Tài liệu Luận văn Một số vấn đề về xây dựng và thực hiện kế hoạch về tiêu thụ sản phẩm công nghiệp của công ty xây lắp- Vật tư- Vận tải sông Đà 12: Luận văn
Một số vấn đề về xây dựng
và thực hiện kế hoạch về tiêu
thụ sản phẩm công nghiệp của
công ty xây lắp- Vật tư- Vận
tải sông Đà 12
LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường tiêu thụ sản phẩm giữ vai trò quan trọng
trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tiêu thụ sản phẩm là
quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm hàng hoá. Qua
tiêu thụ, sản phẩm chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái tiền tệ và kết
thúc một vòng luân chuyển vốn. Có tiêu thụ sản phẩm mới có vốn để tiến
hành tái sản xuất mở rộng tăng nhanh tốc luân chuyển vốn, nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn.
Hiện nay các doanh nghiệp đang phải đối diện với môi trường kinh
doanh biến động không ngừng, diễn biến phức tạp và chiều rủi ro. Áp lực cạnh
tranh ngày càng tăng, thị trường đầu ra của sản phẩm sản xuất bị thu hẹp. Công
tác tiêu thụ sản phẩm gặp rất nhiều khó khăn trở ngại, sự duy trì và giữ vững tốc
độ tiêu thụ, khả năng xâm nhập và mở rộng thị trường củ...
66 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1042 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Một số vấn đề về xây dựng và thực hiện kế hoạch về tiêu thụ sản phẩm công nghiệp của công ty xây lắp- Vật tư- Vận tải sông Đà 12, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Một số vấn đề về xây dựng
và thực hiện kế hoạch về tiêu
thụ sản phẩm công nghiệp của
công ty xây lắp- Vật tư- Vận
tải sông Đà 12
LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường tiêu thụ sản phẩm giữ vai trò quan trọng
trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tiêu thụ sản phẩm là
quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm hàng hoá. Qua
tiêu thụ, sản phẩm chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái tiền tệ và kết
thúc một vòng luân chuyển vốn. Có tiêu thụ sản phẩm mới có vốn để tiến
hành tái sản xuất mở rộng tăng nhanh tốc luân chuyển vốn, nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn.
Hiện nay các doanh nghiệp đang phải đối diện với môi trường kinh
doanh biến động không ngừng, diễn biến phức tạp và chiều rủi ro. Áp lực cạnh
tranh ngày càng tăng, thị trường đầu ra của sản phẩm sản xuất bị thu hẹp. Công
tác tiêu thụ sản phẩm gặp rất nhiều khó khăn trở ngại, sự duy trì và giữ vững tốc
độ tiêu thụ, khả năng xâm nhập và mở rộng thị trường của các sản phẩm sản
xuất trở nên mong manh. Trong bối cảnh đó, hoạt động nghiên cứu thị trường,
phân tích khả năng tiềm lực của doanh nghiệp để đưa ra hững định hướng tốt
cho tiêu thu sản phẩm là vô cùng cần thiết. Đó là công việc và kết quả của quá
trình lập và thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm.
Lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm sẽ giúp cho doanh nghiệp xác định
được thị trường tiêu thụ. Khối lượng sản phẩm, qui cách mẫu mã chủng loại
từ đó có kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp. Giúp doanh nghiệp huy
động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực chủ động ứng phó với những thay
đổi trên thị trường.
Như vậy lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa quan trọng với
công tác tiêu thụ sản phẩm bởi kết quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Điều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất
kinh doanh phải xem xét nghiên cứu vận dụng khoa học về lập kế hoạch
tiêu thụ sản phẩm. Hiểu được lý luận về lập kế hoạch tiêu thụ sẽ giúp cho
doanh nghiệp ra những quyết định đúng đắn cho định hướng tiêu thụ sản
phẩm, cũng như quyết định đúng đắn cho sản xuất kinh doanh đảm bảo cho
ổn định và phát triển.
Qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu lý thuyết về lập kế hoạch tiêu
thụ sản phẩm cùng với tìm hiểu thực tế tại công ty Xây lắp- Vật tư- Vận tải
sông Đà 12. Em nghiên cứu về vấn đề này trong giới hạn đề tài:
“Một số vấn đề về xây dựng và thực hiện kế hoạch về tiêu thụ sản
phẩm công nghiệp của công ty xây lắp- Vật tư- Vận tải sông Đà 12”
PHẦN I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC KẾ HAỌCH TIÊU THỤ SẢN
PHẨM
CỦA DOANH NGHIỆP.
I. TIÊU THỤ SẢN PHẨM VÀ Ý NGHĨA CỦA KẾ HOẠCH TIÊU THỤ SẢN
PHẨM
1. Sự cần thiết và ý nghĩa của tiêu thụ sản phẩm.
1.1. Sự cần thiết của tiêu thụ sản phẩm.
Đặc trưng lớn nhất của tiêu thụ hàng hoá là sản phẩm được sản xuất
để trao đổi, lưu thông, phân phối ra đến tay người tiêu dùng. Quá trình tái
sản xuất mở rộng bao gồm bốn khâu: Sản xuất - Trao đổi- Phân phối- Tiêu
dùng. Các khâu này có quan hệ mật thiết tương hỗ nhau, nếu một khâu được
tiến hành tốt sẽ thúc đẩy tích cực những khâu kia. Trao đổi, phân phối là
khâu nằm trong hoạt động thương mại đầu ra của doanh nghiệp sản xuất.
Hoạt động này là tất yếu khách quan, một doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại và
phát triển mở rộng được khi sản phẩm sản xuất ra được người tiêu dùng
chấp nhận trả một khoản tiền để có được sản phẩm đó. Tức là doanh nghiệp
thực hiện tiếp quá trình sản xuất (H’- T’). Chỉ khi doanh nghiệp bán được
hàng thu được tiền thì mới xây dựng kế hoạch cho quá trình tái sản xuất.
Như vậy hoạt động thương mại là không thể thiếu trong mỗi doanh
nghiệp sản xuất. Tiêu thụ sản phẩm là một trong những nội dung cơ bản của
hoạt động thương mại trong doanh nghiệp. Đó là lĩnh vực hoạt động động
trên thị trường sản phẩm- hoạt động bán hàng. Tiêu thụ sản phẩm là cầu nối
giữa sản xuất và tiêu dùng làm cho quá trình tái sản xuất diễn ra liên tục.
Tiêu thụ sản phẩm là khâu thực hiện giá trị của sản phẩm đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng về số lượng, chất lượng, chủng loại, qui cách, phương thức
vận chuyển, thời hạn giao hàng, phương thức thanh toán.
Tiêu thụ sản phẩm là tổng thể các biện pháp về mặt tổ chức, kinh tế
và kế hoạch nhằm thực hiện việc nghiên cứu và nắm bắt nhu cầu thị trường,
tổ chức sản xuất tiếp cận sản phẩm, chuẩn bị hàng hoá và suất bán theo yêu
cầu của khách hàng với chi phí kinh doanh nhỏ nhất.
Những nguyên tắc cơ bản trong tiêu thụ sản phẩm là: nhận thức và
thoả mãn đầy đủ nhu cầu của khách hàng đảm bảo tính liên tục trong quá
trình tiêu thụ sản phẩm sản xuất là vô cùng cần thiết, nếu thiếu nó doanh
nghiệp không thể tồn tại. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phảiluông tìm hiểu
đưa ra những biện pháp tốt nhất để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm sao cho tổng
lượng tiền tệ bỏ ra để có được sản phẩm phải nhỏ hơn tổng lượng tiền tệ thu
về từ hoạt động bán (T’ >T). Đó là điều kiện cơ bản đảm bảo tái sản xuất
mở rộng.
1.2. Tiêu thụ sản phẩm trong cơ chế thị trường và cơ chế kế hoạch
hoá tập trung.
Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh
doanh, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Ứng
với mỗi cơ chế quản lý kinh tế công tác tiêu thụ sản phẩm được thực hiện
bằng các hình thức khác nhau.
Trong cơ chế quản lý kinh tế tập trung, vấn đề tiêu thụ sản phẩm được
thực hiện hết sức đơn giản. Nhà nước cấp chỉ tiêu cung ứng vật tư cho các
đơn vị sản xuất theo số lượng đã xác định trước. Các cơ quan hành chính
can thiệp rất sâu vào nghiệp vụ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp,
những lại không chụ trách nhiệm về các quyết định của mình. Quan hệ giữa
các ngành chủ yếu là quan hệ dọc, được kế hoạch hoá bằng chế độ cấp
phát giao nộp sản phẩm hiện vật. Các doanh nghiệp chủ yếu được thực hiện
chức năng sản xuất, việc đảm bảo các yếu tố vật chất đầu vào như: nguyên
vật liệu, nhiên liệu... được cấp trên bao cấp theo các chỉ tiêu cấp phát.
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm trong thời kỳ này chủ yếu là giao nộp
sản phẩm cho các đơn vị theo giá cả do nhà nước đã định sẵn. Do không có
môi trường cạnh tranh chất lượng hàng hoá ngày càng giảm sút, mẫu mã
kiểu dáng ngày càng đơn điệu.
Như vậy trong nền kinh tế tập trung khi mà ba vấn đề cơ bản: sản xuất
cái gì? bao nhiêu? cho ai? đều do nhà nước quyết định thì tiêu thụ sản phẩm
chỉ là việc tổ chức bán sản phẩm hàng hoá sản xuất ra theo kế hoạch và giá
cả được ấn định từ trước.
Sơ đồ 1. Quan hệ thương mại của doanh nghiệp sản xuất trong cơ chế
KHH tập trung.
Trong nền kinh tế thị trường, tiêu thụ là mục đích cơ bản của sản xuất
hàng hoá, là công việc hàng ngày của doanh nghiệp. Nhà nước định hướng
hoạt động cho các doanh nghiệp và tổ chức thị trường. Doanh nghiệp phải tự
giải quyết quá trình tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra, tức là phải thực hiện các
hoạt động tiêu thụ trên thị trường thích ứng.
Nhà nước
DN cung
ứng vật
tư.
DNSX DNTM Người
tiêu dùng
Sơ đồ 2: QHTM của DNSX trong cơ chế thị trường.
Trong thời này tiêu thụ sản phẩm được hiểu theo nghĩa rộng hơnlà
một quá trình kinh tế bao gồm nhiều khâu từ việc nghiên cứu thị trường, xác
định nhu cầu khách hàng tổ chức sản xuất đến việc xúc tiến bán hàng...
nhằm mục đích đạt hiệu quả cao nhất. Lúc này tiêu thụ sản phẩm gắn giữa
người sản xuất với người tiêu dùng, nó giúp cho người sản xuất nắm bắt kịp
thời những thông tin phản hồi để tổ chức sản xuất với số lượng chất lượng và
thời gian hợp lý. Đồng thời khách hàng được tìm hiểu kỹ về hàng hoá tăng
khả năng thoả mãn nhu cầu. Tuy nhiên trong cơ chế thị trường việc tiêu thụ
sản phẩm là không hề đơn giản, sản xuất đã khó nhưnh tiêu thụ sản phẩm lại
càng khó hơn. Vì thế tiêu thụ được sản phẩm phải huy động sử dụng nhiều
công cụ , biện pháp khác nhau, lựa chọn giải pháp tối ưu. Vấn đề này thực
hiện sao cho trang trải được các khoản chi phí, bảo đảm kinh doanh có lãi là
rất khó hiện nay.
Chuyển sang cơ chế quản lý mới, quyền tự chủ của các doanh nghiệp
sản xuất (DNSX) được mở rộng. Về nguyên tắc, doanh nghiệp hoạt động
theo các tín hiệu của thị trường. Doanh nghiệp không chỉ chịu trách nhiệm
với sự tồn tại và phát triển của nó, mà còn có trách nhiệm đóng góp vào sự
phát triển của toàn xã hội. Trong quá trình ấy, không ít doanh nghiệp tỏ rõ
khả năng thích ứng của mình nhưng cũng còn nhiều doanh nghiệp gặp khó
khăn lúng túng trong sản xuất kinh doanh. Thị trường tiêu thụ sản phẩm là
một trong những khó khăn của DNSX. Sản xuất sản phẩm ra không tiêu thụ
được gây sự ách tắc trong kinh doanh.
Thực tế tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp nước ta gặp rất nhiều
khó khăn do những nguyên nhân sau:
- Sản phẩm kém chất lượng.
- Sản phẩm không phù hợp với thị hiến tiêu dùng và xu thế biến đổi
thị hiến tiêu dùng.
- Giá bán cao không phù hợp với khả năng của người tiêu dùng.
- Người tiêu dùng chưa thực sự hiểu sản phẩm của doanh nghiệp hay
sản phẩm chưa tiếp cận tới người tiêu dùng.
- Sức tiêu thụ kém, tốc độ tiêu thụ chậm.
- Dịch vụ bán hàng tồi.
Doanh nghiệp
Thị trường các
yếu tố sản xuất
Nhà
nước
Thị trường hàng
hoá sản phẩm
Doanh nghiệp
- Hàng ngoại nhập lậu, trốn thuế, hàng giả.
- Thiếu chính sách hữu hiệu của nhần nước để đảm bảo sản xuất trong
nước...
Thực tế đặt ra nhiều vấn đề mà doanh nghiệp cần phải quan tâm tích
cực nghiên cứu thị trường, xây dựng kế hoạch tiêu thụ tổ chức mạng lưới
bán hàng, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ trước, trong và sau bán hàng.
Đó là vấn đề cấp bách luôn đặt ra đối với mỗi doanh nghiệp trong quá trình
tiêu thụ sản phẩm.
Như vậy chuyển sang cơ chế thị trường các doanh nghiệp luôn phải
đối đầu với môi trường kinh doanh biến động không ngừng, diễn biến phức
tạp là có nhiều rủi ro. Áp lực cạnh tranh ngày càng gia tăng và con đường đi
lên phía trước của các doanh nghiệp có nhiều trướng ngại. Khâu tiêu thụ sản
phẩm. Thị trường tiêu thụ sản phẩm đang được coi là một trong những khó
khăn hàng đầu hiện nay của các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần
kinh tế. Đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất phải tự chịu trách nhiệm với
tất cả các quyết định SXKD của mình.
1.3. Ý nghĩa của tiêu thụ sản phẩm.
Theo nghĩa hẹp, tiêu thụ sản phẩm là quá trình chuyển giao sản phẩm
hàng hoá đến khách hàng và nhận tiền từ họ.
Trong nền kinh tế thị trường hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp thường được hiểu theo nghĩa rộng. Đó là một quá trình từ tìm hiểu
nhu cầu của khác hàng trên thị trường tổ chức mạng lưới tiêu thụ, xúc tiến
bán hàng với hàng loạt hoạt động hỗ trợ. Quá trình này nhằm đảm bảo các
yêu cầu cơ bản như: tăng thị phần của doanh nghiệp, tăng doanh thu và lợi
nhuận, tăng tài sản vô hình, phục vụ khách hàng.
Như vậy quá trình tiêu thụ không những ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp mà nó còn có ý nghĩa quan trọng tới toàn
bộ quá trình tái sản xuất - xã hội.
Trước hết tiêu thụ sản phẩm sẽ do doanh nghiệp kiểm tra, đánh giá lại
sản phẩm, từ đó có giải pháp khắc phục nhược điểm và nâng cao ưu điểm
cho quá trình tái sản xuất. Sức tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp thể hiện
uy tín của doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm, sự thích ứng với nhu cầu
người tiêu dùng và sự hoàn thiện của các hoạt động dịch vụ. Do đó tiêu thụ
sản phẩm phản ánh đầy đủ những điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp.
Thứ hai tiêu thụ sản phẩm gắn người sản xuất với người tiêu dùng, nó
giúp các nhà sản xuất hiểu thêm về kết quả sản xuất của mình cũng như nhu
cầu của khách hàng.
Về phương diện xã hội thì tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa trong việc cân
đối cung cầu vì nền kinh tế quốc dân là một tổng thể thống nhất với cân
bằng, những tương quan tỷ lệ nhất định. Sản phẩm sản xuất ra tiêu thụ được
tức là sản xuất đang diễn ra một cách bình thường trôi chảy, tránh được sự
mất cân đối, giữ được bình ổn trong xã hội. Đồng thời tiêu thụ sản phẩm
giúp các đơn vị xác định phương hướng và bước đi của kế hoạch sản xuất
cho giai đoạn tiếp theo. Thông qua tiêu thụ sản phẩm dự đoán được nhu cầu
tiêu dùng của xã hội nói chung và từng khu vực nói riêng đối với từng loại
sản phẩm.
Tóm lại tiêu thụ có ý nghĩa quan trọng trong quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Nó thể hiện ở những điểm cơ bản như: quyết định
sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp xác định
được kết quả sản xuất, tránh ùn tắc vốn, định mức dự trữ đảm bảo quá trình
lưu thông được liên tục, góp phần đảm bảo sự ổn định và phát triển của nền
kinh tế xã hội.
2. Sự cần thiết và ý nghĩa của quá trình tiêu thụ sản phẩm.
2.1. Sự cần thiết của quá trình tiêu thụ sản phẩm.
Kế hoạch là một công cụ quản lý đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử
phát triển xã hội. Nhưng thực sự nổi bật và là công cụ quản lý chủ yếu với
hệ thống xã hội chủ nghĩa. Kế hoạch hoá giúp các nhà nước xã hội chủ nghĩa
điều hành tổng thể nền kinh tế quốc dân. Do ảnh hưởng của thời kỳ lịch sử
với sự áp dụng thái quá kế hoạch hoá đã làm cho công cụ này trở thành kìm
hãm sự phát triển. Tuy nhiên nó vẫn là thành tựu to lớn của chủ nghĩa xã hội.
Nhở đó mà các nước xã hội chủ nghĩa đã có những thành công trong các lĩnh
vực kinh tế, công nghệ khoa học, giáo dục và đời sống, nhất là khắc phục
hậu quả sau chiến tranh. Nhà nước sử dụng công cụ này đã tập trung được
nguồn lực vào các lĩnh vực cần thiết, góp phần ổn định và phát triển nhanh
chóng.
Ngày nay, khi nghiên cứu về kế hoạch hoá người ta không thể phủ
nhận vai trò vô cùng quan trọng của nó. Vì nó là hoạt động có ý thức của
con người. Đó là biểu hiện của những đặc trưng cơ bản sau:
Trước khi con người bắt tay vào làm việc gì đó đã hình dung ra được
kết quả của công việc đó rồi.
Chẳng hạn như: Để sản xuất ra cái máy nào đó người ta đã biết được
cái máy đó như thế nào.
+ Mọi hoạt động của con người đều có mục tiêu rõ ràng.
+ Người ta luôn tìm cách giải quyết công việc một cách nhanh nhất,
những đem lại hiệu quả cao.
Kế hoạch hoá tuân theo quá trình tư duy lôgíc của con người. Đó là
việc chuẩn bị trước tất cả các điều kiện cần thiết để tiến hành công việc sao
cho đạt được kết quả như mong muốn.
Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tùy theo ngành nghề
kinh doanh, đặc điểm sản xuất cũng như những mục tiêu đặt ra. Doanh
nghiệp phải hình thành, phải hoạch đinh ra những công đoạn, cách thức tổ
chức, tiến hành công việc ở mỗi công đoạn khác nhau. Đó là cơ sở cho các
hoạt động khi chính thức bước sản xuất kinh doanh. Mặt khác doanh nghiệp
bao gồm các thành viên khác nhau từ người quản lý đến đội ngũ công nhân.
Các thành viên này phải có sự liệ kết chặt chẽ thông qua công việc họ làm.
Muốn vậy họ phải nắm được mục tiêu của công việc là gì, các cách thức tiến
hành như thế nào, trình tự tiến hành,... Tất cả những vấn đề đặt ra là nhiệm
vụ cũng như nội dung của công tác kế hoạch hoá.
Vậy kế hoạch hoá hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp là một tất
yếu khách quan.
Kế hoạch hoá hoạt động kinh doanh một doanh nghiệp là kế hoạch
hoá các khâu, các bộ phận, các lĩnh vực hợp thành của quá trình kinh doanh.
Ví dụ như: kế hoạch hoá lao động, kế hoạch hoá vật tư, kế hoạch hoá
tiêu thụ sản phẩm, kế hoạch hoá sản xuất,... Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm là
một bộ phận hợp thành kế hoạch sản xuất kinh doanh. Nó có một quan hệ
mật thiết với các kế hoạch khác. Chẳng hạn như: kế hoạch vật tư, kế hoạch
sản xuất,...
Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm là vô cùng cần thiết. Bởi tiêu thụ sản
phẩm là giai đoạn cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh, nó xác định
kết quả kinh doanh và quyết định đến quá trình tái sản xuất.
Việc lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm sẽ giúp cho doanh nghiệp xác
định được thị trường tiêu thụ, khối lượng sản phẩm, qui cách mẫu mã, chủng
loại từ đó có kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp.
Hơn nữa vấn đề lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm còn giúp cho quá
trình thị trường được đẩy nhanh làm tăng vòng quay vốn kinh doanh giúp
cho doanh nghiệp tiết kiệm vốn.
Một định hướng cụ thể sẽ giúp cho công việc được tiến hành có cơ
sở, có sự so sánh, đánh giá và kiểm nghiêm qua đó mà tìm cách thích ứng
với thị trường. Đó là tầm quan trọng cũng như sự cần thiết của kế hoạch tiêu
thụ sản phẩm.
2.2. Ý nghĩa của kế hoạch tiêu thụ sản phẩm:
Việc tiêu thụ sản phẩm là một vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với
doanh nghiệp nó quyết định việc mở rộng và phát triển của doanh nghiệp.
Tiêu thụ tốt thì phải làm tốt công tác lập kế hoạch tiêu thụ có thế thì doanh
nghiệp mới hoàn thành tốt các chỉ tiêu kế hoạch nhà nước giao cho và cũng
thông qua kế hoạch tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp biết được khả năng tiêu
thụ sản phẩm của mình như thế nào.
* Ý nghĩa:
- Kế hoạch tiêu thụ bảo đảm cho doanh nghiệp chủ động ứng phó với
những thay đổi trên thị trường.
- Kế hoạch tiêu thụ phát triển sản phẩm huy động và sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực.
- Nó là công cụ quả lý của doanh nghiệp và để đánh giá hoạt động sản
xuất kinh doanh của các bộ phận ở doanh nghiệp.
Mặt khác việc lập kế hoạch tiêu thụ giúp cho doanh nghiệp thực hiện
tiêu thụ sản phẩm tốt hơn, và xác định các nguồn năng lực tiềm tàng về vật
tư kỹ thuật lao động, nguồn vốn có thể huy động trong năm kế hoạch. Từ đó
doanh nghiệp thực thiện tốt hơn công tác tiêu thụ sản phẩm, làm tăng doanh
số bán, giúp doanh nghiệp tăng vị thế trên thương trường, phạm vi thị trường
rộng khắp và qui mô lớn. Nhờ vậy việc tiêu thụ sản phẩm phải được thực
hiện theo một kế hoạch hợp lý thì các doanh nghiệp sẽ bán được nhiều hàng
hơn, được nhiều người biết đến hơn.
Kế hoạc tiêu thụ có ý nghĩa quan trọng góp phần vào việc làm cho
quá trình kinh doanh diễn ra liên tục, có hiệu quả, nhờ có kế hoạch thị
trường mà doanh nghiệp chủ động bán ký kết các đợn hợp đồng kinh tế. Mặt
khác nhờ có lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm thì các doanh nghiệp mới biết
được việc tiêu thụ sản phẩm của mình so với kế hoạch đã được chưa để còn
có hướng phấn đấu.
Lập kế hoạch tiêu thụ giúp cho tổ chức tốt hoạt động thị trường nhằm
tạo ra các ưu thế trong cạnh tranh nhằm mở rộng và chiếm lĩnh thị trường,
bằng việc sử dụng các phương thức thị trường và giá bán hợp lý, tổ chức tốt
hoạt động quảng cáo, xúc tiến và yểm trợ bán hàng cho doanh nghiệp có thể
tạo ra các ưu thế trong cạnh tranh mở rộng thị trường hiện tại và chiếm lĩnh
phát triển các thị trường mới.
Thông qua kế hoạch tiêu thụ khuyến khích các nhà lãnh đạo thường
xuyên suy nghĩ đến triển vọng của công ty, nó đảm bảo phối hợp ăn ý hơn
những nỗ lực của công ty nó xây dựng những chỉ tiêu hoạt động để sau này
làm căn cứ kiểm tra đánh giá, buộc công ty phải xác định rõ ràng phương
hướng mục tiêu kinh doanh, chiến lược kinh doanh cụ thể, nó đảm bảo cho
công ty có khả năng đối phó với những biến động bất ngờ, nó thể hiện cụ thể
hơn mối quan hệ qua lại giữa chức trách nhiệm vụ của tất cả những người có
trách nhiệm trong công ty.
Hơn nữa lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm còn là cơ sở để lập các kế
hoạch khác trong công ty.
Như vậy lập kế hoạch tiêu thụ là một quá trình quản lý nhằm tạo ra và
duy trì sự ăn khớp về kế hoạch giữa các mục tieu của công ty, tiềm năng của
nó và những cơ hội trong lĩnh vực Marketing. Nó dựa vào chức năng, nhiệm
vụ, khả năng sản xuất kinh doanh của công ty cũng như các đối thủ cạnh
tranh.
Lập kế hoạch tiêu thụ đó là định hướng cho hoạt động thị trường của
công ty cho một thời kỳ nhất định, tháng, quí, năm với những giải pháp
nhằm thực hiện những mục tiêu đề ra, mục tiêu đó là bán hết hàng sản xuất
ra tránh tồn kho hàng hoá và làm thế nào để phục vụ kịp thời nhu cầu của
khách hàng, tránh tình trạng hàng hoá sản xuất ra lúc thì không bán hết, lúc
thì không có để bán cho khách hàng.
Tóm lại: tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa quan trọng nó ảnh hưởng đến
thành công hay thất bại của công tác tiêu thụ sản phẩm, có lập kế hoạch tiêu
thụ thì doanh nghiệp mới có khả năng nắm bắt được nhu cầu thị trường và
chủ động đối phó với những diễn biến phức tạp để chuẩn bị kế hoạch sản
xuất hợp lý nhằm phục vụ nhu cầu khách hàng một cách hợp lý, đem lại lợi
nhuận kinh doanh cao. Vì vậy trong mỗi doanh nghiệp cần chú trọng hơn với
công tác lập kế hoạch tiêu thụ, có thể thành lập riêng một đội ngũ chuyên lập
kế hoạch sao cho hợp lý chính xác, tạo tiêu đề thực sự vững chắc cho công
tác tiêu thụ sản phẩm.
II. Nội dung và trình tự xây dựng kế hoạch tiêu thụ sản phẩm.
1. Nội dung và các chỉ tiêu của kế hoạch tiêu thụ sản phẩm.
Trong nền kinh tế thị trường tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa quan trọng
đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Muốn cho hoạt động này được
tiến hành tốt thì hoạch định một chương trình cụ thể làm cơ sở để thực hiện.
Đó là kế hoạch tiêu thụ sản phẩm. Nó bao gồm các nội dung sau.
Kế hoạch khách hàng.
Trong những năm gần đây khách hàng là đối tượng luôn được các
doanh nghiệp đưa lên hàng đầu trước khi bước vào sản xuất kinh doanh một
mặt hàng nào đó. Vì khách hàng sẽ là người trả lời kết quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, họ quyết định đến sự tồn tại của doanh nghiệp.
Do đó khi xây dựng kế hoạch khách hàng phải nghiên cứu để hiểu rõ
tâm lý, thị hiến của người tiêu dùng. Mỗi doanh nghiệp đều có đối tượng
khách hàng rất đa dạng. Xác định đúng đắn tiêu chí phân loại khách hàng có
ý nghĩa với doanh nghiệp để định hướng nhóm khách hàng chủ yếu, thứ yếu,
nhóm khách hàng hiện hữu và nhóm khách hàng tiềm năng.
Kế hoạch khách hàng là tập trung vào nhóm khách hàng chủ yếu của
doanh nghiệp. Ở đây kế hoạch cần chỉ ra nhu cầu của khách hàng trên các
vùng địa lý khác nhau tập hợp các nhu cầu đó xem có phù hợp với khả năng,
tiềm lực mà công ty có thể thể đáp ứng được hay không. Tức là doanh
nghiệp phải chỉ ra nhóm khách hàng mục tiêu, nhóm khách hàng tiềm năng.
Trong trường hợp công ty có thể đáp ứng nhu cầu của khách hàng
ngay trong thời gian tới thì tiến hành của hàng động nhằm thoả mãn nhu cầu
đó. Ngoài ra công ty có thể dùng biện pháp quảng cáo, khuyến trương,
khuyến vào, tiếp thị để thu hút những khách hàng tiềm năng.
Với khẩu hiệu “khác hàng luôn đúng”, kết hợp với tiềm năng của
công ty. Kế hoạch khách hàng phải chỉ ra được nhóm khách hàng cần được
đáp ứng trong thời gian tới, và phương hướng thu hút thêm khách hàng mới
có thể trong thời gian tới.
Kế hoạch thị trường.
Thị trường của doanh nghiệp là nơi mà doanh nghiệp có thể đem sản
phẩm sản xuất của mình ra trao đổi, lưu thông, bán để thu lại khoản tiền, sau
khi đã trừ đi tổng chi phí để có sản phẩm và chi phí bán hàng còn lại một
khoản dôi ra đó là lợi nhuận. Như vậy thị trường quyết định đến kết quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu sản phẩm sản xuất ra đem bán hết
trên thị trường thì chứng tỏ rằng sản phẩm đã được thị trường chấp nhận còn
ngược lại thị trường không chấp nhận sẽ dẫn tới ứ đọng hàng hoá không tiêu
thụ được dẫn đến doanh nghiệp đến bờ vực của sự phá sản.
Việc lập kế hoạch thị trường tức là chỉ ra những thị trường mà sản
phẩm của công ty có thể chiếm lĩnh. Đó là thị trường trọng điểm ngoài ra
còn có thể mở rộng ra với những thị trường mới. Khi đã xác định rõ thị
trường cho doanh nghiệp. Do yếu tố cạnh tranh là không thể tránh khỏi trong
nền kinh tế thị trường. Nên để đảm bảo có thị trường vững chắc phải thường
xuyên tổ chức nghiên cứu thị trường với các nội dung như: cung cầu, giá cả,
các đối thủ cạnh tranh... từ đó có thể đưa ra những chiến dịch quảng cáo,
tiếp thị. Kế hoạch tiếp thị cũng được đưa ra. Với thị trường truyền thống có
thể lựa chọn kế hoạch tiếp thị mở rộng thị trường hoặc kế hoạch tiếp thị
phòng ngự, bảo vệ thị trường với thị trường mới phải có kế hoạch tiếp thị
mở cửa thị trường.
Kế hoạch sản phẩm.
Trên cơ sở ngành nghề sản xuất kinh doanh chính của công ty và tiềm
năng có thể khai thác. Công ty nên sản xuất sản phẩm với khối lượng bao
nhiêu, chất lượng như thế nào. Trong năm tới nên thay đổi mẫu mã qui cách,
màu sắc... sản phẩm như thế nào để phù hợp với thị trường và nhu cầu của
khách hàng. Với một bảng phân tích sản phẩm qua các thời kỳ tiêu thụ trước
kết hợp với những biến động của môi trường kinh doanh cộng với khả năng
hiện tạicủa công ty có thể cho ra dời những sản phẩm như thế nào.
Kế hoạch hoá kết quả tiêu thụ.
Tất cả các kế hoạch trên đều hướng tới mục tiêu cuối cùng là kết quả
tiêu thụ. Một loạt các chỉ tiêu có thể được đưa ra như: tỷ lệ chiếm lĩnh thị
trường của công ty (thị phần của công ty). Nhóm khách hàng mà công ty có
thể đáp ứng nhu cầu tổng doanh thu bán hàng, chi phí phải bỏ ra cho các
hoạt động tiêu thụ sản phẩm, tổng lợi nhuận có thể đạt được, số lượng sản
phẩm cần cho sự trữ để chuẩn bị cho kỳ tiêu thụ tiếp theo.
Với kết quả tiêu thụ đã được thực hiện ở kỳ trước, cộng với khả năng
có thể tiêu thụ ở kỳ này. Một kế hoạch cho kết quả tiêu thụ ở kỳ này sẽ hoàn
toàn được xác định. Dựa vào các báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo tài
chính năm thực hiện. Công ty có thể đưa ra các chỉ tiêu cụ thể như: năm kế
hoạch công ty phải thực hiện các nội dung sau:
- Tỷ lệ chiếm lĩnh thị trường năm nay tăng so với 20% năm trước.
- Tổng doanh thu bán hàng tăng 15% so với năm trước.
- Lợi nhuận thực hiện tăng 15% so với năm trước.
- Chi phí thực hiện giảm 20% so với năm trước.
- Nộp ngân sách tăng 5% so với năm trước.
- Thay đổi, cải tiến về mặt kỹ thuật, công nghệ dây chuyền sản xuất
để giảm giá bán 3%...
Ngoài ra việc lập kế hoạch dựa trên mối liên quan giữa các chỉ tiêu
với nhau. Chẳng hạn như đạt mức lợi nhuận bằng 20% doanh thu số bán,
muốn vậy phải tăng ngân sách cho tiêu thụ là 2% doanh số bán... Bằng cách
này người lập kế hoạch sẽ so sánh được chi phí bỏ ra để có được một khoản
lợi nhuận. Nếu chi phí bỏ ra ít để giành lại khoản lợi nhuận lớn thì sẽ quyết
định thực hiện.
Kế hoạch tiêu thụ của doanh nghiệp được xác định theo từng thời gian
nhất định: tháng, quí, năm. Là các chỉ tiêu có thể tính bằng hai cách là thước
đo hiện vật hay thước đo giá trị.
Theo thước đo hiện vật, kế hoạch tiêu thụ phản ánh số lượng sản
phẩm của mỗi loại thị trường chấp nhận theo đơn vị đo lường phù hợp như:
(mét, kg, tấn, cái, hộp...) Đây chính là căn cứ để tính mức thoả mãn nhu cầu
tiêu dùng trong xã hội, thước đo hiện vật có nhược điểm là không cho phép
tổng hợp được kết quả sản xuất kinh doanh là khi doanh nghiệp kinh doanh
các mặt hàng có tính chất không so sánh được.
Theo thước đo giá trị kế hoạch tiêu thụ phản ánh giá trị tổng khối
lượng sản phẩm thị trường (tổng doanh thu) cũng như giá trị khối từng loại
sản phẩm thị trường để biểu hiện giá trị của sản phẩm thị trường ta dùng giá
cả của nó. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trướn hết phụ thuộc vào số lượng
sản phẩm và giá bán. Như vậy trong kế hoạch tiêu thụ giá bán cũng là một
dung quan trọng. Chính sách giá cho mỗi sản phẩm có ảnh hưởng trực tiếp
đến khả năng tiêu thụ sản phẩm, đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Công thức tổng quát: Doanh thu = Khối lượng sản phẩm tiêu thụ x giá
bán đơn vị.
DT = QiGi
Trong đó: Qi là khối lượng hàng hoá tiêu thụ theo giá Gi.
Để xác định lượng hàng hoá tiêu thụ được trong kỳ, người ta căn cứ
vào lượng hàng hoá sản xuất kỳ lượng tồn kho đầu kỳ và lượng dự trữ cuối
kỳ.
QKH = Tđk + XKH - DCK
Trong đó:
QKH: Lượng hàng hoá tiêu thụ trong kế hoạch.
Tđk : Lượng hàng tồn kho đầu kỳ.
XKH: Lượng hàng sản xuất trong kỳ.
DCK: Dự trữ cuối kỳ.
Để đảm bảo tiêu thụ được diễn ra liên tục, thường xuyên ở kỳ kế
hoạch phải xác định được lượng hàng dự trữ cho kỳ sau. Có rất nhiều cách
xác định lượng hàng dự trữ. Nhưng cách tính theo phương pháp thống kê
kinh nghiệm được áp dụng tương đối đơn giản:
DK/h = Db/c (1 + h)
Trong đó: DK/h: Dự trữ một mặt hàng kỳ kế hoạch
Db/c: Dự trữ một mặt hàng kỳ báo cáo.
h: Tỷ lệ tăng giảm dự trữ kỳ kế hoạch so với kỳ báo cáo.
2. Trình tự tiến hành lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm.
Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm là một loại kế hoạch hoạt động của doanh
nghiệp sản xuất được dùng một là để thực hiện những mục tiêu kinh doanh
của doanh nghiệp đề ra trong thời gian nhất định: năm, quí, tháng. Nó có ý
nghĩa quan trọng trong tiến trình thực hiện các hoạt động tiêu thụ sản phẩm.
Việc lập kế hoạch theo một trình tự nhất định, thông qua các giai đoạn khác
nhau, nhưng có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau. Điều này sẽ tạo ra
một kế hoạch mang tính khoa học lôgíc tăng độ trung thực và chính xác,
đem lại hiệu quả thực hiện cao.
Thông thường một kế hoạch tiêu thụ sản phẩm được thiết lập qua các
bước sau:
Bước 1: Thu nhập phân tích và sử lý dữ liệu.
Trong giai đoạn này công việc phải làm là rất quan trọng ảnh hưởng
trực tiếp tới toàn bộ quá trình xây dựng và thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản
phẩm.. Nhưng thông tin cần thu nhập và xử lý bao gồm các thông tin bên
trong nội bộ doanh nghiệp và các thông tin bên ngoài thị trường.
Trong nội bộ doanh nghiệp thu nhập các thông tin từ các bản báo cáo
kết quả kinh doanh, báo cáo hoạt động tài chính của năm báo cáo, bản kê
khai các sản phẩm sản xuất kinh doanh. Qua đó xác định được năng lực (khả
năng hiện tại của doanh nghiệp) và năng lực tiềm tàng trong tương lai về tất
cả các lĩnh vực như: nguồn nhân lực, kỹ thuật và công nghệ sản xuất, vốn,
các sản phẩm có thể sản xuất.
- Thu thập thông tin từ bên ngoài thị trường bao gồm các thông tin về
nhu cầu của thị trường, khả năng tiêu thụ sản phẩm, các đối thủ cạnh tranh,
khả năng diễn thay đổi, tâm lý thị hiếu người tiêu dùng hay cả những vấn đề
về môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa có liên quan đến hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Một thông tin quan trọng nữa là môi trường
kinh doanh của những nhà cung ứng đầu vào cho doanh nghiệp.
Những thông tin trên có thể thu thập qua sách báo, tạp chí chuyên
ngành, các phương tiện thông tin đại chúng, nói chuyện với khách hàng
những nhà cung ứng, nhà phân phối và những người khác không phải là
những nhân viên biên chế trong công ty. Công ty có thể khuyến khích những
người phân phối bán lẻ và những người đồng minh khác thông báo cho mình
những tin tức quan trọng. Ngoài ra có thể mua thông tin từ những người
cung cấp thông tin thường ngày ở bên ngoài. Công ty có thể xây dựng một
đội ngũ chuyên trách về thu thập và phổ biến thông tin hàng ngày.
Các thông tin thu thập được phải tạo điều kiện dễ dàng cho các nhà
quản trị ra được những quyết định cơ bản. Một vấn đề nữa trong bước này là
công ty cần phân tích đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch của năm xây
dựng kế hoạch. Từ đó sẽ có những đánh giá nhận xét, rút kinh nghiệm làm
cơ sở cho xây dựng kế hoạch năm tiếp theo.
Bước 2: Xác định mục tiêu và nội dung cơ bản của kế hoạch tiêu thụ
sản phẩm.
Căn cứ vào các thông tin đã được phân tích và xử lý ở bước một,
công ty phải xác định các mục tiêu mà công ty cần phải thực hiện trong năm
kế hoạch. Các mục tiêu này phải phù hợp với chức năng và nhiệm vụ của
công ty cũng như các điều kiện khác về môi trường tiêu thụ, khả năng thực
tế của công ty. Các mục tiêu có thể là: duy trì và mở rộng thị trường truyền
thống, xâm nhập thị trường, tăng sản lượng, tối đa hóa doanh số, tối đa hóa
lợi nhuận hay tiêu thụ hết hàng ứ đọng,...
Một mục tiêu kế hoạch đúng đắn khi nó đảm bảo tính cụ thể, định
hướng, tính khả thi và tính hệ thống.
Sau khi đã xác định được các mục tiêu, công ty bắt đầu đi vào lập kế
hoạch cho tiêu thụ sản phẩm. Căn cứ vào những thông tin thu thập được,
những mục tiêu cụ thể đã đề ra, công ty tiến hành xây dựng kế hoạch tiêu thụ
sản phẩm với sự hỗ trợ của các phòng ban, cán bộ, nhân viên lập kế hoạch
dự thảo trình lên cấp trên. Nếu dự thảo được chấp nhận công ty phải chuẩn
bị những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện kế hoạch.
Bước 3:
Sau khi nhận được kế hoạch chính thức doanh nghiệp cần phải tiến
hành các công việc sau:
- Tổ chức kiểm tra, đánh giá thực hiện và có những điều chỉnh (nếu
cần).
- Phân chia kế hoạch theo từng quý, từng tháng.
- Tổ chức hội nghị công nhân viên phổ biến nhiệm vụ, kế hoạch. Giao
nhiệm vụ và trách nhiệm đến mỗi cán bộ, công nhân viên thực thi kế hoạch
tiêu thụ sản phẩm.
3. Căn cứ và phương pháp xây dựng kế hoạch tiêu thụ sản phẩm:
3.1. Căn cứ lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm:
Để lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm đúng đắn, khoa học và thực tế,
doanh nghiệp cần phải dựa vào những tiêu thức nhất định có liên quan đến
hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Đó là việc xác định các căn cứ và dựa vào đó
để tiến hành lập kế hoạch phù hợp.
Doanh nghiệp cần phải dựa vào căn cứ chủ yếu sau:
- Nhu cầu thị trường về sản phẩm của doanh nghiệp đã xác định, bao
gồm sản phẩm, chất lượng, sản lượng và cơ cấu giá cả và thời gian đáp ứng;
kể cả hiện tại và xu thế vận động của nó trong tương lai. Đaay là căn cứ
tương đối quan trọng có ý nghĩa quyết định đến tiêu thụ sản phẩm trên thị
trường.
- Phương án kinh doanh mà doanh nghiệp đã chọn, đặc biệt là chương
trình sản xuất để triển khai thực hiện phương án kinh doanh.
- Chiến lược và chính sách kinh doanh của doanh nghiệp với tư cách
là quan điểm chỉ đạo nguyên tắc chi phối các hoạt động tiêu thụ sản phẩm.
- Các đơn hàng, hợp đồng tiêu thụ đã được ký kết với khách hàng.
Đây là các văn bản có tính pháp quy, cần được tuân thủ một cách nghiêm
ngặt để đảm bảo thực hiện mục tiêu nhiệm vụ và uy tín của doanh nghiệp với
khách hàng.
- Đối thủ cạnh tranh cũng là yếu tố quan trọng trong tiêu thụ sản phẩm
của doanh nghiệp, doanh nghiệp phải thường xuyên so sánh sản phẩm, giá
cả, ... với các đối thủ gần guic để dành thế chủ động trong hoạt động kinh
doanh.
- Các căn cứ khác cũng được tính tới khi xây dựng kế hoạch tiêu thụ
là: dự kiến về tăng chi phí cho hoạt động Marketing bán hàng, sự thay đổi về
tổ chức các kênh phân phối, khả năng thu hút thêm khách hàng mới, khả
năng mở rộng địa bàn tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, những chính sách
điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với các loại sản phẩm mà doanh nghiệp dự
kiến bán,...
3.2. Phương pháp lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm:
Có nhiều phương pháp để tiến hành xây dựng kế hoạch tiêu thụ sản
phẩm cũng như các kế hoạch khác nói chung như phương pháp cân
đối,phương pháp quan hệ động, phương pháp tỷ lệ cố định, phương pháp
kinh tế.
Trong những phương pháp trên phương pháp cân đối được coi là
phương pháp chủ yếu, tiến hành theo trình tự: tính toán các yếu tố theo nhu
cầu và theo khả năng, so sánh giữa nhu cầu và khả năng theo quan điểm toàn
diện, tích cực từ đó xác định kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cho doanh nghiệp.
III. Nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp:
Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm sẽ được kiểm nghiệm bởi thực tế. Đó là
quá trình triển khai và thực hiện kế hoạch. Quá trình này có thể được thực
hiện tốt, đạt hoặc vượt kế hoạch đặt ra. Nhưng cũng có thể các chỉ tiêu được
thực hiện thấp hơn nhiều so với kế hoạch đề ra. Nừu như kế hoạch đã được
coi là tương đối chính xác và sát với diễn biến thực tế thì rõ ràng trong quá
trình thực hiện kế hoạch sẽ có nhiều nhân tố tác động đến làm thay đổi các
chỉ tiêu. Các nhân tố này có thể là trong nội tại doanh nghiệp hoặc do môi
trường kinh doanh bên ngoài (nhân tố chủ quan hoặc khách quan).
1. Nhân tố chủ quan:
Chủ thể thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm chính là đội ngũ thực
hiện công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Tuy nhiên nó đòi hỏi phải
có mối liên kết hỗ trợ nhau trong quá trình thực hiện giữa các phòng ban, tổ
chức, các nhân viên. Do mỗi phòng ban, cá nhân phụ trách cũng như chịu
trách nhiệm khác nhau về phần công việc của mình nhưng họ đều phải
hướng đến các đích cuối cùng là mục tiêu của công ty đã được đặt ra trong
kế hoạch kinh doanh. Như vậy một trong những yếu tố ảnh hưởng đến kế
hoạch tiêu thụ là tổ chức mối quan hệ với nhau trong công ty chưa được tốt.
Điều này sẽ dẫn đến ai làm việc ấy và không có sự thống nhất, đoàn kết
cùng hướng đến mục tiêu của công ty.
Một nhân tố nữa là ngày từ khi triển khai thực hiện kế hoạch, công ty
không giao trách nhiệm cụ thể đến từng đơn vị hoạt động hay đến cá nhân cụ
thể, không cho họ thấy rõ trách nhiệm của họ trong quá trình thực hiện kế
hoạch, không đề ra chế độ thưởng phạt nghiêm minh. Tất cả những điều này
dẫn đến tình trạng làm việc không nghiêm túc, thờ ơ với công việc.
Hệ thống phương tiện giao thông, vận tải dùng trong lưu chuyển hàng
hóa ít hay, lạc hậu dẫn đến phân phối không hợp lý, không đúng thời điểm
cần thiết.
Do dây chuyền sản xuất sản phẩm sản xuất ra không đạt yêu cầu.
Đội ngũ cán bộ, nhân viên kém linh hoạt, không giành được thế chủ
động tròn ký kết các hựp đồng tiêu thụ.
Vốn ít, không đủ cho chi phí quảng cáo, khuyến mãi, tiếp thị, các hoạt
động nhằm mở rộng thị trường, thu hút thêm khách hàng mới sẽ không thành
công.
Coi kế hoạch là chuẩn nên trong quá trình thực hiện luôn lấy kế hoạch
để áp đặt đi trái ngược lại với diễn biến của môi trường kinh doanh.
Các dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng chưa được tổ chức tốt,
chưa chiếm được lòng tin của khách hàng đối với sản phẩm của doanh
nghiệp.
Nhân viên bán thể hiện yếu kém ở khâu giao tiếp, hiểu biết về kỹ
thuật hoặc coi thường khẩu hiệu “khách hàng là thượng đế”, không đề cao
phương châm “khách hàng luôn luôn đúng”.
2. Nhân tố khách quan:
Môi trường kinh doanh mà mối một chủ thể tồn tại trong nó đều chịu
sự chi phối và ảnh hưởng mạnh mẽ. Nếu một công ty nắm chắc được môi
trường kinh doanh của mình sẽ chắc chắn hơn tròn việc đảm bảo các mục
tiêu đã đề ra trong chiến lược kinh doanh. Nhưng môi trường kinh doanh là
luôn biến động việc nắm bắt là rất khó khăn và phức tạp đòi hỏi phải thường
xuyên liên tục.
Khi thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm tức là doanh nghiệp tổ chức
các hoạt động cần thiết để thực hiện công việc tiêu thụ sản phẩm. Đây là một
quá trình, nó hoàn thành kế hoạch hay không phụ thuộc và chịu ảnh hưởng
không ít của các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh.
- Sự thay đổi đột ngột trong thị hiếu người tiêu dùng sẽ dẫn đến sự
biến động về nhu cầu hàng hóa của công ty.
- Sự xuất hiện các đối thủ cạnh tranh với những sản phẩm hoàn toàn
có khả năng thay thế, với giá rẻ hơn.
- Khủng hoảng kinh tế, lạm phát dẫn đến đời sống dân cư giảm sút.
Do đó sẽ giảm sức tiêu thụ.
- Nguồn lực khan hiếm, chi phí giành cho khai thác cao ép ác nhà
cung ứng nguyên - nhiên vật liệu, vật tư đẩy giá lên cao làm cho giá hàng
hóa cao không phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng.
- Do sự thay đổi luật pháp trong kinh doanh, có thể mặt hàng mà
doanh nghiệp đang kinh doanh bị hạn chế hoặc bị đánh thuế cao hơn.
Tóm lại: trong quá trình thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm doanh
nghiệp luôn phải đối đầu với các nhân tố gây tác động xấu đến kết quả. Điều
này đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn nghiên cứu, phân tích và xác định được
các nhân tố ảnh hưởng để từ đó có thể biến nó trở thành những ảnh hưởng
có ích hoặc hạn chế các tác động xấu của nó. Một điều căn bản là kế
hoạchkế hoạch chỉ là định hướng tốt còn thực hiện kế hoạch thì phải thực sự
linh hoạt tùy vào từng thời điểm kinh doanh.
Phần II: Thực trạng xây dựng và thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm
sản xuất công nghiệp của công ty xây lắp vật tư vận tải sông Đà.
I. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của công ty xây lắp vật tư - vận tải
sông Đà 12:
1. Một số nét khái quát về công ty:
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển:
Công ty xây lắp vật tư - vận tải sông Đà 12 là một đơn vị trực thuộc
Tổng công ty xây dựng thủy điện sông Đà. Tiền thân công ty được thành lập
theo quyết định số 217 BXD/ TCCB ngày 01/02/1980, tên công ty là Công
ty cung ứng vật tư thuộc Tổng công ty xây dựng sông Đà. Qua quá trình sản
xuất và kinh doanh được Bộ xây dựng bổ sung chức năng và nhiệm vụ, đổi
tên và thành lập lại theo Nghị định 388/ HĐBT tại quyết định số 135 A-
BXD-TCLĐ ngày 26/03/1993 tên công ty là Công ty vật tư thiết bị và được
đổi tên thành Công ty xây lắp - vật tư - vận tải sông Đà 12 theo quyết định
số 04/ BXD - TCLĐ ngày 02/01/1999.
Quá trình sản xuất kinh doanh của công ty trải qua những giai đoạn
nhất định, đánh dấu sự phát triển mở rộng và sự thích nghi với môi trường
kinh doanh củ doanh nghiệp.
Giai đoạn từ 1980-1990, nhiệm vụ chủ yếu là tiếp nhận vật tư, thiết bị
nhập ngoại của công trường từ Hải Phòng, vận chuyển về sông Đà sau đó tổ
chức bảo quản và cấp phát theo yêu cầu của sản xuất của công trường, đồng
thời cung ứng kịp thời các vật tư - thiết bị trong cả nước đã đảm bảo tiến độ
thi công của công trường.
Những sản phẩm chủ yếu được hoàn thành trong giai đoạn này là:
- Tiếp nhận, vận chuyển thiết bị từ Hải Phòng - Sông Đà:
247.925 tấn
- Sản xuất cửa 207.470 m2
- Xẻ gỗ 47.400 m3
- Cung ứng xi măng 108. 000 tấn
- Gia công 4.850.000.000 đồng
Trong giai này công ty không ngừng bổ sung và tăng tốc độ phát triển
vốn bình quân 20% 30%/ năm. Thực hiện nghĩa vụ đốivới Nhà nước đầy
đủ.
Giai đoạn từ 1990 - 1995: trong giai đoạn này do sự biến động mạnh
của môi trường kinh doanh, chịu tác động của nền kinh tế thị trường nên
hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty bị tác động mạnh. Trước tình
hình đó Công ty không ngừng đầu tư đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm
và mở rộng sang kinh doanh các ngành nghề khác với sự cho phép của Bộ
xây dựng.
Sang năm 1999, Công ty tiếp tục đầu tư, huy động thêm vốn phát triển
sản xuất kinh doanh. Ngày 02/01/1999 theo Quyết định số 04/BXD - TCLĐ,
công ty được đổi tên thành Công ty xây lắp inH viênật tư - vận tải sông Đà
12, đặt trụ sở chính tại G9 Thanh Xuân Nam - Thanh Xuân- Hà Nội, và có
các chi nhánh tại Hòa Bình, Quảng Ninh, Hải Phòng. Tiếp tục sản xuất kinh
doanh những lĩnh vực trước đó đồng thời xác định được nhu cầu của thị
trường đến cuối năm 1999, công ty chú trọng đến phát triển sản xuất công
nghiệp mà sản phẩm chính là xi măng, vỏ bao và cột điện li tâm với sự cố
gắng nỗ lực của công ty và sự giúp đỡ của Tổng công ty, công ty đã đạt
được những kết quả đáng kể đứng vững trong các ngành nghề kinh doanh.
Tính đến cuối năm 2001, tổng vốn kinh doanh của công ty là 41,3 tỷ
đồng, trong đó vốn cố định là 32,3 tỷ đồng, vốn lưu động là 9 tỷ đồng. Tổng
doanh thu năm 2001 là 300.800 tỷ đồng, đạt 94% kế hoạch, lợi nhuận là
4,482 tỷ đồng đạt 96% kế hoạch.
Công ty có hơn 2000 cán bộ, công nhân viên, 140 kỹ sư, 1178 công
nhân lành nghề.
Đời sống của cán bộ công nhân viên không ngừng được cải thiện.
Việc làm đủ và ổn định, mức thu nhập của người lao động khá đã tạo được
niềm tin gắn bó của công nhân viên chức với đơn vị. Thu nhập bình quân
của một công nhân viên chức là 704.000 đồng.
đồ thị
1.2. Chức năng và nhiệm vụ của công ty:
Căn cứ Quyết định số 1468/BXD - TCCB ngày 11/10/1979 của Bộ
xây dựng quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Tổng công ty
xây dựng sông Đà.
Căn cứ Quyết định số 217/BXD-TCCB ngày 01/02/1980 Bộ xây
dựng thành lập Công ty cung ứng vật tư trực thuộc Tổng công ty xây dựng
thủy điện sông Đà.
Theo Quyết định số 04/BXD-TCLĐ ngày 02/01/1999 và giấy phép
kinh doanh số: 109967 ngày 16/01/1999 của Ủy ban kế hoạch thành phố Hà
Nội. Công ty phải thực hiện những chức năng và nhiệm vụ sau:
- Tổ chức sản xuất, ký kết các hợp đồng xây dựng các công trình thủy
lợi, thủy điện, công trình công nghiệp, công cộng, nhà ở và xây dựng khác,
công trình giao thông bưu điện, đường dây tải điện và trạm biến thế đến 200
KV, cầu đường, bến cảng và sân bay, xây lắp hệ thống cấp thoát nước công
nghiệp và dân dụng.
- Tổ chức các hoạt động sửa chữa, gia công cơ khí, sản xuất phụ tùng,
phụ kiện kim loại cho xây dựng gia công chế biến gỗ dân dụng và xây dựng.
- Tổ chức sản xuất các loại vật liệu xây dựng, xi măng bao bì, cột điện
li tâm.
- Thực hiện các hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường thủy, bộ.
- Tổ chức các hoạt động kinh doanh vật tư, thiết bị, xi măng, than mỏ,
xăng dầu mỡ, kinh doanh nhà ở.
- Xuất nhập khẩu thiết bị, xe máy, vật liệu xây dựng, phương tiện vận
tải nguyên nhiên vật liệu phục vụ nhu cầu sản xuất của Tổng công ty.
- Sử dụng có hiệu quả các nguồn cốn tài chính, vốn hiện vật dược
Tổng công ty phân giao, thực hiện đúng đắn chế độ hạch toán kinh tế và
kinh doanh, đảm bảo nghĩa vụ nộp thuế, lãi, lợi nhuận, khấu hao,... theo
đúng chỉ tiêu kế hoạch và những quy định của Nhà nước và của Tổng công
ty.
- Tổ chức quản lý, sử dụng chặt chẽ và hợp lý các máy móc thiết bị và
các phương tiện vận tải nhằm sử dụng hết năng lực xe máy, thiết bị và giảm
thấp cước phí vận chuyển.
- Nghiên cứu cải tiến tổ chức sản xuất kinh doanh, thực hiện triệt để
chế độ trả lương theo sản phẩm nhằm không ngừng nâng cao năng suất lao
động và tăng thu nhập hợp lý cho công nhân viên chức.
- Tổ chức việc đào tạo, bồi dưỡng về chính trị, kỹ thuật chuyên môn
và quản lý kinh tế cho cán bộ công nhân viên theo chỉ tiêu về kế hoạch Tổng
công ty giao.
- Tổ chức bảo vệ chính trị, bảo vệ kinh tế và giữ gìn an ninh trật tự
trong công ty, tổ chức huấn luyện lực lượng tự vệ và thực hiện nghiêm chỉnh
các chế độ, chính sách nghĩa vụ quân sự của Nhà nước.
- Tổ chức chăm lo cải thiện đời sống vật chất và văn hóa, chăm lo cải
thiện điều kiện làm việc cho cán bộ công nhân trong công ty.
1.3. Cơ cấu tổ chức của công ty:
Trải qua quá trình hình thành và phát triển với sự kiểm nghiệm thực tế
cho đến nay công ty đã hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý theo mô hình trực
tuyến chức năng. Giám đốc là người đứng đầu trong công ty, chịu trách
nhiệm trước Tổng giám đốc Tổng công ty về việc tổ chức và chỉ đạo thực
hiện mọi nhiệm vụ kế hoạch sản xuất kinh doanh. Giúp giám đốc công ty
trong công tác chỉ đạo và quản lý có các phó giám đốc phụ trách các lĩnh
vực thuộc chức năng và nhiệm vụ của công ty. Tiếp đó là các phòng ban
chức năng. Chịu trách nhiệm tổ chức sản xuất kinh doanh là các xí nghiệp
trực thuộc công ty.
Sơ đồ tổ chức của công ty.
Giám đốc công ty
Phó giám đốc kinh
tế kế hoạch
Phó giám đốc kỹ
thuật xây lắp
Phó giám đốc kỹ
thuật cơ giới
Phòng tài
chính kế
toán
Phòng
vật tư
tiêu thụ
Phòng kinh
doanh xuất
nhập khẩu
Phòng tổ
chức hành
chính
Phòng
kinh tế
kế
hoạch
Phòng kỹ
thuật xây
lắp
Phòng
quản lý
cơ giới
Chi
nhánh
Hòa Bình
Chi
nhánh
Quảng
Ninh
Chi nhánh
Hải Phòng
Nhà máy xi
măng Sông
Đà
Xí
nghiệp
sản xuất
bao bì
Xí
nghiệp
xây lắp
vận tải
vật tư
sông Đà
12
Xí
nghiệp
xây lắp
sông Đà
12-2
Xí nghiệp xây lắp
vận tải-vật tư
2. Thực trạng sản xuất kinh doanh của công ty những năm gầnđây:
Chuyển sang cơ chế thị trường, là một đơn vị hạch toán kinh tế độc
lập, công ty luôn chủ động tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh theo yêu
cầu của thị trường. Mở rộng các hoạt động tiếp thị đấu thầu, ký kết các hợp
đồng xây dựng, tích cực tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp,
đầu tư đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm. Công
ty đã tham gia xây dựng rất nhiều công trình trong cả nước với sản lượng sản
phẩm lớn, đồng thời tổ chức các hoạt động gia công sửa chữa, kinh doanh
vật tư, thiết bị, hoàn thành kế hoạch tiêu thụ sản phẩm công nghiệp.
Biểu 2: Sản lượng sản xuất qua các năm.
1998 1999 2000 2001
KH TH %H
T
KH TH %H
T
KH TH %H
T
KH TH %H
T
Tổng giá trị sản
lượng
28.63
0
29.1
88
101,
95
63.0
52
70.4
92
111,
8
121.
132
121.
362
100,
19
171.
699
176.
472
102,
78
Trong đó:
- Xây lắp
6.341 6.52
3
102,
87
14.0
00
14.3
21
102,
29
21.1
42
21.6
32
102,
3
65.2
30
63.4
80
97,3
- Ngoài xây lắp 22289 226
65
101,
68
49.0
52
56.1
71
114,
5
99.9
90
99.7
30
99,7 106.
469
112.
992
106,
13
Biểu trên cho thấy tình hình sản xuất kinh doanh của công ty khá ổn
định, tổng giá trị sản lượng tăng lên hàng năm, hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch
đặt ra. Đạt được kết quả này là do sự nỗ lực cố gắng liên kết và phối hợp
chặt chẽ của các đơn vị sản xuất kinh doanh trực thuộc công ty. Các lĩnh
công ty tham gia sản xuất kinh doanh đều được đảm bảo, duy trì và phát
triển hướng tới đạt mục tiêu chung.
2.1. Về lĩnh vực xây dựng:
Công ty đã tham gia xây dựng nhiều công trình trọng điểm của Nhà
nước như: Nhà máy thủy điện Hòa Bình, Nhà máy thủy điện Vĩnh Sơn, Nhà
máy thủy điện Yaly, Nhà máy xi măng Sơn La, Nhà máy xi măng Bút Sơn,
đang xây dựng Nhà máy xi măng Hải Phòng mới, Nhà máy đường Hoà Bình,
Nhà máy đường Sơn La, đường dây và trạm biến áp 500 KV và nhiều công
trình cấp thoát nước, giao thông, bưu điện, công nghiệp và dân dụng khác.
Lĩnh vực này hàng năm đã đem lại doanh thu cho công ty hàng chục
tỷ đồng. Năm 2000, giá trị sản lượng xây dựng là 50,798 tỷ đồng đạt
107,27% kế hoạch, năm 2001 là 63,48 tỷ đồng đạt 126,96% kế hoạch. Quý I
năm 2002, giá trị sản lượng thực hiện 21,831 tỷ đồng đạt 116%.
2.2. Vận tải:
Công ty có lực lượng vận tải đường thủy, đường bộ lớn và có đội ngũ
cán bộ quản lý, kỹ thuật, công nhân lành nghề với nhiều năm kinh nghiệm
trong công tác tiếp nhận vận chuyển vật tư, thiết bị. Đặc biệt là vận chuyển
hàng siêu trường, siêu trọng. Công ty đã vận chuyển an toàn vật tư, thiết bị
toàn bộ cho Nhà máy thủy điện Hòa Bình, Vĩnh Sơn, Yaly, thiết bị Nhà máy
xi măng sông Đà, Nhà máy xi măng Kiện Khê, Nhà máy xi măng Bút Sơn,
thiết bị Nhà máy đường Sơn La, Nhà máy đường Hòa Bình. Gần đây là thiết
bị dây chuyền II- Nhà máy xi măng Hoàng Thạch đều được tiếp nhận vận
chuyển an toàn tuyệt đối.
2.3. Sửa chữa và gia công cơ khí:
Công ty đã gia công và lắp đặt nhiều công trình như: Gia công hàng
rào, cổng, lan can, tấm trang trí công trình Nhà máy điều hành thủy điện Hòa
Bình, Viện Xã hội học Campuchia, Trung tâm điều hành Tổng công ty tại
Hà Nội, cơ sở 2 tại Hà Đông và gia công lắp đặt nhà công nghiệp cho liên
doanh sông Đà-Jurông tại Hải Phòng.
Công ty sửa chữa cải tạo nhiều phương tiện vận tải thủy bộ và gia
công đóng mới các loại tầu đẩy 130 -190 CV và sà lan 200 -250 tấn, gia
công chế tạo các loại cấu kiện thép phục vụ cho xây dựng như: Côp pha thép
các loại, giàn giáo xây dựng, các phụ tùng, phụ kiện kim loại khác cho xây
dựng.
2.4. Sản xuất công nghiệp:
Công ty có Nhà máy xi măng lò đứng sông Đà - Hòa Bình với công
suất 82.000 tấn/năm, sản phẩm của nhà máy là các loại xi măng PC 30 và
PC 40, xí nghiệp bao bì tại Ba La-Hà Đông với công suất 20.000.000
vỏ/năm, xưởng sản xuất cột điện bê tông ly tâm tại Hòa Bình với công suất
2.500 cột các loại/ năm.
Do chịu sự cạnh tranh của các công ty xây dựng khác trong cả nước,
các hợp đồng đấu thầu các công trình xây dựng, hay những hợp đồng gia
công sửa chữa, vận chuyển đều chịu sức ép làm cho khối lượng công việc ít
đi. Phân tích nghiên cứu tình hình và thị trường, công ty đã quyết định mở
rộng phát triển sản xuất công nghiệp với ba loại sản phẩm chính là xi măng,
vỏ bao và cột điện ly tâm. Hàng năm, công ty đã sản xuất ra một sản lượng
lớn có sức tiêu thụ trên thị trường.
2.5. Kinh doanh vật tư thiết bị xuất nhập khẩu:
Công ty có đội ngũ cán bộ kỹ thuật nghiệp vụ giàu kinh nghiệm đảm
bảo cung ứng vật tư, thiết bị và phụ tùng của các loại xe xây dựng. Công ty
có nhiều uy tín đối với khách hàng. Luôn cung cấp kịp thời với chất lượng
giá cả phù hợp cho mọi khách hàng.
Biểu 3: Giá trị kinh doanh xuất nhập khẩu qua các năm.
Đơn vị: 106+ đồng.
1999 2000 2001 Quý I/2002
KH TH %HT KH TH %HT KH TH %HT KH TH %HT
Giá trị
XNK
70.317 70.247 99,9 75.477 24.183 32,04 20.980 17.439 83,12 2000 1.338 66,9
Trong đó:
- XK
15.340 12.412 80,9 16.567 5.183 31,28 7.280 5.120 70,33 583 338 57,97
- NK 54.977 57.835 105,2 58.910 19.000 32,25 13.700 12.319 89,92 1.417 1.000 70,57
Để đảm bảo sản xuất va phát triển trong những năm tới, công ty tăng
cường các hoạt động tiếp thị, đấu thầu, tạo thêm công ăn việc làm, ký kết
thêm các hợp đồng xây dựng. Đặc biệt là quan tâm đến những địa sản phẩm
công nghiệp, nâng cao chất lượng, tăng năng suất, đủ sức cạnh tranh với các
sản phẩm tương tự của các công ty khác trên thị trường. Tăng cường hoàn
thiện công tác tiêu thụ sản phẩm. Công ty đã xây dựng kế hoạch sản xuất
kinh doanh năm 2002.
1. Tổng giá trị sản xuất kinh doanh: 310 tỷ đồng.
Trong đó:
+ Sản lượng xây lắp : 65 tỷ đồng
+ Sản lượng sản xuất công
nghiệp
: 90 tỷ đồng
+ Sản lượng sản xuất khác : 23 tỷ đồng
+ Sản lượng kinh doanh : 115 tỷ đồng
+ Sản lượng nhập khẩu : 17 tỷ đồng
2. Lao động tiền lương:
+ Năng suất lao động bình quân: 158.593.000 đồng/người/năm.
+ Thu nhập bình quân: 800.000 đồng/người/ tháng.
3. Khối lượng công tác chính:
+ Sản xuất xi măng : 72.000 tấn.
+ Sản xuất vỏ bao xi măng : 18 vỏ.
+ Sản xuất cột điện ly tâm : 2.200 cột.
+ Đào đắp cát, đất các loại : 495.000 m3.
+ Đổ bê tông : 2.160 m3
+ Gia công cơ khí : 1.500 tấn
+ Vận chuyển hàng hóa : 28.500.000 T/km.
4. Mục tiêu tiến độ chính:
+ San lấp và xử lý nền Nhà máy xi măng Hải Phòng:
+ Sản xuất và tiêu thụ xi măng sông Đà: 72.000 tấn.
+ Sản xuất và tiêu thụ vỏ bao: 18 triệu vỏ bao.
II. Kết quả thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm công nghiệp của công ty
xây lắp vận tải sông Đà:
1. Tình hình thực hiện tiêu thụ sản phẩm công nghiệp của công ty qua một số
năm.
1.1. Tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm công nghiệp
của công ty.
1.1.1. Giới thiệu sản phẩm công nghiệp của công ty.
Trước đây với sự cho phép của Ủy ban kế hoạch nhà nước, công ty kinh
doanh chủ yếu trong các ngành: thương nghiệp cung ứng vật tư thu mua,
kinh doanh vật tư - thiết bị- vật liệu xây dựng. Ngành công nghiệp bao gồm:
công nghiệp vật liệu xây dựng, sản xuất gạch các loại, sản xuất các phụ kiện
bằng kim loại cho xây dựng; công nghiệp chế biến gỗ. Ngành xây dựng, thực
hiện thi công xây lắp các công trình nhà ở, công trình công cộng, công trình
công nghiệp, san mặt bằng xây dựng. Ngành giao thông vận tải vận chuyển
vật tư thiết bị bằng đường bộ, đường sông.
Qua quá trình đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh, khối lượng công việc
thi công giảm đi cùng với sự khó khăn về vốn công ty lại phải đối đầu với sự
cạnh tranh. Nhất là khi chuyển đổi cơ chế quản lý, nền kinh tế thị trường tạo
nên sức ép lớn đối với công ty. Nền kinh tế thị trường đã tạo cơ hội cho
nhiều công ty khác ra đời và tự do kinh doanh, tự do đầu tư vốn vào các
ngành nghề kinh doanh miễn là đem lại lợi nhuận cho công ty. Trong khi đó
các công trình lớn như Nhà máy thuỷ điện Hoà Bình, Vĩnh Sơn, YALY đã
bước vào giai đoạn hoàn thành và đi vào hoạt động nên các hoạt động xây
lắp giảm đi, nhu cầu cung ứng vật tư thiết bị cũng giảm đi nghiêm trọng.
Các ngành kinh doanh khác như vận tải, kinh doanh vật tư thiết bị xuất nhập
khẩu gặp nhiều khó khăn về đầu ra, công tác kinh doanh vật tư thiết bị chịu
sức ép do thị trường bị thu hẹp, tiêu thụ sản phẩm ngày càng gặp nhiều khó
khăn.
Trước tình hình đó với sự kiến nghị của đội ngũ lãnh đạo công ty và sự giúp
đỡ của Tổng công ty. Bộ xây dựng đã liên tục bổ sung chức năng, nhiệm vụ
mở rộng phát triển sang các ngành nghề khác theo nhu cầu của thị trường
như gia công cơ khí phi tiêu chuẩn và kết cấu thép xây dựng, gia công chế
biến gỗ, sửa chữa trùng tu các phương tiện vận tải thuỷ bộ và máy xây dựng.
Đến cuối năm 1999 nhận thấy nhu cầu thị trường về vật liệu cho xây dựng,
công ty chú trọng đến sản xuất công nghiệp với các loại sản phẩm chính là xi
măng, vỏ bao và cột điện li tâm. Công ty đã tập trung đầu tư đổi mới trang
thiết bị kỹ thuật, tăng cường huy động vốn cho nhà máy xi măng sông Đà, xí
nghiệp sản xuất bao bì tại Ba La - Hà Đông, xưởng sản xuất cột điện li tâm
tại Hoà Bình. Nâng công suất sản xuất xi măng lên 82.000 tấn/năm với các
sản phẩm xi măng PC30 và PC40, công suất của sản phẩm bao bì 20 triệu
vỏ/năm và cột điện 2.500 cột các loại/năm.
Đi liền với đầu tư mở rộng sản xuất công nghiệp công ty tăng cường đội ngũ
nghiên cứu thị trường tiêu thụ, mở rộng thị trường ký kết các hợp đồng tiêu
thụ lâu dài với khối lượng lớn.
1.1.2. Tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Trong quá trình đi vào sản xuất kinh doanh, dựa vào những căn cứ từ thị
trường, xác định nhu cầu thị trường cũng như khả năng sản xuất sản phẩm
của công ty, công ty đã có những kế hoạch sản xuất và tiêu thụ cụ thể. Kết
quả thực hiện kế hoạch là vấn đề mà công ty luôn quan tâm, tiến hành tổ
chức ghi chép đẩy đủ rõ ràng những số liệu liên quan đến sản xuất kinh
doanh. Qua đó công ty có thể biết được thực trạng năng lực sản xuất và khả
năng xâm nhập thị trường của các sản phẩm công nghiệp với hàng loạt
những chỉ tiêu, biện pháp đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch.
Biểu 4: Tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất sản phẩm công nghiệp của
công ty.
Tên
sản
phẩm
Đơn vị 1999 2000 2001 QI/2002
KH TH %HT KH TH %HT KH TH %HT KH TH %HT
Xi
măng
Tấn 50.639 49.120 97 60.000 54.000 90 70.906 68.400 96,5 18.000 9.000 105
Vỏ
baoxi
măng
103 cái 4.116 4.121 100,1 3.500 9.559 273,11 16.000 16.398 102,5 4.500 3.314 74
Cột
điện li
tâm
cột 1.196 1.172 98 919 1.274 138,63 550 559 101,6
Qua bảng trên cho thấykhối lượng sản xuất tăng lên qua các năm. Tuy nhiên
phần trăm thực hiện kế hoạch trong mỗi năm về mặt hàng xi măng luôn nhỏ
hơn 100%. Thực hiện năm 2000 so với thực hiện năm 1999 109,93% nhưng
phần trăm hoàn thành kế hoạch năm 2000 chỉ bằng 90%. Năm 2001 so với
năm 2000 tăng lên đến 126,67% nhưng phần trăm hoàn thành kế hoạch mới
là 96,5%. Đến đầu quý I/2002 sản lượng đạt vượt mức kế hoạch 5%. Như
vậy các tỷ phần trăm hoàn thành kế hoạch sản xuất cho thấy năng lực sản
xuất của máy móc tương đối ổn định và công ty còn chưa khai thác được hết
năng lực sản xuất này.
Đối với vỏ bao xi măng tỷ lệ phần trăm hoàn thành kế hoạch tương đối tốt-
sản lượng thực hiện tăng mạnhqua các năm. Năm 2000 so với năm 1999 là:
231,95%, năm 2001 so với năm 2000 là: 171,54%.
Tỉ lệ này cho thấy khả năng mở rộng sản xuất tăng qui mô sản phẩm của
công ty rất tốt. Công ty có khả năng đáp ứng một lượng lớn các loại vỏ bao
miễn là có nhu cầu tiêu thụ.
Năm 2000 mới đi vào sản xuất cột điện, tuy sản lượng sản xuất còn hạn chế,
tốc độ tăng lên sau một năm không lớn chỉ đạt 108,7%. Về mặt hàng này
công ty gặp một số khó khăn về công nghệ sản xuất giá thành tương đối cao.
Chú trọng đổi mới công nghệ, giảm giá thành sản xuất, tăng sản lượng sản
xuất đạt công suất thiết kế là vấn đề mà công ty đang tổ chức thực hiện.
Biểu 5: Tổng giá trị thực hiện qua các năm.
1999 2000 2001 Quý I/2002
KH TH %HT KH TH %HT KH TH %HT KH TH %HT
tổng
giá trị
sản
lượng
42.273 48.530 114,8 47.751 64.411 134,89 89.355 89.087 99,7 23.668 19.893
xi
măng
38.339 38.799 101,2 33.157 41.513 125,2 42.855 40.663 95 14.323 12.504 87,3
vỏ bao 3.934 10.131 257,5 7.594 12.112 159,5 45.081 46.855 104 5.154 5.211 101,1
cột
điện
7.000 10.786 154,1 1.419 1.569 110,57 4.191 2.178 52
Tổng giá trị sản lượng đánh giá giá trị sản phẩm công nghiệp của công ty.
Chỉ tiêu này cho thấy, ứng với một khối lượng sản xuất nhất định của các
loại sản phẩm thì sẽ tạo ra giá trị được tính băng tiền. Theo bảng trên tổng
giá trị sản lượng tăng là qua các năm. Thực hiện năm 2000 so với năm 1999
là: 132,72%, năm 2001 so với năm 2000 là: 138,3%. Tình thực hiện kế
hoạch năm 1999, 2000 rất tốt, vượt định mức kế hoạch đặt ra là 14,8% và
34,89%. Sang năm 2001 % hoàn thành kế hoạch lại giảm đi chỉ bằng 99,7%.
Tuy nhiên lượng giảm đi hàng không lớn và thực trạng này cho thấy sản
phẩm của công ty luôn đảm bảo đưọc giá trị và có sức cuốn hút đối với nhu
cầu tiêu dùng nó.
Đối với sản phẩm xi măng sản lượng sản xuất thực hiện năm 1999, 2000 đều
vượt mức kế hoạch, năm 2001 chưa đạt mức kế hoạch đặt ra là do sự xuống
cấp của máy móc trang thiết bị kỹ thuật chưa được sửa chữa, bổ sung kịp
thời. Hiện nay vấn đề này đang được công ty từng bước kiểm tra, đánh giá
lại và có kế hoạch trùng tu, sửa chữa nhằm nâng cao năng suất làm việc của
máy móc. Chi phí để sửa chữa và đầu tư tương đối lớn nên công ty đang gặp
vấn đề khó khăn về vốn. Nếu tăng vốn cố định thì vốn lưu thông bị hạn chế
ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên công ty
vẫn kiên định giữ vững và phát triển qui mô sản xuất.
Vỏ bao xi măng đạt giá trị sản lượng tương đối tốt, hoàn thành vượt mức kế
hoạch qua các năm và tăng lên sau mỗi năm. Điều này phản ánh khả năng
tiềm lực về sản xuất vỏ bao của công ty rất tốt.
Là sản phẩm mới được sản xuất, cột điện bê tông cũng góp phần không nhỏ
vào tổng giá trị sản lượng sản xuất. Hoàn thành kế hoạch năm 2000, 2001 và
có xu hướng tăng lên.
Tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất phản ánh khả năng hoàn thành hay
năng lực làm việc thực sự của máy móc, cán bộ công nhân viên điều hành và
trực tiếp tham gia sản xuất. Phản ánh khả năng cung ứng sản phẩm hàng hoá
ra ngoài thị trường của công ty có đảm bảo các mục tiêu mà công ty đã đặt
ra hay không.
Tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, cho thấy khả năng xâm
nhập thị trường, đáp ứng nhu cầu của khách hàng, và khả năng tiêu thụ
lượng sản phẩm sản xuất ra. Các biểu sau cho thấy thực trạng hàng của công
ty qua một số năm.
Biểu 6: Tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm công
nghiệp qua các năm.
Năm 1999:
ST
T
Mặt hàng Đơn
vị
Khốilượn
g thực tế
sản xuất
Thực hiện tiêu thụ So sánh
KH TH Với KH
(%)
với thực tế
sản xuất
(%)
1 xi măng Tấn 49.120 49.000 47.000 95,9 95,68
2 vỏ bao xi
măng
vỏ cái 4.121 4.000 3.500 87,5 84,9
3 Cột điện
Năm 2000.
STT Mặt
hàng
Đơn vị Khối
lượng
thực tế
Thực hiện tiêu thụ
So sánh
sản xuất KH TH Với KH
(%)
Với thực
tế sản
xuất (%)
1 xi măng Tấn 54.000 52.000 52.365 100,7 96,97
2 vỏ bao
xi măng
103 cái 9.559 9.123 9.221 101,07 96,46
3 Cột điện cột 1.172 1.152 1.100 95,48 93,85
Năm 2001
STT Mặt hàng Đơn vị Khối
lượng
thực tế
Thực hiện tiêu thụ
So sánh
sản xuất KH TH Với KH
(%)
Với thực
tế sản
xuất (%)
1 xi măng Tấn 68.400 71.000 69.450 97,81 101,54
2 vỏ bao xi
măng
103 cái 16.398 17.200 18.000 104,65 109,77
3 Cột điện cột 1.274 1.430 1.297 90.69 101,8
Qua các bảng trên ta thấy sản lượng tiêu thụ các lợi sản phẩm tăng lên hàng
năm theo tốc độ tăng của sản lượng sản xuất. Tuy nhiên năm 1999, 2000 sản
phẩm tiêu thụ đối với mỗi loại sản phẩm chỉ đạt từ 84,9% 96,97% so với
sản lượng thực tế sản xuất. Như vậy vẫn còn lượng sản phẩm tồn kho không
tiêu thụ được. Sang năm 2001 công ty mở rộng các hoạt động tìm kiếm thị
trường tiêu thụ, tăng cường các hoạt động tiếp thị, cải tiến đổi mới trang
thiết bị nâng cao chất lượng sản phẩm, tổ chức các hoạt động dịch vụ trước,
trong và sau khi bán hàng. Do vậy lượng sản phẩm tiêu thụ không những đáp
ứng lượng sản xuất mà còn tiêu thụ được sản phẩm còn tồn đọng lại trước
đó. Mặc dù vậy vẫn chưa đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra.
Khó khăn về thị trường tiêu thụ xi măng cần là chủ yếu năm 1999 đạt 95,9%
so với kế hoạch, năm 2000 tăng lên đạt 100,7%. Nhưng bước sang năm
2001 thì lại giảm xuống còn 97,81% và tiếp tục gặp khó khăn ở quí I/2002
chỉ đạt 74%. Do tình hình chung về nhu cầu vật liệu xây dựng trên cả nước
luôn có xu hướng giảm, trong khi đó lượng cung ứng xi măng ra thị trường
ngày càng lớn. Điều này tác động mạnh mẽ đến thị trường tiêu thụ sản phẩm
của công ty. Do vậy kết quả đạt được là đáng khích lệ, công ty vẫn đảm bảo
được tái sản xuất và tăng ưui mô, tăng cao chất lượng xi măng và tìm hiểu
thị trường tiêu thụ mới.
Về mặt hàng vỏ bao xi măng năm 1999 mới đưa vào sản xuất nên chưa có
nhiều bạn hàng, hợp đồng tiêu thụ với các nhà máy sản xuất xi măng khác
còn hạn chế nên lượng tiêu thụ chỉ đạt 84,9% so với thực tế sản xuất, đạt
87,5% so với kế hoạch tiêu thụ.
Bước sang 2000, 2001 với sự nỗ lực tổ chức tốt các hoạt động tiếp thị vỏ
bao của công ty được nhiều nhà máy khác chú ý đến như: Hoàng Thạch,
Long Th,
... nên đã ký kết thêm được các hợp đồng tiêu thụ do vậy lượng sản xuất ra
được tiêu thụ gần hết, vượt mức kế hoạch tiêu thụ. Sản phẩm này chiếm vị
trí quan trọng trong tổng thu nhập của công ty. Đến đầu năm nay lượng vỏ
bao vẫn được các bạn hàng quen thuộc tin dùng với xu hướng dùng nhiều
hơn. Tuy nhiên để khai thác hết tiềm lực sản xuất của nhà máy, công ty đang
tiến hành các hoạt động nhằm thu hút thêm các bạn hàng mới, tăng khối
lượng tiêu thụ qua các hợp đồng tiêu thụ mới.
Nhu cầu về cột điện qua mấy năm gần đây không lớn và có xu hướng giảm,
lượng tiêu thụ của công ty chủ yếu được thực hiện bởi các xí nghiệp trực
thuộc công ty. Cột điện được đưa vào sử dụng trong các công trình các xí
nghiệp này thi công, lượng bán ra ngoài còn hạn chế. Do vậy mức độ hoàn
thành kế hoạch chưa được tốt.
Tóm lại: Qua thực tế tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm công nghiệp của công ty ta thấy một kết quả tương đối khả quan.
Công ty có thể duy trì và mở rộng qui mô sản xuất với tất cả các loại sản
phẩm: xi măng, vỏ bao xi măng, cột điện trong những tới. Đầu tư đổi mới và
cải tiến trang thiết bị sản xuất, tăng cường các hoạt động tiếp thị, nhất định
công ty sẽ ổn định và phát triển trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp.
1.2. Thị trường tiêu thụ.
Sản phẩm công nghiệp của công ty có nhiều uy tín trên thị trường. Xi măng
đã được hợp chuẩn hoá theo tiêu chuẩn Việt Nam. Năm 1999, 2000 đã đạt
giải bạc về chất lượng của Bộ khoa học công nghệ và môi trường.
Do đặc điểm giá trị sử dụng mỗi loại sản phẩm là khác nhau nên thị
trường tiêu thụ từng loại sản phẩm cũng khác nhau.
Các biểu sau sẽ cho ta thấy dung lượng tiêu thụ sản phẩm trên các thị
trường theo khu vực địa lý qua một số năm.
Biểu 7 : Thực hiện kế hoạch tiêu thụ xi măng theo thị trường.
T
T
Thị trường
1999 2000 2001
KH TH %TH KH TH %TH KH TH %TH
1 Hà Nội 26460 27016 102,1 28776 29700 103,21 37976 39600 104,3
2 Hoà Bình 3,808 3929,6 103,2 4146 4320 104,2 5586 5760 103,12
3 Bắc Ninh 2.911,4 2947,2 101,23 3283 3240 98,7 4353 4320 99,23
4 Sơn Tây 2.458,4 2456 99,9 2700 2700 100 3648 3600. 98,7
5 Đông Anh 3434,27 3438,4 100,12 3791 3780 99,7 5734 5040 87,9
6 Sơn La 2009 1964,8 97,8 2191 2160 98,6 2824 2880 102
7 Ninh Bình 1892 2210,4 102 2427 2430 100,1 3145 3240 103
8 Hà Đông 4045,3 4170,2 103,21 4579 4590 100,23 6182 6120 99
9 Vĩnh Phúc 3072,4 2701,6 2701,6 3187 2970 93,2 3921 3960 101
10 Các tỉnh khác 1202,5 1228 1228 1353 1350 99,8 1798 1800 100,12
Là sản phẩm mới đi vào sản xuất kinh doanh, trong giai đoạn tiếp cận
thị trường xi măng của công ty sự cạnh tranh của các công ty lớn khác như
xi măng Hải Phòng, Hoàng Thạch, Bỉm Sơn,... Nhưng do có những cải thiện
kỹ thuật, nâng cao chất lượng, xi măng công ty đã xâm nhập được vào các
thị trường từng bước ổn định và tăng trưởng.
Một loại sản phẩm công nghiệp thứ hai là vỏ bao xi măng, đối với các
loại sản phẩm này, công ty đã có những bạn hàng quen thuộc hàng năm đã
ký kết hợp đồng tiêu thụ và thực hiện cung ứng theo đúng các hợp đồng.
BIỂU 8: TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH VỎ BAO XI MĂNG
Đơn vị: cái
Sản
phẩm
1999 2000 2001
KH TH %HT KH TH %HT KH TH %HT
Hoàng Thạch 6.636.955 6.785.000 102,23 7.618.309 7.856.000 103,12 14.071.856 14.100.000 100,2
Luskvaxi 121.351 121.230 99,9 124.110 124.110 100 147.079 148.550 101
Long Thọ 207.280 205.000 98,9 375.375 375.000 99,9 346.568 353.500 102
X 18 500.316 506.320 101,2 636.856 650.230 102,1 293.883 302.700 103
S. Đà 691.631 713.210 103,12 890.822 910.420 102,2 1.197.277 1.209.250 101
Các sản phẩm
khác 100.899 101.000 100,1 125.120 123.494 98,7 200.751 203.000 101,12
Hiện nay công ty đang tăng cường các hoạt động tiếp thị, mở rộng thị
trường tiêu thụ, ký kết các hợp đồng tiêu thụ với các nhà máy xi măng khác.
Theo bảng trên thì sản phẩm chủ yếu được nhà máy xi măng Hoàng
Thạch tiêu thụ chiếm 70 - 80%, còn lại các nhà máy khác có công suất sản
xuất rất nhỏ nên hàng năm nhận tiêu thụ vỏ bao của công ty với một lượng
không đáng kể. Tuy nhiên ta thấy lượng tiêu thụ của các nhà máy này ở mức
ổn định và tăng nhẹ qua các năm. Điều này sẽ đảm bảo ổn định sản xuất
kinh doanh cho công ty. Nhiệm vụ hiện nay và trong những năm tới là công
ty phải tìm cách mở rộng bạn hàng, tăng thị phần trong thị trường tiêu thụ.
Đối với sản phẩm là cột điện li tâm với các loại khác nhau, hàng năm
chủ yếu cung ứng cho các tỉnh Cao Bằng, Sơn La, Lai Châu và một số tình
khác. Với đội ngũ vận chuyển có công suất hoạt động lớn công ty có thể đưa
các sản phẩm sang địa bàn các tỉnh khác nhau ở khu vực phía Bắc. Hiện nay
nhu cầu về phát triển và hoàn thiện hệ thống mạng lưới điện quốc gia vẫn
đang là vấn đề cấp bách. Do đó trong những năm tới sản phẩm của công ty
có triển vọng mở rộng và phát triển trên thị trường tiêu thụ.
1.3-/ Các kênh phân phối:
Hai loại sản phẩm là vỏ bao xi măng và cột điện li tâm công ty sản xuất
và trực tiếp tiêu thụ. Với sản phẩm vỏ bao công ty thường ký các hợp đồng
tiêu thụ theo năm với các nhà máy xi măng khác như: Nhà máy xi măng
Hoàn Thạch, Long Thọ, Luskvaxi, X18,... Sau đó thực hiện tổ chức sản
xuất. Công ty có thể trực tiếp vận chuyển sản phẩm đến nhận hàng tại kho
thành phẩm của công ty. Với hình thức này công ty tận dụng được năng lực
của đội ngũ nhân viên, năng lực vận chuyển sẵn có. Do đó giảm thiểu được
các khoản chi phí cho tiêu thụ góp phần tăng lợi nhuận đảm bảo kết quả sản
xuất kinh doanh, tạo việc làm ổn định cho đội ngũ công nhân.
Với cột điện li tâm, công ty chủ yếu tổ chức đưa vào tiêu thụ tại các
công trình mà xí nghiệp xây lắp của công ty tham gia thi công. Như vậy sản
phẩm này phụ thuộc vào các hợp đồng xây dựng, công ty phải thực hiện các
hoạt động tiếp thị để đưa sản phẩm của mình vào thi công. Ngoài ra công ty
còn tổ chức bán ra ngoài cho các công trình xây dựng khác và trực tiếp vận
chuyển sản phẩm đến địa điểm xây dựng.
Mặt hàng xi măng là sản phẩm công nghiệp chính hàng năm đem lại
nguồn thu lớn, nhưng tiêu thụ vẫn là khâu gặp nhiều khó khăn. Công ty đã
có rất nhiều các đại lý tiêu thụ nằm rải rác ở các tỉnh phía Bắc như: Hà Tây,
Ninh Bình, Sơn La,... nhưng chủ yếu vẫn là khu vực Hà Nội. Các đại lý này
là các hộ gia đình tham gia vào kinh doanh vật tư - vật liệu xây dựng.
Một đặc điểm tốt là các hộ tiêu thụ này rất năng động và nhạy bén
trong việc xác định nhu cầu tiêu thụ và có khả năng cung ứng nhanh và kịp
thời theo đòi hỏi của người tiêu dùng.
Cách thức hoạt động của hình thức tiêu thụ này là công ty có thể ký các
hợp đồng tiêu thụ đối với các hộ tiêu thụ này trong vòng một tháng, quý hay
năm. Hàng ngày căn cứ vào lượng đặt hàng của các hộ tiêu thụ công ty có
thể trực tiếp cử đội xe vận chuyển đến tận nơi hoặc giao hàng tại kho do các
chủ hộ có phương tiện vận chuyển. Tuy nhiên hình thức công ty vận chuyển
đến tận địa điểm cần vẫn được các chủ hộ quan tâm vì giá cước vận chuyển
rẻ hơn thuê ngoài, hoặc có trường hợp công ty miễn cước vận chuyển.
Công ty có đội ngũ thường xuyên theo dõi quản lý các hoạt động kinh
doanh, kết quả tiêu thụ, tránh tình trạng chiếm dụng vốn, mất khả năng thanh
toán. Hàng tháng công ty thực hiện quyết toán một lần vào cuối tháng, chủ
hộ có thể thanh toán hết một lần hoặc thanh toán một phần, phần còn lại bổ
sung vào tháng sau.
Hiện nay, trên địa bàn Hà Nội, công ty có mạng lưới tiêu thụ dày đặc
hàng năm tiêu thụ phần lớn lượng sản phẩm sản xuất ra. Ngoài ra công ty
còn mở rộng sang các vùng: Hà Tây, Đông Anh, Hoà Bình, Nam Hà,... Bên
cạnh đó công ty còn trực tiếp ký kết các hợp đồng tiêu thụ với các công ty
xây dựng khác thuộc khu vực miền Bắc và trực tiếp giao hàng đến các địa
điểm thi công.
SƠ ĐỒ TIÊU THỤ XI MĂNG CỦA CÔNG TY
Do đặc điểm sử dụng của từng mặt hàng, nên phương thức bán khác
nhau. Có thể sử dụng các hình thức bán buôn hay bán lẻ, qua đại lý hay
không. Ở phần trên đã nói lên điều đó, phần dưới đây sẽ chỉ rõ thực trạng
tiến hành các phương thức đó của công ty thông qua các số liệu cụ thể và tỉ
lệ phần trăm hoàn thành kế hoạch đặt ra cho mỗi phương thức tiêu thụ.
Nhà máy,
sản xuất
(kho thành phẩm)
Hộ tiêu thụ
Người tiêu dùng
Xí nghiệp xây lắp
VT - VT trực thuộc
công ty - Tổng công
ty
Các công ty
xây dựng khác
BIỂU 9: THỰC HIỆN KẾ HOẠCH TIÊU THỤ SẢN PHẨM
THEO PHƯƠNG THỨC TIÊU THỤ MẶT HÀNG
T
T
Mục
hàng
Đơn
vị
Phương thức
bán
1999 2000 2001
KH TH %HT KH TH %HT KH TH %HT
1 Xi măng tấn
Bán buôn 16.500 15.500 93,99 17.130 16.612 96,97 18.000 18.000 100
Bán lẻ 6.000 5.120 85,33 7.500 6.330 84,4 8.500 7.500 88,23
Đại lý 26.500 26.380 99,55 27.370 29.423 107,5 44.500 43.950 98,7
2 Vỏ bao XM 10
3 cái Bán buôn 4000 3.500 87,5 9,23 9.211 101,07 17.200 18.000 101,65
3 Cột điện cột
Bán buôn 1000 1000 100 1.230 1.104 89,7
Bán lẻ 152 100 65,78 200 193 96,5
Qua biểu trên cho thấy đối với mặt hàng xi măng, lượng tiêu thụ chủ
yếu thông qua các đại lý. Công ty luôn chú trọng đến phương thức tiêu thụ
này, luôn tìm cách ký kết các hợp đồng tiêu thụ cho các đại lý đảm nhận rải
rác các nơi trong khu vực miền Bắc. Ngoài ra bán buôn chủ yếu được thực
hiện với các công ty xây dựng khác khi họ cần vật liệu để xây dựng các công
trình mà họ đang thi công xu hướng trong những năm tới công ty tăng cường
mở rộng các đại lý tiêu thụ và thực hiện các hoạt động tiếp thi bán hàng với
công ty xây dựng khác, khuyến khích người tiêu dùng đến đặt hàng tại nhà
máy sản xuất, công ty có thể vận chuyển đến tận nơi theo yêu cầu. Tăng
lượng xuất xi măng rời ngay tại kho.
Sau khi thực hiện các hoạt động tiếp thị ký kết hợp đồng tiêu thụ với
các nhà máy sản xuất xi măng khác, có nhu cầu cần mua vỏ bao, hoặc vỏ
bao hoàn chỉnh. Xí nghiệp tiến hành sản xuất và cung ứng theo đúng các hợp
đồng đã ký kết, hầu như không qua khâu trung gian nào, giá được tính theo
giá bán buôn. Tuỳ theo lượng tiêu thụ của các nhà máy mà có cá chế độ giá
cả khác nhau. Thực tế qua một số năm lượng tiêu thụ vỏ bao xi măng của
công ty vẫn tập trung vào nhà máy xi măng Hoàng Thạch. Các nhà máy khác
như: Long Thọ, Luskvaxi, X18,... với quy mô sản xuất nhỏ lên nhu cầu về
vỏ bao xi măng không lớn. Trong những năm tới công ty dự định tìm kiếm
các bạn hàng mới với công cụ cạnh tranh là giá cả, chất lượng, mẫu mã và
dịch vụ vận chuyển.
Với mặt hàng cột điện, công ty ký hợp đồng tiêu thụ chủ yếu với các
công trình mà công ty thi công, lượng bán lẻ ra ngoài tương đối ít, thị trường
tiêu thụ rất hẹp.
Về xây dựng nhà ở, các công trình lớn của Nhà nước, các công trình
công cộng là rất lớn. Do đó nhu cầu về vật liệu xây dựng các loại cũng rất
lớn. Do đó xi măng vẫn là một trong những loại vật liệu xây dựng chính ,
tiêu thụ lên tới hàng trăm nghìn tấn mỗi năm. Tuy nhiên mặt hàng này mang
tính chất thời vụ.
Năng lực sản xuất của nhà máy: Lợi thế nhà máy là có địa điểm tại
Hoà Bình, nên thuận tiện việc cung ứng các nhiên liệu cho sản xuất. Công ty
đã ký hợp đồng nhập nhiên liệu làm ăn lâu dài với các Công ty khai thác.
Các hợp đồng nhập khẩu thạch cao từ Trung Quốc.
với lượng nhập thường xuyên tương đối ổn định và không bị ép giá,
với dây truyền công nghệ sản xuất, cùng với đội ngũ công nhân viên hiện tại
hàng năm Công ty có thể cung ứng ra thị trường khảng 80.00000 tấn
ximăng, 19,5 triệu vỏ bao và 2500 cột điện li tâm với giá cả hợp lí đủ sức
mạnh cạnh tranh để xâm nhập thị trường.
+ Cùng với nhu cầu thị trường là các đối thủ cạnh tranh cùng sản xuất
một loại sản phẩm, cùng nhằm vào nhóm khách hàng trong nước chỉ tính
riêng khu vực miền Bắc đã có rất nhiều nhà máy sản xuất xi măng hải
Phòng, Bỉm Sơn, Hoàng Thạch... xi măng của các công ty hầu như chất
lượng rất tốt và đã là sản phẩm quen thuôc đối với người tiêu dùng. Do đó
muốn sâm nhập thị trường Công ty phải cạnh tranh bằng giá cả , dịch vụ
trước và trong khi bán hàng...
- Căn cứ vào những đơn đặt hàng của khách hàng trong tháng, quí,
nămnhững báo cáo kết quả tiêu thụ nói riêng của năm báo cáo. Dựa vào
những số liệu cụ thể của các chỉ tiêu trong báo cáo có thể lập kế hoạch cho
năm nay bằng cách lấy tăng theo tỉ lệ phần trăm. Chẳng hạn lấy sản lượng
năm nay bằng 125% sản lượng năm báo cáo giá cả giữ ở mức ổn định tăng
mức thu lên 20%...
Trưởng phòng kế hạch sau khi thảo luận, dự thảo các căn cứ cùng
các nhân viên phụ trách từng linh vực, trực tiếp đi điều tra nghiên cứu sau đó
sẽ tổng hợp lại thông tin báo cáo lại với trưởng phòng.
Trước tiên công việc phải làm là của nhân viên nghiên cứu thị trường.
Nhiệm vụ của những nhân viên này là phải thu nhập thông tin liên qua đến
khả năng tiêu thụ sản phẩm của Công ty. Những thông tin này bao gồm: thị
trường đầu vào, tình hình khai thác và khả năng cung cấp nguyên vật liệu
của các Công ty khai thác, chế biến trên cả nước và cụ thể là các Công ty
đang có hợp đồng cung cấp yếu tố đầu vào cho Công ty. Chẳng hạn như
Công ty khai thác và chế biến Clanke, Công ty khai thác than...yếu tố này sẽ
ảnh hưởng đến chi phí đầu vào và tác động trực itếp đến giá cả sản phẩm.
Một vấn đề quan trọng nữa là khả năng tiêu thụ vật liệu xây dựng trên
thị trường. Dưới tác động của tinhf hình kinh tế nói chung sẽ ảnh hưởng tới
tốc độ phát triển xây dựng nhà cửa các công trình xây dựng lớn như thế
nào. Và đến nhu cầu về vật liệu xây dựng thì được biểu hiện cụ thể như thế
nào: Chất lượng, sản lượng, cơ cấu giá cả, phương thức thanh toán và thời
gian đáp ứng..
Là một sản phẩm mới đi vào sản xuất kinh doanh trong khi đó treen
thị trường nó đã là một laọi hàng hoá vật liệu xây dựng đã xuất hiện từ rất
lâu. Hiện nay trong cả nước có hàng chục nhà máy sản xuất ximăng là đứng
và lò quay với công suất sản xuất từ 80.000 tấn 2 triệu tấn mỗi năm.
Do đó sản phẩm và đói thủ cạnh tranh đang là trở ngại lớn đối với công ty.
Trong khâu lập kế hoạch tiêu thụ này công ty không thể không tìm hiểu các
thông tin về đối thủ cạnh tranh biểu hiện cụ thể là sản lượng giá cả, tình hình
tiêu thụ và khả năng chiếm lĩnh thị trường của các Công ty này. Nhằm vào
nhu cầu tiêu thụ của người tiêu dùng Công ty có kế hoạch cung ứng kịp thời,
thoả mãn các đòi hỏi của họ nhằm bán được lượng sản phẩm lớn nhất. Nhằm
vào sản phẩm và đối thủ cạnh tranh, Công ty tìm hiểu nghiên cứu điểm mạnh
điểm yếu của họ. Biết được điểm mạnh thì có thể dựa vào nó để tồn tại và
phát triển, rõ được điểm yếu thì sử dụng điểm mạnh của mình để tiến tới.
Chẳng hạn sản phẩm của họ giá cả cao không thoả mãn được hầu hết các
nhu cầu trong nước. Công ty sẽ tìm được mọi biện pháp giảm chi phí, hạ giá
thành sản xuất, đưa ra chính sách giá cả phù hợp để chiếm lĩnh phần đông
đảo còn lại của thị trường, hoặc sử dụng thế mạnh của ctlà có thể tổ chức
vận chuyển nhanh, kịp thời và cước phí hợp lý để thu hút khách hàng.
Đó là những thông tin bên ngoài Công ty, bên cạnh đó còn phải
nghiên cứu chính sách thuế của Nhà nước đối với từng loại sản phẩm trong
năm tới có gì thay đổi không ?
Còn những thông tin trong nội bộ Công ty, dựa vào các báo cáo sản
xuất kinh doanh của các xí nghiệp gửi lên, năng lực, dây truyền sản xuất có
thể cung ứng ra thị trường bao nhiêu tấn xi măng, bnao nhiêu voe bao xi
măng là 82.000tấn/ năm, với sản xuất ba bì 20 triệu vỏ/năm cọt điện 2500
cột/nămnhưng qua một số năm sản xuất còn cách xa côngân hàng Thương
mại suất thiết kế .
Sau khi thu nhập tương đói đầy đủ các thông tin cần thiết bằng
phương pháp phân tích và xử ký thông tin qua máy tính, kết hợp với kỹ thuật
dự báp, trên cơ sở các chỉ tiêu đơn vị lập kế hoạch bắt đầu soạn thảo
chương trình tiêu thụ cho năm tới.
1.2 Các chỉ tiêu lập kế hoạch và phương pháp tính.
Hệ thống chỉ tiêu sẽ phản ánh đầy đủ kế hoạch tiêu thụ sản phẩm và các mục
tiêu cụ thể của công ty và công tác tiêu thụ phải thực hiện các chỉ tiêu này có
thể lượng hoá hoặc không thể lượng hoá.
Hiện nay hệ thống các chỉ tiêu mà công ty dũng để lập kế hoạch tiêu thụ sản
phẩm bao gồm: sản lượng, giá cả, doanh thu, lợi nhuận các khoản phải nọp
ngân sách và sản lượng dự trữ cuối kỳ, các loạin sản phẩm có thể cung ứng
ra thị trường, thu nhập bình quân trên mỗi động thực hiện công tác tiêu thụ,
chio phí cho công tác tiêu thụ...Đó là các chỉ tiêu không thể lượng hoá là
nâng cao uy tín sản phẩm của Công ty trên thị trường, Mở rộng tăng thị
phần, thoả mãn tối đa nhu cầu của người tiêu dùng ...
Những chỉ tiêu định lượng được tính toán cụ thể, mỗi loại chie tiêu có cách
xác định riêng:
- Sản lượng tiêu thụ: căn cứ vào lượng sản xuất ra trong năm, lượng tồn khô
đầu nămvà lượng dự trữ cuối kỳ, đơn vị tính ra sản lượng tiêu thụ trong năm.
QTT= TĐM+QSX- TCN
Trong đó QTT: Sản lượngtiêu thụ trong năm
TĐM: Tồn kho đầu năm
QSX: Sản lượng sản xuất trong năm
TCN: Lượng tồn kho cuối năm
- Giá cả: hàng năm vào cuối kỳ báo cáo, phòng kế hoạch lập báo cáo về tình
hình thực hiện kế hoạch giá bán của năm kế hoạch, phân tích những yếu tố
làm giảm giá bán thayđổi so với dự kiến, sau đó đơn vị tiến hành xác định
giá bán thay đổi so với dự kiến, sau đó đơn vị tiến hành xác định giá bán cho
năm sau
Giá bán lẻ sản phẩm = giá thành + lợi nhuận+ thuế VAT(10%)
Giá bán buôn sản phẩm = giá bán lẻ - Chiết khấu giảm giá
Những khách hàng mua với khối lượng, quan hệ ổn định Công ty thường
giảm giá 12%.
Việc xác định giá bán là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu
quả tiêu thụ. Căn cứ xác định giá bán chủ yếu đưa vào giá thành sản xuất,
giá cả của đối thủ cạnh trạnh và nhu cầu về sản phẩm của khách hàng.
- Doanh thu: được tính bằng sản lượng nhân với giá thanh toán, giá thanh
toán ở đây tính giá cả chi phí vận chuyển, thuế. Tức là những chi phí để dưa
sản phẩm đến nơi tiêu dùng. Doanh thu hàng năm của Công ty thường tăng
từ 20- 30%. Sang năm 2002 công ty vẫn giữ nguyên tốc độ này, khoảng 94
tỷ đồng được đưa vào kế hoạch của năm 2002.
- Lợi nhuận: Sau khi trừ đi các khoản chi phí cho sản phẩm từ khâu sản xuất
đến khâu tiêu thụ khoảng 1,475 tỉ đồng đạt 187,17% so với thực hiện năm
2001.
- Thuế : theo qui định trong luật thuế doanh nghiệp, Công ty sẽ phải đánh
thuế theo các điều khoản mà luật đưa ra. Các thuế chủ yếu phải nộp là thuế
VAT, thuế thu nhập doang nghiệp. Đơn vị đã tính toán và đưa vào kế hoạch
khoản nộp thuế VAT (10%): 13,856 triệu đồng, thuế thu nhập doanh
nghiệp(20% - 25%): 1,442 triệu đồng, tổng các khoản phải nộp ngân sách
đạt 117,37% so với thực hiện năm 2001.
Các chỉ tiêu là cốt lõicủa một bản kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, khi hệ thống
các chỉ tiêu đã được xác định. Nhân viên hòng máy sẽ tiến hành lập các bản
kế hoạch tiêu thụ cho năm tiếp theo.
1.3 Xây dựngkế hoạch tiêu thụ sản phẩm
Trên cơ sở hệ thống chỉ tiêu đã được chỉ ra và đã dược lượng hoá và là kết
quả của quá trình nghiên cứu thu nhập thông tin bên ngoài và trong nội bộ
công ty với phương pháp phân tích xử lý số liệu qua máy vi tính cũng với
những kỹ thuật dự báo ngắn hạn. Phòng kế hoạch sẽ tiến hành lập bản kế
hoạch tiêu thụ sản phẩm công nghiệp của Công ty năm 2002.
Biểu 15: Kế hoạch tiêu thụ mặt hàng năm 2002
Mặt hàng tiêu thụ Đơn vị tính Thực hiện 2001 Kế hoạch 2002
1. Xi măng tấn 62.400 72.000
Ximăng rời - 5.980 6000
Xi măng bao - 56.420 66.000
2. Vỏ bao Xi
Măng 10
3vỏ 15.398 18.000
Vỏ bao xm Hoàng
thạch - 14.100 12.000
VBXMLucksvaxi - 148.55 2.500
Vỏ bao ximăng
Chinfong - 302,7 1000
VBXMSĐ - 1.209,25 1.200
Các loại khác cột 203 1.300
3. Cột điệnli tâm - 1.274 2.200
cột điện li tâm
12A - 193 320
CĐ 12B - 165 268
12C - 151 253
10A - 129 209
10B - 115 187
10C - 90 154
Cột điện chiếu
sáng 10A - 82 110
10B - 70 165
Cột H7,5 - 57 143
Cọt H8,5 - 50 121
CDD LT
14B(G6B + N8B) - 44 77
14C(G6D + N8D) - 28 56
14D(G6D + N8D) - 21 30
18 B( G8Bb +
N10B) - 20 27
18C(G8C +
N10C) - 19 19
Các loại khác - 20 43
Biểu 16: Kế hoạch kết quả tiêu thụ năm 2002
Tên sản
phẩm
Đơn vị Sản lượng Doanh
thu(1000đ)
Thuế
VAT(1000
đ)
Lợi
nhuận(1000
đ)
1. Ximăng tấn 72.000 44.121.000 4.412.100 575.989
2. Vỏ bao
xi măng
vỏ 18.000.000 115.312.00
0
4.531.200 856.596
3. Cột điện
li tâm
Cột 2.200 5.012.000 501.200 42.415
TỔNG 94.445.000 13.856.600 1.475.000
Cùng với việc xây dựng các chỉ tiêu tiêu thụ Công ty còn tiến hành lập kế
hoạch tiếp thị hàng hoá phân phối sản phẩm qua các bộ tiêu thụ thuộc những
thị trường khu vực khác nhau. Thường thì Công ty trích 1% doanh thu cho
tất cảcác chi phí tiếp thị thị trường bán hàng. Đối với kế hoạch phân phối thị
trường dựa vào số lượng xin cấp của cán bộ tiêu thụ, chỉ tiêu sản lượng đối
với mỗi thị trường khu vực. Căn cứ vào lượng xuất nhập trong tháng, quí
năm Công ty tổ chức tiếp nhấnp từ nhà máy và giao chỉ tiêu kế họch cho bọ
phận quản lý bảo quản và vận chuyển.
Biểu 17: Kế hoạch giá bán các sản phẩm công nghiệp năm 2002.
Tên sản phẩm Giá thành
sản phẩm
Chi phí tiếp
thị bán hàng
Giá thành
toàn bộ
Giá bán Thuế
VAT
Giá thanh
toán
1.Xi măng
+ Xi măng rời 540.000 5.400 545.400 547.000 54.700 601.700
+ Xi măng bao 580.000 5.800 585.800 587.000 58.700 645.700
2.Vỏ bao xi măng
+ Vỏ bao xi măng
Hoàng Thạch
2.636 263,6 2899,6 2900 290 3190
- Lucksvaxi 2.636 263,6 2899,6 29000 290 3190
- Chinh Phong 2.636 263,6 2899,6 29000 290 3190
- Sông Đà 1.800 180 1980 19000 190 2090
- Các loại khác 1.917 197,7 2108 ,7 2200 220 2420
3.Cột điện ly phân
CĐKT 12A 1.118.982 12.000 1.131.482 1.250.000 125.000 1.375.000
12B 1.319.822 15.000 1.334.422 1.500.000 150.000 1.650.000
12C 1.561.381 23.700 1.585.081 2.370.000 237.000 2.267.000
10A 706.211 8.180 712.391 818.000 81.800 899.800
10B 747.712 9.550 757.262 955.000 95.500 1.050.500
10C 797.875 13.600 811.475 1.360.000 136.000 1.496.000
Cột điện chiếu sáng
10A
858.932 9.550 868.482 955.000 96.500 1.050.500
10B 739.109 8.182 747.291 818.182 81.818 900.000
Cột H 7,5 349.198 3.906 353.089 390.000 39.000 429.000
Cột H8,5 379.731 4.370 384.101 437.000 43.700 480.000
CĐLT 14B
(G 6B + N 8B)
3.082.827 35.700 3.118.527 3.570.000 357.000 3.927.000
14C (G 6C + N 8C) 3.469.067 38.800 3.507.867 3.880.000 388.000 4.268.000
14 D (G 6D + N
8D)
3.610.086 40.300 3.650.386 4.030.000 403.000 4.433.000
18 B (G8B + N10B) 3.761.660 343.600 3.805.260 4.360.000 436.000 4.796.000
18 C (G 8C + N10 C) 3.990.616 44.600 4.035.216 4.460.000 446.000 4.906.000
Các loại khác 3.992.906 49.000 3.991.906 4.900.000 490.000 5.390.000
Để đảm bảo được mục tiêu đề ra trong kế hoạch tiêu thụ sản phẩm
Công tycòn đưa ra các biện pháp để thực hiện tốt các mục tiêu đó:
- Đối với xi măng biện pháp đầu tiên là phải tập trung cải tiến và nâng
cao năng suất lò nung. Thực hiện các hợp đồng chuyển giao công nghệ với
các chuyên gia, tổ chức quản lý sử dụng máy móc thiết bị và có kế hoạch dự
trữ vật tư phụ tùng giữ ổn định và nâng cao chất lượng xi măng, tăng uy tín
sản phẩm của Công ty. Do đó phải thực hiện theo dõi chất lượng nguyên liệu
đầu vào cho đến từng bước công nghệ trong quá trình sản xuất và từng lô xi
măng xuất xưởng.
Trên cơ sở giá thành được giao, quản lý chặt chẽ các chi phí đầu vao,
tiết kiệm vật tư nguyên liệu, giảm giá thành sản xuất để có điều kiện cạnh
tranh với các loại xi măng khác trên thị trường.
Về bao bì xi măng nhiệm vụ số một được dặt r a là tiếp thị trên thị
trường và giữ cứng thị phần đã có quan hệ truyền thống trong những năm
qua.
Với cột điện ly tân thực hiện chế độ kiểm tra thường xuyên chất lượng
sản phẩm tại mọi khâu cốt liệu cốt thép, hơi nước đến cường độ mẫu mã
của từng loại cột có uy tín, tạo chế độ đứng vững chắc trên thị trường. Tăng
cường công tác thị ngay từ khâu thiết kế mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm để đảm bảo hàng sản xuất ra được tiêu thụ hết.
Nói chung hiện nay nỗ lực cố gắng của Công ty vẫn là tập trung và
nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm tạo ra uy tín với khách hàng để tăng
phần chiếm lĩnh thị trường, đạt tốc độ tiêu thụ cao hơn.
1.4. Đơn vị lập kế hoạch
Hiện nay đơn vị lập phụ trácông nghệ và đảm nhận công việc lập kế
hoạch tiêu thụ phòng kinh tế kế hoạch. Đơn vị này còn lập các kế hoạch sản
xuất, kế hoạch tài chính, kế hoạch kinh doanh.
Việc lập kế hoạch phòng kinh tế kế hoạch kết hợp với phòng vật tư
tiêu thụ. Những nhân viên lập kế hoạch phối hợp với những nhân viên
nghiên cứu thị trường, tổ chức tiêu thụ sản phẩm của phòng vật tư tiêu thụ,
cùng với các chỉ tiêu do ban lãnh đạo cấp trên đưa xuống để thiết kế bản kế
hoạch tiêu thụ cho năm.
Phòng kế hoạch bao gồm trưởng phòng, phó phòng, nhân viên lập
báo cáo , kế hoạch trên máy vi tính, nhân viên tiếp nhận và kiểm tra hợp
đồng cung cấp nguyên vật liệu, tiêu thụ.. Tất cả những nhân viên này chịu sự
quản lý của trưởng phòng, do trưởng phòng phân công nhiệm vụ, trách
nhiệm. Với công việc lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm công nghiệp. Sau khi
nhận được các chỉ tiêu cấp trên đưa xuống cùng với những thông tin thu
nhập từ những tài liệu có liên quan trong Công ty kết hợp với thông tin từ
các nhân viên nghiên cứu thị trường của phòng vật tư tiêu thụ. Mỗi nhân
viên thực hiện công việc của mình để hoàn thành bản kế hoạch tiêu thụ.
Kế hoạch tiêu thụ cho năm tiếp theo là công việc tiếp theo của lập
báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh trong năm trước. Để thuận tiện cho việc
đánh giá nhận xét để rút ra những phương pháp tốt nhất cho thực hiện kế
hoạch tiêu thụ sản phẩm của năm tiếp theo. Một kế hoạch tốt, sát với thực tế
sẽ là công cụ để kiểm tra phần thực hiện, định hướng tốt cho quá trình tiêu
thụ, hướng dẫn viên cho quá trình tiêu thụ sẽ cho thấy năng lực làm việc của
đội ngũ cán bộ nhân viên tham gia lập kế hoạch.
2. Thực hiện kế hoạch
Thực hiện kế hoạch là công việc tiếp theo của phòng kế hoạch sau khi
kế hoạch tiêu thụ sản phẩm được lập xong. ở khâu này đơn vị cần phải tổ
chức thực hiện các công việc sau
2.1. Phổ biến kế hoạch.
Sau khi lập bản kế hoạch tiêu thụ sản phẩm trong năm tới phòng kế
hoạch sẽ báo cáo nội dung và kiến nghị các giải pháp để thực hiện kế hoạch
tại hội nghị cuối năm. Trong đó có các cấp lãnh đạo từ giám đốc đến phó
giám đốc và các trưởng, phó phòng trực thuộc công ty. Tại cuộc họp sau khi
tổng kết báo cáo kết quả các hoạt đọng sản xuất kinh doanh của công ty
trong năm, phòng kế hoạch sẽ thông báo nội dung chi tiết của kế hoạch cho
năm tới, trong đó có kế hoạch tiêu thụ sản phẩm công nghiệp. Các thành
viên có mặt trong hội nghị tham gia đóng góp ý kiến, sửa đổi bổ sung để
hoàn thiện kế hoạch. Giám đốc sẽ là người quyết định ký chấp nhận kế
hoạch và giao trách nhiệm cụ thể cho các phòng ban có liên quan.
2.2 Triển khai thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm đến từng bộ
phận có liên quan:
Sau khi quán triệt nội dung kế hoạch căn cứ vào các chỉ tiêu đưa ra,
cùng với những biện pháp cụ thể, phòng kinh tế kế hoạch có trách nhiệm
soạn thảo, in ấn thành văn bản gửi cho các bộ phận liên quan: phòng vật tư
tiêu thụ, phòng kinh doanh, các xí nghiệp sản xuất,... Các đơn vị này căn cứ
vào kế hoạch giao nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên có trách nhiệm phải
thực hiện.
Đối với phòng kế hoạch có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra, quản lý
việc thực hiện kế hoạch của các đơn vị khác.
Phòng vật tư tiêu thụ sẽ tiến hành tổ chức, phân công nhiệm vụ cho các
nhân viên tiếp thị, vận chuyển, và tiếp nhận hàng từ các xí nghiệp, ký kết các
hợp đồng. Đơn vị này có trách nhiệm theo dõi tình hình sản xuất của các xí
nghiệp sản xuất và những biến động trên thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Đối với các xí nghiệp sản xuất phải thực hiện kiểm tra, bảo dưỡng máy
móc để duy trì tốc độ sản xuất. Tích cực quản lý và theo dõi hối thúc công
nhân làm việc, sử dụng hết năng lực của nhà máy. Nếu nhận thấy sự giảm
sút, xuống cấp của các thiết bị máy móc sản xuất thì phải kiến nghị ngay.
Chú ý kiểm tra chất lượng sản phẩm ngay từ khi mới ra lò. Để đảm bảo tốt
chất lượng phải tiến hành nghiên cứu, phân tích thử nghiệm có khoa học các
đặc tính của nguyên liệu trước khi cho vào sản xuất. Khâu này rất quan
trọng. Lãnh đạo xí nghiệp trực tiếp giao nhiệm vụ đến từng đơn vị, tổ đội
ngay từ khâu tổ chức tiếp nhận các nguyên liệu đầu vào, đến tổ chức sản
xuất và đưa vào kho thành phẩm.
Ở giai đoạn triển khai kế hoạch này, xí nghiệp có thể kiến nghị với ban
lãnh đạo công ty về điều kiện làm việc, chế độ chính sách đối với công nhân
của nhà máy. Hoặc những kiến nghị về sự sửa đổi mới các trang thiết bị sao
cho phù hợp với những chỉ tiêu mà kế hoạch đưa ra chẳng hạn như: sản
lượng, giá thành sản xuất, chất lượng, mẫu mã, sản phẩm,...
Triển khai, giao trách nhiệm đến từng bộ phận và cuối cùng là những
thành viên cụ thể, đặt lợi ích của họ trên phần công việc được giao các nhân
viên này sẽ rõ được phần việc của mình và hướng tới thực thi công việc đó.
2.3 Đánh giá và điều chỉnh kế hoạch:
Quán triệt quan điểm kế hoạch chỉ là phương hướng, là những mục tiêu
cần thực hiện mà mỗi đơn vị, mỗi thành viên phải hướng vào đó làm tốt
những gì có thể để đạt được. Những biến động về môi trường kinh doanh
diễn ra liên tục và rất khó có thể nắm bắt kiểm soát hết được. Điều này luôn
được công ty quan tâm và tìm cách giải quyết.
Ngay trong quá trình triển khai kế hoạch, với các kiến nghị của các
nhân viên phải tiến hành thực hiện kế hoạch, hoặc của tập thể, đơn vị ban
lãnh đạo công ty phải xem xét, tiếp nhận để chỉ đạo phòng kế hoạch có thể
bổ sung hoặc sửa chữa lại các chỉ tiêu cho phù hợp. Chẳng hạn phòng tổ
chức sản xuất dưới xí nghiệp báo cáo lên lượng cung ứng nguyên liệu đầu
vào bị hạn chế, đối tác cung ứng ép giá lên, dẫn đến chi phí sản xuất tăng lên
và như vậy giá thành sản xuất trên mỗi đơn vị sản phẩm sẽ tăng lên. Trong
trường hợp này nếu không tìm được nguồn cung ứng khác kịp thời cho thời
hạn sản xuất thì công ty bắt buộc phải tăng giá bán trên mỗi đơn vị sản
phẩm.
Trong quá trình thực hiện kế hoạch tiêu thụ, căn cứ vào các báo cáo
thường xuyên từ các xí nghiệp sản xuất, phòng kinh doanh, phòng vật tư,
tiêu thụ,... phòng kế hoạch tiến hành xem xét nghiên cứu và đưa ra các nhận
xét đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tới các chỉ tiêu kế hoạch.
Các ảnh hưởng này có thể tích cực hoặc tiêu cực.
Thực tế trong những năm qua nói chung thị trường tiêu thụ sản phẩm
công nghiệp của công ty tương đối ổn định. Nhưng không phải những chỉ
tiêu kế hoạch nào đưa ra cũng được thực hiện tốt đó là vì những lý do sau:
- Phòng kế hoạch thiên về các chỉ tiêu tiêu thụ cho cấp trên giao xuống
hoặc căn cứ quá nhiều vào phần thực hiện kế hoạch tiêu thụ của năm trước.
- Sự phối hợp giữa các đơn vị trong công ty trong công tác lập kế
hoạch tiêu thụ hầu như là chưa có, dẫn đến những sai lệch chủ quan.
- Khả năng nghiên cứu nắm bắt thông tin trên thị trường tiêu thụ còn
kém, đặc biệt là những thông tin về sản phẩm và đối thủ cạnh tranh. Chủ yếu
thu thập qua tài liệu sách báo, chưa trực tiếp tiến hành điều tra hoặc điều tra
chưa sâu.
- Khả năng dự báo những biến động trên thị trường tiêu thụ sản phẩm
công nghiệp chưa được chính xác.
Trước tình hình đó, hiện nay công ty luôn chú trọng quản lý, theo dõi
và kiểm tra quá trình thực thi kế hoạch đưa ra những đánh giá chính xác và
điều chỉnh lại một số chỉ tiêu kế hoạch cho phù hợp với tình hình thực tế.
Sau mỗi tháng, quý từ các báo cáo kết quả tiêu thụ, công ty sẽ có kế
hoạch kiểm tiến hành kiểm tra lại tình hình thực tế để lập kế hoạch tiêu thụ
cho quý sau hoàn thiện hơn, rồi trình lên ban lãnh đạo công ty cho phép tổ
chức thực hiện.
BẢNG 18: TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH TIÊU THỤ
SẢN PHẨM CÔNG NGHIỆP QUÍ I/2002
Tên sản phẩm Đơn vị KH QI TH QI %TH KH QI %KH 99
1. Xi măng tấn 19.000 17.279 90,94 24
2. Vỏ bao XM 103 vỏ 3.314 3.112 93,9 17,28
3. Cột điện li tâm cột 559 490 87,65 22,27
Theo bảng trên cho thấy tình hình thực hiện kế hoạch QI/2002 tuy các
sản phẩm đều chưa đạt chỉ tiêu kế hoạch đặt ra nhưng lượng chênh lệch so
với kế hoạch là không lớn và kết quả này hoàn toàn có thể chấp nhận được.
Do thị trường tiêu thụ vẫn còn đang gặp khó khăn. Đánh giá tình hình thực
tế bổ sung thêm các biện pháp để tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra.
Phòng kế hoạch tiến hành lập kế hoạch tiêu thụ cho QII/2002 đã tính phần
bù đắp vào kế hoạch tiêu thụ QI chưa thực hiện được để phù hợp với kế
hoạch năm 2002.
- Tiêu thụ xi măng : 19.200 tấn.
- Tiêu thụ vỏ bao xi măng : 4.840.000 vỏ.
- Tiêu thụ cột điện li tâm : 550 cột.
Cùng với các chỉ tiêu trên công ty còn đưa ra các giải pháp để thực hiện
tốt kế hoạch.
Đối với sản phẩm xi măng:
+ Thực hiện quản lý chặt chẽ chất lượng nguyên liệu đầu vào để đảm
bảo chất lượng.
+ Nâng cao chất lượng mẫu mã bao bì, từ 15/4 thực hiện đóng bao mới
có chất lượng cao và đẹp hơn, đảm bảo không tăng giá.
+ Thực hiện các biện pháp tiết kiệm đảm bảo định mức tiêu hao nguyên
liệu và nhất là năng lượng điện, than giảm giá đầu vào để hạ giá thành sản
phẩm đảm bảo có điều kiện cạnh tranh với các xi măng cùng loại trên thị
trường.
Với vỏ bao xi măng tăng cường công tác kiểm tra chất lượng từ bán
thành phẩm đến thành phẩm cuối cùng là vỏ bao. Tăng cường công tác tiếp
thị để đưa sản phẩm cột điệm vào công trình thi công.
3-/ Nhận xét về tình hình xây dựng và thực hiện kế hoạch tiêu thụ
sản phẩm công nghiệp của công ty XL - VT - VT - S. Đà 12:
Trong những năm qua công tác xây dựng và thực hiện kế hoạch tiêu thụ
sản phẩm công nghiệp có nhiều ảnh hưởng tích cực đến tốc độ tiêu thụ và
các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên bên cạnh đó công tác này còn
nhiều hạn chế.
3.1 Ưu điểm:
Công tác xây dựng kế hoạch tiêu thụ là định hướng, chỉ dẫn tốt cho các
thành viên trong công ty thực hiện tốt công việc của mình.
Thông qua các chỉ tiêu kế hoạch và chỉ tiêu thực hiện ban lãnh đạo tiến
hành đánh giá so sánh, nhận xét được khả năng thực hiện các mục tiêu mà
công ty đã đề ra. Từ đó có thể điều chỉnh, huy động các nguồn lực cần thiết:
vốn, lao đọng, dây chuyền công nghệ, vật tư thiết bị,... để phù hợp với tình
hình thực tế.
Kế hoạch tiêu thụ gắn người lao động với công việc được giao, họ luôn
ý thức được trách nhiệm và nghĩa vụ đối với công ty.
Công tác lập kế hoạch tiêu thụ đơn giản, phù hợp với trình độ và khả
năng của các nhân viên thực hiện.
3.2 Hạn chế:
Là một đơn vị sản xuất kinh doanh với quy mô không lớn, công ty chưa
có kế hoạch tầm chiến lược do sản phẩm sản xuất ra hầu như được đưa vào
thị trường tiêu thụ luôn.
Phòng kế hoạch chưa chủ động trong việc xác định những căn cứ cơ sở
định mức các chỉ tiêu, nghiên cứu và thu thập những thông tin từ nội bộ công
ty và thị trường tiêu thụ. Các căn cứ chủ yếu dựa vào chỉ tiêu do Tổng công
ty giao xuống. Các chỉ tiêu đưa ra trong kế hoạch mang tính chủ quan chưa
theo sát tình hình biến động trên thị trường, có thể dẫn đến bỏ lỡ cơ hội sản
xuất kinh doanh lớn đem lại doanh thu và lợi nhuận cao hơn.
Những nội dung được xây dựng còn ở trong phạm vi hẹp, chủ yếu đưa
ra các chỉ tiêu định hướng cần phải thực hiện. Còn các nội dung khác như
khách hàng, thị trường, tiếp thị, phân phối thì chưa được chú trọng lắm. Đó
là các nội dung mang tính giải pháp thúc đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản
phẩm, tuy nhiên nó chưa được xây dựng thành kế hoạch cụ thể mà trong quá
trình tiêu thụ tuỳ theo tình hình thực tế công ty mới bắt đầu tổ chức triển
khai thực hiện.
Điều này làm giảm bớt tính năng động, sáng tạo, sự nhiệt tình với công
việc của các nhân viên. Bởi vì nếu như kế hoạch được lập đầy đủ các nội
dung công ty có thể giao chỉ tiêu, khoán, bắt buộc các nhân viên phải thực
hiện. Gắn quyền lợi của họ với trách nhiệm chắn chắn họ ph
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Một số vấn đề về xây dựng và thực hiện kế hoạch về tiêu thụ sản phẩm công nghiệp của công ty xây lắp- Vật tư- Vận tải sông Đà 12.pdf