Tài liệu Luận văn Một số phương hướng và biện pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm tại công ty cổ phần may Lê Trực: LỜI NÓI ĐẦU
Nước ta từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần với quá trình mở cửa hội nhập cùng thế giới đã tạo ra những
thách thức mới trong kinh doanh. Điều này đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp
phải tham gia vào một cuộc chạy đua thực sự, cuộc chạy đua đem lại những lợi thế
trong kinh doanh. Chính vì vậy, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thị trường
ngày càng trở nên gay gắt và quyết liệt, chất lượng sản phẩm đang trở thành một yếu
tố cơ bản quyết định đến sự thành bại trong cạnh tranh, quyết định đến sự tồn tại và
phát triển của từng doanh nghiệp nói riêng cũng như sự tiến bộ hay tụt hậu của nền
kinh tế nói chung.
Có thể khẳng định, chất lượng đang là vấn đề mang tầm quan trọng vĩ mô nhưng
để nâng cao chất lượng đạt mức tối ưu nhất đòi hỏi các doanh nghiệp phải đưa chất
lượng vào nội dung quản lý trong hệ thống hoạt động của mình. Hơn nữa, trong giai
đoạn hiện nay, yêu cầu của người tiêu dùng về s...
116 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1097 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Một số phương hướng và biện pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm tại công ty cổ phần may Lê Trực, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Nước ta từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần với quá trình mở cửa hội nhập cùng thế giới đã tạo ra những
thách thức mới trong kinh doanh. Điều này đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp
phải tham gia vào một cuộc chạy đua thực sự, cuộc chạy đua đem lại những lợi thế
trong kinh doanh. Chính vì vậy, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thị trường
ngày càng trở nên gay gắt và quyết liệt, chất lượng sản phẩm đang trở thành một yếu
tố cơ bản quyết định đến sự thành bại trong cạnh tranh, quyết định đến sự tồn tại và
phát triển của từng doanh nghiệp nói riêng cũng như sự tiến bộ hay tụt hậu của nền
kinh tế nói chung.
Có thể khẳng định, chất lượng đang là vấn đề mang tầm quan trọng vĩ mô nhưng
để nâng cao chất lượng đạt mức tối ưu nhất đòi hỏi các doanh nghiệp phải đưa chất
lượng vào nội dung quản lý trong hệ thống hoạt động của mình. Hơn nữa, trong giai
đoạn hiện nay, yêu cầu của người tiêu dùng về sản phẩm ngày càng cao, sản phẩm
không chỉ đẹp, rẻ mà phải đạt chất lượng cao. Đây chính là chiến lược hàng đầu để
các doanh nghiệp phải không ngừng nỗ lực phấn đấu trong quá trình tìm kiếm, phát
huy những phương án khả thi nhất cho việc sản xuất và cung ứng những sản phẩm
có chất lượng thoả mãn và vượt kỳ vọng của khách hàng với giá thành hợp lý nhất.
Do đó, việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm là yêu cầu khách quan thúc
đẩy sản xuất phát triển, góp phần nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên trong
doanh nghiệp và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp
tồn tại và phát triển lâu dài trên thị trường.
Với sự chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta trong thời gian qua và trong
xu thế khu vực hoá, toàn cầu hóa về kinh tế, hàng hóa ngày càng phong phú đa dạng
hơn, chất lượng sản phẩm cũng ngày càng được nâng cao. Đảng và nhà nước đã có
nhiều các chính sách khuyến khích đầu tư và phát triển ngành may mặc, điều này đã
tạo điều kiện cho sự ra đời hàng loạt các doanh nghiệp may mặc với đủ mọi thành
phần kinh tế và qui mô khác nhau ở nước ta. Các doanh nghiệp luôn tìm mọi cách để
chiếm lĩnh và mở rộng thị trường sản xuất, tiêu thụ của mình. Việc này đã tạo ra sự
cạnh tranh gay gắt trong ngành may mặc. Bên cạnh các doanh nghiệp nhà nước hoạt
động kém hiệu quả đã có không ít doanh nghiệp nhà nước tự khẳng định mình. Công
ty cổ phần may Lê Trực là một trong số ít các doanh nghiệp cổ phần hoạt động có
hiệu quả mặc dù mới thành lập chưa lâu song hoạt động sản xuất kinh doanh của
công ty đã đi vào ổn định và đang trở thành một doanh nghiệp vững mạnh trong cả
nước. Sản phẩm của công ty đã và đang được người tiêu dùng ưa chuộng, đặc biệt là
Co
lle
cte
d b
y H
ai
hàng xuất khẩu của công ty sang các nước trên thế giới đã mang lại doanh thu không
nhỏ cho công ty. Bên cạnh những thành công, việc đảm bảo và nâng cao chất lượng
sản phẩm luôn là mục tiêu quan trọng của công ty để đáp ứng những yêu cầu ngày
càng khắt khe của khách hàng. Vì vậy, trong thời gian nghiên cứu thực tế tại công ty
cổ phần may Lê Trực với sự giúp đỡ và khuyến khích của thầy giáo Hoàng Văn
Liêu, các cô chú, anh chị trong công ty em đã chọn đề tài: “Một số phương hướng và
biện pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm tại công ty cổ phần may Lê
Trực” làm khoá luận tốt nghiệp nhằm phân tích thực trạng chất lượng sản phẩm và
quản trị chất lượng sản phẩm, bên cạnh đó từ những kiến thức đã học em xin đóng
góp phần nhỏ công sức của mình đưa ra những quan điểm, phương hướng và biện
pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty, giúp công ty nâng cao vị trí
cạnh tranh trên thị trường.
Ngoài lời nói đầu và danh mục tài liệu tham khảo khoá luận gồm ba chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về chất lượng và nâng cao chất lượng sản
phẩm trong các doanh nghiệp công nghiệp.
Chương II: Thực trạng chất lượng sản phẩm và quản trị chất lượng sản
phẩm tại công ty may Lê Trực.
Chương III: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở công
ty cổ phần may Lê Trực.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Hoàng Văn Liêu đã tận tình hướng dẫn em đồng
thời cháu xin cảm ơn các cô chú và anh chị trong công ty cổ phần may Lê Trực
đã giúp đỡ rất nhiều trong việc thu thập số liệu dể hoàn thành khoá luận tốt
nghiệp. Vì thời gian và trình độ còn hạn chế nên khoá luận không tránh khỏi
những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ dẫn của thầy cô, các cô
chú, anh chị trong công ty cổ phần may Lê Trực để em hoàn thành tốt nhất đề tài
của mình.
Co
lle
cte
d b
y H
ai
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG VÀ NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP
1.1. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI VÀ VAI TRÒ CỦA CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM TRONG
DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, các doanh nghiệp được tự do cạnh tranh với
nhau trên mọi phương diện nhằm đạt được lợi nhuận tối đa. Việc cạnh tranh này
thành công hay thất bại phụ thuộc rất lớn vào chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp
đó. Do vậy, các doanh nghiệp ngày càng quan tâm nghiêm túc đến chất lượng sản
phẩm và sử dụng yếu tố này làm thứ vũ khí lợi hại để loại bỏ các đối thủ cạnh tranh
khác trên thị trường là điều tất yếu.
Hiện nay, chất lượng sản phẩm đang được chú trọng nghiên cứu và được đưa vào
giảng dạy như một môn học chính trong các trường Đại học, Trung cấp .... Điều này
cho thấy sự tiến bộ trong nhận thức của sinh viên, người tiêu dùng nói riêng và trong
ngành khoa học kinh tế nước ta nói chung.
1.1.1. Khái niệm và phân loại chất lượng sản phẩm.
1.1.1.1. Khái niệm:
Chất lượng là một phạm trù rộng và phức tạp mà con người thường hay gặp trong
các lĩnh vực hoạt động của mình, nhất là lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, xã hội, tâm lý,
thói quen của con người. Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về chất lượng
sản phẩm tuỳ thuộc vào góc độ xem xét, quan niệm của mỗi nước trong từng giai
đoạn phát triển kinh tế xã hội nhất định và nhằm những mục đích riêng biệt. Nhưng
nhìn chung mỗi quan niệm đều có những căn cứ khoa học và ý nghĩa thực tiễn khác
nhau, đều có những đóng góp nhất định thúc đẩy khoa học quản trị chất lượng không
ngừng hoàn thiện và phát triển.
Theo quan niệm của hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây mà Liên Xô là đại diện:
“Chất lượng sản phẩm là tổng hợp những đặc tính kinh tế - kỹ thuật nội tại phản ánh
giá trị sử dụng và chức năng của sản phẩm đó, đáp ứng những nhu cầu định trước
cho nó trong những điều kiện xác định về kinh tế - kỹ thuật”. Về mặt kinh tế quan
điểm này phản ánh đúng bản chất của sản phẩm qua đó dễ dàng đánh giá được mức
độ chất lượng sản phẩm đạt được, vì vậy mà xác dịnh được rõ ràng những đặc tính
và chỉ tiêu nào cần được hoàn thiện. Tuy nhiên chất lượng sản phẩm chỉ được xem
xét một cách biệt lập, tách rời với thị trường, làm cho chất lượng sản phẩm không
thực sự gắn với nhu cầu và sự vận động, biến đổi nhu cầu trên thị trường với điều
kiện cụ thể và hiệu quả kinh tế của từng doanh nghiệp. Khiếm khuyết này xuất phát
từ việc các nước xã hội chủ nghĩa sản xuất theo kế hoạch, tiêu thụ theo kế hoạch, do
đó mà sản phẩm sản xuất ra không đủ để cung cấp cho thị trường, chất lượng sản
Co
lle
cte
d b
y H
ai
phẩm thì không theo kịp nhu cầu thị trường nhưng vẫn tiêu thụ được. Mặt khác,
trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nền kinh tế phát triển khép kín, chưa có sự mở
cửa hội nhập với các nước trên thế giới nên không có sự cạnh tranh về sản phẩm,
chất lượng vẫn chưa được đánh giá cao trên thị trường.
Nhưng khi nền kinh tế nước ta bước sang cơ chế thị trường, các mối quan hệ kinh
tế đối ngoại được mở rộng, các doanh nghiệp được tự do cạnh tranh thì nhu cầu đòi
hỏi của người tiêu dùng về sản phẩm là điểm xuất phát cho mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh. Một nhà kinh tế học đã nói: “Sản xuất những gì mà người tiêu dùng cần
chứ không sản xuất những gì mà ta có”. Do vậy định nghĩa trên không còn phù hợp
và thích nghi với môi trường này nữa. Quan điểm về chất lượng phải được nhìn nhận
một cách khách quan, năng động hơn. Khi xem xét chất lượng sản phẩm phải luôn
gắn liền với nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường với chiến lược kinh doanh
của doanh nghiệp. Tuy nhiên, vẫn có những quan niệm chưa chú ý đến vấn đề này:
- Các chuyên gia kỹ thuật cho rằng: “Chất lượng sản phẩm là một hệ thống các
đặc tính kinh tế - kỹ thuật nội tại của các sản phẩm được xác định bằng các thông số
có thể so sánh được”. Quan niệm này chỉ chú ý đến một mặt là kỹ thuật của sản
phẩm mà chưa chú ý đến chi phí và lợi ích của sản phẩm.
- Còn theo các nhà sản xuất lại cho rằng: “Chất lượng của một sản phẩm nào đó là
mức độ mà sản phẩm đó thể hiện được những yêu cầu, những chỉ tiêu thiết kế hay
những chỉ tiêu cho sản phẩm ấy”. Quan niệm này cũng chưa chú ý tới mặt kinh tế.
Những quan niệm trên đánh giá về chất lượng chưa đầy đủ, toàn diện, do đó những
quan niệm mới được đưa ra gọi là quan niệm chất lượng hướng theo khách hàng:
“Chất lượng nằm trong con mắt của người mua, chất lượng sản phẩm là tổng thể
các đặc trưng kinh - tế kỹ thuật của sản phẩm thể hiện được sự thoả mãn nhu cầu của
người tiêu dùng trong những điều kiện tiêu dùng xác định phù hợp với công dụng
của sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn”.
Quan niệm này tập trung chủ yếu vào việc nghiên cứu, tìm hiểu khách hàng. Các
đặc điểm kinh tế - kỹ thuật phản ánh chất lượng sản phẩm khi chúng thoả mãn được
những đòi hỏi của người tiêu dùng. Chỉ có những đặc tính đáp ứng được nhu cầu của
hàng hoá mới là chất lượng sản phẩm. Còn mức độ đáp ứng nhu cầu là cơ sở để đánh
giá trình độ chất lượng sản phẩm đạt được. Đây là quan niệm đặc trưng và phổ biến
trong giới kinh doanh hiện đại. Có rất nhiều tác giả cũng theo quan niệm này với
những cách diễn đạt khác nhau:
- Grosby: “Chất lượng là sự phù hợp với những yêu cầu hay đặc tính nhất định”.
- J.Juran: “Chất lượng là sự phù hợp với sử dụng, với công dụng”.
- A.Feigenboun: “Chất lượng sản phẩm là tập hợp các đặc tính kỹ thuật, công
nghệ và vận hành của sản phẩm nhờ chúng mà sản phẩm đáp ứng được các yêu cầu
của người tiêu dùng khi sử dụng”.
Phần lớn các chuyên gia về chất lượng trong nền kinh tế thị trường coi chất lượng
sản phẩm là sự phù hợp với nhu cầu hay mục đích sử dụng.
Co
lle
cte
d b
y H
ai
Tuy nhiên, theo những quan niệm này chất lượng sản phẩm không được coi là cao
nhất và tốt nhất mà chỉ là sự phù hợp với nhu cầu. Do vậy, để có thể khái quát hoá
nhằm phát huy những mặt tích cực và khắc phục những mặt hạn chế của các quan
niệm trên, tổ chức tiêu chuẩn quốc tế ISO ( International Organization for
Standardization ) đưa ra khái niệm:
“Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể (đối tượng) tạo cho thực thể
(đối tượng) đó khả năng thoả mãn những nhu cầu đã nêu ra hoặc tiềm ẩn”.
Giáo trình “ Quản lý chất lượng trong các tổ chức ” – NXB giáo dục 2002.
Đây là quan niệm hiện đại nhất được nhiều nước chấp nhận và sử dụng khá phổ
biến hiện nay. Chất lượng sản phẩm là tập trung những thuộc tính làm cho sản phẩm
có khả năng thoả mãn những nhu cầu nhất định phù hợp với công dụng của nó. Tập
hợp các thuộc tính ở đây không phải chỉ là phép cộng đơn thuần mà còn là sự tương
tác hỗ trợ lẫn nhau. Chất lượng không thể được quyết định bởi công nhân sản xuất
hay tổ trưởng phân xưởng, phòng quản lý chất lượng mà phải được quyết định bởi
nhà quản lý cao cấp - những người thiết lập hệ thống làm việc của công ty nhưng
cũng là trách nhiệm của mọi người trong công ty. Do đó, chất lượng không phải là tự
nhiên sinh ra mà cần phải được quản lý. Rõ ràng, chất lượng phải liên quan đến mọi
người trong quy trình và phải được hiểu trong toàn bộ tổ chức. Trên thực tế, điều
then chốt đối với chất lượng trước hết là phải xác định rõ khách hàng của mọi người
trong tổ chức nghĩa là không chỉ vận dụng chữ “Khách hàng” đối với những người
bên ngoài thực sự mua hoặc sử dụng sản phẩm cuối cùng mà cần mở rộng và bao
gồm bất cứ ai mà một cá nhân cung ứng một chi tiết sản phẩm. Để thoả mãn yêu cầu
khắt khe của khách hàng, chất lượng phải được xem như một chiến lược kinh doanh
cơ bản. Chiến lược này có thành công hay không phụ thuộc vào sự thoả mãn hiện
hữu hoặc tiềm ẩn của khách hàng bên trong lẫn bên ngoài. Cái giá để có chất lượng
là phải liên tục xem xét các yêu cầu để thoả mãn và khả năng đáp ứng của doanh
nghiệp như: trình độ khoa học công nghệ, tài năng của nhân viên, trình độ quản lý
của lãnh đạo. Điều này sẽ dẫn đến triết lý về “ Cải tiến liên tục ”. Nếu đảm bảo được
các yêu cầu đều được đáp ứng ở mọi giai đoạn, mọi thời gian thì sẽ thu được những
lợi ích thực sự to lớn về mặt tăng sức cạnh tranh và tỉ trọng chiếm lĩnh thị trường,
giảm bớt tổn phí, tăng năng suất, tăng khối lượng giao hàng, loại bỏ được lãng phí.
1.1.1.2. Phân loại chất lượng sản phẩm.
Để thoả mãn nhu cầu khách hàng, các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao
chất lưọng sản phẩm. Để theo đuổi chất lượng cao, các doanh nghiệp cần phải xem
xét giới hạn về khả năng tài chính, công nghệ, kinh tế, xã hội. Vì vậy, đòi hỏi các
doanh nghiệp phải nắm chắc các loại chất lượng sản phẩm:
- Chất lượng thiết kế: Là giá trị các chỉ tiêu đặc trưng của sản phẩm được phác
hoạ qua văn bản trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu thị trường, các đặc điểm của sản xuất
- tiêu dùng đồng thời có so sánh với chỉ tiêu chất lượng các mặt hàng tương tự cùng
loại của nhiều hãng, nhiều công ty trong và ngoài nước.
Co
lle
cte
d b
y H
ai
- Chất lượng tiêu chuẩn: Là giá trị các chỉ tiêu đặc trưng được cấp có thẩm
quyền phê chuẩn. Dựa trên cơ sở nghiên cứu chất lượng thiết kế, các cơ quan Nhà
nước, các doanh nghiệp ... điều chỉnh, xét duyệt những chỉ tiêu chất lượng của sản
phẩm hàng hoá.
Như vậy, chất lượng chuẩn là căn cứ để các doanh nghiệp đánh giá chất lượng
hàng hoá dựa trên những tiêu chuẩn đã được phê chuẩn.
- Chất lượng thực tế: Chất lượng thực tế của sản phẩm phản ánh giá trị các chỉ
tiêu chất lượng sản phẩm thực tế đạt được do các yếu tố chi phối như nguyên vật
liệu, máy móc thiết bị, phương pháp quản lý ... .
- Chất lượng cho phép: Là mức độ cho phép về độ lệch các chỉ tiêu chất lượng
của sản phẩm giữa chất lượng thực tế với chất lượng chuẩn.
Chất lượng cho phép của sản phẩm phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - kỹ thuật,
trình độ lành nghề của công nhân, phương pháp quản lý của doanh nghiệp.
- Chất lượng tối ưu: Là giá trị các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm đạt được mức độ
hợp lý nhất trong điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Nói cách khác, sản phẩm hàng
hoá đạt mức chất lượng tối ưu là các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm thoả mãn nhu cầu
người tiêu dùng, có khả năng cạnh tranh với nhiều hãng trên thị trường, sức tiêu thụ
nhanh và đạt hiệu quả cao.
Phấn đấu đưa chất lượng của sản phẩm hàng hoá đạt mức chất lượng tối ưu là một
trong những mục đích quan trọng của quản lý doanh nghiệp nói riêng và quản lý
kinh tế nói chung.
1.1.2. Vai trò của chất lượng sản phẩm.
Cơ chế thị trường tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của các doanh
nghiệp và nền kinh tế. Đồng thời, nó cũng đặt ra những thách thức đối với doanh
nghiệp qua sự chi phối của các qui luật kinh tế trong đó có qui luật cạnh tranh.
Nền kinh tế thị trường cho phép các doanh nghiệp tự do cạnh tranh với nhau trên
mọi phương diện. Chất lượng sản phẩm tạo ra sức hấp dẫn thu hút người mua. Mỗi
sản phẩm có rất nhiều các thuộc tính chất lượng khác nhau, các thuộc tính này được
coi là một trong những yếu tố cơ bản tạo nên lợi thế cạnh tranh của mỗi doanh
nghiệp. Khách hàng hướng quyết định lựa chọn mua hàng vào những sản phẩm có
các thuộc tính phù hợp với sở thích, nhu cầu và khả năng, điều kiện sử dụng của
mình. Họ so sánh các sản phẩm cùng loại và lựa chọn loại hàng nào có những thuộc
tính kinh tế - kỹ thuật thoả mãn những mong đợi của họ ở mức cao hơn. Bởi vậy sản
phẩm có các thuộc tính chất lượng cao là một trong những căn cứ quan trọng cho
quyết định lựa chọn mua hàng và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp công nghiệp, chất lượng sản phẩm luôn luôn là một
trong những nhân tố quan trọng nhất quyết định khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Chất lượng sản phẩm là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện chiến lược Marketing, mở
rộng thị trường, tạo uy tín và danh tiếng cho sản phẩm của doanh nghiệp, khẳng định
vị trí của sản phẩm đó trên thị trường. Từ đó, người tiêu dùng sẽ tin tưởng vào nhãn
Co
lle
cte
d b
y H
ai
mác của sản phẩm và sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp làm cơ sở cho sự tồn tại
và phát triển lâu dài của doanh nghiệp, nếu có thể sẽ mở rộng thị trường ra nước
ngoài. Chính điều này đã tạo động lực to lớn buộc các doanh nghiệp ngày càng phải
hoàn thiện để phục vụ khách hàng được tốt nhất.
Hiệu quả kinh tế, sự thành công của một doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào
sự phát triển sản xuất có năng suất cao, tiêu thụ với khối lượng lớn mà còn được tạo
thành bởi sự tiết kiệm đặc biệt là tiết kiệm nguyên vật liệu, thiết bị và lao động trong
quá trình sản xuất. Muốn làm được điều này, chỉ có thể thực hiện bằng cách luôn
nâng cao chất lượng sản phẩm với mục tiêu “ Làm đúng ngay từ đầu” sẽ hạn chế
được chi phí phải bỏ ra cho những phế phẩm. Việc làm này không những đem lại lợi
ích kinh tế cho doanh nghiệp mà còn tác động tích cực đến nền kinh tế của đất nước
thông qua việc tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, giảm bớt những vấn đề về ô nhiễm
môi trường.
Nâng cao chất lượng sản phẩm tạo điều kiện cho doanh nghiệp đi sâu tìm tòi
nghiên cứu các tiến bộ khoa học kỹ thuật và ứng dụng nó vào quá trình sản xuất kinh
doanh. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp tiến hành đầu tư đổi mới công nghệ nhằm giảm
lao động sống, lao động quá khứ, tiết kiệm nguyên vật liệu và nâng cao năng lực sản
xuất. Do vậy, giảm được chi phí, hạ giá thành sản phẩm từ đó giúp doanh nghiệp đạt
được mục tiêu kinh doanh của mình là nâng cao lợi nhuận, đây đồng thời cũng là
điều kiện để doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Khi doanh nghiệp đạt được lợi nhuận
cao, sẽ có điều kiện đảm bảo việc làm ổn định cho người lao động, tăng thu nhập cho
họ, làm cho họ tin tưởng gắn bó với doanh nghiệp từ đó đóng góp hết sức mình vào
công việc sản xuất kinh doanh.
Đối với nền kinh tế quốc dân, việc tăng chất lượng sản phẩm đồng nghĩa với việc
người dân được tiêu dùng những sản phẩm có chất lượng tốt hơn với tuổi thọ lâu dài
hơn, góp phần làm giảm đầu tư chi phí cho sản xuất sản phẩm và hạn chế được phế
thải gây ô nhiễm môi trường. Hơn nữa, nâng cao chất lượng còn giúp cho người tiêu
dùng tiết kiệm được thời gian và sức lực khi sử dụng sản phẩm do các doanh nghiệp
cung cấp. Suy cho cùng đó là những lợi ích mà mục tiêu của việc sản xuất và cung
cấp sản phẩm đưa lại cho con người. Bởi vậy, chất lượng đã và luôn là yếu tố quan
trọng số một đối với cả doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Chất lượng sản phẩm không chỉ làm tăng uy tín của nước ta trên thị trường quốc
tế mà còn là cách để tăng cường nguồn thu nhập ngoại tệ cho đất nước qua việc xuất
khẩu sản phẩm đạt chất lượng cao ra nước ngoài.
1.2. ĐẶC ĐIỂM VÀ HỆ THỐNG CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM.
1.2.1. Đặc điểm của chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm là một phạm trù kinh tế - xã hội, công nghệ tổng hợp luôn
thay đổi theo không gian và thời gian, phụ thuộc chặt chẽ vào môi trường và điều
kiện kinh doanh cụ thể trong từng thời kỳ.
Co
lle
cte
d b
y H
ai
Mỗi sản phẩm được đặc trưng bằng các tính chất, đặc điểm riêng biệt nội tại của
bản thân sản phẩm. Những đặc tính đó phản ánh tính khách quan của bản thân sản
phẩm thể hiện trong quá trình hình thành và sử dụng sản phẩm. Những đặc tính
khách quan này phụ thuộc rất lớn vào trình độ thiết kế qui định cho sản phẩm. Mỗi
tính chất được biểu thị bằng các chỉ tiêu lý, hoá nhất định có thể đo lường, đánh giá
được vì vậy nói đến chất lượng là phải thông qua hệ thống chỉ tiêu, tiêu chuẩn cụ thể.
Nói đến chất lượng sản phẩm là phải xem xét sản phẩm đó thoả mãn đến mức độ
nhu cầu nào của khách hàng. Mức độ thoả mãn phụ thuộc rất lớn vào chất lượng
thiết kế và những tiêu chuẩn được đặt ra cho mỗi sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm còn mang tính dân tộc thể hiện ở truyền thống tiêu dùng.
Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, mỗi vùng đều có thị hiếu tiêu dùng khác nhau. Mỗi sản
phẩm có thể được coi là tốt ở nơi này nhưng lại không tốt, không phù hợp ở nơi
khác. Trong kinh doanh không thể có một nhu cầu như nhau cho tất cả các vùng mà
cần căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể để đề ra phương án chất lượng cho phù hợp. Chất
lượng chính là sự phù hợp về mọi mặt với yêu cầu của khách hàng.
Khi nói đến chất lượng, cần phân biệt rõ đặc tính chất lượng chủ quan và khách
quan của sản phẩm.
- Đặc tính khách quan thể hiện trong chất lượng tuân thủ thiết kế: Khi sản phẩm
sản xuất ra có những đặc tính kinh tế - kỹ thuật càng gần với tiêu chuẩn thiết kế thì
chất lượng càng cao, được phản ánh thông qua tỷ lệ phế phẩm, sản phẩm hỏng, loại
bỏ sản phẩm không đạt yêu cầu thiết kế. Loại chất lượng này phụ thuộc chặt chẽ vào
tính chất, đặc điểm, trình độ công nghệ và trình độ tổ chức quản lý, sản xuất của các
doanh nghiệp. Loại chất lượng này ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh về giá
cả của sản phẩm.
- Chất lượng trong sự phù hợp: Chất lượng phụ thuộc vào mức độ phù hợp của
sản phẩm thiết kế so với yêu cầu và mong muốn của khách hàng. Mức độ phù hợp
càng cao thì chất lượng càng cao. Loại chất lượng này phụ thuộc vào mong muốn và
sự đánh giá chủ quan của người tiêu dùng. Vì vậy nó tác động mạnh mẽ đến khả
năng tiêu thụ sản phẩm.
1.2.2. Hệ thống chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm được phản ánh thông qua một hệ thống các chỉ tiêu cụ thể.
Những chỉ tiêu chất lượng đó chính là các thông số kinh tế - kỹ thuật và các đặc tính
riêng có của sản phẩm, phản ánh tính hữu ích của sản phẩm. Các chỉ tiêu này không
tồn tại một cách độc lập mà có mối quan hệ khăng khít với nhau.
Mỗi loại sản phẩm cụ thể có những chỉ tiêu mang tính trội và quan trọng hơn
những chỉ tiêu khác. Vì vậy các doanh nghiệp cần phải quyết định lựa chọn những
chỉ tiêu nào quan trọng nhất để sản phẩm của mình mang được sắc thái riêng, dễ
dàng phân biệt với những sản phẩm khác đồng loại trên thị trường. Có rất nhiều các
chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm, sau đây là một số nhóm chỉ tiêu cụ thể:
Co
lle
cte
d b
y H
ai
Các chỉ tiêu chức năng, công dụng của sản phẩm: Đó chính là những đặc tính
cơ bản của sản phẩm đưa lại những lợi ích nhất định về giá trị sử dụng, tính hữu ích
của chúng đáp ứng được những đòi hỏi cần thiết của người tiêu dùng.
Các chỉ tiêu về độ tin cậy: Đặc trưng cho thuộc tính của sản phẩm, giữ được
khả năng làm việc chính xác, tin cậy trong một khoảng thời gian xác định.
Các chỉ tiêu về tuổi thọ: Thể hiện thời gian tồn tại có ích của sản phẩm trong
quá trình đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
Các chỉ tiêu lao động học: Đặc trưng cho quan hệ giữa người và sản phẩm
trong hoàn cảnh thuận lợi nhất định.
Chỉ tiêu thẩm mỹ: Đặc trưng cho sự truyền cảm, sự hấp dẫn về hình thức và sự
hài hoà về kết cấu sản phẩm.
Chỉ tiêu công nghệ: Đặc trưng cho quá trình chế tạo, bảo đảm tiết kiệm lớn
nhất các chi phí.
Chỉ tiêu sinh thái: Thể hiện mức độ độc hại của việc sản xuất sản phẩm tác
động đến môi trường.
Chỉ tiêu thống nhất hoá: Đặc trưng cho mức độ sử dụng sản phẩm, các bộ phận
được tiêu chuẩn hoá, thống nhất hoá và mức độ thống nhất với các sản phẩm khác.
Chỉ tiêu an toàn: Đặc trưng cho tính bảo đảm an toàn về sức khoẻ cũng như
tính mạng của người sản xuất và người tiêu dùng.
Chỉ tiêu chi phí, giá cả: Đặc trưng cho hao phí xã hội cần thiết để tạo nên sản
phẩm.
Ngoài ra để đánh giá, phân tích tình hình thực hiện chất lượng giữa các bộ phận,
giữa các thời kỳ sản xuất ta còn có các chỉ tiêu so sánh như sau:
- Tỷ lệ sai hỏng để phân tích tình hình sai hỏng trong sản xuất:
* Dùng thước đo hiện vật để tính, ta có công thức:
Tỷ lệ sai hỏng =
Trong đó, số sản phẩm hỏng bao gồm cả sản phẩm hỏng có thể sửa chữa đượcvà
sản phẩm hỏng không thể sửa chữa được.
* Nếu dùng thước đo giá trị để tính ta có công thức:
Tỷ lệ sai hỏng =
Trong đó chi phí sản phẩm hỏng bao gồm chi phí về sản phẩm hỏng sửa chữa
được và chi phí về sản phẩm hỏng không sửa chữa được.
Số lượng sản phẩm sai hỏng
SLSP sai hỏng + SLSP tốt
x 100(%)
Chi phí về sản phẩm hỏng
Giá thành công xưởng của sản phẩm
hàng hoá
x 100(%)
Co
lle
cte
d b
y H
ai
Trên cơ sở tính toán về tỷ lệ sai hỏng đó, ta có thể so sánh giữa kỳ này với kỳ
trước hoặc năm nay với năm trước. Nếu tỷ lệ sai hỏng kỳ này so với kỳ trước nhỏ
hơn nghĩa là chất lượng kỳ này tốt hơn kỳ trước và ngược lại.
- Dùng thứ hạng chất lượng sản phẩm: Để so sánh thứ hạng chất lượng sản phẩm
của kỳ này so với kỳ trước người ta căn cứ vào mặt công dụng, thẩm mỹ và các chỉ
tiêu về mặt cơ, lý, hoá của sản phẩm. Nếu thứ hạng kém thì được bán với mức giá
thấp còn nếu thứ hạng cao thì sẽ được bán với giá cao. Để đánh giá thứ hạng chất
lượng sản phẩm ta có thể sử dụng phương pháp giá đơn vị bình quân.
Công thức tính như sau:
P =
∑
∑
=
=
n
i
n
i
Qi
PkiQi
1
1
.
Trong đó:
P : Giá đơn vị bình quân
Pki : Giá đơn vị kỳ gốc của thứ hạng i
Qi : Số lượng sản phẩm sản xuất của thứ hạng i
Theo phương pháp này, ta tính giá đơn vị bình quân của kỳ phân tích và kỳ kế
hoạch. Sau đó so sánh giá đơn vị bình quân kỳ phân tích so với kỳ kế hoạch, nếu giá
đơn vị bình quân kỳ phân tích cao hơn kỳ kế hoạch ta kết luận doanh nghiệp hoàn
thành kế hoạch chất lượng sản phẩm và ngược lại.
Để sản xuất kinh doanh sản phẩm, doanh nghiệp phải xây dựng tiêu chuẩn chất
lượng sản phẩm, phải đăng ký và được các cơ quan quản lý chất lượng sản phẩm nhà
nước ký duyệt. Tuỳ theo từng loại sản phẩm, từng điều kiện của doanh nghiệp mà
xây dựng tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm sao cho đáp ứng được yêu cầu của nhà
quản lý và người tiêu dùng.
1.3. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM LÀ BIỆN PHÁP CƠ BẢN ĐỂ TĂNG KHẢ
NĂNG CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP.
1.3.1.Các nhân tố tác động đến chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khác nhau, chỉ trên cơ sở
xác định đầy đủ các yếu tố thì mới đề xuất được các biện pháp để không ngừng
nâng cao chất lượng sản phẩm và tổ chức quản lý chặt chẽ quá trình sản xuất kinh
doanh.
Co
lle
cte
d b
y H
ai
Mỗi một ngành sản xuất kinh doanh có những đặc điểm riêng tuy nhiên có thể
chia thành hai nhóm nhân tố chủ yếu: nhóm nhân tố bên trong và nhóm nhân tố bên
ngoài doanh nghiệp.
1.3.1.1.Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp.
- Nhóm yếu tố nguyên vật liệu( Materials): Nguyên vật liệu là một yếu tố tham
gia trực tiếp cấu thành thực thể của sản phẩm. Những đặc tính của nguyên liệu sẽ
được đưa vào sản phẩm vì vậy chất lượng nguyên liệu ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng sản phẩm sản xuất ra. Không thể có sản phẩm tốt từ nguyên vật liệu kém chất
lượng. Muốn có sản phẩm đạt chất lượng (theo yêu cầu thị trường, thiết kế...) điều
trước tiên, nguyên vật liệu để chế tạo sản phẩm phải đảm bảo những yêu cầu về chất
lượng, mặt khác phải bảo đảm cung cấp cho cơ sơ sản xuất những nguyên vật liệu
đúng số lượng, đúng chất lượng, đúng kỳ hạn. Như vậy, cơ sở sản xuất mới chủ động
ổn định quá trình sản xuất và thực hiện đúng kế hoạch chất lượng đề ra.
- Nhóm yếu tố kỹ thuật - công nghệ - thiết bị (Machines): Đối với những doanh
nghiệp công nghiệp, máy móc và công nghệ, kỹ thuật sản xuất luôn là một trong
những yếu tố cơ bản có tác động mạnh mẽ nhất đến chất lượng sản phẩm, nó quyết
định việc hình thành chất lượng sản phẩm. Nhiều doanh nghiệp đã coi công nghệ là
chìa khoá của sự phát triển.
Trong sản xuất hàng hoá, người ta sử dụng và phối trộn nhiều nguyên vật liệu
khác nhau về thành phần, về tính chất và về công dụng. Nắm vững được đặc tính của
nguyên vật liệu để thiết kế sản phẩm là điều cần thiết song trong quá trình chế tạo,
việc theo dõi khảo sát chất lượng sản phẩm theo tỷ lệ phối trộn là điều quan trọng để
mở rộng mặt hàng, thay thế nguyên vật liệu, xác định đúng đắn các chế độ gia công
để không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm .
Công nghệ: Quá trình công nghệ có ảnh hưởng lớn quyết định chất lượng sản
phẩm. Đây là quá trình phức tạp, vừa làm thay đổi ít nhiều hoặc bổ sung, cải thiện
nhiều tính chất ban đầu của nguyên vật liệu sao cho phù hợp với công dụng của nó.
Ngoài yếu tố kỹ thuật - công nghệ cần phải chú ý đến việc lựa chọn thiết bị. Kinh
nghiệm từ thực tế đã cho thấy kỹ thuật và công nghệ được đổi mới nhưng thiết bị lạc
hậu, cũ kỹ khó có thể tạo ra sản phẩm chất lượng cao phù hợp với nhu cầu của khách
hàng. Cho nên nhóm yếu tố kỹ thuật - công nghệ - thiết bị có mối quan hệ tương hỗ
khá chặt chẽ không những góp phần vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn
tăng tính cạnh tranh của sản phẩm trên thương trường, đa dạng hoá chủng loại nhằm
thoả mãn nhu cầu tiêu dùng, tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ .
Với những doanh nghiệp có dây chuyền sản xuất đồng loạt, tính tự động hoá cao
thì có khả năng giảm được lao động sống mà vẫn tăng năng suất lao động.
- Nhóm yếu tố phương pháp tổ chức quản lý ( Methods ): Trình độ quản trị nói
chung và trình độ quản trị chất lượng nói riêng là một trong những nhân tố cơ bản
góp phần đẩy nhanh tốc độ cải tiến, hoàn thiện chất lượng sản phẩm của các doanh
nghiệp. Một doanh nghiệp nếu nhận thức được rõ vai trò của chất lượng trong cuộc
chiến cạnh tranh thì doanh nghiệp đó sẽ có đường lối, chiến lược kinh doanh đúng
Co
lle
cte
d b
y H
ai
đắn quan tâm đến vấn đề chất lượng. Trên cơ sở đó, các cán bộ quản lý tạo ra sự
phối hợp đồng bộ nhịp nhàng giữa các khâu, các yếu tố của quá trình sản xuất nhằm
mục đích cao nhất là hoàn thiện chất lượng sản phẩm. Trình độ của cán bộ quản lý sẽ
ảnh hưởng đến khả năng xác định chính sách, mục tiêu chất lượng và cách thức tổ
chức chỉ đạo thực hiện chương trình kế hoạch chất lượng. Cán bộ quản lý phải biết
cách làm cho mọi công nhân hiểu được việc đảm bảo và nâng cao chất lượng không
phải là riêng của bộ phận KCS hay của một tổ công nhân sản xuất mà nó phải là
nhiệm vụ chung của toàn doanh nghiệp. Đồng thời công tác quản lý chất lượng tác
động mạnh mẽ đến công nhân sản xuất thông qua chế độ khen thưởng hay phạt hành
chính để từ đó nâng cao ý thức lao động và tinh thần cố gắng hoàn thành tốt nhiệm
vụ được giao. Vì vậy, chất lượng của hoạt động quản lý chính là sự phản ánh chất
lượng hoạt động của doanh nghiệp .
- Nhóm yếu tố con người ( Men ): Nhóm yếu tố con người bao gồm cán bộ lãnh
đạo các cấp, cán bộ công nhân viên trong một đơn vị và người tiêu dùng. Đây là
nhân tố có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng sản phẩm. Dù trình độ công nghệ có
hiện đại đến đâu, nhân tố con người vẫn được coi là nhân tố căn bản nhất tác động
đến hoạt động quản lý và nâng cao chất lượng sản phẩm. Bởi người lao động chính
là người sử dụng máy móc thiết bị để sản xuất ra sản phẩm, bên cạnh đó có rất nhiều
tác động, thao tác phức tạp đòi hỏi kỹ thuật khéo léo, tinh tế mà chỉ có con người
mới làm được.
+ Đối với cán bộ lãnh đạo các cấp cần có nhận thức mới về việc nâng cao chất
lượng sản phẩm để có những chủ trương, những chính sách đúng đắn về chất
lượng sản phẩm thể hiện trong mối quan hệ sản xuất và tiêu dùng, các biện pháp
khuyến khích tinh thần vật chất, quyền ưu tiên cung cấp nguyên vật liệu, giá cả, tỷ
lệ lãi vay vốn...
+ Đối với cán bộ công nhân viên trong một đơn vị kinh tế trong một doanh
nghiệp cần phải có nhận thức rằng việc nâng cao chất lượng sản phẩm là trách
nhiệm của mọi thành viên, là sự sống còn, là quyền lợi thiết thân đối với sự tồn tại
và phát triển của doanh nghiệp và cũng là của chính bản thân mình.
Sự phân chia các yếu tố trên chỉ là qui ước. Tất cả 4 nhóm yếu tố trên đều nằm
trong một thể thống nhất và trong mối quan hệ hữu cơ với nhau.
Trong phạm vi một doanh nghiệp, việc khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến chất
lượng sản phẩm theo sơ đồ:
Co
lle
cte
d b
y H
a
Biểu đồ 1.1 : Quy tắc 4M
1.3.1.2. Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp.
Chất lượng sản phẩm hàng hoá là kết quả của quá trình thực hiện một số biện
pháp tổng hợp: kinh tế - kỹ thuật, hành chính, xã hội... những yếu tố vừa nêu trên
(quy tắc 4M) mang tính chất của lực lượng sản xuất. Nếu xét về quan hệ sản xuất thì
chất lượng sản phẩm hàng hoá lại còn phụ thuộc chặt chẽ vào các yếu tố sau :
- Nhu cầu của nền kinh tế: Chất lượng sản phẩm chịu sự chi phối bởi các điều
kiện cụ thể của nền kinh tế được thể hiện ở các mặt: nhu cầu của thị trường, trình độ
kinh tế, khả năng cung ứng của sản xuất, chính sách kinh tế của nhà nước...
Nhu cầu thị trường là điểm xuất phát của quá trình quản lý chất lượng tạo động
lực, định hướng cho cải tiến và hoàn thiện chất lượng sản phẩm. Cơ cấu tính chất,
đặc điểm và xu hướng vận động của nhu cầu tác động trực tiếp đến chất lượng sản
phẩm. Nhu cầu của thị trường rất phong phú và đa dạng về số lượng, chủng loại
nhưng khả năng kinh tế thì có hạn : tài nguyên, vốn đầu tư, trình độ kỹ thuật công
nghệ, đổi mới trang thiết bị, kỹ năng kỹ xảo của cán bộ công nhân viên... Như vậy
chất lượng của sản phẩm còn phụ thuộc vào khả năng hiện thực của toàn bộ nền kinh
tế.
- Trình độ tiến bộ khoa học - công nghệ: Trong thời đại ngày nay, sự phát triển
như vũ bão của khoa học công nghệ hiện đại trên qui mô toàn thế giới đang thâm
nhập và chi phối hầu hết các lĩnh vực của xã hội loài người. Chất lượng của bất kỳ
một sản phẩm nào cũng đều gắn liền với sự phát triển khoa học kỹ thuật hiện đại,
chu kỳ công nghệ sản phẩm được rút ngắn, công dụng sản phẩm ngày càng phong
phú, đa dạng nhưng chính vì vậy không bao giờ thoả mãn với mức chất lượng hiện
tại mà phải thường xuyên theo dõi những biến động của thị trường về sự đổi mới của
khoa học kỹ thuật liên quan đến nguyên vật liệu, kỹ thuật, công nghệ, thiết bị... để
( Materials )
Nguyên vật liệu.
Nă lượ lượ
( Machines )
Kỹ thuật công
hệ thiết bị
Methods
Phương pháp tổ
chức q ản lý
( Men )
Lãnh đạo
CBCN viên.
Người tiêu
dùng
Chất
lượng
sản
Co
lle
cte
d b
y H
ai
điều chỉnh kịp thời nhằm hoàn thiện chất lượng sản phẩm đáp ứng gần như triệt để
yêu cầu của người tiêu dùng.
Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp công nghiệp có đặc trưng chủ yếu là sử dụng
nhiều loại máy móc thiết bị khác nhau để sản xuất sản phẩm do vậy khoa học công
nghệ có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất lao động và là động lực thúc đẩy sự phát
triển của doanh nghiệp.
- Hiệu lực của cơ chế quản lý: Khả năng cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm
của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc chặt chẽ vào cơ chế quản lý của mỗi nước. Cơ chế
quản lý vừa là môi trường, vừa là điều kiện cần thiết tác động đến phương hướng,
tốc độ cải tiến chất lượng sản phẩm. Thông qua cơ chế và các chính sách quản lý vĩ
mô của nhà nước tạo điều kiện thuận lợi và kích thích:
Tính độc lập, tự chủ sáng tạo trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm của các
doanh nghiệp.
Hỗ trợ nguồn vốn đầu tư, thay đổi trang thiết bị công nghệ và hình thành môi
trường thuận lợi cho huy động công nghệ mới, tiếp thu ứng dụng những phương
pháp quản trị chất lượng hiện đại.
Tạo sự cạnh tranh lành mạnh, công bằng giữa các doanh nghiệp, kiên quyết
loại bỏ những doanh nghiệp sản xuất hàng giả, hàng nhái.
Nhà nước còn tác động mạnh mẽ đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm
thông qua việc công nhận sở hữu độc quyền các phát minh, cải tiến nhằm ngày càng
hoàn thiện sản phẩm.
Nhà nước qui định các tiêu chuẩn về chất lượng tối thiểu mà các doanh nghiệp
cần đạt được thông qua việc đăng ký chất lượng để sản xuất.
Hiệu lực của cơ chế quản lý là đòn bẩy quan trọng trong việc quản lý chất lượng
sản phẩm, đảm bảo sự bình đẳng và phát triển ổn định quá trình sản xuất, đảm bảo
uy tín và quyền lợi của nhà sản xuất và người tiêu dùng.
- Điều kiện tự nhiên : Điều kiện tự nhiên có thể làm thay đổi tính chất cơ, lý, hoá
của sản phẩm qua:
Khí hậu, các tia bức xạ mặt trời có thể làm thay đổi màu sắc, mùi vị của sản
phẩm hay các loại nguyên vật liệu để sản xuất ra sản phẩm.
Mưa, gió, bão làm cho sản phẩm bị ngấm nước gây ố, mốc. Độ ẩm cao và quá
trình ôxy hoá mạnh gây ra rỉ sét, xám xỉn....làm biến đổi hoặc giảm chất lượng sản
phẩm.
Vi sinh vật, côn trùng chủ yếu tác động vào quá trình lên men, độ tươi sống
hay an toàn vệ sinh thực phẩm.
Như vậy, các doanh nghiệp cần chú ý bảo quản sản phẩm của mình thông qua
việc nắm bắt các tính chất cơ, lý, hoá của sản phẩm để phòng tránh sự hao mòn,
giảm giá trị sản phẩm do điều kiện môi trường tự nhiên gây ra.
- Các yếu tố về phong tục, văn hoá, thói quen tiêu dùng : Ngoài các yếu tố mang
tính khách quan vừa nêu trên, các yếu tố về phong tục, văn hoá, thói quen tiêu dùng
Co
lle
cte
d b
y H
ai
cũng ảnh hưởng mạnh đến chất lượng sản phẩm mà các nhà sản xuất phải cố gắng
đáp ứng.
Sở thích tiêu dùng của từng nước, từng dân tộc, từng tôn giáo, từng độ tuổi
không hoàn toàn giống nhau. Do đó, các doanh nghiệp phải tiến hành điều tra nghiên
cứu nhu cầu sở thích của từng thị trường cụ thể nhằm thoả mãn những yêu cầu về số
lượng và chất lượng.
1.3.2. Các biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm.
1.3.2.1. Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Các doanh nghiệp sản xuất ở nước ta có một điểm yếu cơ bản đó là trang thiết bị
máy móc lạc hậu, hư hỏng nhiều, lao động thủ công vẫn chiếm tỷ lệ cao. Điều này đã
hạn chế sự phát triển của sản xuất, làm giảm năng suất lao động cũng như chưa đảm
bảo chất lượng sản phẩm. Vì lẽ đó, các mặt hàng sản phẩm sản xuất tại Việt Nam rất
khó tìm được chỗ đứng trên thị trường thế giới. Hơn nữa, nhờ những thành tựu khoa
học kỹ thuật mà hàng hoá được sản xuất với hàm lượng kỹ thuật cao do các nước
ngoài thâm nhập vào thị trường Việt Nam có tác động rất lớn đến tâm lý người tiêu
dùng nên nhu cầu của họ ngày càng theo hướng chất lượng cao và hiện đại hơn. Có
thể nói, sự tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày nay đã trở thành một động lực mạnh mẽ
thúc đẩy nền kinh tế. Hơn lúc nào hết, quá trình ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất mang tính quan trọng và cấp bách. Mặt khác, tiến bộ khoa học kỹ thuật
còn là chất xúc tác quan trọng trong quá trình đổi mới vươn lên của doanh nghiệp về
chất lượng. Đẩy mạnh việc áp dụng những thành tựu này vào sản xuất chính là quá
trình đẩy lùi và triệt tiêu cách thức sản xuất cũ lạc hậu, tuỳ tiện buông thả tạo nên
một phong trào và phong cách sản xuất mới có tư duy năng động, sáng tạo. Bên cạnh
đó, phát huy được hết khả năng và năng lực của từng người trong sản xuất. Đây
chính là giải pháp căn bản nhưng đặc biệt quan trọng và cần thiết có ảnh hưởng trực
tiếp tới chất lượng sản phẩm hàng hoá, quyết định sự cạnh tranh tồn tại, phát triển
doanh nghiệp, góp phần không nhỏ trong việc đổi mới toàn bộ nền kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phù hợp với sự phát triển chung của thế giới.
“Sản phẩm hàng hoá là kết quả của sự tác động của con người vào đối tượng lao
động thông qua các công cụ lao động”. Việc ứng dụng rộng rãi khoa học kỹ thuật
trong các lĩnh vực quản lý, vật liệu, máy móc thiết bị, công nghệ... trực tiếp tạo điều
kiện cho quá trình sản xuất có được các sản phẩm có chất lượng cao, hiện đại phù
hợp với xu thế tiêu dùng. Đây là một hướng đi hiệu quả nhất và cũng tạo được chỗ
đứng vững nhất trong cuộc chiến cạnh tranh.
Để có thể ứng dụng thành công những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất hiệu
quả nhất, các doanh nghiệp có thể thực hiện theo những cách sau:
+ Thứ nhất: Doanh nghiệp cần tập trung huy động vốn tự có hoặc vốn vay để từng
bước mua sắm và đổi mới cơ sở vật chất bao gồm : hệ thống dây chuyền sản xuất
công nghệ, hệ thống đo lường và kiểm tra chất lượng.
Co
lle
cte
d b
y H
ai
Khi áp dụng cách này, doanh nghiệp cần phải xem xét cẩn thận khi chọn mua các
loại máy móc công nghệ để tránh mua phải những máy móc cũ, tiêu tốn nhiều nhiên
- nguyên liệu... Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần chú ý mối quan hệ về vốn -
công nghệ – tiêu thụ.
+ Thứ hai: Trong điều kiện hạn chế về vốn, các doanh nghiệp có thể tập trung cải
tiến chất lượng theo hướng động viên, khuyến khích người lao động cả về vật chất
lẫn tinh thần để họ không ngừng tìm tòi, học hỏi phát huy nội lực đưa ra những sáng
kiến cải tiến kỹ thuật, tăng cường bảo dưỡng, sửa chữa máy móc thiết bị, quản lý kỹ
thuật để có thể sử dụng máy móc thiết bị được lâu dài.
+ Thứ ba: Doanh nghiệp cần có chính sách, quy chế tuyển chọn, bồi dưỡng trọng
dụng, đãi ngộ xứng đáng nhân tài. Đảm bảo điều kiện cho cán bộ khoa học chuyên
tâm vào việc nghiên cứu, tổ chức tốt thông tin khoa học để đáp ứng kịp thời nhu cầu
thông tin phục vụ cho sản xuất, tạo sự gắn kết giữa khoa học và đào tạo với quá trình
sản xuất kinh doanh.
1.3.2.2. Phát huy ý thức, nâng cao tay nghề cho đội ngũ công nhân.
Sản phẩm là kết quả của sự phối hợp sức lao động và tư liệu sản xuất. Lao động là
chất xúc tác chủ yếu phân biệt thành công hay thất bại trong công tác chất lượng.
Lao động được phân công cụ thể, có trách nhiệm và năng lực thì chất lượng sản
phẩm được nâng cao và ngược lại.
Trong điều kiện ngày nay, khi nhiều doanh nghiệp đã thay đổi, cải tiến công nghệ
sản xuất, hiện đại hoá trang thiết bị thì vấn đề đặt ra là người công nhân phải có trình
độ, hiểu biết để thích nghi với trang thiết bị mới. Mặt khác, doanh nghiệp cũng cần
nâng cao ý thức trách nhiệm của người lao động, giúp họ hiểu được vai trò của mình
đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Để tuyển chọn lực lượng công nhân đầu vào, ban lãnh đạo cần đề ra những tiêu
chuẩn cụ thể. Các công nhân phải thoả mãn được những yêu cầu của công việc sau
một thời gian thử việc và phải đảm bảo được sức khoẻ. Để không ngừng nâng cao về
tri thức, trình độ nghề nghiệp doanh nghiệp nên tuyển chọn những cán bộ quản lý,
công nhân sản xuất trực tiếp đi bồi dưỡng, đào tạo nâng cao tại các trường đại học,
cao đẳng, trung học dạy nghề... theo một phạm vi thời gian cho phép để không ảnh
hưởng đến công tác, sản xuất. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng nên thường xuyên tổ
chức các cuộc thi tay nghề để lựa chọn những người giỏi nhất làm gương sáng trong
lao động và học tập từ đó phát động phong trào thi đua sản xuất trong toàn doanh
nghiệp. Nếu thực hiện tốt điều này không những chất lượng sản phẩm được đảm bảo
mà còn tạo ra năng suất lao động cao hơn giúp doanh nghiệp hoạt động ổn định và
từng bước mở rộng thị trường.
1.3.2.3. Nâng cao trình độ quản lý, đặc biệt là quản lý kỹ thuật.
Co
lle
cte
d b
y H
ai
Đội ngũ cán bộ quản lý là bộ phận cấp cao trong doanh nghiệp. Vì vậy, họ phải là
những người đi đầu trong các hoạt động, các phong trào hướng dẫn người lao động
hiểu rõ từng việc làm cụ thể. Ban giám đốc phải nhận thức rõ nhiệm vụ của mình
trong việc cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm, từ đó đề ra đường lối chiến
lược, từng bước dìu dắt doanh nghiệp vươn lên.
Bộ máy quản lý là yếu tố chủ yếu của quá trình kiểm tra, kiểm soát. Bộ máy quản
lý tốt là bộ máy phải dựa vào lao động quản lý có kinh nghiệm, có năng lực và có
trách nhiệm cao với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Cán bộ quản lý phải
biết cách huy động khả năng của công nhân vào quá trình cải tạo và nâng cao chất
lượng sản phẩm, hợp tác khoa học kỹ thuật trong quá trình sản xuất nhằm nâng cao
kỹ năng công nghệ, trình độ quản lý và trình độ sản xuất. Hơn nữa, cán bộ quản lý
cần đi sâu tìm hiểu rõ nhu cầu, nguyện vọng của từng công nhân để cố gắng đáp ứng
đầy đủ càng tốt nhưng cũng phải có chế độ thưởng phạt nghiêm minh. Bộ máy quản
lý phải làm cho mọi thành viên trong doanh nghiệp hiểu được vấn đề nâng cao chất
lượng sản phẩm là nhiệm vụ chung của mọi phòng ban cũng như của tất cả các thành
viên trong doanh nghiệp.
1.3.2.4. Nghiên cứu thị trường để định hướng chất lượng sản phẩm.
Nhu cầu của con người là vô tận mà các doanh nghiệp dù có cố gắng đến đâu
cũng khó có thể chiều lòng được hết đòi hỏi của người tiêu dùng. Chính vì vậy,
doanh nghiệp nên đi sâu giải quyết một cách hài hoà nhất giữa những mong muốn
của khách hàng với khả năng sản xuất có thể đáp ứng được. Để thực hiện tốt nhất
điều này, các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu thị trường để phân khúc thị trường,
phân biệt từng loại khách hàng có những yêu cầu đòi hỏi khác nhau từ đó doanh
nghiệp có thể tiến hành phục vụ, cung cấp sản phẩm tận tình, chu đáo hơn.
Hơn nữa, các doanh nghiệp nên thành lập một phòng Marketing đảm nhiệm vai
trò nghiên cứu về khách hàng, nhu cầu thị trường, đối thủ cạnh tranh... để cung cấp
các chính sách về sản phẩm, giá cả, phân phối. Công việc này sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho việc quảng cáo và khuyếch trương sản phẩm. Đây là một trong những phòng
ban tuy chỉ mới được coi trọng trong những năm gần đây nhưng nó đã cho thấy hiệu
quả to lớn qua việc giải quyết tốt vấn đề phù hợp giữa giá cả, chất lượng và thị
trường, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.3.2.5. Các chính sách của Nhà nước.
Nhà nước cần có các chương trình đào tạo và giáo dục cung cấp kiến thức kinh
nghiệm cần thiết đối với việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhà nước nên có nhiều
văn bản chỉ thị về phương hướng biện pháp, chính sách nâng cao chất lượng sản
phẩm.
Co
lle
ted
by
H
ai
Chất lượng
Từ việc đáp ứng được Từ việc nhận thức được
Giả h Tă ă Giá t ị lớ hơ
Nhà nước có các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tham gia, các hội
chợ, triển lãm các mặt hàng có chất lượng cao và trao giải thưởng cho các mặt hàng
đạt chất lượng cao nhất, mẫu mã đẹp nhất. Nhà nước cũng có những chính sách cấm
nhập lậu và có các biện pháp cứng rắn đối với những cơ sở sản xuất hàng giả. Nhờ
đó thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước phải sản xuất các mặt hàng có chất lượng
cao, có khả năng cạnh tranh trong nước và quốc tế.
1.3.3. Ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng sản phẩm.
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần việc đảm bảo và nâng cao chất
lượng sản phẩm có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với nền kinh tế quốc dân. Đối với
từng doanh nghiệp, đảm bảo và nâng cao chất lượng được coi là một chiến lược có
tầm quan trọng mang tính sống còn. Chất lượng, giá cả và thời gian giao hàng tạo
thành bộ khung tam giác vàng quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp trong
cạnh tranh.
Nhờ có chất lượng sản phẩm, dịch vụ cao mà uy tín của doanh nghiệp được nâng
lên, không những giữ được những khách hàng quen thuộc mà còn thu hút được
những khách hàng tiềm năng mới. Kết quả là thị phần doanh nghiệp ngày càng được
mở rộng, tạo cơ sở lâu dài cho sự phát triển của doanh nghiệp.
Song song với sự tiến bộ như vũ bão của thời đại khoa học công nghệ và thông
tin, nền sản xuất hàng hoá cũng không ngừng phát triển, mức sống con người càng
được cải thiện thì gắn liền với nhu cầu về hàng hoá càng đa dạng, phong phú. Trong
điều kiện hiện nay, giá cả không còn là mối quan tâm duy nhất thì chất lượng là công
cụ hữu hiệu nhất để doanh nghiêp cạnh tranh.
Nâng cao chất lượng sản phẩm nghĩa là tăng tính năng sử dụng, tuổi thọ, độ an
toàn của sản phẩm, giảm mức gây ô nhiễm môi trường, tiết kiệm được nguồn tài
nguyên, tăng giá trị sử dụng trên một sản phẩm đầu ra. Nhờ đó tăng khả năng tích
luỹ cho tái sản xuất, hiện đại hoá công nghệ, máy móc thiết bị, thúc đẩy tiến bộ khoa
học kỹ thuật. Nâng cao chất lượng sản phẩm còn đồng nghĩa với tính hữu ích của sản
phẩm, thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng đồng thời giảm chi phí đi một đơn vị sản
phẩm nhờ hoàn thiện quá trình đổi mới, cải tiến hoạt động, tối thiểu hoá lãng phí,
phế phẩm hoặc sản phẩm phải sửa chữa vì vậy mà lợi nhuận được tăng cao.
Biểu đồ 1.2 : Sơ đồ biểu diễn` chất lượng làm tăng lợi nhuận.
Co
lle
cte
d b
y H
ai
Nâng cao chất lượng sản phẩm tạo cơ sở cho doanh nghiệp mở rộng thị trường
trong nước và quốc tế, khắc phục tình trạng hàng sản xuất ra không tiêu thụ được
làm ngừng trệ sản xuất, thiếu việc làm, đời sống khó khăn. Sản xuất sản phẩm chất
lượng cao, mới lạ, hấp dẫn sẽ đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng, điều này sẽ
kích thích việc đổi mới sản phẩm tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm
nhanh với số lượng lớn, giá trị bán tăng cao. Thậm chí có thể giữ vị trí độc quyền đối
với những sản phẩm đó do có những lợi thế riêng biệt so với các sản phẩm đồng loại
khác trên thị trường. Từ đó, doanh nghiệp thu được lợi nhuận cao, có điều kiện để ổn
định sản xuất, nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm tạo động lực cho doanh nghiệp
phát triển và phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh đó, người lao động có được việc làm ổn
định, tăng thu nhập và có sự tin tưởng gắn bó với doanh nghiệp, có ý thức trách
nhiệm và sự sáng tạo trong sản xuất giúp doanh nghiệp phát huy khả năng cạnh tranh
của mình.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta mở cửa hội nhập với thế giới, các doanh
nghiệp được tự do cạnh tranh trong và ngoài nước. Hàng nhập ngoại có mẫu mã rất
phong phú, đa dạng và rất tiện lợi cho người sử dụng. Các doanh nghiệp Việt Nam
muốn cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài cần phải biết vận dụng
chiến lược cơ bản trước mắt và lâu dài chính là nâng cao chất lượng sản phẩm. Chỉ
có sản phẩm, hàng hoá có chất lượng cao doanh nghiệp mới mở rộng được thị trường
Co
lle
ted
by
H
ai
mà cụ thể ở đây là mở rộng khả năng xuất khẩu. Đây chính là tiền đề để hoà nhập
vào thị trường khu vực, thị trường thế giới, tạo điều kiện phát triển kinh tế nước nhà.
Tuy nhiên, nếu chỉ chú trọng đến nâng cao chất lượng sản phẩm mà không quan
tâm đến chi phí dẫn đến giá thành quá cao không được thị trường chấp nhận lại là
một sai lầm. Vì vậy, khi các doanh nghiệp đưa ra các biện pháp nâng cao chất lượng
sản phẩm cũng cần chú ý đến chi phí tạo ra sản phẩm đó, điều kiện kinh tế - xã hội
của đất nước, thu nhập trung bình của người tiêu dùng và thị hiếu của họ để sản xuất
ra sản phẩm phù hợp.
1.4. QUẢN TRỊ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM LÀ MỘT LĨNH VỰC QUAN TRỌNG ĐỂ
BẢO ĐẢM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM.
1.4.1. Khái niệm, bản chất và nhiệm vụ của quản trị chất lượng sản phẩm.
1.4.1.1. Khái niệm về quản trị chất lượng.
Chất lượng không phải tự nhiên sinh ra, chất lượng không phải là một kết quả
ngẫu nhiên mà nó là kết quả của sự tác động hàng loạt các yếu tố có liên quan chặt
chẽ với nhau. Muốn đạt được chất lượng mong muốn cần phải quản lý một cách
đúng đắn các yếu tố này. Hoạt động quản lý trong lĩnh vực chất lượng được gọi là
quản trị chất lượng, do vậy phải có hiểu biết và kinh nghiệm đúng đắn về quản trị
chất lượng mới giải quyết tốt bài toán chất lượng.
Quản trị chất lượng là một khái niệm được phát triển và hoàn thiện liên tục, thể
hiện ngày càng đầy đủ hơn bản chất tổng hợp phức tạp của vấn đề chất lượng và
phản ánh sự thích ứng với điều kiện môi truờng kinh doanh mới. Tuy nhiên, tuỳ
thuộc vào quan điểm nhìn nhận khác nhau của các chuyên gia, các nhà nghiên cứu,
tuỳ thuộc vào đặc trưng của nền kinh tế mà người ta đưa ra nhiều khái niệm về quản
trị chất lượng. Sau đây là một số khái niệm cơ bản đặc trưng cho các giai đoạn phát
triển khác nhau cũng như nền kinh tế khác nhau:
- Theo tiêu chuẩn quốc gia Liên Xô: “ Quản trị chất lượng là việc xây dựng, đảm
bảo và duy trì mức tất yếu của sản phẩm khi thiết kế, chế tạo, lưu thông và tiêu
dùng” - Quản trị chất lượng đồng bộ, JonhS Oakland.
- Theo tiêu chuẩn công nghiệp của Nhật Bản ( JIS – Japan Industrial Standards ):
“Quản trị chất lượng là hệ thống các phương pháp tạo điều kiện sản xuất những hàng
hoá có chất lượng hoặc đưa ra những dịch vụ có chất lượng thoả mãn nhu cầu người
tiêu dùng”
*Theo ISO 8402:1994: “Quản trị chất lượng là tập hợp những hoạt động của chức
năng quản trị chung, nhằm xác định chính sách chất lượng, mục đích chất lượng,
trách nhiệm và thực hiện chúng thông qua các biện pháp như lập kế hoạch chất
lượng, điều khiển chất lượng, đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng trong khuôn
khổ một hệ thống chất lượng”.
Trong khái niệm trên, chính sách chất lượng là ý đồ và định hướng chung về chất
lượng của một tổ chức do lãnh đạo cấp cao nhất của tổ chức đề ra.
Co
lle
cte
d b
y H
ai
Lập kế hoạch chất lượng là các hoạt động thiết lập mục đích và yêu cầu chất
lượng cũng như yêu cầu về việc thực hiện các yếu tố của hệ thống chất lượng.
Kiểm soát chất lượng là những hoạt động và kỹ thuật có tính tác nghiệp được sử
dụng nhằm thực hiện các yêu cầu chất lượng.
Đảm bảo chất lượng là tập hợp những hoạt động có kế hoạch và có hệ thống được
thực hiện trong hệ thống chất lượng và được chứng minh ở mức cần thiết rằng thực
thể ( đối tượng ) sẽ hoàn thành đầy đủ các yêu cầu chất lượng.
Cải tiến chất lượng là những hoạt động được thực hiện trong toàn bộ tổ chức
nhằm nâng cao tính hiệu quả và hiệu lực của các hoạt động và quá trình để tạo thêm
lợi ích cho tổ chức và các bên có liên quan.
*Theo ISO 9000: 2000: “Quản trị chất lượng là các hoạt động có phối hợp nhằm
chỉ đạo và kiểm soát một tổ chức về chất lượng”.
Trong khái niệm trên chỉ đạo hoặc kiểm soát một tổ chức về chất lượng thường
bao gồm thiết lập chính sách chất lượng, mục tiêu chất lượng, hoạch định chất
lượng, kiểm soát chất lượng, đảm bảo và cải tiến chất lượng.
Chính sách chất lượng là ý đồ và định hướng chung của tổ chức liên quan đến
chất lượng do lãnh đạo cấp cao nhất của tổ chức đề ra.
Mục tiêu chất lượng là một phần của quản trị chất lượng là điều quan trọng nhất
được tìm kiếm hoặc hướng tới về chất lượng.
Hoạch định chất lượng là một phần của quản trị chất lượng tập trung vào việc
thiết lập các mục tiêu và định rõ quá trình tác nghiệp cần thiết, các nguồn lực có liên
quan để thoả mãn các mục tiêu chất lượng.
Kiểm soát chất lượng là một phần của quản trị chất lượng tập trung vào việc thoả
mãn các yêu cầu chất lượng.
Đảm bảo chất lượng là một phần của quản trị chất lượng tập trung vào việc tạo
lòng tin rằng các yêu cầu được thoả mãn.
Cải tiến chất lượng là một phần của quản trị chất lượng tập trung vào việc nâng
cao tính hiệu quả và hiệu lực của quá trình để tạo thêm lợi ích cho tổ chức và các bên
có liên quan.
1.4.1.2. Bản chất của quản trị chất lượng.
Quản trị chất lượng là việc ấn định mục tiêu, đề ra nhiệm vụ, tìm con đường đạt
tới một hiệu quả cao nhất. Mục tiêu của quản trị chất lượng trong các doanh nghiệp
là đảm bảo chất lượng phù hợp với yêu cầu của khách hàng với chi phí thấp nhất. Đó
là sự kết hợp giữa nâng cao những đặc tính kinh tế - kỹ thuật hữu ích của sản phẩm
đồng thời giảm lãng phí và khai thác mọi tiềm năng để mở rộng thị trường. Thực
hiện tốt công tác quản trị chất lượng sẽ giúp các doanh nghiệp phản ứng nhanh với
nhu cầu thị trường, mặt khác cũng góp phần giảm chi phí trong sản xuất kinh doanh.
Thực chất của quản trị chất lượng là một tập hợp các hoạt động chức năng quản trị
như hoạch định, tổ chức, kiểm soát và điều chỉnh. Đó là một hoạt động tổng hợp về
kinh tế - kỹ thuật và xã hội. Chỉ khi nào toàn bộ các yếu tố về kinh tế - xã hội, công
Co
lle
cte
d b
y H
ai
Tiêu chuẩn
Mua sắm
nguyên vật
liệu
Quá trình
ả ấ
Kiểm chứng
đo lường
thử nghiệm
Kiểm tra Đạt
Tác động
ngược
Bỏ đi hoặc
xử lý lại
nghệ và tổ chức được xem xét đầy đủ trong mối quan hệ thống nhất rằng buộc với
nhau trong hệ thống chất lượng mới có cơ sở để nói rằng chất lượng sản phẩm sẽ
được đảm bảo.
Quản trị chất lượng phải được thực hiện thông qua một số cơ chế nhất định bao
gồm những chỉ tiêu, tiêu chuẩn đặc trưng về kinh tế - kỹ thuật biểu thị mức độ thoả
mãn nhu cầu thị trường, một hệ thống tổ chức điều khiển về hệ thống chính sách
khuyến khích phát triển chất lượng. Chất lượng được duy trì, đánh giá thông qua
việc sử dụng các phương pháp thống kê trong quản trị chất lượng.
Hoạt động quản trị chất lượng không chỉ là hoạt động quản trị chung mà còn là
các hoạt động kiểm tra, kiểm soát trực tiếp từ khâu thiết kế triển khai đến sản xuất
sản phẩm, mua sắm nguyên vật liệu, kho bãi, vận chuyển, bán hàng và các dịch vụ
sau bán hàng.
Biểu đồ 1.3 : Sơ đồ biểu diễn hoạt động quản trị chất lượng.
Quản trị chất lượng được thực hiện thông qua chính sách chất lượng, mục tiêu
chất lượng, hoạch định chất lượng, kiểm soát chất lượng, đảm bảo và cải tiến chất
lượng.
1.4.1.3. Nhiệm vụ của quản trị chất lượng.
Nhiệm vụ của quản trị chất lượng là xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượng trong
các doanh nghiệp. Trong đó:
+ Nhiệm vụ đầu tiên: Xác định cho được yêu cầu chất lượng phải đạt tới ở từng
giai đoạn nhất định. Tức là phải xác định được sự thống nhất giữa thoả mãn nhu cầu
thị trường với những điều kiện môi trường kinh doanh cụ thể.
Co
lle
cte
d b
y H
ai
+ Nhiệm vụ thứ hai là: Duy trì chất lượng sản phẩm bao gồm toàn bộ những biện
pháp nhằm bảo đảm những tiêu chuẩn đã được quy định trong hệ thống.
+ Nhiệm vụ thứ ba: Cải tiến chất lượng sản phẩm. Nhiệm vụ này bao gồm quá
trình tìm kiếm, phát hiện, đưa ra tiêu chuẩn mới cao hơn hoặc đáp ứng tốt hơn những
đòi hỏi của khách hàng. Trên cơ sở đánh giá, liên tục cải tiến những quy định, tiêu
chuẩn cũ để hoàn thiện lại, tiêu chuẩn hoá tiếp. Khi đó chất lượng sản phẩm của
doanh nghiệp không ngừng được nâng cao.
+ Nhiệm vụ thứ tư là: Quản trị chất lượng phải được thực hiện ở mọi cấp, mọi
khâu, mọi quá trình. Nó vừa có ý nghĩa chiến lược vừa mang tính tác nghiệp.
Ở cấp cao nhất của doanh nghiệp thực hiện quản trị chiến lược chất lượng. Cấp
phân xưởng và các bộ phận thực hiện quản trị tác nghiệp chất lượng. Tất cả các bộ
phận, các cấp đều có trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn và lợi ích trong quản trị chất
lượng của doanh nghiệp.
1.4.2. Những yêu cầu chủ yếu trong quản trị chất lượng.
Quản trị chất lượng là một lĩnh vực quản trị có những đặc thù riêng, nó đòi hỏi
phải thực hiện những yêu cầu chủ yếu sau:
- Chất lượng phải thực sự trở thành mục tiêu hàng đầu có vai trò trung tâm
trong hoạt động của các doanh nghiệp. Trước hết, cần có sự cam kết, quyết tâm thực
hiện của mọi thành viên trong doanh nghiệp đặc biệt là sự cam kết của giám đốc.
- Thứ hai phải coi chất lượng là nhận thức của khách hàng. Mức độ thoả mãn
nhu cầu của khách hàng chính là mức độ chất lượng đạt được. Khách hàng là người
đánh giá, xác định mức độ chất lượng đạt được chứ không phải các nhà quản lý hay
người sản xuất.
- Tập trung vào yếu tố con người, con người là nhấn tố cơ bản có ý nghĩa quyết
định đến việc tạo ra và nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ. Tất cả mọi thành
viên từ giám đốc, các cán bộ quản lý cho đến người lao động đều phải xác định được
vai trò và trách nhiệm trong việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm. Bên
cạnh đó, cần nâng cao về nhận thức, tinh thần trách nhiệm, đào tạo tay nghề cho cán
bộ, công nhân sản xuất.
- Đảm bảo tính đồng bộ và toàn diện. Công tác quản trị chất lượng phải là kết
quả của một hệ thống các giải pháp mang tính đồng bộ. Có nghĩa là phải có sự phối
hợp nhịp nhàng đầy trách nhiệm giữa các khâu, các bộ phận vì mục tiêu chất lượng.
Tạo ra sự quyết tâm, nhất quán và thống nhất trong phương hưóng chiến lược cũng
như phương châm hoạt động trong Ban giám đốc.
- Các doanh nghiệp cũng cần thiết sử dụng vòng tròn chất lượng và các công cụ
thống kê trong quản trị chất lượng.
- Quản trị chất lượng được thực hiện bằng hành động cho nên cần văn bản hoá
các hoạt động có liên quan đến chất lượng.
-
1.4.3. Các chức năng cơ bản của quản trị chất lượng.
Co
lle
cte
d
y H
ai
A P
D C
P
A C
D
Quản trị chất lượng được thực hiện liên tục thông qua triển khai vòng tròn
Deming ( PDCA ).
Theo phương pháp này, cán bộ quản lý thiết lập vòng tròn Deming và kết thúc
mỗi quá trình thực hiện có thể ghi ra thành văn bản trong nội bộ doanh nghiệp, sau
đó phải xét lại những tiêu chuẩn đã thực hiện được ở trên và áp dụng vòng tròn mới.
Quá trình này được thực hiện lặp đi lặp lại thành một vòng tuần hoàn liên tục, nhờ
đó làm cho chất lượng sản phẩm trong các doanh nghiệp không ngừng được hoàn
thiện, cải tiến và đổi mới.
Vòng tròn chất lượng.
1.4.3.1. Chức năng hoạch định chất lượng ( P - Plan ).
Đây là chức năng quan trọng nhất và cũng là giai đoạn đầu tiên của quản trị chất
lượng. Hoạch định chất lượng chính xác, đầy đủ sẽ giúp định hưóng tốt các hoạt
động tiếp theo bởi tất cả chúng đều phụ thuộc vào kế hoạch. Nếu kế hoạch ban đầu
được xác định tốt thì sẽ cần ít các hoạt động phải điều chỉnh và các hoạt động sẽ
được điều khiển một cách có hiệu quả hơn. Đó là lý do tại sao hoạch định chất lượng
được coi là chức năng quan trọng nhất cần ưu tiên hàng đầu hiện nay. Tuy nhiên,
điều này không có nghĩa là xem nhẹ các hoạt động khác.
Hoạch định chất lượng là hoạt động xác định mục tiêu các phương tiện nguồn lực
và biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu chất lượng sản phẩm. Hoạch định chất lượng
cho phép xác định mục tiêu, phương hướng phát triển chất lượng chung cho toàn
công ty theo một hướng thống nhất. Tạo điều kiện khai thác và sử dụng có hiệu quả
hơn các nguồn lực và tiềm năng trong dài hạn, góp phần giảm chi phí cho chất
lượng, nâng cao khả năng cạnh tranh, giúp các doanh nghiệp chủ động thâm nhập và
mở rộng thị trường đặc biệt là thị trường thế giới. Hoạch định chất lượng còn tạo ra
sự chuyển biến căn bản về phương pháp quản trị chất lượng sản phẩm của các doanh
nghiệp.
Nội dung chủ yếu của hoạch định chất lượng bao gồm:
+ Xây dựng chương trình, chiến lược, chính sách chất lượng và kế hoạch hoá
chất lượng.
Co
lle
ted
by
H
ai
+ Xác định vai trò của chất lượng trong chiến lược sản xuất. Cách tiếp cận được
sử dụng trong quá trình sản xuất và tác nghiệp, cần bổ sung các chiến lược tổng quát
của doanh nghiệp.
+ Xác định những yêu cầu chất lượng phải đạt tới ở từng giai đoạn nhất định, tức
là phải xác định được sự thống nhất giữa thoả mãn nhu cầu thị trường với những
điều kiện môi trường kinh doanh cụ thể nhất định với chi phí tối ưu.
+ Đề ra phương hướng, kế hoạch cụ thể để thực hiện được những mục tiêu chất
lượng đề ra.
+ Cuối cùng là xác định kết quả dài hạn của những biện pháp thực hiện.
Khi hoàn thành các kế hoạch chất lượng cần phải cân đối tính toán các nguồn lực
như : lao động, nguyên vật liệu và nguồn tài chính cần thiết để thực hiện những mục
tiêu, kế hoạch đề ra. Dự tính trước và đưa chúng vào thành một bộ phận không thể
tách rời trong kế hoạch sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Ngoài các nguồn
lực vật chất cần thiết cũng cần vạch ra những lịch trình về thời gian và phát hiện, xác
định những phương pháp, biện pháp có tính khả thi trong những điều kiện giới hạn
hiện có về các nguồn lực để đảm bảo tính hiện thực và hợp lý của các kế hoạch.
1.4.3.2. Chức năng tổ chức thực hiện ( D - Do ).
Tổ chức thực hiện có ý nghĩa quyết định đến việc biến các ý tưởng ở khâu hoạch
định thành hiện thực. Thực chất đây là quá trình triển khai thực hiện các chính sách,
chiến lược và kế hoạch chất lượng thông qua các hoạt động, những kỹ thuật, những
phương tiện, phương pháp cụ thể nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm theo đúng
những yêu cầu kế hoạch đặt ra. Để làm tốt chức năng này, những bước sau đây cần
được tiến hành theo trật tự nhằm đảm bảo các kế hoạch sẽ được điều khiển một cách
hợp lý:
+ Tạo sự nhận thức một cách đầy đủ về mục tiêu chất lượng và sự cần thiết, lợi
ích của việc thực hiện các mục tiêu đó đối với những người có trách nhiệm.
+ Giải thích cho mọi người biết rõ, chính xác những nhiệm vụ kế hoạch chất
lượng cụ thể, cần thiết phải thực hiện cho từng giai đoạn.
+ Tổ chức những chương trình đào tạo và giáo dục, cung cấp những kiến thức
kinh nghiệm cần thiết đối với việc thực hiện kế hoạch.
+ Xây dựng, ban hành hệ thống tiêu chuẩn qui trình bắt buộc.
+ Cung cấp đầy đủ các nguồn lực ở những nơi, những lúc cần thiết, có những
phương tiện kỹ thuật để kiểm soát chất lượng.
1.4.3.3. Chức năng kiểm tra, kiểm soát ( C - Check ).
Để đảm bảo các mục tiêu chất lượng dự kiến được thực hiện theo đúng yêu cầu kế
hoạch đặt ra trong quá trình tổ chức thực hiện, cần tiến hành các hoạt động kiểm tra
kiểm soát chất lượng. Đó là hoạt động theo dõi, thu thập, phát hiện và đánh giá
những khuyết tật của sản phẩm. Mục đích của kiểm tra là tìm kiếm, phát hiện những
nguyên nhân gây ra khuyết tật của sản phẩm và sự biến thiên của quá trình để có
những biện pháp ngăn chặn kịp thời.
Những nhiệm vụ chủ yếu của kiểm tra, kiểm soát chất lượng là:
Co
lle
cte
d b
y H
ai
+ Theo dõi tình hình thực hiện, tổ chức thu thập thông tin và các dữ kiện cần
thiết về chất lượng thực hiện.
+ Đánh giá tình hình thực hiện chất lượng và xác định mức độ chất lượng đạt
được trong thực tế của doanh nghiệp.
+ So sánh chất lượng thực tế với kế hoạch để phát hiện các sai lệch và đánh giá
các sai lệch đó trên các phương tiện kinh tế - kỹ thuật và xã hội.
+ Phân tích các thông tin nhằm tìm kiếm và phát hiện các nguyên nhân dẫn đến
việc thực hiện đi chệch so với kế hoạch đặt ra.
Khi thực hiện kiểm tra các kết quả thực hiện kế hoạch cần đánh giá hai vấn đề cơ
bản:
Mức độ tuân thủ nghiêm túc kế hoạch đã vạch ra.
+ Quá trình có đảm bảo đúng thủ tục, yêu cầu và kỷ luật không.
+ Các giai đoạn có được tôn trọng hay bỏ sót.
+ Các tiêu chuẩn có được duy trì và cải tiến không.
Tính chính xác, đầy đủ và khả thi của bản thân kế hoạch.
Nếu mục tiêu không đạt được có nghĩa là một trong hai hoặc cả hai điều kiện trên
không được thoả mãn. Cần thiết phải xác định rõ nguyên nhân để đưa ra những hoạt
động điều chỉnh khác nhau cho thích hợp.
Có nhiều phương pháp để kiểm tra chất lượng sản phẩm như: phương pháp thử
nghiệm, phương pháp trực quan, phương pháp thống kê, phương pháp chọn mẫu,
phương pháp thống kê, phương pháp dùng thử...
1.4.3.4. Chức năng điều chỉnh và cải tiến (A - Action ).
Hoạt động điều chỉnh nhằm làm cho các hoạt động của hệ thống quản trị doanh
nghiệp được phối hợp đồng bộ, khắc phục các tồn tại và có khả năng thực hiện được
những tiêu chuẩn chất lượng đề ra đồng thời cũng là hoạt động đưa chất lượng sản
phẩm thích ứng với tình hình mới nhằm giảm dần khoảng cách giữa những mong
muốn của khách hàng và thực tế chất lượng đạt được, thoả mãn nhu cầu của khách
hàng ở mức cao hơn.
Các bước công việc chủ yếu của chức năng điều chỉnh và cải tiến là:
+ Xác định những đòi hỏi cụ thể về cải tiến chất lượng từ đó xây dựng các dự án
cải tiến chất lượng.
+ Cung cấp các nguồn lực cần thiết như tài chính, kỹ thuật, lao động.
+ Động viên, đào tạo và khuyến khích các quá trình thực hiện dự án cải tạo chất
lượng.
Khi các chỉ tiêu không đạt được, cần phải phân tích tình hình nhằm xác định xem
vấn đề thuộc về kế hoạch hay việc thực hiện kế hoạch để tìm ra nguyên nhân sai sót
từ đó tiến hành các hoạt động điều chỉnh. Sửa lại những phế phẩm và phát hiện
những sai sót trong thực hiện bằng việc làm thêm giờ đều là những hoạt động nhằm
khắc phục hậu quả chứ không phải xoá bỏ nguyên nhân. Để phòng tránh các phế
phẩm, ngay từ đầu phải tìm và loại bỏ những nguyên nhân từ khi chúng còn ở dạng
tiềm tàng.
Co
lle
cte
d b
y H
ai
Khi cần thiết có thể điều chỉnh mục tiêu chất lượng. Thực chất, đó là quá trình cải
tiến chất lượng cho phù hợp với điều kiện và môi trường kinh doanh mới của doanh
nghiệp. Quá trình cải tiến thực hiện theo các hướng chủ yếu sau:
+ Thay đổi quá trình nhằm giảm khuyết tật.
+ Thực hiện công nghệ mới.
+ Phát triển sản phẩm mới, đa dạng hoá sản phẩm.
Yêu cầu đặt ra với cải tiến chất lượng là tiến hành cải tiến đặc điểm sản phẩm, đặc
điểm quá trình nhằm giảm những sai sót, trục trặc trong thực hiện và giảm tỷ lệ
khuyết tật của sản phẩm.
1.4.4. Nội dung của quản trị chất lượng trong các doanh nghiệp.
Quản trị chất lượng sản phẩm là một hoạt động sâu rộng bao trùm từ khâu đầu tiên
đến khâu cuối cùng thông qua công tác kiểm tra.
1.4.4.1. Quản trị chất lượng trong khâu thiết kế.
Đây là phân hệ đầu tiên trong quản trị chất lượng. Những thông số kinh tế - kỹ
thuật thiết kế đã được phê chuẩn là tiêu chuẩn chất lượng quan trọng mà sản phẩm
sản xuất ra phải tuân thủ. Chất lượng thiết kế sẽ tác động trực tiếp đến chất lượng
của mỗi một sản phẩm. Để thực hiện tốt khâu này cần thực hiện những nhiệm vụ
quan trọng sau:
- Tập hợp, tổ chức phối hợp giữa các nhà thống kê, các nhà quản trị Marketing,
tài chính, cung ứng để thiết kế sản phẩm. Chuyển hoá những đặc điểm nhu cầu của
khách hàng thành đặc điểm của sản phẩm. Thiết kế là quá trình nhằm đảm bảo thực
hiện những đặc điểm sản phẩm đã được xác định để thoả mãn nhu cầu của khách
hàng. Kết quả của thiết kế là các quá trình, đặc điểm sản phẩm, các bản sơ đồ thiết
kế và lợi ích của sản phẩm đó.
- Đưa ra các phương án khác nhau về đặc điểm sản phẩm có thể đáp ứng được
các nhu cầu của khách hàng. Đặc điểm của sản phẩm có thể lấy từ sản phẩm cũ hay
cải tiến những đặc điểm cũ cho thích ứng với đòi hỏi mới hay từ nghiên cứu thiết kế
ra những đặc điểm hoàn toàn mới.
- Thử nghiệm và kiểm tra các phương án nhằm chọn ra phương án tối ưu.
- Quyết định những đặc điểm sản phẩm đã lựa chọn. Các đặc điểm của sản phẩm
thiết kế phải đáp ứng những yêu cầu sau:
+ Đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
+ Thích ứng với khả năng.
+ Đảm bảo tính cạnh tranh.
+ Tối thiểu hoá chi phí.
- Những chỉ tiêu chủ yếu cần kiểm tra là :
+ Trình độ chất lượng sản phẩm.
Co
lle
cte
d b
y H
ai
+ Chỉ tiêu tổng hợp về tài liệu thiết kế, công nghệ và chất lượng chế thử.
+ Hệ số khuyết tật của sản phẩm chế thử, chất lượng các biện pháp điều chỉnh.
+ Hệ số chất lượng của thiết bị, công nghệ cho sản xuất hàng loạt.
1.4.4.2. Quản trị chất lượng trong khâu cung ứng.
Mục tiêu của quản trị chất lượng trong khâu cung ứng nhằm đáp ứng đúng chủng
loại, số lượng, thời gian, địa điểm và các đặc tính kinh tế - kỹ thuật cần thiết của
nguyên vật liệu đảm bảo cho quá trình sản xuất được tiến hành thường xuyên, liên
tục với chi phí thấp nhất.
Quản trị chất lượng trong khâu cung ứng gồm các nội dung sau:
- Lựa chọn người cung ứng có đủ khả năng đáp ứng những đòi hỏi về chất lượng
vật tư nguyên liệu.
- Tạo lập hệ thống thông tin phản hồi chặt chẽ, thường xuyên, cập nhật.
- Thoả thuận về việc đảm bảo chất lượng vật tư cung ứng.
- Thoả thuận về phương pháp kiểm tra, xác minh.
- Xác định các phương án giao nhận.
- Xác định rõ ràng, đầy đủ và thống nhất các điều khoản trong giải quyết những
trục trặc, khiếm khuyết.
1.4.4.3. Quản trị chất lượng trong khâu sản xuất.
Mục đích của quản trị chất lượng trong sản xuất là khai thác, huy động có hiệu
quả các quá trình, công nghệ, thiết bị và con người đã lựa chọn để sản xuất sản phẩm
có chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn thiết kế. Để thực hiện mục tiêu trên có hiệu
quả, quản trị chất lượng trong giai đoạn này cần thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Cung ứng vật tư nguyên liệu đúng số lượng, chất lượng, chủng loại, thời gian
và địa điểm.
- Kiểm tra chất lượng vật tư nguyên liệu đưa vào sản xuất.
- Thiết lập và thực hiện các tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục, thao tác thực hiện từng
công việc.
- Kiểm tra chất lượng các chi tiết, bộ phận bán thành phẩm sau từng công đoạn.
Phát hiện sai sót và tìm nguyên nhân sai sót để loại bỏ.
- Kiểm tra chất lượng sản phẩm hoàn chỉnh.
- Đánh giá chung về chất lượng sản phẩm thông qua các thông số kỹ thuật, tỷ lệ
sản phẩm sai hỏng.
1.4.4.4. Quản trị chất lượng trong và sau khi bán hàng.
Mục tiêu của quản trị chất lượng trong giai đoạn này nhằm đảm bảo thoả mãn
khách hàng một cách nhanh nhất, thuận tiện nhất với chi phí thấp nhất nhờ đó mà
nâng cao uy tín, danh tiếng của doanh nghiệp. Ngoài mục tiêu trên, rất nhiều doanh
nghiệp còn thu được lợi nhuận lớn từ hoạt động dịch vụ sau khi bán hàng. Vì vậy,
những năm gần đây công tác đảm bảo chất lượng được các doanh nghiệp rất chú ý
và mở rộng phạm vi, tính chất các hoạt động dịch vụ.
Nhiệm vụ chủ yếu của quản trị chất lượng trong giai đoạn này là:
Co
lle
cte
d b
y H
ai
- Tạo danh mục sản phẩm hợp lý.
- Tổ chức mạng lưới đại lý phân phối, dịch vụ thuận lợi, nhanh chóng.
- Thuyết minh hướng dẫn đầy đủ các thuộc tính sử dụng, điều kiện sử dụng,
quy phạm sử dụng sản phẩm.
- Nghiên cứu, đề xuất những phương án bao gói vận chuyển, bảo quản, bốc dỡ
sản phẩm hợp lý nhằm tăng năng suất, hạ giá thành.
- Tổ chức bảo hành.
- Tổ chức dịch vụ kỹ thuật thích hợp sau khi bán hàng.
1.4.5.Vai trò của quản trị chất lượng với việc nâng cao chất lượng sản phẩm.
Có thể nói, trong giai đoạn hiện nay quản trị chất lượng chiếm vai trò rất quan
trọng. Quản trị chất lượng là một phần trong hệ thống quản trị kinh doanh của các
doanh nghiệp, là phương tiện cần thiết để đảm bảo rằng chất lượng sản phẩm của
doanh nghiệp luôn ổn định. Quản trị chất lượng không những làm cho chất lượng sản
phẩm và dịch vụ thoả mãn tốt hơn nhu cầu của khách hàng mà còn nâng cao hiệu
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hơn nữa, quản trị chất lượng
còn giúp các doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để hướng tới mục tiêu
chung. Nhờ có quản trị chất lượng mà doanh nghiệp duy trì và đảm bảo thực hiện
các tiêu chuẩn chất lượng đề ra và phát hiện, thực hiện các cơ hội cải tiến chất lượng
thích hợp hơn với những mong đợi của khách hàng cả về tính hữu ích lẫn giá cả. Đây
chính là cơ sở để chiếm lĩnh và mở rộng thị trường, tăng khả năng cạnh tranh về chất
lượng, giá cả, củng cố và tăng cường vị thế, uy tín doanh nghiệp trên thị trường.
Để nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ, các doanh nghiệp có thể tập trung
cải tiến công nghệ hoặc sử dụng công nghệ mới hiện đại hơn. Hướng đi này rất quan
trọng nhưng gắn với chi phí ban đầu lớn và nếu quản lý việc đổi mới máy móc công
nghệ sẽ gây tốn kém rất lớn. Mặt khác, có thể nâng cao chất lượng trên cơ sở giảm
chi phí và tăng cường công tác quản lý chất lượng. Chất lượng sản phẩm được tạo ra
từ quá trình sản xuất, các yếu tố lao động, công nghệ và con người kết hợp chặt chẽ
với nhau theo những hình thức khác nhau thì sẽ tạo thành những sản phẩm, dịch vụ
khác nhau. Do vậy, tăng cường công tác quản trị chất lượng sẽ giúp doanh nghiệp
xác định đầu tư đúng hướng, khai thác quản lý sử dụng máy móc thiết bị, công nghệ
và con người đạt hiệu quả cao hơn nhất là yếu tố sáng tạo của con người trong việc
cải tiến không ngừng chất lượng sản phẩm dịch vụ. Hơn nữa, quản trị chất lượng
đảm bảo sự kết hợp thống nhất giữa chính sách chất lượng của doanh nghiệp với
chính sách các bộ phận trong doanh nghiệp, đem lại sự tin tưởng trong nội bộ doanh
nghiệp và tạo cho mọi thành viên trong doanh nghiệp thêm nhiệt tình thực hiện công
việc được giao.
1.5. SỰ CẦN THIẾT PHẢI QUẢN TRỊ ĐỊNH HƯỚNG CHẤT LƯỢNG Ở CÁC DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY.
1.5.1. Sự cần thiết quản trị chất lượng định hướng theo ISO 9000.
Co
lle
cte
d b
y H
ai
Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, chất lượng vừa là một bài toán
vừa là một cơ hội. Là cơ hội vì người tiêu dùng ngày nay trên mọi quốc gia ngày
càng quan tâm đến chất lượng hàng hoá và dịch vụ mà họ mua; hệ thống thông tin lại
mang tính chất toàn cầu nên các doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi trong việc học
hỏi kinh nghiệm, rút ngắn quãng đường mà những nguời đi trước đã trải qua. Là một
bài toán vì các doanh nghiệp trong các quốc gia phát triển đã tiến rất xa trong việc
cung cấp sản phẩm và dịch vụ có chất lượng tốt. Để lấp được khoảng cách này là
một công việc khó khăn vì nó đòi hỏi các doanh nghiệp phải thay đổi cách suy nghĩ
và cung cách quản lý đã hình thành lâu đời.
Bước vào thời kỳ mở cửa, nền kinh tế nước ta chỉ có thể phát triển và đạt được
hiệu quả cao bằng con đường chất lượng. Khả năng cạnh tranh của mỗi nước đều
phụ thuộc vào khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nước đó. Vấn đề mang tính
cấp bách đối với các doanh nghiệp nước ta hiện nay là nâng cao chất lượng sản phẩm
để theo kịp với trình độ về chất lượng sản phẩm ở các nước trong khu vực và thế
giới. Xét trên giác độ sử dụng sản phẩm, trong những điều kiện nhất định việc nâng
cao chất luợng tương đương với việc tăng năng suất lao động xã hội.
Hiện nay, có hai hệ thống quản trị chất lượng phổ biến đó là : quản trị chất lượng
theo ISO 9000 và TQM. Cả hai hệ thống này đều có chung mục đích là thoả mãn
mọi nhu cầu của khách hàng. Ở TQM, việc thực hiện tham gia đảm bảo chất lượng là
trách nhiệm của mọi thành viên trong doanh nghiệp, mọi thành viên phải cùng quan
tâm cải tiến công việc, có tinh thần hợp tác cao, ngăn ngừa khuyết tật, tạo ra sản
phẩm hoàn hảo phù hợp với nhu cầu của nguời tiêu dùng. Còn ở ISO 9000 việc thực
hiện đảm bảo chất lượng là thông qua các chính sách được thấu hiểu và duy trì ở mọi
cấp cơ sở dưới sự kiểm soát của bên thứ ba ( bên chứng nhận ). TQM thực hiện cải
tiến liên tục ở từng khâu, từng quá trình, sử dụng một số phương pháp quản trị theo
quá trình, sử dụng kỹ thuật thống kê, kiểm soát quá trình bằng thống kê. Với ISO
9000, việc cải tiến được thực hiện liên tục thông qua đánh giá nội bộ, các biện pháp
phòng ngừa, ngăn chặn khuyết tật, xem xét của lãnh đạo và hoạch định chất lượng.
Nhiều chuyên gia đã nhận xét rằng áp dụng ISO 9000 chính là xây dựng nền
móng vững chắc để đạt tới quản trị chất lượng toàn diện. Vì nếu áp dụng TQM mà
chưa có được nền móng vững chắc của quản trị chất lượng hay phó mặc hoạt động
quản trị chất lượng cho các chuyên gia thì về lâu dài hoạt động cải tiến chất lượng sẽ
không có hiệu quả. TQM cần dựa trên nền móng của một hệ thống quản trị chất
lượng và các phương pháp kiểm soát chất lượng kèm theo mới giúp cho doanh
nghiệp thành công trong môi trường cạnh tranh mang tính toàn cầu, mà hệ thống
quản trị chất lượng dựa trên bộ ISO 9000 chính là nền móng nói trên.
Để hoà nhập vào xu hướng chung trên thị trường trong nước và quốc tế, việc áp
dụng quản trị chất lượng định hướng theo ISO 9000 tiến tới TQM là giải pháp cần
thiết và hàng đầu không thể thiếu ở mỗi doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Nó không
những đem lại lợi ích cho bản thân doanh nghiệp về cách quản trị có hiệu lực và hiệu
Co
lle
cte
d b
y H
ai
quả các hoạt động có liên quan đến chất lượng mà còn là một bằng chứng về năng
lực của doanh nghiệp trong việc đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên
quan tâm. Một mặt là tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, mặt khác là tạo sự
phát triển bền vững của nền kinh tế nước ta.
1.5.2. Quản trị định hướng chất lượng sản phẩm là điều kiện thiết yếu để các
doanh nghiệp Việt Nam hoạt động có hiệu quả trong cơ chế kinh tế hiện nay.
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế, tình hình
quản trị chất lượng ở nước ta đã có những khởi sắc mới, tiến bộ mới. Các tổ chức đã
chú trọng đến nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng Việt Nam bước đầu
đã chiếm lĩnh được thị trường và được người tiêu dùng chấp nhận.
Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hiện nay cùng
với quá trình mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực, cạnh tranh trên
thị trường ngày càng gay gắt và quyết liệt, chất lượng sản phẩm đang trở thành vấn
đề sống còn của các doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi chúng ta phải nâng cao chất
lượng sản phẩm hơn nữa để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp đồng
thời tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Điều này càng trở nên quan trọng hơn khi đất nước chúng ta là thành viên chính
thức của ASEAN và trong tương lai không xa sẽ trở thành thành viên chính thức của
tổ chức thương mại quốc tế WTO. Để tham gia vào thị trường thương mại quốc tế
phải thực hiện các chính sách thuế, các quy định về xuất xứ hàng hoá, phải thống
nhất với các hệ thống tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng, về độ an toàn với hàng hoá
xuất khẩu.
Trong bối cảnh trên, cũng như nhiều ngành kinh tế sản xuất hàng tiêu dùng khác,
chuyển sang hoạt động kinh doanh độc lập, ngành may Việt Nam – một ngành kinh
tế xuất khẩu quan trọng lại càng có thêm chính sách nhằm nâng cao chất lượng sản
phẩm để tránh tình trạng “ may mướn “ như hiện nay. Thực tế nhiều năm qua cho
thấy sản phẩm may mặc của Việt Nam nhờ đầu tư đổi mới máy móc thiết bị công
nghệ, cải tiến cách thức quản trị, chúng ta đã tạo ra những sản phẩm có chất lượng
tốt và tạo được uy tín trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, nếu đem so sánh với sản
phẩm của các đối thủ cạnh tranh khác như Trung Quốc, Hàn Quốc... thì sản phẩm
của chúng ta vẫn chưa đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường cả về số lượng,
chất lượng và mẫu mã kiểu dáng. Hơn nữa, hoạt động sản xuất may mặc quần áo ở
nước ta chủ yếu là thực hiện hợp đồng gia công với giá trị thấp.
Trong bối cảnh và xu thế thời đại, để tăng cường hội nhập nền kinh tế nước ta với
các nước trong khu vực và thế giới, việc đổi mới nhận thức, cách tiếp cận và xây
dựng mô hình quản trị mới phù hợp với các doanh nghiệp Việt Nam là một yêu cầu
cấp bách. Các doanh nghiệp Việt Nam phải đứng trước sự lựa chọn “ Chất lượng hay
thất bại ” trong sân chơi và luật chơi quốc tế một cách bình đẳng, chấp nhận sự cạnh
tranh quyết liệt và không khoan nhượng với mọi đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
Co
lle
cte
d b
y H
ai
Hiện nay, xu hướng chung của phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam là áp dụng
mô hình quản trị chất lượng theo ISO 9000 và TQM bởi những lý do sau:
- Các tiêu chuẩn quốc tế nói trên không chỉ áp dụng riêng cho doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh mà có thể áp dụng được cho tất cả các doanh nghiệp, các tổ chức
kinh tế xã hội đặc biệt là ISO 9000 phiên bản năm 2000.
- Tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000 không phải là các chỉ tiêu bắt buộc mà là tiêu chuẩn
hướng dẫn cho các doanh nghiệp áp dụng trong việc xây dựng hệ thống chất
lượng cho doanh nghiệp mình.
- Quản trị chất lượng chịu ảnh hưởng rất lớn của yếu tố văn hoá, phong tục tập
quán và nếp sống, tác phong của cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng. Có thể
nói rằng người Việt Nam chúng ta hiện nay có nhiều ưu điểm như tài nguyên
thiên nhiên dồi dào, điều kiện khí hậu thuận lợi, được nhà nước hỗ trợ đầu tư và
khuyến khích sản xuất, trình độ tri thức và tay nghề người lao động được nâng
cao..., tuy nhiên vẫn còn tồn tại những nhược điểm như tính tự nguyện, tự giác
chưa cao. Vì vậy việc đưa ra hoặc áp dụng theo một tiêu chuẩn nào đó mang tính
tự nguyện vừa mang tính pháp chế là một cách làm phù hợp nhất.
Việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 đã đem lại những lợi ích thiết
thực cho doanh nghiệp.
Tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, đồng đều và ổn định hơn. Mặt khác giảm
được đáng kể việc tái tạo lại, sửa chữa lại những sản phẩm hư hỏng, khuyết tật và
giảm sự khiếu nại, không đồng tình của khách hàng.
Nhờ hệ thống hồ sơ, văn bản được tiêu chuẩn hoá làm cho các quy định, quy
tắc, thủ tục, trách nhiệm trong khi thực hiện công việc được qui định phải rõ ràng,
mạch lạc và chính xác. Do vậy mà hiệu quả công việc của các phòng ban, các bộ
phận cũng như của các thành viên trong doanh nghiệp được nâng cao.
Giúp cho việc nâng cao nhận thức, trình độ cũng như phương pháp tư duy của
lãnh đạo và mọi người trong doanh nghiệp, tạo ra phong trào làm việc thực sự khoa học.
Hệ thống quản lý chất lượng theo ISO 9000 xây dựng mối quan hệ giữa các
phòng ban, các bộ phận gắn bó chặt chẽ hơn trên cơ sở hợp tác do việc xác định sự
liên quan của mỗi thành viên, của mỗi đơn vị phòng ban, bộ phận đến vấn đề chất
lượng.
Ngoài ra mỗi doanh nghiệp cũng thu được những lợi ích riêng khác nhờ việc áp
dụng hệ thống chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000 như giảm chi phí, mở rộng thị
phần của doanh nghiệp tạo nên hình ảnh mới của công ty trên thị trường trong nước
và thế giới.
Như vậy, chúng ta thấy được lợi ích của việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng
theo ISO 9000 là rất lớn, nó không chỉ nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty mà
còn tạo danh tiếng, hơn nữa nó còn là chìa khoá để sản phẩm của công ty thâm nhập
vào thị trường thế giới. Vì vậy việc áp dụng tiêu chuẩn ISO 9000 là một điều kiện
quan trọng để các doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong cơ chế kinh tế hiện nay.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM VÀ
Co
lle
cte
d b
y H
ai
QUẢN TRỊ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM TẠI
CÔNG TY CỔ PHẦN MAY LÊ TRỰC
2.1. GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN MAY LÊ TRỰC.
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần may Lê Trực.
Công ty cổ phần may Lê Trực được thành lập ngày 01/01/2000. Trước đây, công
ty là một trong ba cơ sở may của công ty may Chiến Thắng:
- Cơ sở may số 8B Lê Trực - Ba Đình - Hà Nội.
- Cơ sở may số 22 Thành Công - Ba Đình - Hà Nội.
- Cơ sở dệt thảm len số 115 Nguyễn Lương Bằng - Đống Đa - Hà Nội.
Chính vì vậy, lịch sử hình thành và phát triển của công ty gắn liền với sự hình
thành và phát triển của công ty may Chiến Thắng có trụ sở chính đặt tại 22 Thành
Công - Ba Đình - Hà Nội.
Công ty may Chiến Thắng là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Tổng công
ty dệt may Việt Nam, được thành lập từ ngày 2 tháng 3 năm 1968, tiền thân của nó là
xí nghiệp may Chiến Thắng. Xí nghiệp có trụ sở tại số 8B phố Lê Trực - Ba Đình -
Hà Nội và giao cho cục vải sợi - may mặc quản lý. Xí nghiệp có nhiệm vụ tổ chức
sản xuất các loại quần áo, mũ vải, găng tay, áo dạ, áo dệt kim theo chỉ tiêu kế hoạch
của Cục vải sợi may mặc cho các lực lượng vũ trang và trẻ em.
Tháng 5 năm 1971, xí nghiệp may Chiến Thắng chính thức chuyển giao cho Bộ
Công Nghiệp Nhẹ quản lý với nhiệm vụ mới là chuyên may hàng xuất khẩu. Cũng từ
đó xí nghiệp bắt đầu khôi phục và phát triển, làm quen dần với cơ chế thị trường.
Ngày 25 tháng 8 năm 1992, Bộ Công Nghiệp Nhẹ quyết định đổi tên xí nghiệp
may Chiến Thắng thành Công ty may Chiến Thắng. Đây là sự kiện đánh dấu một
bước trưởng thành về chất của xí nghiệp đó là tính tự chủ sản xuất kinh doanh được
thực hiện đầy đủ trong chức năng hoạt động mới của công ty.
Ngay sau đó, tháng 3 năm 1994, xí nghiệp thảm len Xuất khẩu Đống Đa thuộc
Tổng công ty dệt may Việt Nam được sát nhập vào công ty may Chiến Thắng, từ đây
chức năng và nhiệm vụ của công ty được nâng lên.
Ngoài ra công ty còn liên kết với nhiều hãng Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore....
mở rộng và phát triển công nghệ sản xuất.
Trong những năm tiếp theo, công ty có những biến đổi lớn về chất, tăng trưởng và
phát triển, không chỉ lao động cần cù mà trong từng sản phẩm đã bao hàm giá trị
chất xám kết tinh từ suy nghĩ và hành động của đội ngũ cán bộ công nhân viên chức
của công ty. Lực lượng sản xuất của công ty đã đổi mới hoàn toàn. Công ty đã đầu tư
12,96 tỷ đồng cho xây dựng cơ bản và 13,998 tỷ đồng cho mua sắm máy móc thiết
bị.
Ngày 01/01/2000 đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng của công ty may Chiến
Thắng đó là sự kiện cơ sở may số 8B Lê Trực tách ra thành lập công ty cổ phần may
Lê Trực : Công ty được thành lập dưới hình thức chuyển từ doanh nghiệp Nhà nước
Co
lle
cte
d b
y H
ai
thành công ty cổ phần theo luật công ty (do Quốc Hội thông qua ngày 20/12/1990 và
một số điều luật được Quốc Hội khoa IX kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 22/06/1994).
Hiện nay, công ty cổ phần may Lê Trực là một công ty hoạt động độc lập trực
thuộc Tổng công ty dệt may Việt Nam, thành lập theo quyết định 68/1999 QĐ -
BCN do Bộ Công Nghiệp cấp ngày 20/10/1999. Giấy phép kinh doanh số 058429 do
Sở kế hoạch và đầu tư Hà Nội cấp ngày 24/12/1999.
Công ty có tên giao dịch quốc tế : LETRUC GARMENT STOCK COMPANY.
Tên viết tắt : LEGASTCO.
Trụ sở chính : Số 8B Lê Trực – Ba Đình – Hà Nội.
Điện Thoại : (04) 8233870 - (04) 7338007.
Fax : 84.4733721 .
Ngành nghề kinh doanh : Hàng may mặc.
Công ty cổ phần may Lê Trực là pháp nhân theo luật pháp Việt Nam kể từ ngày
được cấp giấy phép kinh doanh, thực hiện hạch toán độc lập, có tài khoản riêng và
con dấu riêng, hoạt động theo điều lệ công ty và luật công ty. Nguồn vốn của công ty
được hình thành từ ba nguồn chính : Nhà nước, cán bộ công nhân viên trong công ty
và các nguồn khác. Công ty hiện có hơn 1000 máy móc thiết bị các loại và hơn 800
cán bộ công nhân viên với mặt bằng diện tích hơn 15.000 m2.
Công ty cổ phần may Lê Trực tuy mới hoạt động riêng được gần 5 năm nhưng với
kinh nghiệm của các thành viên Hội đồng quản trị cũng như Ban giám đốc điều hành
nên đã đạt được những thành tựu nhất định và không ngừng vươn lên tự khẳng định
mình trên thị trường. Với chất lượng sản phẩm cao, tốc độ nhanh và đáp ứng được
nhu cầu của đơn đặt hàng đúng thời hạn, công ty đã và đang ngày càng tạo uy tín cao
với khách hàng trên thị trường trong và ngoài nước.
Hiện nay, may mặc đang trở thành một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của
nước ta, do đó công ty sẽ tiếp tục đẩy mạnh đầu tư hiện đại hoá dây chuyền sản xuất,
đề ra những nhiệm vụ mới và mục tiêu mới để bắt kịp với sự phát triển chung của đất
nước.
2.1.2. Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần may Lê Trực trong
một số năm gần đây.
Là một công ty may nhiệm vụ chính của công ty là sản xuất kinh doanh các mặt
hàng may mặc, chủ yếu là nhận gia công các mặt hàng may mặc của khách hàng
nước ngoài, xuất nhập khẩu hàng may mặc. Bên cạnh đó, công ty còn kinh doanh
các ngành nghề tổng hợp mà Nhà nước cho phép.
Sản phẩm sản xuất ra chủ yếu tiêu thụ ở nước ngoài như các nước: Đài Loan, Hàn
Quốc, Nhật và một số nước Châu Âu... do vậy hàng năm công ty cổ phần may Lê
Trực cũng đóng góp một phần vào kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may ở nước ta.
Co
lle
cte
d b
y H
ai
Mục tiêu của công ty hướng tới trong hoạt động là huy động vốn có hiệu quả cho
việc phát triển sản xuất kinh doanh hàng may mặc nhằm thu lợi nhuận tối đa, tạo
việc làm ổn định cho người lao động, tăng cổ tức cho các cổ đông, đóng góp vào
ngân sách Nhà nước và công ty. Ngoài ra, công ty cũng đang tập trung xây dựng mô
hình tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh gọn nhẹ, hiệu quả cao theo hướng giảm
dần tỷ lệ doanh thu gia công và tăng dần phương thức kinh doanh mua vào nguyên
vật liệu, bán ra thành phẩm có chất lượng cao. Bên cạnh đó, công ty có trách nhiệm
không ngừng chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, tổ chức bồi dưỡng nâng
cao trình độ chuyên môn cho cán bộ công nhân viên trong công ty.
Với nhiệm vụ của mình, công ty đã có những bước đi chiến lược như sau:
Nâng cao năng lực, trình độ bộ máy quản lý, đội ngũ lao động đồng thời đầu
tư trang thiết bị công nghệ hiện đại cho quá trình sản xuất kinh doanh.
Sản xuất các sản phẩm tinh xảo có kỹ nghệ và hàm lượng chất xám cao đảm
bảo tuyệt đối các tiêu chuẩn kỹ thuật tạo điều kiện nâng cao chất lượng và sức cạnh
tranh của sản phẩm.
Liên tục cải tiến, hoàn thiện công nghệ may mặc, thêu in theo sát với xu hướng
phát triển của khu vực và thế giới đồng thời mở rộng thêm nghề thủ công khác khi
có thời cơ. Mũi nhọn của sản xuất kinh doanh là sản xuất sản phẩm may mặc cao
cấp, mẫu mã đa dạng, phong phú thích ứng với thị trường trong và ngoài nước cả về
số lương lẫn chất lượng.
Không những duy trì và phát triển thị trường đã có mà còn từng bước mở rộng
thị trường ở cả trong nước và ngoài nước thông qua công tác sáng tạo, thiết kế những
mẫu mốt mới, tìm kiếm những nguyên liệu có độ đàn hồi cao, chất lượng tốt.
Từ mục tiêu, nhiệm vụ hoạt động như vậy, công ty cổ phần may Lê Trực đã và
đang tham gia tích cực vào chủ trương xây dựng phát triển đất nước, đưa đất nước
từng bước đi lên ngày càng giàu mạnh.
2.1.3. Kết quả về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần may Lê
Trực trong những năm gần đây.
Trong những năm qua, nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Hội đồng quản trị và Ban
giám đốc, sự nỗ lực cố gắng của tập thể cán bộ công nhân viên cùng với sự quan tâm
giúp đỡ của các cơ quan cấp trên, sự ủng hộ nhiệt tình của chính quyền sở tại và các
doanh nghiệp đối tác, công ty cổ phần may Lê Trực đã tìm được những thị trường
tiềm năng mới, thích ứng dần với sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường,
từng bước ổn định sản xuất và tình hình sản xuất của công ty đã luôn vượt kế hoạch.
Công ty đã ngày càng sản xuất ra nhiều sản phẩm đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu
của người tiêu dùng. Để đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh như vậy, công ty đã
khai thác và tận dụng tiềm lực của chính mình, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật,
tiết kiệm chi phí và giảm giá thành sản phẩm.
Co
lle
cte
d b
y H
ai
Thước đo cho mọi sự phát triển của doanh nghiệp là kết quả hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp đó. Để hiểu rõ hơn về tình hình hoạt động của công ty cổ phần may
Lê Trực, ta có thể đánh giá tình hình sản xuất sản phẩm của công ty qua bảng sau:
Biểu số 2.1: Bảng báo cáo về số lượng sản phẩm sản xuất trong một số năm gần đây:
Đơn vị tính : Sản phẩm
Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004
1. Áo Jacket các loại 385.540 430.985 480.570 854.830
2. Áo sơmi các loại 304.645 411.180 565.780 753.000
3. Áo mũ bơi 10.780 11.290 12.000 24.500
4. Váy bầu 930 1.370 1.420 1.875
5. Quần soóc 9.270 2.780 8.890 7.434
6. Quần bò 17.540 16.320 20.716 29.390
7. Quần Âu 2.100 1.840 2.205 2.470
8. Áo thể thao 6.250 6.540 6.980 7.000
9. Quần thể thao 8.515 8.740 9.150 11.567
10. Áo gió 8.740 8.975 9.064 9.470
(Nguồn số liệu văn phòng – Công ty cổ phần may Lê Trực)
Qua bảng báo cáo trên ta thấy sản lượng của công ty tăng dần qua các năm. Sản
lượng tăng chứng tỏ thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty đang ngày càng mở
rộng hơn. Đặc biệt là mặt hàng Jacket và sơ mi, số liệu trên cho thấy áo Jacket và sơ
mi của công ty đã và đang được thị trường chấp nhận. Bên cạnh đó, sản phẩm các
chủng loại khác cũng dần gây được uy tín với khách hàng. Điều này có nghĩa là sản
phẩm của công ty với chất lượng cao đã tạo được sự tin tưởng của khách hàng và
đang ngày càng nâng cao vị thế trên thị trường trong và ngoài nước. Vì vậy mà lợi
thế cạnh tranh của công ty sẽ cao hơn. Trong những năm qua và mục tiêu trong
những năm tới công ty luôn cố gắng để số lượng sản phẩm tiêu thụ sát với số lượng
thực tế sản xuất ra và tìm các biện pháp tối ưu nhất để đảm bảo sự tăng trưởng về số
lượng cũng như chất lượng sản phẩm, mở rộng mặt hàng trên cơ sở rất chú ý đến
việc áp dụng công nghệ mới, chú trọng quản lý kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản
phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Bên cạnh việc tăng số
lượng, các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cũng phát triển không ngừng,
doanh thu năm sau cao hơn năm trước, nâng cao thu nhập người lao động.
Qua bảng này, chúng ta có thể nhìn thấy một cách cụ thể sự phát triển của công ty
cổ phần may Lê Trực trong những năm gần đây.
Co
lle
cte
d b
y H
ai
Biểu số 2.2: Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần may Lê Trực.
(Nguồn số liệu văn phòng – Công ty cổ phần may Lê Trực)
Nhìn vào bảng trên ta có thể thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty liên
tục phát triển là do công ty không ngừng tăng sản lượng, cải tiến máy móc thiết bị,
áp dụng công nghệ mới, chú trọng quản lý kỹ thuật và nâng cao chất lượng sản phẩm
đáp ứng nhu cầu ngày càng khắt khe của khách hàng trong và ngoài nước. Để đánh
giá được sự phát triển mạnh mẽ này của công ty ta có bảng tính sau:
Biểu đồ 2.4: Biểu đồ so sánh.
Tổng doanh thu – Doanh thu xuất khẩu – Doanh thu nội địa – Nộp ngân sách.
STT Chỉ tiêu Đơn Vị Tính 2001 2002 2003 2004
1
Tổng doanh thu
- Doanh thu XK
- Doanh thu NĐ
Triệu đồng
Triệu đồng
Triệu đồng
36.003
34.179
1.824
38.554
36.574
1.980
41.546
39.156
2.390
54.090
51.140
2.950
2 Giá trị SXCN Triệu đồng 18.134 20.992 23.264 34.885
3 Nộp ngân sách
Nhà nước Triệu đồng 224 302 361 624
4 Kim ngạch XK USD 1.224.973 1.475.600 1.934.220 2.305.008
5 Kim ngạch NK USD 5.969.474 6.813.343 6.586.700 7.934.740
6 Lợi nhuận Triệu đồng 1.035 1396 1.670 2.890
7 Thu nhập bình quân Nghìn/tháng 850 965 1.094 1.438
Co
lle
cte
d b
y H
ai
Qua bảng trên ta thấy tốc độ phát triển doanh thu và thị trường của công ty đều
tăng qua các năm. Cụ thể tốc độ phát triển doanh thu năm 2002 so với 2001 là 107%
và đến năm 2004 thì tốc độ phát triển so với năm 2001 đã tăng lên 150%. Điều này
chứng tỏ công ty đã không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm đầu ra, cải tiến mẫu
mã cho phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường, quan tâm đến hoạt
động bán hàng. Bên cạnh đó, tốc độ phát triển của kim ngạch xuất khẩu cũng tăng
lên đáng kể tạo đà tăng trưởng cho công ty trong những năm tiếp theo. Công ty còn
có thành tích trong việc tạo ra thu nhập và việc làm ổn định cho hơn 800 cán bộ công
nhân viên trong công ty. Thu nhập của họ cũng không ngừng tăng lên qua các năm.
Năm 2002/2001 tốc độ tăng là 114% nhưng cho đến năm 2004 thì tốc độ này đã đạt
được 169% so với năm 2001. Riêng nộp ngân sách các năm từ 2001 đến 2004 có xu
hướng ổn định. Điều này cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty rất
hiệu quả và không ngừng tăng doanh thu qua các năm.
Việc tăng doanh thu và sản lượng sản phẩm đã đưa đến kết quả là lợi nhuận của
công ty cũng không ngừng tăng lên qua các năm và có xu hướng tăng nhanh hơn
trong những năm gần đây. Đối với công ty, lợi nhuận chính là một trong những
thước đo hiệu quả việc sản xuất kinh doanh của công ty. Chúng ta có thể xem tình
hình biến động lợi nhuận của công ty trong một số năm gần đây được thể hiện ở sơ
đồ sau:
Biểu đồ 2.5: Sơ đồ lợi nhuận của công ty.
0
10000
20000
30000
40000
50000
60000
2001 2002 2003 2004
N¨m
Tr.®
Doanh thu
Doanh thu XK
Doanh thu N§
Nép ng©n s¸ch
Co
lle
cte
d b
y H
ai
Nhìn chung về cơ bản công ty đã thích nghi nhanh chóng với cơ chế thị trường
cạnh tranh khá quyết liệt về ngành may mặc hiện nay đặc biệt là may mặc xuất khẩu.
Khách hàng của công ty không chỉ giới hạn ở một lứa tuổi mà ngay từ khi thành lập
công ty đã đặt ra mục tiêu là phục vụ mọi đối tượng khách hàng. Với từng thị trường
riêng biệt mà công ty có những mặt hàng riêng biệt để tăng sức cạnh tranh. Mặt
khác, công ty tiếp tục đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ, nâng cao uy tín vốn có
của công ty trên thị trường may mặc nói chung và thị trường may xuất khẩu nói
riêng. Trong những năm qua, công ty đã xây dựng được một mạng lưới thị trường
đầu vào và thị trường tiêu thụ sản phẩm may mặc có qui mô lớn, tạo điều kiện ổn
định và phát triển lâu dài cho công ty.
Những phân tích khái quát trên cho thấy mặc dù gặp nhiều khó khăn khi chuyển
sang nền kinh tế thị trường cùng với sự ra đời còn khá mới mẻ song công ty cổ phần
may Lê Trực đã từng bước đưa hoạt động sản xuất kinh doanh của mình đi vào ổn
định và phát triển. Sự tăng lên của các chỉ tiêu trong những năm gần đây đã phần nào
phản ánh được kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, khẳng định những nỗ
lực rất đáng khuyến khích của tập thể cán bộ công nhân viên trong công ty.
2.1.4. Một số đặc điểm kinh tế - kỹ thuật chủ yếu ảnh hưởng đến chất lượng sản
phẩm và quản lý chất lượng sản phẩm của công ty.
2.1.4.1. Đặc điểm về cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty.
* Tổ chức bộ máy sản xuất:
Công ty cổ phần may Lê Trực trước đây là một trong những cơ sở may của công
ty may Chiến Thắng. Hiện nay khi tách ra thành công ty cổ phần thì công ty có trụ sở
duy nhất tại phố Lê Trực – Hà Nội với mặt bằng diện tích hơn 15000 m2. Công ty
hiện nay có 3 phân xưởng sản xuất, 1 phân xưởng cắt và 1 phân xưởng thêu với diện
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
Tr.®
2001 2002 2003 2004
N¨m
Lîi nhuËn
Co
lle
cte
d
y H
ai
CHỦ TỊCH HĐQT
ĐẠI HỘI CỔ ĐÔNG
tích mặt bằng gần 12000
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Một số phương hướng và biện pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm tại công ty cổ phần may Lê Trực.pdf