Tài liệu Luận văn Một số quan điểm cơ bản về phát triển con người và thực trạng của việc phát triển con người ở Việt Nam hiện nay: LUẬN VĂN:
Một số quan điểm cơ bản về phát triển con
người và thực trạng của việc phát triển con
người ở Việt Nam hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người, từ khá sớm trong lịch sử nhận thức cho đến tận hôm nay, vẫn được
nhiều học thuyết khoa học xã hội coi là chiếm vị trí trung tâm của sự phát triển. Tất nhiên,
trong mỗi thời đại, con người được chú ý nghiên cứu trên các bình diện khác nhau. Đến
nay, quan điểm hiện đại về phát triển con người đã được thừa kế, bổ sung bằng nhiều nội
dung mới và được nhiều quốc gia đề cao và chú trọng thực hiện trong chương trình phát
triển kinh tế - xã hội của mình, nhằm đạt tới mục tiêu phát triển nhanh và bền vững.
Thực ra vấn đề phát triển con người theo xu hướng hiện đại đã được C.Mác đề
cập cô đọng trong tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" (1848). Nhưng đến cuối
thế kỷ XX, việc thừa nhận con người là nguồn lực vô tận, là nhân tố quyết định, là mục
tiêu tối thượng của sự tiến bộ xã hội mới được các chu...
69 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1086 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Một số quan điểm cơ bản về phát triển con người và thực trạng của việc phát triển con người ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Một số quan điểm cơ bản về phát triển con
người và thực trạng của việc phát triển con
người ở Việt Nam hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người, từ khá sớm trong lịch sử nhận thức cho đến tận hôm nay, vẫn được
nhiều học thuyết khoa học xã hội coi là chiếm vị trí trung tâm của sự phát triển. Tất nhiên,
trong mỗi thời đại, con người được chú ý nghiên cứu trên các bình diện khác nhau. Đến
nay, quan điểm hiện đại về phát triển con người đã được thừa kế, bổ sung bằng nhiều nội
dung mới và được nhiều quốc gia đề cao và chú trọng thực hiện trong chương trình phát
triển kinh tế - xã hội của mình, nhằm đạt tới mục tiêu phát triển nhanh và bền vững.
Thực ra vấn đề phát triển con người theo xu hướng hiện đại đã được C.Mác đề
cập cô đọng trong tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" (1848). Nhưng đến cuối
thế kỷ XX, việc thừa nhận con người là nguồn lực vô tận, là nhân tố quyết định, là mục
tiêu tối thượng của sự tiến bộ xã hội mới được các chuyên gia của Chương trình Phát triển
Liên hợp quốc (UNDP) quán triệt, lượng hóa và thiết kế một thước đo chung, nhằm đánh
giá trình độ phát triển con người ở các quốc gia thuộc Liên hợp quốc.
Trong điều kiện hiện nay, việc nghiên cứu về phát triển con người đòi hỏi phải
luận giải một cách toàn diện, làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ
trương của Đảng và chính sách, pháp luật của nhà nước. Đây là một yêu cầu cấp bách, cơ
bản và lâu dài cho chiến lược phát triển con người ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Vấn đề là ở chỗ, mặc dù coi con người là trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã
hội, và do đó, phát triển con người thường được nhiều quốc gia ưu tiên hàng đầu cho việc
hoạch định chính sách kinh tế - xã hội, nhưng trên thực tế, không phải quốc gia nào cũng
làm được điều này, kể cả các quốc gia phát triển có nhiều tiềm lực về kinh tế. Việc phát
triển con người có thực hiện được hay không, đạt tới mức độ nào, ngoài việc dựa trên sự
phát triển về kinh tế, còn tùy thuộc vào quan điểm, chính sách và chương trình hành động
của từng quốc gia, đặc biệt trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Trong điều kiện quá
trình toàn cầu hóa đang diễn ra một cách mạnh mẽ như hiện nay, hội nhập là xu thế tất yếu
của thế giới đương đại, các quốc gia đang đứng trước những cơ hội và thách thức lớn đối
với sự phát triển của mình. Theo đó, việc phát triển con người của các quốc gia cũng được
đặt trước những cơ hội và thách thức to lớn, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển.
Toàn cầu hóa mở ra những cơ hội to lớn cho các nước đẩy nhanh quá trình phát triển kinh
tế, nhưng cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với các quá trình xã hội, chẳng hạn,
làm mất công bằng xã hội, tăng nhanh khoảng cách phân hóa giàu nghèo, mở rộng rủi ro
an sinh xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống, đánh mất bản sắc văn hóa truyền thống,
v.v...
ở Việt Nam, Ngay sau khi đất nước giành được độc lập, trong bản "Tuyên ngôn
độc lập", Chủ tịch Hồ Chí Minh đã long trọng tuyên bố với thế giới về quyền được sống,
quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc là những quyền cơ bản và bất khả xâm
phạm của mọi người và mọi dân tộc. Người nhấn mạnh, việc phấn đấu không ngừng để
thực hiện các quyền của con người, đó cũng là mục tiêu phấn đấu, là mục đích tối cao của
mọi hành động của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam.
Sự khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh về các quyền của con người là sự kết
tinh từ những tinh hoa tiến bộ nhân loại và của truyền thống Việt Nam qua mấy ngàn năm
đấu tranh dựng nước và giữ nước. Phát triển là của con người, do con người và vì con
người - đó là giá trị trường tồn của nhân loại và cũng là của văn hóa Việt Nam.
Trong tất cả các thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn chú trọng đến sự nghiệp giải
phóng, xây dựng và phát triển con người Việt Nam. Đặc biệt, trong 20 năm qua, bằng việc
thay đổi cơ chế quản lý kinh tế, thực hiện chính sách mở cửa hội nhập với khu vực và thế
giới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; công cuộc đổi mới toàn diện đã mở
rộng không gian phát triển đầy triển vọng cho nhân dân Việt Nam, trong đó, các cơ hội và
điều kiện cho việc phát triển toàn diện con người ngày càng được xác lập, bảo đảm và mở
rộng. Có thể nói, thành tựu nổi bật nhất của công cuộc đổi mới ở nước ta trong gần 20
năm qua là thành tựu về phát triển con người.
Chúng ta đạt được những thành tựu đó là nhờ có sự nhận thức một cách toàn diện
về vấn đề phát triển con người, coi nguồn lực con người là "giá trị quý báu nhất" và đóng
vai trò quyết định nhất; con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển.
Trong các văn kiện của mình, Đảng ta luôn chú trọng đến việc đề ra những chính sách nhằm
phát huy có hiệu quả cao nhất nguồn lực con người. Trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội", Đảng ta khẳng định: "Vì hạnh phúc của con
người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân" [10, tr. 13](1). Tại
Đại hội VIII, Hội nghị Trung ương lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII,
Đảng ta một lần nữa nhấn mạnh con người là động lực và mục tiêu của sự phát triển kinh
tế - xã hội.
Tuy nhiên, việc phát triển con người ở nước trong thời kỳ vừa qua, bên cạnh
những thành tựu đã đạt được, cũng còn nhiều hạn chế về cả mặt nhận thức và hành động.
Bối cảnh phát triển con người ở nước ta trong giai đoạn hiện nay vừa có những cơ hội
mới, vừa đứng trước nhiều thách thức. Điều đó đòi hỏi phải xem xét một cách toàn diện,
để từ đó tìm ra những giải pháp hiệu quả nhằm phát triển con người, đảm bảo cho sự phát
triển nhanh và bền vững của đất nước, phù hợp với yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong điều kiện hội nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới hiện nay.
Vì những lý do trên đây, chúng tôi chọn đề tài " Một số quan điểm cơ bản về
phát triển con người và thực trạng của việc phát triển con người ở Việt Nam hiện nay "
để làm đề tài nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong lịch sử, có thể nói, các nhà triết học đã bàn nhiều đến vấn đề con người; các
nhà triết học đã chú ý đến khía cạnh xã hội cũng như mục tiêu của phát triển xã hội, xét
cho cùng là phát triển con người. Tuy nhiên, các nhà triết học trước C. Mác và kể cả nhiều
1 Từ đây: - Số đầu là số thứ tự trong danh mục tài liệu tham
khảo.
- Số cuối là số trang của tài liệu tham khảo.
trường phái triết học hiện đại mặc dù đề cao con người, nhưng vẫn chưa đặt ra vấn đề phải
lượng hóa sự phát triển con người một cách triệt để trong thực tiễn.
Như đã biết, vấn đề phát triển con người đã được C.Mác đề cập năm 1848 trong
tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản". ở đây, phát triển con người đã được C.Mác
xác định như là mục tiêu của phát triển xã hội. Khi phê phán những hạn chế của chủ nghĩa
tư bản, những mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản, C. Mác khẳng định rằng chỉ có giai cấp
công nhân mới có đủ khả năng lãnh đạo nhân dân tiến hành thành công cuộc cách mạng
vô sản, lập nên chế độ xã hội chủ nghĩa. Chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ xóa bỏ mọi sự
áp bức, bóc lột, bất công, đảm bảo sự công bằng, bình đẳng, văn minh, tạo đầy đủ những
điều kiện cho sự phát triển toàn diện con người, trong đó, "sự phát triển tự do của mỗi
người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người" [24, tr. 628]
Phấn đấu vì sự phát triển của con người là mục tiêu chung của các Đảng Cộng sản
trong quá trình lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền, cũng như trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Vấn đề lượng hóa sự phát triển con người cùng với sự xác định nội hàm hiện đại
của khái niệm "phát triển con người" (Human development) được UNDP (United Nations
Development Programme) đưa ra vào năm 1990 trong báo cáo đầu tiên về phát triển con
người. Người đề xuất và sử dụng khái niệm này là Mahbub ul Haq, cũng trong năm này
chỉ số HDI (Human Development Index) được coi là công cụ hữu hiệu để đo chỉ số phát
triển con người và cũng từ đây hàng năm "Báo cáo phát triển con người" (Human
Development Report - HDR) của UNDP được xuất bản để đánh giá những thành tựu và
hạn chế của các quốc gia về phát triển con người, nghiên cứu những cơ hội và thách thức
cũng như trao đổi những kinh nghiệm về phát triển con người trên phạm vi thế giới vì sự
tiến bộ và văn minh của nhân loại.
Đây là vấn đề khá mới mẻ và đã được nhiều nhà khoa học Việt Nam nghiên cứu ở
các góc độ khác nhau:
- Một số nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu về phát triển con người nhưng chủ
yếu với tính cách là nguồn nhân lực, xem xét vai trò của con người, coi con người là động
lực cơ bản của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Có thể nêu một số công
trình như: "nguồn lực con người - yếu tố quyết định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước" (Đoàn Văn Khái, Tạp chí Triết học, số 4 (1995); "Nghiên cứu con người,
phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước khi nền kinh tế
tri thức xuất hiện" của Phạm Thành Nghị, "Thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện
nay" của Phạm Thanh Đức trong cuốn "Nghiên cứu con người, đối tượng và những
phương hướng chủ yếu" (2002) do Phạm Minh Hạc và Hồ Sĩ Quý chủ biên, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
- Nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về giải
phóng con người, lấy đó làm cơ sở lý luận, phương pháp luận cho nghiên cứu về sự
nghiệp giải phóng và xây dựng và phát triển toàn diện con người Việt Nam. Đó là các
công trình: "Tư tưởng về sự giải phóng con người trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản"
của Trần Hữu Tiến. Trích trong "Sống mãi với Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản", Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội (1998), "Quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về con người
và sự nghiệp giải phóng con người", của Bùi Bá Linh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
(2003)…
- Cũng có một số người đi vào nghiên cứu các khía cạnh xã hội khác nhau về phát
triển con người như về chính sách y tế, giáo dục, chính sách xóa đói, giảm nghèo… từ đó
đề ra những giải pháp cụ thể nhằm phục vụ các yêu cầu về phát triển con người mới. Có
thể kể ra các công trình như: "Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa" của Phạm Minh Hạc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội (2001); "Tính tương
thích giữa phát triển giáo dục và phát triển kinh tế trong phát triển con người ở Việt
Nam" của Đặng Quốc Bảo, trong tạp chí Nghiên cứu con người, số 2 (2002); "Nhà nước
và sự phát triển con người trong quá trình đổi mới ở Việt Nam" của Bùi Tất Thắng trong
tạp chí Nghiên cứu con người, số 2, (2002)…
Nhìn chung, các công trình trên đều khẳng định yêu cầu phát triển con người và ý
nghĩa của việc nhận thức đúng đắn và xây dựng chính sách phát triển con người. Song, do
yêu cầu của thời đại và của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay vì
mục tiêu phát triển nhanh và bền vững, việc tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống các
quan điểm cơ bản về phát triển con người, phân tích thực trạng và luận chứng một số giải
pháp phát triển con người ở nước ta hiện nay vẫn là một việc làm cần thiết cả về mặt lý
luận, lẫn thực tiễn. Theo hướng nghiên cứu này, tác giả luận văn chọn đề tài "Một số quan
điểm cơ bản về phát triển con người và thực trạng của việc phát triển con người ở Việt
Nam hiện nay" làm đề tài nghiên cứu trên cơ sở kế thừa giá trị của các công trình đi trước.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài
Mục đích: Bước đầu nghiên cứu một số quan điểm cơ bản về hệ vấn đề phát triển
con người, từ quan điểm của các nhà triết học trước Mác, quan điểm của C.Mác và của
quan điểm UNDP. Trên cơ sở đó, luận văn tìm hiểu quan điểm của Đảng ta về phát triển
con người, đánh giá thực trạng phát triển con người ở nước ta trong thời gian qua và chỉ ra
một số nguyên nhân cơ bản của những hạn chế, đồng thời, luận chứng một số giải pháp
cho phát triển con người ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ: Để đạt được mục tiêu trên, luận văn có nhiệm vụ giải quyết những vấn đề
sau:
- Thứ nhất, luận văn làm rõ quan niệm của một số nhà triết học trước C.Mác, quan
niệm của C.Mác và quan điểm của các nhà triết học hiện đại về phát triển con người, đặc
biệt là về phát triển con người của UNDP; phân tích, làm rõ nội hàm và phương thức
nghiên cứu định lượng về khái niệm phát triển con người của UNDP, theo đó làm rõ các
nội dung có liên quan đến sự phát triển con người ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
- Thứ hai, luận văn trình bày sự nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát
triển con người; phân tích thực trạng phát triển con người ở Việt Nam trong những năm
gần đây, chỉ ra những thành tựu và hạn chế của thực trạng này.
- Thứ ba, luận văn cố gắng nêu ra một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến những hạn
chế trong lĩnh vực phát triển con người, từ đó luận giải một số phương hướng và giải pháp
để phát triển con người Việt Nam bền vững.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Luận văn dựa trên các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng về phát triển và tiến bộ xã hội, trong đó có
phát triển con người; đồng thời, dựa vào các nguyên tắc và hệ tiêu chí đánh giá phát triển
con người của UNDP để phân tích thực trạng con người Việt Nam và các vấn đề có liên
quan.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp phân tích, tổng hợp, so
sánh, đối chiếu, thống kê... để trình bày các luận điểm của mình.
5. Đóng góp của luận văn
- Luận văn trình bày một cách tương đối có hệ thống những quan điểm về phát
triển con người trong lịch sử triết học, làm rõ quan điểm của C.Mác về phát triển con
người, ý nghĩa của quan niệm đó đối với sự nhận thức về con người và phát triển con
người trong thời đại ngày nay.
- Luận văn trình bày và làm sáng tỏ hơn quan niệm của UNDP về phát triển con
người; nội hàm của khái niệm phát triển con người, các chỉ số, các yêu cầu, điều kiện và
mục tiêu phát triển con người.
- Luận văn trình bày quan điểm của Đảng về phát triển con người ở nước ta. Trên
cơ sở quan điểm của Đảng và của UNDP, luận văn đánh giá thực trạng phát triển con
người ở nước ta hiện nay, phân tích nguyên nhân của những mặt chưa làm được trong
phát triển con người; đồng thời, bước đầu luận giải một số phương hướng và giải pháp
nhằm để phát triển toàn diện, bền vững con người Việt Nam hiện nay.
6. ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về phát triển con người, đặc
biệt là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, của UNDP và của Đảng, giúp nhận thức sâu
sắc hơn về mục tiêu phát triển con người của nhân loại và của Việt Nam hiện nay, thông
qua đó thấy được chương trình và mục tiêu phấn đấu của Đảng, Nhà nước và của cả dân
tộc vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp đó là của con người, do con người,
vì sự giải phóng và phát triển của chính bản thân con người.
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu phục vụ việc nghiên cứu, giảng dạy và
học tập về vấn đề con người. Đồng thời, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
các nhà quản lý trong việc đề ra các chính sách phát triển con người.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 2 chương, 5 tiết.
Chương 1
Một số quan điểm cơ bản về phát triển con người
Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học và nó đã được quan
tâm ngay từ thời kỳ sơ khai của loài người. Đặc biệt, khoa học triết học đã nghiên cứu con
người ở mức độ khái quát nhất và sớm nhất trong lịch sử. Tuy nhiên, không phải ngay từ
thời cổ đại người ta đã có quan điểm đúng đắn về con người và càng chưa bàn đến vấn đề
phát triển con người. Chỉ đến khi nền triết học đã phát triển rất cao, vấn đề phát triển con
người mới được đánh giá một cách tương đối hệ thống, đầy đủ. Điều này thể hiện rõ nét
qua lịch sử phát triển của triết học.
1.1. Quan điểm phát triển con người trong lịch sử triết học trước Mác
Khi nghiên cứu vấn đề con người, triết học phương Đông, điển hình là triết học ấn
Độ và Trung Quốc cổ - trung đại, cũng mới chỉ đạt đến trình độ thừa nhận con người có
phần xác và phần hồn. Phần lớn các quan điểm đều cho rằng, đối với con người, "phần
xác" có thể chết, mất đi, nhưng "phần hồn" vẫn tồn tại. Điển hình như quan điểm của các
trường phái chính thống của triết học ấn Độ. Sự hình thành và phát triển các tư tưởng về
con người của triết học ấn Độ cổ - trung đại gắn với quan niệm tôn giáo. Con người chỉ
phát triển trong khuôn khổ của sự chi phối của các lực lượng thần thánh, siêu nhiên. Tư
tưởng "giải thoát" con người khỏi những đau khổ trầm luân của Phật giáo, tuy nhuốm màu
sắc tôn giáo, song ít nhiều cũng thể hiện sự quan tâm đối với vấn đề phát triển con người.
Thành ra, ở giai đoạn này, việc phát triển con người được luận giải theo hướng duy tâm,
chỉ là sự giải thoát về mặt "linh hồn" và phát triển là sự giải thoát của linh hồn cá thể khỏi
thể xác, trở về với linh hồn tối cao (Kinh Vêda), về thế giới bên kia, hay với cõi Niết bàn
của đức Phật.
Lấy con người làm trung tâm cho học thuyết của mình, triết học Trung Quốc cổ -
trung đại, với các đại biểu như Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Tử… đã chú ý nghiên cứu số
phận của con người và con đường giải phóng, phát triển cho con người. Tuy nhiên, hầu
hết các trường phái triết học đều dừng lại ở chỗ coi đời sống con người, sự phân chia đẳng
cấp, giàu nghèo, sang hèn... là do "thiên mệnh", con người không nên và không thể thoát
khỏi, cưỡng lại được "mệnh trời". Mọi cố gắng của con người nhằm thoát khỏi sự an bài
trong hiện thực là vô ích.
Bên cạnh các quan điểm duy tâm, tôn giáo về vấn đề con người và phát triển con
người, ở ấn Độ và Trung Quốc cổ - trung đại còn có một số quan điểm tiến bộ khi nhìn nhận
con người một cách duy vật (Phái Lokayata, phái Âm dương - Ngũ hành...), coi tính người
là do rèn luyện, do giáo dục mà nên...
Trong lịch sử triết học phương Tây trước Mác, vấn đề con người, bản chất con
người và việc giải phóng, phát triển con người cũng được đặt ra khá phong phú.
Phần lớn các nhà triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại đều đề cao vai trò của con
người. Prôtagora đã coi con người là thước đo của mọi vật đang tồn tại và lần đầu tiên,
ông đưa ra quan niệm về quyền bình đẳng giữa người với người, khẳng định thượng đế
tạo ra mọi người đều là người tự do, tự nhiên không ai biến thành nô lệ cả, con người
được tự do phát triển về mọi mặt. Arixtốt coi con người là một động vật chính trị, một
sinh vật xã hội được cố kết trong một cộng đồng người, trong một xã hội nhất định, "ông
cho rằng, để con người phát triển được thì xã hội có nhiệm vụ bảo đảm công lý cho người
dân, đảm bảo đời sống vật chất cho mỗi gia đình và người dân phải có nghĩa vụ đối với xã
hội. Tuy có sự hạn chế về mặt lịch sử và giai cấp, song các nhà triết học Hy Lạp - La Mã
đã đưa ra một số quan điểm tiến bộ về vấn đề con người và phát triển con người. Đó là
những cơ sở để các nhà triết học sau này tiếp tục phát triển.
Dưới sự thống trị khắc nghiệt của nhà thờ Ki tô giáo, các trường phái triết học
Tây Âu đều bị thần học chi phối, hầu hết các quan điểm chứng minh sự tồn tại của
Thượng đế, sự tồn tại của chế độ đẳng cấp là sự tồn tại hợp lý do sự quy định của Thượng
đế. Các trào lưu triết học thời kỳ này đều cho rằng, con người là sản phẩm của thượng đế
và Thượng đế có vai trò tối cao đối với đời sống của con người. Giăngxicốt Ơrrgiennơ cho
rằng, con người không có tự do mà sự tự do của con người chỉ có được khi trở về "thế giới
bên kia" và chỉ có thượng đế là tự do tuyệt đối, còn con người không có quyền tự do định
đoạt cuộc sống của mình.
Sang thời kỳ Phục hưng và Cận đại, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được
hình thành và phát triển, giá trị văn hóa cổ đại Hy - La được khôi phục trên cơ sở của nền
kinh tế mới, các giá trị của con người mà từ lâu bị chế độ phong kiến chà đạp và bị nhà
thờ Thiên Chúa giáo Trung cổ làm lu mờ, hoặc trở nên huyền bí… đã được phục hưng lại
theo tinh thần của chủ nghĩa nhân đạo. Các nhà triết học thời kỳ này (với một số đại biểu
như: Bêcơn, Hốp xơ, Lốccơ, Đềcáctơ, Rútxô…) đã đấu tranh quyết liệt với những quan
niệm tôn giáo thần bí xoay quanh vấn đề con người. Triết học thời kỳ này đã chứng minh
sức mạnh vĩ đại của con người, đề cao vai trò thực tiễn của con người, xem con người là
thước đo của mọi vật. Các giá trị văn hóa, nghệ thuật được đặc biệt chú trọng. Con người
được coi là sản phẩm tối cao và tinh túy nhất trong sự sáng tạo của thượng đế; là vũ khí vĩ
đại nhất của tạo hóa, có khả năng sáng tạo ra các sự vật mới phục vụ cho cuộc sống của
mình. Con người có đủ khả năng tự giải phóng và phát triển bản thân mình khỏi khuôn
khổ chật hẹp của Thiên Chúa giáo, của xã hội trung cổ vốn đè nặng lên đời sống con
người. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của các quan niệm này là đã không đề ra được mục
tiêu giải phóng, phát triển cá nhân người lao động khỏi sự áp bức và bóc lột.
Triết học cổ điển Đức đặc biệt đề cao vai trò của con người. Sự ra đời của dòng
triết học này đã làm cho tư tưởng về con người và phát triển con người có những thay đổi
mới về chất. Điều đó được thể hiện trong cả hai trường phái triết học duy vật và duy tâm.
Trong triết học Cantơ, con người được coi là một thực thể, hơn nữa, là một thực
thể hoạt động, một nhân tố có vị trí đặc biệt trong thế giới. Thực thể đó đứng giữa, ở vị trí
trung tâm của thế giới "vật tự nó" và thế giới "hiện tượng". Sự phát triển con người, theo
Cantơ là sự phát triển để đạt tới "vật tự nó", con người được tự do trong thế giới này, còn
trong thế giới của những "hiện tượng" thì tự do của con người chỉ là tương đối, chỉ là cái
thứ yếu không đáng được quan tâm. Con người trong triết học của Cantơ là con người suy
nghĩ và hành động. Tư tưởng của ông đều xuất phát từ bản thân con người và vì sự giải
phóng của bản thân con người. Đây là tư tưởng mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc và
đặt nền móng cho những quan điểm về con người sau này của C.Mác.
Khẳng định con người là chủ thể, đồng thời là kết quả của quá trình lao động,
Hêghen coi sự phát triển con người là sự phát triển của tự do, của tư duy nhân loại. Ông
cho rằng, sự phát triển của tự do của con người là thước đo đánh giá trình độ phát triển
của xã hội. Tuy nhiên, do đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy tâm, nên ông đã đi tới
quan niệm sai lầm khi cho rằng sự phát triển đó là quá trình trở về cái "tinh thần tuyệt
đối".
Nhà triết học duy vật nhân bản L.Phoi ơ bắc đặc biệt quan tâm đến vấn đề con
người, coi con người là trung tâm, cốt lõi, xuyên suốt toàn bộ hệ thống triết học của mình.
Con người trong triết học của L.Phoi-ơ-bắc là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của sự
phát triển của tự nhiên. Giữa con người và tự nhiên nằm trong một thể thống nhất hữu cơ
không thể tách rời. Tuy nhiên, xét về mặt xã hội, ông chỉ thấy con người có quan hệ duy
nhất là quan hệ tình yêu; từ đó, ông kêu gọi mọi người hãy đối xử với nhau bằng quan hệ
tình yêu tôn giáo và trong điều kiện như vậy, con người được tự do phát triển bằng tình
yêu của chính họ. Vì vậy, con người phát triển là đạt đến mục tiêu của một tình yêu phổ
biến, phi giai cấp, phi lịch sử.
Triết học phi mácxít hiện đại với sự phát triển tuy phong phú nhưng đầy tính phức
tạp với nhiều trường phái khác nhau như: chủ nghĩa thực chứng, chủ nghĩa hiện sinh, chủ
nghĩa thực dụng, hiện tượng học, chú giải học… đã xem xét vấn đề con người và phát
triển con người ở từng khía cạnh khác nhau. Triết học hiện sinh đi vào cái tôi cá nhân và
con người phát triển để trở về với cái tôi đích thực trừu tượng của mình; hay triết học nhân
bản lại nhấn mạnh yếu tố bẩm sinh, di truyền, mang tính bản năng và coi đó là sự tồn tại
đích thực, để trở về với cái vô thức… Nói chung, trong triết học phi mác xít hiện đại, mỗi
trường phái đi vào xem xét theo những khía cạnh riêng lẻ, theo từng "thuộc tính cố hữu"
của con người. Sự phát triển con người là quá trình đi tìm đến cái tôi của cá nhân chung
chung trừu tượng.
Như vậy, trước khi chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời, vấn đề con người và phát triển
con người đã được các nhà triết học bàn đến. Tùy theo lập trường triết học của mình, các
nhà triết học khác nhau đã xem xét sự phát triển con người ở các khía cạnh khác nhau, các
nhà triết học duy tâm xem xét sự phát triển con người ở khía cạnh tinh thần, đó là sự phát
triển của trí tuệ, sự trở về của "tinh thần tuyệt đối". Ngược lại, các nhà triết học duy vật, mặc
dù đề cao con người hiện thực, tìm mục tiêu phát triển con người ở chính thế giới hiện
thực, song cũng chưa có nhà triết học nào đề ra được mục tiêu xóa bỏ sự áp bức, bóc lột
trong đời sống của hiện thực của con người. Ngay cả L.Phoi ơ bắc, nhà triết học duy vật
nhân bản tiến bộ nhất của thời kỳ này cũng không vượt qua quan điểm duy tâm khi xem
xét vấn đề xã hội nói chung và con người nói riêng.
1.2. Quan điểm phát triển con người trong triết học Mác-Lênin
Lịch sử triết học đã bước sang một trang mới bằng sự ra đời của triết học Mác-
Lênin. Thành quả to lớn của các nhà sáng lập triết học Mác-Lênin để lại không dừng lại ở
chỗ đưa ra một hệ thống lý luận đúng đắn về bản chất của thế giới và bản chất con người,
mà còn chỉ ra con đường để phát triển con người một cách duy vật và khoa học.
Về bản chất con người, xuất phát từ việc phê phán những hạn chế của các quan
điểm duy tâm, siêu hình, khi xem xét vấn đề con người, các nhà sáng lập triết học Mác -
Lênin đã giải quyết vấn đề con người một cách khoa học, đúng đắn trên lập trường của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, khẳng định con người là một thực thể sinh học - xã hội -
"Con người là một thực thể tự nhiên có tính người" [27, tr. 234].
Theo quan điểm duy tâm khách quan của Hê-ghen, hoạt động thực tiễn của con
người chỉ là hình thức tha hóa trong việc thực hiện tính tích cực nội tại của tinh thần, do vậy,
nó không thể là đối tượng nghiên cứu trực tiếp và cơ bản khi xem xét vấn đề con người.
Mặc dù xuất phát từ quan niệm coi con người là một thực thể tự nhiên, mang tính vật chất
- cảm tính, song L.Phoi-ơ-bắc đã không thể đi tới bản chất đích thực của con người, không
hiểu được những hoạt động xã hội của con người. Khi tiến hành phê phán quan điểm duy
tâm tư biện của Hê-ghen và quan điểm duy vật nhân bản của L.Phoi-ơ-bắc về con người,
C.Mác đã phát hiện ra và chứng minh rằng, hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới vật chất là
hoạt động vốn có của con người. Và ông đã lấy hoạt động có tính đặc trưng này làm đối
tượng nghiên cứu, làm xuất phát điểm khi nghiên cứu vấn đề con người và giải phóng,
phát triển con người.
Khác với tất cả các nhà triết học trước đó, khi xây dựng quan niệm duy vật về lịch
sử, vạch ra vai trò quyết định của sản xuất vật chất, xem xét các quan hệ xã hội từ quan hệ
sản xuất, C.Mác và Ph.Ăng ghen đã tạo ra bước ngoặt căn bản trong quan niệm về bản
chất con người. Các ông cho rằng, bản thân cái trừu tượng tư biện chẳng qua chỉ là sản
phẩm, là sự thể hiện của những điều kiện sản xuất và giao tiếp nhất định nào đó. Từ đó,
các ông đi đến quan niệm: để nghiên cứu bản chất đích thực của con người, nhận thức
đúng đời sống con người thì phải nghiên cứu một cách cụ thể đời sống sinh hoạt hiện thực
của con người, từ hoạt động lao động sản xuất, hoạt động thực tiễn của con người và chỉ
bằng cách đó mới có được những tri thức đúng đắn về con người hiện thực, về những hoạt
động của con người ấy.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đối lập quan điểm của mình với quan điểm của các nhà
triết học duy tâm, duy vật siêu hình và nhấn mạnh sự mới mẻ trong cách tiếp cận của
mình. Tuy C.Mác và Ph.Ăng ghen vẫn sử dụng các khái niệm của các nhà triết học tiền
bối nhưng nội dung thì hoàn toàn mới để luận chứng cho quan điểm duy vật lịch sử. Các
ông không đặt vấn đề cấp bách trong việc xem xét những lập luận trừu tượng, tư biện về
đời sống sinh hoạt của con người có nội dung khách quan hay không, mà cho rằng, bản
thân đời sống sinh hoạt của con người vốn mang tính hiện thực. Hoạt động cơ bản của con
người là hoạt động sản xuất ra của cải vật chất của những cá nhân nắm quyền làm chủ tư
liệu sản xuất nhất định, hoạt động trong khuôn khổ của những quan hệ sản xuất và giao
tiếp nhất định. Vì vậy, các khái niệm đó dù có trừu tượng, tư biện, nhưng đó là những khái
niệm phản ánh hoạt động, sinh hoạt của hiện thực, phản ánh hoạt động sản xuất của con
người, nên tất yếu nó cũng mang tính khách quan.
Với C.Mác và Ph.Ăngghen thì hiện thực bao giờ cũng mang tính đặc thù, nhiệm
vụ của nhận thức là đạt tới và phản ánh đúng tính cụ thể, đặc thù đó. Những lập luận trừu
trượng về con người, về hoạt động con người thực chất chỉ là phương tiện, công cụ để
nhằm giải quyết nhiệm vụ đó. Nhưng để có được các lập luận đó một cách đúng đắn thì
phải xem xét trong những trường hợp cụ thể với những quan hệ cấu thành cơ sở hiện thực
của chúng. Vì vậy, khi xem xét con người phải xuất phát từ chính những con người với tư
cách là những "cá nhân kinh nghiệm", những cá nhân trong đời sống sinh hoạt trong quan
hệ hiện thực của xã hội nhất định.
Trong "Luận cương về L.Phoi-ơ-bắc", C.Mác khẳng định: "Bản chất con người
không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của
nó, bản chất con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội" [23, tr. 11].
Con người mà C.Mác và Ph.Ăngghen nói tới trong định nghĩa này là những con
người mang tính lịch sử - cụ thể trong những điều kiện sinh hoạt hiện thực của nó. Với
định nghĩa này, C.Mác khẳng định khi xem xét con người phải gắn với hiện thực lịch sử
mà con người tồn tại, xem xét gốc rễ của con người từ chính bản thân con người, từ những
quan hệ của họ với xã hội. Đặc biệt, cần phải xem xét con người "hiện thực lịch sử" mang
tính sinh học được xã hội hóa. Xem xét ý thức con người từ tồn tại xã hội, từ thực tiễn,
trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội.
Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, bản chất con người (tri thức, đạo
đức, văn hóa…) được dần dần hình thành trong quan hệ xã hội nhất định với tính cách là
sản phẩm của những quan hệ hiện thực trong xã hội. Tuy nhiên, bản chất đó không phải
hình thành một cách thụ động với tính cách là sản phẩm thuần túy của hoàn cảnh, mà cần
phải thấy mặt thứ hai - con người là chủ thể của hoàn cảnh, giữ vai trò quyết định của sự
vận động của lịch sử. Theo quan điểm của C.Mác "chính con người làm thay đổi hoàn
cảnh" của mình, "sự phù hợp giữa sự thay đổi của hoàn cảnh với hoạt động của con người,
chỉ có thể được quan niệm và được hiểu một cách hợp lý khi coi đó là thực tiễn cách
mạng" [23, tr. 10].
Theo C.Mác, con người không phải là "cái trừu tượng", mà là sản phẩm của tự
nhiên, của xã hội, mang tính lịch sử - cụ thể. Con người là con người hiện thực, con người
cụ thể, cảm tính; bản chất của con người được thể hiện ra, được tồn tại và phát triển trong
lao động sản xuất, cải tạo tự nhiên, đấu tranh giai cấp, cải tạo xã hội… Bản chất con người
là do những mối quan hệ xã hội của chính con người quy định. Mọi quá trình xã hội đều là
quá trình hoạt động của chính con người, không có con người thì không có xã hội và
ngược lại không có xã hội chung chung trừu tượng mà thiếu vắng những con người hiện
thực. Tuy nhiên, xã hội không phải là tập hợp giản đơn những cộng đồng con người, bởi
trong xã hội, ngoài sự hiện diện của tập hợp người còn có những mối liên hệ gắn kết với
con người, cộng đồng người liên kết với nhau thành một hệ thống. Trong quan niệm của
C.Mác, xã hội không phải là những cá thể người, mà biểu hiện tổng số những mối liên hệ
và quan hệ của con người trong đó những cá thể này tồn tại đối với nhau. Xã hội là sản
phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người với người. Do vậy, quan hệ xã hội là tổng thể
những quan hệ mà con người đã có, đang có và trong chừng mực nào đó, nó còn bao hàm
cả những quan hệ với tương lai. Bản chất con người không phải là bất biến, mà nó luôn
vận động, biến đổi cùng với sự biến đổi của hoàn cảnh sống, của thời đại, gắn liền với
phương thức sản xuất của một chế độ xã hội nhất định.
- Về phát triển con người, các nhà triết học trước Mác cũng đã bàn đến, trong đó
họ đưa ra một số luận điểm với mong muốn phát triển con người, muốn tìm lại xã hội tốt
đẹp kiểu Nghiêu - Thuấn như trong triết học Trung Quốc cổ đại hoặc mong muốn có một
xã hội tự do và bình đẳng của công dân như quan điểm của các nhà triết học ánh sáng.
Nhưng, phải đến khi chủ nghĩa Mác ra đời, thì vấn đề phát triển con người mới được bàn
đến như là mục tiêu của sự phát triển xã hội. Xuất phát từ quan điểm duy vật biện chứng
về con người, coi con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội và xem xét mối quan hệ
giữa con người với tự nhiên và xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng học thuyết về
phát triển con người, trong đó giải phóng con người và xã hội là mục tiêu cơ bản và đầu
tiên phải hướng tới.
Năm 1848, trong tác phẩm "Tuyên ngôn Đảng Cộng sản", C.Mác đã đưa ra quan
niệm về phát triển con người, khi bàn đến sự phát triển tự do của con người. Với mong
muốn giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột, tiến tới xây dựng một xã hội mới.
Xã hội mới đó chính là "một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều
kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người" [24, tr. 628]. Với tư tưởng khoa học và
đúng đắn, đầy tính nhân bản này, C. Mác và Ph.Ăngnghen đã chỉ ra cái đích mà toàn thể
nhân loại cần phải đạt đến trong tương lai là sự phát triển con người.
Có thể khẳng định rằng, giải phóng, phát triển con người là mục tiêu cuối cùng
của học thuyết Mác. Trên cơ sở xem xét mối quan hệ giữa con người với tự nhiên cũng
như mối quan hệ giữa con người với xã hội trong điều kiện xã hội tư bản chủ nghĩa,
C.Mác chỉ ra rằng, chính điều kiện sản xuất, điều kiện xã hội của chế độ chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất đã làm cho người công nhân bị tha hóa. Đó là sự
tha hóa làm mất đi mặt tự nhiên vốn có của con người cũng như bản chất xã hội của con
người, làm cho con người trở nên xa lạ với những vật phẩm do chính bản thân mình làm
ra, xa lạ với xã hội - môi trường tồn tại của người công nhân. Vì vậy, xóa bỏ quan hệ
người áp bức, bóc lột người, xóa bỏ quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa là điều kiện tất yếu, trước tiên, là cơ sở để khắc phục mọi sự tha hóa, sự
phiến diện, què quặt trong quá trình giải phóng, phát triển con người, đưa con người trở về
với bản chất đích thực của mình, trở thành chủ thể của xã hội, quyết định toàn bộ đời sống
của mình.
Để thực hiện mục tiêu đó, người công nhân phải vươn lên giữ vị trí tiên phong
trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, giành chính
quyền về tay mình. Từ đó, xóa bỏ tận gốc mọi sự áp bức xã hội. Nói cách khác, giai cấp
vô sản phải tiến hành cuộc cách mạng vô sản nhằm giải phóng mình và giải phóng toàn
nhân loại, đưa nhân loại từ vương quốc tất yếu sang vương quốc tự do. Đó là sứ mệnh cao
cả của giai
cấp công nhân trong công cuộc đấu tranh vì sự tiến bộ của bản thân và của nhân loại.
Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu ấy, hoàn toàn không phải là việc làm đơn giản,
chốc lát, hay có thể hoàn thành trong "một sớm, một chiều", mà đó là một quá trình hết
sức lâu dài, phức tạp và gay go quyết liệt. Bởi vì quá trình đó không chỉ là xóa bỏ trật tự
của xã hội cũ mà hơn thế, còn là một sự nghiệp xây dựng xã hội mới, xóa bỏ những tàn
tích cũ, xây dựng những nhân tố xã hội mới từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng.
Để có thể thực sự giải phóng và phát triển con người, theo C.Mác, tất yếu phải
xóa bỏ hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa và thay vào đó một hình thái kinh tế - xã
hội mới cao hơn, đó là hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Sự thay thế xã hội cũ
bằng một xã hội mới, tốt đẹp hơn chính là nhằm phục vụ con người, vì sự phát triển tự do,
toàn diện của con người.
Để con người được phát triển toàn diện thì việc xây dựng xã hội mới - xã hội cộng
sản chủ nghĩa - là yêu cầu, là mục tiêu của toàn bộ sự nghiệp cách mạng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động. Trong xã hội đó, con người mới thực sự tự mình làm ra lịch
sử của mình một cách tự giác, con người mới trở về với bản chất đích thực của mình.
Trong xã hội đó, như C.Mác khẳng định:
Cuộc đấu tranh để sinh tồn của cá nhân sẽ chấm dứt. Do đó, mà lần đầu tiên, con
người tách hẳn - theo một ý nghĩa nào đó - khỏi thế giới thú vật, chuyển từ điều kiện sinh
tồn của thú vật sang điều kiện sinh tồn thật sự của con người… Tổ chức xã hội của con
người, từ trước tới nay vẫn đối lập với con người như những cái do tự nhiên và lịch sử áp
đặt cho con người thì giờ đây biến thành hành động tự do của bản thân con người. Những
lực lượng khách quan, xa lạ, từ trước đến nay vẫn thống trị lịch sử, thì sẽ do chính con
người kiểm soát. Chỉ từ lúc đó, con người mới bắt đầu tự mình làm ra lịch sử của chính
mình một cách hoàn toàn tự giác [25, tr. 392-393]
Giải phóng xã hội, theo C.Mác và Ph.Ăngghen, là giải phóng từng cá nhân riêng
biệt trong xã hội, đưa mỗi người trở thành người làm chủ xã hội, vì "xã hội không thể nào
giải phóng mình được, nếu không giải phóng mỗi cá nhân riêng biệt" [25, tr. 406], giải
phóng cá nhân tạo động lực cho giải phóng xã hội và đến lượt nó, giải phóng xã hội trở
thành điều kiện thiết yếu cho giải phóng cá nhân trong xã hội.
Giải phóng con người là cơ sở cho sự phát triển tự do của con người. Trong xã hội
cộng sản chủ nghĩa, con người được giải phóng, đứng ở hàng đầu của sự phát triển lịch sử,
họ vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của bản thân nền công nghiệp hiện đại; họ trở thành
những người chủ đích thực của xã hội, có đầy đủ các điều kiện để phát huy năng lực của
mình mà không bị hạn chế bởi lực lượng nào cả. C.Mác viết: "Trong xã hội cộng sản…
không ai có thể bị hạn chế trong một phạm vi hoạt động độc chuyên, mà mỗi người đều có
thể tự hoàn thiện mình trong bất kỳ lĩnh vực nào thích" [23, tr. 47]
Theo C.Mác, trong xã hội cộng sản, khi con người được giải phóng, được làm
chủ, họ sẽ có điều kiện để thực hiện sự nghiệp giáo dục, đào tạo cải tạo chính bản thân họ,
xóa bỏ tình trạng nô dịch, áp bức, bóc lột lao động cho tất cả mọi người; họ được hưởng
những thành quả giáo dục toàn diện do chính họ tổ chức bao gồm: giáo dục trí lực, giáo
dục thể lực và giáo dục kỹ thuật.
Giải phóng con người là đưa con người thoát khỏi mọi sự áp bức, thống trị giai
cấp, dân tộc, tôn giáo… xây dựng mối quan hệ công bằng, bình đẳng giữa người với
người, giữa cộng đồng này với cộng đồng xã hội khác. Nói cách khác, giải phóng con
người là tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện cả về khía cạnh cá nhân, cả về
khía cạnh xã hội.
Như vậy, có thể nói, tư tưởng cốt lõi trong toàn bộ học thuyết về con người của
C.Mác là tư tưởng về giải phóng, phát triển con người. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, khắc
phục, xóa bỏ sự tha hóa của con người trong xã hội tư bản là điều kiện cho giải phóng con
người; muốn giải phóng con người thì phải xóa bỏ hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ
nghĩa và thay bằng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chỉ trong điều kiện đó,
con người mới trở về với bản chất đích thực của mình, mới có đầy đủ các điều kiện để
phát triển toàn diện. Đến lược nó, khi con người trở thành chủ thể xã hội, sự phát triển xã
hội lại do chính con người thực hiện. Do đó, phát triển xã hội là cơ sở của phát triển con
người, phát triển con người là động lực của phát triển xã hội và của chính bản thân con
người.
Mặc dù không phân tích một cách chi tiết hay không có một tác phẩm riêng nào
về phát triển con người, nhưng những tư tưởng về giải phóng, phát triển con người, các
nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã cung cấp cho chúng ta cơ sở phương pháp luận trong việc
xem xét, đánh giá các quan điểm hiện đại về phát triển con người cũng như xem xét, đánh
giá các vấn đề thực tiễn của phát triển con người, của tiến bộ xã hội của nhân loại trong
giai đoạn hiện nay.
1.3 Quan điểm phát triển con người của Chương trình phát triển Liên hợp
quốc (UNDP)
Mục tiêu của học thuyết Mác - Lênin là đưa loài người đến một xã hội dân chủ,
bình đẳng, không còn áp bức, bóc lột. Với cách tiếp cận duy vật biện chứng và khoa học,
các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã chứng minh rằng, dù sớm hay muộn, loài người tất yếu
sẽ vượt qua mọi rào cản để đi đến xã hội đó. Hiện nay, không một dân tộc nào lại không
đặt ra cho mình những mục tiêu phát triển nhưng chưa hẳn là đều hướng đến sự giải
phóng, phát triển của con người. Tính chất của thời đại ngày nay đã có nhiều thay đổi so
với thời kỳ học thuyết Mác mới ra đời. Vì vậy, những mục tiêu cụ thể về phát triển con
người cần phải được bổ sung thêm cho đầy đủ. Nhưng tựu trung lại, những mục tiêu ấy,
về nguyên tắc, không khác với học thuyết Mác. Có thể nói, những nội dung về phát triển
con người mà C.Mác đưa ra vẫn là tinh thần cơ bản xuyên suốt trong chiến lược phát triển
con người của nhiều nước trên thế giới, mặc dù các nước đó không nói rõ như vậy. Vì
vậy, theo chúng tôi, quan điểm của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) về
phát triển con người không phải tự nó xuất hiện từ hư vô, chẳng những không mâu thuẫn
mà nó ít nhiều đã có sự kế thừa những thành tựu của học thuyết Mác: Mác coi sự phát
triển tự do của mỗi người và mọi người là mục tiêu tối thượng, còn UNDP thì coi phát
triển con người là mục tiêu cần đạt tới của các quốc gia thuộc Liên hợp quốc.
Trong số các nội dung của phát triển con người, xóa đói nghèo là một trong những
nội dung quan trọng. Trong nhiều thập kỷ qua, tình trạng đói nghèo luôn là sự nỗi ám ảnh
nhiều quốc gia trên thế giới. Nhân loại vẫn hằng mong ước một cuộc sống ngày càng đầy
đủ, sung túc hơn. Vì vậy, mở rộng năng lực sản xuất, phát triển kinh tế trở thành mục tiêu
phấn đấu của các quốc gia. Sự khác biệt về đời sống giữa các nước phát triển với các nước
đang phát triển và chậm phát triển đã chứng minh tầm quan trọng của sự tăng trưởng kinh
tế. ở các nước có thu nhập thấp, người dân luôn phải đối mặt với tình trạng thiếu lương
thực, với tình trạng nghèo đói phổ biến. Trong bối cảnh đó, tăng trưởng kinh tế đã được
xem như là chiếc chìa khóa của quá trình phát triển. Tuy nhiên, một số nước vẫn có thái
độ tuyệt đối hóa mục tiêu tăng trưởng kinh tế, mà coi nhẹ các mục tiêu xã hội khác dẫn
đến sự phát triển phiến diện, không bền vững.
Thực tế cho thấy, ở một số quốc gia, kể cả những nước phát triển, mục tiêu phát
triển con người đã bị xem nhẹ, không ít quốc gia đã lấy tăng trưởng kinh tế làm thước đo
đánh giá sự phát triển xã hội và để đạt dược mục tiêu đó, người ta không quan tâm thỏa
đáng đến vấn đề phát triển con người. Nhiều người lại cho rằng, ngày nay, sự phân hóa
giàu nghèo, sự bất bình đẳng, sự chênh lệch về trình độ… giữa các tầng lớp dân cư, các
dân tộc, các nhóm người, được xem như là cái giá của sự phát triển kinh tế, thậm chí, một
số người coi đó là điều tất yếu của xã hội hiện đại, là một nghịch lý hiển nhiên. Tuy nhiên,
cũng có nhiều quan điểm tiến bộ hơn, những quan điểm này thường nhấn mạnh đến các
khía cạnh của sự phát triển xã hội, phát triển con người, thì cũng chỉ nhấn mạnh tới việc
phân phối lại các kết quả lao động cho con người thông qua sự điều hành của nhà nước,
chính phủ, nghĩa là chú ý đến việc xem xét vị trí, vai trò của nhà nước trong việc nâng cao
đời sống vật chất, chú ý đến sự công bằng của nhà nước trong phân phối thu nhập cho các
tầng lớp dân cư, các nhóm người trong xã hội hay giữa các dân tộc với nhau.
Có thể thấy, trên thế giới, trong những năm 50 của thế kỷ XX, phần lớn các quốc
gia trên thế giới chú trọng nhiều đến tăng trưởng kinh tế, vô tình đồng nhất phát triển với
phát triển kinh tế. Nghĩa là chú ý, chăm lo đến thu nhập, cho rằng, tăng trưởng kinh tế là
chìa khóa duy nhất sẽ đem lại phồn vinh, hạnh phúc cho con người. Nhiều nước trên thế
giới lấy thước đo thu nhập quốc dân để đánh giá trình độ phát triển của kinh tế, xã hội.
Công cụ GDP được coi như là công cụ hữu hiệu mà các quốc gia vẫn sử dụng. Tuy nhiên,
công cụ này đã thể hiện nhiều hạn chế, nó mới chỉ chú ý đến góc độ của tăng trưởng kinh
tế của mỗi quốc gia, đó chỉ là một khía cạnh của sự phát triển xã hội, chứ chưa chú ý đến
các khía cạnh xã hội - nhân văn của phát triển xã hội như sự công bằng, bình đẳng xã hội,
đến giáo dục, y tế, sức khỏe cộng đồng,... Vì vậy, chưa đảm bảo sự phát triển bền vững
của xã hội, chưa hẳn đã nâng cao đời sống văn hóa cho con người… Chỉ riêng sự tăng
trưởng kinh tế cũng không thể đảm bảo được yêu cầu cho sự phát triển công bằng, bình
đẳng xã hội. Chạy theo mục tiêu đó, nhiều quốc gia đã phải trả giá cho sự phát triển của
mình, đó là nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nhưng tệ nạn xã hội phát triển tràn lan, xung
đột xã hội thường xuyên nổ ra, đời sống văn hóa suy đồi…
Đến những năm 80, 90 của thế kỷ XX, loài người nhận thấy sự tăng trưởng kinh
tế nhanh không có nghĩa là xã hội đã ổn định và phát triển; kinh tế tăng trưởng cao không
có nghĩa là đời sống vật chất và tinh thần của con người theo đó mà được phát triển lành
mạnh, phong phú; sự tăng trưởng kinh tế không đồng nhất với sự tiến bộ xã hội. Vì vậy,
loài người đã chuyển sang quan điểm phát triển toàn diện và bền vững, nghĩa là sự phát
triển phải bao hàm cả phát triển kinh tế và phát triển xã hội, mục tiêu tăng trưởng kinh tế
nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho con người, cũng như vì đời sống công
bằng, tiến bộ, văn minh và hạnh phúc cho nhân dân. Tăng trưởng kinh tế phải gắn với phát
triển văn hóa, phát triển xã hội và phát triển con người. Vì vậy, khái niệm "nguồn nhân
lực", "vốn người" được xem là yếu tố quyết định nhất trong các yếu tố tác động đến sự
phát triển kinh tế, xã hội. Song, ở khía cạnh này dễ rơi vào sự hiểu nhầm, coi con người
như là công cụ, là phương tiện cho phát triển kinh tế, xã hội và như vậy, con người vẫn
chưa phải là mục tiêu cuối cùng của phát triển xã hội.
Đến cuối những năm 1980, đầu những năm 90 của thế kỷ XX ra đời cách tiếp cận
mới của Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP), quan điểm nền tảng của
chương trình này là lấy con người làm mục tiêu tối thượng của sự tăng trưởng kinh tế,
phát triển xã hội, nghĩa là coi các nhân tố khác của xã hội chỉ như là phương tiện để phát
triển con người, và lấy phát triển con người làm nhân tố cao nhất để đánh giá tính ưu việt
và hạn chế của đường lối, chính sách và thực hiện cải tạo xã hội của các quốc gia.
Theo quan điểm của chương trình này, phát triển con người "là sự mở rộng phạm
vi lựa chọn của con người để đạt tới một cuộc sống trường thọ, khỏe mạnh, có ý nghĩa và
xứng đáng với con người" [40, tr. 13]. Edouard A.Wattez (điều phối viên thường trú Liên
hợp quốc tại Việt Nam) viết: "Phát triển con người là quá trình mở rộng cơ hội lựa chọn
để con người có thể nâng cao chất lượng cuộc sống toàn diện của chính mình một cách
bền vững" [39, tr. 11].
Nội hàm của quan điểm này bao hàm hai khía cạnh, đó là mở rộng các cơ hội lựa
chọn và nâng cao năng lực lựa chọn của con người, nâng cao đời sống con người về mọi
mặt, có điều kiện phát triển toàn diện, có cuộc sống hạnh phúc và bền vững.
Mở rộng cơ hội lựa chọn cho con người nghĩa là mở rộng các điều kiện, môi
trường xã hội để con người tham gia vào các hoạt động xã hội một cách tự do, bình đẳng,
không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo… Sự bình đẳng về cơ hội là điều kiện để nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho con người, trong đó, thu nhập là yếu tố rất quan
trọng, là yếu tố đầu tiên. Tuy nhiên, thu nhập mới chỉ là điều kiện đầu tiên cho sự tồn tại
của con người; ngoài yếu tố này, con người còn cần phải được tiếp cận đến các dịch vụ
khác của xã hội như: dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa… Phát triển vì con người phải nhấn
mạnh đến việc mở rộng không gian lựa chọn cho con người để mỗi người có thể đạt được
một cuộc sống tốt đẹp nhất và có ý nghĩa nhất.
Tăng cường năng lực lựa chọn của con người:. Năng lực của con người có thể
hiểu là trình độ tri thức, sức khỏe, trình độ thẩm mỹ, đạo đức, văn hóa… Con người có
năng lực mới có khả năng tham gia vào xã hội với tính cách như là người chủ xã hội, tạo
ra những cơ hội mới để con người tham gia vào xã hội một cách chủ động. Năng lực của
con người là điều kiện cần thiết và tất yếu để mỗi người có thể tham gia vào xã hội, để
tiếp cận với xã hội, tham gia vào xã hội.
Để tham gia vào các hoạt động xã hội, con người cần có nhiều loại năng lực như:
năng lực tham gia, năng lực tổ chức, thực hiện các công việc và năng lực hưởng thụ các
kết quả lao động, và các kết quả khác trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống. Để có
các năng lực này thì đòi hỏi con người phải có thể lực, trí lực ở mức tối thiểu và cần thiết.
Vì vậy, các hoạt động chăm sóc con người về y tế, giáo dục, văn hóa… có vai trò rất quan
trọng trong việc hình thành các năng lực cho con người, phải có một chiến lược toàn diện
về xây dựng và phát triển con người.
Quan niệm về phát triển con người bao hàm các khía cạnh chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, mục tiêu của phát triển là vì con người, vì việc nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần một cách hiệu quả, bền vững. chứ không phải là sự gia tăng đơn thuần về
mặt của cải vật chất. ở đây, tăng trưởng kinh tế chỉ là một trong những điều kiện cần, là
một phương tiện cực kỳ quan trọng để phát triển con người, song nó vẫn không phải là
mục tiêu cuối cùng của sự phát triển. Nhìn vào thực tế nhiều nước trên thế giới, ta thấy,
tăng trưởng kinh tế không đồng nhất với việc phát triển con người, bản thân sự tăng
trưởng kinh tế đã chưa hẳn kích thích sự phát triển con người mà vấn đề có ý nghĩa quyết
định, đó là vấn đề sử dụng những thành quả của tăng trưởng kinh tế để đầu tư vào cho con
người như thế nào mới là chìa khóa cho sự ổn định xã hội và phát triển con người bền
vững.
Phát triển con người là mục tiêu tối thượng của xã hội, mục tiêu đó được thể hiện
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa… nghĩa là mục
tiêu của tất cả các lĩnh vực này lấy phát triển con người là cơ sở đề ra đường lối, quy định
con đường phát triển cho nó, thể hiện tính nhân văn, nhân đạo của toàn bộ quá trình phát
triển này.
Thứ hai, phát triển con người phải được xem xét một cách toàn diện trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Cách tiếp cận này đề cập đến sự mở rộng các điều kiện,
không gian xã hội cho sự lựa chọn của con người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội, bao gồm các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, y tế… trong mối liên hệ và
tác động qua lại giữa các yếu tố này, chứ không chỉ giới hạn trên phạm vi kinh tế.
Cách tiếp cận toàn diện còn chú ý đến tất cả các tầng lớp người, không phân biệt
chủng tộc, giai cấp, tôn giáo, giới tính... nó hướng tới việc tạo ra sự bình đẳng về cơ hội
cho tất cả mọi người, đồng thời nó quan tâm đến việc phân bổ năng lực công bằng hơn
trong toàn bộ dân cư. Chính vì vậy, cách tiếp cận này chú ý đến những nhóm người thiết
yếu có số lượng đông đảo nhất trong xã hội. Ngoài ra, cần phải chú ý đến cả những lớp
người dễ bị tổn thương như người nghèo, người tàn tật, người dân tộc thiểu số, cư dân
vùng miền núi, hải đảo… để từ đó tạo điều kiện để đảm bảo các nhu cầu thiết yếu của đời
sống như ăn, ở mặc, chăm sóc sức khỏe, y tế, giáo dục cơ bản để họ có thể hòa nhập vào
cộng đồng xã hội một cách tự giác và bình đẳng với các lớp người khác trong xã hội.
Theo quan điểm toàn thể, phát triển con người phải đảm bảo tính bền vững, sự
phát triển hiện tại phải là cơ sở cho tương lai, được duy trì và nâng cao hơn từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Đó là sự quan tâm đến lợi ích của thế hệ này không được bỏ qua thế hệ
tương lai, đảm bảo các điều kiện cao hơn cho sự phát triển của thế hệ sau. Vì vậy, vấn đề
môi trường và tài nguyên cũng là một khía cạnh được đặc biệt chú ý khi xem xét sự phát
triển xã hội một cách bền vững. Quan điểm phát triển xã hội bền vững cho rằng tài nguyên
là vốn tài sản quý báu, là của cải chung của tất cả mọi người, của thế hệ hiện tại và của cả
tương lai. Quan điểm này phê phán gay gắt sự khai thác một cách bừa bãi làm cạn kiệt,
hủy hoại môi trường sống, coi thế hệ hiện tại đã vay mượn của cải của các thế hệ tương
lai. Vì vậy, việc khai thác phải gắn với việc bảo vệ và và cải tạo môi trường sinh thái như
là giữ lại phần tài sản thiết yếu cho thế hệ sau, có như thế sự phát triển hiện tại mới là cơ
sở cho sự phát triển của tương lai.
Thứ ba, phát triển con người phải do chính con người thực hiện. Con người với
tính cách là chủ thể của xã hội, phát triển con người là một quá trình nâng cao đời sống
con người về mọi mặt, để đảm bảo sự phát triển bền vững thì một mặt không chỉ mở rộng
cơ hội lựa chọn cho con người mà còn nâng cao khả năng lựa chọn của con người trong xã
hội, đến lượt nó, khi con người có năng lực cao sẽ trở thành chủ thể của chính bản thân
mình và của xã hội sẽ là lực lượng để nâng cao đời sống của chính bản thân mình.
Tuy nhiên, phát triển con người không phải là quá trình phát triển tự phát, mà Nhà
nước giữ vai trò rất quan trọng trong việc mở rộng, tạo điều kiện để người dân tham gia
tích cực, đầy đủ vào quá trình này, đó là một quá trình mang tính xã hội hóa cao với vai
trò chủ đạo của nhà nước nhằm làm hạn chế tình trạng bất bình đẳng, bất công… do sự tác
động của các yếu tố xã hội gây nên.
Tuy nhiên, ngày nay, không ít người vẫn thường bị nhầm lẫn và hiểu không chính
xác khái niệm phát triển con người theo nội dung của các quan điểm và khái niệm phát
triển dưới đây:
- Các lý thuyết về việc xây dựng vốn người và sự phát triển nguồn nhân lực, coi
con người chỉ là phương tiện để tăng thu nhập và của cải chứ không phải là mục đích. Các
lý thuyết này xem con người chỉ như là đầu vào của quá trình sản xuất xã hội.
- Quan điểm quá chú trọng nhu cầu cơ bản theo hướng tập trung vào một tập hợp
hàng hóa và dịch vụ để đáp ứng những nhu cầu cho những tầng lớp dân cư thiếu thốn
lương thực, thực phẩm, quần áo, nước sạch... Quan điểm này tập trung vào việc đảm bảo
có được các hàng hóa, dịch vụ cho con người hơn là sự tác động của chúng đến khả năng
lựa chọn của con người, tức là chưa thực sự xem con người với tính cách như là chủ thể
của việc nâng cao đời sống cho bản thân họ.
- Các quan điểm quá chú trọng phúc lợi xã hội lại xem xét con người chỉ là những
chủ thể hưởng lợi ích hơn là những yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất.
Như vậy, theo UNDP, mục tiêu của mọi sự tăng trưởng, phát triển về mặt xã hội là
sự phát triển con người, phát triển con người là thước đo đánh giá mọi quan điểm, chính sách
của các quốc gia. Phát triển con người là một quá trình phát triển toàn diện; tính toàn diện
được thể hiện cả về mặt không gian, thời gian, cả về mặt vật chất lẫn tinh thần của phát
triển con người. Đó là một quá trình do người dân thực hiện, với tính cách, phát triển con
người là sự nghiệp của con người, do con người và vì con người, trong đó nhà nước giữ vai
trò quan trọng đảm bảo cho sự phát triển bền vững. Với quan điểm coi con người là mục
tiêu tối thượng của mọi sự phát triển, quan điểm phát triển con người của UNDP, về cơ
bản, thể hiện tính nhân văn, nhân đạo trong thời đại ngày nay.
Phát triển con người, theo UNDP, là sự nâng cao năng lực lựa chọn của con người
trong xã hội, để nâng cao năng lực đó thì điều quan trọng là phải đảm bảo các điều kiện xã
hội cho việc sử dụng những năng lực của con người. Nó không chỉ thể hiện trong quan
điểm, điều ước của UNDP, của các quốc gia, mà phải thể hiện bằng những hành động cụ
thể của các quốc gia theo tùy theo đặc điểm riêng của các quốc gia đó. Tuy nhiên, để đề ra
một chiến lược phát triển con người một cách đúng đắn đảm bảo sự phát triển con người
có hiệu quả và bền vững, theo UNDP phải cần có công cụ làm thước đo điều tra, đánh giá.
Trên cơ sở các kết quả có được, mỗi chính phủ xây dựng chiến lược phát triển con người,
vừa phát huy được năng lực con người của dân tộc mình, vừa đảm bảo các yêu cầu về
phát triển con người trong thế giới hiện đại đáp ứng nhu cầu hội nhập và phát triển.
Để đánh giá trình độ phát triển con người, UNDP sử dụng ba chỉ số cơ bản (là tập
hợp của hàng trăm chỉ số thành phần) đó là tuổi thọ, giáo dục và mức sống, đó là những
"chỉ số phát triển con người" (Human Development Index- HDI)
HDI là giá trị trung bình của 3 chỉ tiêu:
- Khả năng sống lâu, đo bằng tuổi thọ trung bình của cộng đồng.
- Trình độ giáo dục, tính tổng hợp theo tỷ lệ biết chữ của người lớn và tỷ lệ đi học
tiểu học, trung học và đại học.
- Mức sống, đo bằng giá trị GDP tính bình quân đầu người thực tế theo sức mua
tương đương (Purchasing Power Parity - PPP)
* Cách tính chỉ số HDI
HDI được xây dựng trên cơ sở thiết lập giới hạn cận trên và cận dưới phù hợp với
trạng thái phát triển con người toàn cầu, HDI chỉ nhận giá trị trong khoảng từ 0 đến 1. Chỉ
số HDI của quốc gia nào càng lớn thì trình độ phát triển con người càng cao và ngược lại.
Để tính được chỉ số HDI cần phải tính trước chỉ số của từng thành phần. Quy tắc
chung để tính chỉ số của từng thành phần là các giá trị tối thiểu và tối đa cho từng chỉ số
áp dụng công thức:
Chỉ số thành phần =
Giá trị thực - Giá trị tối thiểu
Giá trị tối đa - giá trị tối thiểu
Các giá trị biên để tính chỉ số HDI:
Chỉ tiêu Giá trị tối đa Giá trị tối thiểu
Tuổi thọ (năm) 85 25
Tỷ lệ người lớn biết chữ (%) 100 0
Tỷ lệ nhập học các cấp giáo dục (%) 100 0
GDP thực tế đầu người (PPP USD) 40.000 100
HDI được thiết lập ở giới hạn cận trên và cận dưới cho từng chỉ số và chỉ ra vị trí
hiện tại của từng quốc gia trong các giới hạn đó, nó được thể hiện bằng một con số từ 0
đến 1. Do tỷ lệ người biết chữ của người trưởng thành tối thiểu là 0%, tối đa là 100%,
điểm của trình độ hiểu biết đối với một quốc gia có tỷ lệ người biết chữ 75% sẽ là 0,75.
Tương tự như vậy, tuổi thọ tối thiểu là 25 và tối đa là 85 năm, do đó, một quốc gia có tuổi
thọ trung bình là 55 năm có số điểm sẽ là 0,5. Đối với thu nhập, mức tối thiểu là 100 USD
và tối đa là 40.000 USD (theo phương pháp sức mua tương đương - PPP). Mức thu nhập
cao hơn mức trung bình của thế giới được điều chỉnh theo phương pháp chiết khấu gia
tăng. Chỉ số tổng hợp sẽ là giá trị trung bình của các điểm số của ba yếu tố trên.
Tuy nhiên, như chúng ta thấy, HDI còn là một chỉ số tương đối đơn giản, không
phản ánh hết tính phong phú, đến tất cả các khía cạnh của sự phát triển con người. Nó mới
quan tâm đến ba khía cạnh của đời sống con người (thu nhập, giáo dục và tuổi thọ), do đó,
nó chưa đầy đủ và còn bỏ qua khá nhiều khía cạnh có liên quan đến chất lượng sống của
con người như chính trị, văn hóa, môi trường sống, an ninh xã hội… Cũng giống như
GDP, HDI chỉ là chỉ số đánh giá trung bình, nên nó che lấp các khía cạnh, hay nói chính
xác hơn, nó không đề cập được đến đầy đủ các khía cạnh như: sự bất bình đẳng, sự phân
chia giữa các vùng, miền, dân tộc, giới tính...
HDI mới chỉ là một phương pháp đo mang tính định lượng với những chỉ số giản
đơn chứ chưa đề cập được đến các yếu tố về chất lượng, sự khác biệt về trình độ giữa các
quốc gia, khu vực. Ví dụ: trình độ giáo dục thực ra không chỉ thể hiện bằng tỉ lệ biết chữ
hay số năm đi học mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như chất lượng giáo dục, khả
năng và cơ hội của người học, đặc biệt là người học ở giáo dục bậc cao. Ngay cả nếu xác
định về tỷ lệ người đi học hay người biết chữ đến trình độ nào thì đã có sự khác biệt giữa
các vùng, miền, dân tộc, các nhóm người trong một quốc gia chứ chưa nói đến sự khác
biệt giữa các quốc gia có trình độ phát triển khác nhau.
Hay ở khía cạnh thu nhập quốc dân chẳng hạn, ta thấy sự khập khiễng giữa các
vùng, các quốc gia, cho nên khó có thể khẳng định thu nhập ở quốc gia này thấp mà đời
sống vật chất của con người không đảm bảo, hay ở nước mà thu nhập cao chưa hẳn đã đáp
ứng được những nhu cầu thiết yếu về mặt vật chất, giáo dục, hay y tế… Điều này phụ thuộc
vào rất nhiều yếu tố như: đời sống kinh tế của khu vực, quốc gia đó, vào sự công bằng xã
hội, an ninh xã hội, vào sự quan tâm vào con người đến mức nào của chính phủ các quốc
gia…
HDI là chỉ số đánh giá trình độ phát triển con người bằng phép tính trung bình của
ba chỉ số: thu nhập, giáo dục và tuổi thọ. Điều này có nghĩa, nếu như một trong ba chỉ số
này biến đổi thì nó cũng làm cho biến đổi giá trị chỉ số HDI. Nếu xem xét sự tiến bộ đạt
được trong phát triển con người mà chỉ căn cứ vào phép tính trung bình của 3 chỉ số này
sẽ khập khiễng, không chính xác. Khi đánh giá những thành tựu về phát triển con người
của các quốc gia, đòi hỏi, phải xem xét mức đầu tư của các quốc gia cho giáo dục, y tế và
các khía cạnh khác cho con người đạt được hiệu quả như thế nào. Thực tế, nhiều quốc gia
có thu nhập quốc dân cao nhưng số người đi học ít, hay việc chăm sóc sức khỏe của người
dân không được quan tâm, hay ngược lại có quốc gia thu nhập quốc dân thấp nhưng chỉ số
về tuổi thọ hay giáo dục lại cao… Vì vậy, việc xếp hạng chỉ số phát triển con người giữa
các quốc gia trên thế giới dù có đánh giá được sự phát triển, song nó chỉ mang tính tương
đối.
Để đánh giá sự phát triển con người thực ra phải cần rất nhiều tiêu chí, bởi sự phát
triển con người là sự phát triển, nâng cao về mọi mặt của đời sống con người, nó do nhiều
yếu tố tác động. Vì vậy, khi xem xét, đánh giá sự phát triển con người cần phải xem xét tất
cả các mặt trong mối quan hệ tương tác với nhau, bởi sự phát triển về kinh tế chưa hẳn đã
tương đồng với sự phát triển về văn hóa và hơn nữa, các mặt của đời sống xã hội như
chính trị, văn hóa, dân tộc… trong xã hội là không đồng đều nhau, chưa hẳn các nước có nền
kinh tế phát triển cao mà đời sống văn hóa con người đã được nâng lên, hay sự mất ổn
định chính trị, xã hội, sự phân biệt chủng tộc… cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến sự
phát triển của con người. Chỉ số HDI vẫn chưa thể đánh giá một cách toàn diện trình độ
phát triển con người ở từng quốc gia trên thế giới cũng như để so sánh trình độ phát triển
con người giữa các quốc gia với nhau.
Tuy nhiên, HDI là thước đo tương đối tổng hợp, với tính ưu việt của nó, công cụ
này đã vượt qua khỏi khía cạnh kinh tế thuần túy về sự phát triển xã hội, bổ sung cho thước
đo GDP mặc dù là quan trọng nhưng còn phiến diện và sai lệch. Có thể nói, với công cụ HDI,
việc đánh giá về thành tựu phát triển kinh tế, xã hội trở nên toàn diện hơn và phản ánh chân
thực hơn về mục tiêu phát triển của các quốc gia. Theo thời gian, HDI không chỉ phản ánh
trạng thái và những tiến bộ về phát triển con người, mà còn là căn cứ để đảng và nhà nước
các quốc gia lựa chọn và đề ra mục tiêu, chính sách phát triển kinh tế, xã hội.
Đặc biệt, trong quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế thế giới hiện nay, thì phát
triển con người là một yêu cầu cơ bản và lâu dài cho tất cả các quốc gia và cả nhân loại
nói chung. Quá trình hội nhập kinh tế thế giới đòi hỏi phải có một mặt bằng chung về trình
độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội… Nếu không nâng cao trình độ về mọi mặt cho tất
cả mọi người thì quá trình hội nhập, toàn cầu hóa sẽ vì lợi ích của một nhóm người giàu
có, sự hội nhập sẽ không thể đảm bảo sự vững chắc trong một thế giới năng động như hiện
nay, sẽ không đảm bảo được sự tiến bộ chung trong quá trình lịch sử nhân loại. Vì vậy,
HDI đến nay được coi là bộ công cụ hữu hiệu nhất để đánh giá trình độ phát triển con
người của các quốc gia, để từ đó, các quốc gia tự đánh giá trình độ phát triển của nước
mình và xây dựng những chính sách, chiến lược phát triển con người cho phù hợp với sự
phát triển, tiến bộ chung của nhân loại.
Sự phát triển con người bao hàm rất nhiều khía cạnh, khi đánh giá sự phát triển đó
cần phải tính đến đầy đủ các yếu tố của nó. Để khắc phục những hạn chế của công cụ HDI
trong việc vận dụng nó vào đánh giá trình độ phát triển con người ở các quốc gia trên thế
giới, UNDP sử dụng các HDI chi tiết như: GEM - Số đo quyền lực giới tính; GDI - Chỉ số
phát triển giới tính; HPI - Chỉ số nghèo khổ… như là sự bổ sung cho việc đánh giá trình
độ phát triển con người ở các quốc gia.
Một trong những điều kiện phát triển con người là phải đảm bảo sự công bằng,
xóa bỏ sự bất bình đẳng về giới, đây là một trong những khía cạnh mà UNDP quan tâm.
Theo thống kê, hầu hết các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia ở châu á, châu Phi, phụ nữ
thường chịu thiệt thòi hơn so với nam giới trong việc tiếp cận với các cơ hội trong xã hội
và nâng cao năng lực phát triển của mình. Phụ nữ thường có ít quyền hành hơn, họ ít được
nghỉ ngơi, hưởng thụ hơn, ít được tham gia vào xã hội hơn… Họ phải lao động, cống hiến
nhiều hơn so với nam giới. Họ có vai trò rất to lớn trong việc phát triển con người, đó là
việc việc nuôi dạy con cái, quản lý, chăm sóc các thành viên trong gia đình… Tuy nhiên,
các hoạt động này thường không được đánh giá một cách đúng đắn. Vì vậy, đòi hỏi phải
đảm bảo sự bình đẳng cho quá trình phát triển con người. Để đánh giá sự bình đẳng đó,
UNDP sử dụng Chỉ số phát triển giới tính (Gender Development Index - GDI) và Số đo
quyền lực giới tính (Gender Empowerment Measure - GEM). GDI cũng xem xét các yếu
tố phản ánh sự phát triển con người như sức khỏe, giáo dục, thu nhập, nhưng nó gắn với
sự bất bình đẳng giữa nam giới và nữ giới để đánh giá. HDI sẽ bị chiết khấu đi khi có sự
chênh lệch về giới tính, nếu mức độ sự bất bình đẳng giữa nam giới và nữ giới càng cao
thì sự chênh lệch giữa HDI và GDI càng lớn. GDI muốn đánh giá sự mở rộng năng lực
giữa nữ giới và nam giới, còn GEM đánh giá mức độ tham gia của nữ giới vào các quá
trình của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa. Nó phản ánh sự tiến bộ trong quá
trình giải phóng phụ nữ hiện nay. Tuy nhiên, để đánh giá được các khía cạnh này là vấn đề
rất phức tạp, không phải lúc nào các quốc gia cũng làm được, vả lại việc đánh giá nó cũng
mang tính tương đối cao.
Một nội dung có thể gọi là quan trọng bậc nhất trong chiến lược phát triển con
người của UNDP là vấn đề xóa đói, giảm nghèo, nhằm đảm bảo các nhu cầu tối thiểu cho
số đông người dân trong xã hội đang rơi vào tình trạng nghèo đói (đặc biệt là đối với các
nước chậm và đang phát triển), họ là những người ít được hưởng lợi nhất trong quá trình
toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế thế giới hiện nay. Chỉ số nghèo khổ tổng hợp (Human
Poverty Index - HPI) là thước đo đánh giá những kết quả đạt được trên lĩnh vực này. Quan
niệm về nghèo khổ theo UNDP không chỉ là sự đói kém về lương thực, thực phẩm, tính
theo thu nhập, mà chỉ số HPI được xây dựng trên ba yếu tố của HDI phản ánh theo mức
độ nghèo đói về phương diện năng lực của con người: đó là tuổi thọ, đo bằng tỷ lệ người
chết trước 40 tuổi, kiến thức đo bằng tỷ lệ số người trưởng thành mù chữ, mức sống được
tính trên cơ sở tổng hợp các yếu tố như tỉ lệ số người có khả năng tiếp cận với các dịch vụ
y tế cơ bản, tỷ lệ người dân dùng nước sạch và tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng.
Như vậy, việc sử dụng các HDI chi tiết ở phạm vi quốc gia và dưới cấp quốc gia
nằm chỉ ra sự bất bình đẳng và sự chênh lệch giữa các vùng, giới tính, giữa các khu vực
thành thị và nông thôn, giữa các nhóm dân tộc. Sử dụng các HDI chi tiết sẽ giúp các quốc
gia, các tỉnh, thành phố xác định đường lối, chính sách và thực hiện nhằm khắc phục sự
bất bình đẳng và sự chênh lệch về trình độ phát triển mọi mặt của xã hội.
Để đánh giá trình độ phát triển con người, xây dựng bức tranh chung cho quá
trình phát triển con người, UNDP đã bổ sung các chỉ tiêu đánh giá từng khía cạnh cụ thể
hơn của đời sống như vấn đề môi trường, văn hóa, ổn định chính trị, tệ nạn xã hội…
những tiêu chí này cho phép bổ sung và phối hợp với các tiêu chí khác sẽ đảm bảo đánh
giá một cách khá toàn diện về sự phát triển con người ở các quốc gia.
Kết luận chương 1
Vấn đề giải phóng, phát triển con người được nhiều nhà triết học trước C.Mác và
các nhà triết học hiện đại bàn đến, song do hạn chế bởi lịch sử, bởi lập trường giai cấp,
vấn đề này chưa được xem xét với tính cách như là nhu cầu của thực tiễn phát triển con
người, chưa được xem xét với tính cách là mục tiêu của mà nhân loại tiến bộ cần hướng
tới. Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời, đặt con người vào vị trí trung tâm trong học thuyết của
mình, các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, cần phải khắc phục mọi sự tha
hóa con người, giải phóng họ khỏi mọi sự áp bức, bóc lột của chế độ tư bản. Đây là điều
kiện tiên quyết để phát triển con người. Muốn thực hiện được mục tiêu giải phóng, phát
triển con người, giai cấp công nhân và nhân dân lao động phải tiến hành cuộc cách mạng
vô sản, lật đổ chế độ tư bản, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện và phát huy
vai trò làm chủ cho con người. Xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa là xây dựng chế độ xã
hội cho nhân dân lao động vì sự phát triển lâu dài của chính bản thân con người về mặt cá
nhân cũng như về mặt xã hội. Mặc dù, C.Mác và Ph.Ăngghen chưa xây dựng một khái
niệm hoàn chỉnh, song, vấn đề phát triển con người đã được các ông xem như là mục tiêu
cao nhất của xã hội cộng sản.
Với việc lấy con người là trung tâm của mọi sự phát triển, các chuyên gia của
UNDP đã xây dựng một quan niệm mới về phát triển con người một cách chi tiết, mang
tính hệ thống, phát triển con người là sự mở rộng các cơ hội lựa chọn cho con người và
phát huy năng lực của con người trong xã hội. Chương trình này đã lấy phát triển con
người làm thước đo đánh giá tiến bộ xã hội, là mục tiêu tối thượng của xã hội và của nhân
loại hướng tới. Có thể nói, quan niệm phát triển con người của UNDP đã được nhận thức
một cách khá cụ thể, với bộ công cụ HDI, nó đã mở ra một bước ngoặt trong nhận thức
đánh giá sự phát triển con người, là thước đo đánh giá những giá trị mà nhân loại đạt được
trong thời đại ngày nay.
Với việc nhận thức và bằng những chương trình hành động của mình, UNDP đã
có nhiều đề xuất cho chính phủ các quốc gia trên thế giới trong việc đề ra các chính sách
phát triển con người. Có thể coi những quan niệm về phát triển con người của UNDP là
một sự nhận thức mới về phát triển con người trong thời đại mới với những giá trị tiến bộ
mang tính toàn cầu rõ rệt. Những quan điểm này là cơ sở lý luận, là công cụ cho các quốc
gia trên thế giới nhận thức và điều chỉnh đường lối chính sách của mình, đảm bảo cho sự
phát triển hiệu quả, bền vững theo chiều tiến bộ vì sự phát triển của con người trong quốc
gia mình và của nhân loại nói chung.
Chương 2
Thực trạng phát triển con người
và một số giải pháp cơ bản để phát triển con người
ở Việt Nam hiện nay
2.1. Thực trạng phát triển con người ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Quan điểm của Đảng về phát triển con người
2.1.1.1. Quan điểm của Đảng về phát triển con người trước thời kỳ đổi mới
Ngay từ khi mới ra đời, mặc dù phải đặt nhiệm vụ hàng đầu là chống đế quốc,
phong kiến giành độc lập cho dân tộc, Đảng ta vẫn đã đề ra mục tiêu giải phóng, phát triển
con người. Trong "Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt", Đảng ta xác định con đường
cách mạng Việt Nam là con đường "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới chủ nghĩa cộng sản" với mục tiêu là "làm cho nước An Nam được độc lập",
con người được giải phóng, "đem lại quyền tự do cho con người"…
Nhận thức được mục tiêu lâu dài, mục tiêu cuối cùng của cách mạng là giải phóng
con người, quan niệm của Đảng về giải phóng, phát triển con người được thể hiện trong
các văn kiện đại hội qua các thời kỳ. Tất nhiên, khái niệm về phát triển con người chưa
được Đảng nói tới, song nội hàm của khái niệm này đã được thể hiện trong quan điểm,
đặc biệt trong quá trình chỉ đạo thực hiện, hành động của Đảng và Nhà nước trong các thời
kỳ cách mạng.
Trong Bản "Tuyên ngôn độc lập" khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa,
Hồ Chủ tịch đã khẳng định một quan điểm bất hủ về giải phóng con người với tính cách là
điều kiện cho sự phát triển con người: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng,
tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc" [28, tr. 555].
Ngay sau khi Đảng và nhân dân giành được chính quyền, mặc dù, bộ máy chính
quyền non trẻ vừa mới được ra đời đã phải đối mặt với nhiều kẻ thù, còn trong vòng vây
của đế quốc, thực dân, Đảng và Bác Hồ đã nhận thức và xác định vai trò và mục tiêu của
giải phóng và phát triển con người. Năm 1945, Chính phủ đã ban bố và thi hành nhiều sắc
lệnh về giáo dục (phong trào bình dân học vụ) về y tế, về văn hóa, về khắc phục tình trạng
đói nghèo… đã tạo điều kiện, "cơ hội" phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời
nâng cao đời sống mọi mặt để nhân dân có đủ năng lực để tham gia vào cải tạo, xây dựng
nền kinh tế, xã hội mới nhằm nâng cao đời sống của mình.
Vì vậy, điều quan trọng nhất trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp là phải vừa
kháng chiến, vừa kiến quốc. Thực hiện cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nhằm mục
tiêu giải phóng dân tộc, là cơ sở để giải phóng, phát triển con người; việc thực hiện nhiệm
vụ kiến quốc, một mặt, để phát huy lực lượng tổng hợp, tạo sức mạnh để chiến thắng kẻ
thù xâm lược, mặt khác nhằm mục tiêu cải thiện đời sống nhân dân. Để thực hiện được
nhiệm vụ cải thiện đời sống nhân dân trước tiên phải phát triển kinh tế ở các địa phương,
nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; phải tiến hành cuộc cải cách
ruộng đất, đưa ruộng đất về tay nhân dân ("thổ địa cách mạng"), thực hiện quốc hữu hóa
các doanh nghiệp, đưa nhân dân trở thành người chủ về mặt kinh tế.
Cùng với việc cải tạo và xây dựng đời sống vật chất cho nhân dân, Đảng tiến hành
cuộc cách mạng về văn hóa, tư tưởng; nhiệm vụ chủ yếu của nó là nâng cao đời sống văn
hóa và tinh thần cho nhân dân, đó là một nền văn hóa mang tính "dân tộc, khoa học và đại
chúng", tức là một nền văn hóa hiện đại trên cơ sở kế thừa, phát huy các giá trị của văn
hóa truyền thống, đó là nền văn hóa lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng,
mang bản chất của giai cấp công nhân, một nền văn hóa của nhân dân do nhân dân và vì
sự giải phóng của nhân dân lao động nhằm thực hiện mục tiêu cuối cùng là nâng cao đời
sống văn hóa, tinh thần cho nhân dân lao động.
Trong thời kỳ đất nước bị chia cắt làm hai miền, ở miền Bắc, Đảng lãnh đạo nhân
dân thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiến hành ba cuộc cách mạng (cách
mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng văn hóa). Tư tưởng
tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng đó nhằm xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã
hội, xây dựng quan hệ sản xuất mới và nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu cao
nhất của các cuộc cách mạng đó là giải phóng nâng cao đời sống về vật chất và tinh thần
cho con người.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, giải phóng con người là do chính
nhân dân thực hiện, là sự nghiệp lâu dài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Kế
thừa và phát triển quan điểm này, Đảng ta cho rằng, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội phải "xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa", phát huy quyền làm chủ tập
thể, đây là một nội dung quan trọng để nâng cao vị trí, phát huy vai trò của nhân dân lao
động trong sự nghiệp giải phóng con người. Một khi, quyền làm chủ của nhân dân đã
được thực hiện, sẽ là cơ sở cho việc nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân và thông
qua đó, vai trò của nhân dân ngày càng được nâng cao, trở thành động lực cho sự phát
triển của chính bản thân họ. Như vậy, phát huy quyền làm chủ vừa là mục tiêu, vừa là
động lực trong sự nghiệp giải phóng, phát triển con người xã hội chủ nghĩa.
Đảng và Bác Hồ xác định, chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ xã hội của con
người, do con người và vì con người, vì sự phát triển của chính bản thân con người. Mục
đích của cuối cùng của chủ nghĩa xã hội là: "Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động" [29, tr. 271]. Vì vậy, trong thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ, nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa miền Bắc giữ vai trò
quyết định nhất trong công cuộc giải phóng đất nước. Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc, một mặt, nhằm cung cấp sức người, sức của cho giải phóng miền Nam, song
mặt khác, mục tiêu cao nhất của cách mạng miền Bắc là xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân lao động, tức là giải phóng và phát triển
con người. Chế độ dân chủ mới bắt đầu được phát, những điều kiện sinh hoạt trong đời
sống xã hội được mở rộng, nhân dân tham gia tích cực vào công cuộc xây dựng đất nước,
Để thực hiện được mục tiêu đó, phải "xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ
nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới, xây dựng
con người mới xã hội chủ nghĩa; xỏa bỏ chế độ người áp bức bóc lột người, xóa bỏ nghèo
nàn và lạc hậu" [7, tr. 67]
Như vậy, ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã quan tâm đến vấn đề con người, đến
sự nghiệp xây dựng và phát triển con người mới xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng đó được thể
hiện nay trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, được thể hiện trong các văn kiện và sự chỉ
đạo thực hiện của Đảng trong các thời kỳ cách mạng. Đặc biệt, ngay sau khi Đảng và nhân
dân giành được chính quyền, mặc dù còn vô vàn khó khăn, nhưng Đảng và Nhà nước ta
vẫn đặt ưu tiên cho phát triển con người bằng các sắc lệnh, chương trình lương thực, giáo
dục, văn hóa, xã hội… Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh
giải phóng miền Nam, tư tưởng tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng là nhằm xây dựng
chủ nghĩa xã hội với mục tiêu cao nhất là đưa nhân dân trở thành người chủ xã hội, giải
phóng và phát triển con người toàn diện con người. Tuy nhiên, trong thời kỳ từ 1975 -
1985, do kéo dài quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, quá nhấn mạnh mặt xã hội
của con người nên đã không tạo đầy đủ các điều kiện, cũng như không phát huy đầy đủ
khả năng của con người trong xã hội.
2.1.1.2. Quan niệm của Đảng ta về phát triển con người trong thời kỳ đổi
Đại hội VI của Đảng mở ra đường lối đổi mới con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường, thay
đổi những nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, trong đó vấn đề con người
luôn là sự quan tâm của Đảng, những chính sách xã hội nhằm phát huy vai trò của con
người, chính sách xây dựng và đào tạo con người được thể hiện ngày càng sâu sắc hơn.
Việc chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa đa dạng về hình thức sở hữu đã giải
phóng được sức sản xuất của xã hội, phát huy sức mạnh tổng hợp, tạo điều kiện để phát
huy sức sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, từ đó, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân lao động.
Tư tưởng phát triển con người được Đảng ta nhận thức sâu sắc hơn trong "Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội", Đảng ta khẳng định,
chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ xã hội "do nhân dân lao động làm chủ", "Con người
được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân" [10, tr. 9].
Quan niệm về phát triển con người của Đảng trong thời kỳ này không chỉ bao gồm khía
cạnh về những điều kiện cho phát triển con người, tạo những cơ hội cho con người phát
triển mà còn bao gồm mặt thứ hai của phát triển con người, đó là nâng cao năng lực cho
con người trong xã hội, có nghĩa là xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng một xã hội mà
con người có đủ các điều kiện để phát triển và nhằm mục tiêu giải phóng xã hội, "phát
triển toàn diện" con người. Quan niệm này được coi là cơ sở cho Đảng, Nhà nước, các cơ
quan đoàn thể và nhân dân nhận thức mục tiêu cao cả mang tính nhân văn, nhân đạo sâu
sắc về mục tiêu phát triển con người trong thời đại mới.
Đảng ta xác định, con người là động lực của sự phát triển kinh tế, xã hội, là mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội là vì con người, vì sự giải phóng
và phát triển của chính bản thân con người. Vì vậy, nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ
là thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nằm mục tiêu cải thiện đời sống nhân dân, tăng
trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội bảo vệ môi trường sinh thái, xóa
đói giảm nghèo, xóa bỏ tình trạng bất bình đẳng xã hội, nâng cao đời sống văn hóa, giáo
dục, y tế cho nhân dân
Đặt con người vào vị trí trung tâm, phát triển con người là mục tiêu của Đảng,
Nhà nước và của xã hội nói chung, mọi chính sách của Đảng và Nhà nước đều tập trung
vào mục tiêu phát triển toàn diện con người xét cả về mặt cá nhân cũng như về mặt xã hội.
Trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội", Đảng ta
khẳng định: "Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc của con người, là động lực to
lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội" [10, tr. 13]
Xuất phát từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn nước ta, Hồ Chủ tịch
cho rằng: "Muốn có chủ nghĩa xã hội thì phải xây dựng con người xã hội chủ nghĩa". Con
người xã hội chủ nghĩa ở đây là động lực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì
"nguồn lực quý báu nhất, có vai trò quyết định nhất là con người Việt Nam; là sức mạnh
nội sinh của chính dân tộc Việt Nam" [12, tr. 93]. Ngược lại, muốn có con người xã hội
chủ nghĩa thì quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội phải chú ý đến đào tạo, xây dựng con
người, phải quan tâm đến "đầu tư cho con người", với kế hoạch đầu tư cho chính sự phát
triển về nhân cách, trí tuệ, tình cảm, niềm vui và hạnh phúc của mỗi người dân, mỗi gia
đình. Tuy nhiên, việc đầu tư đó không chỉ giải quyết những vấn đề trước mắt mà phải chú
ý đến tương lai, tức thế hệ mai sau. Có như vậy, mới đảm bảo sự phát triển nhanh và bền
vững, sự phát triển ngày hôm nay mới tạo đà cho sự phát triển trong tương lai.
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là xóa bỏ sự áp bức, bóc lột, bất công, thực hiện sự
công bằng bình đẳng, hạnh phúc và văn minh cho con người, trong đó sự công bằng, bình
đẳng là mục tiêu đồng thời là động lực cho sự phát triển con người. Vì vậy, tại Đại hội
VIII, Đảng ta khẳng định:
Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể
hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả
sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử
dụng tốt năng lực của mình [11, tr. 113].
Đây là một quan điểm đánh giá rất toàn diện về sự phát triển con người, nó bao
hàm cả khía cạnh tạo những điều kiện xã hội cho con người phát triển, bao hàm cả khía
cạnh nâng cao "năng lực", vai trò của con người trong xã hội với tính cách phát triển con
người là vì con người và do con người thực hiện, trong đó Đảng giữ vai trò lãnh đạo đảm
bảo cho sự phát triển bền vững, toàn diện cho con người.
Phát triển con người là mục tiêu của xã hội, là thước đo đánh giá sự người dễ bị
tổn thương lại những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta xây dựng; khẳng định
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội nước ta là "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh"; khẳng định, lấy chỉ số HDI làm thước đo về trình độ phát triển xã hội,
làm công cụ đánh giá sự phát triển của con người Việt Nam. Trong "Báo cáo tổng kết một số
vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006)", vấn đề phát triển con người
đã được đánh giá tích cực qua tổng kết thực hiện mục tiêu của phát triển con người trong
giai đoạn 2001-2010 là "nâng lên đáng kể chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta…
Chất lượng đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần được nâng lên rõ rệt trong môi trường an
toàn, lành mạnh; môi trường tự nhiên được bảo vệ và cải thiện" [13, tr. 160]
Từ năm 1986, kể từ khi Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI ra đời, vấn đề phát
triển con người đã được Đảng ta nhận thức ngày càng rõ ràng hơn, đường lối của Đảng,
chính sách của Nhà nước đã ngày càng đảm bảo tính định hướng rõ hơn nhằm mục tiêu
phát triển con người. Những thành quả cách mạng trong thời gian vừa qua có thành quả
lớn nhất mang tính nhân văn nhân đạo sâu sắc là thành quả về phát triển con người. Vận
dụng sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp
thu những thành quả của nhân loại trong nhận thức về phát triển con người và những kinh
nghiệm của thế giới trong việc phát triển con người, Đảng ta đã lãnh đạo dân tộc tiến hành
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế nâng cao đời sống
mọi mặt cho con người Việt Nam. Những thành quả mà chúng ta đạt được trong những
năm vừa qua thể hiện tính đúng đắn, ưu việt của Đảng và của chế độ ta trong quá trình
lãnh đạo và trong hoạt động thực tiễn. Trong "Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận -
thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006)", quan điểm về phát triển con người được lần
nữa Đảng ta khẳng định và đề cao thể hiện tư tưởng cơ bản lấy con người làm trung tâm
của sự phát triển, là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở nước ta:
Khẳng định con người là vốn quý nhất, phát triển con người với tư cách vừa là
động lực vừa là mục tiêu của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới đất nước; gắn vấn đề
nhân tố con người với tinh thần nhân văn nhằm tạo điều kiện cho con người phát triển
toàn diện, sống trong một xã hội công bằng và nhân ái, với những quan hệ xã hội lành
mạnh. Con người và sự phát triển con người được đặt vào vị trí trung tâm của chiến lược
kinh tế - xã hội, mở rộng cơ hội, nâng cao điều kiện cho con người phát triển [14, tr. 79].
Như vậy, ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta luôn coi trọng vấn đề con người và phát
triển con người, khẳng định mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là vì sự giải phóng của con
người. Trong các thời kỳ cách mạng, dù trong những thời kỳ khó khăn, gay go, quyết liệt,
Đảng ta luôn chú trọng đến nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Nhờ có
đường lối đúng đắn về phát triển con người, Đảng đã lãnh đạo nhân dân thực hiện thành
công cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước,
đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, ngày càng tạo những điều kiện thuận lợi cho phát
triển con người. Ngày nay, trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, trong xu
thế hội nhập quốc tế, vấn đề phát triển con người được Đảng ta nhận thức ngày càng đầy
đủ hơn và sâu sắc hơn, đường lối đó được thể hiện cụ thể trong các văn kiện của Đảng,
trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội, trong giáo dục, y tế… Với sự thừa nhận công cụ
HDI là bộ công cụ hữu hiệu để đánh giá sự phát triển con người, với sự giúp đỡ của
UNDP, các báo cáo phát triển con người được chính phủ nước ta tổng kết thường xuyên
nhằm đánh giá thực trạng phát triển con người ở Việt Nam và từ đó rút ra những giải
pháp cho sự phát triển con người Việt Nam toàn diện và bền vững.
Quan niệm của Đảng, coi con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát
triển kinh tế, xã hội và của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung là kết quả của
sự vận dụng sáng tạo những quan điểm về chủ nghĩa xã hội, về giải phóng, phát triển con
người của chủ nghĩa Mác - Lênin. Quan niệm này về cơ bản là đồng nhất với quan niệm
của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) về phát triển con người. Theo chúng
tôi, định nghĩa sau đây phản ánh tương đối toàn diện về phát triển con người:
Phát triển toàn diện con người là khắc phục tình trạng tha hóa, phát
triển toàn diện hài hòa, cân đối trí tuệ và thể lực, đức và tài, phát triển cá tính và
sự phong phú của con người, phát triển một cách tự do, đầy đủ và làm chủ,
thích ứng với sự di động chức năng xã hội của con người [16, tr. 32-33].
Định nghĩa này đã làm sáng tỏ nội hàm của khái niệm phát triển con người, đồng
thời, giúp chúng ta có cơ sở để thấy được sự khác nhau giữa quan niệm về phát triển con
người với quan niệm về phát triển nguồn nhân lực hay nguồn vốn con người. Sự khác
nhau giữa các khái niệm này là ở chỗ, phát triển nguồn nhân lực được nhìn nhận là nguồn
lực quan trọng nhất trong các nguồn lực, còn phát triển con người là mục tiêu chứ không
phải là phương tiện của sự phát triển kinh tế, xã hội.
Trong thời đại ngày nay, thời đại của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, đặc
biệt là với sự phát triển nhanh của công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, con người dễ
lâm vào tình trạng phát triển phiến diện. Vì vậy, phát triển con người phải được thực hiện
một cách toàn diện. Phát triển con người, ngoài những mặt, những phẩm chất như: đức,
trí, thể, mỹ, cũng cần phải quan tâm phát triển những yếu tố khác, nhất là khả năng thích
ứng với sự phát triển và đòi hỏi ngày càng cao của thực tiễn.
2.1.2. Những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của sự phát triển con người
ở nước ta hiện nay
* Những lưu ý khi đánh giá những thành tựu và hạn chế về phát triển con người ở
nước ta
Phát triển con người mang tính lịch sử cụ thể, tùy theo đặc điểm về kinh tế - xã
hội của mỗi quốc gia mà đánh giá. Chỉ số HDI là công cụ chuẩn để đánh giá trình độ phát
triển con người mang tính quốc tế, mặc dù có nhiều ưu điểm vượt trội, song nó không thể
đánh giá đầy đủ các khía cạnh về phát triển con người. Sự phát triển con người còn phụ
thuộc vào các yếu tố dân tộc, chế độ xã hội, đôi khi cả yếu tố văn hóa và bao hàm nhiều
yếu tố khác.
Chỉ số phát triển con người là phép tính trung bình của 3 chỉ số đánh giá về thu
nhập, tuổi thọ và giáo dục. Vì vậy, nếu một trong 3 chỉ số thay đổi cao cũng có thể làm
thay đổi kết quả của chỉ số phát triển con người. Ví dụ như trường hợp của Cộng hòa
Gunia (năm 2002) chẳng hạn. Chỉ số phát triển con người của nước này cao hơn Việt Nam
(0,73) là do chỉ số thu nhập cao hơn (0,95), còn chỉ số giáo dục và chỉ số tuổi thọ lại thấp
hơn Việt Nam (chỉ số giáo dục: 0,76, chỉ số tuổi thọ: 0,40). Như vậy, nếu chỉ căn cứ vào
phép tính trung bình của 3 chỉ số này mà không chú ý xem từng chỉ số từng thành phần để
đánh giá những thành tựu về con người mà các quốc gia đạt được dễ bị rơi vào tình trạng
phiến diện. Do đó, khi so sánh trình độ phát triển con người theo bộ công cụ HDI cũng chỉ
mang tính tương đối.
Để đánh giá sự phát triển con người của các quốc gia, chất lượng của phát triển
con người bao gồm các khía cạnh như chất lượng giáo dục, trình độ văn hóa, dân trí…
luôn là yếu tố được quan tâm, song nếu ta chỉ dựa vào công cụ HDI để đánh giá thì sự
đánh giá này còn có sự khập khiễng, nó mới chỉ đánh giá sự phát triển con người bằng
những con số đo được mang tính định lượng thông qua sự điều tra các khía cạnh về thu
nhập, giáo dục, và tuổi thọ.
2.1.2.1. Những thành tựu về phát triển con người ở nước ta
Giải phóng và phát triển con người luôn được Đảng ta coi trọng và đề cao với tính
cách là mục tiêu cuối cùng của cách mạng. Đặc biệt, sau khi đất nước thống nhất, bước
vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội thì mục tiêu cao cả
nhất của Đảng và Nhà nước ta là nâng cao đời sống mọi mặt vì sự phát triển toàn diện con
người.
Với nhận thức: con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh
tế, xã hội, của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng chủ nghĩa xã hội là vì sự
phát triển tự do, toàn diện của tất cả mọi người; với sự tham gia đầy đủ, có hiệu quả vào
Chương trình Phát triển Liên hợp quốc, trong thời gian vừa qua chúng ta đã đạt được một
số thành tựu về phát triển con người như sau:
* Chỉ số phát triển con người ở nước ta ngày càng được nâng cao
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với những chính sách kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo
dục, chính sách xóa đói giảm nghèo… cũng như quá trình chỉ đạo thực hiện, trong những
năm vừa qua đời sống vật và tinh thần của nhân dân được nâng lên một bước đáng kể.
Theo số liệu của "Báo cáo phát triển con người" (HDR) các năm 2001, 2004, 2005, chỉ số
phát triển con người được nâng lên một bước đáng kể, phát triển đều theo thời gian. thể
hiện:
Năm 1990, chỉ số HDI là: 0,610.
Năm 1995, chỉ số HDI là: 0,649.
Năm 1997, chỉ số HDI là: 0,664.
Năm 2000, chỉ số HDI là: 0,686.
Năm 2002, chỉ số HDI là: 0,691.
Năm 2003, chỉ số HDI là: 0,704
Trung bình mỗi năm, chỉ số phát triển con người ở nước ta tăng là 0,007. đặc biệt,
từ năm 2002 đến 2003 tăng 0,013, cao hơn mức tăng trung bình là 0,005.
Như chúng ta đã biết chỉ số HDI là phép tính trung bình của 3 chỉ số về thu nhập,
giáo dục và tuổi thọ. ở nước ta, nếu so với thứ bậc xếp hạng GDP bình quân đầu người thì
thứ bậc xếp hạng HDI luôn luôn cao hơn. Ví dụ:
Năm 1997: chỉ số HDI đứng hàng thứ 110/174 nước có thống kê, trong khi đó,
thu nhập quốc dân GDP tính theo bình quân đầu người đứng vị trí thứ 133, tức là chỉ số
HDI vượt lên 23 bậc so với GDP thu nhập bình quân tính theo đầu người.
Năm 2002: chỉ số HDI đứng hàng thứ 112/177 nước có thống kê, trong khi đó,
thu nhập quốc dân GDP tính theo bình quân đầu người đứng vị trí thứ 124, tức là chỉ số
HDI vượt lên 12 bậc so với GDP thu nhập bình quân tính theo đầu người.
Năm 2003,theo "Báo cáo phát triển con người 2005", chỉ số HDI đứng hàng thứ
108/177 nước có thống kê, trong khi đó, thu nhập quốc dân GDP tính theo bình quân đầu
người đứng vị trí thứ 124, tức là chỉ số HDI vượt lên 12 bậc so với GDP thu nhập bình
quân tính theo đầu người. Chỉ số giáo dục và sức khỏe tăng nhanh hơn so với chỉ số thu
nhập.
Thực tế có rất ít nước trên thế giới có sự chênh lệch dương (chỉ số HDI xếp ở đạt
mức cao hơn so với GDP bình quân đầu người) về trình độ phát triển con người như ở nước
ta. Nhiều nước trên thế giới còn có sự chênh lệch âm, kể các các ở các nước có chỉ số HDI
ở trình độ cao như Luxembourg (chênh lệch - 14), Mỹ (chênh lệch - 4)… và các nước
chậm phát triển có chỉ số HDI thấp thì sự chênh lệch này lại càng trầm trọng hơn như
Guinea (chênh lệch - 30), Angola (chênh lệch - 38). Điều này khẳng định có nhiều quốc gia
mặc dù có nền kinh tế phát triển cao song chưa chắc con người đã có điều kiện phát triển.
So sánh đối chiếu thực tế con số trên đây ta thấy, thành tựu lớn nhất ở nước ta là
với một quốc gia có thu nhập không cao, song sự phát triển con người đã đạt được nhiều
thành tựu đáng nổi trội, với mức tăng ngày càng cao của chỉ số giáo dục và sức khỏe, thể
hiện nét đặc thù ở Việt Nam với những tiến bộ rõ rệt trong phát triển con người. Đạt được
những kết quả như vậy là nhờ Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến các chính sách về
kinh tế - xã hội đối với con người, thể hiện cụ thể như: giải quyết tốt mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội; thực hiện quá trình chuyển đổi từ
phân phối bình quân trong thời kỳ bao cấp sang phân phối theo kết quả lao động là chủ
yếu. Thực hiện công bằng xã hội là cơ sở để nhân dân phát huy được sức mạnh của các
tầng lớp nhân dân đóng góp vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, vào việc nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của chính nhân dân. Quan tâm tới giáo dục, y tế, văn hóa, xã
hội… cho toàn thể nhân dân, thể hiện sự đúng đắn trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội
ở nước ta, định hướng đúng mục tiêu của chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta xây
dựng.
Để phát triển con người, theo chủ nghĩa Mác - Lênin thì trước tiên phải phát triển
kinh tế, nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân. Sự tăng trưởng về kinh tế nước ta qua
20 năm đổi mới là cơ sở để nâng cao đời sống nhân dân, mà trước tiên là đời sống vật chất
cho nhân dân. Đời sống nhân dân được cải thiện, ngày càng được nâng cao, một mặt thể
hiện kết quả của sự tăng trưởng kinh tế ở nước ta, mặt khác, thể hiện tính đúng đắn trong
đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, chính sách của Nhà nước vì mục tiêu nâng
cao đời sống cho nhân dân. Theo thống kê trong "Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận -
thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006)", nếu từ năm 1986 đến 1996, chúng ta từng
bước khắc phục sự khủng hoảng kinh tế - xã hội, thì từ năm 1996 đến nay đã đạt được
nhịp độ tăng trưởng kinh tế khá cao. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của 10 năm
(1990 - 2000) đạt 7,5%; năm 2000 so với năm 1990, GDP tăng hơn 2 lần. Trong 5 năm
(2001 - 2005), GDP bình quân đã tăng gần 7,5%. Thu nhập bình quân đầu người năm
1990 là 200 USD tăng lên khoảng 600 USD vào năm 2005. Sự tăng trưởng này đã đóng
góp to lớn vào việc đầu tư cho giáo dục, y tế, văn hóa, xóa đói, giảm nghèo… nâng cao
đời sống tinh thần cho nhân dân.
* Về giáo dục, đào tạo
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế là sự phát triển của giáo dục, đào tạo con người.
Có thể nói trong 20 năm đổi mới vừa qua và đặc biệt trong những năm gần đây, với sự
nhận thức về vị trí, vai trò của giáo dục - đào tạo trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước đã có những bước tiến bộ đáng kể. Coi giáo dục và
đào tạo làm quốc sách hàng đầu, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đầu tư, ưu tiên cho
giáo dục - đào tạo. Kết quả của những việc làm đó là: đã đưa nước ta trở thành nước có
chỉ số phát triển giáo dục khá cao trong khu vực. Ví dụ, Năm 1997 là 0,82 (xếp thứ 53/174
nước), cao hơn mức trung bình trong khối các nước có chỉ số HDI trung bình là 0,10 (mức
trung bình của khối là 0,72); Năm 2002 là 0,82 (xếp thứ 97/177 nước), cao hơn mức trung
bình trong khối các nước có chỉ số HDI trung bình là 0,07 (mức trung bình của khối là
0,75). Năm 2003 là 0,82 (xếp thứ 101/177 nước), trong khi đó, mức trung bình trong khối
các nước có chỉ số HDI trung bình là 0,75 (cao mức trung bình của khối là 0,07). (Theo
"Báo cáo Phát triển con người" năm 2001, 2004 và 2005). Đây là một chỉ số khá cao,
được xếp vào hạng khối các nước phát triển cao về giáo dục.
Trong 20 năm đổi mới, "Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa
dạng hóa về loại hình trường lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học" [41, tr. 80].
Cụ thể, năm 2000 cả nước đã đạt được chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục
tiểu học, đến giữa năm 2004, đã có tới trên 20 tỉnh thành đạt tới trình độ phổ cập giáo dục
ở bậc trung học cơ sở. Tỷ lệ học sinh đi học đúng tuổi đạt 90% và trong những năm gần
đây, tỷ lệ này có xu hướng ngày càng tăng, năm học 2003 - 2004 đạt 94,4%. Đến nay, tỷ
lệ người lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ đã đạt tới 95%, đây là kết quả khá cao trong khu
vực và trên thế giới. ("Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi
mới (1986-2006)")
Đạt được những thành tựu đó là do Đảng và Nhà nước ta luôn coi giáo dục là
quốc sách hàng đầu. Thể hiện, Nhà nước cũng đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhằm
thúc đẩy sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng dạy và học, huy
động tiềm năng của các thành phần kinh tế trong sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo
theo hướng xã hội hóa, đầu tư cao cho giáo dục; đồng thời, thực hiện công bằng trong giáo
dục cũng là một động lực thúc đẩy sự phát triển nhanh của giáo dục Việt Nam.
* Về lĩnh vực công tác y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.
Đến nay, công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân có nhiều tiến bộ, thể hiện, tỷ
lệ tử vong ở trẻ sơ sinh được hạ thấp, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng dưới 5
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Một số quan điểm cơ bản về phát triển con người và thực trạng của việc phát triển con người ở Việt Nam hiện nay.pdf