Tài liệu Luận văn Một số vấn đề cơ bản về nghiệp vụ thị trường mở: 3
Luận Văn
"MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHIỆP
VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ"
4
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................. 1
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG
MỞ ................................................................................................... 3
I. Những vấn đề chung về chính sách tiền tệ ................................. 3
1/ Khái niệm ..................................................................................... 3
2/ Hệ thống các mục tiêu của chính sách tiền tệ ................................ 3
3/ Các công cụ của chính sách tiền tệ ................................................ 5
II. Khái quát về nghiệp vụ thị trường mở ..................................... 7
1/ Khái niệm và cơ chế tác động ....................................................... 7
2/ Các loại nghiệp vụ thị trường mở ................................................. 8
3/ Phương thức giao dịch t...
50 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1143 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Một số vấn đề cơ bản về nghiệp vụ thị trường mở, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3
Luận Văn
"MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHIỆP
VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ"
4
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................. 1
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG
MỞ ................................................................................................... 3
I. Những vấn đề chung về chính sách tiền tệ ................................. 3
1/ Khái niệm ..................................................................................... 3
2/ Hệ thống các mục tiêu của chính sách tiền tệ ................................ 3
3/ Các công cụ của chính sách tiền tệ ................................................ 5
II. Khái quát về nghiệp vụ thị trường mở ..................................... 7
1/ Khái niệm và cơ chế tác động ....................................................... 7
2/ Các loại nghiệp vụ thị trường mở ................................................. 8
3/ Phương thức giao dịch trên thị trường mở .................................... 9
4/ Ưu nhược điểm của công cụ nghiệp vụ thị trường mở .................. 11
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÔNG CỤ NGHIỆP VỤ THỊ
TRƯỜNG MỞ
TRONG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT
NAM ................................................................................................ 13
5
I. Vài nét về nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam ..................... 13
1/ Khái niệm ..................................................................................... 13
2/ Điều kiện về thị trường tài chính .................................................. 13
3/ Khuôn khổ pháp lý ....................................................................... 16
4/ Về mặt kỹ thuật, nghiệp vụ ........................................................... 16
II. Tình hình hoạt động thời gian qua ........................................... 18
1/ Những kết quả bước đầu đạt được ................................................ 18
2/ Một số tồn tại và hạn chế .............................................................. 20
CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY HIỆU QUẢ CỦA
CÔNG CỤ
NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ TRONG THỜI GIAN TỚI
.......................................................................................................... 24
1/ Tăng thêm số lượng thành viên tham gia vào thị trường ............... 24
2/ Mở rộng hàng hoá cho nghiệp vụ thị trường mở
cả về số lượng và chất lượng ............................................................ 25
3/ Đa dạng hoá các phương thức giao dịch ....................................... 25
4/ Củng cố và thúc đẩy các mảng thị trường khác phát triển
để làm cơ sở cho hoạt động thị trường mở ........................................ 26
5/ Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng kết hợp với nâng cao
6
trình độ nghiệp vụ của các cán bộ ngân hàng .................................... 27
KẾT LUẬN ...................................................................................... 36
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................... 49
7
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG
MỞ
I-/ NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1. Khái niệm
Nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ. Vì
thế nghiên cứu nghiệp vụ thị trường mở trước hết chúng ta phải tìm hiểu về
chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ nhìn một cách tổng quát là một trong những chính sách
kinh tế vĩ mô của Nhà nước do Ngân hàng Trung ương chịu trách nhiệm khởi
thảo và thực thi, thông qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm soát và
điều tiết lượng tiền cung ứng nhằm đạt các mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền,
tạo công ăn việc làm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội.
Trong một khoảng thời gian nào đó, chính sách tiền tệ của một quốc gia
thường được xác định theo hai hướng:
Trong trường hợp nền kinh tế có dấu hiệu của sự suy thoái, Ngân hàng
Trung ương sẽ hoạch định theo hướng chính sách mở rộng tiền tệ, tức là tăng
lượng tiền cung ứng vào lưu thông, nhằm khuyến khích đầu tư, mở rộng sản
xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao động.
8
Ngược lại, khi nền kinh tế có dấu hiệu lạm phát gia tăng, Ngân hàng Trung
ương sẽ hoạch định chính sách thắt chặt tiền tệ, tức là thu hẹp lượng tiền cung
ứng trong lưu thông, nhằm hạn chế đầu tư, kìm hãm sự tăng trưởng quá mức của
nền kinh tế.
Sự tăng lên (hay giảm đi) của lượng tiền cung ứng đã chuyền tác động của
nó tới giá cả, sản lượng và do đó là công ăn việc làm. Đến lượt nó những biến
đổi này là nguyên nhân mở rộng hay thu hẹp tiền tệ, lãi suất vì thế cũng tăng
hay giảm trở lại. Bằng cách tạo ra sự biến động về tiền tệ, mở rộng hay thu hẹp,
các nhà quản lý có thể tác động gián tiếp đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô và
hướng dẫn nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế. Như vậy, bản chất của chính sách
tiền tệ là việc chủ động tạo ra các biến động về tiền tệ (xét cả về khối lượng tiền
và giá tiền - lãi suất) với một mục tiêu xác định.
2. Hệ thống mục tiêu của chính sách tiền tệ
a/ Mục tiêu cuối cùng
Ổn định giá cả.
Ổn định giá cả là mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ và là mục tiêu
dài hạn. Ổn định giá cả có tầm quan trọng đặc biệt để định hướng phát triển kinh
tế của quốc gia vì nó làm tăng khả năng dự đoán những biến động của môi
trường kinh tế vĩ mô. Sự bất ổn định giá cả làm méo mó, sai lệch thông tin và do
đó làm cho các quyết định kinh tế trở nên không đáng tin cậy và không có hiệu
quả. Nguy hiểm hơn, nó dẫn đến sự phân phối lại không dân chủ các nguồn lực
kinh tế xã hội giữa các nhóm dân cư.
9
Mức lạm phát thấp và ổn định sẽ tạo nên môi trường đầu tư ổn định, thúc
đẩy nhu cầu đầu tư và đảm bảo sự phân bổ nguồn lực xã hội một cách hiệu quả.
Đây là lợi ích có tầm quan trọng sống còn đối với sự thịnh vượng kinh tế của xã
hội.
Tăng trưởng kinh tế.
Chính sách tiền tệ phải đảm bảo sự tăng lên của GDP thực tế. Vì một nền
kinh tế phồn thịnh với tốc độ tăng trưởng ổn định là mục tiêu của bất kỳ một
chính sách kinh tế vĩ mô nào. Trong đó, chất lượng tăng trưởng được biểu hiện
ở một cơ cấu kinh tế cân đối và khả năng cạnh tranh Quốc tế của hàng hoá trong
nước tăng lên. Đó chính là nền tảng cho mọi sự ổn định. Vì nền kinh tế tăng
trưởng sẽ đảm bảo các chính sách xã hội được thoả mãn, là công cụ để ổn định
tiền tệ trong nước, cải thiện tình trạng cán cân thanh toán quốc tế và khẳng định
vị trí của nền kinh tế trên trường quốc tế.
Đảm bảo công ăn việc làm đầy đủ.
Chính sách tiền tệ phải quan tâm đến khả năng tạo công ăn việc làm, giảm
áp lực xã hội của thất nghiệp. Công ăn việc làm đầy đủ có ý nghĩa quan trọng
bởi:
- Chỉ số thất nghiệp là một trong những chỉ tiêu phản ánh sự thịnh vượng
xã hội vì nó phản ánh khả năng sử dụng có hiệu quả nguồn lực xã hội.
- Thất nghiệp gây nên tình trạng stress cho mỗi cá nhân và gia đình của họ
và là mầm mống của các tệ nạn xã hội.
10
- Các khoản trợ cấp tăng lên có thể làm cho thay đổi cơ cấu chỉ tiêu ngân
sách và làm căng thẳng tình trạng ngân sách.
Để thực hiện được mục tiêu này, mỗi quốc gia cần xác định được tỷ lệ thất
nghiệp tự nhiên một cách chính xác. Do đó, cố gắng giảm tỷ lệ thất nghiệp tự
nhiên cũng được coi là một mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Ngoài các mục tiêu trên, tuỳ thuộc vào đặc điểm phát triển kinh tế mà mỗi
nước có thể tập trung vào các mục tiêu cụ thể của riêng mình.
b/ Mục tiêu trung gian
Đây là những mục tiêu mà Ngân hàng Trung ương thông qua đó ảnh hưởng
đến tổng cầu, từ đó tác động vào mục tiêu cuối cùng.
Mục tiêu trung gian phải đáp ứng được 3 tiêu chuẩn chính là: có thể đo
lường được hay đảm bảo tiêu chuẩn định lượng; Ngân hàng Trung ương có thể
kiểm soát và chi phối được và quan trọng hơn cả là nó phải có mối liên hệ chặt
chẽ với mục tiêu cuối cùng, có khả năng ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu cuối
cùng của chính sách tiền tệ.
Các mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ bao gồm: mức cung tiền tệ
(có thể là M1, M2, M3), lãi suất thị trường trung và dài hạn (có thể là một mức lãi
suất cụ thể), tỷ giá, khối lượng tín dụng. Hiện nay các nước thường sử dụng
mức cung tiền tệ hay lãi suất thị trường.
c/ Mục tiêu hoạt động
Để chỉ đạo một cách trực tiếp và thường xuyên, Ngân hàng Trung ương
phải lựa chọn các mục tiêu hoạt động. Đây là chỉ tiêu được Ngân hàng Trung
11
ương lựa chọn để sao cho khi Ngân hàng Trung ương sử dụng các công cụ điều
tiết thì nó ảnh hưởng đến mục tiêu trung gian.
Tiêu chuẩn lựa chọn mục tiêu hoạt động là: phải mang tính định lượng, có
thể đo lường được; phải hết sức nhạy cảm với sự biến động của chính sách tiền
tệ và phải tác động đến mục tiêu trung gian.
Các mục tiêu hoạt động bao gồm: Dự trữ của các ngân hàng thương mại và
lãi suất ngắn hạn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Trong đó, dự trữ của các
ngân hàng thương mại ảnh hưởng trực tiếp đến lượng tiền cung ứng, còn lãi suất
ngắn hạn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất
thị trường, từ đó tác động vào lượng tiền cung ứng.
3. Các công cụ của chính sách tiền tệ
Công cụ của chính sách tiền tệ là hệ thống các bộ phận mà NHTW can sử
dụng nhằm ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khối lượng tiền trong lưu
thông và lãi suất, từ đó đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Hệ thống các công cụ của chính sách tiền tệ có thể chia thành hai loại chính
là: công cụ trực tiếp và công cụ gián tiếp.
a/ Công cụ trực tiếp
Đây là công cụ tác động trực tiếp vào khối lượng tiền trong lưu thông.
Được áp dụng phổ biến ở các nước trong thời kỳ hoạt động tài chính được điều
tiết chặt chẽ là hạn mức tín dụng.
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các tổ chức tín
dụng phải tôn trọng trong khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
12
Hiệu quả điều tiết của công cụ này không cao bởi nó thiếu tính linh hoạt và
đôi khi đi ngược lại chiều hướng biến động của thị trường tín dụng, do đó đẩy
lãi suất lên cao hoặc làm suy giảm khả năng cạnh tranh của các NHTM.
b/ Công cụ gián tiếp
Đây là nhóm công cụ tác động trước hết vào mục tiêu hoạt động của chính
sách tiền tệ, thông qua cơ chế thị trường mà tác động này được truyền đến các
mục tiêu trung gian là khối lượng tiền cung ứng và lãi suất. Bao gồm:
Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NHTM buộc phải duy trì trên một tài
khoản không hưởng lãi tại NHTW. Nó được xác định bằng một tỷ lệ % nhất
định trên tổng số dư tiền gửi tại một khoảng thời gian nào đó.
Lợi thế chủ yếu của dự trữ bắt buộc trong việc kiểm soát lượng tiền cung
ứng là sự thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ ảnh hưởng một cách bình đẳng đến tất
cả các ngân hàng. Đây là công cụ có quyền lực ảnh hưởng rất mạnh đến lượng
tiền cung ứng. Nhưng chính điều này cũng làm cho công cụ dự trữ bắt buộc trở
nên thiếu linh hoạt vì sự thay đổi thường xuyên sẽ gây nên sự bất ổn định cho
hoạt động của các ngân hàng và chi phí cho sự điều chỉnh thích ứng với tỷ lệ dự
trữ bắt buộc mới là rất tốn kém. Mặt khác, sự thay đổi dự trữ bắt buộc (đặc biệt
trong trường hợp tăng) gây ảnh hưởng ngay lập tức và trực tiếp đến lượng vốn
khả dụng của hệ thống ngân hàng. Do đó, nó thường được sử dụng kết hợp với
các công cụ khác nhằm điều chỉnh lượng vốn khả dụng của các ngân hàng khi
cần thiết.
13
Chính sách tái chiết khấu
Chính sách tái chiết khấu bao gồm các quyết định và điều kiện cho vay của
NHTM. Đó là hạn mức chiết khấu, lãi suất chiết khấu và các điều kiện tái chiết
khấu. NHTW cho vay ngắn hạn trên cơ sở chiết khấu các chứng từ có giá ngắn
hạn, chủ yếu là tín phiếu kho bạc và thương phiếu. Các NHTM đi vay NHTW
nhằm bù đắp hoặc bổ sung nhu cầu vốn khả dụng và hình thành nên bộ phận dự
trữ đi vay.
Chính sách tái chiết khấu có khả năng điều tiết một cách linh loạt các mục
tiêu trung gian. Tuy nhiên, mức độ phát huy hiệu quả của nó lại căn cứ vào mức
độ phụ thuộc về vốn của NHTM vào NHTW. Vì thế nó là công cụ kém chủ
động. Để khắc phục nhược điểm này, người ta sử dụng kết hợp với công cụ dự
trữ bắt buộc.
Nghiệp vụ thị trường mở
Vì phạm vi của bài viết này chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu về nghiệp vụ thị
trường mở. Do đó, công cụ này sẽ được đề cập rõ ràng và đầy đủ hơn ở phần
sau.
c/ Công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam
Tháng 12-1997, Bộ luật Ngân hàng bao gồm Luật Ngân hàng Nhà nước và
Luật các tổ chức tín dụng ra đời thì hệ thống ngân hàng được tiếp tục đổi mới và
bước vào thời kỳ đổi mới căn bản và toàn diện trên tất cả các mặt. Theo đó
chính sách tiền tệ mới bắt đầu được xây dựng và từng bước được thực hiện, đi
dần từ thấp đến cao phù hợp với điều kiện thực tế.
14
Theo Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì các công cụ của chính sách
tiền tệ bao gồm:
- Dự trữ bắt buộc
- Lãi suất
- Tái cấp vốn
- Nghiệp vụ thị trường mở
- Tỷ giá
15
II. KHÁI QUÁT VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ
1. Khái niệm và cơ chế tác động
Khái niệm: Để xem xét khái niệm về nghiệp vụ thị trường mở, trước hết ta
cần phải hiểu thị trường mở là gì? Hiểu theo nghĩa rộng, thị trường mở (open
market) là một khái niệm chỉ 5 phạm trù: Thị trường cấp một (sơ cấp), thị
trường cấp hai (thứ cấp), thị trường vốn, thị trường tiền tệ và các thị trường tài
chính khác. Còn hiểu theo nghĩa hẹp, thị trường mở là thị trường tiền tệ mà ở đó
người ta thực hiện việc mua bán các công cụ tài chính ngắn hạn.
Vậy nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động mua bán các chứng từ có giá
ngắn hạn hoặc trung-dài hạn nhưng thời hạn còn lại là ngắn hạn của NHTW trên
thị trường mở.
Cơ chế tác động: Khi NHTW thực hiện nghiệp vụ thị trường mở sẽ tác
động vào các mục tiêu của chính sách tiền tệ cả về mặt giá và mặt lượng.
Về mặt lượng: là ảnh hưởng của nghiệp vụ thị trường mở vào dự trữ của
NHTM. Khi NHTW mua (hoặc bán) các chứng từ có giá trên thị trường mở, nó
sẽ làm tăng giảm (hoặc tăng) ngay lập tức dự trữ của các NHTM dù người bán
là NHTM hay khách hàng của nó. Vì thế làm ảnh hưởng đến khối lượng tín
dụng, dẫn đến khả năng tạo tiền gửi thông qua cung ứng tín dụng của hệ thống
ngân hàng giảm xuống (hoặc tăng lên). Từ đó ảnh hưởng đến lượng tiền cung
ứng.
16
Về mặt giá: Khi vốn khả dụng của từng ngân hàng cá nhân giảm (tăng) do
tác động của hoạt động thị trường mở, mức cung vốn trên thị trường tiền tệ liên
ngân hàng giảm (tăng), trong điều kiện các yếu tố liên quan không thay đổi, lãi
suất thị trường tiền tệ liên ngân hàng tăng lên (giảm xuống). Thông qua các hoạt
động arbitrage về lãi suất, ảnh hưởng này được truyền đến các mức lãi suất của
các công cụ thị trường mở, và lãi suất thị trường trái phiếu. Kết quả là chi phí cơ
hội với người có vốn dư thừa và giá vốn đầu tư đối với người thiếu hụt vốn tăng
lên (giảm xuống), làm giảm (tăng) nhu cầu đầu tư và tiêu dùng của xã hội, và do
đó tác động vào cung cầu vốn trong nền kinh tế, ảnh hưởng đến lượng tiền cung
ứng.
2. Các loại nghiệp vụ thị trường mở
a/ Giao dịch các giấy tờ có giá
Giao dịch mua bán hẳn: Là việc mà NHTW mua bán chứng khoán với
người giao dịch (mua bán một lần) và chuyển hẳn quyền sở hữu hoặc quyền đòi
nợ cho người giao dịch và ngược lại.
Nghiệp vụ này được áp dụng khi NHTW cần can thiệp vào cung cầu của thị
trường. Mỗi lần NHTW mua, nó làm giá chứng khoán lên cơn sốt và lãi suất hạ
rất nhanh. Ngược lại, mỗi lần NHTW bán ra, giá chứng khoán lại tụt dốc, lãi
suất lại vọt lên.
Giao dịch mua bán hẳn thường diễn ra dài hạn.
17
Giao dịch mua bán có kỳ hạn: Là việc thực hiện mua bán các giấy tờ có
giá theo kỳ hạn. Khi đó NHTW phải ký hai hợp đồng: Hợp đồng mua và hợp
đồng bán có kỳ hạn hoặc hợp đồng bán và hợp đồng mua có kỳ hạn.
Nếu mua bán theo thoả thuận RPs (hoặc theo hợp đồng mua lại): NHTW
ký một hợp đồng mua chứng khoán với người giao dịch và người giao dịch sẽ
đồng ý mua lạ chứng khoán đó vào một ngày xác định trong tương lai. Đây là
những hợp đồng mua bán có thời hạn rất ngắn. Do đó lượng tiền xuất ra hầu như
không ảnh hưởng lớn đến lượng tiền cung ứng. Có thể nói, một cách gián tiếp
hoạt động này làm cho chu chuyển hàng hoá trên thị trường tài chính tiền tệ trở
nên linh hoạt và thuận lợi hơn.
Nếu mua bán theo thoả thuận chuyển dịch tương đương hoặc mua bán lại
dự trữ (còn gọi là theo hợp đồng mua lại đảo ngược): NHTW bán chứng khoán
cho người giao dịch và người giao dịch đồng ý bán lại chứng khoán cho NHTW
vào thời điểm xác định trong tương lai. Nói cách khác, đây là một hợp đồng vay
tiền. Các ngân hàng trung gian hoặc công ty kinh doanh chứng khoán cho
NHTW vay ngắn hạn chính dự trữ của họ tại tài khoản ở NHTW. Điều này sẽ
tác động đến dự trữ của họ và do đó làm tăng, giảm khối lượng tín dụng cấp
phát vào nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng.
b/ Giao dịch hoán đổi ngoại tệ
Trong nghiệp vụ này, khi tham gia giao dịch, NHTW đồng thời ký hai hợp
đồng:
- Ký một hợp đồng mua hoặc bán ngoại tệ với tỷ giá giao ngay.
- Ký một hợp đồng bán hoặc mua ngoại tệ với tỷ giá có kỳ hạn.
18
Tỷ giá có kỳ hạn = Tỷ giá giao ngay + điểm Swap
c/ Giao dịch hoán đổi các chứng khoán khi đến hạn
Loại hình này chủ yếu áp dụng ở các nước phát triển, đặc biệt là Mỹ. Người
nắm giữ các chứng khoán, khi đến hạn thì có thể thực hiện nghiệp vụ chuyển
đổi chứng khoán cũ thành chứng khoán mới trên thị trường mở. Khi chuyển đổi,
mệnh giá chứng khoán có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn chứng khoán mới.
Nếu giá chứng khoán cũ nhỏ hơn chứng khoán mới thì tức là NHTW thực
hiện tăng lượng tiền cung ứng. Ngược lại nếu giá chứng khoán cũ lớn hơn
chứng khoán mới thì tức là NHTW muốn hấp thụ khả năng thanh toán.
Ngoài các loại hình nghiệp vụ trên, NHTW còn có thể thực hiện một số
nghiệp vụ khác như: Phát hành chứng chỉ nợ của NHTW hoặc huy động tiền gửi
với lãi suất cố định.
3. Phương thức giao dịch trên thị trường mở
a/ Giao dịch song phương: NHTW giao dịch trực tiếp với người mua bán thực
hiện mua bán hẳn chứng từ có giá.
b/ Giao dịch qua thị trường chứng khoán: Thông qua thị trường chứng khoán,
qua các đại lý chứng khoán mà NHTW tiếp cận với người mua hoặc người bán
để tiến hành mua hoặc bán.
c/ Giao dịch qua đấu thầu: Có hai loại đấu thầu là đấu thầu khối lượng và đấu
thầu lãi suất.
19
Đấu thầu khối lượng: Theo phương thức này, NHTW sẽ đưa ra khối
lượng, lãi suất, loại giấy tờ có giá và thời hạn của nó. Người giao dịch sẽ thực
hiện đặt thầu về khối lượng với mức lãi suất mà NHTW đã công bố.
Trường hợp khối lượng đặt thầu nhỏ hơn hoặc bằng khối lượng mà NHTW
can thiệp thì không cần phân bổ thầu. Ngược lại, nếu khối lượng đặt thầu lớn
hơn tổng khối lượng mà NHTW can thiệp thì phải tiến hành phân bổ thầu.
Tỉ lệ phân bổ thầu là tỉ lệ giữa tổng khối lượng mà NHTW can thiệp với
tổng khối lượng đặt thầu của các ngân hàng tham gia. Sau đó tính khối lượng
trúng thầu của từng ngân hàng thành viên bằng tích của tỷ lệ phân bổ thầu với
số lượng đặt thầu của từng ngân hàng.
Đấu thầu lãi suất: Theo phương thức này, các đơn vị đặt thầu đăng ký lãi
suất đặt thầu và đi kèm là lượng tiền mua theo lãi suất đăng ký. NHTW sẽ quan
tâm đến lãi suất đặt thầu và sẽ lấy từ lãi suất cao đến lãi suất thấp đến khi nào
đạt được lượng tiền mà NHTW cần cung ứng vào lưu thông.
Có hai phương thức đấu thầu lãi suất: đầu thầu lãi suất thống nhất (kiểu Hà
Lan) là tất cả khối lượng trúng thầu tính thống nhất theo mức lãi suất trúng thầu
và đấu thầu lãi suất riêng lẻ (kiểu Mỹ) là từng mức khối lượng trúng thầu sẽ
tương ứng với mức lãi suất dự thầu.
Nguyên tắc xét thầu là: Các đơn vị dự thầu được sắp xếp theo thứ tự lãi
suất dự thầu giảm dần trong trường hợp NHTW mua chứng khoán (cung ứng
tiền) và lãi suất dự thầu tăng dần trong trường hợp NHTW bán chứng khoán
(hấp thụ khả năng thanh toán).
20
Lãi suất trúng thầu là lãi suất dự thầu thấp nhất nếu NHTW mua các giấy tờ
có giá hoặc lãi suất dự thầu cao nhất nếu NHTW bán các giấy tờ có giá mà tại
mức lãi suất đó, NHTW đạt được khối lượng tiền cần can thiệp.
Trường hợp khối lượng đặt mua lớn hơn mức cần can thiệp thì phải tiến
hành phân bổ thầu. Sau khi xác định được lượng trúng thầu của từng ngân hàng
thì sẽ xác định giá mua và bán giữa NHTW và đối tác theo công thức:
Trong đó: Gd là giá bán các chứng từ có giá
Gt là giá trị của giấy tờ có giá khi đến hạn thanh
toán.
T là thời hạn còn lại của giấy tờ có giá
L là lãi suất thống nhất hoặc lãi suất riêng lẻ (tính theo
%/năm)
Nếu thực hiện mua bán có kỳ hạn thì giá mua bán lại giữa NHTW với các
tổ chức tín dụng được xác định theo công thức:
100365
1
x
LxT
GtGd
)
100365
1(
x
LxTbGdxGv
21
Trong đó: Gv là giá mua lại
Tb là thời hạn mua bán
4. Ưu nhược điểm của công cụ nghiệp vụ thị trường mở
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở có nhiều ưu điểm. Với các nước phát
triển đã từng sử dụng các công cụ để điều chỉnh cơ cấu tiền tệ và tạo ra những
biến động trong cung ứng tiền thì nghiệp vụ thị trường mở luôn là công cụ tuyệt
vời nhất, có vai trò quyết định quan trọng nhất trong số các công cụ được sử
dụng.
Trước hết, nghiệp vụ thị trường mở tự nó có thể kiểm soát được toàn bộ
khối lượng mà nó thực hiện. Trong khi đó, hành vi kiểm soát này không thể có
được với các công cụ khác. Chẳng hạn công cụ dự trữ bắt buộc, tự nó không
phản ánh được toàn bộ dự trữ thực của hệ thống ngân hàng và do đó, khó kiểm
soát được lượng tiền cung ứng. Hay như với nghiệp vụ chiết khấu, NHTW có
thể sử dụng lãi suất chiết khấu để điều tiết hoặc khuyến khích các NHTM vay
vốn nhưng trên thực tế, nó không thể trực tiếp kiểm soát được khối lượng chiết
khấu.
Thứ hai: khi sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở, NHTW có thể chủ
động can thiệp về khối lượng nhiều hay ít tuỳ ý, thời gian tuỳ thuộc vào thời
gian mà NHTW muốn điều chỉnh lượng tiền cung ứng. NHTW có thể quyết
định mua bán chủng loại giấy tờ có giá nào nhằm đạt được mục tiêu của chính
sách tiền tệ. Đồng thời cũng có thể điều chỉnh cơ số tiền tệ tuỳ theo mức độ
mong muốn thông qua việc mua bán một khối lượng giấy tờ có giá lớn hay nhỏ.
22
Thứ ba: công cụ nghiệp vụ thị trường mở có tính linh hoạt cao, bất kỳ lúc
nào sự can thiệp của NHTW đều tác động đến lượng tiền Trung ương sau đó
ảnh hưởng đến lãi suất. Với công cụ này, khi có một sai lầm xảy ra trong lúc
tiến hành nghiệp vụ, NHTW có thể lập tức đảo ngược lại việc sử dụng công cụ
đó. Nếu NHTW thấy việc cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh do nó mua trên thị
trường mở quá nhiều thì nó có thể sửa chữa ngay lập tức bằng cách tiến hành
nghiệp vụ bán trên thị trường mở và ngược lại.
Thứ tư: nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ đầy quyền lực. Một khi,
NHTW quyết định mua hoặc bán thì nó tìm mọi cách định giá và đặt ra các điều
kiện để thu hút các NHTM tham gia tích cực đáp ứng được yêu cầu của NHTW.
Ngoài ra, nghiệp vụ thị trường mở có thể được hoàn thành nhanh chóng, không
gây nên những chậm trễ về mặt hành chính.
Với những lợi thế hơn hẳn các công cụ khác nên sau khi ra đời, nghiệp vụ
thị trường mở đã được áp dụng rộng rãi ở hầu hết các nước phát triển. Tuy
nhiên, nghiệp vụ thị trường mở còn có một số hạn chế. Nhược điểm lớn nhất
của nghiệp vụ này là để công cụ này phát huy hiệu quả thì quốc gia đó phải có
một thị trường tài chính phát triển, hàng hoá của thị trường là các giấy tờ có giá
ngắn hạn phải phong phú và đa dạng. Không những thế, NHTW còn phải có khả
năng dự báo được vốn khả dụng của toàn hệ thống để can thiệp mua bán, có như
vậy việc can thiệp mới có ý nghĩa lớn trong việc tác động vào lượng tiền cung
ứng. Ngoài ra, khi NHTW mua bán làm tác động đến lượng tiền Trung ương, từ
đó sẽ ảnh hưởng đến lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Vì vậy, để
tránh ảnh hưởng này, NHTW phải có các giải pháp xử lý phù hợp. Điều này đòi
23
hỏi NHTW phải rất nhạy cảm và linh hoạt trong việc phối hợp các công cụ điều
hành chính sách tiền tệ.
24
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÔNG CỤ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ
TRONG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM
I-/ VÀI NÉT VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ TẠI VIỆT NAM
1. Khái niệm
Nghiệp vụ thị trường mở (Open Market Operations, viết tắt là OMO) được
NHTW các quốc gia sử dụng như một công cụ gián tiếp trong việc điều hành
chính sách tiền tệ, thông qua việc làm thay đổi vốn khả dụng (hay nói cách khác
là dự trữ) của hệ thống ngân hàng. Từ đó gián tiếp làm thay đổi lượng tiền cơ
bản theo mục tiêu của chính sách tiền tệ. Nghiệp vụ thị trường mở đã ra đời từ
những năm đầu của thế kỷ hai mươi ở Mỹ và một số nước Châu Âu. Ngày nay,
nó được NHTW ở hầu hết các quốc gia trên thế giới sử dụng như một công cụ
chủ yếu để điều hành chính sách tiền tệ.
Ở Việt Nam, nghiệp vụ thị trường mở mới bắt đầu được vận hành vào ngày
12-7-2000. Đây là một bước chuyển khá quan trọng trong việc đổi mới quá trình
điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam. Mặc dù mới được đưa vào
hoạt động nhưng thực tế ngay trong Luật NHNN Việt Nam ra đời tháng 12/1997
đã có khái niệm về nghiệp vụ thị trường mở như sau: "Nghiệp vụ thị trường mở
là nghiệp vụ mà NHNN thực hiện việc mua bán tín phiếu kho bạc, chứng chỉ
25
tiền gửi, tín phiếu NHNN và các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác trên thị
trường tiền tệ nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia".
2. Điều kiện về thị trường tài chính
Thị trường tài chính của nước ta vẫn còn nhỏ bé về quy mô, đơn sơ về
chủng loại hàng hoá và lạc hậu về cơ sở vật chất kỹ thuật.
a/ Thị trường tín phiếu kho bạc
Sau một thời gian chuẩn bị, tháng 6/1995, thị trường đấu thầu tín phiếu kho
bạc chính thức được khai trương và đi vào hoạt động. Từ đó đến cuối tháng
9/2000, Ban đấu thầu liên bộ NHNN - Bộ Tài chính đã tổ chức 39 đợt đấu thầu
tín phiếu kho bạc (thời hạn < 1 năm). Tổng khối lượng tín phiếu là 4156,1 tỷ
đồng.
Số lượng thành viên tham gia vào thị trường ngày càng phát triển. Tính đến
nay, tổng số thành viên đã tăng lên gần 50 thành viên: trong đó có 5 NHTM
quốc doanh, 20 NHTM cổ phần, 4 ngân hàng liên doanh, một số chi nhánh ngân
hàng nước ngoài, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng Trung ương… Việc các loại
hình tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính tham gia vào thị trường đấu thầu tín
phiếu kho bạc qua NHNN ngày một đông đảo chứng tỏ các nhà đầu tư và phát
hành đã dần dần tìm được điểm cân bằng về lợi ích và thị trường này ngày càng
trở nên hấp dẫn hơn.
Tuy nhiên, việc phát hành tín phiếu kho bạc vẫn còn những hạn chế. Thị
trường đấu thầu tín phiếu kho bạc qua NHNN đã được thành lập và hoạt động
tương đối ổn định nhưng nội dung của nó còn nhiều vấn đề cần nghiên cứu, cải
26
tiến. Số thành viên tham gia vào thị trường đấu thầu vẫn chỉ là các NHTM quốc
doanh và các công ty bảo hiểm Nhà nước quen thuộc. Các thành viên khác đã có
đăng ký nhưng rất ít tham gia. Trong từng phiên đấu thầu còn quy định một loại
kỳ hạn (364 ngày) và áp dụng cơ chế lãi suất trần. Cơ chế này, một mặt chưa
được phát huy đầy đủ hiệu lực của pháp luật hiện hành (Luật NHNN Việt Nam
cho phép tổ chức đấu thầu các loại tín phiếu và tín phiếu kho bạc), mặt khác
chưa đáp ứng được nhu cầu huy động vốn của các công trình đầu tư bằng nguồn
vốn của Ngân sách Nhà nước nhưng tạm thời Ngân sách Nhà nước chưa bố trí
được.
b/ Thị trường trái phiếu Chính phủ
Năm 1991, trái phiếu Chính phủ ra đời để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của
Chính phủ (không thông qua kênh phát hành tiền của NHTW nữa). Đến 1994,
khi trái phiếu kho bạc, tín phiếu kho bạc và trái phiếu công trình được phép phát
hành rộng rãi thì thị trường trái phiếu Chính phủ mới tương đối được mở rộng.
Trước năm 1995, trái phiếu Chính phủ phát hành trực tiếp đến công chúng tại
các chi nhánh kho bạc nên khối lượng trái phiếu nhỏ: 17 tỷ đồng (trong cả giai
đoạn 1991-1995). Từ tháng 6/1995, bắt đầu phát hành qua NHNN, lượng trái
phiếu đã dồi dào hơn. Theo Quy chế phát hành trái phiếu Chính phủ được ban
hành kèm theo NĐ 01/2000/NĐ - CP ngày 13-1-2000 của Chính phủ thì trái
phiếu Chính phủ được ban hành qua các kênh như: đấu thầu qua NHNN; phát
hành thông qua thị trường chứng khoán, bán lẻ qua hệ thống kho bạc Nhà nước,
đại lý phát hành và bảo lãnh phát hành (đối với trái phiếu kho bạc và tín phiếu
đầu tư).
27
Như vậy, trong nền kinh tế chuyển đổi theo cơ chế thị trường, trái phiếu
Chính phủ đã mở ra một kênh huy động vốn mới trong nền kinh tế với số lượng
huy động hàng năm khá lớn, thời gian phát hành tương đối liên tục, đối tượng
huy động chủ yếu là nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, đã góp phần tích cực vào
việc giảm bớt sức ép của tiền mặt trong lưu thông, hạn chế những tác động tiêu
cực của lạm phát. Trái phiếu Chính phủ ngày càng khẳng định được ưu thế của
nó trong thị trường tài chính. Với hình thức đa dạng, phương thức phát hành
phong phú và không ngừng được cải tiến, độ an toàn cao, phạm vi và đối tượng
huy động rộng, cơ chế quản lý ngày càng hoàn thiện, nó đã đảm bảo được quyền
lợi và thị hiếu của nhà đầu tư cũng như nhu cầu sử dụng vốn của Ngân sách Nhà
nước, đồng thời có khả năng đáp ứng được các nhu cầu giao dịch, tín dụng trên
thị trường chứng khoán.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, việc phát hành trái phiếu Chính phủ
còn bộc lộ một số hạn chế. Khối lượng trái phiếu Chính phủ phát hành hàng
năm nhìn chung còn nhỏ bé (chỉ ở mức trên dưới 2,0%/GDP), chưa khai thác
thoả đáng nguồn vốn nhàn rỗi còn khá tiềm tàng trong nền kinh tế. Thời hạn trái
phiếu còn ngắn. Trái phiếu Chính phủ được nắm giữ chủ yếu bởi các NHTM
quốc doanh và một số ít NHTM cổ phần chủ yếu là để giải quyết lượng vốn tồn
đọng. Do đó, khả năng phát triển thị trường thứ cấp là rất yếu. Hiện nay, khối
lượng trái phiếu Chính phủ đang còn giá trị lưu hành chỉ đạt khoảng 4000 tỷ
đồng.
c/ Thị trường liên Ngân hàng
28
Ở Việt Nam, thị trường nội tệ liên ngân hàng được thành lập từ năm 1993.
Lúc đầu tổ chức các phiên giao dịch theo tuần và sau này thì thực hiện giao dịch
theo ngày làm việc của các ngân hàng. Hàng hoá của thị trường chủ yếu là trái
phiếu, tín phiếu kho bạc, tín phiếu ngân hàng được chuyển nhượng. Thị trường
được tổ chức thành hai loại: thị trường liên ngân hàng do NHNN làm trung gian
và thị trường tiền tệ mở rộng giữa ngân hàng với khách hàng do NHTM làm
trung gian.
Tuy đã có sự sôi động nhất định nhưng thị trường tiền tệ liên ngân hàng ở
Việt Nam vẫn chưa thực sự phát triển, chỉ dừng ở mức giao dịch diễn ra đối với
từng nhóm nhỏ trên cơ sở vay mượn thường xuyên và hiểu biết lẫn nhau. Các
chi nhánh ngân hàng nước ngoài tương đối tích cực tham gia vào thị trường này
(do hạn chế huy động VND). So với doanh số giao dịch trên thị trường mở thì
doanh số giao dịch trên thị liên ngân hàng lớn hơn nhiều (có ngày cao điểm lên
tới 1000 tỷ đồng).
Khối lượng giao dịch trên thị trường liên ngân hàng của toàn hệ thống vào
cuối năm 2000 đạt khoảng 12% lượng vốn huy động và gần gấp 3 lần lượng vốn
vay từ NHNN.
Bên cạnh đó, thị trường trái phiếu doanh nghiệp mới chỉ dừng lại ở phạm vi
thị trường sơ cấp. Thị trường phát hành trái phiếu doanh nghiệp mới bắt đầu
được hình thành từ khi NĐ số 120/CP ngày 17-9-1994 của Chính phủ được ban
hành kèm theo quy chế tạm thời về phát hành trái phiếu, cổ phiếu doanh nghiệp
Nhà nước. Đa số các loại trái phiếu doanh nghiệp đều được phát hành theo
phương thức riêng lẻ với số lượng hạn chế, hoặc phát hành rộng rãi ra công
29
chúng nhưng không có công bố công tin. Các trái phiếu hầu hết có thời hạn
ngắn (dài nhất là 5 năm, còn chủ yếu là 2 năm), do vậy chưa thể đáp ứng được
các tiêu chuẩn kỹ thuật để được niêm yết trên trung tâm giao dịch chứng khoán,
kể cả trái phiếu của các tổ chức tín dụng lớn phát hành. Đến nay mới chỉ có trái
phiếu của ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam đã hội đủ các điều kiện theo
quy định và được cấp phép niêm yết tại trung tâm giao dịch chứng khoán. Khối
lượng trái phiếu giao dịch trên thị trường khá khiêm tốn.
Hiện nay trên trung tâm giao dịch chứng khoán đã có 12 công ty niêm yết.
Trong quý II/2002, dự kiến có khoảng 5 đến 7 công ty lớn niêm yết và đưa cổ
phiếu vào giao dịch (tổng trị giá niêm yết từ 500 đến 700 tỷ đồng). Mặc dù số
lượng hàng hoá đã tăng lên nhưng vẫn còn ít và nghèo nàn. Đặc biệt giá cả
chứng khoán biến động mạnh mẽ không theo một quy luật nào làm cho một số
nhà đầu tư cũng khá lo sợ khi quyết định đầu tư và thị trường chứng khoán. Trái
phiếu Chính phủ giao dịch trên thị trường là rất ít.
3. Khuôn khổ pháp lý
Trong năm 2000, hàng loạt các văn bản về các vấn đề liên quan đến nghiệp
vụ thị trường mở đã được ban hành như: Quy chế nghiệp vụ thị trường mở, Quy
trình nghiệp vụ thị trường mở, Quy định đăng ký giấy tờ có giá, Quy chế quản
lý vốn khả dụng, Quy trình nghiệp vụ đấu thầu tín phiếu NHNN… Trong đó
đáng chú ý nhất là Quy chế nghiệp vụ thị trường mở được NHNN Việt Nam ban
hành theo quyết định số 85/2000/QĐ - NHNN 14 ngày 9-3-2000. Nội dung cơ
bản của quy chế đã nêu lên được những quy định chung về ban điều hành
30
nghiệp vụ thị trường mở, thành viên tham gia thị trường, phương thức đấu thầu,
quy trình đấu thầu của nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam.
Ngoài ra, ngay trong Luật NHNN Việt Nam ban hành tháng 12/1997, cũng
đã đề cập đến việc sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở trong điều hành
chính sách tiền tệ.
4. Về mặt kỹ thuật nghiệp vụ
Theo quy định của NHNN thì các thành viên tham gia vào nghiệp vụ thị
trường mở phải là các tổ chức tín dụng đảm bảo đầy đủ một số điều kiện: có tài
khoản tiền gửi tại NHNN, có đầy đủ phương tiện cho hoạt động nghiệp vụ thị
trường mở, đăng ký với NHNN để được hoạt động..
Hàng hoá trên thị trường phải đảm bảo các tiêu chuẩn: có thể giao dịch
được, phải là các giấy tờ có giá ngắn hạn (< 12 tháng); phát hành bằng VND,
được đăng ký tại NHNN (trước thời điểm hoạt động của phiên giao dịch). Nếu
hình thức giao dịch là mua bán hẳn thì thời hạn còn lại của giấy tờ có giá phải <
90 ngày (đảm bảo chứng khoán đã được giao dịch trên thị trường thứ cấp, tránh
tình trạng đầu tư trực tiếp cho các tổ chức khác).
Đấu thầu bao gồm đấu thầu lãi suất và đấu thầu khối lượng. Hình thức đầu
thầu của nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam chỉ là đấu thầu chuẩn (chưa thực
hiện đấu thầu nhanh hay giao dịch song phương). Giá mua bán giấy tờ có giá
được xác định theo công thức chiết khấu giấy tờ có giá.
Việc xác định lãi suất của NHNN trong nghiệp vụ thị trường mở thường
căn cứ vào các mức lãi suất hiện hành là lãi suất tái cấp vốn của NHNN cho các
31
tổ chức tín dụng ( thường dưới hình thức là lãi suất phạt), lãi suất tái chiết khấu
các giấy tờ có giá. Lãi suất của nghiệp vụ thị trường mở thường nằm trong
khoảng 2 mức lãi suất này. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu để hỗ trợ hoạt động
thị trường mở, mức lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu được xác định ở mức
tương đối cao hơn so với lãi suất trên thị trường mở.
Nghiệp vụ thị trường mở được sử dụng để điều chỉnh lượng vốn khả dụng
của hệ thống ngân hàng. Vì vậy, NHTW cần tính toán lượng vốn khả dụng cần
điều chỉnh. Để thực hiện được nghiệp vụ thị trường mở, trước hết NHNN phải
nắm được một số những thông tin liên quan đến lượng vốn khả dụng.
Các yếu tố tác động đến nhu cầu vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng:
- Nhu cầu thanh toán, trả lãi tiền gửi, tiền vay, nhu cầu tiền mặt của khách
hàng có tài khoản giao dịch…
- Nhu cầu đáp ứng dự trữ bắt buộc.
- Nhu cầu vay vốn (nội, ngoại tệ).
Khả năng cung ứng vốn khả dụng:
- Lượng ngoại tệ NHNN có thể bán cho các NHTM.
- Lượng tái cấp vốn chó các tổ chức tín dụng.
- Lượng vốn dùng để cấp tín dụng cho Chính phủ.
Tiếp đó là việc xác định lượng vốn khả dụng biến động qua các kỳ thông
qua bảng cân đối vốn của NHNN.
Tài sản có ròng (NFA) Tiền mặt ngoài lưu thông (C)
Tài sản có nội địa ròng (NDA) Dự trữ (R)
32
- Dự trữ bắt buộc
- Dự trữ vượt mức
Tài sản có khác (OA)
Trên cân đối vốn rút gọn này, NHNN sẽ tính toán các thông số:
- Sự tăng lên, giảm xuống của NFA, NDA, R, C của kỳ tính toán so với kỳ
trước.
- Yêu cầu dự trữ bắt buộc của hệ thống ngân hàng trong từng thời kỳ.
Bước tiếp theo, NHNN sẽ đưa ra dự kiến của mình về lượng vốn khả dụng
cần điều chỉnh dựa trên:
- Lượng dự trữ của hệ thống kỳ tính toán.
- Nhu cầu về vốn khả dụng của hệ thống .
- Khả năng cung ứng của NHNN qua kênh tái cấp vốn? Qua kênh nghiệp
vụ thị trường mở?
- Sai số của lần điều chỉnh vốn khả dụng kỳ trước…
Cuối cùng, NHNN sẽ xác định các phương thức thực hiện nghiệp vụ thị
trường mở.
II-/ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG THỜI GIAN QUA
1. Những kết quả bước đầu đã đạt được
33
Ở nước ta, nghiệp vụ thị trường mở bắt đầu được vận hành vào ngày 12-7-
2000. Đây là một bước chuyển khá quan trọng trong việc đổi mới quá trình điều
hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam.
Từ khi bắt đầu giao dịch đến 31-12-2000, cứ 10 ngày NHNN tiến hành một
phiên giao dịch trên thị trường mở. Trong tháng 8/2000, do lượng vốn khả dụng
của hệ thống ngân hàng là dư thừa nên NHNN bán ra một lượng tín phiếu là 550
tỷ đồng (khối lượng chào bán trong tháng được mua hết toàn bộ với mức lãi suất
từ 4% đến 5,35%). Từ tháng 9 đến cuối tháng 12/2000, do có sự hạn chế của
NHNN ở cửa sổ chiết khấu (có thể đây là hình thức hỗ trợ cho sự vận hành
nghiệp vụ thị trường mở mới ra đời) và nhu cầu tín dụng VND tăng nhanh (vay
ngoại tệ chịu rủi ro lớn vì tỷ giá chịu sức ép tăng cao) trong khi hoạt động tiền
gửi tăng chậm (có sự chuyển đổi cơ cấu huy động giữa nội tệ và ngoại tệ do lãi
suất huy động ngoại tệ tăng) dẫn đến khan hiếm VND trong hệ thống ngân
hàng, NHNN đã mua vào (sử dụng giao dịch đảo chiều) giấy tờ có giá trong 14
phiên giao dịch liên tục với doanh số 1353,5 tỷ đồng.
Từ 1-1-2001, NHNN thực hiện giao dịch định kỳ 7 ngày/lần. Từ đầu năm
2001 đến 15-2, lượng vốn khả dụng tiếp tục thiếu hụt do nhu cầu tiền mặt tăng
(trong đó nguyên nhân đây là thời gian cuối năm âm lịch), NHNN tiếp tục mua
vào giấy tờ có giá, chủ yếu là mua kỳ hạn do tính đến yếu tố lượng vốn khả
dụng có thể tăng lên sau dịp Tết nguyên đán.
Từ 21-2 đến 14-4, lượng vốn khả dụng có biểu hiện dư thừa. Để rút bớt
phương tiện thanh toán khỏi hệ thống ngân hàng, NHNN thực hiện bán hẳn
lượng giấy tờ có giá với giá với giá trị là 470 tỷ VND.
34
Từ 21-3 đến cuối tháng 4, do nhu cầu vốn khả dụng tăng, NHNN tổ chức
các phiên giao dịch trên thị trường mở với mục tiêu cung ứng thêm phương tiện
thanh toán cho hệ thống.
Một vấn đặt ra là khi tham gia nghiệp vụ thị trường mở các tổ chức tín
dụng được lợi ích gì? Đây là vấn đề cốt yếu mà các tổ chức tín dụng cần quan
tâm đến. Trong hoạt động kinh doanh, để đảm bảo khả năng thanh toán thường
xuyên của mình, các tổ chức tín dụng phải dự trữ một số tiền nhất định theo tỷ
lệ với tổng nguồn vốn huy động để thực hiện dự trữ bắt buộc theo quy định của
NHNN và bảo đảm khả năng thanh toán. Theo phương pháp truyền thống, ngoài
dự trữ tiền mặt tại các tổ chức tín dụng thì còn gửi một phần vốn tiền gửi tại
NHNN (gọi là dự trữ sơ cấp). Nếu xác định khối lượng dự trữ cần thiết không
chuẩn xác sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của các tổ chức
tín dụng. Cụ thể là, nếu dự trữ quá cao sẽ lãng phí, chi phí đầu vào cao; nếu dự
trữ quá thấp sẽ không bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh. Để năng
động trong sử dụng vốn, ngoài dự trữ truyền thống, các tổ chức tín dụng cần
thực hiện dự trữ các giấy tờ có giá có tính lỏng cao: tín phiếu kho bạc, tín phiếu
NHNN… (gọi là dự trữ thứ cấp) nhằm tận dụng tối đa khả năng nguồn vốn của
mình trong hoạt động kinh doanh. Việc dự trữ thứ cấp vừa mang lại một nguồn
thu nhập cho các tổ chức tín dụng, đồng thời còn đảm bảo khả năng thanh toán
cho họ. Trong điều kiện ở Việt Nam, thị trường thứ cấp, mua bán lại giấy tờ có
giá chưa phát triển thì thị trường mở là nơi lý tưởng để các tổ chức tín dụng thực
hiện việc mua bán, kinh doanh giấy tờ có giá với NHNN theo giá thị trường.
35
Tham gia nghiệp vụ thị trường mở, các tổ chức tín dụng đã đa dạng hoá được
hoạt động kinh doanh mà vẫn đảm bảo khả năng thanh toán của mình.
Qua hơn một năm triển khai thực hiện, nghiệp vụ thị trường mở ở nước ta
dã vận hành một cách nhịp nhàng và đạt được những mục tiêu đã đề ra. NHNN
bước đầu đã sử dụng thành công một công cụ mới để điều hành chính sách tiền
tệ. Về cơ bản, các quy định hiện hành về hoạt động nghiệp vụ thị trường mở là
phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Công tác điều hành, tổ chức thực hiện
nghiệp vụ thị trường mở đã được thực hiện an toàn. Việc giao dịch thông qua
nối mạng giữa trung tâm giao dịch của thị trường với các thành viên đã được
thực hiện trôi chảy. Hiện nay đã có 21 tổ chức tín dụng tham gia vào thị trường
gồm: 4 NHTM Nhà nước, 10 NHTM cổ phần, 1 ngân hàng liên doanh, 4 chi
nhánh NH nước ngoài, 1 công ty tài chính và quỹ tín dụng nhân dân Trung
ương. NHNN đã thực hiện 61 phiên đấu thầu nghiệp vụ thị trường mở (tháng
7/2000 đến tháng 12/2001) với doanh số giao dịch là 5536 tỷ đồng. Có 24 phiên
thực hiện đấu thầu lãi suất, 37 phiên đấu thầu khối lượng. Trong đó, khối lượng
giấy tờ có giá NHTW đã mua trị giá 4466 tỷ đồng, bán là 1070 tỷ đồng. Lãi suất
hiện hành trên thị trường mở bán sát với lãi suất thị trường (lãi suất năm 2001
dao động trong khoảng 4,90% đến 5,30%/năm). Đặc biệt, với việc cung ứng hơn
5000 tỷ đồng thông qua thị trường mở đã góp phần thực hiện chủ trương kích
cầu của Chính phủ.
Với phương châm "đi tắt, đón đầu", mặc dù mới đi vào hoạt động được một
năm nhưng NHNN đã mạnh dạn đưa vào áp dụng hình thức giao dịch tiên tiến
ngay từ đầu như: Giao dịch thông qua hệ thống mạng vi tính trực tiếp giữa trung
36
tâm giao dịch thị trường và các thành viên; áp dụng hình thức mua bán có kỳ
hạn; áp dụng cả hình thức đấu thầu khối lượng và đấu thầu lãi suất… Thời gian
giao dịch và kỹ thuật nghiệp vụ thị trường mở cũng đã được cải tiến cho phù
hợp. Trước đây, giao dịch 10 ngày/lần, từ năm 2001 đã chuyển sang giao dịch 7
ngày/lần tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng chủ động thường xuyên tiếp cận
với thị trường khi có nhu cầu. Thời gian thanh toán và giao nhận các giấy tờ có
giá ngắn hạn giữa tổ chức tín dụng và NHNN trước đây là 2 ngày, nay rút xuống
còn 1 ngày. NHNN còn tổ chức các lớp tập huấn để nâng cao sự hiểu biết của
các tổ chức tín dụng đối với nghiệp vụ mới mẻ này.
Như vậy, có thể thấy, NHNN đã cố gắng thực hiện việc điều hành chính
sách tiền tệ bằng công cụ gián tiếp. Nghiệp vụ thị trường mở đã được thực hiện
tương đối linh hoạt đáp ứng được phần nào đó nhu cầu về vốn khả dụng cũng
như giải quyết được một phần lượng vốn khả dụng dư thừa trong một số thời kỳ.
Các công cụ và hình thức thực hiện cũng đã được áp dụng tương đối thành
công.
2. Một số tồn tại và hạn chế.
Tuy nghiệp vụ thị trường mở bước đầu đã đạt được những kết quả nhất
định nhưng vẫn bộc lộ một số tồn tại và hạn chế.
a/ Số lượng thành viên tham gia thị trường còn quá ít.
Thực tế hoạt động thị trường mở chưa thật sôi động. Trong số 21 thành
viên tham gia thị trường thì chủ yếu là 4 NHTM quốc doanh. Và trên thực tế,
các NHTM quốc doanh cũng nắm giữ tới hơn 70% lượng tín phiếu kho bạc, tín
37
phiếu NHNN. Mặc dù số thành viên đăng ký tham gia là 21 nhưng ở mỗi phiên
giao dịch chỉ có từ 1đến 5 thành viên tham gia. Các thành viên tham gia chủ yếu
là các NHTM Nhà nước. Sự tham gia của các tổ chức tín dụng khác trên thị
trường còn mờ nhạt.
Vậy nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng trên?
Chúng ta biết rằng các chủ thể tham gia trên thị trường mở là rất phong
phú. Ở các nước phát triển, đó là NHTW, các NHTM, các tổ chức tài chính phi
ngân hàng, kho bạc Nhà nước, các doanh nghiệp tốt, các nhà môi giới và cả các
hộ gia đình. Ở Việt Nam, do quy định của NHNN khá chặt chẽ nên thành viên
tham gia thị trường mở đa số là các tổ chức tín dụng. Các tổ chức tài chính phi
ngân hàng chỉ có duy nhất một công ty tài chính tham gia. Các doanh nghiệp và
hộ gia đình không thể trực tiếp tham gia vào thị trường mở. Muốn giao dịch ở
đây, họ phải gián tiếp thông qua các NHTM.
Một lý do khác là hiện nay hệ thống ngân hàng Việt Nam đang trong giai
đoạn cải cách, củng cố nên cũng ảnh hưởng đến khả năng tham gia vào thị
trường. NHNN lại chưa phát huy tốt vai trò hướng dẫn thị trường nên việc tham
gia thị trường của các tổ chức, cá nhân còn hạn chế. Một số định chế tài chính
như công ty bảo hiểm, quỹ tương hỗ… chưa hội đủ điều kiện để tham gia giao
dịch trên thị trường.
Mặt khác, một trong các điều kiện tham gia nghiệp vụ thị trường mở là các
thành viên phải có giấy tờ có giá để bán và chủ động được vốn khả dụng của
mình. Nhưng các tổ chức tín dụng lại chưa đầu tư nhiều vào giấy tờ có giá ngắn
hạn do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa họ còn phải chịu sự thiếu bình đẳng trong
38
kinh doanh.Các NHTM quốc doanh được vay theo chỉ định nên có nhiều lợi thế
trong giao dịch trên thị trường mở nhờ được vay với giá rẻ để mua giấy tờ có
giá có lãi suất lợi hơn. Các NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh, quỹ tín dụng
ít có ưu thế này. Điều này không kích cầu tín dụng và tạo ra sự phân biệt đáng
kể trên thị trường.
Chính những lý do trên đã tạo ra quang cảnh khá buồn tẻ ở mỗi phiên giao
dịch.
b/ Lượng hàng hoá giao dịch trên thị trường quá ít ỏi.
Một tồn tại khác tạo ra sự đơn điệu của nghiệp vụ thị trường mở vừa qua là
sự khan hiếm hàng hoá. Theo quy định hiện nay, chỉ những giấy tờ có giá như
tín phiếu NHNN, tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá
ngắn hạn khác mới được giao dịch trên thị trường. Nhưng trên thực tế, hiện nay
mới chỉ có tín phiếu NHNN và tín phiếu kho bạc là được giao dịch trên thị
trường. Trong đó chỉ có khoảng 4000 tỷ đồng giá trị trái phiếu Chính phủ và
400 tỷ đồng giá trị tín phiếu NHNN. Và những giấy tờ có giá này cũng chỉ tập
trung vào những tổ chức tín dụng có quy mô lớn, đã tham gia giao dịch trên thị
trường sơ cấp.
Như vậy có thể thấy, quy định của NHNN về các loại giấy tờ có giá được
phép giao dịch thông qua thị trường mở ngay từ đầu đã làm giảm khả năng và
phạm vi mua bán của các loại giấy tờ có giá khác hiện có ở Việt Nam như trái
phiếu trung và dài hạn khi mà thời gian đáo hạn của chúng còn dưới một năm.
Ở các nước phát triển, các loại chứng khoán được giao dịch trên thị trường
mở hoàn toàn không bị giới hạn về thời hạn. Tức là ngay cả các loại giấy tờ có
39
giá trung và dài hạn cũng có thể được coi là hàng hoá của nghiệp vụ thị trường
mở. Tuy nhiên, trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam hiện nay, khi mà thị trường
chứng khoán mới đi vào hoạt động, nghiệp vụ thị trường mở cũng chỉ đang ở
giai đoạn khởi đầu và nền kinh tế còn tiềm ẩn nhiều khả năng rủi ro thì việc hạn
chế sử dụng những chứng khoán có rủi ro cao hơn trong giao dịch trên thị
trường mở là một việc làm đúng.
c/ Chất lượng hàng hoá chưa cao nên sức hấp dẫn kém
Không chỉ ít ỏi về khối lượng, chất lượng các giấy tờ có giá được giao dịch
trên thị trường cũng là một vấn đề đáng suy nghĩ. Điều đầu tiên cần đề cập đến
chính là lãi suất của các loại chứng khoán Chính phủ.
Đối với các nhà đầu tư thì lãi suất của chứng khoán Chính phủ không có
sức hấp dẫn. Lãi suất tín phiếu kho bạc đang thấp hơn lãi suất tiền gửi 12 tháng
của các ngân hàng, không lẽ lại huy động tiền gửi với lãi suất 6,5%/năm để đi
mua trái phiếu kho bạc lãi suất 5,5%/năm? Nó còn bị lệ thuộc vào chỉ đạo nên
chưa phản ánh được lãi suất thị trường. Lãi suất của trái phiếu Chính phủ thì chỉ
có 6,5% đến 6,6%/năm và lãi suất năm của tín phiếu kho bạc 5 năm tương
đương với lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 1 năm và thấp hơn nhiều so với 10%/năm là
tỷ lệ cổ tức nhỏ nhất mà các doanh nghiệp đảm bảo trả cho các cổ phiếu mà họ
phát hành. Mặc dù đó chỉ là lãi suất danh nghĩa, nếu tính toán quy đổi lãi suất
thực có thể không đúng như vậy, nhưng người đầu tư chưa quen kỹ thuật tính
toán để đầu tư có hiệu quả trên thị trường chứng khoán. Hơn nữa, một số người
mua chứng khoán không phải vì mục tiêu hưởng lãi mà vì chênh lệch giá.
40
Bên cạnh đó, kỳ hạn của tín phiếu lại hạn chế, chỉ gồm một kỳ hạn duy
nhất là 364 ngày.
Mặt khác, mục đích mua trái phiếu Chính phủ của các tổ chức tín dụng chủ
yếu để giải quyết tình trạng thừa vốn tạm thời. Nhưng khi cần vốn thì khả năng
thanh toán lại rất kém vì việc bán trái phiếu Chính phủ trên thị trường thứ cấp
không dễ dàng.
Với những lý do trên thì sức hút ở đâu để cho các NHTM và các nhà đầu tư có
thể thường xuyên dự trữ và giao dịch chứng khoán kho bạc trên thị trường mở.
d/ Phương thức giao dịch chưa đa dạng và linh hoạt
Hiện nay, ở nước ta, nghiệp vụ thị trường mở có thể áp dụng một trong 2
phương thức giao dịch:
- Bán và cam kết mua lại (giao dịch có kỳ hạn)
- Mua bán hẳn
Tuy nhiên, thực tế các phiên giao dịch vừa qua chỉ áp dụng phương thức
mua bán hẳn với tín phiếu NHNN, phương thức mua có kỳ hạn đối với tín phiếu
kho bạc Nhà nước. Còn phương thức bán hẳn ít được thực hiện và đặc biệt
phương thức bán có kỳ hạn chưa được thực thi.
Phương thức đấu thầu thường là đấu thầu lãi suất. Nhưng trong các phiên
đấu thầu lãi suất lại có tính cạnh tranh cao nên các NHTM và tổ chức tín dụng
nhỏ không đủ điều kiện tham gia, tạo ra tình trạng chưa sôi động trên thị trường.
Như vậy phương thức giao dịch có kỳ hạn là một phương thức linh hoạt và
có thể kích thích khối lượng giao dịch trên thị trường nhưng lại chưa được sử
41
dụng đồng bộ. Đây là một tồn tại cần khắc phục kịp thời để góp phần làm cho
thị trường mở trở nên sôi động hơn.
Thực ra những tồn tại nêu trên đã được dự báo trước khi nghiệp vụ thị
trường mở bắt đầu hoạt động vào giữa năm 2000, khi mà các cơ sở kinh tế - kỹ
thuật của nó chưa chín muồi. Những tồn tại này là điều không thể tránh khỏi
trong điều kiện nền kinh tế thị trường của chúng ta còn đang ở trình độ thấp,
chưa ổn định, thị trường tài chính và thị trường tiền tệ chưa phát triển, môi
trường kinh doanh của các tổ chức tín dụng còn chứa đựng nhiều rủi ro.
Vì vậy, vấn đề đặt ra bây giờ là phải nhanh chóng có những biện pháp để
giải quyết những tồn tại, vướng mắc trên nhằm làm cho công cụ nghiệp vụ thị
trường mở phát huy được sức mạnh vốn có của nó.
42
CHƯƠNG III:
NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY HIỆU QUẢ CỦA CÔNG CỤ
NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ TRONG THỜI GIAN TỚI
Để nghiệp vụ thị trường mở trong tương lai thực sự sôi động, ổn định và trở
thành một trong những công cụ chủ yếu để điều hành chính sách tiền tệ, NHNN
cần phải nỗ lực tìm ra các biện pháp để phát huy tác dụng của công cụ này. Có
thể đề ra một số giải pháp như sau:
1. Tăng thêm số lượng thành viên tham gia vào thị trường
Ngoài các thành viên đã đăng ký, tiếp tục phát triển thêm những thành viên
mới và tạo điều kiện cho họ có môi trường cạnh tranh bình đẳng với nhau. Để
các tổ chức tín dụng ngoài quốc doanh tham gia nghiệp vụ thị trường mở một
cách thực sự thì NHNN phải tạo cho họ một sân chơi bình đẳng. Tức là giảm
cho vay theo chỉ định, phân biệt rõ ràng tín dụng chính sách và tín dụng thương
mại, đặc biệt trong điều kiện hiện nay khi mà NHNN Việt Nam trực thuộc
Chính phủ và hệ thống NHTM quốc doanh nắm giữ phần lớn thị phần trong các
NHTM.
NHNN cần từng bước cơ cấu lại các tổ chức tín dụng để họ có đủ khả năng
cạnh tranh và thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng trên thị trường tiền tệ hiện đại.
43
Cụ thể là cần tách bạch hoạt động chính sách ra khỏi NHTM và xây dựng
NHTM theo cơ chế thị trường. Các NHTM sẽ mất ý nghĩa là NHTM khi vẫn
phải đảm nhận vai trò hoạt động chính sách. Vì vậy, cần phải thành lập một
ngân hàng chính sách với bộ máy gọn, hợp lý được Chính phủ xử lý về tài chính
đảm nhận việc cung ứng, hỗ trợ cho cá nhân, hộ gia đình thuộc đối tượng chính
sách hoặc các doanh nghiệp, công trình, mục tiêu của Chính phủ. Các NHTM
khi không phải thực hiện vai trò trợ giúp ưu đãi nữa thì vì mục tiêu lợi nhuận sẽ
phải tự tính toán đến mạng lưới chi nhánh, đội ngũ nhân viên và cơ sở hạ tầng.
Về phía NHNN cũng cần cắt bỏ sự can thiệp quá sâu vào quyền của các
NHTM. Đối với các NHTM cổ phần, nên sắp xếp lại theo hướng ít hơn nhưng
lớn hơn, vững mạnh hơn, hoạt động an toàn hơn. Từ đó có thể tăng cường thêm
các tổ chức tín dụng có đủ điều kiện tham gia vào thị trường mở.
Ngoài ra, NHNN còn phải tuyên truyền thường xuyên sâu rộng cho các tổ
chức tín dụng về nghiệp vụ thị trường mở. Các tổ chức tín dụng cần hiểu được
rằng tham gia nghiệp vụ thị trường mở không chỉ đa dạng hoá được hoạt động
kinh doanh (kênh huy động và luân chuyển vốn) mà còn đảm bảo được khả
năng thanh toán của mình.
2. Mở rộng hàng hoá cho nghiệp vụ thị trường mở cả về số lượng và chất
lượng
44
Trong các giấy tờ có giá ngắn hạn, cần đưa thêm các loại chứng khoán dài
hạn, với thời kỳ mãn hạn còn lại dưới một năm, vào thị trường. Đây là một đòi
hỏi khá bức xúc.
Tuy không phải là nhiều, nhưng các loại trái phiếu hiện có có thể giao dịch
được ở thị trường mở không phải là ít. Đó là các tín phiếu kho bạc thời hạn < 1
năm và trái phiếu kho bạc thời hạn 1 năm, nếu được giao dịch thì sẽ là một hàng
hoá tốt cho thị trường mở. Ngoài ra, các loại trái phiếu ngân hàng, trái phiếu
công ty đã phát hành như trái phiếu ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam,
trái phiếu chính quyền địa phương nếu còn thời hạn < 1năm cũng nên được chấp
nhận ở thị trường mở. Việc sử dụng tín phiếu NHNN chỉ là giải pháp trong thời
kỳ đầu và không thể lạm dụng. Loại hàng hoá cần cho thị trường mở là thương
phiếu thì tới nay chưa phổ biến nhưng thương phiếu sẽ hiện hữu khi ngân phiếu
thanh toán chấm dứt phát hành và lưu thông. Việc phát hành tín phiếu kho bạc
vẫn được tiến hành thường xuyên, vấn đề là tạo ra thị trường thứ cấp cho loại
hàng hoá này. Nếu nghiệp vụ thị trường mở được phép sử dụng các trái phiếu
kho bạc đã phát hành khi chúng còn thời gian đáo hạn ngắn thì luân chuyển vốn
sẽ đa dạng hơn.
NHNN có thể thực hiện linh hoạt về thời điểm và khối lượng giao dịch để
tác động đến lượng tiền dự trữ của hệ thống ngân hàng và sau đó đến lãi suất
của thị trường ngoại tệ. Lãi suất trên thị trường mở cần trở thành lãi suất tham
chiếu cho các loại lãi suất khác. Để làm được như vậy việc bổ sung và đa dạng
hóa các công cụ tài chính giao dịch trên thị trường là vô cùng cần thiết.
45
Một cách khác để tăng khối lượng giao dịch là tăng số lượng các phiên giao
dịch trong tháng, từ 7 ngày một phiên rút xuống còn 5 ngày, 3 ngày, tương lai
xa là 1 ngày. Dù khối lượng giao dịch còn ít nhưng việc tăng cường số lượng
phiên giao dịch sẽ gây sự chú ý cho các thành viên và lôi cuốn họ tham gia.
Không chỉ quan tâm đến khối lượng các giấy tờ có giá, để thị trường mở sôi
động hơn thì hàng hoá trên thị trường phải có sức hấp dẫn hơn đối với các nhà
đầu tư. Trước hết, các loại trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc, tín phiếu
NHNN cần được phát hành với thời hạn đa dạng và phong phú hơn. Tiếp đó,
các chủ thể phát hành các công cụ này cần quan tâm đến lãi suất của chúng để
sao cho lãi suất của các loại chứng khoán giao dịch trên thị trường mở cũng
tương đương với lãi suất của các công cụ tài chính khác như cổ phiếu, trái phiếu
doanh nghiệp. Có như vậy mới có đủ khả năng thu hút các nhà đầu tư tham gia
vào thị trường.
3. Đa dạng hoá các phương thức giao dịch
Thực ra khi mà thị trường đã thực sự trở nên sôi động, giao dịch trên thị
trường mở được tiến hành thường xuyên thì áp dụng phương thức giao dịch nào
không phải là vấn đề đáng quan tâm mà nó phụ thuộc vào nhu cầu giao dịch của
các đối tác tham gia thị trường. Tuy nhiên, với những điều kiện cụ thể ở nước ta
hiện nay thì việc quan tâm đến phương thức giao dịch lại là cần thiết. Bởi lẽ các
giao dịch trên thị trường còn quá nghèo nàn.
46
Phương thức giao dịch phù hợp nhất đối với nghiệp vụ thị trường mở là
mua bán có kỳ hạn, mà NHTW là người chủ động quyết định mua bán với số
lượng là bao nhiêu, thời gian nào, theo phương thức nào tùy thuộc theo yêu cầu
của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Các hợp đồng mua lại thích hợp với
điều kiện khó dự báo vốn khả dụng, có thể can thiệp linh hoạt việc cung ứng
vốn khả dụng khi thời hạn hợp đồng chấm dứt. Hợp đồng mua lại (mua bán có
kỳ hạn) đòi hỏi trình độ, kiến thức cao của cả NHNN và các tổ chức tín dụng.
Việc thực hiện nghiệp vụ thị trường mở dưới hình thức mua bán hẳn sẽ làm tăng
tỉ lệ cung ứng tiền NHTW qua quan hệ tín dụng, làm yếu khả năng điều tiết của
NHTW, gây biến động lớn tới thị giá chứng khoán theo chiều hướng không tốt
khi mà thị trường chứng khoán Việt Nam còn rất nhỏ bé và yếu ớt. Nếu như
NHTW mua hẳn tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc thì lượng tiền trong lưu
thông sẽ thay đổi, khả năng tiền tệ hoá, thâm hụt ngân sách sẽ xảy ra. Tuy
nhiên, vẫn phải kết hợp phương thức giao dịch có kỳ hạn với phương thức mua
bán hẳn. Vì mặc dù giao dịch có kỳ hạn giúp NHTW chủ động về thời gian
nhưng mua bán hẳn lại có tác dụng hỗ trợ ở những thời điểm "tức thời" không
thể chậm trễ, không thể chờ đến thời hạn.
Về hình thức đấu thầu, theo quy chế nghiệp vụ thị trường mở, NHTW có
thể thực hiện đấu thầu khối lượng hay đấu thầu lãi suất. Để khuyến khích các tổ
chức tín dụng tham gia vào thị trường, trong giai đoạn đầu, NHNN cần kết hợp
cả hai hình thức này.
47
4. Củng cố và thúc đẩy các mảng thị trường khác phát triển để làm cơ sở
cho hoạt động thị trường mở
Để nghiệp vụ thị trường mở thực sự phát huy tác dụng, trước mắt, NHNN
cần phải hỗ trợ cho sự phát triển của thị trường liên ngân hàng và hoàn thiện hệ
thống thanh toán liên ngân hàng (IBPS).
Thị trường mở và nghiệp vụ thị trường mở chỉ thực sự hữu hiệu trên cơ sở
thị trường liên ngân hàng phát triển. Thị trường liên ngân hàng là nơi xác định
nhu cầu và khả năng vốn khả dụng của các NHTM, nơi mà NHTW nắm bắt
được một cách nhanh nhạy nhu cầu vốn của nền kinh tế qua hoạt động của
NHTM để quyết định sử dụng công cụ của chính sách tiền tệ thích hợp. Vì vậy,
hoàn thiện thị trường liên ngân hàng cần phải được xem là cơ sở cho các hoạt
động khác của NHNN trong bối cảnh các thị trường tài chính đã thiết lập và đi
vào hoạt động.
Về lâu dài, nghiệp vụ của cả hệ thống ngân hàng tài chính là phát triển thị
trường trái phiếu Chính phủ, thị trường tiền tệ, các thị trường tài chính khác,
trong đó có thị trường chứng khoán. Nghiệp vụ thị trường mở phải được sự hỗ
trợ tích cực của thị trường chứng khoán. Sự phát triển của thị trường chứng
khoán làm tăng tính "lỏng" của chứng khoán trên thị trường, khuyến khích đầu
cơ chứng khoán của các chủ thể kinh tế. Tình trạng đầu cơ chứng khoán vừa
làm thay đổi dự trữ chứng khoán của các chủ thể kinh tế vừa làm biến động vốn
khả dụng của giới ngân hàng. Trong điều kiện biến động vốn khả dụng như vậy,
các ngân hàng buộc phải tìm đến thị trường mở để duy trì thanh khoản và
48
nghiệp vụ thị trường mở sẽ sôi động hơn. Không những thế, còn phải hoàn thiện
khuôn khổ pháp lý của các thị trường.
5. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng kết hợp với nâng cao trình độ nghiệp
vụ của các cán bộ ngân hàng
Theo quy chế nghiệp vụ thị trường mở ban hành theo quy định số
85/2000/QĐ - NHNN 14 ngày 9-3-2000, các thành viên tham gia nghiệp vụ thị
trường mở phải có đầy đủ các phương tiện cần thiết như nối mạng máy tính với
NHNN và các phương tiện hoạt động khác. Không chỉ trong nghiệp vụ thị
trường mở, ngày nay, bất kỳ một ngân hàng nào dù quy mô nhỏ hay lớn đều cần
có những phương tiện thông tin hiện đại để phục vụ cho hoạt động kinh doanh
của mình.
Ở Việt Nam, tuy tiện ích về dịch vụ ngân hàng đã được cải thiện đáng kể,
nhưng khoảng cách về công nghệ và dịch vụ so với cộng đồng tài chính quốc tế
cũng như khu vực còn khá xa. Nguyên nhân chủ yếu là ở hạ tầng cơ sở đất nước
và điều kiện vốn hạn hẹp của các ngân hàng. Vì vậy, trong thời gian tới, các
NHTM cần sắp xếp nguồn vốn để có điều kiện hiện đại hoá công nghệ và dịch
vụ. Có thể phải tính tới cả nguồn vốn vay dài hạn từ nước ngoài, nếu khả năng
vốn tự có không đảm bảo được nhu cầu. Ngoài ra các ngân hàng cũng cần mở
rộng quan hệ hợp tác quốc tế để từng bước đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật
hiện đại vào ứng dụng trong hoạt động ngân hàng.
49
Trong sự nghiệp hiện đại hoá ngân hàng, việc trang bị máy móc công nghệ
là rất quan trọng. Nhưng yếu tố quyết định là con người. Nếu không có những
cán bộ có kiến thức vững vàng, am hiểu cặn kẽ nội dung của từng văn bản pháp
quy, quy trình nghiệp vụ thì hoạt động ngân hàng không thể diễn ra suôn xẻ.
Mặt khác, để có thể tiếp cận công nghệ thông tin và kinh tế trí thức, các cán bộ
ngân hàng cũng cần phải nắm vững tính năng, tác dụng của từng thiết bị máy
móc chuyên dùng. Có như vậy mới có thể vận hành thao tác có hiệu quả. Chính
vì vậy, việc đào tạo và nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ ngân hàng là một
yêu cầu vô cùng cấp thiết hiện nay. Riêng với hoạt động nghiệp vụ thị trường
mở, các cán bộ chuyên về lĩnh vực này cần được tập huấn về kỹ thuật nghiệp vụ
và khả năng dự báo thị trường. Đặc biệt là đối với các nhà quản lý của NHNN.
Ngoài các biện pháp đã nêu trên, để nâng cao hiệu quả tác động của nghiệp
vụ thị trường mở đến chính sách tiền tệ, NHNN còn cần phải từng bước nâng
cao chất lượng của việc thu thập và dự báo thông tin về vốn khả dụng của hệ
thống các tổ chức tín dụng để làm cơ sở đưa ra các quyết định chính xác trên thị
trường mở. Bên cạnh đó, NHNN cũng cần phải nghiên cứu để tìm ra giải pháp
cụ thể để thu hút ngày càng nhiều hơn tiền mặt ngoài lưu thông, từng bước loại
bỏ thói quen nắm giữ tiền mặt trong nhân dân mà chuyển sang nắm giữ các tài
sản tài chính khác. Điều này sẽ góp phần làm phát triển tính "lỏng" cho các
chứng khoán nói chung, đồng thời giúp gia tăng dung lượng thị trường từ đó tạo
điều kiện cho công cụ nghiệp vụ thị trường mở phát huy tối đa hiệu quả của
mình.
50
KẾT LUẬN
óm lại, nghiệp vụ thị trường mở đã hoạt động trong việc thực hiện chính
sách tiền tệ ở Việt Nam là một dấu hiệu đáng mừng. Nó đã tạo điều kiện cho các
tổ chức tín dụng thành viên sử dụng linh hoạt các giấy tờ có giá ngắn hạn, góp
phần nhất định đối với việc điều chỉnh vốn khả dụng cho các tổ chức tín dụng
thành viên, đặc biệt khi thiếu hụt khả năng thanh toán.
Dù vậy, để nghiệp vụ này thực sự có hiệu quả thì còn rất nhiều vấn đề to
lớn đặt ra cũng như phải có thời gian kiểm nghiệm. Thử thách đối với nghiệp vụ
mới mẻ này là rất nặng nề mà chỉ có quyết tâm đồng bộ kiên quyết của NHNN
và các tổ chức tín dụng mới có thể giải quyết được.
Mặt khác, có thể thấy sự năng động của nền kinh tế là động lực cơ bản cho
thị trường mở hoạt động. Và hoạt động thị trường mở cũng có tác động ngược
lại đối với nền kinh tế. Do đó, để có một nền kinh tế phát triển vững mạnh thì
cần có sự kết hợp hài hoà giữa chính sách tiền tệ với các chính sách kinh tế vĩ
mô khác. Đồng thời, trong việc điều hành chính sách tiền tệ cũng cần có sự phối
hợp nhịp nhàng giữa các công cụ như dự trữ bắt buộc, chính sách tái cấp vốn, tỷ
giá, nghiệp vụ thị trường mở… Đó chính là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và
khó khăn của các cơ quan quản lý vĩ mô, đặc biệt là NHNN Việt Nam trong thời
gian tới.
T
51
52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu giảng dạy môn Nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương - Học
viện Ngân hàng.
2. Giáo trình thị trường vốn - Học viện Ngân hàng.
3. Tiền tệ và thị trường tài chính - Lê Văn Tư.
4. Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước năm 2000.
5. Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng (Số 4,5,6/2001).
6. Tạp chí ngân hàng (Số 2,6,9,11/2001; 1+2/2002).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận Văn- MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ.pdf