Tài liệu Luận văn Một số mặt của tích luỹ tư bản qua đó thấy được vai trò của nó trong quá trình phát triển kinh tế của chủ nghĩa tư bản: LUẬN VĂN:
Một số mặt của tích luỹ tư bản qua đó
thấy được vai trò của nó trong quá
trình phát triển kinh tế của CNTB
Lời mở đầu
Nhìn lại các năm đã qua và gần đây nhất của Việt Nam là năm 2001. So với
trước đổi mới chúng ta đã thu được một số thành tựu nhưng so với thế thì chúng ta
thấy được gì. Đó là nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế. Đây cũng là thách
thức đặt ra trước mắt nước ta và yêu cầu phải giải quyết về lâu dài. Nước ta là nước
có bình quân thu nhập thuộc vào hàng thấp của thế giới. Câu hỏi đặt ra bây giờ
không còn là "tại sao chúng ta nghèo" mà là "làm thế nào để nước ta thoát khỏi tình
trạng kém phát triển này".
Để trả lời câu hỏi này chúng ta đi nghiên cứu các yếu tố dẫn tới thàng công
về kinh tế của các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Có nhà
kinh tế học đã nói 3 yếu tố quyết định thành công của mỗi doanh nghiệp mỗi tổng
công ty hay trên hết là của mỗi quốc gia là các yếu tố sau: con người,vốn hay tư
bản,th...
28 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1425 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Một số mặt của tích luỹ tư bản qua đó thấy được vai trò của nó trong quá trình phát triển kinh tế của chủ nghĩa tư bản, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Một số mặt của tích luỹ tư bản qua đó
thấy được vai trò của nó trong quá
trình phát triển kinh tế của CNTB
Lời mở đầu
Nhìn lại các năm đã qua và gần đây nhất của Việt Nam là năm 2001. So với
trước đổi mới chúng ta đã thu được một số thành tựu nhưng so với thế thì chúng ta
thấy được gì. Đó là nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế. Đây cũng là thách
thức đặt ra trước mắt nước ta và yêu cầu phải giải quyết về lâu dài. Nước ta là nước
có bình quân thu nhập thuộc vào hàng thấp của thế giới. Câu hỏi đặt ra bây giờ
không còn là "tại sao chúng ta nghèo" mà là "làm thế nào để nước ta thoát khỏi tình
trạng kém phát triển này".
Để trả lời câu hỏi này chúng ta đi nghiên cứu các yếu tố dẫn tới thàng công
về kinh tế của các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Có nhà
kinh tế học đã nói 3 yếu tố quyết định thành công của mỗi doanh nghiệp mỗi tổng
công ty hay trên hết là của mỗi quốc gia là các yếu tố sau: con người,vốn hay tư
bản,thời cơ. Thiếu một trong 3 yếu tố này thì không thể dẫn tới thành công được. Ví
dụ như nếu con người tài giỏi, thời cơ tốt nhưng thiếu tiền để đầu tư cơ sở hạ tầng,
để tiến hành sản xuất thì con người đó sẽ cũng không làm được gì và cơ hội tốt sẽ bị
bỏ qua. Việt Nam chúng ta đang rơi vào tình trạng này. Việc thiếu vốn đẩu tư do
nhiều lí do khiến cho đất nước ta cứ luần quẩn mãi trong vòng nghèo đói. Một trong
những lí do đó là do chính sách của chúng ta còn nhiều bất cập thủ tục rườm rà.
Salmýon cho rằng cần phải có cú huých từ bên ngoài vào để phá vỡ vòng luẩn quẩn
này nhưng điều quan trọng trên hết phải biết phát huy các nguồn nội lực của nền
kinh tế. Cụ thể là chúng ta phải biết phát huy và tận dụng vốn trong nước sao cho
chúng không ngừng phát triển. Vấn đề này ta tạm gọi là tính luỹ vốn hay ở các nước
TBCN gọi là tĩnh luỹ tư bản. Để hiểu dược tích luỹ vốn trước hết chúng ta cần hiểu
tích luỹ tư bản, nó làm sáng tỏ bản chất của vấn đề nghiên cứu qua đó đưa lại những
giải pháp và biện phápcho tình trạng vốn của nước ta hiện nay.
Qúa trình ra đời và lớn mạnh của CNTB gắn liền với các quá trình tích luỹ tư bản,
từ tích luỹ tư bản nguyên thuỷ cho tới ngày nay. Tích luỹ tư bản có vai trò to lớn
trong quá trình phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa. ở đề án lần này em xin phép đi
nghiên cứu một số mặt của tích luỹ tư bản qua đó thấy được vai trò của nó trong quá
trình phát triển kinh tế của CNTB và rút ra được ý nghĩa về mặt lí luận cũng như ý
nghĩa về mặt thực tiễn của vấn đề nghiên cứu để có thể áp dụng vào Việt Nam.
Phần II:
Nội Dung
Chương 1 : mộT Số Lí LUậN Về TíCH Luỹ TƯ BảN
1.1 Thế nào là tích luỹ tư bản
1.1.1Các khái niệm có liên quan
1.1.1.1 Khái niện tư bản
Các nhà kinh tế học thường nói rằng, mọi công cụ lao đông, mọi tư liệu sản
xuất đều là tư bản. Định nghĩa như vậy nhằm mục đích che dấu thực chất việc nhà
tư bản bóc lột công nhân làm thuê, tư bản tồn tại vĩnh viễn, không thay đổi của hết
thảy mọi hình thái xã hội.
Thực ra bản thân tư liệu sản xuất không phải là tư bản, nó chỉ là điều kiện
cần thiết của sản xuất trong bất cứ xã hội nào. Tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản
khi nó trở thành tài sản của nhà tư bản, và được dùng để bóc lột lao dộng làm thuê.
Khi chế độ tư bản bị xoá bỏ thì tư liệu sản xuất không còn là tư bản nữa. Như vậy,
tư bản không phải là một quan hệ sản xuất xã hội nhất định giữa người và người
trong quá trình sản xuất, nó có tính lịch sử.
Qua nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư ta có thể định nghĩa: "Tư
bản là giá trị đem lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm thuê". Tư bản
thể hiện quan hệ sản xuất giữa giai cấp tư sản và vô sản trong đó các nhà tư bản là
người sở hữu tư liệu sản xuất và bóc lột công nhân làm thuê -người tạo ra giá trị
thặng dư cho họ. Quan hệ sản xuất này cũng giống các quan hệ sản xuất khác của xã
hội tư bản đã bị vật hoá.
1.1.1.2 Khái niệm tích luỹ tư bản
Tích luỹ tư bản là biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm (tư
bản mới).
Muốn mở rộng sản xuất nhà tư bản không thể tiêu dùng hết giá trị thặng dư
mà chia thành 2 phần :một phần tích luỹ để mở rộng sản xuất, một phần để tiêu
dùng cá nhân và gia đình nhà tư bản.
Ta sẽ làm sáng tỏ hơn về khái niệm tích luỹ sau khi đi nghiên cứu các vấn đề
sau.
1.1.2 Thực chất của tĩch luỹ tư bản
1.1.2.1 Tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng
Dù hình thái xã hội của quá trình sản xuất là như thế nào đi nữa, thì bao giờ
đó cũng phải có tính chất liên tục hay cứ từng chu kì một, phải không ngừng trải
qua cũng những giai đoạn ấy. Xã hội không thể ngừng tiêu dùng, thì xã hội cũng
không thể ngừng sản xuất. Vì vậy xét trong mối liên hệkhông ngừng và trong tiến
trình không ngừng của nó, mọi quá trình sản xuất xã hội đồng thời cũng là quá trình
tái sản xuất.
Nhưng điều kiện của sản xuất đồng thời cũng là những điều kiện của tái sản
xuất. Không một xã hội nào có thể sản xuất không ngừng tức là tái sản xuất, mà lại
không liên tục chuyển hoá lại một phần sản phẩm nhát đinh của nó thành tư liệu sản
xuất, hay thành những yếu tố của quá trình sản xuất mới. Nếu sản xuất mang hình
thái TBCN thì tái sản xuất cũng mang hình thái đó. Qúa trình lao động trong
phương thức sản xuất TBCN chỉ là một phương tiện cho quá trình tăng thêm giá trị,
thì tái sản xuất cũng vậy nó cũng chỉ là một phương tiện để tái sản ra giá trị ứng
trước với tư cách là tư bản , tức là với tư cách là giá trị tự tăng thêm giá trị. Một
người nào đó sở dĩ mang cái mặt lạ kinh tế đặc trưng của nhà tư bản thì đó chỉ là vì
tiền của anh ta không ngừng hoạt động với tư cách là tư bản. Và giá trị thặng dư anh
ta thu đuợc mang hình thức một thu nhập do tư bản đẻ ra. Nếu như thu nhập đó chỉ
được dùng làm quĩ tiêu dùng cho nhà tư bản, hay nếu như nó cũng được tiêu dùng
theo từng chu kì giống như người ta đã kiếm được nó thì trong những điều kiện
khác không thay đổi, sẽ chỉ diến ra có tái sản xuất giản đơn thôi.
Tái sản xuất là quá trình sản xuất được lắp đi lắp lại không ngừng với qui mô
năm sau lớn hơn năm trước. Muốn tái sản xuất mở rộng nhà tư bản phải mua thêm
tư liệu sản xuất, thuê thêm công nhân do đó giá trị thặng dư tích luỹ được phải chia
làm hai phần: Một phần để thuê thêm công nhân, một phần để mua thêm tư liệu sản
xuất.
Tái sản xuất giản đơn không phải là hình thái điển hình của CNTB. Hình
thức tiến hành của CNTB là tái sản xuất mở rộng. Tái sản xuất ra của cải vật chất,
quan hệ sản xuất, sức lao động của con người, môi trường sống của con người.
1.1.2.2 Tích luỹ tư bản là tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày càng mở
rộng (tư bản hóa giá trị thặng dư).
Thực chất của tích luỹ tư bản là tư bản hoá giá trị thặng dư. Xét một cách cụ
thể, tích luỹ tư bản là tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày càng mở rộng.
ở đây chúng ta không xét giá trị thặng dư và tương ứng với nó là sản phẩm
thặng dư, chỉ với tư cách là quỹ tiêu dùng cá nhân của nhà tư bản mà chúng ta xét
nó với tư cách là quỹ tích luỹ. Thật ra giá trị thặng dư không phải là quỹ tiêu dùng
và cũng không phải chỉ là quỹ tích luỹ, mà là cả hai. Một phần giá trị thặng dư được
nhà tư bản tiêu dùng với tư cách là thu nhập còn phần khác thì được nhà tư bản
dùng làm tư bản, hay được tích luỹ lại.
Muốn tích luỹ, cần phải biến một phần sản phẩm thặng dư thành tư bản.
Nhưng nếu không phải là có phép lạ thì người ta chỉ có thể biến thành tư bản những
vật nào dùng được vào quá trình lao động tức là những tư liệu sản xuất, và sau đó là
những vật phẩm có thể nuôi sống công nhân, tức là những tư liệu sinh hoạt. Do đó,
một phần lao động thặng dư hàng năm phải dùng để sản xuất thêm một số tư liệu
sản xuất và tư liệu sinh hoạt ngoài số cần thiết để hoàn lại tư bản đã ứng ra. Nói tóm
lại, sở dĩ giá trị thặng dư có thể biến thành tư bản là chỉ vì sản phẩm thặng dư - mà
giá trị của nó là giá trị thặng dư-đã bao gồm các yếu tố vật thể của một tư bản mới
rồi.
Nghiên cứu tích luỹ và tái sản xuất mở rộng tư bản ta có thể rút ra hai kết
luận vạnh rõ hơn bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa:
+Nguồn gốc duy nhất của tư bản tích luỹ là giá trị thặng dư và tư bản tích
luỹ chiếm một tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản. C.MAC nói rằng: tư bản
ứng trước chỉ là giọt nước trong dòng sông tích luỹ mà thôi
+Qúa trình tích luỹ đã làm cho quyền sở hữu trong nền sản xuất hàng hoá
biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa. Việc trao đổi giữa người lao động và
nhà tư bản dẫn đến kết quả là nhà tư bản chẳng những chiếm một phần lao động của
người công nhân, mà còn là người sở hữu hợp pháp lao động không công đó. Như
vậy đã có sự thay đổi căn bản trong quan hệ sở hữu. Nhưng sự vi phạm đó không vi
phạm qui luật giá trị.
1.1.3 Động cơ của tích luỹ tư bản
1.1.3.1 Tích luỹ tư bản là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản
Với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định, một trong hai phần (tích luỹ,
tiêu dùng ) đó càng lớn thì phần kia càng nhỏ. Nếu những điều kiện khác không
thay đổi thì tỉ lệ phân chia đó quyết định đại lượng tích luỹ. Nhưng kẻ thực hiện sư
phân chia đó là người sở hữu giá trị thặng dư, tức là nhà tư bản. Như vậy, nó là một
hành vi phụ thuộc vào ý chí của nhà tư bản. Về cái phần của món cống vật đó do
hắn thu được và được hắn đem tích tuỹ, thì người ta nói rằng nhà tư bản đã tiết kiệm
phần đó, bởi vì hắn không ăn tiêu nó đi, nghĩa là hắn làm cái chức năng của hắn là
nhà tư bản, cụ thể là chức năng làm giàu.
Chỉ chừng nào nhà tư bản là tư bản nhân cách hoá, thì nhà tư bản mới có một
giá trị lịch sử và mới có cái quyền lịch sử được tồn tại và chỉ trong chừng mực ấy
tính tất yếu nhất thời của bản thân hắn mới được bao hàm trong tính yếu nhất thời
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhưng trong chừng mực ấy thì động cơ
của nhà tư bản không phải là giá trị sử dụng và hưởng thụ mà là giá trị trao đổi và
việc làm tăng thêm giá trị trao đổi. Là một kẻ cuồng tín việc làm tăng thêm giá trị,
nhà tư bản thẳng tay cưỡng bức loài người sản xuất để sản xuất, do đó hắn cưỡng
bức họ phải phát triển những lực lượng sản xuất xã hội và tạo ra những điều kiện
sản xuất vật chất, mà chỉ một mình những điều kiện này mới có thể hình thành cái
cơ sở hiện thực của một hình thái xã hội cao hơn, một hình thái xã hội mà nguyên
tắc cơ bản là mọi cá nhân đều được phát triển đầy đủ và tự do. Nhà tư bản chỉ đáng
kính trọng chừng nào hắn còn là sự hiện thân của tư bản. Với tư cách này, hắn chia
sẻ sự say mê tuyệt đối muốn làm giàu với kẻ tích luỹ của cải. Những cái mà người
này chỉ là một thói cá nhân, thì đối với nhà tư bản nó lại là tác động của một bộ máy
xã hội trong đó nhà tư bản chỉ là một chiếc bánh xe. Ngoài ra, sự phát triển của nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa làm cho sự tăng thêm không ngừng cuả một số tư bản bỏ
vào một xí nghiệp, công nghiệp trở thành một sự tất yếu, và cạnh tranh làm cho
những quy luật bên trong của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trở thành
những quy luật bên ngoài có tính chất cưỡng chế đối với mỗi nhà tư bản cá biệt.
Cạnh tranh buộc nhà tư bản không ngừng mở rộng tư bản để giữ được tư bản, và
hắn chỉ có thể mở rộng tư bản cuả mình bằng cách tích luỹ ngày càng nhiều hơn mà
thôi.
1.1.4 Các nhân tố ảnh hưởng tới qui mô của tích luỹ tư bản
Với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định thì qui mô của tích luỹ phụ
thuộc vào tỉ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư đó thành quỹ tiêu dùng của nhà
tư bản. Nếu tỉ lệ phân chia đó đã có sẵn thì rõ ràng đại lượng của tư bản tích luỹ sẽ
do đại lượng tuyệt đối của giá trị thặng dư quyết định. D o đó những nhân tố quyết
định quy mô của tích luỹ chính là những nhân tố quyết định quy mô của gía trị
thặng dư. Những nhân tố đó là :
1.1.4.1 Mức độ bóc lột sức lao động
Nâng cao mức độ bóc lột sức lao động bằng cách cắt xén vào tiền công. Khi
nghiên cứu sự sản xuất ra giá trị thặng dư, C.MAC giả định rằng sư trao đỏi giữa
công nhân và nhà tư bản là sự trao đổi ngang giá. Nhưng trong thực tế, công nhân bị
nhà tư sản chiếm đoạt một phần lao động tất yếu, bị cắt xén một phần tiền công.
Việc cắt xén tiền công giữ vai trò quan trọng trong quá trình tích luỹ tư bản.
Nâng cao mức độ bóc lột bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài ngày
lao động. Việc tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động rõ ràng làm tăng
thêm giá trị thặng dư, do đó làm tăng bộ phận giá trị thặng dư được tư bản hoá tức
là làm tăng tích luỹ.Anhr hưởng này còn thể hiện ở chỗ số lượng lao động tăng
thêm mà nhà tư bản chiếm không do tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao
động không đòi hỏi phải tăng thêm tư bản một cách tương ứng (không đòi hỏi phải
tăng thêm số lương công nhân, tăng thêm máy móc thiết bị, mà hầu như chỉ cần
tăng thêm sư hao phí nguyên liệu )
1.1.4.2 Trình độ năng suất lao động
V iệc nâng cao năng suất lao động làm tăng thêm giá trị thặng dư, do đó tăng
thêm bộ phận giá trị thặng dư được tư bản hóa. Song vấn đề ở đây là tích luỹ không
chỉ được quyết định bởi khối lượng giá trị thặng dư, mà còn bởi khối lượng tư liệu
sản xuất và tư liệu tiêu dùng do khối lượng giá trị thặng dư có thể chuyển hoá thành.
Như vậy, năng suất lao động tăng sẽ làm tăng thêm những yếu tố vật chất để biến
giá trị thặng dư thành tư bản mới. Do đó làm tăng quy mô của tích luỹ.
Năng suất lao động cao thì lao động sống sử dụng được nhiều lao đọng quá
khứ hơn, lao động quá khứ đó lại tái hiện dưới hình thái có ích mới, chúng làm chức
năng tư bản để sản xuất ra tư bản càng nhiều, do đó mà quy mô của tư bản tích luỹ
càng lớn. Như vậy, năng suất lao động là nhân tố quan trọng quyết định quy mô của
tích luỹ.
1.1.4.3 Sự chênh lệch ngày càng tăng giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu
dùng
Tư bản tăng lên thì sự chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản đã tiêu
dùng cũng tăng lên. Nói một cách khác: khối lượng giá trị và khối lượng vật thể của
những tư liệu lao động như nhà xưởng, máy móc, ống tiêu nước, súc vật cày kéo,
các thứ khí tài cúng tăng lên; những thứ đó, trong một thời kì dài hay ngắn, những
quá trình sản xuất thường xuyên lắp đi lắp lại, đều hoạt động với quy mô của chúng
hay được dùng để đạt tới một hiệu quả có ích nhát định, nhưng lại chỉ hao mòn dần
dần, và do đó chỉ mất giá trị từng phần một, nghĩa là chỉ chuyển giá trị ấy từng phần
một vào sản phẩm mà thôi. Vì các tư liệu lao động được dùng làm những cái tạo ra
sản phẩm nhưng lại không nhập thêm giá trị vào sản phẩm, nghĩa là vì chúng được
sử dụng toàn bộ nhưng chỉ bị tiêu dùng từng phần thôi, cho nên như đã nhắc trên
kia, các tư liệu đó phục vụ không công giống như các lực lượng thiên nhiên: nước,
hơi nước, không khí, điện... nhưng sự phục vụ không công đó của lao động quá khứ,
được lao động sống nắm lấy và làm sống lại, đang được tích luỹ lại cùng với quy
mô ngày càng tăng của tích luỹ
Lực lượng sản xuất xã hội càng phát triển, máy móc càng hiện đại, phần giá
trị của nó chuỷen vào sản phẩm trong từng thời gian càng ít, thì sự chênh lệch giữa
tư bản sử dụng và tư bản bị tiêu dùng càng lớn. Do đó, tư bản lợi dụng được những
thành tựu của lao động quá khứ càng nhiều.
1.1.4.4 Quy mô của tư bản ứng trước
Với trình độ bóc lột không đổi thì khối lượng giá trị thặng dư sẽ do khối
lượng công nhân bị bóc lột quyết định. Do đó, quy mô của tư bản ứng trước, nhất là
bộ phận tư bản khả biến càng lớn, thì giá trị thặng dư bóc lột được và quy mô tích
luỹ cũng càng lớn.
1.2Các quy luật cuả tích luỹ tư bản
1.2.1 Lượng cầu về sức lao động tăng cùng với tích luỹ tư bản trong điều kiện kết
cấu của tư bản không đổi.
1.2.1.1Sự tăng lên của lượng cầu về sức lao động
Tư bản tăng lên thì cũng tăng thêm bộ phận khả biến của nó hay bộ phận
được biến thành sức lao động. Gỉa dụ rằng, cùng với những điều kiện khác không
thay đổi- nghĩa là để vận một khối lượng tư liệu sản xuất hay tư bản bất biến nhất
định,bao giờ cũng cần một khối lượng sức lao động như trước ,thì rõ ràng là lượng
cầu về lao động và quỹ sinh hoạt của công nhân sẽ tăng lên một cách tỉ lệ với tư
bản, và tư bản tăng lên càng nhanh bao nhiêu thì lượng cầu đó cũng càng tăng lên
nhanh bấy nhiêu. K hi quy mô tích luỹ có thể mở rộng đột ngột bằng cách chỉ cần
thay đổi sự phân chia giá trị thặng dư hay sản phẩm thặng dư thành tư bản và thu
nhập, vì những lẽ đó nên nhu cầu tích luỹ của tư bản có thể vượt quá sự tăng thêm
cảu sức lao động hay số công nhân, lượng cầu về công nhân có thể vượt quá lượng
cung về công nhân và vì thế tiền công có thể tăng lên. Vì mỗi năm người ta sử dụng
nhiều công nhân hơn năm trước, nên sớm hay muộn ắt phải đến lúc mà nhu cầu của
tích lũy bắt đầu vượt quá lượng cung bình thường về lao động, và do đó tiền công
cũng sẽ tăng lên. Tích lũy tư bản là làm tăng thêm giai cấp vô sản.
1.2.1.2 Sự tăng lên về tiền công không ngăn cản việc tăng tích lũy tư bản .
Như ta đã thấy, do bản chất của nó, tiền công đòi người lao động bao giờ
cũng phải cung cấp một số lượng lao động không công nhất định. Hoàn toàn không
nói đến trường hợp tăng tiền công trong trường hợp giá cả lao động hạ xuống...thì
trong trường hợp tốt nhất tăng tiền công cũng có nghĩa là giảm bớt về số lượng phần
lao động không công mà người lao động phải cung cấp. Sự giảm bớt này không bao
giờ có thể đi đến mức đe doạ sự tồn tại của bản thân chế độ này. Theo cách nói của
toán học, có thể nói rằng: đại lượng tích lũy là một biến số độc lập, đại lượng tiền
công là một biến số phụ thuộc, chứ không phải ngược lại .
Nếu khối lượng lao động không công do giai cấp công nhân cung cấp và do
giai cấp các nhà tư bản tích lũy, lại tăng lên khá nhanh đến mức nó chỉ có thể biến
thành tư bản khi nào có một sự tăng thêm khác thường của số lao động được trả
công, thì tiền công sẽ tăng lên, và nếu những điều kiện khác không thay đổi, thì lao
động không công sẽ giảm xuống một cách tương xứng. Nhưng một khi sự giảm
xuống này chạm tới cái điểm mà ở đấy lao động thặng dư nuôi dưỡng tư bản không
còn cung cấp với một khối lượng bình thường nữa, thì có ngay một sự phản ứng
:một phần ít hơn của thu nhập sẽ được tư bản hoá, tích luỹ chững lại, và sự vận
động đi lên của tiền công sẽ bị đánh bật trở lại. Như vậy, sự tăng lên của giá cả lao
động không vượt quá những giới hạn bảo đảm không những giữ nguyên được
những cơ sở của chế độ tư bản chủ nghĩa mà còn đảm bảo cho tái sản xuất của chế
độ đó được thực hiện với quy mô mở rộng.
1.2.2 Sự giảm bớt tương đối bộ phận tư bản khả biến trong tiến trình tích luỹ và
tích tụ đi kèm theo tiến trình đó
Một khi đã có những có những cơ sở chung của chế độ tư bản chủ nghĩa, thì
trong tiến trình tích luỹnhất định sẽ đến lúc sự phát triển của năng suất lao động xã
hội trở thành đòn bẩy mạnh nhất của tích luỹ. Năng suất lao động tăng thể hiện ở
việc giảm bớt khối lượng lao động so với khối lượng tư liệu sản xuất mà lao động
đó làm cho hoạt động hay là thể hiện ở sự giảm bớt đại lượng của nhân tố chủ quan
của quá trình lao động so với các nhân tố khách quan của quá trình đó. Sự thay
đổi đó của kết cấu kĩ thuật của tư bản, sư tăng lên của khối lượng tư liệu sản xuất so
với khối lượng sức lao động đang làm cho các tư liệu sản xuất đó sống lại, lại phản
ánh trở lại vào trong kết cấu giá trị của tư bản, vào trong việc tăng thêm bộ phận bất
biến của giá trị tư bản, bằng cách lấy vào bộ phận khả biến của nó. Ví dụ: lúc đầu
50% của một tư bản nào đó được chi cho tư liệu sản xuất, còn 50% được chi cho
sức lao động; sau đó cùng với sự phát triển của năng suất lao động 80% được chi
cho tư liệu sản xuất và 20% được chi cho sức lao động...Các quy luật về sư tăng lên
của bộ phận bất biến của tư bản so với bộ phận khả biến, ở mỗi bước đều được xác
minh.
Tuy vậy sự giảm bớt phần khả biến của tư bản so với phần bất biến hay là sự
thay đổi kết cấu của tư bản, chỉ nói lên một cách gần đúng sự biến đổi trong kết cấu
của các bộ phận vật chất của tư bản mà thôi. Cùng với năng suất đã tăng lên của lao
động thì không những khối lượng tư liệu sản xuấtdo nó tiêu dùng tăng lên, mà giá
trị của tư liệu sản xuất so với khối lượng của nó lại còn giảm xuống nữa. Như vậy
giá trị của tư liệu sản xuất tăng lên một cách tuỵet đối, nhưng không tăng theo cùng
tỉ lệ với khối lượng của nó. Vì vậy, sự chênh lệch giữa tư bản bất biến và tư bản khả
biến tăng lên chậm hơn nhiều so với sự chênh lệch giữa khối liệu tư liệu sản xuất do
tư bản bất biến chuyển hoá thành, và khối lượng sức lao động do tư bản chuyển hoá
thành. Sự chênh lệch trên cũng tăng lên với sự chênh lệch dưới, nhưng với một mức
độ ít hơn. Vả lại nếu sự tiến bộ của tích luỹ làm giảm bớt đại lượng tương đối của
bộ phận tư bản khả biến thì như vậy tuyệt nhiên không phải nó loại trừ sự tăng lên
của đại lượng tuyệt đối của nó. Gỉa định rằng một giá trị tư bản lúc đầu tự chia ra
thành 50% là tư bản bất biến và 50%là tư bản khả biến, về sau lại chia thành 80% là
tư bản bất biến và 20%là tư bản khả biến. Nếu trong thời gian đó số tư bản lúc đầu
gồm 6000 chẳng hạn, đã tăng lên thành 18000 thì phần khả biến của nó đã tăng
thêm. Trước kia nó là 3000, bây giờ là 3600. Nhưng, nếu trước kia chỉ cần tăng tư
bản thêm 20%là đủ để tăng lượng cầu về lao động lên 20% thì bây giờ điều đó lại
đòi hỏi phải tăng tư bản lúc đầu lên gấp 3 lần.
Mọi tư bản đều là sự tích tụ nhiều hay ít tư liệu sản xuất với một sự chỉ huy
tương ứng đối với một đội quân lao động. Với mọi tích luỹ đều trở thành phương
tiện cho một tích luỹ mới.Tích tụ và tập trung tư bản có quan hệ với nhau. Sự khác
biệt này không chỉ về chất mà còn khác nhau về mặt lượng. Tập trung tư bản tuy
không làm tăng quy mô tư bản xã hội nhưng có vai trò rất lớn trong quá trình
chuyển sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn TBCN và quá trình chuyển CNTB từ giai đoạn
thấp lên giai đoạn cao.
1.2.3 Việc sản xuất ngày càng nhiều nhân khẩu thừa tương đối
1.2.3.1.Nhân khẩu thừa sản phẩm tất yếu của tích lũy
Lượng cầu về lao động không phải do quy mô của tổng tư bản quyết định mà
do quy mô của bộ phận khả biến của tư bản quyết định; cho nên cùng với sự tăng
lên của tổng tư bản thì lượng cầu về lao động cũng dần dần giảm bớt đi chứ không
phải tăng lên theo tỉ lệ với sự tăng thêm của tổng tư bản, như chúng ta đã giả định
trước đây. Lượng cầu về lao động giảm xuống một cách tương đối so với đại lượng
của tổng tư bản và giảm xuống theo một cấp số ngày càng nhanh cùng với sự tăng
lên của đại lượng ấy. Thật ra cùng với sự tăng lên của tổng tư bản thì phần khả biến
của nó, hay sức lao động kết hợp vào nó, cũng tăng lên, nhưng lại tăng lên theo một
tỷ lệ không ngừng giảm sút.
Cùng với sự tích luỹ tư bản do bản thân nó đẻ ra, nhân khẩu công nhân cũng
sản xuất ra với một quy mô ngày càng lớn những phương tiện làm cho họ trở thành
nhân khẩu thừa tương đối là quy luật nhân khẩu thừa riêng của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa, cũng giống như trên thực tế, mọi phương thức sản xuất đặc
thù trong lịch sử đều có quy luật nhân khẩu đặc thù, có hiệu lực trong lịch sử của
nó. Một quy luật nhân khẩu trìu tượng chỉ tồn tại đối với thực vật và động vật,
chừng nào mà con người trong lịch sử chưa xâm nhập vào lĩnh vực này.
1.2.3.2 Nhân khẩu thừa, đòn bẩy của tích luỹ tư bản điều kiện tồn tại của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đội quân công nghiệp trừ bị .
Nhưng, nếu nhân khẩu công nhân thừa là sản phẩm tất yếu của tích luỹ, hay
của sự phát triển của cải trên cơ sở tư bản chủ nghĩa, thì ngược lại nhân khẩu thừa
này lại trở thành một đòn bẩy của tích lũy tư bản chủ nghĩa và thậm chí còn là điều
kiện tồn tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa nứa. Số nhân khẩu đó tạo
thành một đội quân công nghiệp trừ bị có sẵn, hoàn toàn thuộc về tư bản một cách
tuyệt đối tựa hồ như thể tư bản đã bỏ công của ra nuôi dưỡng lên số nhân khẩu thừa
đó. Khối lượng của cải xã hội, ngày càng phình ra cùng với sự tiến bộ của tích lũy
và có thể biến thành tư bản phụ thêm, điên cuồng đổ xô vào những ngành sản xuất
cũ mà thị trường mở rộng đột ngột, hoặc vào những ngành sản xuất mới...mà sự
phát triển của những ngành sản xuất cũ đòi hỏi phải có. Trong tất cả những trường
hợp như thế thì cần làm thế nào để có thể tung một cách đột ngột những khối lượng
người rất lớn vào những điểm quyết định mà không phải giảm bớt quy mô sản xuất
trong những lĩnh vực khác. Nhân khẩu thừa cung cấp những khối lượng người đó.
Việc mở rộng quy mô một cách đột ngột và nhảy vọt là tiền đề của việc thu
hẹp nó một cách đột ngột; bản thân sự thu hẹp này lại gây ra sự mở rộng kia, nhưng
sự mở rộng kia không thể nào thực hiện được nếu không có một nguồn sức người
bóc lột được, nếu không có sự tăng thêm khối lượng công nhân một cách độc lập
với số tăng tuyệt đối của nhân khẩu. Số tăng đó được tạo bởi một quá trình đơn giản
thường xuyên "giải phóng" một bộ phận công nhân, nhờ những phương pháp làm
giảm bớt số công nhân đang làm việc so với sản xuất đã tăng lên. Như vậy toàn bộ
hình thức vận động đặc biệt của nền công nghiệp hiện đại đều phát sinh trên sự
thường xuyên biến một bộ phận nào đó của nhân khẩu công nhân thành những công
nhân không có việc làm hay chỉ có việc làm một nửa. Việc sản xuất nhân khẩu thừa
tương đối, nghĩa là thừa so với nhu cầu trung bình của tư bản trong việc làm tăng
giá trị của nó, là điều kiện sống còn của nền công nghiệp hiện đại.
CHƯƠNG 2:
VAI TRò CủA TíCH Luỹ tư bản
trong quá trình Hình thành và phát triển kinh tế TBCN
2.1 Tích luỹ nguyên thuỷ tư bản
2.1.1Tích luỹ ban đầu, điểm xuất phát của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
2.1.1.1 Hai điều kiện ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
Qúa trình phát triển của con người từ khi sinh ra cho tới nay gắn liền với quá
trình phát triển và thay thế lẫn nhau của các phương thức sản xuất xã hội.Phương
thức sản xuất đầu tiên là cộng sản nguyên thuỷ, phương thức sản xuất này được thay
thế bởi phương thức sản xuất nô lệ tiếp đó là phuơng thức sản xuất phonng kiến. Và
từ giữa thế kỉ XV cho tới giữa thế kỉ XVII là thời kì bắt đầu tan rã của chế độ phong
kiến và thay thế bởi chế độ phong kiến là chế độ tư bản chủ nghĩa bắt đầu ra đời.
Chủ nghĩa tư bản ra đời trong lòng chế độ phong kiến.
Hai điều kiện cần và đủ để hình thành chủ nghĩa tư bản
+Tập trung trong tay một số ít người số tiền của lớn để lập ra các xí nghiệp
TBCN
+Có một lớp người hoàn toàn tự do về thân thể (quyền quyết định thân thể
mình) và đã bị mất hết tư liệu sản xuất.
2.1.1.1 Tích luý nguyên thuỷ tư bản,đòn bẩy đẩy nhanh sư ra đời của hai
điều kiện
Gỉa định rằng trước tích luỹ tư bản chủ nghĩa đã có một sự tích luỹ "ban đầu"
-một tích luỹ không phải là kết quả của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà
là xuất phát điểm của nó. Trong khoa kinh tế chính trị, sự tích lũy ban đầu này đóng
một vai trò cũng gần giống như vai trò của tội tổ tông trong thần học. Và từ thời cái
tội tổ tông đó đã bắt đầu sự nghèo khổ của số đông người, là những người dù có lao
động hết sức cũng chẳng có gì để bán trừ bản thân họ ;và bắt đầu sự giàu có của một
số ít, dù đã thôi lao động từ lâu mà vẫn cứ giàu mãi lên. Nhưng khi đã đụng đến vấn
đề quyền sở hữu thì người ta có nghĩa vụ thiêng liêng là phải theo đúng quan điểm
của sách vở vỡ lòng cho tẻ con, là quan điểm duy nhất đúng với mọi lứa tuổi mọi
trình độ phát triển. Như mọi người đều biết, trong lịch sử hiện thực thì sự xâm
chiếm, nô dịch, cướp bóc, tóm lại là bạo lực đã đóng một vai trò lớn.
Tiền và hàng hoá, cũng giống hệt như tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt,
ngay từ đầu không phải là tư bản.Chúng cần được chuyển hoá thành tư bản. Nhưng
sự chuyển hoá này chỉ có thể diễn ra trong những hoàn cảnh nhất định thôi, những
hoàn cảnh đó quy lại là :"hai loại hàng hoá rất khác nhau phải gặp nhau và tiếp xúc
với nhau - một bên là người có tiền, có tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt,cần mua
sức lao động của người khác để làm tăng thêm giá trị đã chiếm được; bên kia là
những người lao động tự do,những người bán sức lao động của bản thân mình, do
đó là những người bán lao động ". Với việc chia thị trường hàng hoá thành hai cực
như vậy, thì những điều kiện cơ bản của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng được
tạo ra."Quan hệ tư bản chủ nghĩa giả định phải tách rời người lao động với quyền
sở hữu những điều kiện thực hiện lao động" Qúa trình một mặt thì biến tư liệu sản
xuất và tư liệu sinh hoạt của xã hội thành tư bản, và mặt khác, biến những người sản
xuất trực tiếp thành những người lao động làm thuê. Do đó, cái gọi là tích luỹ ban
đầu chẳng qua chỉ là một quá trình lịch sử tách rời người sản xuất ra khỏi tư liệu sản
xuất(Nó là ban đầu vì nó là tiền sử của tư bản và của phương thức sản xuất phù hợp
với tư bản ). Cái đã đánh dấu thời đại trong lịch sử của tích luỹ ban đầu là những sự
đảo lộn làm đòn bẩy cho giai cấp các nhà tư bản đang hình thành. Cơ sở của toàn bộ
quá trình này là sự tước đoạt ruộng đất của những người sản xuất nông nghiệp, của
nông dân .
ở Anh nó mang hình thức cổ điện, vì vậy nên chúng ta lấy nước Anh làm ví
dụ
2.1.2 Nội dung, đặc điểm của thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ(Điển hình ở Anh)
2.1.2.1 Sự tước đoạt ruộng đất của dân cư ở nông thôn
Màn mở đầu của sự đảo lộn đặt nền tảng cho phương thức tư bản chủ nghĩa
đã diễn ra trong ba mươi năm cuối thế kỉ XV và mấy mươi năm đầu thế kỉ XVI.
Biến đồng ruộng thành bãi chăn thả đã trở thành khẩu hiệu của các chúa
phong kiến. Nhà ở của nông dân và những chiếc nhà nhỏ của công nhân bị phá huỷ
đi bằng bạo lực noặc cho đổ nát để biến thành bãi chăn thả, ở đấy chỉ còn nhà của
chúa đất mà thôi. Trong thời kì này, cơ quan lập pháp cũng tìm cách duy trìmột mức
tối thiểu 4 a-cơ đất đai cho mỗi căn nhà nhỏ của người công nhân công nghiệp làm
thuê và cấm không nhận cho ngưoừi khác đến ở thuê trong nhà mình.
Trong thế kỉ XVI cuộc cải cách tôn giáo và sự cướp bóc hàng loạt những tài
sản của giáo hội tiếp theo sau nó đã đem lại một sự thúc đẩy ghê gớm cho quá trình
tước đoạt quần chúng nhân dân bằng bạo lực. Việc xoá bỏ các nhà tu kín đã đẩy các
người trong các nhà tu đó vào hàng ngũ vô sản.
Vấn đề "rào ruộng đất của công xã ", việc rào đất của công xã rất phổ biến và
phần lớn những lãnh địa mới do việc rào đất mà có, dã bién thành đồng cỏ. Không
phải chỉ những đất bỏ hoang, mà lắm khi cả những đất đai đã trồng trọt cũng đều bị
địa chủ lân cận sáp nhậpdưới cớ rào đất.
Tóm lại, cướp đoạt tài sản của nhà thờ, nhượng đất đai nhà nước một cách
gian lận, ăn cắp đất đai của công xã, biến sở hữu phong kiến và sở hữu thị tộc thành
sở hữu tư nhân hiện đại bằng cách chiếm đoạt và khủng bố tàn nhẫn-đó là bấy nhiêu
phương pháp thơ mộng của tích luỹ banđầu-Chúng đã chinh phục đất đai cho nền
nông nghiệp tư bản chủ nghĩa, đem ruộng đất gắn vào tư bản và tạo ra một luồng
cần thiết những người vô sản bị đặt ra ngoài vòng pháp luật để cung cấp cho công
nghiệp thành thị.
2.1.2.2 Phương pháp đẫm máu từ cuối thế kỉ XV nhằm chống những người
bị tước đoạt. Những đạo luật nhằm hạ thấp tiền công.
Pháp chế về lao động làm thuê- nhay từ đầu đã nhằm vào sự bóc lột công
nhân và trong quá trình phát triển của nó luôn luôn thù ddịch với công nhân. Pháp
luật đã quy định một biểu tiền công cho thành thị và nông thôn, cho công khoán và
công ngày. Công nhân nông thôn phải làm thuê năm, công nhân thành thị làm thuê
"trên thị trường công khai". Cấm không được trả công cao hơn mức quy định, trái
lệnh thì bị phạt tù, những người lĩnh tiền công cao hơn lại bị phạt nặng hơn người
trả công.Ví dụ, theo điều 18 và 19 của quy chế Ê-li-da-bet về người học việc thì
người trả tiền công cao hơn bị phạt tù 10 ngày, còn người nhận tiền công đó bị phạt
21 ngày.Quy chế năm 1360 lại tăng mức trừng phạt hơn nữa và thậm chí còn cho
phép chủ được dùng quyền cưỡng bức thân thể để bắt làm việc theo biểu tiền công
do pháp luật quy định.Các tổ chức liên kết công nhân bị coi là tội nặng kể từ thế kỉ
XIV cho đến tận năm 1825 .Những đạo luật nhằm làm giảm tiền công vẫn tiếp tục
có hiệu lực đồng thời với việc xẻo tai và dùng sắt nung đóng dấu vào "những người
mà không ai muốn thuê cả".
Trong suốt hơn bốn trăm năm, người ta sản xuất ranhững đạo luật chỉ quy
định mức cao nhất của tiền công tronh bất cứ trường hợp nào cũng không được vượt
quá. Những diều khoản trong các quy chế công nhân nói về giao kèo giữa thợ và
chủ, về thời gian xoá bỏ giao kèo... quy định rằng người chủ bội ước chỉ bị truy tố
về dân sự, còn người thợ bội ước lại bị truy tố về hình sự.
2.1.2.3 Sự ra đời của người Phécmie tư bản chủ nghĩa.
Ta hãy tự hỏi: vậy thì lúc ban đầu do đâu mà có các nhà tư bản.
Sự hình thành những người phecmie, thì có thể nói rằng chúng ta có thể lấy
tay sờ thấy được, vì nó là một quá trình kéo dài trong nhiều thế kỉ.Người Phecmie
được hình thành từ rất xa xưa. Cuộc cách mạng công nghiệp trong khoảng 30 năm
cuối thế kỉ XV và kéo dài trong gần suốt cả thế kỉ XVI đã làm cho người Phecmie
giàu lên một cách nhanh chóng. Việc chiếm đoạt những bãi chăn nuôi của công xã
cho phép người Phecmie tăng đàn súc vật của mình lên rất nhiều mà hầu như không
phải tốn kém gì cả.Sự giảm giá không ngừng của các loại kim loại quý, và do đó
của tiền nữa, đã đem lại những quả bằng vàng cho người Phecmie. Sự lên giá không
ngừng của lúa mì, len, thịt, tóm lại là tất cả sản phẩm nông nghiệp, làm tăng thêm tư
bản bằng tiền của người Phecmie mà anh ta chẳng phải mất công sức gì, còn địa tô
anh ta phải trả lại được kí kết theo giá trị đồng tiền cũ. Như vậy là cùng một lúc
người Phecmie đã làm cả giàu trên lưng của những người công nhân làm thuê cho
họ, lẫn trên lưng người địa chủ quý tộc. Vì vậy không có gì đáng lấy làm lạ là cuối
thế kỉ XVI ở Anh dã hình thành nên một giai cấp"những người Phecmie tư bản chủ
nghĩa" giàu có đốivới thời đó.
2.1.2.4 ảnh hưởng ngược trở lại của cuộc cách mạng nông nghiệp đối với
công nghiệp, sự hình thành thị trường trong nước cho tư bản công nghiệp.
Việc tước đoạt và xua đuổi dân cư nông thôn ra khỏi ruộng đất không ngừng
hết đợt này đến đợt khác, đã cung cấp cho công nghiệp ở thành thị ngày càng nhiều
đám người vô sản hoàn toàn đứng ngoài quan hệ phường hội.Tình hình dân dư nông
thôn đọc lập tự mình cày cấy trở lên thưa thớt, thì không phải chỉ tương ứng với sự
đông đặc thêm của giai cấp vô sản công nghiệp. Mặc dù số người cày cấy ruộng đất
có giảm đi, ruộng đất bây giờ vẫn mang một số sản phẩm như trước hay nhiều hơn
trước, vì cuộc cách mạng về quan hệ sở hữu ruộng đất đã dẫn theo sự cải tiến các
phương pháp canh tác, sự hiệp tác rộng lớn hơn, sự tập trung các tư liệu sản xuất...
Việc tước đoạt và đuổi một bộ phận dân cư nông thôn không những giải
phóng công nhân, giải phóng tư liệu sinh hoạt và tư liệu lao động của họ cho tư bản
công nghiệp, mà còn tạo ra thị trường trong nước nữa. Thật vậy, chính những sự
kiện biến những người tiểu nông thành công nhân làm thuê, và biến tư liệu sinh hoạt
và tư liệu lao động của họ thành yếu tố vật thể của tư bản , thì cũng đồng thời tạo ra
tạo ra thị trường bên trong cho tư bản. Vậy là, đi đôi với sự tước đoạt những người
nông dân độc lập trước đây và với việc tách họ ra khỏi cá tư liệu sản xuất, thì cũng
diễn ra sự tiêu diệt nghề phụ nông thôn và quá trình tách rời công trường thủ công
với nghề nông. Và chỉ có sự tiêu diệt nghề phụ ở nông thôn mới có thể làm cho thị
trường bên trong của một nước có được cái quy mô và sự ổn định cần thiết cho
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
2.1.2.5 Sự ra đời của nhà tư bản công nghiệp( hệ thống thuộc địa, chế độ
công trái, hệ thống thuế khoá..)
Sự ra đời của nhà tư bản công nghiệp không có tính chất dần dần từng bước
như sự ra đời của người Phecmie. Một số ít thợ cả nhỏ phường hội thủ công, một số
đông hơn những thợ thủ công nhỏ độc lập, hay thậm chí cả những công nhân làm
thuê nữa, cũng đã trở thành nhà tư bản nhỏ, rồi dần dần nhờ mở rộng sự bóc lột lao
động làm thuê và đẩy mạnh tích luỹ tư bản một cách tương xứng mà trở thành
những nhà tư bản thực thụ.Thời thơ ấu của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa thường
hay có tình hình giống như thời thơ ấu của thành thị thời trung cổ, tức là cái thời mà
vấn đề ai trong số những nông nô chạy trốn sẽ là ông chủ, ai sẽ là đầy tớ, phần lớn
những quyết định tuỳ theo ai là kẻ đã bỏ trốn sớm hơn. Nhưng bước di chậm như
rùa của phương pháp này đã không làm sao đáp ứng được nhu cầu buôn bán của thị
trường thế giới mới, do những phát kiến lớn cuối thế kỷ XV tạo ra.
Chế độ phong kiến ở nông thôn, chế độ phường hội ở thành thị đã cản trở
việc tư-tiền tệ-được hình thành. Những trở ngại này bị xoá bỏ cùng với việc giải tán
những đoàn tuỳ tùng phong kiến, cùng với việc tước đoạt dân cư nông thôn và đuổi
họ đi từng phần một.
Việc tìm thấy những vùng mỏ vàng và mỏ bạc ở châu Mỹ, việc tuyệt diệt
người bản xứ, bắt họ làm nô lệ và chôn vùi họ trong các hầm mỏ, việc bắt đầu đi
chinh phục và cướp bóc mièn Đông Ân , việc biến châu Phi thành khu cấm để săn
bắt buôn bán người da đen, -đó là buổi bình minh của thời đại sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Những quá trình thơ mộng ấy là những yếu tố chủ yếu của tích luỹ ban đầu.
Tiếp ngay sau đó là cuộc chiến tranh thương mại của các nước châu Âu mà chiến
trường là trái đất.
Chế độ thuộc địa, quốc trái, gánh nặng thuế khoá, thuế quan bảo hộ, chiến
tranh thương mại..., tất cả những mầm non ấy của thời kì công trường thủ công
chính cống đã phát triển lên một cách ghê gớm trong thời kì thơ ấu của nền đại công
nghiệp. Sự ra đời của đại công nghiệp đã được đánh dấu bằng sự ăn cướp hàng loạt
trẻ em một cách tàn bạo. Các công xưởng mộ công nhân cho mình cũng dùng bạo
lực như hải quân của vua mộ lính thuỷ vậy.
2.2 Tích lũy tư bản trong thời kỳ CNTB hiện đại.
2.2.1 Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Tích lũy nguyên thuỷ là xuất phát điểm của chủ nghĩa tư bản thì với chủ
nghĩa tư bản hiện đại nó lại là điều kiện sống còn, điều kiện thúc đẩy sự phát triển
của chế độ này.Tích lũy tư bản là quy luật tất yếu của chủ nghĩa tư bản, nó tồn tại
song song với sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản là phương thức sản
xuất xã hội mà ở đó tồn tại những người còn được gọi là các nhà tư bản không bao
giờ hài lòng với số tư bản họ có. Mục tiêu của các nhà tư bản là luôn luôn tối đa hoá
lợi nhuận và họ làm mọi cách để đạt được mục tiêu này.Tích lũy là con đường tất
yếu mà chủ nghĩa tư bản đi qua là vì lẽ này. Khi nhà tư bản mua tư liệu sản xuất,
thuê công nhân để tiến hành sản xuất họ thu được một khối lượng giá trị thăng dư,
nhưng nhà tư bản không bao giờ hài lòng với giá trị thặng dư này. Họ sẽ tìm cách
tăng nó lên băng cách biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm. Cứ thế
quá trình này diễn ra liên tục và quy mô của nhà tư bản không ngừng mở rộng. Quy
mô mở rộng nhà tư bản sẽ mua thêm tư liệu sản xuất và thuê thêm lao động. Song
nếu chỉ đơn thuần tăng giá trị thặng dư như vậy thì nhà tư bản không còn là nhà tư
bản nữa. Họ sẽ tìm cách hạn chế bộ phận khả biến xuống tương đối so với bộ phận
bất biến. Và để làm điều đó họ sẽ dùng số tư bản mà họ tích lũy được( từ giá trị của
người khác làm ra) để đầu tư cải tiến kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất mà quy mô
mở rộng của tư bản là điều kiện tạo ra vô cùng thuận lợi. Và cứ thế như một chuỗi
logic sản xuất ra giá trị thặng dư, tích luỹ tư bản để tăng quy mô, để tăng quy mô
dẫn tới sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất và lại tiếp tục phục vụ
cho việc sản xuất ra giá trị thặng dư. Xã hội tư bản không ngừng phồn thịnh hơn.
Qúa trình này lại khiến cho lực lượng sản xuất xã hội ngày càng phát triển đúng
theo xu hướng lịch sử tất yếu của nó.
2.2.2 Xã hội hoá nền sản xuất ngày càng cao.
Như đã trình bày ở trên tích luỹ tư bản tất yếu dẫn đến sự phát triển của lực
lượng sản xuất với trình độ cao lại dẫn tới quá trình xã hội hoá nền sản xuất.
Thật vậy lực lượng sản xuất phát triển dẫn tới mâu thuẫn, sản phẩm sản xuất
ra thì ngày càng tập trung ít vào một số ít người trong khi đó sản phẩm đó lại ngày
càng được mang tính xã hội cao.Lực lượng sản xuất phát triển tất yếu dẫn tới sự
phân công lao động xã hội ngày càng tách biệt và rõ ràng(phân công cả về mặt xã
hội nói chung hay trong công trường sản xuất nói riêng). Lúc này sản phẩm sản xuất
ra không chỉ là sản phẩm cá biệt của bất kì cá nhân nào nữa mà nó đòi hoỉ sự kết
hợp của nhiều người thậm chí của cả xã hội. Sản phẩm nó đã mang tính xã hội hay
nền sản xuất đã ngày càng được xã hội hoá. Chính điều này gay lên mâu thuẫn trong
lòng của chủ nghĩa tư bản, dẫn tới xu hướng lịch sử của phương thức sản xuất này.
2.2.3 Xu hướng lịch sử của tích luỹ tư bản.
Khi tích luỹ nguyên thuỷ đã tạo ra những điều kiện để ra đời CNTB thì việc
tiếp tục tước đoạt những kẻ tư hữu, sẽ mang một hình thức mới. Bây giờ kẻ cần phải
bị tước đoạt không phải là người lao động kinh doanh độc lập nữa mà là nhà tư bản
đang bóc lột số đông công nhân.
Sự tước đoạt đó được thực hiện qua sự tác động của quy luật nội tại của bản
thân nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, bằng cách tập trung tư bản. Một số nhà tư bản
đánh quỵ nhiều nhà tư bản. Song song với sự tập trung đó, hay là việc một số ít nhà
tư bản tước đoạt số đông nhà tư bản đó, thì đồng thời hình thức hiệp tác của quá
trình lao động với quy mô ngày càng lớn, việc áp dụng khoa học vào kĩ thuật một
cách có ý thức, việc khai thác đất đai một cách có kế hoạch, việc biến tư liệu lao
động thành những tư liệu lao động chỉ sử dụng được một cách tập thể, việc tiết kiệm
tất cả các tư liệu sán xuất bằng cách sử dụng chúng với tư cách là những tư liệu sản
xuất của lao động kết hợp, việc lôi cuốn tất cả các dân tộc vào mạng lưới thị trường
thế giới, và đi đôi với cái đó là tính chất quốc tế của chế độ tư bản chủ nghĩa, cũng
phát triển. Con số những tên trùm tư bản tiếm đoạt và nắm độc quyền tất cả những
cái lợi của quá trình chuyển hoá đó ngày càng giảm đi không ngừng, thì nạn nghèo
khổ, áp bức, nô dịch, thoái hoá, bóc lột càng tăng thêm, những sự căm phẫn của giai
cấp công nhân một giai cấp đang ngày càng không ngừng đông đảo hơn, ngày càng
được cơ cấu của bản thân quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa huấn luyện, đoàn kết
và tổ chức lại cũng tăng lên. Sự tập chung tư liệu sản xuất và xã hội hoá lao động
đạt đến cái điểm mà chúng không còn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa của
chúng nữa. Cái vỏ đó vỡ tung ra. Giờ tận số của chế độ tư bản chủ nghĩa đã điểm.
Những kẻ đi tước đoạt bị tước đoạt.
Phương thức chiếm hữu tư bản chủ nghĩa do phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa đẻ ra, và do đó cả chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa nữa, là sự phủ định đầu
tiên đối với chế độ tư hữu cá nhân dựa trên lao động của bản thân. Nhưng nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó, với tính tất yếu của một quá
trình tự nhiên. Đó là sự phủ định cái phủ định. Sự phủ định này không khôi phục lại
chế độ tư hữu, mà khôi phục lại chế độ sở hữu cá nhân trên cơ sở những thành tựu
của thời đại tư bản chủ nghĩa: trên cơ sở sự hợp tác và sự chiếm hữu công cộng đối
với ruộng đất và những tư liệu sản xuất do chính lao động làm ra.
Dĩ nhiên, việc biến chế độ tư hữu phân tán dựa trên cơ sở lao động của bản
thân các cá nhân thành chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, là một quá trình lâu dài,
gian khổ và đau đớn hơn nhiều so với việc biến chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa,
thực tế đã dựa trên một quá trình sản xuất xã hội, thành chế độ sở hữu xã hội. ở kia
là một số ít kẻ tiếm đoạt đi tước đoạt quần chúng nhân dân, còn ở đây thì quần
chúng nhân dân đi tước đoạt một số ít những kẻ tiếm đoạt.
Chương 3 ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu.
3.1 ý nghĩa về mặt lý luận
Tích luỹ tư bản một với vai trò xuất phát điểm của chủ nghĩa tư bản gọi là
tích luỹ nguyên thuỷ tư bản và với vai trò là đòn bẩy cho sự phát triển quy mô của
chủ nghĩa tư bản hiện nay. Chúng ta đã đi tìm hiểu cả hai loại tích luỹ tư bản trên,
đã hiểu được thực chất của tích luỹ tư bản. Tất cả những điều trên trang bị cho
chúng ta một thế giới quan phương pháp luận về vấn đề nghiên cứu. Một cách nhìn
đúng đắn về vấn đề nghiên cứu là mục đích khi em bắt tay vào nghiên cứu đề tài.
Tất cả vấn đề nghiên cứu trên sẽ là vô ích nếu nó cho ta một cái nhìn sai lệch và
ngược lại sẽ là rất có ích nếu nó trang bị cho mọi người cái nhìn đúng đắn. Tư tưởng
đúng đắn thì hành động mới đúng đắn được.
Sự ra đời cũng như sự tồn tại phát triển của chủ nghĩa tư bản được các nhà tư
bản luôn luôn tìm cách che đậy bản chất của nó bằng cách họ không ngớt ca ngợi
các chế độ này. Chế độ được sinh ra tồn tại phát triển dựa trên sự bóc lột người
công nhân. Chủ nghĩa tư bản không có điều gì tốt đẹp và nó không phải là phương
thức sản xuất xã hội mà loài người vươn tới. Chỉ có phương thức cộng sản chủ
nghĩa mới là phương thức mà xã hội vươn tới. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy
luật này.
CNTB không ngừng giải thích sự ra đời của nó bằng những câu chuyện
nhằm che dấu bản chất của nó. Tích luỹ nguyên thuỷ tư bản được thực hiện bằng
bạo lực và cướp bóc, chủ nghĩa tư trong sự cưỡng bức, buổi khai sinh của chủ nghĩa
tư bản đã không tốt đẹp gì. Tiếp đó tích luỹ tư bản góp phần mở rộng quy mô bóc
lột. Một phương thức sản xuất mà dựa trên chế độ tư hữu, số ít người bóc lột nhiều
người thì nhất quyết không phải là phương thức sản xuất gương mẫu mặc dù nó đã
có công lao to lớn trong công việc phát triển lực lượng sản xuất xã hội. Bản chất của
chủ nghĩa tư bản là bóc lột, là không công bằng, xã hội tư bản đầy dẫy những bất
công và tích luỹ tư bản có cái nhiệm vụ là sinh ra chủ nghĩa tư bản và đồng thời
cũng phủ định chính bản thân chủ nghĩa này. Tóm lại thông qua ta càng thấy rõ
được bản chất của chủ nghĩa tư bản. Qua đó càng khẳng định con đường mà Đảng
ta chọn là tiến lên chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn đúng đắn.
Vai trò của tích luỹ tư bản thì ta không thể phủ nhận được. Nó thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, xã hội hoá nền sản xuất. Nó tạo tiền đề ra đời chủ nghĩa
tư bản rồi lại phủ định chủ nghĩa tư bản và tạo tiền đề cho phương thức sản xuất tiến
bộ của xã hội loài người đó là chủ nghĩa xã hội. Và khi chủ nghĩa xã hội ra đời thì
tích luỹ vẫn còn đầy đủ vai trò của nó và khi đó nó được gọi là tích luỹ vốn. Ta
không nên đánh đồng tích luỹ với chủ nghĩa tư bản mà loại trù nó bởi như thế cũng
có nghĩa là ta triệt tiêu sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tích luỹ vốn dược sử
dụng trong xã hội chủ nghĩa với hình thái biến tướng phù hợp.
Tóm lại con đường mà chúng ta lựa chọn không thể phủ nhận là hoàn toàn
đúng đắn. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mac-Lênin cùng tư tưởng Hồ Chí Minh
đang rọi con đường đúng đắn cho chúng ta. Chỉ có xây dựng chủ nghĩa xã hội mới
có công bằng mới không có người bóc lột người.
3.2 ý nghĩa thực tiễn
Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội nước ta xây dựng nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường còn gặp nhiều trở ngại. Điểm
xuất phát của nước ta càn quá thấp, nguy cơ tụt hậu so với thế giới đang đe dọa.
Điều mong mỏi của chúng ta là làm sao để phát triển để bắt kịp với nhịp độ phát
triển của thế giới.
Một vấn đề đặt ra còn nhiều thách thức đó là vốn, làm sao để có đủ vốn và sử
dụng vốn như thế nào. Qua việc nghiên cứu tích luỹ tư bản ta càng thấy được vai trò
của vốn như thế nào.
Để huy động vốn ở nước ta có hai nguồn ngoại lực từ các nước ngoài.Để
tăng vốn đầu tư nước ngoài thì chúng ta đòi hỏi phải có các biện pháp khuyến khích
đầu tư, hệ thống pháp luật phải thông thoáng. Thu hút đầu tư ở nước ngoài cũng
phải đảm bảo về mặt xã hội nguồn nội lực trong nước là quan trọng. Tìm mọi cách
huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong nước, phát triển hàng hoá nhiều thành phần
sẽ huy động được nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Nhất là thành phần kinh
tế tư nhân, ở đây có một tiềm lực rất lớn. Song mặc dù huy động vốn trong nước
hay từ ngoài nước thì chúng ta cũng phải đảm bảo định hướng cuả chúng ta.
Việc sử dụng vốn cũng vô cùng quan trọng. Hoạt động đầu tư phải làm sao
thu được nhiều lợi ích nhất hiệu quả nhất, đầu tư vào những ngành có lợi thế so
sánh của nước ta. Sử dụng vốn phải tiết kiệm, tránh sử dụng lãng phí và đầu tư thua
lỗ. Cũng tránh trường hợp để vốn nằm tại chỗ mà không phát sinh lợi nhuận.
Tóm lại vấn đề giải quyết tình trạng vốn ở nước ta là vô cùng cấp bách, bởi
tất yếu với vai trò của vốn thì không thể phát triển mà không cần vốn. Nó là một
trong ba yếu tố để dẫn tới thành công của bất kì quốc gia nào.
PHầN III: KếT LUậN
Tóm lại, xuyên suốt cả đề án này em những mong làm rõ hơn hiểu rõ
hơn về tích luỹ tư bản, một vấn đề mà trước khi nghiên cứu về nó em cũng chỉ
hiểu lờ mờ. Với vốn kiến thức kinh tế chính trị đã học được từ các thầy và quá
trình nghiên cứu tìm tòi trong một thời gian đã giúp em hiểu vấn đề này ngày
càng sáng tỏ hơn. Song cũng không tránh khỏi thiếu sót.
Một tích luỹ nguyên thuỷ đã cho em hiểu rõ hơn sự ra đời của chủ nghĩa
tư bản. Nó không tốt đẹp như những gì mà những nhà tư bản luôn miệng ca
ngợi. Sự ra đời của phương thức sản xuất này được thúc đẩy bởi bạo lực tàn
nhẫn, ra đời trong máu và mồ hôi của quần chúng nhân dân. Một tích luỹ tư
bản đã cho em biết thủ đoạn vắt kiệt công nhân của “các nhà tư bản”. Nó được
che đậy rất khéo léo bởi giá trị khả biến tăng song lại là tăng tuyệt đối về giá
trị của nó thôi còn lại là giảm sút tương đối so với giá trị bất biến và người
công nhân cứ bị bóc lột ngày càng nhiều mà họ không hay biết. Có thể nói tích
luỹ tư bản là người bạn đồng hành của chủ nghĩa tư bản, nó giúp thai nghén ra
chủ nghĩa tư bản và rồi nó lại thúc đẩy chủ nghĩa tư bản phát triển và cũng
chính nó sẽ làm cho quá trình chủ nghĩa tư bản bị diẹt vong được đẩy nhanh. Và
xã hội bước sang một phương thức sản xuất khác cao hơn, phương thức sản
xuất cộng sản chủ nghĩa thì tích luỹ tư bản sẽ mang một hình thái mới.
Tích luỹ tư bản không chỉ là mỗi sản phẩm của chủ nghĩa tư bản. Nó còn
tồn tại trong các phương thức sản xuất xã hội khác mà chỉ khác nhau về tên
gọi mà thôi. Ngày nay vấn đề tích luỹ và sử dụng vốn có vai trò rất quan trọng
trong việc quyết định thành công về mặt kinh tế của các nước trên thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng. Hiểu về tích luỹ tư bản sẽ giúp ta có quyêt định
đúng đắn trong việc tích luỹ vốn ở Việt Nam, thúc đẩy kinh tế phát triển.
DANH MụC TàI LIệU THAM KHảO
Giáo trình kinh tế chính trị Mac- Lênin 1998 tập 1
Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế-Trường đại học KTQD
Giáo trình lịch sử kinh tế quốc dân – Trường đại học KTQD
Kinh tế học tập 1 chương7 - P.A.Samuellson
Tư bản quyển 1 tập3 –C.Mac.
Mục lục
Phần I: Lời mở đầu. ------------------------------------------------------------trang 3
Phần II: Nội dung.---------------------------------------------------------------------5
Chương 1: Một số lý luận về tích luỹ tư bản.
1.1 Thế nào là tích luỹ.
1.1.1 Các khái niệm có liên quan.---------------------------------------------------5
1.1.2 Thực chất của tích luỹ tư bản.-------------------------------------------------6
1.1.3 Động cơ của tích luỹ tư bản.---------------------------------------------------8
1.1.4 Các nhân tố ảnh hưởng tới quy mô của tích luỹ tư bản.------------------10
1.2 Các quy luật của tích lũy tư bản.
1.2.1 Sự giảm bớt tương đối bộ phận tư bản khả biến trong tiến
trình tích luỹvà tích tụ đi kèm theo tiến trình đó --------------------------------12
1.2.2 Việc sản xuất ngày càng nhiều nhân khẩu thừa tương đối.--------------14
1.2.3 Lượng cầu về sức lao động tăng cùng với tích luỹ tư bản
trong điều kiện kết cấu của tư bản không đổi.-----------------------------------15
Chương 2: Vai trò của tích luỹ tư bản trong quá trình hình thành và phát triển kinh
tế tư bản chủ nghĩa.
2.1 Tích luỹ nguyên thuỷ tư bản.
2.1.1 Tích luỹ ban đầu điểm xuất phát của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa.---------------------------------------------------------------17
2.1.2 Nội dung, đặc điểm của thời kì tích luỹ nguyên thuỷ.--------------------19
2.2. Tích luỹ tư bản trong thời kì chủ nghĩa tư bản hiện đại.
2.2.1 Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.-------------------------------------23
2.2.2 Xã hội hoá nền sản xuất ngày càng cao.------------------------------------24
2.2.3 Xu hướng lịch sử của tích luỹ tư bản.----------------------------------------25
Chương 3: ý nghĩa của việc nghiên cứu tích luỹ tư bản.
3.1 ý nghĩa về mặt lí luận.------------------------------------------------------27
3.2 ý nghĩa thực tiễn của tích luỹ đối với phát triển kinh tế ở nước ta.---28
Phần III: Kết luận.----------------------------------------------------------------30
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Một số mặt của tích luỹ tư bản qua đó thấy được vai trò của nó trong quá trình phát triển kinh tế của CNTB.pdf