Tài liệu Luận văn Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng và an toàn của các khoản tín dụng có bảo đảm của doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại ngân hàng công thương Thanh Xuân: Luận văn
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ
AN TOÀN CỦA CÁC KHOẢN
TÍN DỤNG CÓ BẢO ĐẢM CỦA
DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC
DOANH TẠI NGÂN HÀNG
CÔNG THƯƠNG THANH XUÂN
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY
1.1. KHÁI NIỆM BẢO ĐẢM TIỀN VAY VÀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM
TIỀN VAY.
1.1.1. Khái niệm bảo đảm tiền vay.
Bảo đảm tiền vay là việc bảo về quyền lợi của người cho vay dưa trên
cơ sở thế chấp cầm cố tài sản thuộc sở hữu của người đi vay hoặc bảo lãnh
của bên thư ba.
Các ngân hàng và các định chế tài chính khác coi bảo đảm tiền vay là
nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn thu nợ thứ nhất (các lưu chuyển tiền tệ)
không thể thanh toán được nợ.
Nếu cho vay kinh doanh thì nguồn thu nợ thứ nhất là từ doanh thu thực
tế (cho vay ngắn hạn) hoặc khấu hao và lợi nhuận (cho vay trung và dài hạn).
Còn trong cho vay tiêu dùng thì nguồn thu nợ thứ nhất là các khoản thu nhập
các nhân như tiền lương, lợi tức từ cổ phiếu, trái phiếu. Tất cả các nguồn thu
nợ thứ...
41 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1159 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng và an toàn của các khoản tín dụng có bảo đảm của doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại ngân hàng công thương Thanh Xuân, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ
AN TOÀN CỦA CÁC KHOẢN
TÍN DỤNG CÓ BẢO ĐẢM CỦA
DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC
DOANH TẠI NGÂN HÀNG
CÔNG THƯƠNG THANH XUÂN
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY
1.1. KHÁI NIỆM BẢO ĐẢM TIỀN VAY VÀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM
TIỀN VAY.
1.1.1. Khái niệm bảo đảm tiền vay.
Bảo đảm tiền vay là việc bảo về quyền lợi của người cho vay dưa trên
cơ sở thế chấp cầm cố tài sản thuộc sở hữu của người đi vay hoặc bảo lãnh
của bên thư ba.
Các ngân hàng và các định chế tài chính khác coi bảo đảm tiền vay là
nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn thu nợ thứ nhất (các lưu chuyển tiền tệ)
không thể thanh toán được nợ.
Nếu cho vay kinh doanh thì nguồn thu nợ thứ nhất là từ doanh thu thực
tế (cho vay ngắn hạn) hoặc khấu hao và lợi nhuận (cho vay trung và dài hạn).
Còn trong cho vay tiêu dùng thì nguồn thu nợ thứ nhất là các khoản thu nhập
các nhân như tiền lương, lợi tức từ cổ phiếu, trái phiếu. Tất cả các nguồn thu
nợ thứ nhất đều được thể hiện dưới dạng lưu chuyển tiền tệ của người đi vay.
Thực tế trong môi trường kinh doanh đầy biến động và cạnh tranh ngày
càng gay gắt thì có thể có nhiều lý do dẫn đến nguồn thu nợ thứ nhất không
được thực hiện, nếu không có nguồn bổ sung tất yếu thì TCTD sẽ gặp rủi ro.
Chính vì thế, các ngân hàng thường yêu cầu người vay phải có bảo đảm cần
thiết đó chính là bảo đảm tiền vay.
1.1.2. Biện pháp bảo đảm tiền vay.
Theo Thông tư 06/NHNN1 thì có hai biện pháp bảo đảm tiền vay:
1.1.2.1. Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản.
Theo loại hình cho vay này, thì khách hàng không cần phải có bảo đảm
bằng tài sản cho món vay của mình, khách hàng thường là khác truuyền thống
có quan hệ tín dụng lành mạnh có uy tín với ngân hàng. Theo loại hình cho
vay không có bảo đảm bằng tài sản thì lại được chia thành 3 loại như sau:
a) Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản do TCTD lựa chọn.
Theo phương thức này, ngân hàng chỉ áp dụng với những khách hàng
lớn có uy tín và quan hệ lâu năm với ngân hàng. Khách hàng có nguồn thu ổn
định lưu chuyển tiền tệ thuần dương thì các ngân hàng ít khi yêu cầu khách
hàng thuộc nhóm này có bảo đảm tiền vay.
Hiện nay những Tổng công ty 90, 91 các doanh nghiệp Nhà nước làm
ăn có lãi thì ít hoặc hiếm khi đưa ra biện pháp bảo đảm tiền vay khi tiếp cận
với nguồn vốn ngân hàng vì họ có dòng tiền thường xuyên ra và vào ngân
hàng với số lượng lớn. Ngân hàng không yêu cầu các cơ quan này có bảo đảm
tiền vay vì việc thu hút khách hàng nhóm này là chiến lược của các ngân
hàng.
b) Cho vay không có bảo đảm theo chỉ định của Chính phủ.
Khi có chỉ định của Chính phủ hay nói theo cách khác đối với những
món vay được Chính phủ bảo lãnh thì mức độ an toàn là rất cao nên NH
thường cho vay mà không yêu cầu có tài sản bảo đảm. Chính phủ là cơ quan
quản lý của ngân hàng Trung ương mà ngân hàng Trung ương lại là cơ quan
quản lý của NHTM vì thế những món vay có Chính phủ bảo đảm là rất an
toàn hơn thế nữa nó thể hiện quan hệ cấp trên đối với cấp dưới.
c) Cho vay cá nhân hộ gia đình nghèo có bảo lãnh bằng tín chấp của tổ
chức đoàn thể.
Loại hình cho vay này áp dụng phổ biến trong lĩnh vực cho vay hộ
nông dân. Trong phạm vi chuyên đề tốt nghiệp này chúng ta không đề cập đến
loại hình cho vay này.
Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh không được áp dụng không rộng rãi trong hệ thống ngân hàng
thương mại Việt Nam do đó chúng ta sẽ không đi sâu vào vấn đề này mà chỉ
điểm qua các loại hình cho vay không có bảo đảm bằng tài sản mà tập trung
vào cho vay có bảo đảm bằng tài sản.
1.1.2.2. Cho vay có bảo đảm bằng tài sản.
Đối với loại hình cho vay này khách hàng cần có tài sản thuộc sở hữu
của chính mình để cầm cố thế chấp tại ngân hàng hoặc có thể được bảo lãnh
bằng tài sản từ bên thứ 3 hoặc cũng có thể sử dụng tài sản từ tiền vay để bảo
đảm cho món vay của mình.
Nói chung bất kỳ tài sản hay quyền về tài sản được giao dịch mà có khả
năng tạo ra lưu chuyển tiền tệ thì đều được làm bảo đảm. Tuy nhiên dưới góc
độ người cho vay tổ chức tín dụng sẽ xét cho vay những món vay mà bảo đảm
phải có ba đặc trưng.
* Giá trị bảo đảm phải lớn hơn nghĩa vụ bảo đảm. Nghĩa vụ được bảo
đảm gồm vốn gốc, lãi (kể cả lãi quá hạn) và các chi phí khác trừ trường hợp
các bên thoả thuận lãi và các chi phí không thuộc phạm vi bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ.
Bảo đảm tín dụng không chỉ mang ý nghĩa là nguồn thu nợ thứ hai của
ngân hàng mà nó còn có ý nghĩa thúc giục người đi vay phải trả nợ đúng hạn
nếu không tài sản của họ sẽ bị phát mại đồng nghĩa với việc họ sẽ mất tài sản.
Nếu như giá trị của bảo đảm nhỏ hơn nghĩa vụ được bảo đảm người đi vay sẽ
có động cơ không trả nợ.
Đặc trưng này được thể hiện rất rõ thông qua mức cho vay của tổ chức
tín dụng với một khách hàng có bảo đảm. Mức cho vay mà tổ chức tín dụng
xác định thường chỉ đạt tới 70% giá trị của bảo đảm. Chẳng hạn như nếu giá
trị quyền sử dụng đất là 100 triệu thì mức cho vay không vượt quá 70 triệu.
* Tài sản phải có sẵn thị trường tiêu thụ.
Đặc trưng này thể hiện tính lỏng của tài sản, mức độ chuyển tài sản
thành tiền là nhanh hay chậm, dễ dàng hay không dễ dàng. Nhìn chung mức
độ thanh khoản của tài sản có quan hệ đến lợi ích của người cho vay. Người
cho vay khó chấp nhận tài sản khó bán. Tài sản có mức độ thanh khoản trung
bình có thể được chấp nhận nhưng phải tính đến chi phí do kéo dài thời gian
xử lý.
* Có đầy đủ cơ sở pháp lý để người cho vay có quyền ưu tiên và xử lý
tài sản.
Đặc trưng này phải thể hiện được các mặt sau: tài sản sở hữu hợp pháp
của người đi vay hoặc người bảo lãnh, được pháp luật cho phép giao dịch và
có đủ cơ sở pháp lý để ngân hàng - chủ thể cho vay - được quyền ưu tiên xử
lý tài sản nhằm thu nợ khi người đi vay không thanh toán đúng hạn.
a) Cho vay bảo đảm bằng cầm cố thế chấp tài sản của khách hàng.
a.1. Cho vay cầm cố tài sản của khách hàng.
Cầm cố tài sản là việc bên đi vay giao tài sản là động sản thuộc sở hữu
của mình cho bên cho vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Nếu tài sản
cầm cố có đăng ký quyền sở hữu thì các bên có thể thoả thuận bên cầm cố vẫn
giữ tài sản cầm cố hoặc giao cho bên thứ 3 giữ.
Những tài sản nếu không có đăng ký quyền sở hữu thì những tài sản đó
phải chuyển cho bên cho vay giữ. Thông thường ngân hàng thường cầm cố
hàng hoá, giấy tờ có giá vì chúng dễ dàng chuyển thành tiền mặt để thanh
toán đủ nợ gốc lãi và lãi quá hạn cho ngân hàng.
Đối với những tài sản có đăng ký quyền sở hữu thì tài sản có thể giao
cho bên cho vay hoặc thoả thuận để bên đi vay sử dụng tài sản nhưng giấy tờ
đăng ký quyền sở hữu do ngân hàng hoặc bên thứ ba giữ.
Tài sản cầm cố là các giấy tờ có giá trị, kim loại quý, đá quý thì ngân
hàng cần phải thận trọng vì có thể bị giả mạo. Ngân hàng cần xem xét tính
hợp pháp của cơ sở cấp giấy tờ đó. Cho vay cầm cố tài sản là loại hình cho
vay thủ tục đơn giản và ít rủi ro. Ngân hàng hiện nay thường chuộng loại
hình thức cho vay này đặc biệt là cầm cố bằng giấy tờ có giá.
a.2. Cho vay có bảo đảm bằng thế chấp tài sản của khách hàng.
Thế chấp tài sản là việc bên đi vay dùng tài sản là bất động sản thuộc
sở hữu của mình hoặc giá trị quyền sử dụng đất hợp pháp để đảm bảo thực
hiện nghĩa vụ với bên cho vay.
Theo quy định của Luật dân sự và Luật đất đai thì có hai loại thế chấp:
thế chấp bất động sản và thế chấp giá trị quyền sử dụng đất.
* Thế chấp bất động sản.
Bất động sản là tài sản không di dời được (nhà ở, cơ sở sản xuất kinh
doanh). Ngoài ra còn có cả hoa lợi lợi tức, khoản tiền bảo hiểm phát sinh từ
bất động sản thế chấp.
* Thế chấp giá trị quyền sử dụng đất.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân
do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước thực hiện giao đất hoặc cho thuê
đất đối với các cá nhân, hộ gia đình, tổ chức kinh tế sử dụng ổn định lâu dài.
a.3. Cho vay có bảo đảm bằng tài sản của bên bảo lãnh.
Bảo lãnh có bảo đảm bằng tài sản là bên bảo lãnh phải có tài sản để
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Việc bảo lãnh tài sản được thực hiện theo biện
pháp cầm cố hoặc thế chấp tài sản. Thực chất đây là hình thức bảo đảm kép
nhằm đề phòng khi người bảo lãnh không thực hiện được đúng nghĩa vụ thì
ngân hàng có thể xử lý tài sản kèm theo bảo lãnh.
a.4. Cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
Hình thức bảo đảm này thường là thế chấp tài sản. Khách hàng được
xét cho vay phải là khách hàng có uy tín, thời hạn của khoản vay thường là
trung dài hạn. Thông thường chỉ những doanh nghiệp ngoài quốc doanh thực
sự có uy tín mới được xét cho vay theo hình thức này.
1.2. NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM TIỀN VAY, THỦ TỤC HỢP ĐỒNG BẢO
ĐẢM.
1.2.1. Nguyên tắc bảo đảm tiền vay.
Tổ chức tín dụng là người được ra yêu cầu bảo đảm tiền vay đối với
khách hàng. Và khi thực hiện cho vay một món vay, tổ chức tín dụng đưa ra
bốn nguyên tắc bảo đảm tiền vay sau:
Thứ nhất, tổ chức tín dụng quyết định cho vay có bảo đảm hay không
có bảo đảm do đó tổ chức tín dụng phải chịu trách nhiệm về quyết định của
mình.
Tổ chức tín dụng dựa trên quan hệ của mình với khách hàng để xem xét
yêu cầu của mình với khách hàng để xem xét có yêu cầu bảo đảm hay không.
Nếu tổ chức tín dụng tự thấy khách hàng có uy tín lâu năm, có quan hệ tín
dụng lành mạnh thì có thể cấp tín dụng mà không yêu cầu bảo đảm. tổ chức
tín dụng hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành vi cho vay không có bảo đảm
của mình. Nếu có rủi ro thì tổ chức tín dụng phải hoàn toàn tự cân đối để giảm
thiểu ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của mình và của toàn hệ
thống.
Thứ hai, là khi cho vay không có bảo đảm bằng tài sản mà bên đi vay vi
phạm hợp đồng tín dụng hoặc có dấu hiệu vi phạm hợp đồng tín dụng thì tổ
chức tín dụng yêu cầu khách hàng phải có biện pháp bảo đảm bằng tài sản
hoặc thu nợ trước hạn.
Sau khi phát tiền vay, tổ chức tín dụng tiến hành giám sát tín dụng.
Giám sát tín dụng là đánh giá mức độ chấp hành hợp đồng tín dụng của khách
hàng. Trong quá trình giám sát, tổ chức tín dụng mà thấy bất kỳ dấu hiệu rủi
ro nào thì phải có biện pháp nhắc nhở hoặc sử dụng biện pháp mạnh (như nêu
trên) để đảm bảo khoản tín dụng đó an toàn có chất lượng.
Thứ ba, là tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài sản bảo đảm tiền vay nếu
khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết.
Tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài sản bảo đảm để thanh khoản cho
khoản nợ (gốc + lãi). Tổ chức tín dụng không phải hỏi ý kiến của chủ tài sản
vì tổ chức tín dụng được phép làm như thế là do điều khoản đó đã được ghi
trong hợp đồng bảo đảm và được quy định trong Luật các tổ chức tín dụng và
được Chính phủ cho phép xử lý theo NĐ178.
Thứ tư, sau khi đã xử lý bảo đảm tiền vay, nếu khách hàng vay hoặc
bên bảo lãnh chưa thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ thì khách hàng hoặc bên
bảo lãnh có trách nhiệm thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết.
Điều này xảy ra khi số tiền thu được từ xử lý tài sản đảm bảo chưa đủ
để thanh toán nợ vay. Trong trường hợp này tổ chức tín dụng vẫn có quyền
truy đòi người đi vay số còn thiếu hoặc yêu cầu người bảo lãnh thực hiện
nghĩa vụ bảo đảm.
1.2.2. Thủ tục hợp đồng bảo đảm.
1.2.2.1. Hợp đồng bảo đảm.
Kèm theo với hợp đồng tín dụng thì có một hợp đồng rất quan trọng đó
là hợp đồng bảo đảm. Hợp đồng bảo đảm xét về nguyên tắc thì phải lập thành
hợp đồng riêng, nhưng cũng có trường hợp không cần phải lập thành một hợp
đồng riêng mà chỉ ghi chung vào hợp đồng tín dụng.
Chẳng hạn ở hệ thống Ngân hàng công thương thì việc cầm cố tài sản
là giấy tờ có giá thì giám đốc chi nhánh có thể xem xét không cần lập hợp
đồng cầm cố riêng mà có thể ghi chung vào hợp đồng tín dụng (Công văn
1472/CV - NHCT5)
Tuy nhiên đối với trường hợp thế chấp (thế chấp giá trị quyền sử dụng
đất) và bảo lãnh thì bắt buộc phải lập hợp đồng bảo lãnh riêng, thành văn bản
riêng.
1.2.2.2. Việc công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm.
Việc công chứng hay không công chứng tài sản bảo đảm là do các bên
thoả thuận với nhau. Việc giao dịch bảo đảm có phải đăng ký hay không
được quy định tại nghị định 08/NĐ-CP. Thông thường các loại hình cho vay
bằng hình thức cầm cố chứng khoán ít khi đòi hỏi phải có đăng ký, vì bản
thân chứng khoán ghi danh, không ghi danh đều có tên số tiền và được ghi
trong hợp đồng tín dụng.
Tuy vậy, nhưng trường hợp sau đây pháp luật quy định bắt buộc phải
đăng ký tài sản bảo đảm đó là: các tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký
quyền sở hữu, tài sản bảo đảm giao cho bên thế chấp hoặc người thứ ba giữ
tài sản bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ (Nghị định 08/2000/NĐ-Chính phủ
về đăng ký giao dịch bảo đảm).
Trong hệ thống Ngân hàng công thương thì theo tinh thần Công văn
1219/NHCT5 thì Ngân hàng công thương giao cho các chi nhánh xem xét
thoả thuận với khách hàng có chứng thực tài sản hay không.
Đối với tài sản là giá trị quyền sử dụng đất thì việc đăng ký giao dịch
được thực hiện tại Sở Địa chính nhà đất tỉnh hoặc thành phố nơi ngân hàng có
giao dịch với khách hàng.
1.2.2.3. Việc chuyển giao tài sản bảo đảm.
Đối với tài sản cầm cố là chứng khoán, giấy tờ có giá thì sau khi hợp
đồng tín dụng được đăng ký thì các chứng từ đó sẽ chuyển cho ngân hàng bảo
quản. Bên đi vay được ngân hàng giải ngân.
Đối với tài sản cầm cố là máy móc thiết bị không gắn liền với nhà
xưởng đất đai (động sản) mà lại cũng không có chứng nhận quyền sở hữu thì
theo Thông tư liên tịch 12/2000/TTLT-NGNN-BTP-BTC-TCĐC quy định:
nếu tổ chức tín dụng nhận cầm cố thì doanh nghiệp phải có giấy chứng minh
tài sản đó thuộc quyền sở hữu hợp pháp hoặc quyền quản lý sử dụng đối với
các doanh nghiệp và phải giao cho tổ chức tín dụng giữ bản chính giấy tờ
này. Khi cơ quan đăng ký quốc gia thành lập sẽ tiến hành việc đăng ký giao
dịch theo quy định của Chính phủ.
Các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu hợp pháp của chủ tài sản với tài
sản là hợp đồng mua bán cho tặng tài sản, hợp đồng theo quy định của Bộ Tài
chính, chứng từ nộp tiền, văn bản giao tài sản, biên bản nghiệm thu công trình
và các giấy tờ khác kèm theo.
Đối với tài sản thế chấp không phải là giá trị quyền sử dụng đất thì tổ
chức tín dụng thực hiện như đối với tài sản cầm cố. Còn đối với tài sản thế
chấp là giá trị quyền sử dụng đất thì tổ chức tín dụng giữ bản chính giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất để tránh trường hợp khách hàng sử dụng một
tài sản thế chấp cho nhiều món vay tại nhiều tổ chức tín dụng mà tổng giá trị
tài sản lại nhỏ hơn tổng giá trị nghĩa vụ.(Hiện nay theo Nghị định 178 thì một
tài sản chỉ được thế chấp tại một TCTD)
1.2.2.4 Định giá tài sản bảo đảm.
Về nguyên tắc, việc định giá tài sản bảo đảm phải theo giá thị trường.
Nếu định giá cao hơn thị trường có thể dẫn đến khi phát mãi tài sản (hoặc
chuyển quyền sở hữu cho ngân hàng) trong trường hợp khách hàng không trả
nợ, Ngân hàng không thu hồi đủ nợ gốc lãi và chi phí khác. Nếu định giá thấp
hơn giá thị trường sẽ ảnh hưởng đến việc đáp ứng nhu cầu vốn cho khách
hàng và làm suy yếu tính cạnh tranh của ngân hàng.
Việc xác định giá trị tài sản bảo đảm phải được thực hiện tại thời điểm
ký kết hợp đồng bảo đảm, việc xác định này chỉ làm cơ sở để xác định mức
cho vay của tổ chức tín dụng chứ không áp dụng khi xử lý tài sản để thu hồi
nợ. Việc xác định phải được lập thành văn bản kèm theo hợp đồng bảo đảm.
Việc xác định giá trị quyền sử dụng đất là vấn đề rất phức tạp. Đó là do
trong điều kiện Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống
nhất quản lý nhưng pháp luật cho phép người sử dụng đất do Nhà nước giao
hoặc cho thuê được quyền thế chấp. Do đó, khi nhận bảo đảm ngân hàng phải
xác định giá trị quyền sử dụng đất và giá trị của hợp đồng thuê đất.
Hiện nay giá trị quyền sử dụng đất có 2 loại giá khác nhau đó là giá thị
trường và giá theo quy định của Nhà nước. Khi xác định giá trị tài sản bảo
đảm, tổ chức tín dụng cần xem xét trên cơ sở giá thị trường có sự tham khảo
mức giá quy đinh của Nhà nước. Hai loại giá này thường không khớp nhau,
mức giá thị trường thường cao hơn mức giá do Nhà nước quy định rất nhiều.
Đây chính là điểm bất cập khi xét cấp tín dụng cho món vay có bảo đảm bằng
giá trị quyền sử dụng đất.
Đối với đất do Nhà nước cho thuê, giá trị quyền sử dụng đất được xác
định trên cơ sở tiền thuê đã trả cho Nhà nước sau khi trừ đi tiền thuê đã trả
cho thời gian đã sử dụng và cộng thêm tiền đền bù thiệt hại khi được Nhà
nước cho thuê đất nếu có.
Đối với tài sản bảo đảm không phải giá trị quyền sử dụng đất thì các
bên có thể thoả thuận về giá trị của tài sản hoặc thuê tổ chức tư vấn có chuyên
môn xác định giá trị trên cơ sở giá trị thị trường tại thời điểm xác định có
tham khảo giá quy định của Nhà nước giá trị còn lại trên sổ sách và các yếu tố
khác về giá.
Việc định giá tài sản bảo đảm là vấn đề phức tạp. Vì vậy để định giá chính
xác phải tổ chức theo hướng chuyên môn hoá về nghiệp vụ định giá tài sản
bảo đảm.
Đối với món vay lớn thì chi nhánh ngân hàng phải thành lập tổ thẩm
định. Theo hệ thống ngân hàng công thương thì đối với một mốn vay lớn bắt
buộc phải lập tổ thẩm định tài sản bảo đảm bao gồm những thành viên sau:
1 đồng chí trong ban giám đốc chi nhánh.
1 đồng chí trưởng hoặc phó phòng kinh doanh.
2 cán bộ phòng kinh doanh.
Trong trường hợp mức cho vay hơn 100 triệu thì chi nhánh xem xét
quyết định lập hay không lập tổ thẩm định tài sản bảo đảm phù hợp với thực
tế tại chi nhánh như việc xác lập phải lập thành văn bản.
(Công văn 1219 và 1472/CV-NHCT5)
Sở dĩ phải quy định như trên vì nếu địa bàn của ngân hàng khác nhau sẽ
ảnh hưởng đến chất lượng khoản tín dụng. Chẳng hạn ở địa bàn thành phố thì
món vay < 100 triệu ta không cần phải phải lập tổ thẩm định nhưng nếu ngân
hàng và khách hàng ở địa bàn nông thôn thì món vay gần 100 triệu phải thành
lập tổ thẩm định tài sản bảo đảm.
1.3. XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM.
1.3.1. Trường hợp khách hàng phải trả nợ đúng hạn và đầy đủ.
Đối với ngân hàng với tư cách là chủ nợ việc xử lý tài sản bảo đảm phải
đảm bảo thoả mãn tốt nhất hai yêu cầu sau:
- Số tiền thanh toán là giá bán sau khi đã trừ hết chi phí phải ở mức giá
bán sát giá thị trường ở thời điểm tốt nhất với chi phí thấp nhất.
- Thời gian xử lý tài sản: Cần phải xử lý nhanh tài sản nếu sử lý chậm
sẽ gây thiệt hại cho ngân hàng vì hai lý do sau:
Ngân hàng không thu được lãi tiền vay trong khi vẫn phải trả lãi tiền
gửi do vốn bị đóng băng
Kéo dài thời gian gây tốn kém chi phí và giảm giá trị tự nhiên của
tài sản.
Hợp đồng bảo đảm không có thời hạn riêng mà thời hạn của nó phụ
thuộc vào hợp đồng tín dụng. Điều này nghĩa là khi người đi vay thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ trả nợ được đảm bảo bằng tài sản thì thời hạn thế chấp chấm
dứt.
Sau khi người đi vay trả hết nợ (vốn gốc + lãi) ngân hàng sẽ trả lại giấy
chứng nhận sở hữu tài sản thế chấp cho người vay và lập giấy xác nhận giải
toả tài sản bảo đảm gửi đến cơ quan đơn vị có liên quan.
1.3.2. Trường hợp khách hàng không trả được nợ khi đến hạn.
Trong trường hợp này ngân hàng xem xét liệu tình hình tài chính của
khách hàng có thể được cải thiện theo hướng tốt hay không. Nếu được, thì các
biện pháp xử lý tài sản bảo đảm chưa cần phải áp dụng, ngân hàng tổ chức tư
vấn lập giải pháp ngăn ngừa khoản nợ xấu, và tiếp tục theo dõi. Nếu như biện
pháp này được thực hiện và thành công thì ngân hàng vừa giúp cho khách
hàng và cũng là giúp cho mình.
Ngân hàng không phải bao giờ cũng thành công trong việc giúp khách
hàng vì như thế ngân hàng chịu thiệt vì vốn bị đóng băng. Một trong những
giải pháp mà ngân hàng áp dụng đó là tiến hành xử lý bảo đảm tiền vay.
1.3.2.1. Xử lý tài sản cầm cố.
a. Xử lý tài sản tài chính và các quyền về tài sản.
Tài sản tài chính là các giấy tờ có giá, tiền gửi hoặc tiền ký quỹ tại các
tổ chức tín dụng, các quyền về tài sản như các khoản phải thu trong thương
mại, nhận thầu xây dựng.
Thông thường tài sản tài chính do ngân hàng nắm giữ, khi buộc phải xử
lý thì ngân hàng dựa vào những thoả thuận trong hợp đồng tín dụng để xử lý
tài sản tài chính đó để thu nợ cho ngân hàng. Đối với tài sản tài chính, ngân
hàng có thể xử lý theo một số cách sau:
a.1. Ký hậu bỏ trống các giấy tờ có giá trị bằng tiền.
Điều này được áp dụng với những loại giấy tờ có giá có thể ký hiệu
được khi nhận cầm cố ngân hàng yêu cầu khách hàng ký hiệu bỏ trống tên
người thụ hưởng. Khách hàng mà không trả được nợ, ngân hàng sẽ tự động
điền tên mình vào chỗ tên người thụ hưởng để được quyền nhận số tiền từ tài
sản này. Nếu tài sản tài chính có thể bán trên thị trường tiền tệ thì ngân hàng
sẽ bán để thu hồi nợ.
a.2. Cam kết uỷ quyền cho ngân hàng được quyền xử lý để thu hồi nợ.
Cách này được áp dụng đối với các loại tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết
kiệm, tiền ký quỹ và các loại khác.
Đến hạn cam kết nếu khách hàng chưa trả được nợ thì ngân hàng tiến
hành thu hoặc trích từ nguồn tiền này để trả nợ.
Đây là cách được các ngân hàng thương mại Việt Nam áp dụng rộng rãi
và yêu thích. Đối với khách hàng có tiền gửi kỳ hạn nhưng chưa đến hạn rút
tiền mà có nhu cầu chi tiêu lại không muốn mất khoản tiền lãi thì đây là
phương thức cấp tín dụng được ưa chuộng (cả ngân hàng và khách hàng).
a.3. Yêu cầu toà án xử lý để truy đòi nợ trong trường hợp có dấu hiệu tranh
chấp hoặc lừa đảo.
b. Xử lý tài sản vật chất.
Trường hợp tài sản cầm cố không cần đăng ký sở hữu hoặc lưu hành
(hàng hoá, vật liệu, đồ dùng gia đình) thì theo luật pháp quy định nếu không
có thoả thuận trong trường hợp cầm cố, hợp đồng tín dụng thì ngân hàng sẽ
cầm giữ tài sản và khi đến hạn đã cam kết mà khách hàng không trả nợ xong
nợ, ngân hàng có quyền xử lý tài sản cầm cố theo thoả thuận trong hợp đồng
hoặc theo quy định của Thông tư liên tịch số 03.
Trường hợp tài sản cầm cố phải đăng ký quyền sở hữu hoặc đăng ký
lưu hành thì được xử lý như tài sản thế chấp nêu dưới đây.
1.3.2.2. Xử lý tài sản thế chấp.
Việc xử lý tài sản thế chấp được thực hiện theo nguyên tắc đồng thoả
thuận hoặc theo phán quyết của toà án. Hai bên có thể thoả thuận trong hợp
đồng cách thức xử lý tài sản thế chấp.
Chẳng hạn, trong hợp đồng thế chấp có thể ghi điều khoản khi bên đi
vay không trả được nợ thì tài sản thế chấp thuộc quyền sở hữu của bên cho
vay hoặc hai bên có thể thỏa thuận ngay khi xử lý tài sản thế chấp. Tuy nhiên
trên thực tế thường xảy ra những bất đồng về giá giữa bên thế chấp và bên
nhận thế chấp. Trong trường hợp này, theo Nghị định 178 tổ chức tín dụng
được quyền quyết định giá bán tài sản để thu hồi nợ. Trước khi tổ chức tín
dụng quyết định giá xử lý tài sản thế chấp, tổ chức tín dụng thuê công ty tư
vấn, tổ chức chuyên chuyên môn xác định, tham khảo giá thực tế tại địa
phương, tại thời điểm thanh lý, tham khảo giá quy định của Nhà nước và các
yếu tố khác về giá. Nếu tài sản có tranh chấp và khởi kiện thì tài sản bảo đảm
được xử lý theo quyết định của toà án hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Việc xử lý tài sản thế chấp có thể được thực hiện qua một số cách sau:
- Trực tiếp bán tài sản thế chấp cho người mua (trừ trường hợp tài sản
thế chấp là giá trị quyền sử dụng đất).
- Ngân hàng nhận tài sản thế chấp thay thế cho nghĩa vụ trả nợ.
- Bán tài sản thế chấp thông qua tổ chjức dịch vụ bán đấu giá như trung
tâm bán đấu giá và doanh nghiệp bán đấu giá.
- Yêu cầu toà án cho phép phát mại tài sản thế chấp để trả nợ vay ngân
hàng.
1.4. RỦI RO BẢO ĐẢM TIỀN VAY VÀ HÌNH THỨC BẢO ĐẢM NGÂN
HÀNG ƯA CHUỘNG.
1.4.1. Rủi ro bảo đảm tiền vay.
Khi tổ chức tín dụng yêu cầu người được vay phải có bảo đảm để hạn
chế ngăn ngừa rủi ro tín dụng nhưng chính những bảo đảm tín dụng ấy cũng
tiềm ẩn rủi ro.
1.4.1.1. Rủi ro với tài sản cầm cố.
Đối với tài sản cầm cố là tài sản không có đăng ký quyền sở hữu, ngân
hàng rất khó quản lý chúng vì thực tế kho của ngân hàng có diện tích có hạn
mà các khoản vay lại nhiều. Do đó, ngân hàng thường quản lý tại kho của
khách hàng hoặc thuê kho của bên thứ ba. Trong trường hợp này, mặc dù
ngân hàng là người duy nhất giữ chìa khoá kho hàng hoá và bảng niêm phong
kho mang tên ngày hàng nhưng ngân hàng vẫn không chắc chắn được về chất
lượng tài sản cũng như an toàn tài sản. Hơn nữa, phí thuê kho lại cao, do đó,
mặc dù là phương thức tương đối an toàn, nhưng chỉ nên áp dụng với hàng
hoá mới mua hoặc nhập khẩu được thị trường chấp nhận.
Đối với tài sản tài chính và quyền tài sản thì các ngân hàng nên lưu ý
đây là giấy tờ có giá và cẩn trọng với giấy tờ chứng chỉ có giá khống.
1.4.1.2. Rủi ro tài sản thế chấp.
Đối với tài sản thế chấp là tài sản bất động sản như nhà xưởng, máy
móc thiết bị. Mặc dù những tài sản đều do ngân hàng nắm giữ bản chính giấy
chứng nhận quyền sở hữu những vẫn không an toàn. Giá trị tài sản bị hao
mòn hữu hình và vô hình, thị trường tiêu thụ loại tài sản này không rộng rãi
như thị trường hàng hoá nguyên vật liệu trong cầm cố.
Đối với tài sản cầm cố là giá trị quyền sử dụng đất thì rủi ro nằm ở cả
phía thị trường và Nhà nước.
Khi thị trường tiền tệ không đủ sức hấp dẫn nhà đầu tư thì họ sẽ chuyển
sang lĩnh vực đất đai, điều này làm cho giá cả đất biến động nên việc định giá
tài sản của ngân hàng có khả năng không chính xác hoặc giá cao hơn giá thị
trường, ảnh hưởng đến an toàn của khoản tín dụng, hoặc thấp hơn giá trị thị
trường ảnh hưởng đến mức cho vay của ngân hàng, do đó chiến lược khách
hàng bị ảnh hưởng.
Hoặc khi có quy hoạch của Chính phủ thì tài sản thế chấp lúc mang đi
thế chấp thì là tài sản hợp pháp nhưng do có quy hoạch thì tài sản đó lại trở
thành tài sản bất hợp pháp. Điều này gây thiệt hại lớn cho ngân hàng vì người
đi vay sẽ có động cơ không trả nợ và tài sản lại không thể xử lý để thu hồi nợ.
1.4.1.3. Rủi ro của hình thức bảo đảm bằng bảo lãnh.
Đối với trường hợp bảo lãnh đối vật thì mức độ rủi ro tương tự như các
hình thức bảo đảm bằng tài sản.
Đối với trường hợp bảo lãnh đối nhân thì rủi ro xảy ra khi người bảo
lãnh chết, pháp nhân bảo lãnh chấp dứt hoạt động hoặc bên bảo lãnh không
thực hiện được nghĩa vụ cam kết.
Theo quy định của luật dân sự, trong thế chấp hoặc cầm cố nếu bên thế
chấp cầm cố chấm dứt (cá nhân chết hoặc pháp nhân chấm dứt hoạt động) thì
việc thế chấp cầm cố vẫn có hiệu lực đối với bên chủ nợ. Trái lại trong bảo
lãnh nếu bên bảo lãnh chấm dứt thì chấm dứt việc bảo lãnh. Đây là một vấn
đề mà ngân hàng cần phải quan tâm.
1.4.2. Các hình thức bảo đảm được ngân hàng ưa chuộng.
1.4.2.1. Cầm cố giấy tờ có giá do các ngân hàng thương mại quốc doanh
Việt Nam phát hành và chứng khoán Chính phủ.
Các ngân hàng yêu thích hình thức bảo đảm này vì nó dễ dàng thẩm
định, dễ dàng thu hồi nợ khi khách hàng không trả được. Việc ra quyết định
cho vay vì thế mà cũng dễ dàng hơn.
Các giấy tờ có giá này có sự đảm bảo chắc chắn là sẽ được thanh toán
và nó chỉ lỏng hơn tiền mặt một chút. Ngân hàng vì thế rất ưa thích loại hình
cho vay này.
1.4.2.2. Thế chấp giá trị quyền sử dụng đất.
Hầu hết các khoản vay có bảo đảm tại các ngân hàng được bảo đảm
bằng hình thức thế chấp giá trị quyền sử dụng đất.
Các ngân hàng thường áp dụng hình thức này một phần vì tài sản lớn
của người dân với tài sản là rất cao. Do đó khi ngân hàng cấp tín dụng thì rất
an tâm vào sự sẵn lòng trả nợ của khách hàng.
CHƯƠNG 2
QUY CHẾ ĐẢM BẢO TIỀN VAY VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI
QUỐC DOANH TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG THANH XUÂN
2.1. VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN
HÀNG CÔNG THƯƠNG THANH XUÂN
2.1.1. Sự hình thành ngân hàng công thương Thanh Xuân.
Quận Thanh Xuân được thành lập từ đầu năm 1997 là địa bàn có thế
mạnh về sản xuất công nghiệp, có tiềm năng để mở rộng thị trường tiền tệ tín
dụng để đáp ứng nhu cầu huy động vốn, cung ứng vốn tiền tệ dịch vụ. Thanh
toán góp phần tạo môi trường giúp các doanh nghiệp, thành phần kinh tế trên
địa bàn phát triển sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội. Ngày 08/03/1997
Chủ tịch Hội đồng quản trị NHCT Việt Nam ra quyết định thành lập số
17/HĐQT-QĐ về việc thành lập Chi nhánh ngân hàng công thương Thanh
Xuân và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 22/04/1997.
Chi nhánh ngân hàng công thương Thanh Xuân ra đời đánh giá sự phát
triển không ngừng của cuộc đổi mới kinh tế đất nước nói chung, sự phát triển
hoạt động kinh doanh, dịch vụ tiền tệ, thanh toán của hệ thống ngân hàng
công thương nói riêng. Từ phòng một giao dịch chủ yếu huy động tiết kiệm và
cho vay thành phần kinh tế trong và ngoài quốc doanh được nâng cấp thành
chi nhánh trực thuộc ngân hàng công thương Việt Nam với chức năng hoạt
động đầy đủ của chi nhánh ngân hàng thương mại quốc doanh đóng trên địa
bàn quận Thanh Xuân.
Ngay từ khi thành lập, chi nhánh ngân hàng công thương Thanh Xuân
đã đối mặt với những thử thách lớn trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm
vụ kinh doanh tiền tệ tín dụng do "sinh sau đẻ muộn" các đơn vị tổ chức kinh
tế đều đã quan hệ lâu đời và mật thiết với các tổ chức tín dụng lớn trên địa
bàn thành phố Hà Nội.
Mặt khác tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khó khăn
do năng lực tài chính yếu, kỹ thuật công nghệ thiếu đồng bộ và lạc hậu, thiếu
vốn đầu tư, công nợ lớn ở nhiều đơn vị nên có ảnh hưởng trực tiếp đến kinh
doanh dịch vụ của Chi nhánh ngân hàng công thương Thanh Xuân.
Do cho nhánh mới thành lập nên cơ sở vật chất vẫn cón chật hẹp, lượng
khách hàng đến giao dịch vẫn chưa nhiều, dư nợ cho vay còn thấp. Để khắc
phục tình trạng trên Đảng uỷ, Ban giám đốc Chi nhánh ngân hàng công
thương Thanh Xuân đã xây dựng phương hướng kinh doanh và các biện pháp
để triển khai nhiệm vụ kinh doanh của các năm sau đó, lấy mục tiêu "hiệu quả
kinh doanh gắn với an toàn vốn" là tư tưởng chỉ đạo để động viên cán bộ công
nhân viên hoàn thành các chỉ tiêu kinh doanh đề ra và của cấp trên giao cho
Chi nhánh ngân hàng công thương Thanh Xuân.
2.1.2. Môi trường kinh doanh của ngân hàng công thương Thanh Xuân.
a) Về thuận lợi:
Chi nhánh ngân hàng công thương Thanh Xuân hoạt động trên địa bàn
quân Thanh Xuân có thế mạnh sản xuất công nghiệp, có tiềm năng mở
rộng thị trường. Được sự quan tâm của Ban lãnh đạo ngân hàng công
thương Việt Nam đến tháng 3/1999 Chi nhánh ngân hàng công thương
Thanh Xuân hoàn toàn tách ra khỏi ngân hàng công thương Đống Đa
trở thành chi nhánh trực thuộc ngân hàng công thương Việt Nam.
Chi nhánh ngân hàng công thương Thanh Xuân đã mở rộng hoạt động
kinh doanh bằng nhiều hình thức như mở rộng thêm các quỹ tiết kiệm để huy
động tăng nguồn vốn cho chi nhánh, mở rộng mạng lưới Marketing.
Sử dụng linh hoạt công cụ lãi suất, đổi mới phong cách làm việc văn
minh lịch sự, tận tình với khách, đã gây được niềm tin cho khách hàng.
b) Khó khăn:
Tuy là quận có tiềm năng về công nghiệp nhưng là một Chi nhánh vừa
mới thành lập nên gặp rất nhiều khó khăn, khách hàng ít và không có khách
hàng truyền thống, đội ngũ cán bộ công nhân viên phần lớn là sinh viên vừa
mới ra trường chưa có kinh nghiệm,phần còn lại là một số cán bộ từ ngân
hàng khác chuyển về nên trình độ của cán bộ vẫn cón bất cập với nhau.
Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn như trên, nhưng trong những năm qua
Chi nhánh ngân hàng công thương Thanh Xuân đã khắc phục cơ bản những
khó khăn tồn tại đó. Đảng uỷ cùng với Ban lãnh đạo luôn đi sâu, đi sát nắm
bắt tình hình của các đơn vị có mở tài khoản tại ngân hàng, qua đó nắm được
tình hình vay vốn của đơn vị. Mặc dù lãi cho vay và nhận tiền gửi trong
những năm gần đây liên tục giảm, chênh lệch đầu vào và đầu ra ngày càng thu
hẹp, cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng diễn ra quyết liệt. Nhưng với những
biện pháp kinh doanh tích cực Chi nhánh ngân hàng công thương Thanh Xuân
đã quyết tâm thực hiện mục tiêu "ổn định, an toán, hiệu quả và phát triển".
2.1.3. Mô hình tổ chức của ngân hàng công thương Thanh Xuân.
Chi nhánh ngân hàng công thương Thanh Xuân gồm 139 cán bộ công
nhân viên hiện làm tại các phòng ban dưới sự lãnh đạo của 01 Giám đốc và 02
Phó giám đốc.
- Phòng Kinh doanh có chức năng huy đồng vốn của các đơn vị và tổ
chức kinh tế tư nhân, cá thể quốc doanh và ngoài quốc doanh sử dụng vốn cho
vay hỗ trợ sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế.
- Phòng Quản lý tiền gửi dân sự hoạt động chủ yếu huy động tiền gửi
trong dân sư.
- Phòng Kế toán tài chính tổ chức thanh toán cho khách hàng giám sát
tình hình vay, nợ thu hồi lãi hạch toán thu chi trong nội bộ ngân hàng, tiến
hành dịch vụ ngân hàng khác.
- Phòng Kho quỹ bảo quản tiền mặt và các tài khoản khác của ngân
hàng và khách hàng.
- Phòng Kiểm soát có trách nhiệm kiểm tra thực thi các chế độ thể lệ tại
ngân hàng.
- Tổ Điện toán trực thuộc phòng Kế toán: xử lý thông tin, truy cập
thông tin và số liệu, quản lý máy vi tính.
Các phòng ban được tổ chức theo hướng chuyên môn hoá nhưng có
quan hệ chặt chẽ với nhau nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của
toàn ngân hàng
Mô hình tổ chức tại ngân hàng công thương Thanh Xuân
Ban giám đốc
Phòng
Kinh
Phòng
Quản
Phòng
Kế
Phòng
Kho
Phòng
Kiểm
Được sự giúp đỡ của ngân hàng công thương Việt Nam, của các cấp
chính quyền địa phương nên hoạt động của Chi nhánh ngân hàng công thương
Thanh Xuân đã đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ
2.2. VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH.
Kể từ khi bắt đầu thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế đến nay, vai
trò của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đối với nền kinh tế ngày càng quan
trọng. Khu vực này tạo ra một phần không nhỏ GDP thu hút và tạo công ăn
việc làm cho nhiều lao động.
2.2.1. Vai trò của doanh nghiệp ngoài quốc doanh với nền kinh tế nói
chung.
Kể từ khi đổi mới đến nay bộ mặt kinh tế xã hội của nước ta cũng từng
bước được cải thiện. Chất lượng cuộc sống được nâng cao dần theo mức thu
nhập cho nền kinh tế.
Khu vực kinh tế này tạo việc làm cho nhiều lao động, thu được ngoại tệ
về cho đất nước từ việc xuất khẩu hàng hoá, bán dịch vụ cho người nước
ngoài. Khu vực kinh tế này cũng rất nhạy cảm với thị trường. Các nhà quản lý
có thể nhìn sự phản ứng của khu vực kinh tế này với biến động tiềm ẩn trên
thị trường để đưa ra chính sách biện pháp đối phó.
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong đó có các công ty liên doanh,
công ty 100% vốn nước ngoài, công ty cổ phần với cách quản lý điều hành
mới có tác phong công nghiệp, chuyên môn hoá sâu sắc nên đã có ảnh hưởng
tốt với các công ty của Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam đã học hỏi
được kinh nghiệm quản lý nghệ thuật Marketing và cách thức phân công điều
hành công việc từ phía các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Những điều học
hỏi đó đã được áp dụng có sáng tạo phù hợp với điều kiện của các doanh
nghiệp Việt Nam và đã có hiệu quả rõ rệt.
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có vai trò to lớn trong việc chuyển
dịch cơ cấu nền kinh tế. Hầu hết các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt
động trong khu vực công nghiệp và dịch vụ. Khu vực công nghiệp và dịch vụ
là hướng mà nền kinh tế Việt Nam vươn tới để Việt Nam trở thành nước công
nghiệp năm 2020.
Vai trò của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đối với nền kinh tế thì
to lớn nhưng ảnh hưởng mặt trái của nó với nền kinh tế là không nhỏ. Do đó
nó cần phải được quan tâm để có sự phân biệt giữa doanh nghiệp làm ăn tốt
với doanh nghiệp thua lỗ có dấu hiêụ lừa đảo.
2.2.2. Vai trò doanh nghiệp ngoài quốc doanh với ngành ngân hàng.
Sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh kéo theo sự gia
tăng về nhu cầu vốn cho các phương án sản xuất kinh doanh khiến cho doanh
nghiệp ngoài quốc doanh phải tìm nguồn vốn tài trợ và họ trở thành khách
hàng của ngân hàng, sử dụng dịch vụ tiện ích mà ngân hàng cung cấp.
Có thể thấy tỷ trọng dư nợ của khu vực này mấy năm gần đây chiếm tỷ
trọng không nhỏ. Do đó, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cũng khẳng định
vai trò của mình với nền kinh tế và cả với ngành ngân hàng.
2.3. CÁC HÌNH THỨC BẢO ĐẢM TIỀN VAY ĐƯỢC ÁP DỤNG TẠI
NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG THANH XUÂN.
2.3.1. Hình thức cho vay không có bảo đảm bằng tài sản với doanh
nghiệp ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Công thương Thanh Xuân.
Loại hình cho vay này tuy Ngân hàng Công thương Thanh Xuân có áp
dụng như các doanh nghiệp ngoài quốc doanh lại không đáp ứng được điều
kiện ngặt nghèo đã được quy định. Do đó doanh nghiệp ngoài quốc doanh
thường không được vay vốn không bảo đảm.
Những doanh nghiệp ngoài quốc doanh nếu hội đủ điều kiện trong
Thông tư 06/200/TT-NHNN1 và doanh nghiệp phải thực hiện kiểm toán hàng
năm kết quả sản xuất kinh doanh. Ngoài ra doanh nghiệp phải mở tài khoản
giao dịch tại ngân hàng công thương, tài sản của doanh nghiệp đã sử dụng hết
để thế chấp cầm cố cho ngân hàng thì chi nhánh được cho vay không có bảo
đảm bằng tài sản.
Ngoài ra, Ngân hàng Công thương Thanh Xuân cũng xem xét cấp tín
dụng không bảo đảm cho khách hàng nếu doanh nghiệp chứng minh phương
án sản xuất kinh doanh của mình là khả thi và hội đủ điều kiện tại Thông tư
06. Vốn tự có của doanh nghiệp tham gia vào phương án sản xuất kinh doanh
đó tối thiểu 30%. Lúc đó ngân hàng sẽ thực hiện biện pháp cầm quản cả kho
hàng đối với toàn bộ lô hàng nếu khách hàng đồng ý thì ngân hàng sẽ tiến
hành cho vay và giải ngân.
Trường hợp đó nếu khách hàng đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng
và ngân hàng xem xét quyết định cho vay không có đảm bảo bằng tài sản
nhưng không vượt mức uỷ quyền phán quyết của Tổng giám đốc Ngân hàng
công thương Việt Nam. Ngân hàng xem xét cho vay không quá 10 tỷ với
doanh nghiệp có vốn đàu tư nước ngoài và không quá 5 tỷ với doanh nghiệp
ngoài quốc doanh khác.
Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư từ nước ngoài nếu doanh nghiệp
đó lỗ theo kế hoạch do mới đi vào hoạt động tại Việt Nam chưa quá 3 năm,
nhng nếu xét có khả năng thực hiện kế hoạch lỗ thì Ngân hàng công thương
tranh luận xem xét cho vay không có bảo đảm bằng tài sản mà phù hợp với
quy định khác tại mục 2 chương IV Nghị định 178.
Trên thực tế, hiếm có doanh nghiệp ngoài quốc doanh đáp ứng được
các điều kiện ngặt nghèo để được tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng mà
không có tài sản bảo đảm.
Còn với doanh nghiệp có vốn đầu tư từ nước ngoài thì lại có nguồn vốn
dồi dào và được các ngân hàng nước họ phục vụ nên khi gặp những khó khăn
trong lĩnh vực vay vốn tại các ngân hàng thương mại Việt Nam thì họ sẽ
không thực hiện việc vay vốn tại ngân hàng thương mại Việt Nam mà sẽ vay
vốn tại các ngân hàng nước ngoài.
2.3.2. Hình thức cho vay có bảo đảm bằng tài sản với doanh nghiệp ngoài
quốc doanh tại Ngân hàng công thương Thanh Xuân.
2.3.2.1. Cho vay thế chấp giá trị quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở.
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có giao dịch tín dụng với Ngân
hàng công thương Thanh Xuân chủ yếu là công ty trách nhiệm hữu hạn,
doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần tư nhân và có một doanh nghiệp có
vốn dầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp này mới giao dịch với Ngân hàng
công thương Thanh Xuân nên chủ yếu là sử dụng hình thức cho vay thế chấp
giá trị quyền sử dụng và quyền sở hữu nhà ở, hoặc biện pháp bảo lãnh bằng
tài sản là giá trị quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở.
Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sản xuất lớn có uy tín hoặc
có dây chuyền sản xuất hoặc có hàng hoá dễ tiêu thụ thì ngan hàng cũng sẽ
xem xét cho vay theo hình thức cầm cốđã nghiên cứu ở chương 1.
Sở dĩ quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở được thế chấp cho các
khoản vay từ Ngân hàng công thương Thanh Xuân vì các công ty ngoài quốc
doanh vay để tiến hành sản xuất kinh doanh, vay món tương đối lớn mà họ lại
mới bắt đầu quan hệ với ngân hàng. Hơn thế nữa, tài sản có thể đảm bảo cho
khoản vay lớn như vậy chỉ có thể là giá trị quyền sử dụng đất và quyền sở hữu
nhà ở.
2.3.2.2. Cho vay bảo lãnh tài sản của bên thứ ba.
Ngân hàng công thương Thanh Xuân cho vay khi khách hàng có bảo
lãnh của bên thứ ba bằng tài sản. Tài sản ở đây chũng chính là giá trị quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà ở.
Thực hiện hình thức bảo đảm kứp như vậy, khách hàng nếu không có
tài sản vẫn được vay vốn và cơ hội kinh doanh không bị bỏ lỡ.
2.4. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH DƯ NỢ CỦA KHỐI KINH TẾ NGOÀI
QUỐC DOANH.
2.4.1. Nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay đang gặp phải khó khăn
về vốn. Vốn là một trong những yếu tố đầu vào quan trọng của quá trình sản
xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có nhu cầu vốn lớn
những lại không được Ngân hàng công thương Thanh Xuân quyết định cho
vay. Điều này có nhiều lý do.
Thứ nhất, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh họ mới quan hệ với các
ngân hàng nên uy tín của họ chưa cao. Mà trong lĩnh vực kinh doanh ngân
hàng uy tín là tiêu chuẩn đầu tiên và quan trọng nhất. Trong hệ thống cho
điểm khách hàng (CAMPARI hoặc 5C) thì tiêu thức uy tín được xếp lên hàng
đầu. Có thể nói quan hệ với ngân hàng thì uy tín xếp hạng đầu, khách hàng
(doanh nghiệp) có uy tín, quan hệ lâu dài với ngân hàng, quan hệ vay trả đúng
kỳ hạn và đúng kế hoạch sẽ được xếp là khách hàng có uy tín lớn và yếu tố
đảm bảo không phải là yếu tố quyết định đến việc cho vay.
Thứ hai, là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và phương án kinh
doanh của họ chưa tạo được niềm tin cho ngân hàng. Các phương án mà
doanh nghiệp đưa ra mang tính chất tự phát, nghĩa là thị trường có phong trào
kinh doanh mặt hàng gì thì họ mới lập phương án. Như vậy, thời điểm dự án
được đi vào hoạt động thì thị trường đã bão hoà. Do đó ngân hàng khó có thể
xem xét cấp vốn cho dự án như thế này được. Ngân hàng cấp vốn tín dụng
cho nền kinh tế nên phải đảm bảo phải thu hồi đủ vốn và lãi để tiếp tục quay
vòng vốn tín dụng mới. Các phương án khác thì sẽ được ngân hàng xem xét
cùng với sự hiểu biết về tính cách uy tín của khách hàng.
Thứ ba, là mức vốn tự có ngân hàng yêu cầu doanh nghiệp tham gia
vào dự án nhưng doanh nghiệp lại không đáp ứng đủ. Có những doanh nghiệp
đề nghị vay vượt quá số phần trăm quy định của tổng nhu cầu dự án. Số phần
trăm vốn tự có tham gia vào dự án không đủ yêu cầu tối thiểu 30% nên ngân
hàng khó lòng chấp thuận cho vay. Ngân hàng muốn vốn của ngân hàng cùng
vận động với vốn của khách hàng, như thế thì khoản cho vay sẽ được an toàn.
Thứ tư, là vấn đề về bảo đảm tiền vay. Sở dĩ đây được xem là yếu tố
khó khăn để các doanh nghiệp tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng. Họ vừa
chưa có đủ uy tín vừa muốn vay món vay lớn phục vụ sản xuất kinh doanh mà
không có bảo đảm thì không thể tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng. Đối với
món vay tương đối lớn, khách hàng phải có tài sản có giá trị lớn hơn giá trị
món vay, như vậy mới được ngân hàng xem xét co vay. Mà tài sản lớn có thể
đem ra thế chấp là giá trị quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở thì nhu
cầu vay mới được đáp ứng.
2.4.2. Thực trạng tình hình dư nợ có bảo đảm của khối doanh nghiệp
ngoài quốc doanh tại Ngân hàng công thương Thanh Xuân trong
tổng tể thực trạng kinh doanh của Ngân hàng công thương Thanh
Xuân.
Bảng 1: Tình hình chung về 1 số chỉ tiêu kinh doanh của ngân hàng công
thương Thanh Xuân qua 5 năm hoạt động.
Chỉ tiêu
Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001
STĐ % STĐ % STĐ % STĐ % STĐ %
Huy động vốn 148.698,15 100 290.12,4 100 377.475,65 100 560.225,65 100 708.606,75 100
Cho vay và đầu tư 47.993,55 100 247.063,55 100 317.231,05 100 370.731,75 100 638.051,65 100
1) Đtư vào CKCP 0 0 0 0 0 0 4741,3 1,28 0,0024
2) Uỷ thác CV 0 0 0 0 0 0 0 0 74.735,4 11,71
3) Cho vay nền KT 47.933,55 100 247.063,55 100 317.231,05 100 365.995,55 98,72 563.300,95 88,288
Thu nhập - - 40.509 38.754 60.216
Lợi nhuận - - 7.952 8.229 7.520
Trước hết, các khoản vay của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại
ngân hàng công thương Thanh Xuân đều được bảo đảm bằng tài sản thông
qua ìn thức thế chấp hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên tứ ba.
Trải qua 5 năm hoạt động, ngân hàng công thương Thanh Xuân đã thực
iện cho vay nền kinh tế, đáp ứng một phần nhu cầu vốn kinh tế
Bảng 2: Tình hình cho vay nền kinh tế theo thành phần kinh tế của ngân
hàng công thương Thanh Xuân
Chỉ tiêu
Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001
STĐ
% với
dư nợ
STĐ
% với
dư nợ
STĐ
% với
dư nợ
STĐ
% với
dư nợ
STĐ
% với
dư nợ
Cho vay QD 21.363,9 44,3726 217.005,15 87,853 307.713,5 96,999 365.995,55 95,65 563.300,95 96,376
Cho vay NQD 26.882,65 55,6273 30.008,4 12,165 9.517,45 3 15.920,5 4,35 20.417 3,6425
Năm 1997 là năm mà ngân hàng công thương Thanh Xuân bắt đầu đi
vào hoạt động, ngân hàng đã cấp tín dụng cho nền kinh tế 48.146,55 triệu
đồng trong đó vốn tín dụng cấp cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm
44,3726 % tổng khối lượng ngân hàng cho vay nền kinh tế. Đây là lượng lớn
vốn tín dụng cả về số lượng tuyệt đối và số tương đối. Như vậy, trong năm
đầu tiên đi vào hoạt động ngân hàng công thương Thanh Xuân thực sự đã đáp
ứng phần nào rất lớn nhu cầu vốn của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong
và ngoài địa bàn quận Thanh Xuân.
Năm hoạt động đầu tiên của ngân hàng công thương Thanh Xuân
không chỉ thành công trong lĩnh vực sử dụng tài sản mà thành công cả trong
nghiệp vụ nguồn vốn. Tỷ lệ dư nợ của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
trên tổng nguồn huy động là 14,37%. Đây là chỉ tiêu tương đối cao nhưng dù
vậy vẫn đản bảo an toán vì năm đầu tiên hoạt động mà tỷ lệ nợ quá hạn trên
tổng dư nợ 0,41%. Đây là mức an toàn thậm chí rất an toàn so với chỉ tiêu nợ
quá hạn của khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 0,44% trên tổng dư nợ
quán hạn. Nợ quá hạn năm đầu tiên khá thấp chứng tỏ công tác cho vay thu
nợ, cho vay có đảm bảo điều kiện chặt chẽ được thực hiện đúng quy trình
nghiệp vụ cho vay của ngành ngân hàng nói chung và hệ thống ngân hàng
công thương Việt Nam nói riêng.
Đến năm thứ hai trong quá trình hoạt động, ngân hàng công thương
Thanh Xuân tăng mức dư nợ cho nền kinh tế đạt 513,15% mức dư nợ cùng kỳ
năm 1997 và tăng 413,15%. Đây là con số đánh dấu sự trưởng thành đi lên
của ngân hàng công thương Thanh Xuân. Tuy nhiên dư nợ cho vay khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh (được bảo đảm hết) đạt 30.008,4 (triệu) chiếm tỷ lệ
12,146% tổng dư nợ đối với nền kinh tế. Xét về số tương đối ta nhận thấy tỷ
trọng có giảm nhưng số tuyệt đối tăng và tăng 8.644,5 (triệu) tăng 40,46% so
với mức dư nợ của khu vực này năm 1997.
Như vậy, xét về số tuyệt đối thì mức dư nợ của khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh tăng và điều đó chứng tỏ các biện pháp bảo đảm tiền vay được
thực hiện an toàn theo các công văn hướng dẫn của Tổng giám đốc ngân
hàng công thương Việt Nam. Cũng nhờ đó mà các doanh nghiệp thuộc khối
này có số nợ quá hạn trên tổng dư nợ là tương đối thấp chỉ có 490,33 (triệu)
chiếm 14,29% tổng nợ quá hạn. Trong năm hoạt động thứ hai tỷ lệ nợ quá hạn
của ngân hàng được xem là đạt mức an toán (<5%).
Hai năm đầu tiên hoạt động của ngân hàng công thương Thanh Xuân
bước đầu đã có hiệu quả. Đối với một ngân hàng, hai năm tuổi đời vẫn được
xem là non trẻ nên ngân hàng vẫn trực thuộc ngân hàng công thương Đống
Đa nên chưa có hạch toán thu nhập lãi lỗ. Ba năm sau (1999, 2000, 2001)
ngân hàng tách riêng, hạch toán độc lập, trực thuộc ngân hàng công thương
Trung ương.
Đến năm hoạt động thứ 3 (1999), mức dư nợ cho nền kinh tế năm 1999
tăng 118.932 (triệu) về số tương đối tăng 32,49%. Trong đó mức dư nợ cho
khối ngoài quốc doanh lại giảm cả số tuyệt đối lẫn số tương đối đã chỉ cons
15.920,5 (triệu) và đạt 4,3499% tổng dư nợ. Ngân hàng công thương Thanh
Xuân đã bắt đầu có thu nhập và lợi nhuận. Thu nhập của ngân hàng đạt
40.509 (triệu) và lợi nhuận đạt 7.952 (triệu).
Các năm tiếp theo, mà chỉ tiêu của ngân hàng đều tăng theo chiều
hướng tốt, dư nợ tăng, nợ quá hạn giảm thu nhập và lợi nhuận tăng
2.4.2.2. Xư hướng phát triển của các khoản nợ vay của khối doanh nghiệp
ngoài quốc doanh có bảo đảm bằng tài sản.
Dư nợ cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại ngân
hàng công thương Thanh Xuân đều được bảo đảm bằng tài sản. Nhìn chung
mức độ dư nợ của các đơn vị ngoài quốc doanh có xu hướng tăng lên ta xem
xét biểu đồ sau:
Biểu đồ: Xu hướng biến động dư nợ đối với khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh
Biến động mức dư nợ qua 5 năm hoạt động.
20417
15920,5
9517,45
21363,9
30008,4
0
5000
10000
15000
20000
25000
30000
35000
1997 1998 1999 2000 2001
n¨m
triÖu ®ång
Ba năm đầu đi vào hoạt động ngân hàng công thương Thanh Xuân đã
tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu vốn của khối ngoài quốc doanh trên địa bàn
thành phố Hà Nội.
Hai năm (1997, 1998) ngân hàng công thương Thanh Xuân chưa được
hạch toán độc lập mà vẫn còn phụ thuộc ngân hàng công thương Đống Đa nên
một lượng tương đối khách hàng của ngân hàng công thương Đống Đa được
chuyển về ngân hàng công thương Thanh Xuân làm cho mức dư nợ năm 1997
của khối ngoài quốc doanh lến đến 21.363,9 (triệu) chiếm 44,3726% tổng
mức dư nợ toàn nền kinh tế. Đến năm 1998, ngân hàng công thương Thanh
Xuân sau một năm hoạt động đã thu hút thêm khách hàng nên dư nợ đã tăng
lên đáng kể và đạt 30.008,4 (triệu) nhưng tỷ trọng trong dư nợ nền kinh tế lại
chỉ chiếm 12,146%.
Nhờ thực hiện đúng và đầy đủ quy trình tín dụng và quy chế bảo đảm
tiền vay nên ngân hàng công thương Thanh Xuân cho vay và đều thu được nợ.
Đến năm thứ 3 (1999) mức dư nợ có nguyên nhân khách quan tác động
đó là khủng hoảng kinh tế tác động nên các doanh nghiệp thu nhỏ quy mô
hoạt động sản xuất kinh doanh nên nguồn vốn ngân hàng ít được vận động
với chu kỳ kinh doanh của khách hàng.
Trong năm thứ 4 và thứ 5 hoạt động của ngân hàng công thương Thanh
Xuân, mức dư nợ của khối ngoài quốc doanh lại tăng và có xu hướng tăng
trong các năm tới.
2.5. VIỆC CHẤP HÀNH QUY CHẾ ĐẢM BẢO TẠI NGÂN HÀNG CÔNG
THƯƠNG THANH XUÂN.
2.5.1. Những mặt tích cực
Các cán bộ phòng kinh doanh ngân hàng công thương Thanh Xuân
luôn chấp hành quy trình tín dụng, quy chế đảm bảo tiền vay.
Khi xem xét một món vay có bảo đảm, nếu món vay đó lớn hơn 100
triệu đống, ngân hàng công thương Thanh Xuân luôn luôn lập tổ thẩm định
giá tài sản theo đúng tinh thần Công văn 1219/CV-NHCT5. Do đó tài sản
được định giá ở mức không quá cao mà cũng không quá thấp, vừa đảm bảo
cho yêu cầu vốn của khách hàng vừa đảm bảo an toàncho ngân hàng..
Sau khi ngân hàng thẩm định giá trị tài sản việc xác định mức cho vay
dựa trên giá trị tài sản đảm bảo luôn luôn thực hiện đúng và tuân thủ mức cho
vay phải nhỏ hơn hoặc bằng 70% giá trị tài sản đảm bảo (đối với cả tài sản thế
chấp) hoặc 80% với vàng kim khí quý đá quý hoặc 100% với giấy tờ có
giá.(Nhưng vẫn phải đảm bảo có khả năng thu hồi hết nợ khi đến hạn nghĩa là
thời điểm đáo hạn của chứng khoán phải ít nhất là phải trùng với thời điểm
thanh lý hợp đồng tín dụng) Ngân hàng công thương Thanh Xuân chấp hành
các quy định về bảo đảm tiền vay, quy trình tín dụng theo đúng chế độ, theo
đúng các nghị định thông tư quyết định của các ngành có liên quan.
Mặc dù tại ngân hàng công thương Thanh Xuân từ khi hạch toán độc
lập chưa phát sinh món nợ quá hạn nào phải thực hiện phát mại tài sản,
nhưng việc xử lý tài sản để thu hồi nợ đã xảy ra khi tiếp nhận các món nợ cũ,
dù vậy, các cán bộ luôn luôn học hỏi kinh nghiệm của các ngân hàng trong và
ngoài hệ thống trong việc xử lý tài sản đảm bảo, xoá nợ đóng băng của ngân
hàng.
2.5.2. Những mặt hạn chế.
Ngoài những mặt tích cực đã nêu trên, việc thực hiện đảm bảo tiền vay
tại ngân hàng công thương Thanh Xuân vẫn cón một số tồn tại:
Thứ nhất:Hình thức đảm bảo thực tế áp dụng tại ngân hàng công
thương Thanh Xuântuy khá phong phú nhưng lại không đáp ứng được yêu
cầu về thời hạn của khách hàng.Chẳng hạn như khách hàng có chứng khoán
ngắn hạn (ví dụ thời hạn là 6 tháng) nhưng nhu cầu vốn và thời hạn trả nợ lại
lớn hơn 6 tháng, như vậy ngân hàng cho vay không đáp ứng được yêu cầu về
thời hạn của khách hàng.Điều này gây khó khăn cho khách hàng và cho cả
hoạt động của ngân hàng.
Thứ hai: Việc định giá trị tài sản thế chấp dù đã tính đến biến động thị
trường trong thời hạn nợ nhưng vẫn tiềm ẩn biến động mà ngân hàng không
tính đến trong suốt thời hạn nợ. Thị trường đất đai bất động sản lại thay đổi
từng ngày làm cho việc định giá tài sản trở nên khó khăn. Các tài sản đó
thường được tham chiếu theo 3 mức giá đó là giá thị trường, giá quy định của
Nhà nước, giá trị còn lại của tài sản mà trong đó giá thị trường lại biến động
mạnh (rất khó lường nhất).
Thứ ba: là việc theo dõi giám sát tài sản thế chấp thường không đựoc
coi trọng, sau khi giải ngân ngân hàng theo dõi giám sát tín dụng nhưng ít
theo dõi tài sản đảm bảo.Tài sản đảm bảo nhất là nhà ở có thể bị chủ tài sản
sửa chữa xây dựng làm cho tài sản không được giữ nguyên hiện trạng như khi
đem thế chấp. Nếu có phát sinh nợ khó đòi, ngân hàng làm thủ tục phát mại
thì sẽ gặp khó khăn.
Tóm lại chúng ta không thể phủ nhận vai trò của bảo đảm tiền vay
trong việc cấp tín dụng. Các nhà ngân hàng không thể xét cho vay khi khách
hàng chưa có uy tín mà lại không có tài sản baỏ đảm. Các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh phần nhiều là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên nhu cầu vốn vay
không lớn bằng các doanh nghiệp quốc doanh và cũng vì thế họ có thể đem
tài sản ra thế chấp cho món vay.
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ AN
TOÀN CỦA CÁC KHOẢN TÍN DỤNG CÓ BẢO ĐẢM CỦA DOANH
NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG
THANH XUÂN.
3.1. ĐỐI VỚI NHỮNG KHOẢN VAY CHƯA GIẢI NGÂN.
3.1.1. Vấn đề thẩm định phương án sản xuất kinh doanh.
Phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trình lên ngân hàng
xem xét thường là phương án hoàn hảo do đó khi tiếp nhận ngân hàng phải
xem xét tìm hiểu thông tin nhiều chiều. Nếu nhận thấy đó là doanh nghiệp có
uy tín trên thị trường, có kết quả kinh doanh tốt thì ngân hàng nên xét cho vay
đủ nhu cầu vay. Mặc dù tài sản thế chấp chỉ cho phép nhu cầu vốn vay nhưng
ngân hàng nên xem xét để doanh nghiệp được vay theo nhu cầu vốn.(Cho vay
tín chấp một phần)
Sở dĩ ngân hàng nên cho vay tín chấp một phần vì như vậy doanh
nghiệp sẽ có đủ vốn thực hiện phương án và có lãi để trả nợ. Nếu ngân hàng
không xét cho họ vay vốn thì họ sẽ phải đi huy động vốn từ nhiều nguồn phi
ngân hàng ví dụ vay nặng lãi với lãi suất cao gấp nhiều lần lãi suất ngân hàng.
Lúc đó, chính bản thân ngân hàng sẽ là người bị thiệt vì đã bỏ lỡ khoản dư nợ
và khách hàng vì quan hệ cá nhân sẽ trả nợ cho khoản vay phi ngân hàng
trước nhất do vậy ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng có phát sinh nợ quá hạn.
Trong quá trình xem xét yêu cầu vay vốn, nếu ngân hàng thấy phương
án sản xuất kinh doanh vẫn đảm bảo có lãi nhưng về phía tài sản bảo đảm,
ngân hàng thấy có khả năng xuất hiện cạnh tranh liên quan đến chủ nợ khác
của người đi vay thì ngân hàng kiên quyết yêu cầu khách hàng xác nhận
quyền ưu tiên khi xử lý đảm bảo và chỉ cho vay theo đúng quy định nhằm
trách rủi ro. Việc giám sát sau khi phát tiền vay phải đặc biệt chú trọng nhất là
giám sát sự biến sự biến động của tài sanr đảm bảo.
3.1.2. Vấn đề thẩm định tài sản bảo đảm.
Tài sản bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ phải là tài sản sở hữu hợp pháp
của người vay (người bảo lãnh) vào thơì điểm ký hợp đồng tín dụng. Tổ thẩm
định phải xem xét tính hợp pháp chủ sở hữu tài sản tính hợp pháp của tài sản.
Khi xem xét tài sản, mặc dù đó là tài sản hợp pháp nhưng ngân hàng
vẫn nên xem xét những vấn đề sau:
Đối với tài sản bảo đảm có giá trị lâu dài (không bị mất giá theo thời
gian) hoặc ít mất giá trị sử dụng (như đất đai, nhà cửa, các giầy tờ có giá), khi
cho vay ngân hàng nên áp dụng biện pháp cho vay "để đương". Hai bên
thương lượng định giá tài sản và ký hợp đống mua bán tài sản trong đó ghi rõ:
Nếu khi tín dụng đến hạn mà bên đi vay không trả được nợ hoặc lãi thì hợp
ằng mua bán tài sản mặc nhiên có hiệu lực pháp lý, bên cho vay mặc nhiên trở
thành chủ tài sản; nếu tín dụng đến hạn mà bên vay trả đủ nợ gốc và lãi thì
mặc nhiên hợp đồng mua bán tài sản sẽ không có giá trị pháp lý.
Đối với tài sản khó tiêu thụ trên thị trường, tài sản dễ hao mòn (hữu
hình và vô hình) thì không nhận làm tài sản thế chấp cầm cố.
3.1.3. Vấn đề dự báo tính ổn định của tài sản đảm bảo.
Trong thực tế phát sinh muôn trạng của sự phức tạp về tài sản có
trường hợp khi đem thế chấp để vay nợ là hợp pháp nhưng do có sự thay đổi
quy hoạch vùng dân cư đường xá gia thông... thì bỗng dưng tài sản đó trở
thành không hợp pháp vì vi phạm lộ giới vùng di dân... Do đó giá trị của tài
sản đảm bảo giảm đi gấp nhiều lần so với giá trị khi ký hợp đồng.
Ngân hàng đặc biệt quan tâm đến tính ổn định của tài sản. Nếu tài sản
là đất đai, ngân hàng nên dự đoán trước về tình hình biến động quy hoạch.
Như vậy mức cho vay trên tài sản thế chấp sẽ cần được điều chỉnh và ngân
hàng sẽ bớt rủi ro.
Đối với những tài sản là động sản như vật dụng gia đình, thiết bị văn
phòng.v.v... ngân hàng phải rất lưu ý vì đây là tài sản chịu tốc độ hao mòn vô
hình nhanh chóng chính vì thế ngân hàng không nên nhận thế chấp cầm cố.
Ngân hàng nếu nhận những tài sản trên thế chấp cầm cố thì vừa không có kho
chứa vừa chịu hao mòn vô hình mất giá.
Khi phương án sản xuất kinh doanh vẫn đang trong thời gian thẩm định
ngân hàng xem xét đến yếu tố ổn định của bảo đảm tiền vay. Những yếu tố đó
là:
+ Tính ổn định về giá trị của tài sản bảo đảm hoặc khả năng tài chính
ổn định của người bảo lãnh.
+ Tính thanh khoản của bảo đảm, nhanh chóng chuyển tài sản bảo đảm
thành tiền hoặc khả năng sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
+ Phương pháp quản lý và thụ đắc tài sản: Đối với những tài sản đặt
dưới sự quản lý của ngân hàng hoặc ngân hàng được pháp luật bảo vệ thì dễ
dàng lấy tài sản để bán. Lúc này tính chất an toàn của bảo đảm sẽ cao (những
tài sản có đăng ký sở hữu hoặc đăng ký lưu hành, chứng khoán). Trái lại
những tài sản nằm ngoài sự kiểm soát của ngân hàng thì tính an toàn thấp
(những động sản không có đăng ký quyền sở hữu hoặc đăng ký lưu hành).
Đối với khoản cho vay chưa giải ngân, ngân hàng chỉ có thể dự đoán tình hình
biến động của bảo đảm để đưa ra mức cho vay hợp lý song song với việc xem
xét phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
3.2. ĐỐI VỚI KHOẢN CHO VAY ĐÃ GIẢI NGÂN.
3.2.1. Kiểm tra tình hình thực hiện phương án sản xuất kinh doanh.
Sau khi phát tiền vay, ngân hàng chuyển sang giai đoạn giám sát tín
dụng. Trong đó cần phải xem xét hiệu quả vốn vay. Nếu thấy khoản vay có
vấn đề thì ngân hàng phải thực hiện trách nhiệm tư vấn.
Những vấn đề thì rất đa dạng, chẳng hạn như xu hướng đảo lộn trong
báo cáo tài chính của doanh nghiệp, sự thay đổi nhà quản lý chủ chốt của
doanh nghiệp, sự thay đổi giá trị của các hợp đồng bảo đảm, bảo hiểm tài sản
liên quan, sự suy giảm trong các giao dịch của doanh nghiệp với nguồn cung
cấp đầu vào đầu ra của họ, những bất đồng khác trong doanh nghiệp giữa
người lao động với người điều hành... Mỗi sự biến động các yếu tố trên đều
tác động không tốt đến khoản vay, tạo nên rủi ro tín dụng.
Nếu trong quá trình giám sát, ngân hàng nhận thấy khách hàng có dấu
hiệu sử dụng vốn sai mục đích (thường gặp ở hộ kinh doanh cá thể), ngân
hàng phải nhắc nhở khách hàng để khách hàng có trách nhiệm sử dụng đúng
mục đích ghi trong hợp đồng tín dụng.
3.2.2. Kiểm tra tình hình hiện trạng của tài sản bảo đảm.
Việc đến cơ sở kiểm tra tình hình sản xuất kinh doanh còn mang ý
nghĩa kiểm tra cả tài sản (máy móc) hoặc nhà đất. Ngân hàng nên thường
xuyên theo dõi tình hình hiện trạng của tài sản là nhà đất. Hạn chế tối đa sự
suy giảm của tài sản như bên có tài sản thế chấp tự động tháo gỡ đồ đạc trong
nhà, cắt đất bán làm nhà trái phép nhằm giảm thiểu thiệt hại cho ngân hàng.
Đối với tài sản thế chấp là máy móc, ngân hàng cần xem xét cường độ
hoạt động của tài sản, lịch bảo dưỡng của tài sản, như vậy tài sản vừa hoạt
động tốt sinh lợi cho khách hàng vừa giữ được giá trị để bảo đảm nguồn thu
nợ thứ hai.
3.2.3. Theo dõi tình hình trả nợ của khách hàng.
Nếu trong thời hạn nợ, đến kỳ hạn trả nợ khách hàng đem trả nợ đều
đặn thì khoản vay đã được xem là an toàn. Với những khoản cho vay an toàn,
ngân hàng cần phải xem xét đến yếu tố bảo đảm, vì như đã nói ở chương 1,
trong kinh doanh có nhiều lý do để cho những lưu chuyển tiền tệ không thực
hiện được và doanh nghiệp rơi vào tình trạng bị nợ nần có thể dẫn đến phá
sản.
Nếu kế hoạch trả nợ không được thực hiện đầy đủ thì khoản vay có vấn
đề và ngân hàng một mặt tư vấn cho khách hàng, một mặt theo dõi tình hình
biến động của tài sản. Ngân hàng cần theo dõi để tránh tình trạng tài sản bị
xuống cấp, mất mát như vậy sẽ khó khăn trong việc phát mại tài sản để thu
hồi nợ.
3.3. ĐỐI VỚI NHỮNG KHOẢN CHO VAY KHÔNG THU ĐƯỢC NỢ.
Đây là tình huống ngân hàng không mong muốn nhưng khi gặp tình
huống này, ngân hàng phải xử lý bảo đảm để thu nợ.
Việc xử lý tài sản bảo đảm hoặc yêu cầu người bảo lãnh thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh thì đã xảy ra tại Ngân hàng công thương Thanh Xuân.
nhưng khômg nhiều. Xu hướng của thị trường, việc phát triển mạnh các thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh, việc chuyển đổi với thể chế chính sách chưa
đồng bộ dẫn đến những mặt trái của kinh tế thị trường. Ngân hàng công
thương Thanh Xuân trong 5 năm đầu hoạt động chưa phát sinh nợ quá hạn
nhưng đã có hiện tượng phải xử lý 3 trường hợp phải bán tài sản để thu hồi
khoản nợ vay khoảng 5 tỷ khi tiếp quản các khoản nợ từ ngân hàng công
thương Đống Đa và số nợ đã thu về cơ bản là thu được hết.Dù sao đi chăng
nữa ngân hàng đã rút kinh nghiệm các trường hợp này để xem xét những
khoản vay mới
Đối với tài sản cầm cố không có đăng ký quyền sở hữu mà được lưu tại
kho của khách hàng hoặc kho của bên thứ ba thì ngân hàng có thể trực tiếp
bán hàng hoá đó để thu tiền trả nợ. Hoặc với tài sản tài chính, hoặc quyền về
tài sản ngân hàng xử lý trực tiếp tài sản là giấy từ có giá và đòi tên người có
liên quan trong giấy xác nhận quyền về tài sản (khoản phải thu).
Đối với tài sản cầm cố có đăng ký quyền sở hữu hoặc đăng ký lưu hành
và tài sản thế chấp có đăng ký quyền sỏ hữu, ngân hàng có thể xử lý bảo đảm
theo một số phương thức sau:
Trường hợp ngân hàng nhận thấy tài sản đó cần thiết cho hoạt động
kinh doanh của ngân hàng, ngân hàng đề xuất lên cấp trên phương thức gán
nợ. Bên ngân hàng và bên thế chấp thoả thuận phương thức gán nợ, nghĩa là
ngân hàng nhận tài sản thay thế cho nghĩa vụ trả nợ. Hai bên sẽ thoả thuận giá
cả cụ thể trên cơ sở giá trị còn lại của tài sản, mặt bằng giá tài sản cùng loại
tại địa phương vào thời điểm thoả thuận. Nếu sau khi định giá lại mà giá trị tài
sản lớn hơn số nợ ngân hàng (gốc, lãi và lãi quá hạn) thì ngân hàng sẽ phải trả
phần còn lại cho khách hàng. Nếu giá trị tài sản nhỏ hơn số tiền nợ ngân hàng,
ngân hàngyêu cầu bên thế chấp thanh toán phần còn thiếu.
Trường hợp không nhận gán nợ, ngân hàng nên yêu cầu bên thế chấp
đứng chủ bán tài sản. Đây là phương án tối ưu nhất tránh chi phí phát sinh về
xử lý tài sản. Điều này tạo tâm lý yên tâm cho người mua tài sản, vì đây là tài
sản lớn có giá trị và giá trị sử dụng cao nếu để người muc biết đó là tài sản bị
phát mại thì họ sẽ do dự không mua với giá cao theo đúng giá trị nữa, như vậy
khả năng thu hồi đủ nợ gốc và lãi là khó khăn. Hơn nữa nếu thực hiện theo
cách này sẽ tiết kiệm hầu hết chi phí bán tài sản.
Hai trường hợp trên mà không thực hiện được thì tài sản đó sẽ được
đem ra bán đấu giá. Đây là phương pháp phổ biến và tiện lợi do dễ tìm được
người mua, nhưng chi phí thường rất lớn. Nhiều trường hợp tại Việt Nam sau
khi thanh lý, số tiền thu về chưa đủ 50% số tiền nợ ngân hàng, ngân hàng lại
chịu thiệt thòi.
3.3.2. Yêu cầu toà án có thẩm quyền giải quyết.
Nếu các hướng trên vẫn không thực hiện được thì ngân hàng đề nghị
toà án có thẩm quyền giải quyết. Nếu không thể đòi được nợ thì ngân hàng có
quyền yêu cầu toà án tuyên bố phá sản để đòi nợ. Tuy nhiên ngân hàng nên
xem xét áp dụng biện pháp tuyên bố phá sản có thể giúp cho ngân hàng thu
được nợ nhưng lại có hậu quả xấu về kinh tế xã hội. Ngân hàng cần cân nhắc
kỹ lưỡng vấn đề này.
3.4. VẬN DỤNG CÁC BẢO ĐẢM TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI RỦI RO,
THỜI HẠN VÀ QUY MÔ TÍN DỤNG.
3.4.1. Quan hệ rủi ro và đảm bảo.
Trong thời gian qua, các ngân hàng thương mại Việt Nam chỉ áp dụng
một vài loại tài sản bảo đảm, trong đó chủ yếu là nhà ở và quyền sử dụng đất,
vì vậy đôi lúc diễn đạt về bảo đảm tín dụng người ta thường dùng từ thế chấp
tài sản. Trong nền kinh tế thị trường, tính chất hoạt động của các doanh
nghiệp hết sức đa dạng, do đó để đạt được mục tiêu phát triển là mở rộng tín
dụng đòi hỏi ngân hàng phải sử dụng đồng thời nhiều loại tài sản bảo đảm,
hình thức bảo đảm và để hạn chế rủi ro thì ngân hàng phải vận dụng nó thích
ứng với điều kiện của mỗi một khách hàng.
Trong kinh doanh cũng như ở chiến trường, ở đâu là điểm nóng thì ở đó
phải có những tuyến phòng thủ chắc chắn, dàn trải đều cho tất cả các mặt trận
không phải là chiến lược tối ưu. Tương tự đối với khách hàng và loại cho vay
có rủi ro cao thì áp dụng loại bảo đảm có rủi ro thấp và ngược lại.
Ví dụ, khách hàng được xếp loại rủi ro cao thì áp dụng các loại bảo
đảm chắc chắn như thế chấp bất động sản, cầm cố các loại hàng hoá có mức
thanh khoản cao, bảo lãnh của ngân hàng. Trái lại, đối với những khách hàng
được xếp hạng rủi ro thấp thì có thể áp dụng hình thức bảo đảm bằng các
khoản phải thu, bảo đảm một phần số tiền cho vay.
3.4.2. Quan hệ giữa thời hạn cho vay và bảm đảm.
Thời hạn cho vay có quan hệ với rủi ro tín dụng và giá trị của tài sản
bảo đảm. Thời hạn cho vay càng dài thì việc dự báo về rủi ro càng kém chính
xác hay nói cách khác mức độ rủi ro càng cao, trong trường hợp này đòi hỏi
phải sử dụng các bảo đảm có mức độ rủi ro thấp; mặt khác, giá trị tài sản bảo
đảm cũng thay đổi theo thời gian, nếu thời gian thực hiện nghĩa vụ trả nợ càng
dài thì sự thay đổi giá trị càng lớn. Để giữ mức thăng bằng giữa số tiền cho
vay và giá trị tài sản bảo đảm đòi hỏi phải lựa chọn loại tài sản bảo đảm thích
hợp. Xét về mặt kỹ thuật, giá trị bảo đảm tín dụng phải tương ứng với dư nợ
còn lại ở mọi thời điểm, vì vậy chính sách bảo đảm tín dụng phải thể hiện các
nội dung sau:
- Thời hạn cho vay càng dài thì tỷ lệ cho vay so với giá trị tài sản bảo
đảm càng thấp.
- Tiến hành định giá lại tài sản theo định kỳ đối với các bảo đảm trong
cho vay trung và dài hạn, và cách thức xử lý khi giá trị tài sản bảo đảm định
giá nhỏ hơn dư nợ.
3.4.3. Quan hệ giữa quy mô tín dụng và bảo đảm.
Trong quan hệ tín dụng ngân hàng cần tập trung các khảon cho vay lớn.
Xét trên giác độ phòng vệ rủi ro thì tính chất chắc chắn của bảo đảm tín dụng
phải tỷ lệ thuận với quy mô của khoản cho vay. Trong thực tế đối với các
khoản cho vay trung và dài hạn theo dự án có quy mô lớn và phức tạp đòi hỏi
ngân hàng phải:
- Áp dụng một hệ thống các bảo đảm gồm nhiều hình thức và loại tài
sản khác nhau.
- Xây dựng các điều kiện bảo đảm theo hợp đồng chặt chẽ.
- Phải phân công, uỷ nhiệm quản lý tài sản bảo đảm giữa các chủ thể
cho vay trong cho vay hợp vốn.
Việc vận dụng các bảo đảm trong cho vay là một vấn đề vừa mang tính
khoa học, tính nghệ thuật, đồng thời chịu tác động bằng hàng loạt các yếu tố
khác nhau, đòi hỏi nhà quản trị tín dụng phải có hiểu hiết sâu về kinh tế, pháp
luật, đồng thời phải có kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn.
3.5. VIỆC HỌC TẬP CẬP NHẬT VĂN BẢN QUY CHẾ MỚI VỀ TÍN
DỤNG VÀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY.
Ngân hàng công thương Thanh Xuân đã thực hiện rất tốt công tác này.
Ngân hàng đều cho cán bộ, đặc biệt là cán bộ tín dụng của phòng kinh doanh
học tập, nghe báo cáo về chính sách mới, nghị định, thông tư, quyết định cùng
các văn bản khác kèm theo có liên quan. Ngân hàng công thương Thanh Xuân
nên duy trì và phát huy công tác này.
Bên cạnh việc học tập và nghiên cứu các chính sách mới theo cách rất
lý thuyết, ngân hàng nên đề ra những tình huống giả định dựa trên những điều
khoản của chính sách, như vậy sẽ hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Có thể nói đó
là cách tìm ra rủi ro ngay khi chưa có phương án để cán bộ tín dụng có biện
pháp phòng ngừa. Đối với văn bản mới ban hành có yếu tố mới hoàn toàn,
ngân hàng nên tập trung xem xét những khả năng rủi ro có thể để cùng thống
nhất cách thức cho vay và thu nợ.
Việc nghiên cứu văn bản chế độ đã và mới ban hành còn mang ý nghĩa
để ngân hàng có thể điều chỉnh các khoản vay đã giải ngân và có kế hoạch đối
với khoản tín dụng giao dịch. Mức cho vay, tài sản bảo đảm là hai yếu tố mà
ngân hàng luôn luôn phải xem xét để hạn chế rủi ro cho ngân hàng.
Kết luận
Chất lượng và an toàn là hai tiêu chí hoạt động của bất kỳ ngân hàng
nào. Khi xem xét cấp tín dụng cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngân
hàng công thương Thanh Xuân luôn cần chú ý coi trọng các biện pháp bảo
đảm tiền vay.Như thế các khoản tín dụng đó vừa có chất lượng(vì được thẩm
định kỹ càng về phương án sản xuất kinh doanh)vừa có an toàn (vì được đảm
bảo bằng tài sản). Các giải pháp nêu trong chuyên đề có thể là chưa hoàn
chỉnh để có khoản tín dụng có chất lượng và an toàn nhưng cũng rất mong sẽ
góp phần hạn chế rủi ro cho ngân hàng và khách hàng do đó có thể góp phần
vào sự ổn định Kinh tế Xã hội của đất nước.
Tài liệu tham khảo
1, Đoàn Văn Cung, Một số ý kién về xử lý tài sản thế chấp và giải toả các
khoản nợ đóng băng của ngân hàng, Thị trường tài chính và tiền tệ số 4, 2000
2, Các thông tư, nghị định, quyết định ,công văn có liên quan.
3, TS. Hồ Diệu, Tín dụng ngân hàng ,NXB Thống Kê, 2001.
4, Phạm Hồng Duyên, Những khó khăn vướng mắc của các TCTD trong việc thực
hiện quy định về bảo đảm tiền vay, Thị trường tài chính và tiền tệ số 13 ,2000.
5, TS. Tô Ngọc Hưng, Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, NXB Thống Kê, 1999.
6, Hiền Hoà, Những vướng mắc bước đầu qua triển khai nghị địmh
178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay của các TCTD, Thị trường tài chính và
tiền tệ số 14, 2000.
7, Ngô Hướng, Một số ý kiến về xử lý tài sản thế chấp và giải toả các khoản
nợ đóng băng của ngân hàng, Tạp chí ngân hàng số 1, 1999.
8, Phạm Xuân Hoè, Giải quyết những vướng mắc trong thế chấp tài sản vay
vốn ngân hàng không chỉ là một nghị định của Chính Phủ, Tạp chí ngân hàng
số 1, 1999.
9, Reed, Edward W.và Edward K.Gill, Commercial Banking, 4th ed.US:
Prentice Hall, 1989.
10, Thu Phương, Một số giải pháp bổ sung về bảo đảm tiền vay của các tổ chức
tín dụng đối với doanh nghiệp, Thị trường tài chính và tiền tệ số 24 ,2000.
11, Thu Phương, Một số vướng mắc trong việc cấp tín dụng dưới hình thức
cầm cố giấy tờ có giá và cầm đồ,Thị trường tài chính tiền tệ số 17, 2000
12, Hồ Đăng Trung, Bảo đảm tiền vay vấn đề quan trọng triển khai luạt Ngân
hàng, Thị trường tài chính và tiền tệ số 7 ,2000.
13, Tài liệu bồi dưỡng cán bộ tín dụng, Tài liệu tham khảo của NHCTVN.
14, Nguyễn Văn Vượng, Không bán được tài sản thế chấp, do đâu?, Thị trường
tài chính tiền tệ số1+2 ,2000.
Lời mở đầu.
Sự phát triển tiến bộ về kinh tế xã hội của một quốc gia được phản ánh
thông qua mức sống và thu thập bình quân đầu người. Các chỉ tiêu này phụ
thuộc vào hiệu quả từ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và
các tổ chức kinh tế mà những họat động đó lại gắn liền với các ngân hàng
thương mại và tổ chức tín dụng.
Luật doanh nghiệp Việt Nam và Luật đầu tư nước có hiệu lực đã tạo cơ
sở để hàng loạt doanh nghiệp ngoài quốc doanh đi vào hoạt động. Chúng
đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế xã hội nói chung và đối với
ngân hàng nói riêng.
Các doanh nghiệp này tiếp cận với ngâ hàng với mục đích vay vốn và
hưởng tiện ích mà ngân hàng cung cấp.Việc vay vốn của Ngân hàng có nghĩa
là ngân hàng mở rộng tín dụng. Ngân hàng để tự bảo vệ mình thường yêu cầu
doanh nghiệp phải có biện pháp bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ mà theo nghị
định 178 các biện pháp đó là bảo đảm tiền vay.
Ngân hàng công thương Thanh Xuân là chi nhánh của NHCTVN chỉ
mới đi vào hoạt động tử 1997 nhưng đã thực hiện cấp tín dụngvà các dịch vụ
Ngân hàng cho các doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh. Phương châm
của Ngân hàng là Phát triển -An toàn - Hiệu quả. Để thực hiện đồng thời 3
phương châm trên Ngân hàng yêu cầu các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
phải thực hiện bảo đảm tiền vay. Chất lượng khoản vay và mức độ an toàn
của nó phụ thuộc rất lớn vào bảo đảm tiền vay.
Chuyên đề tốt nghiệp với tiêu đề" Một số kiến nghị nhằm nâng cao
chất lượng và an toàn các khoản tín dụng có bảo đảm của doanh nghiệp
ngoài quốc doanh tại NHCT Thanh Xuân."rất mong muốn đóng góp ý kiến
về vấn đề đang được nhiều ngành quan tâm.
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu
Chương 1. Những vấn đề chung về bảo đảm tiền vay ................................ 2
1.1. Khái niệm bảo đảm tiền vay và biện pháp bảo đảm tiền vay. ............... 2
1.1.1. Khái niệm bảo đảm tiền vay. ........................................................ 2
1.1.2. Biện pháp bảo đảm tiền vay. ......................................................... 2
1.1.2.1. Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản. ............................... 2
1.1.2.2. Cho vay có bảo đảm bằng tài sản. .......................................... 3
1.2. Nguyên tắc bảo đảm tiền vay, thủ tục hợp đồng bảo đảm. ................... 6
1.2.1. Nguyên tắc bảo đảm tiền vay. ....................................................... 6
1.2.2. Thủ tục hợp đồng bảo đảm............................................................ 7
1.2.2.1. Hợp đồng bảo đảm. ................................................................ 7
1.2.2.2. Việc công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm..................... 7
1.2.2.3. Việc chuyển giao tài sản bảo đảm. ......................................... 8
1.2.2.4 Định giá tài sản bảo đảm. ........................................................ 8
1.3. Xử lý tài sản bảo đảm. ....................................................................... 10
1.3.1. Trường hợp khách hàng phải trả nợ đúng hạn và đầy đủ. ............ 10
1.3.2. Trường hợp khách hàng không trả được nợ khi đến hạn. ............ 11
1.3.2.1. Xử lý tài sản cầm cố. ............................................................ 11
1.3.2.2. Xử lý tài sản thế chấp. .......................................................... 12
1.4. Rủi ro bảo đảm tiền vay và hình thức bảo đảm ngân hàng ưa
chuộng. ............................................................................................. 13
1.4.1. Rủi ro bảo đảm tiền vay. ............................................................. 13
1.4.1.1. Rủi ro với tài sản cầm cố. ..................................................... 13
1.4.1.2. Rủi ro tài sản thế chấp. ......................................................... 13
1.4.1.3. Rủi ro của hình thức bảo đảm bằng bảo lãnh. ....................... 14
1.4.2. Các hình thức bảo đảm được ngân hàng ưa chuộng. ................... 14
1.4.2.1. Cầm cố giấy tờ có giá do các ngân hàng thương mại quốc
doanh Việt Nam phát hành và chứng khoán Chính phủ. ..... 14
1.4.2.2. Thế chấp giá trị quyền sử dụng đất. ...................................... 14
Chương 2. Quy chế đảm bảo tiền vay với các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh tại Ngân hàng Công thương Thanh Xuân ........... 15
2.1. Vài nét về lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng Công
thương Thanh Xuân .......................................................................... 15
2.1.1. Sự hình thành ngân hàng công thương Thanh Xuân. ................... 15
2.1.2. Môi trường kinh doanh của ngân hàng công thương Thanh
Xuân. .......................................................................................... 16
2.1.3. Mô hình tổ chức của ngân hàng công thương Thanh Xuân. ........ 17
2.2. Vai trò của doanh nghiệp ngoài quốc doanh. ..................................... 18
2.2.1. Vai trò của doanh nghiệp ngoài quốc doanh với nền kinh tế
nói chung. ................................................................................... 18
2.2.2. Vai trò doanh nghiệp ngoài quốc doanh với ngành ngân
hàng. ........................................................................................... 19
2.3. Các hình thức bảo đảm tiền vay được áp dụng tại Ngân hàng
Công thương Thanh Xuân. ............................................................... 19
2.3.1. Hình thức cho vay không có bảo đảm bằng tài sản với doanh
nghiệp ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Công thương Thanh
Xuân. .......................................................................................... 19
2.3.2. Hình thức cho vay có bảo đảm bằng tài sản với doanh
nghiệp ngoài quốc doanh tại Ngân hàng công thương Thanh
Xuân. .......................................................................................... 21
2.3.2.1. Cho vay thế chấp giá trị quyền sử dụng đất và quyền sở hữu
nhà ở. .................................................................................. 21
2.3.2.2. Cho vay bảo lãnh tài sản của bên thứ ba. .............................. 21
2.4. Thực trạng tình hình dư nợ của khối kinh tế ngoài quốc doanh. ......... 21
2.4.1. Nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. ..... 21
2.4.2. Thực trạng tình hình dư nợ có bảo đảm của khối doanh
nghiệp ngoài quốc doanh tại Ngân hàng công thương Thanh
Xuân trong tổng tể thực trạng kinh doanh của Ngân hàng
công thương Thanh Xuân. .......................................................... 23
2.4.2.2. Xư hướng phát triển của các khoản nợ vay của khối doanh
nghiệp ngoài quốc doanh có bảo đảm bằng tài sản. ............. 25
2.5. Việc chấp hành quy chế đảm bảo tại ngân hàng công thương
Thanh Xuân. ..................................................................................... 26
2.5.1. Những mặt tích cực..................................................................... 26
2.5.2. Những mặt hạn chế. .................................................................... 27
Chương 3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng và an toàn
của các khoản tín dụng có bảo đảm của doanh nghiệp
ngoài quốc doanh tại ngân hàng công thương Thanh
Xuân. ......................................................................................... 29
3.1. Đối với những khoản vay chưa giải ngân. .......................................... 29
3.1.1. Vấn đề thẩm định phương án sản xuất kinh doanh. ..................... 29
3.1.2. Vấn đề thẩm định tài sản bảo đảm. ............................................. 29
3.1.3. Vấn đề dự báo tính ổn định của tài sản đảm bảo. ........................ 30
3.2. Đối với khoản cho vay đã giải ngân. .................................................. 31
3.2.1. Kiểm tra tình hình thực hiện phương án sản xuất kinh
doanh. ......................................................................................... 31
3.2.2. Kiểm tra tình hình hiện trạng của tài sản bảo đảm. ...................... 31
3.2.3. Theo dõi tình hình trả nợ của khách hàng. .................................. 32
3.3. Đối với những khoản cho vay không thu được nợ.............................. 32
3.3.2. Yêu cầu toà án có thẩm quyền giải quyết. ................................... 33
3.4. Vận dụng các bảo đảm trong mối quan hệ với rủi ro, thời hạn và
quy mô tín dụng................................................................................ 34
3.4.1. Quan hệ rủi ro và đảm bảo. ......................................................... 34
3.4.2. Quan hệ giữa thời hạn cho vay và bảm đảm. ............................... 34
3.4.3. Quan hệ giữa quy mô tín dụng và bảo đảm. ................................ 35
3.5. Việc học tập cập nhật văn bản quy chế mới về tín dụng và bảo
đảm tiền vay. .................................................................................... 35
Kết luận....................... ................................................................................ 34
Tài liệu tham khảo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ AN TOÀN CỦA CÁC KHOẢN TÍN DỤNG CÓ BẢO ĐẢM CỦA DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG THANH XUÂN.pdf