh thai và bị vỡ kế hoạch thì lại không đáng kể
chứng tỏ rằng công tác KHHGD của huyện đã được quan tâm và giải quyết có hiệu
quả hơn tỷ lệ này chỉ chiếm: 12% của năm 1989 và đến năm 1999 chỉ còn 0,9%.
Về mức sinh của huyện Lập Thạch đã giảm xuống một cách trông thấy và mức chết
cũng không ngừng được giảm xuống ta có thể thấy cụ thể qua biểu sau đây:
Biểu 8 Biến động mức chết theo độ tuổi
Chỉ tiêu 1986 1989 1993 1995 1999
I Tổng số người chết 1.322 1.239 1.057 967 876
1, Dưới 1 tuổi 554 512 376 308 259
2.Dưới 14 tuổi 44 37 22 23 15
3. 15 - 59 462 378 341 325 187
4. Trên 60+ 262 312 318 250 415
Nguồn: UBDS - KHHGD huyện Lập Thạch
Từ năm 1989 mức chết là 1239 người sang đến năm 1999 chỉ còn 876 người,
mức chết được biến động theo từng độ tuổi dưới 1 tuổi thì từ 1989 đến 1999 giảm đi
253 người, nguyên nhân chính của viẹc giảm đi mức chết của trẻ sơ sinh được tăng
lên, mức chết của trẻ em dưới 14 tuổi cũng được giảm đi một lượng là 22 người
chiếm một tỷ lệ rất lớn mức chết cuả dân số trong độ tuổi từ 15 - 59 cũng giảm đi
đáng kể 519 người nhưng mức chết ở nhóm tuổi 60 trở nên lại tăng nên vào năm
1999 chứng tỏ rằng sức sống của họ bị suy giảm. Trong giai đoạn trước đó những
điều này cũng thật dễ hiểu khi mà huyện đã có sự phát triển về đô thị hoá thì họ có
thể nội dungễ dàng chấp nhận một qui mô gia đình nhỏ từ 1 đến 2 con, do họ có
thuận lợi hơn về mức sống, dân trí, văn hoá, thêm vào đó một phần dân cư thành thị
sống cụm tập trung nên việc triển khai các công tác dân số kế hoạch hoá gia đình dễ
dàng hơn, nhanh chóng hơn, thuận tiện hơn. Còn ở khu vực nông thôn do nhiều
nguyên nhân như: nguồn lao động, trình độ dân trí thấp, ảnh hưởng nặng nề của
phong tục tập quán, tâm lý xã hội... cho nên có một số các quan niệm vẫn còn cổ hủ.
Vì vậy tỷ lệ sinh con thứ 3 ở nông thôn nhiều hơn so với khu vực thành thị.
Trong khi mức lương nhà nước qui định tiền lương tối thiểu hiện nay là
210.000 đồng/tháng/người thì ở huyện thu nhập bình quân chỉ khoảng 140.000
đồng/tháng/người, thậm chí có những hộ có thể thấp hơn nhiều.
Đây là một chứng minh rõ ràng cho mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa thu nhập
và mức sinh, hầu hết các xã có tỷ lệ sinh cao thì lại là những xã có tỷ lệ hộ đói
nghèo cao, thu nhập theo đầu người thấp. Chính điều đó đã khiến cho huyện đói
nghèo khó có thể thoát khỏi vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo. Chỉ khi nào họ nhận
thức được sự tác động qua lại giữa dân số với sự phát triển kinh tế xã hội thì lúc đó
họ mới có thể cải thiện được cuộc sống của mình. Nhận thức được rằng tuyên
truyền kế hoạch hoá gia đình và sử dụng các biện pháp tránh thai là một yếu tố
quyết định trực tiêps đến hành vi sinh đẻ của người dân, huyện Lập Thạch đã có
những kế hoạch để triển khai các công tác này cụ thể hiệu quả của nó được xem xét
qua biểu dưới đâu.
Biểu 9 Tình hình đầu tư cho chương trình kế hoạch hoá gia đình có thực hiện kế
hoạch hoá gia đình.
Chỉ tiêu 1993 1995 1997 1998 1999 2000
I. Đầu tư (đ) 34.000.000
0
46.510.00
0
61.270.000 67.730.00
0
65.100.00
0
77.940.00
0
II. BPTT
1. Tổng số 6.127 7.551 8.373 9.530 9.837 10.207
2. Hiện đại 6.127 7.551 8.373 9.530 9.837 4.856
- Vòng tránh thai 4.350 4.569 4.617 5.224 4.700 4.856
- Thuốc tránh thai 432 1.224 1.620 1.868 2.576 2.876
- Triệt sản 434 217 124 102 61 44
- Bao cao su 911 1.541 2.012 2.336 2.500 2.431
3. Truyền thống - - - - -
Nguồn: UBDS - KHHGD huyện Lập Thạch
Qua biểu 9 ta thấy tình hình sử dụng các biện pháp tránh thai đã tăng lên và
đã áp dụng các dụng cụ và các phương pháp mang tính hiện đại, một số các phương
pháp truỳen thống kém hiệu quả đã giảm đi một cách rõ rệt và hầu như không được
sử dụng nữa chỉ từ năm 1997 - 2000 công tác này đã được triển khai mang lại hiệu
quả rõ rệt, số người sử dụng các biện pháp tránh thai đã tăng lên từ 8373 người năm
1997 đến năm 2000 là 10207 người. Tổng đầu tư
chu chương trình thực hiện dân số kế hoạch hoá gia đình cũng tăng nên đáng kể.
Trong vòng 2 năm kể từ năm 1997 - 2000 đã tăng lên 1667000 đồng. Điều này đánh
giá một bước tiến quan trọng trong công tác phát triển nguồn nhân lực trong tương
lai.
Vấn đề đặt ra hiện nay đối với huyện Lập Thạch là đẻ công tác phát triển
nguồn nhân lực thực hiện một cách thuận tiện và triệt để thì sự phân bố và sử dụng
nguồn lao động trong các ngành nghề cũng là vấn đề bức xúc được đặt ra đóng vai
trò là nhân tố thúc đẩy cho sự phát triển của nguồn nhân lực chúng ta có thể xem xét
thực tế về ngành nghề hoạt động của lao động có việc làm taị tỉnh qua biểu sau:
Biểu 10: Ngành nghề hoạt động của lao động có việc làm tại tỉnh.
Ngành nghề
trồng trọt
1989 1999
SL % SL %
Nông nghiệp
+ Nông nghiệp 83483 97,15 101300 96,15
+ Lâm nghiệp 183 0,16 263 0,2
+ Ngư nghiệp
+ Công nghiệp 350 0,4 782 0,7
+ Xây dựng cơ
bản
263 0,27 524 0,49
Các ngành còn lại
+Giáo dục 1445 1,6 2160 2,5
+ GTVT 47 0,054 69 0,06
+Bưu điện, TT
liênlạc
22 0,02 38 0,03
+ Thương nghiệp,
cung ứng và
thương mại
189 0,2 215 0,2
Tổng số 85928 100 105.351 100
Nguồn: UBND huyện Lập Thạch
Nhìn biểu 10 ta thấy nông nghiệp của huyện vẫn là một ngành nghề chính
đóng vai trò chủ đạo chiếm một số lượng lơngân sách và không ngừng được tăng
nên từ năm 1989 số lượng nông nghiệp là 82485 người đến năm 1999 đã tăng lên
1013000 người bên cạnh đó lâm nghiệp và ngư nghiệp cũng được phát triển rất
nhanh và tổng số lượng không ngừng được tăng lên các ngành khác như công
nghiệp và xây dựng cơ bản cũng được chuyển biến dần dần và tổng số lượng cũng
ngày càng tăng từ năm 1989 số lượng là 613 đến năm 1999 là 1306. Một số các
ngành còn lại số lượng cũng không ngừng được tăng lên chứng tỏ một điều rằng đã
có sự chuyển biến cơ cấu dần dần trong những năm gần đây. Bên cạnh việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế thì huyên cũng có sự phát triển các thành phần kinh tế khác nhau
nó được thể hiện qua biểu sau.
Biểu 11: Cơ cấu lao động có việc làm theo khu vực kinh tế.
Khu vực
kinh tế
1989 1998 1999 2000
SL % SL % SL % SL %
Nhà nước 1,272 4,99 3417 3,94 3929 4,29 3564 87,71
Cổ phần 0 0 0 0 0 0 0 0
Tập thể 8056
8
94,28 79360 91,73 79534 86,93 8976
4
Tư nhân, cá
thể
611 0,72 7160 8,28 8027 8,77 9011 8,81
Đầu tư nước
ngoài
0 0 0 0 0 0 0 0
Tổng số 8545
1
100 86520 100 91490 100 1023
39
100
Nguồn: Phòng thống kê huyện Lập Thạch
Biểu trên cho thấy số lao động vtrong các thành phần kinh tế biến động theo
từng năm trong đó khu vực kinh tế nhà nước vẫn đóng một vai trò chủ đạo số lượng
cơ cấu lao động trong khu vực kinh tế này qua các năm được thay đổi không đáng
kể và kể từ năm 1989 cho đén năm 2000 lại đang có xu nướng giảm xuống từ 4272
lao động đén năm 1989 xuống còn 3564 lao động năm 2000. Tuy nhiên huyện Lập
Thạch vẫn là một huyện nghèo vẫn chưa có điều kiện để thiết lập các công ty cổ
phần hay đầu tư nước ngoài vào huyện là không có. Bên cạnh đó các khu vực kinh
tế tập thể và cá thể vẫn có chiều hướng gia tăng đánh giá xu hướng phát triển cuả
một nền kinh tế. Cụ thể là khu vực tập thể lực lượng lao động là 80.588 năm 1989
cho đến năm 2000 đã tăng lên 89700, kinh tế tư nhân cũng được tăng lên một cách
rõ rệt từ 661 lao động năm 1989 cho đến năm 2000 đã là 9011 lao động khu vực
này đã tăng lên đáng kể cho thấy xu hướng phát triển kinh tế của huyện càng về sau
thì càng có nhiều cá nhân tách ra kinh doanh khi cảm thấy có đủ năng lực khả năng
trong kinh doanh , đây là một nhan tố chính cho sự phát triển một nền kinh tế theo
hướng kinh tế thị trường có sự điêù tiết của nhà nước. Nhìn vào tình hình biến động
của cơ cấu lao động theo khu vực kinh tế ta thấy có sự tăng giảm không ổn định
theo chiều hướng khác nhau vấn đề này có thể lý giải bởi hành vi của thị trường, các
chính sách điều tiết của nhà nước, phụ thuộc nhiều vào cơ chế của thị trường.
Sự phát triển phân công lao động xã hội gắn chặt với sự phát triển nền kinh
tế, sự phát triển kinh tế cũng dựa trên tiến bộ khoa học kỹ thuật của sự thay đổi có
tính cách mạng của hệ thống công cụ sản xuất. Lịch sử của xã hội loài người đã
chứng minh rất rõ nhưng bước phát triển mới trong nền kinh tế xã hội đều gắn liền
với những biến đổi mới cao hơn về phân công lao động xã hội, trong đó con người
đóng vai trò hết sức quan trọng là tiền đề và làm chủ tư liệu sản xuất, làm chủ các
thành tưụ khoa học và phát hiện ra các công nghệ mới.
Lập Thạch là một huyện có tiềm lực về nguồn nhân lực hết sức dồi dào tuy
nhiên nguồn nhân lực này đang đứng trước một thử thách là nền kinh tế của huyện
vẫn còn nhiều khó khăn, nhân lực dư thừa chưa được sử dụng hết. Hiệu quả sử
dụng các nguồn nhân lực này thấp biểu hiện ở một số các mặt sau:
- Lãng phí nguồn nhân lực ở mức độ cao (do kinh tế chậm phát triển và lạc hậu do
kinh tế tăng trưởng khó khăn).
- Sự phân công các nguồn nhân lực không đồng đều giữa các ngành, các khu vực
kinh tế, tình hình đô thị hoá còn kém phát triển.
- Các nguồn nhân lực có trình độ lành nghề, các cán bộ chuyên môn có trình độ đại
học và trên đại học được bố trí sử dụng chưa được hợp lý.v.v.
Đứng trước tình hình này huyện phải có những phương hướng, chính sách
taoh điều kiện cho công tác phát triển nguồn nhân lực để mlàm tiền đề cho phương
hướng đẩy mạnh phát triển kinh tế trong tương lai.
Phần III
Các giải pháp cho vấn đề phát triển nguồn nhân lực
trong huyện lập thạch
I. Phương hướng phát triển nguồn nhân lực trong huyện Lập Thạch
Qua việc phân tích đánh giá thực trạng về phát triển nguồn nhân lực của
huyện Lập Thạch, căn cứ vào điều kiện thực tế của tình hình về các biến động về
kinh tế, chính trị xã hội ta có thể thấy được những mặt thuận lợi và khó khăn khi
triển khai công tác phát triển nguồn nhân lực của huyện. Với mục tiêu đáp ứng được
các kế hoạch phát triển kinh tế với tinh thần đẩy mạnh việc dịch chuyển cơ cấu kinh
tế, tăng cường ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất... đưa huyện trở thành một
đơn vị kinh tế phát triển thì phải tích cực huy động nội lực kết hợp với các nguồn
hỗ trợ, tăng cường xây dựng cở sở vật chất hạ tầng từng bước thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông thôn.
Để góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, sử dụng một cách đầy đủ
và có hiệu quả thì cần phải thực hiện một số các giải pháp sau:
1. Biện pháp giảm và ổn định mức sinh
Như ta đã biết qui mô và cơ cấu của dân số quyết định đến qui mô và cơ cấu
của nguồn nhân lực, một nguồn nhân lực phát triển được đánh giá dựa trên số lượng
và chất lượng, chất lượng của nguồn nhân lực chỉ có thể được tăng nên khi mà đời
sống kinh tế của huyện được phát triển muốn vậy giảm và ổn định mức sinh là rất
quan trọng trong việc giải quyết vấn đề này.
* Trước hết để giảm và ổn định mức sinh thì phải đẩy mạnh công tác thông tin giáo
dục truyền thông, phát huy có hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ làm công tác
dân số ở cơ sở thông qua việc theo dõi quản lý hộ gia đình quản lý đối tượng trong
độ tuổi sinh đẻ. Tuyên truyền, phổ biến rộng rãi các thông tin về dân số và phát
triển, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em các chủ trương chính sách dân số kế hoạch
hoá gia đình bằng nhiều loạiu hình phù hợp vơí đặc điểm của từng nhóm đối tượng,
với phong tục tập quán của nhân dân.
Huy động cộng đồng, các ngành, các cấp tham gia công tác thông tin giáo dục tuyên
truyền tạo phong trào xã hội mạnh mẽ thi đua thực hiện các mục tiêu dân số kế
hoạch hoá gia đình giáo dục lớp trẻ tạo sự chuyển biến sâu sắc trong nhận thức hiểu
rõ sự cần thiết và lợi ích của kế hoạch hoá gia đình để có sự lựa chọn qui mô gia
đình ít con, khoẻ mạnh, hạnh phúc như một chuẩn mực xã hội.
Các biện pháp cụ thể cần thực hiện:
+ Thực hiện phương châm xã hội hoá, huy động có hiệu quả các ngành, đoàn thể, tổ
chức xã hội và các cá nhân tích cực tham gia các hoạt động thông tin giáo dục tuyên
truyền dân số và kế hoạch hoá gia đình.
+ Thực hiện đồng bộ các hoạt động thông tin giáo dục tuyên truyền phù hợp với
từng vùng, từng nhóm đối tựơng (độ tuổi, nghề nghiệp, dân tộc...). Coi trọng
phương pháp tuyên truyền trực tiếp với nội dung và cách tiếp cận có tính hướng
dẫn, thuyết phục và luôn được điều chỉnh bổ xung để phù hợp với từng nhóm từng
vùng dân tộc.
+ Tiến hành các hình thức giáo dục toàn dân để thay đổi thái độ, hành vi phù hợp
với chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình cho mọi đối tượng thông qua hoạt động
của các ban ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội. Thực hiện giáo dục dân số trong và
ngoài nhà trường với nội dung thích hợp cho thế hệ trẻ.
* Bên cạnh công tác thông tin giáo dục tuyên truyền về dân số và kế hoạch hoá gia
đình chúng ta còn phải thực hiện các biện pháp về y tế kỹ thuật kế hoạch hoá gia
đình nhằm điều khiển hành vi sinh đẻ giúp các cá nhân thực hiện được mục tiêu
“Mỗi cặp vợ chồng chỉ có 1 -2 con, không đẻ quásớm và không đẻ dày”.
Để mục tiêu này được thực hiện một cách thuận lợi ta phải có các công tác
cụ thể sau:
+ Xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị, kỹ thuật cho ngành y tế của huyện nói
chung, đặc biệt chú trọng đến cơ sở y tế xâ, vừa đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh
của nhân dân vừa đáp ứng nhu cầu tại chỗ về thực hiện các biện pháp kế hoạch hoá
gia đình thuận lợi, an toàn và có hiệu quả.
+ Ngoài việc củng cố cơ sở y tế thực hiện các biện pháp tránh thai lâm sàng, cần
tăng cường công tác đào tạo đội ngũ cán bộ dân số cơ sở, tuyên truyền viên dân số
của các ngành để họ trở thành các lực lượng trực tiếp tư vấn và cấp phát các biện
pháp tránh thai gia đình (bao cao su, viên thuốc tránh thai) tại nhà cho các đối
tượng.
+ Trong điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật ở tuyến xã còn thiếu như
hiện nay rất cần phải duy trì thực hiện mô hình tuyên truyênf vận động kết hợp với
đưa dịch vụ kế hoạch hoá gia đình đến tận người dân, đặc biệt là những nơi còn khó
khăn về cơ sở vật chất và cán bộ dịch vụ kế hoạch hoá gia đình. Trên cơ sở tăng
cường các hoạt động tư vấn về các biện pháp tránh thai bằng việc cung cấp các
thông tin đúng và đủ về các ưu, nhược điểm của từng biện pháp cụ thể một cách
trung thực, khách quan, khoa học để đối tượng chuyển từ sự chấp nhận tới sử dụng
và tiếp tục sử dụng một biện pháp tránh thai thích hợp nhất.
Trên đây là các chủ trương chính sách mang tính xã hội để thực hiênh mục
tiêu có một nguồn nhân lực có chất lượng cao hơn trong tương lai, bên cạnh các
chính sách này thì chúng ta cũng phải giải quyết song song, đồng đều các chính
sách mang tính phương hướng kinh tế và chiến lược trong quá trình sử dụng nguồn
nhân lực.
2. Phương hướng cho công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Trong thời đại ngày nay chúng ta đang bước trên con đường công nghiệp
hoá, hiện đại hoá thành tựu khoa học kỹ thuật được áp dụng ngày càng nhiều vào
quá trình sản xuất, nó có vai trò to lớn trong quyết định sự phát triển kinh tế. Nhìn
vào thực tế này nhà nước nói chung và huyện Lập Thạch nói riêng phải đáp ứng nhu
cầu bằng cách phát triển một nguồn nhân lực có chất lượng, chuyên môn trình độ
ngày càng cao, cụ thể ta phải khai một số các chủ trương sau:
- Cần phải phát huy hơn nữa yếu tố con người. Con người có ý nghĩa quyết định
trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế là nhân tố trung tâm của mọi sự phát triển. Qua
việc đánh giá thực trạng nguồn nhân lực của huyện Lập Thạch ta thấy: Lập Thạch
có một nguồn nhân lực dồi dào, nhưng chất lượng vẫn còn rất thấp. Vì vậy muốn
phát huy được nhân tố con người phải chú trọng đến nâng cao chất lượng về các
mặt: thể lực, trí lực, truyền thống văn hoá... thông qua mạng lưới giáo dục truyền
thông ssong song cùng với giáo dục đào tạo chuyên nghiệp. Để có thể thực hiện
được công tác tác này ta có thể đưa ra các biện pháp cụ thể sau:
+ Đánh giá về nhu cầu đào tạo: triển khai tốt công tác này để tránh gây ra các lãng
phí về chi phí và thời gian để biết được nhu cầu về lao động trong từng lĩnh vực
kinh tế, từng ngành nghề cụ thể xác định đúng các đối tượng sẽ được đào tạo như
đội ngũ cán bộ chuyên môn và người lao động nhằm nâng cao chất lượng công việc
và thực tế dặt ra. Bên cạnh đó phải đổi mới mục tiêu và chuyên môn đào tạo bằng
mọi biện pháp để khuyến khích thúc đẩy tạo điều kiện cho người lao động và cho
cán bộ chuyên viên không ngừng nâng cao khả năng trình độ và tay nghề.
Dựa vào điều kiện thực tế về tiềm lực và khó khăn của huyện để lựa chọn các
hình thức phương pháp đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho thích hợp tiếp tục
phát huy các phương pháp truyền thống của huyện như đưa cán bộ quản lý và người
lao động đi học các lớp nâng cao trình độ công việc dưới nhiều dạng dài hoặc ngắn
ngày ở những nơi khác. Bên cạnh đó cần phải tổ chức thêm các cuộc thảo luận, các
lớp bồi dưỡng cán bộ chuyên môn và người lao động trực tiếp sản xuất ngay tại
huyện.
Cần phải thành lập một quỹ đào tạo và phát triển có quy mô đủ khả năng đáp
ứng được chi phí về các hoạt động cụ thể như: bồi dưỡng đội ngũ giảng viên. đầu tư
trang thiết bị, tài liệu đầy đủ chuyên môn... Bên cạnh đó cũng có những chính sách
để sử dụng và phân bổ chi phí một cách hợp lý đem lại hiệu quả cao nhất. Ta có thể
biểu hiện sự phân bổ nguồn quỹ đào tạo và phát triển theo sơ đồ sau:
Nhìn vào sơ đồ trên ta có thể khái quát lại một cách cụ thể như sau:
Trước hết chúng ta cần phải thành lập một bộ phận chuyên trách đào tạo và phát
triển. Bộ phận này phụ thuộc toàn bộ việc từ thu thập các thông tin về nguồn nhân
lực của huyện, thành lập quỹ đào tạo bằng nhiều nguồn khác nhau, dùng quỹ này để
phân bổ chi phí hợp lý cho các khâu như giám sát, chuẩn bị, thực hiện và đánh giá
Bộ phận chuyên
trách về đào tạo
và phát triển
Bộ phận
thanh tra
giám sát
Quỹ đào tạo
Khâu chuẩn
bị cho ĐT-
PT
Khâu thực
hiện việc
ĐT-PT
Khâu đánh
giá kết quả
ĐT-PT
Thông tin
phản hồi
Phân
bổ
kết quả về đào tạo nguồn nhân lực mới phát triển bồi dưỡng thêm nâng cao trình độ
cho nguồn nhân lực đã được đào tạo ban đầu, bên cạnh đó đề ra các chủ trương
chính sách cho nguồn nhân lực sau đào tạo, quy hoạch được lưới cơ sở cho dạy
nghề.
+ Mở rộng qui mô sản xuất, tăng cường phát triển cơ cấu các ngành nghề khác
nhau trong huyện nhằm tạo thêm công ăn việc làm thu nhập cho ngươì lao động và
nâng cao mức sống ổn định cho cán bộ chuyên viên tạo điều kiện cho họ có xu
hướng phát triển năng lực, phát triển trình độ chuyên môn nghề nghiệp của mình.
Như ta có thể thấy Lập Thạch là một huyện tiềm năng kinh tế chủ yếu là nông
nghiệp 80% dân số hoạt động nông nghiệp, các ngành nghề khác như công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ... phát triển rất kém chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ. Vì
vậy thu nhập theo đầu người còn rất thấp khoảng 1576000 đồng/người/năm. Với
một thực tế như vậy thì ảnh hưởng rất lớn đến công tác phát triển nguồn nhân lực,
một đặc trưng của nền kinh tế nông nghiệp nông thôn là hầu như không có thất
nghiệp nhưng thật ra thì một lực lượng lao động đã rất lãng phí có thể coi họ bị rơi
vào tình trạng thất nghiệp trá hình, để tạo động lực phát triển nguồn nhân lực thì
những vấn đề như trên phải sớm được khắc phục trên cơ sở đó có thể đưa ra một vài
chính sách cụ thể để khắc phục tình trạng trên như sau:
*, Khuyến khích tự do di chuyển và lành nghề hữu ích đây là hình thức hoạt động
nghề nghiệp phong phú, đa dạng có thể giải quyết được nhiều việc làm cho người
lao động theo quan hệ cung cầu của thị trường sức lao động nâng cao nhận thức về
việc làm cho bản thân người lao động. Động viên thanh niên xung phong vào xây
dựng, làm giao thông, vừa tạo việc làm đồng thời giáo dục đào tạo thanh niên tham
gia vào các công trình nhà nước địa phườg. Tổ chức xuất khẩu lao động đi nước
ngoài tuyển dụng vào các doanh nghiệp, công ty liên doanh trong tỉnhvà trên cả
nước.
*, Trên cơ sở chuyển đổi kinh tế nông lâm nghiệp mà phân bố lại dân cư vào lao
động nông thôn. Đẩy mạnh phát triển các hình thức sản xuất trong chăn nuôi, kinh
tế vườn đồi, vườn rừng, mở rộng mô hình trang trại, phát triển nghề rừng, ngành
nghề truyền thống...thông qua hệ thống chính sách của nhà nước. Thực hiện chính
sách di dân, dãn dân cư đi xây dựng các vùng kinh tế mới trong nước, chuyển dần
vào các vùng dự án phát triển kinh tế.
*, Để có một việc làm ổn định người lao động phải được đào tạo ban đầu và huyện
phải có các trung tâm dạy nghề cơ sở tạo điều kiện cho người lao động học tập.
Dưới sự lãnh đạo của UBND tỉnh Vĩnh Phú, huện Lập Thạch đã thành lập được
trung tâm dạy nghề dưới sự hỗ trợ của nhà nước. Tuy nhiên hàng năm vẫn phải tổ
chức mở thêm các năng lựcớp dạy nghề dưới nhiều hình thức từ 3 tháng đến 1 năm
cho các lao động làm nghề nông nghiệp, chuyển giao công nghệ, đưa tiến bộ kỹ
thuật vào sản xuất lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, phát triển nghề rừng, nghề làm
vườn trồng cây ăn quả hoa màu. Đào tạo và phát triển thêm cho các nghề sửa chữa
cơ khí, điện dân dụng, mộc, nề, cắt may theo nguyện vọng và khả năng của người
lao động nhằm tạo điều kiện cân bằng giữa cung và cầu lao động của huyện.
+ Tạo môi trường kinh tế và môi trường pháp lý phát triển hệ thốngực hiện chính
sách tín dụng ưu đãi để người nghèo có thể học nghề, cải cách những thủ tục hành
chính rườm rà tạo thuận tiện cho các khu vực kinh tế như: kinh tế tư nhân, tập thể ...
có thể thuận tiện trong lĩnh vực đầu tư v à hoạt động. Tăng cường công tác thông
tin dịch vụ lao động, phát triển thị trường sức lao động. Các trung tâm dịch vụ, tư
vấn về lao động không chỉ có chức năng môi giới tạo việc làm, cung cấp nhân lực
cho khu vực cơ sở sử dụng lao động mà còn phải trở thành trung tâm nghiên cứu,
điều
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Một số ý kiến về phát triển nguồn nhân lực trong huyện Lập Thạch.pdf