Tài liệu Luận văn Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm may mặc của Công ty cổ phần May Thăng Long tại thị trường EU: Khoa Kinh tế & Quản lý Trường ĐHBK Hà Nội
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn Văn Hiến – Marketing
K47
Luận văn
Một số giải pháp thúc đẩy
hoạt động tiêu thụ sản phẩm
may mặc của Công ty cổ phần
May Thăng Long tại thị
trường EU
Khoa Kinh tế & Quản lý Trường ĐHBK Hà Nội
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn Văn Hiến – Marketing
K47
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế hội nhập nền kinh tế thế giới, kinh tế khu vực, thì mỗi doanh
nghiệp, mỗi ngành kinh tế đều phải đương đầu với những thách thức lớn lao. Để tồn
tại và phát triển các doanh nghiệp phải không ngừng hoàn thiện, nâng cao năng lực
và hiệu quả kinh doanh, tự khẳng định vị thế trên thị trường. Trước bối cảnh ấy các
doanh nghiệp cần thiết kế ra những sản phẩm thỏa mãn được nhu cầu của khách
hàng và tổ chức tốt công tác tiêu thụ của mình để mang lại tính cạnh tranh cho
mình. Như vậy việc tiêu thụ sản phẩm là một trong những công tác quan trọng đối
với bất kỳ doanh nghiệp nào.
Qua một thời gian ngắn...
78 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1093 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm may mặc của Công ty cổ phần May Thăng Long tại thị trường EU, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khoa Kinh tế & Quản lý Trường ĐHBK Hà Nội
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn Văn Hiến – Marketing
K47
Luận văn
Một số giải pháp thúc đẩy
hoạt động tiêu thụ sản phẩm
may mặc của Công ty cổ phần
May Thăng Long tại thị
trường EU
Khoa Kinh tế & Quản lý Trường ĐHBK Hà Nội
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn Văn Hiến – Marketing
K47
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế hội nhập nền kinh tế thế giới, kinh tế khu vực, thì mỗi doanh
nghiệp, mỗi ngành kinh tế đều phải đương đầu với những thách thức lớn lao. Để tồn
tại và phát triển các doanh nghiệp phải không ngừng hoàn thiện, nâng cao năng lực
và hiệu quả kinh doanh, tự khẳng định vị thế trên thị trường. Trước bối cảnh ấy các
doanh nghiệp cần thiết kế ra những sản phẩm thỏa mãn được nhu cầu của khách
hàng và tổ chức tốt công tác tiêu thụ của mình để mang lại tính cạnh tranh cho
mình. Như vậy việc tiêu thụ sản phẩm là một trong những công tác quan trọng đối
với bất kỳ doanh nghiệp nào.
Qua một thời gian ngắn thực tập và tìm hiểu tại Công ty cổ phần May Thăng
Long, với những tư liệu thu thập được em nhận thấy tầm quan trọng của công tác
tiêu thụ đối với hoạt động của Công ty. Để thực hiện công tác tiêu thụ sản phẩm
may mặc của Công ty đúng đắn trong bối cảnh hiện nay khi mà sự cạnh tranh diễn
ta khốc liệt giữa các doanh nghiệp trong ngành và sự cạnh tranh về thương mại giữa
các quốc gia là một vấn đề rất phức tạp. Đặc biệt tại thị trường EU, nơi người tiêu
dùng có mức sống cao, đòi hỏi về chất lượng sản phẩm, mẫu mã, rồi sự cạnh tranh
của các nhà phân phối cũng như các hãng quần áo may mặc nổi tiếng là rất khốc
liệt. Và hiện nay với việc sát nhập thêm 2 nước Bungari và Rumani nâng tổng thành
viên trong khối EU là 27 nước với dân số khoảng 500 triệu dân, thì đây vẫn là thị
trường hấp dẫn đối với các doanh nghiệp may xuất khẩu nói chung và Công ty may
Thăng Long nói riêng. Công ty May Thăng Long vốn là một doanh nghiệp xuất
khẩu có truyền thống nhưng tỉ lệ xuất khẩu tại thị trường EU vẫn còn hạn chế. Nhận
thức được điều này, Công ty đã xác định thị trường EU là một thị trường trọng
điểm, có tính chất chiến lược cần được khai thác trong định hướng phát triển của
Công ty.
Trước vấn đề trên em chọn đề tài: “Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động
tiêu thụ sản phẩm may mặc của Công ty cổ phần May Thăng Long tại thị
trường EU” làm đề tài tốt nghiệp của mình.
2. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Khoa Kinh tế & Quản lý Trường ĐHBK Hà Nội
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn Văn Hiến – Marketing
K47
- Đối tượng nghiên cứu: Sản phẩm may mặc của Công ty hiện đang tiêu thụ tại thị
trường EU, các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ và việc thúc đẩy hoạt
động tiêu thụ sản phẩm may mặc tại thị trường này.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu vào tình hình tiêu thụ của Công
ty trong một vài năm trở lại đây, đề tài chỉ đưa ra hệ thống lý luận về mặt học thuật
của sinh viên chuẩn bị ra trường những trên cơ sở hiểu biết, đánh giá những kỹ năng
đã được học tập.
- Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu dựa vào tra cứu các tài liệu
trên mạng và sách, báo, tạp rồi phân tích, nhận định đánh giá để đưa ra giải pháp.
3. Kết cấu của đồ án
Ngoài lời mở đầu, mục lục đồ án được chia làm 3 phần:
Phần 1: Cơ sở lý thuyết về tiêu thụ sản phẩm
Phần 2: Phân tích thực trạng tiêu thụ của Công ty tại thị trường EU
Phần 3: Một số giải pháp và khuyến nghị
Trong phạm vi đồ án tốt nghiệp em cố gắng trình bày đầy đủ các nội dung
cần thiết, tuy nhiên thời gian và khả năng còn hạn chế nên đồ án không tránh khỏi
những thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô và các bạn để đồ án
được hoàn thiện hơn.
Và nhân dịp này em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến tất cả các thầy cô
giáo trong khoa đã dạy dỗ em trong suốt những năm học qua, và đặc biệt là cô giáo
Phạm Thị Thanh Hồng đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành đồ án.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Nguyễn Văn Hiến
Khoa Kinh tế & Quản lý Trường ĐHBK Hà Nội
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn Văn Hiến – Marketing
K47
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TIÊU THỤ SẢN PHẨM
I. TỔNG QUAN VỀ TIÊU THỤ SẢN PHẨM
Trong nền kinh tế thị trường mỗi doanh nghiệp là một chủ thể, cho nên khi
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hoá thì vấn đề quan trọng trước hết không
dừng lại khâu sản xuất mà là khâu tiêu thụ hàng hoá. Tiêu thụ được hàng hoá thì
doanh nghiệp mới thu hồi lại vốn, mới có quá trình tái sản xuất kinh doanh tiếp theo
và như vậy sản xuất mới có thể ổn định và phát triển.
Sản xuất hàng hoá và tiêu thụ được hàng hoá mới xác định được kết quả tài
chính cuối cùng của doanh nghiệp là lãi hay lỗ và ở mức độ nào. Mặt khác, lợi
nhuận chủ yếu của doanh nghiệp được kiểm chứng thông qua các kết quả tiêu thụ.
Lợi nhuận là chỉ tiêu quan trọng nhất của toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh và là nguồn bổ sung cho vốn tự có của doanh nghiệp, ngoài ra lợi nhuận còn
là nguồn hình thành các loại quỹ của doanh nghiệp.
Công tác tiêu thụ sản phẩm tiêu thụ trong nền kinh tế thị trường trở thành
vấn đề sống còn của doanh nghiệp, nó có ý nghĩa quyết định sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp.
1. Khái niệm tiêu thụ sản phẩm
Tiệu thụ sản phẩm là việc đưa sản phẩm hàng hóa, dịch vụ từ nhà sản xuất
đến tay người tiêu thụ, thực hiện việc trao đổi quyền sở hữu tài sản. Sau khi đạt
được sự thống nhất, người bán giao hàng và người mua trả tiền.
Tiêu thụ sản phẩm là một trong những khâu quan trọng trong quá trình tái
sản xuất xã hội, tiêu thụ sản phẩm là quá trình chuyển hoá hình thái giá trị của hàng
hoá nhằm đáp ứng nhu cầu và thu về lợi nhuận.
Quá trình tiêu thụ sản phẩm bắt đầu từ các công việc nghiên cứu thị trường,
tìm hiểu nhu cầu khách hàng, lựa chọn sản phẩm, xác định giá bán, tổ chức mạng
lưới bán hàng, xúc tiến bán hàng và các hoạt động hỗ trợ bán hàng tới việc thực
hiện dịch vụ sau bán hàng.
Khoa Kinh tế & Quản lý Trường ĐHBK Hà Nội
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn Văn Hiến – Marketing
K47
Tiêu thụ sản phẩm là khâu lưu thông hàng hoá, là cầu nối trung gian giữa
một bên là sản xuất phân phối và một bên là tiêu dùng.
Trong một doanh nghiệp thì toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh từ khâu
đầu cho đến khâu cuối cần phải diễn ra một cách nhịp nhàng, liên tục. Khâu trước là
tiền đề cơ sở thực hiện khâu sau nếu một khâu nào bị ách tách sẽ bị ảnh hưởng đến
quá trình sản xuất kinh doanh của cả doanh nghiệp. Sản xuất hàng hoá chỉ được
công nhận là tiêu thụ khi doanh nghiệp nhận được tiền hoặc người mua chấp nhận
trả tiền.
Để quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm được thực hiện thường xuyên liên
tục thì doanh nghiệp phải phối hợp thông suốt giữa các khâu, trong đó khâu tiêu thụ
là khâu cuối cùng và là khâu vô cùng quan trọng. Chỉ khi nào sản phẩm được tiêu
thụ thì chu kỳ sản xuất kinh doanh mới được nối tiếp, kết quả tiêu thụ kỳ trước tạo
điều kiện cho kỳ tiếp theo.
Do đó tiêu thụ sản phẩm là tổng thể các biện pháp về mặt tổ chức kinh tế, kế
hoạch nhằm thực hiện việc nghiên cứu và nắm bắt nhu cầu thị trường, tổ chức sản
xuất và cung cấp sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng nhằm đạt hiệu quả cao
nhất.
Như vậy công tác tiêu thụ là khâu tổng hợp của quá trình sản xuất sản xuất
kinh doanh, không những giúp doanh nghiệp đưa sản phẩm hàng hoá dịch vụ ra thị
trường mà còn giúp doanh nghiệp giải phóng lượng hàng tồn kho và đem lại lợi
nhuận.
2. Vai trò của hoạt động tiêu thụ sản phẩm
Trong nền kinh tế thị trường, tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa vô cùng quan
trọng quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Công tác tiêu thụ sản
phẩm được tổ chức tốt thì các hoạt động sản xuất kinh doanh mới được tiến hành
thường xuyên, liên tục và doanh nghiệp mơi có thể đứng vững trên thị trường. Hoạt
động bán hàng được thực hiện khi sản phẩm của doanh nghiệp được bán ra thị
trường và được thị trường chấp nhận, điều này cũng đồng nghĩa với việc hình ảnh
của doanh nghiệp đã được thị trường biết đến. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm có một
số vai trò chính sau đây:
Khoa Kinh tế & Quản lý Trường ĐHBK Hà Nội
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn Văn Hiến – Marketing
K47
Quá trình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp không những ảnh hưởng trực
tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà còn có vai trò
quan trọng đối với toàn bộ quá trình tái sản xuất - xã hội. Nó nối liền giữa
sản xuất và tiêu dùng, giúp cho con người sản xuất và tiêu thụ được sản
phẩm để có thể tiếp tục chu kỳ sản xuất mới, nhờ đó đảm bảo cho quá trình
tái sản xuất - xã hội diễn ra một cách liên tục, đều đặn góp phần thúc đẩy
hàng hóa.
Quá trình tiêu thụ của từng doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng tới quá trình lưu
thông của toàn xã hội. Nếu sự ngưng đọng hàng hóa của các tổ chức thương
mại càng được rút ngắn thì tốc độ chu trình hàng hóa trong nền kinh tế ngày
càng tăng lên, góp phần thúc đẩy quá trình tái sản xuất - xã hội.
Để hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành thường
xuyên, liên tục, hiệu quả thì công tác tiêu thụ phải được tổ chức tốt. Việc
quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp thường dựa trên các chứng từ
nhập, xuất kho thành phẩm theo quy định của doanh nghiệp. Đối với các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, lượng sản phẩm tiêu thụ là những sản
phẩm đã xuất kho thành phẩm để giao cho khách hàng và nhận được tiền. Vì
vậy xác định lượng sản phẩm tiêu thụ trong năm căn cứ vào lượng sản phẩm
sản xuất ra, các hơp đồng kinh tế k ý kết với khách hàng, cân đối nhu cầu thị
trường, khả năng đổi mới phương thức thanh toán và tình hình tiêu thụ sản
phẩm của những năm trước.
Tóm lại để hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được thường
xuyên liên tục thì công tác tiêu thụ phải được tổ chức tốt vì nó có ý nghĩa quyết định
đến sự sống còn của doanh nghiệp. Để mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm sẽ đem lại
hiệu quả to lớn về mặt kinh tế và tạo dựng được hệ thống tiêu thụ hợp lý, khoa học.
Mặt khác, hệ thống tiêu thụ tốt sẽ đẩy nhanh mức độ chu chuyển của sản phẩm, tăng
vòng quay của vốn lưu động. Tổ chức tốt khâu tiêu thụ tức là chủ động sáng tạo ra
nhu cầu, kích thích mua hàng của người tiêu dùng.
II. NỘI DUNG CỦA TIÊU THỤ SẢN PHẨM
Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn tiếp theo của quá trình sản xuất thực hiện
chức năng từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực tiêu dùng nhằm thực hiện giá trị hàng
Khoa Kinh tế & Quản lý Trường ĐHBK Hà Nội
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn Văn Hiến – Marketing
K47
hoá của doanh nghiệp. Đó là việc cung ứng cho khách hàng các sản phẩm, dịch vụ
doanh nghiệp sản xuất ra đồng thời được khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận
thanh toán. Tiêu thụ được xem như một quá trình kinh tế thị trường cho đến các
dịch vụ sau khi bán.
Đối với doanh nghiệp khi bắt đầu mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh, nghiên
cứu thị trường là việc làm hết sức cần thiết, vì thị trường không phải là bất biến mà
thị trường luôn biến động thay đổi không ngừng. Do đó nghiên cứu thị trường là
việc làm thường xuyên của doanh nghiệp.
Thông thường thì các công ty nghiên cứu thị trường theo trình tự sau:
+ Nghiên cứu khái quát thị trường
+ Nghiên cứu chi tiết thị trường
Các bước nghiên cứu bao gồm các hoạt động sau:
+ Thu thập thông tin
+ Xử lý thông tin
+ Ra quyết định
2.1 Phân khúc thị trường, lựa chọn thị trường mục tiêu và xác định vị trí của
sản phẩm
Mọi doanh nghiệp đều nhận thức được rằng hàng hóa của mình không thể
làm cho tất cả mọi người mua ưa thích ngay được. Do đó các công ty thường thấy
tốt hơn hết là tập trung vào việc phục vụ những bộ phận nhất định hay những phần
nhất định của thị trường.
Những người bán không phải bao giờ cũng theo đúng nguyên tắc này. Các
quan điểm của họ đã trải qua ba giai đoạn:
Marketing đại trà: Trong marketing đại trà người bán tiến hàng sản xuất đại
trà, phân phối đại trà và kích thích tiêu thụ đại trà cùng một mặt hàng cho tất
cả người mua ngay lập tức.
Marketing hàng hóa khác nhau: Trong trường hợp này người bán sản xuất
hai hay nhiều mặt hàng với những tính chất khác nhau, bao gói khác nhau,
chất lượng khác nhau v.v...
Marketing mục tiêu. Trong trường hợp này người bán xác định ranh giới các
khúc thị trường, lựa chọn trong đó một hay một vài khúc thị trường rồi nghiên
Khoa Kinh tế & Quản lý Trường ĐHBK Hà Nội
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn Văn Hiến – Marketing
K47
cứu sản xuất các mặt hàng và soạn thảo các hệ thống marketing - mix cho từng
khúc thị trường đã chọn.
Marketing mục tiêu đòi hỏi phải tiến hành ba biện pháp cơ bản ( Hình 1)
- Thứ nhất là phân khúc thị trường
- Thứ hai là lựa chọn các khúc thị trường mục tiêu
- Thứ ba là xác định vị trí hàng hóa trên thị trường
Hình 1. Các biện pháp của marketing mục tiêu
Nguồn: Marketing căn bản, Philip Kotler- trang 197- NXB Lao động - Xã hội
* Lực chọn thị trường mục tiêu
Thị trường mục tiêu bao gồm một nhóm khách hàng (cá nhân hay tổ chức)
mà chương trình marketing của người bán hàng hóa nhằm vào. Một công ty có thể
có một hay nhiều thị trường mục tiêu.
Việc phân khúc thị trường đã bộc lộ những cơ hội của khúc thị trường đang
xuất hiện trước mặt công ty. Sau đó công ty phải đánh giá các khúc thị trường khác
nhau và quyết định chọn một hoặc nhiều hơn một khúc thị trường làm mục tiêu.
Khi đánh giá các khúc thị trường khác nhau, Công ty phải xem xét ba yếu tố:
thứ nhất là quy mô và mức tăng trưởng của khúc thị trường, thứ hai là mức độ hấp
Xác định vị trí hàng hóa
Phân khúc thị trường Lựa chọn thị trường mục tiêu trên thị trường
5. Giải quyết việc xác định vị
trí hàng hóa trong từng khúc
thị trường mục tiêu.
6. Xây dựng hệ thống
marketing - mix cho từng khúc
thị trường mục tiêu.
3. Đánh giá mức độ hấp dẫn
của các khúc thị trường
4. Lựa chọn một hay nhiều
khúc thị trường
1. Xác định nguyên tắc
phân khúc thị trường
2. Xác định các đặc
điểm của các phần thị
trường
Khoa Kinh tế & Quản lý Trường ĐHBK Hà Nội
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn Văn Hiến – Marketing
K47
dẫn về cơ cấu thị trường và cuối cùng là những mục tiêu và nguồn tài nguyên của
công ty.
+ Quy mô và mức tăng trưởng của khúc thị trường
Câu hỏi đầu tiên là khúc thị trường tiềm ẩn có những đặc điểm về quy mô và
mức tăng trưởng vừa sức không? “Quy mô vừa sức” là một yếu tố có tính tương
đối. Những công ty lớn ưa thích những khúc thị trường có khối lượng tiêu thụ lớn
và thường coi nhẹ hay bỏ qua những khúc thị trường nhỏ. Những công ty nhỏ thì lại
tránh những khúc thị trường lớn, bởi vì chúng đòi hởi quá nhiều nguồn lực.
Mức tăng trưởng thường là một đặc điểm mong muốn, vì các công ty nói
chung đều muốn có mức tiêu thụ cà lợi nhuận ngày càng tăng. Song các đối thủ
cạnh tranh sẽ nhanh chóng gia nhập những khúc thị trường đang tăng trưởng và làm
giảm đi khả năng sinh lời của chúng.
+ Mức độ hấp dẫn về cơ cấu của khúc thị trường
Một khúc thị trường có thể có quy mô và mức tăng trưởng mong muốn,
nhưng lại thiếu tiềm năng sinh lời. Có năm lực quyết định mức độ hấp dẫn nội tại về
lợi nhuận lâu dài của một thị trường hay một khúc thị trường.
1. Mối đe dọa của sự kình địch mạnh mẽ trong khúc thị trường: Một khúc
thị trường sẽ không hấp dẫn nếu nó có quá nhiều đối thủ cạnh tranh mạnh
hay tấn công.
2. Mối đe dọa của những kẻ mới xâm nhập: Một khúc thị trường sẽ không
hấp dẫn nếu nó có thể thu hút đối thủ cạnh trạnh mới, những công ty sẽ
mang những năng lực sản xuất mới, những nguồn tài nguyên đáng kể và
phấn đấu để tăng thị phần.
3. Mối đe dọa về những sản phẩm thay thế: Một khúc thị trường sẽ không
hấp dẫn khi có những sản phẩm thay thế thực tế hay tiềm ẩn. Các sản
phẩm thay thế sẽ tạo ra giới hạn đối với giá cả và lợi nhuận mà một khúc
thị trường có thể kiếm được.
4. Mối đe dọa của quyền thương lượng ngày càng lớn của người mua: Một
khúc thị trường sẽ không hấp dẫn nếu những người mua có quyền thương
lượng lớn hay ngày càng tăng. Người mua sẽ cố gắng đòi được giảm giá,
chất lượng sản phẩm cao hơn và dịch vụ tốt hơn, đặt các đối thủ cạnh
Khoa Kinh tế & Quản lý Trường ĐHBK Hà Nội
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn Văn Hiến – Marketing
K47
tranh vào thế đối lập nhau và ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của người
bán.
5. Mối đe dọa về quyền thương luợng ngày càng tăng của người cung ứng:
Một khúc thị trường sẽ không hấp dẫn nếu những nhà cung ứng của công
ty có thể nâng giá hay giảm chất lượng. Nhũng người cung ứng có xu
hướng trở lên có quyền lực mạnh hơn khi họ tập trung và có tổ chức, khi
có ít sản phẩm thay thế, khi sản phẩm nhận được cung ứng là một đầu
vào quan trọng và khi chi phí chuyển đổi cao.
+ Mục tiêu và nguồn lực của công ty
Ngay cả khi một khúc thị trường lớn, đang tăng trưởng và hấp dẫn về cơ cấu,
Công ty vẫn phải xem xét những mục tiêu và nguồn lực của mình so với khúc thị
trường đó. Một số khúc thị trường hấp dẫn nhưng vẫn có thể bị loại bởi vì chúng
không phù hợp với những mục tiêu lâu dài của công ty.
Ngay cả khi khúc thị trường phù hợp với những mục tiêu của mình, công ty
vẫn phải xem xét có đủ những khả năng và nguồn lực để có thể thành công trong
khúc thị trường đó không. Mỗi khúc thị trường đều có những yếu tố nhất định để
thành công. Công ty chỉ nên xâm nhập những khúc thị trường nào mà mình có thể
cung ứng giá trị lớn hơn, khác biệt hơn hay nổi trội hơn so với các đối thủ cạnh
tranh.
Các phương pháp của marketing mục tiêu giúp cho người bán xác định: nhu
cầu của đoạn thị trường về số lượng, chủng loại và kích cỡ sản phẩm... từ đó dựa
vào khả năng của mình người bán xác định thị trường tiêu thụ cho phù hợp để đem
lại hiệu quả cao nhất. Khi lựa chọn vào thị trường mục tiêu cần dựa vào các yếu tố:
- Mục tiêu của doanh nghiệp: xâm nhập thị trường mới hay duy trì phát triển
thị trường cũ
- Đặc điểm về sản phẩm của doanh nghiệp
- Chu kỳ sống của sản phẩm
- Khả năng tài chính của doanh nghiệp
- Sự hấp dẫn của đoạn thị trường
* Dự báo thị trường
Khoa Kinh tế & Quản lý Trường ĐHBK Hà Nội
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn Văn Hiến – Marketing
K47
Dự báo thị trường là một giá trị cụ thể của nhu cầu tương ứng với một mức
chi tiêu marketing xác định của nghành và trong những điều kiện xác định của môi
trường marketing. Nói một cách khác, dự báo thị trường chính là tổng doanh số của
tất cả các doanh nghiệp cùng ngành dưới những điều kiện xác định.[Nguồn: 7.]
Công tác dự báo thị trường bao gồm việc dự báo doanh số nghành, doanh số
của doanh nghiệp và thị phần của doanh nghiệp. Doanh số là một thuật ngũ rộng
hơn doanh thu, có thể chỉ lượng bán hoặc doanh thu: tính theo đơn vị sản phẩm
chính là lượng bán hay lượng tiêu thụ, tính theo giá trị tức là doanh thu.
Thị phần thể hiện sức mạnh tương đối của doanh nghiệp trên thị trường. Thị
phần tuyệt đối chung được đo bằng doanh số của doanh nghiệp chia cho tổng
doanh số của ngành. Trong khi thị phần tuyệt đối phục vụ bằng tỷ số giữa doanh số
của doanh nghiệp trên thị trường được doanh nghiệp phục vụ, tức là thị trường mục
tiêu của doanh nghiệp và tổng doanh số của ngành trên thị trường phục vụ đó. Thị
phần tương đối thể hiện sức mạnh tương đối của doanh nghiệp so với các đối thủ
cạnh tranh dẫn đầu hoặc một nhóm đối thủ cạnh tranh dẫn đầu.[Nguồn: 7.]
Việc dự báo nhu cầu, dù là dự báo tiêu thụ hay ước tính tiềm năng thị trường
có thẻ dựa trên nhiều phương pháp, từ những ước đoán thô sơ đến những mô hình
thống kê phức tạp. Một số phương pháp thường dùng để dụ báo bao gồm: phân tích
yếu tố thị trường, điều tra ý mua sắm, phân tích dữ liệu quá khứ, tổng hợp ý kiến
của lực lượng bán hàng, thử nghiệm ý kiến của các chuyên gia, thử nghiệm thị
trường.
Ngoài ra còn có một số phương pháp thống kê dự báo trên dữ liệu theo thời
gian như:
- Phương pháp tăng trưởng bình quân
- Phương pháp trung bình di động
- Phương pháp xác định chỉ số mùa vụ
- Phương pháp bình phương cực tiểu
Như vậy chúng ta có thể khẳng định rằng việc phân khúc thị trường, lựa
chọn thị trường mục và xác định được hàng hóa trên thị trường sẽ ảnh hưởng rất lớn
đến công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường. Nếu doanh nghiệp
xác định được đúng khúc thị trường mục tiêu mà mình có thể cung ứng và phù hợp
Khoa Kinh tế & Quản lý Trường ĐHBK Hà Nội
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn Văn Hiến – Marketing
K47
với mục tiêu lâu dài của doanh nghiệp thì việc tiêu thụ sản phẩm sẽ trỏ lên thuận lợi
hơn.
Hay nói cách khác để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm thì doanh nghiệp phải có
chiến lược marketing - mix phù hợp với thị trường mục tiêu mà doanh nghiệp
ngắm đến. Thường thì các doanh nghiệp hoạch định chính lược marketing - mix 4P
truyền thống là: chính sách sản phẩm, chính sách giá, chính sách phân phối và chính
sách xúc tiến bán.
2.2 Chính sách sản phẩm
Sản phẩm là lời giải đáp vật chất của doanh nghiệp cho nhu cầu đã được định
lượng nhờ nghiên cứu thị trường.
Khái niệm về sản phẩm có tính phức tạp, vì một sản phẩm có một số đặc
trưng vật chất, nhưng cũng có những đặc trưng tâm lý.
Theo Philip Kotler: “Sản phẩm là bất cứ cái gì có thể đưa vào một thị trường
để tạo sự chú ý, mua sắm, sử dụng, hay tiêu thụ nhằm thoả mãn một nhu cầu hay
ước muốn. Nó có thể là các vật thể, dịch vụ, con người, các địa điểm, các tổ chức
và các ý nghĩ”.
* Sản phẩm tung ra cho khách hàng có thể được xem xét ở ba cấp độ.
- Sản phẩm cốt lõi: là cái chủ yếu khách hàng muốn mua thực sự
- Sản phẩm cụ thể: là các đặc tính, kiểu dáng, chất lượng, tên hiệu và bao bì
của một sản phẩm tung ra bán.
- Sản phẩm hoàn chỉnh: là sản phẩm cụ thể cộng thêm các dịch vụ kèm theo,
như bảo hành, lắp đặt, bảo trì và giao hàng miễn phí chuyên chở.
Hình 2: Ba cấp độ của sản phẩm
Sản phẩm hoàn chỉnh
Khoa Kinh tế & Quản lý Trường ĐHBK Hà Nội
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn Văn Hiến – Marketing
K47
Nguồn: Marketing cơ bản, Philip Kotler
Những quyết định về sử dụng nhãn hiệu
* Khái niệm Nhãn hiệu hàng hoá: Nhãn hiệu là tên, thuật ngữ, dấu hiệu, biểu
tượng, hình vẽ hay sự phối hợp giữa chúng, có công dụng để xác nhận hàng hoá
hay dịch vụ của một người bán hay một nhóm người bán và phân biệt chúng với
hàng hoá và dịch vụ của đối thủ cạnh tranh ( Theo Philip Kotler).
* Tên nhãn hiệu: là một bộ phận của nhãn hiệu mà ta có thể đọc được
* Dấu hiệu của nhãn hiệu:( biểu tượng) là một bộ phận của nhãn hiệu mà ta có thể
nhận biết được, nhưng không thể đọc được, ví dụ biểu tượng, hình vẽ, màu sắc hay
kiểu chữ đặc thù.
* Dấu hiệu hàng hoá: là nhãn hiệu hay một bộ phận của nó được bảo vệ về mặt
pháp lý. Dấu hiệu hàng hoá bảo vệ quyền tuyệt đối của người bán trong việc sử
dụng tên nhãn hiệu hay dấu hiệu của nhãn hiệu (biểu tượng).
* Quyết định về bao gói hàng hoá:
+ Bao gói là “cái bao phủ vật chất hoặc là cái chứa đựng đầu tiên của sản
phẩm”, cũng là cái trung gian cuối cùng giữa sản phẩm và người tiêu dùng. Ngày
Lợi ích cơ
bản của sp
Bao bỡ
Nhón
hiệu
Thuộc
tớnh
Chất
lượng
Kiểu
dỏng
Lắp đặt
Giao
hàng
Dịch vụ
sau khi
bỏn
Bảo hành
Sản phẩm cụ thể
Sản phẩm cốt lừi
Khoa Kinh tế & Quản lý Trường ĐHBK Hà Nội
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn Văn Hiến – Marketing
K47
nay, nó là người bán hàng câm hoặc im lặng, vai trò truyền thống của nó là chứa
đựng, bảo vệ và bảo quản. Ngày nay, bao gói cũng truyền đạt bán hàng nhờ hấp dẫn
người mua và phân biệt sản phẩm của mình với các đối thủ.
+ Những chức năng của bao gói:
Bao bì bảo vệ sản phẩm chống lại những tác động bên ngoài (ô nhiễm, ẩm
ướt, nhiệt độ và mùi...); có vai trò chứa đựng như chất lỏng..., giúp việc sử dụng sản
phẩm dễ dàng.
Bao gói còn có chức năng thương mại, nó là một phương tiện thông báo, cá
biêth hoá và nhận dạng sản phẩm, thông báo cho người mua về uy tín và bản chất
của sản phẩm.
* Thiết kế sản phẩm: Thiết kế kiểu dáng sản phẩm được thực hiện ngay từ khi hình
thành sản phẩm và ảnh hưởng đến hình thức, màu sắc, trọng lượng và chức năng
sản phẩm. Bộ phận nghiên cứu thiết kế sẽ thực hiện một hay nhiều phương án thiết
kế sản phẩm với hy vọng có được một mẫu thoả mãn những tiêu chuẩn sau: 1.
Người tiêu dùng chấp nhận nó hay thoả mãn được nhu cầu; 2. Có thể được chế tạo
hiệu quả nhất về vật liệu, quy trình và an toàn , hoạt động tốt khi sửu dụng bình
thường trong điều kiện bình thường; 3. Giá thành không vượt ra ngoài phạm vi
những chi phí sản xuất dự toán trong kế hoạch.
* Chu kỳ sống của sản phẩm hàng hoá:
Sau khi tung sản phẩm mới ra thị trường, ban lãnh đạo luôn mong cho nó
được sống lâu và hi vọng rằng mức tiêu thụ sẽ cao và lâu bền. Nhưng mỗi một sản
phẩm đều có một chu kỳ sống riêng, mặc dù và tính chất và độ dài của chu kỳ đó
khó có thể đoán trước được.
Chu kỳ sống điển hình của hàng hoá được giới thiệu trong hình 3. Trong chu
trình này thể hiện rất rõ bốn giai đoạn.
1. Giai đoạn tung ra thị trường là thời kỳ mức tiêu thụ tăng chậm theo mức độ tung
hàng ra thị trường. Do tốn kém nhiều cho việc tung hàng ra thị trường trong giai
đoạn này chưa có lãi.
Khoa Kinh tế & Quản lý Trường ĐHBK Hà Nội
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn Văn Hiến – Marketing
K47
2. Giai đoạn phát triển là thời kỳ hàng hoá được thị trường chấp nhận nhanh chóng
và lợi nhuận cũng tăng nhanh.
3. Giai đoạn chín muồi là thời kỳ nhịp độ tiêu thụ châm dần do phần lớn khách hàng
tiềm ẩn đã mua. Lợi nhuận ổn định hay giảm do phải tăng chi phí cho việc bảo vệ
hàng hoá trước các đối thủ cạnh tranh.
4. Giai đoạn suy thoái là thời kỳ có nét đặc trưng là mức tiêu thụ giảm nhanh và lợi
nhuận giảm.
Hình 3: Đặc tính của mức tiêu thụ và lợi nhuận trong toàn bộ chu kỳ sống của sản
phẩm hànghóa từ khi được sản xuất cho đến khi suy tàn
Nguồn: Marketing căn bản trang 244 - Philip Kotler
Tóm lại sản phẩm là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất của hệ thống
marketing-mix. Chính sách sản phẩm đòi hỏi phải thông qua những quyết định phù
hợp với nhau về từng đơn vị hàng hoá, chủng loại hàng hoá và danh mục hàng hoá.
Mỗi đơn vị hàng hóa chào bán cho người tiêu dùng có thể xem xét dưới góc
độ ba mức. Hàng hoá theo ý tưởng dự án - đó là dịch vụ cơ bản mà trên thực tế
người mua có được. Hàng hoá hiện thực là háng hoá được đem chào bán với những
tính chất nhất định, hình dáng bên ngoài nhất định, chất lượng nhất định, tên nhãn
hiệu và bao gói. Hàng hoá hoàn chỉnh là hàng hoá hiện thực kèm thêm những dịch
vụ như bảo hành, lắp đặt hay phục vụ bảo dưỡng và giao hàng tại nhà miễn phí.
Mức tiêu
thụ và lợi
nhuận
Lỗ và
vốn đầu
tư
Giai
đoạn
thiết kế
hàng hóa
Giai đoạn
tung ra thị
trường
Giai đoạn
phát triển
Giai đoạn
chín muồi
Giai đoạn
suy tàn
Mức tiêu thụ
Lợi nhuận
Khoa Kinh tế & Quản lý Trường ĐHBK Hà Nội
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn Văn Hiến – Marketing
K47
Công ty cần nhận biết chu kỳ sống sản phẩm của mình để từ đó soạn thảo
chính sách sản phẩm cụ thể cho từng thời kỳ và cần nghiên cứu một hệ thống dịch
vụ tổng hợp mà người tiêu dùng muốn có và nó sẽ trở thành công cụ đắc lực trong
cạnh tranh với các đối thủ.
2.3 Chính sách giá
Giá cả là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến mức bán, cảm nhận về chất lượng của
khách hàng và kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Định
giá là một yếu tố cơ bản trong hệ thống marketing-mix, nó giữ vai trò quan trọng
trong việc quyết định mua hàng của người tiêu dùng và mức tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp. Có một số phương pháp lựa chọn định giá sau đây:
Tính toán giá theo phương pháp “chi phí bình quân cộng lãi”
Phương pháp định giá đơn giản nhất là tính thêm một khoản tăng vào giá thành của
hàng hoá. Phương pháp tính giá trên cơ sỏ phụ giá vẫn còn rất phổ biến vì một số
nguyên nhân sau: Thứ nhất người bán hàng biết nhiều về các chi phí hơn là về nhu
cầu. Gắn giá với chi phí người bán hàng đơn giản hoá cho mình được vấn đề hình
thành giá cả. Thứ hai là nếu phương pháp định giá này được tất cả các công ty sử
dụng thì giá của họ sẽ chắc chắn giống nhau. Cho nên sự cạnh tranh giá cả sẽ chỉ
còn ở mức tối thiểu. Thứ ba là nhiều người cho rằng phương pháp tính giá này công
bằng hơn đối với người mua lẵn người bán.
Tính giá trên cơ sở phân tích hoà vốn và đảm bảo lợi nhuận mục tiêu
Phương pháp hình thành giá cả với cách tính toán để thu được lợi nhuận mục tiêu
được xây dựng trên cơ sở hoà vốn. Trên đồ thị này thể hiện tổng chi phí và tổng
doanh thu dự kiến với các mức bán khác nhau.
Phương pháp hình thành giá cả này đòi hỏi công ty phải xem xét các phương án giá
khác nhau, ảnh hưởng của chúng đối với khối lượng tiêu thụ cần thiết để vượt qua
múc hoà vốn và thu được lợi nhuận mục tiêu.
Định giá trên cơ sở giá trị cảm nhận được của hàng hoá
Ngày càng nhiều công ty khi tính toán giá đã bắt đầu xuất phát từ giá trị cảm nhận
được hàng hoá của mình. Họ xem yếu tố cơ bản hình thành giá cả không phải là chi
phí của người bán mà là sự chấp nhận của người mua. Để hình thành trong ý thức
người tiêu dùng những ý niệm về giá trị của hàng hóa, học đã sử dụng trong hệ
Khoa Kinh tế & Quản lý Trường ĐHBK Hà Nội
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn Văn Hiến – Marketing
K47
thống marketing-mix của mình những phương pháp tác động không phải giá cả.
Trong trường hợp này giá cả phải phù hợp với tầm giá trị cảm nhận được của hàng
hóa.
Định giá căn cứ vào mức giá hiện hành
Khi định giá dựa vào mức giá hiện hành chủ yếu công ty xuất phát từ giá của các
đối thủ cạnh tranh và ít quan tâm hơn đến các chỉ tiêu chi phí của mình hay nhu
cầu. Nó có thể định giá cao hơn hay thấp hơn giá của đối thủ cạnh tranh chính.
Phương pháp hình thành giá trên mức cơ sở mức giá hiện hành được áp dụng khá
phổ biến trong những trường hợp rất khó định lượng tính co giãn của nhu cầu.
Định giá theo nguyên tắc địa lý
Quan điểm địa lý về hình thành giá cả đòi hỏi phải thông qua quyết định về việc
công ty phải xác định giá khác nhau cho người tiêu dùng ở các vùng địa lý khác
nhau. Có những phương án chính định giá theo nguyên tắc địa lý được vận dụng:
Xác định giá FOB tại địa điểm xuất xứ hàng. Có nghĩa là hàng được giao cho
người vận chuyển với điều kiện giao hàng tại nơi nhận, sau đó toàn bộ quyền hạn
và trách nhiệm về lô hàng đó được chuyển sang cho khách hàng, người sẽ thanh
toán tất cả các chi phí vận chuyển từ địa điểm của nhà máy đến địa điểm cuối
cùng. Những người ủng hộ việc xác định giá FOB tại địa điểm xuất xứ hàng cho
rằng phương pháp này là phương pháp công bằng nhất để tính giá cước vận
chuyển, bởi vì mỗi khách hàng tự thanh toán lấy cho mình.
Xác định giá thống nhất có tính cả cước vận chuyển. Phương pháp này xác
định giá thống nhất có cả cước vận chuyển là một thái cực đối ngược hoàn toàn
với phưong pháp xác định giá FOB tại địa điểm xuất xứ hàng. Trong trường hợp
này công ty thu giá thống nhất có gộp cả số tiền cước vận chuyển như nhau không
phân biệt khách hàng ở xa hay ở gần.
Xác định giá khu vực. Phương pháp xác định giá khu vực là phương pháp
nằm giữa phương pháp giá FOB tại địa điểm xuất xứ hàng và phương pháp giá
thống nhất có tình cước vận chuyển.
Tóm lại khi tính giá ban đầu công ty sử dụng các quan điểm khác nhau về
vấn đề hình thành giá cả. Khi quyết định giá bán cho sản phẩm của mình công ty
phải nghiên cứu kỹ những phản ứng chắc chắn của người tiêu thụ và các đối thủ
Khoa Kinh tế & Quản lý Trường ĐHBK Hà Nội
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn Văn Hiến – Marketing
K47
cạnh tranh. Ngoài các quan điểm định giá trên công ty có thể định giá phân biệt
cho khách hàng khác nhau, cho các phương án hang hóa khác nhau, cho những địa
điểm khác nhau và thời gian khác nhau. Như vậy việc định giá đúng là một vấn đề
quan trọng để tiêu thụ sản phẩm nhằm đem lại lợi nhuận cho công ty, giúp cho quá
trình sản xuất kinh doanh được liên tục...
2.4 Chính sách phân phối
Phần lớn các nhà sản xuất đều cung cấp hàng hoá của mình cho thị trường
thông qua những người trung gian. Mỗi nhà sản xuất đều cố gắng hình thành kênh
phân phối riêng của mình.
Khái niệm kênh phân phối: Theo Philip Kotler “ Kênh phân phối là một tập hợp
các công ty hay cá nhân gánh vác hay giúp đỡ chuyển giao cho một ai đó quyền sở
hữu đối với một hàng hoá cụ thể hay dịch vụ trên con đường từ nhà sản xuất đến
người tiêu dùng.”
Chức năng của kênh phân phối: Kênh phân phối là con đường hàng hoá được
lưu thông từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng. Nhờ nó mà khắc phục được những
ngăn cách dài về thời gian, địa điểm và quyền sở hữu giữa hàng hoá và dịch vụ với
những người muốn sử dụng chúng. Các thành viên của kênh phân phối làm một số
chức năng rất quan trọng.
1. Nghiên cứu - thu thập thông tin cần thiết để lập kế hoạch và tạo thuận lợi cho
việc trao đổi.
2. Kích thích tiêu thụ - soạn thảo và truyền bá những thông tin về hang hóa.
3. Thiết lập các mối liên hệ - tạo dựng và duy trì mối liên hệ với những người
mua tiềm ẩn.
4. Hoàn thiện hàng hoá làm cho hang hóa đáp ứng được nhu cầu người mua.
5. Tiến hàng thương lượng những việc thoả thuận với nhau về giá cả và những
điều kiện khác để thực hiện bước tiếp theo là chuyển giao quyền sở hữu hay
quyền sử dụng.
6. Tổ chức lưu thông hàng hóa - vận chuyển và bảo quản dự trữ hàng hóa.
7. Chấp nhận rủi ro - gánh chịu trách nhiệm về hoạt động của kênh.
Số cấp của các kênh
Khoa Kinh tế & Quản lý Trường ĐHBK Hà Nội
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn Văn Hiến – Marketing
K47
Hình 4. Sơ đồ các kênh phân phối có cấp khác nhau
Nguồn: Marketing căn bản, Philip Kotler
Tóm lại những quyết định về việc lựa chọn các kênh phân phối là những quyết định
quan trọng và phức tạp mà công ty phải thông qua. Mỗi kênh được đặc trưng bởi
mức độ tiêu thụ và chi phí của nó. Việc lựa chọn kênh có ảnh hưởng quan trọng đến
các bộ phận khác của hệ thống marketing-mix và ngược lại. Việc hình thành kênh
đòi hỏi phải nghiên cứu những phương án cơ cấu cơ bản của nó về loại hình và số
người trung gian. Khi quan niệm marketing càng được thừa nhận rông rãi hơn thì
quan niệm lưu thông hàng hóa ngày càng thu hút sự quan tâm nhiều hơn của các
công ty. Lưu thông hàng hóa là một lĩnh vực có tiềm năng tiết kiệm rất nhiều chi
phí và đảm bảo thỏa mãn đầy đủ nhất cho khách hàng.
Kênh
một
cấp
Kênh
hai
cấp
Nhà sản xuất Người tiêu dùng
Kênh
không
cấp
Nhà sản xuất
Người bán lẻ Người tiêu dùng
Nhà sản xuất Người bán sỉ Người bán lẻ Người tiêu dùng
Kênh
một
cấp
Kênh
hai
cấp
Khoa Kinh tế & Quản lý Trường ĐHBK Hà Nội
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn Văn Hiến – Marketing
K47
2.5 Chính sách xúc tiến bán
Khuyến mãi là một trong bốn yếu tố cơ bản trong thành phần của hệ thống
marketing-mix của công ty. Những phương tiện khuyến mãi chủ yếu là quảng cáo,
kích thích tiêu thụ, tuyên truyền và bán hàng trực tiếp, chúng có những chức năng
khác nhau, đồng thời trùng lặp nhau. Để phối hợp có hiệu quả các phương tiện đó
cần xác định kỹ lưỡng các mục tiêu tuyên truyền của công ty.
Khi chuẩn bị truyền thông marketing cụ thể, công ty cần nắm vững chín yếu
tố cấu thành của một quá trình truyền thông bất kỳ, cụ thể là: người gửi , người
nhận, mã hóa, giải mã, thông tin, phương tiện truyền tin, phản ứng đáp lại, liên hệ
ngược và nhiễu. Nhiệm vụ hàng đầu của người phát tin là xác định là phát hiện
khách hàng mục tiêu và những đặc điểm của họ. Sau đó xác định phản ứng đáp lại
mong muốn rồi soạn thảo thông tin với nội dung, bố cục và hình thức có hiệu
quả...Tiếp đến là lựa chọn phương tiện truyền tin để tiến hành truyền thông trực tiếp
hay không trực tiếp. Cuối cùng người phát tin phải thường xuyên theo dõi sự tăng
trưởng của mức độ hay biết trên thị trường.
Công ty cần thông qua quyết định cần chi ra bao nhiêu tiền cho toàn bộ
khuyến mãi. Tổng kinh phí được xác định bằng những phương pháp phổ biến sau:
Phương pháp tính căn cứ vào quỹ tiền mặt, “ phương pháp tính” bằng tỷ lện phần
trăm của tổng doanh số bán, phương pháp tính “ căn cứ vào mức chi phí của đối thủ
cạnh tranh”, phương pháp tính “ căn cứ vào mục tiêu và nhiệm vụ”.
Công ty cần phân bổ ngân sách khuyến mãi cho những phương tiện khuyến
mãi chủ yếu được sử dụng. Khi phân bổ kinh phí công ty quan tâm chủ yếu đến đặc
điểm của từng phương tiện khuyến mãi, kiểu hàng hóa hay thị trường, ý đồ của
mình sử dụng chiến lược thúc đẩy hàng hóa hay thu hút người tiêu dùng đến với
háng hóa và giai đoạn trong chu kỳ sống của hàng hóa.
III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP
3.1 Nhân tố chủ quan
Các nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm là hoàn
cảnh nội tại của doanh nghiệp, bao gồm các yêu tố và hệ thống bên trong của doanh
nghiệp, hay còn gọi là môi trường nội bộ của Công ty.
Khoa Kinh tế & Quản lý Trường ĐHBK Hà Nội
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn Văn Hiến – Marketing
K47
Doanh nghiệp cần phân tích các yếu tố bên trong một cách kỹ lưỡng nhằm
xác định điểm mạnh và điểm yếu của mình, các yếu tố này có ảnh hưởng đến tình
hình tiêu thụ như thế nào trên cơ sỏ đó đưa ra các giải pháp nhằm giảm bớt được
các nhược điểm, phát huy được ưu điểm để đạt được ưu thế tối đa trong kinh doanh.
Các yếu tố thuộc về doanh nghiệp có ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ sản
phẩm có thể kể đến bộ máy thương mại, nhân tố con người, số lượng, chất lượng
sản phẩm sản xuất, giá cả sản phẩm, phương thức thanh toán, chu kỳ sống của sản
phẩm.
Hiện nay chất lượng sản phẩm là vấn đề sống còn của doanh nghiệp, doanh
nghiệp muốn tồn tại và phát triển ngoài việc tăng tối đa khả năng sản xuất thì vấn đề
chất lượng sản phẩm phải luôn được cải thiện và nâng cao, từ đó mới tạo dựng được
uy thế trong tiêu thụ.
Bên cạnh việc đảm bảo chất lượng, thực hiện sản xuất theo đúng kế hoạch về
mặt số lượng cũng ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm nhất là sản xuất theo đơn đặt
hàng, các hợp đồng kinh tế, thì việc sản xuất các mặt hàng phải coi là một chỉ tiêu
pháp lệnh, nếu không doanh nghiệp sẽ bị ngừng trệ trong tiêu thụ.
Tóm lại, việc thực hiện kế hoạch sản xuất cả về số lượng và chất lượng theo
mặt hàng quyết định việc tiêu thụ đầu ra mạnh hay yếu trong hoạt động của doanh
nghiệp.
3.2 Các nhân tố khách quan
Các nhân tố khách quan ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp
là môi trường vĩ mô và môi trường tác nghiệp. Môi trường vĩ mô bao gồm tất cả yếu
tố bên ngoài doanh nghiệp như môi trường kinh tế - chính trị, môi trường pháp luật,
môi trường văn hoá xã hội, môi trường công nghệ, môi trường cạnh tranh và hành
vi mua sắm của người tiêu dùng. Môi trường vi mô bao gồm các đối thủ cạnh tranh,
khách hàng, nhà cung ứng, nhà phân phối và các sản phẩm thay thế.
Như vậy các yếu tố khách quan cũng ảnh hưởng trực tiếp đến tiêu thụ sản
phẩm của doanh nghiệp. Hệ thống dự báo của doanh nghiệp cần phải dự báo và có
những kế hoạch để chống phó với những tình huống này, từ đó có thể chủ động
trong việc tổ chức tiêu thụ sản phẩm.
Khoa Kinh tế & Quản lý Trường ĐHBK Hà Nội
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn Văn Hiến – Marketing
K47
PHẦN II: THỰC TRẠNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM MAY MẶC
TẠI THỊ TRƯỜNG EU CỦA CÔNG TY MAY THĂNG LONG
I GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN MAY THĂNG LONG
1.1 Quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp
- Tên công ty: Công ty Cổ phần may Thăng Long
- Tên giao dịch quốc tế: Thang Long Garment Joint Stock Company
(Thaloga)
- Trụ sở chính: 250 Minh Khai - Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội.
- Số điện thoại: 84.4.8-623372
- Fax: 84.4.268340
1.1.1 Sự hình thành, các mốc quan trọng trong quá trình phát triển
Ngày 08/05/1958 Bộ Ngoại Thương (nay là Bộ Thương mại) đã chính thức
ra Quyết định thành lập Công ty May mặc Xuất khẩu Hà Nội, thuộc Tổng Công ty
xuất khẩu tạp phẩm. Văn phòng công ty đóng tại số nhà 15 phố Cao Bá Quát - Hà
Nội. Tổng số cán bộ, công nhân ngày đầu của công ty là 28 người.
Đây là sự kiện đánh dấu sự ra đời của một công ty may mặc xuất khẩu đầu
tiên của Việt Nam. Hàng của công ty xuất sang các nước Đông Âu trong phe chủ
nghĩa xã hội lúc bấy giờ, báo hiệu một triển vọng và tương lai tươi sáng của ngành
may mặc xuất khẩu Việt Nam hiện tại, hướng tới tương lai.
Năm 1979: xí nghiệp được Bộ quyết định đổi tên mới: xí nghiệp may Thăng
Long.
Năm 1982 - 1986: Đầu tư chiều sâu, đẩy mạnh sản xuất gia công hàng xuất
khẩu.
Ngày 12/1986: Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra ba mục tiêu kinh tế: lương
thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Công ty may Thăng Long gặp
nhiều khó khăn về biến động giá cả, thiếu thốn nguyên liệu... khắc phục khó khăn
trên, xí nghiệp chủ động sáng tạo nguồn nguyên liệu qua con đường liên kết với
Khoa Kinh tế & Quản lý Trường ĐHBK Hà Nội
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn Văn Hiến – Marketing
K47
UNIMEX, nhà máy dệt 8-3 và nhiều đơn vị khác. Khi thiếu nguyên liệu làm hàng
xuất khẩu, xí nghiệp nhanh chóng chuyển sang làm hàng nội địa.
Năm 2001, công ty tiếp tục đầu tư xây dựng công trình nhà máy may Hà
Nam.
Năm 2001, Công ty có nhiều sản phẩm, mặt hàng mới thâm nhập thị trường.
Lần đầu tiên công ty xuất sang thị trường Mỹ gần 20.000 sản phẩm vets nữ được
khách hàng ưa chuộng.
Đến nay, mạng lưới tiêu thụ hàng nội địa của công ty lên tới hơn 90 đại lý.
Năm 2004, là mốc quan trọng khi Công ty đã tiến hành cổ phần hoá theo
Quyết định số 1469/QĐ-TCCB ngày 26/6/2003 của Bộ công nghiệp về việc cổ phần
hoá công ty may Thăng Long trực thuộc tổng Công ty dệt may Việt Nam. Như vậy,
Công ty may Thăng Long chính thức hoạt động theo hình thức Công ty Cổ Phần kể
từ ngày 1/1/2004.
1.2 Chức năng, nhiệm vụ của doanh nghiệp
1.2.1 Các lĩnh vực kinh doanh chính
- Nghiên cứu, thiết kế mẫu, sản xuất và kinh doanh những sản phẩm may mặc tiêu
dùng trong và ngoài nước.
- Kinh doanh xuất khẩu trực tiếp, gia công sản phẩm may mặc có chất lượng cao.
- Kinh doanh thương mại trong lĩnh vực máy móc thiết bị, nguyên phụ liệu trong
ngành dệt may.
- Vận chuyển hàng hoá tàu biển, xuất nhập khẩu...
1.2.2 Các loại sản phẩm chính của doanh nghiệp
Do doanh nghiệp hiện nay kinh doanh các sản phẩm may mặc nên sản phẩm
của Công ty là các loại quần áo mặc trên người. Trong chiến tranh thì Công ty có
nhiệm vụ sản xuất quần áo phục vụ cho quân đội, sau thời bình thì Công ty sản xuất
các mặt hàng quần áo phục vụ cho quần chúng. Và hiện nay các sản phẩm của công
ty đã đa dạng hơn rất nhiều về các khách hàng từ trẻ em cho đến người lớn. Sản
phẩm tiêu dùng nội địa thì Công ty đã phân khúc khách hàng, khách hàng mục tiêu
Công ty nhắm đến là người lớn, sau đây là một số sản phẩm chính của Công ty
Khoa Kinh tế & Quản lý Trường ĐHBK Hà Nội
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn Văn Hiến – Marketing
K47
Bảng 1.1 Các sản phẩm của Công ty
Sản phẩm xuất khẩu Sản phẩm tiêu thụ nội địa
1. áo Jacket các loại 1. áo Jacket các loại
- Jacket Tiệp - jacket otto xuất khẩu
- Jacket Wooboo - jacket poongsin
- jacket sunkyong - jacket tiệp xuất khẩu
- jacket pacific - jacket pháp xuất khẩu
- jacket poongsin - jacket kiabi xuất khẩu
- jacket mahagram - jacket j & y xuất khẩu
- jacket grandera
- jacket HK – j & y
2. áo sơ mi các loại 2. áo sơ mi các loại
- Sơ mi HK – ongood - Sơ mi đức xuất khẩu
- Sơ mi nhật - Sơ mi phấp xuất khẩu
- Sơ mi pháp - Sơ mi goldelfirt
- Sơ mi otto - Sơ mi HK ongood
- Sơ mi goldelfirt
3. Quần áo bò 3. Quần áo bò
- quần áo bò đức
- quần áo bò kiabi
- quần áo bò otto
- quần áo bò pháp
4. Sản phẩm dệt kim 4. Quần âu nam
- áo dệt kim ongood
- áo dệt kim unionbay
Khoa Kinh tế & Quản lý Trường ĐHBK Hà Nội
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn Văn Hiến – Marketing
K47
5. Bộ thể thao
Nguồn: Phòng kinh doanh nội địa của Công ty
Công ty May Thăng Long chuyên sản xuất và kinh doanh các sản phẩm may
mặc. Mặt hàng của công ty rất đa dạng về chủng loại. Sản phẩm của công ty chủ
yếu phục vụ cho xuất khẩu nên đòi hỏi phải:
- Có chất lượng cao: mọi sản phẩm sản xuất ra đều phải đáp ứng được yêu cầu
về chất lượng của người tiêu dùng...
- Hợp với thị hiếu, sở thích của người tiêu dùng, phù hợp với nền văn hoá, dân
tộc, quan niệm, tín ngưỡng...; nó đòi hỏi các sản phẩm phải đa dạng về mầu
sắc, kích cỡ, mẫu mã...
- Hợp thời trang: do nhu cầu về sản phẩm may luôn thay đổi theo mốt, theo
thời gian, thời tiết, khí hậu...; nó đòi hỏi các doanh nghiệp phải theo kịp các
nhu cầu đó.
Nhu cầu may mặc thường rất đa dạng, ít giống nhau, do đó việc đáp ứng nhu tất cả
các nhu cầu của người tiêu dùng là không thể. Công ty may Thăng long đã lựa chọn
cho mình các sản phẩm chiến lược thích hợp nhất là: Jacket, Jean, hàng dệt kim, áo
sơ mi nam. Đây là các mặt hàng chủ yếu của Công ty phục vụ cho thị trường trong
nước và xuất khẩu.
1.3 Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm
Công ty May Thăng Long sản xuất, gia công hàng may mặc theo công nghệ
khép kín với các loại máy móc chuyên dụng. Mỗi một công đoạn của quá trình sản
xuất đều có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của sản phẩm. Công ty đã tiến hành
chuyên môn hóa ở từng công đoạn. Ngày nay, có rất nhiều sản phẩm may mặc khác
nhau thâm nhập vào thị trường thời trang. Các công đoạn chi tiết để chế biến từng
loại sản phẩm tuy có khác nhau nhưng đều phải tuân thủ theo quy trình công nghệ
sau:
Hình 5: Sơ đồ qui trình công nghệ sản xuất sản phẩm
Nguyên vật
liệu
Cắt trải vải đặt mẫu
dắt sơ đồ cắt
May: may bộ phận phụ
ghép thành phẩm Là
Đóng gói
Nhập kho
Giặt, mài, tẩy Thêu
Khoa Kinh tế & Quản lý Trường ĐHBK Hà Nội
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn Văn Hiến – Marketing
K47
Nguồn: Phòng kế hoạch sản xuất Công ty May Thăng Long
+ Công đoạn cắt:
Nguyên liệu được đưa lên xưởng. Sau khi trải vải, công nhân tiến hành giát
sơ đồ sao cho tiết kiệm được nguyên liệu nhưng phải đảm bảo chất lượng sản phẩm.
Tùy theo thiết kế mà sau khi cắt xong, sản phẩm cắt có thể được đem đi thêu hay
không.
+ Công đoạn may:
Các sản phẩm cắt ở bộ phận phụ trợ được đưa lên tổ may để ghép các sản
phẩm cắt thành sản phẩm hoàn chỉnh. Sau đó các sản phẩm này được đưa tới các
phân xưởng mài, giặt, tẩy trắng đảm bảo yêu cầu kỹ thuật và chất lượng.
+ Công đoạn là:
Các thành phẩm đã được làm sạch, làm trắng được đưa xuống bộ phận là để
chuẩn bị đóng gói.
+ Công đoạn gói:
Tổ hoàn thiện thực hiện nốt giai đoạn cuối là đóng gói thành phẩm.
+ Công đoạn nhập kho:
Bộ phận bảo quản tiếp nhận những sản phẩm hoàn thiện đã được đóng gói,
lưu trữ và xuất kho tiêu thụ trên thị trường.
Nhìn chung; ở từng giai đoạn Công ty đều sử dụng công nghệ mới có thể sản
xuất những mặt hàng đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật cao; hao phí nguyên vật liệu thấp. Vì
vậy, có thể giảm giá thành tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm của Công ty.
1.4 Tổ chức bộ máy quản lý của Công ty
Bộ máy tổ chức quản lý của Công ty được tổ chức gọn nhẹ, hoạt động có
hiệu quả cao, cung cấp kịp thời mọi thông tin kinh doanh nói chung và của Công ty
Khoa Kinh tế & Quản lý Trường ĐHBK Hà Nội
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn Văn Hiến – Marketing
K47
may Thăng Long nói riêng. Sự cồng kềnh, chồng chéo hay đơn giản hóa quá mức
bộ máy tổ chức quản lý đều không ít nhiều mang đến những ảnh hưởng tiêu cực tới
tình hình sản xuất kinh doanh của bản thân Công ty. Vì vậy, trong toàn bộ quá trình
dài hình thành và phát triển của mình, Công ty may Thăng Long luôn cố gắng hoàn
thiện tốt bộ máy tổ chức quản lý của mình nhằm đem lại hiệu quả sản xuất kinh
doanh tối ưu.
Công ty may Thăng Long- Hà Nội áp dụng hình thức tổ chức quản lý theo
kiểu “trực tuyến – chức năng” có nghĩa là các phòng ban tham mưu với ban giám
đốc theo từng chức năng nhiệm vụ của mình, giúp ban giám đốc điều hành và ra
quyết định đúng đắn có lợi cho Công ty. Hình thức này có ưu điểm nổi bật là đáp
ứng kịp thời các thông tin số liệu cho các cấp lãnh đạo và các lệnh từ lãnh đạo sẽ
nhanh chóng tới những người tổ chức thực hiện. Từ tình hình thực tế các quá trình
sản xuất vừa qua từng bước cải tiến về tổ chức quản lý, Công ty đã xây dựng được
một cơ cấu bộ máy khá hoàn thiện – hình 6 trang sau:
Khoa Kinh tế & Quản lý Trường ĐHBK Hà Nội
Đồ án tốt nghiệp Nguyễn Văn Hiến – Marketing K47
Tổng giám đốc
Phó tổng giám đốc
điều hành kỹ thuật.
Phó tổng giám đốc
điều hành sản xuất.
Phó tổng giám đốc
điều hành nội chính.
Phòng kỹ
thuật
Phòng
KCS
Văn
phòng
Phòng
kế
hoạch
Phòng
thị
trường
Phòngkế
toán tài
vụ
Phòng
kho
TTTM
và
Giới
thiệu
Cửa
hàng
thời
trang
Xí
nghiệp
phụ trợ
Xí
nghiệp
dịch vụ
đời sống
Các xí nghiệp là thành viên
Hội đồng quản trị
MÔ HÌNH TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ Ở CÔNG TY CỔ PHẦN MAY THĂNG LONG
Ban kiểm soát
Hình 6: Cơ cấu bộ máy Công ty
Khoa Kinh tÕ vµ Qu¶n lý 35 Trêng §HBK - Hµ Néi
§å ¸n tèt nghiÖp SV: NguyÔn V¨n HiÕn – Marketing K47
2.1 Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty
2.1.1 Kết quả tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
a. Thị trường nội địa
Bảng 1.2: Tình hình tiêu thụ tại thị trường nội địa
Thị trường
Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 So sánh DT
SL
1000sp
DT triệu
đồng
SL
1000sp
DT triệu
đồng
SL
1000sp
DT triệu
đồng
05 với
04 (%)
06 với
05 (%)
Miền Bắc 433,39 19832,2 561,9 20424 337,47 19044 102,9 93,24
+ áo dệt kim 84 3187,84 106 3253 65 3094,76 102,1 95,14
+ Jacket 32,3 4329,3 43,4 4407,8 25,15 4120,19 101,8 93,47
+ Sơ mi 57 4905,26 70 5089,7 44,3 4774 103,8 93,9
+ Quần 188 5988 246 6173,6 146,39 5673,79 103,1 92
+ Quần áo
khác
72,09 1421,8 96,39 1500 56,63 1381,26 105,5 92,08
Miền Trung 8,34 381,75 7,12 295,31 6,62 373,73 77,35 126,6
+ áo dệt kim 2,3 70,58 2 61,37 1,62 60,85 86,95 99,15
+ Jacket 0,6 63,7 0,5 53,08 0,27 45,9 83,33 86,47
+ Sơ mi 2,04 167,91 0,2 101,96 2,51 202,59 60,72 198,7
+ Quần 2,8 70,26 2,7 67,7 1,7 55,2 96,36 81,53
+ Quần áo
khác
0,6 9,3 0,72 11,2 0,52 9,19 120,4 82,05
Miền Nam 24,27 1111,05 22,09 804,59 18,91 1067,27 72,41 132,6
+ áo dệt kim 5 133,44 4 128,06 3,8 116,61 95,96 91,05
+ Jacket 0,08 8,49 0,1 8,06 0,03 6,18 94,93 76,67
+ Sơ mi 10,5 818,56 8,8 511,57 9,3 811,82 62,49 158,7
+ Quần 3,5 81,8 3,3 80,81 2,91 78 98,78 96,52
+ Quần áo
khác
5,19 68,67 5,89 76,09 2,87 54,66 110,7 71,86
Tổng 466 21325 591 21524 363 20485 100,9 95,2
Nguồn: Phòng kinh doanh nội địa Công ty CP May Thăng Long
Khoa Kinh tÕ & Qu¶n lý Trêng §HBK Hµ Néi
§å ¸n tèt nghiÖp NguyÔn V¨n HiÕn – Marketing K47
Đặc trưng của công ty CP May Thăng Long là gia công và sản xuất hàng
may mặc xuất khẩu, nên thị trường nội địa chưa được quan tâm đúng mức.Trong
một vài năm gần đây công ty thấy được tầm quan trọng của thị trường nội địa, công
ty đã giao cho phòng thị trường kết hợp với phòng kinh doanh nội địa nghiên cứu
thị trường, tìm hiểu nhu cầu người tiêu dùng để từ đó đưa ra những sản phẩm đáp
ứng nhu cầu thị trường nội địa. Công ty đã có hệ thống đại lý tiêu thụ ở khắp 3 miền
trong cả nước. Tuy nhiên mức phân bổ các đại lý chưa đồng đều còn tập trung ở
những địa bàn dân cư có thu nhập cao và những nơi đông dân.
Sản phẩm được tiêu thụ chính ở thị trường nội địa là : áo dệt kim, áo jacket,
áo sơ mi, quần áo trẻ em...
Mạng lưới tiêu thụ của Công ty chủ yếu là ở thị trường miền Bắc ( chiếm
19044 triệu đồng trong tổng doanh thu 20845 triệu đồng năm 2006). Công ty đã xác
định thị trường miền Bắc là thị trường trọng điểm vì vậy Công ty đã xây dựng mạng
lưới tiêu thụ trên 90 đại lý tập trung ở các tỉnh: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh và
Nam Định. Sản phẩm ở thị trường này được tiêu thụ mạnh là bởi dân cư ở những
nơi này có thu nhập cao, dân số tập trung đông và sản phẩm của Công ty hiện đang
có uy tín trên thị trường.
Tại thị trường miền Nam và miền Trung, mạng lưới phân phối còn nhỏ lẻ,
mới chỉ tập trung ở một số tỉnh thành. Tại thị trường miền Trung, sản phẩm chủ yếu
của công ty là: hàng dệt kim và áo sơ mi. Người dân ở khu vực này thu nhập còn
thấp, hàng hoá của Trung Quốc có giá rẻ hơn nên người tiêu dùng có xu hướng lựa
chọn những mặt hàng giá rẻ, do vậy để cạnh tranh tiêu thụ ở thị trường này công ty
cần phải có chiến lược xây dựng mức giá thấp hơn mức giá hiện tại để đáp ứng khả
năng thanh toán của khách hàng tại trị trường miền Trung.
Còn tại thị trường miền Nam Công ty phải đối mặt với nhiều đối thủ cạnh
tranh. Riêng ở thành phố Hồ Chí Minh đã có gần 300 doanh nghiệp may sẵn và hơn
500 cơ sỏ may tư nhân, đối thủ cạnh tranh của Công ty là những thương hiệu đã có
uy tín như: May Nhà Bè, may Sài Gòn, may Việt Tiến... Nhưng đây là một thị
trường đầy tiềm năng vì dân số tập trung đông, người tiêu dùng có mức thu nhập
cao và sức mua tăng nhanh, do đó Công ty cần xây dựng những chiến sách để phát
triển sản phẩm cũng như thương hiệu, uý tín của mình tại thị trường đầy tiềm năng
Khoa Kinh tÕ & Qu¶n lý Trêng §HBK Hµ Néi
§å ¸n tèt nghiÖp NguyÔn V¨n HiÕn – Marketing K47
này. Công ty hiện đang có kế hoạch phát triển thị trường tiêu thụ vào khu công
nghiệp Bình Dương, Biên Hoà, Khánh Hoà... với nhiều loại sản phẩm như: quần âu,
quần áo trẻ em, áo dệt kim… và với nhiều khung giá cho nhiều đối tượng khách
hàng nhằm khai thác có hiệu quả thị trường này, đưa thương hiệu của Công ty trở
nên quen thuộc với mọi đối tượng khách hàng khác nhau.
Ngay từ đầu thành lập Công ty đã xác định sản xuất những sản phẩm có chất
lượng cao để phục vụ cho thị trường xuất khẩu. Các sản phẩm chủ yếu và là thế
mạnh của Công ty là các sản phẩm áo Sơ mi. Và trong quá trình phát triển của
mình, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật thì các sản phẩm của Công ty
ngày càng đa dạng, đáp ứng được các yêu cầu về số lượng, chất lượng mẫu mã và
kiểu dáng. Các dòng sản phẩm đã được mở rộng, ngoài các sản phẩm truyền thống
ra thì Công ty còn có các mặt hàng như áo Jackét nam, nữ; Comple nam, nữ; Quần
Âu, Quần bò, áo dệt kim... tính tới tháng 12/ 2006 thì sản phẩm xuất khẩu của Công
ty đã đạt là:
b. Thị trường xuất khẩu
Bảng 1.3 Tình hình xuất khẩu của Công ty
ĐVT: 1000 USD
STT Mặt hàng
Năm 2005 Năm 2006 So sánh 2006 với 2005
Số tiền
Tỷ
trọng
(%)
Số tiền
Tỷ
trọng
(%)
Mức
tăng/
giảm
Tỷ lệ
tăng/
giảm
(%)
Tổng kim ngạch XK 46632 100% 57469 100% 10837 23,2%
1 Jacket và áo khoác
các loại
9655 20,7% 8771 15,26% 884 90,8%
2 Sơ mi các loại 7437 15,94% 4947 8,6% 2490 66,5%
3 Quần các loại 17695 37,94% 5979 10,6% 11716 33,8%
4 Quần áo khác 2875 6,16% 11749 20,44% 8874 408,6%
5 Hàng dệt kim 8970 19,26% 26023 45,2% 17053 290%
Nguồn: Phòng thị trường Công ty May Thăng Long
Khoa Kinh tÕ & Qu¶n lý Trêng §HBK Hµ Néi
§å ¸n tèt nghiÖp NguyÔn V¨n HiÕn – Marketing K47
Thị trường xuất khẩu của Công ty được chia thành thị trường hạn ngạch và thị
trường phi hạn ngạch.
Thị trường phi hạn ngạch: Đài Loan, Nhật, Hồng Kông, Singapore, Ba Lan,
Israel.
Thị trường hạn ngạch: Chủ yếu là các nước Tây Âu và Mỹ như: Pháp, Đức,
Tây Ban Nha, Italia, Đan Mạch...
Ta thấy kim ngạch xuất khẩu năm 2006 tăng so với năm 2005 là 23,2%, tốc độ
tăng được như vậy phần lớn là do công ty đã tích cực giữ vững uy tín với bạn hàng
cũ và không ngừng tìm kiếm bạn hàng ở nhiều thị trường khác nhau và một phần
phân bổ hạn ngạch quota. Với phương thức nhất quán: “ Không có thị trường thì
không có sự tồn tại và phát triển”, lãnh đạo Công ty luôn giữ thị trường đã có đồng
thời mở rộng thị trường mới bằng cách đảm bảo uy tín với khách hàng, không
ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo thời gian giao hàng, tăng cường
quảng bá thương hiệu, Công ty đã ký một số hợp đồng lớn vào thị trường phi hạn
ngạch như: Công ty Kowa ( Nhật Bản), Marubeny ( Nhật Bản), Công ty Tech,
Valeay (Đài Loan), Công ty Rastard (Pháp), hãng Nike, Adidas, Senhan (Hàn
Quốc)
Các hợp đồng ký kết với các công ty nước ngoài đều đảm bảo tính pháp lý và
thủ tục xuất nhập khẩu, thanh toán đầy đủ không để xảy ra khiếu kiện. Giải quyết
các mối quan hệ với các cơ quan chức năng trong việc làm thủ tục xuẩt nhập khẩu
nhanh chóng, kịp thời... Công ty đã tạo được uy tín và thương hiệu với các đối tác
nươc ngoài qua các hợp đồng lớn. Công ty không ngừng tìm kiếm đối tác mới –
những khách hàng ở một số quốc gia: Mangharm (Hồng Kông), Tùline (Singapore),
Takabuve (Nhật), Seidenticker (Đức)... do vậy đã tăng kim ngạch lên đáng kể.
Sau khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO ngày 11/1/2007 bắt đầu có hiệu
lực về mặt pháp lý, hàng xuất khẩu may mặc của ta sẽ không còn áp dụng hạn
ngạch tại thị trường Tây âu và Mỹ nữa. Điều này mở ra một cơ hội rất lớn để hàng
dệt may nói chung và sản phẩm may của Công ty CP Thăng Long nói riêng xâm
nhập vào thị trường đầy tiềm năng này. Bên cạnh những thuận lợi Công ty cũng sẽ
gặp rất nhiều thách thức từ các sản phẩm cạnh tranh của các nước khác như: ấn Độ,
Trung Quốc, các nước Nam á, Pakistan, Inđônêsia... Như vậy Công ty cần có những
Khoa Kinh tÕ & Qu¶n lý Trêng §HBK Hµ Néi
§å ¸n tèt nghiÖp NguyÔn V¨n HiÕn – Marketing K47
bước đi với những chính sách phù hợp để thâm nhập và tạo uy tín tại thị trường các
nước phát triển. Công ty phải nỗ lực hơn nữa để vượt qua những thách thức bằng
cách xây dựng thương hiệu , quản lý chất lượng sản phẩm, chú ý đến mẫu mã kiểu
dáng, nâng cao chất lượng dịch vụ...và chuyển dần từ gia công xuất khẩu sang xuất
khẩu trực tiếp FOB. Để làm được như vậy Công ty cần tập trung vào các nguồn lực
hiện có đặc biệt là yếu tố con người. Trước hết, Công ty nên chú ý nâng cao trình độ
tay nghề cho lao động, công nhân viên trong Công ty để tăng khả năng cạnh tranh.
Thứ hai cần mở rộng hệ thống tiêu thụ sản phẩm trong nước để hình ảnh của Công
ty cũng như thương hiệu Thaloga được người tiêu dùng biết đến.
2.1.2 Về khách hàng và thị trường chủ yếu
Công ty May Thăng Long được hình thành trong hoàn cảnh đất nước ta
đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nền kinh tế lúc bấy giờ
là kế hoạch hóa tập trung. Sự giao lưu kinh tế chỉ gói gọn trong các nước thuộc khối
XHCN, do đó các bạn hàng chủ yếu là các nước cộng hòa dân chủ Đức, Tiệp Khắc,
Liên Xô… Sau khi nước ta chủ trương mở rộng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, các quan hệ đối tác kinh tế được mở rộng với tất cả các nước trên cở sở
bình đẳng cả hai bên cùng có lợi thì các khách hàng của Công ty ngày càng mở
rộng. Từ khách hàng truyền thống tới nay Công ty đã thiết lập được các khách hàng
mới lớn như là tại Mỹ, EU, Đức, Nhật Bản, với các công ty như OTTO,
WINMART, WANHIN, ITOCHU…
Với lịch sử phát triển lâu đời của mình, Công ty may Thăng Long có được
khách hàng truyền thống như khách hàng Mỹ, EU, Nhật Bản… trong đó thị trường
Mỹ chiếm tỷ trọng nhiều nhất trong kim ngạch xuất khẩu của Công ty (chiếm tới
70% tổng doanh thu xuất khẩu). Tỷ trọng hàng xuất khẩu trên tổng doanh thu là rất
lớn thường chiếm tới khoảng 83% vào năm 2006
Hình 7 : Tỷ lệ hàng xuất khẩu qua các nước năm 2006
Khoa Kinh tÕ & Qu¶n lý Trêng §HBK Hµ Néi
§å ¸n tèt nghiÖp NguyÔn V¨n HiÕn – Marketing K47
USA; 70%
EU; 15%
Nhật; 10%
Khác; 5%
Nguồn: Phòng thị trường Công ty may Thăng Long
Mặc dù có lợi thế là một doanh nghiệp kinh doanh lâu đời, kinh nghiệm
phong phú, nhưng giai đoạn hiện nay, sau khi nước ta tiến hành cải cách kinh tế,
công nhận nền kinh tế là kinh tế thị trường thì các có nhiều doanh nghiệp kinh
doanh trong lĩnh vực may mặc. Điều này đã tạo ra những thách thức cho các doanh
nghiệp may mặc nói chung và Công ty cổ phần may Thăng Long nói riêng. Sự cạnh
tranh này càng thúc đẩy Công ty cần có những chiến lược kinh doanh đúng đắn, các
chính sách thị trường phù hợp đặc biệt là sử dụng các yếu tố phi giá cả như một
công cụ marketing, ví dụ như tiến độ thực hiện, sự phù hợp về mặt pháp lý, hệ
thống giao nhận…nhằm củng cố khách hàng truyền thống và mở rộng thị trường.
II. TÌNH HÌNH TIÊU THỤ SẢN PHẨM MAY MẶC TẠI THỊ TRƯỜNG EU CỦA
CÔNG TY MAY THĂNG LONG
1. Thực trạng tiêu thụ sản phẩm tại thị trường EU của Công ty
1.1 Thị trường EU và mạng lưới phân phối
1.1.1 Thị trường EU
Việt Nam và EU đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao từ tháng 11/1990.
Sau một thập kỷ rưỡi trôi qua, thì mối quan hệ giữa hai bên đã nhanh chóng phát
triển trên nhiều lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật...
và đã đạt được những thanh tựu quan trọng đóng góp thiết thực đối với sự phát triển
của mỗi bên. Do quan hệ truyền thống trong các lĩnh vực nói trên nên EU là một
trong số những đối tác hàng đầu của Việt Nam. Tổng kim ngạch hai chiều Việt Nam
Khoa Kinh tÕ & Qu¶n lý Trêng §HBK Hµ Néi
§å ¸n tèt nghiÖp NguyÔn V¨n HiÕn – Marketing K47
- EU đã đạt hơn 6 tỷ USD năm 2004, các nước EU đầu tư vào Việt Nam trên 500 dự
án với tổng số vốn đạt hơn 7 tỷ USD.
Về mặt thị trường: Từ sau lần mở rộng năm 1995, EU bao gồm 15 nước
thành viên là Pháp, Đức, Bỉ, Hà Lan, Italia, Ai Len, Anh, Đan Mạch, Luxembuog,
Phần Lan, NaUy, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, áo và Thụy Điển với diện tích là
3,337 triệu km2 và dân số hơn 370 triệu người, qui mô GDP chiếm 15%, thương
mại chiếm 25% của thế giới. Năm 2002, EU đã tiến thêm một bước quan trọng chưa
từng thấy trên lộ trình nhất thể hóa, quyết định mở rộng thêm tổ chức, kết nạp thêm
10 thành viên mới vào tháng 5/2004. Và vào ngày 1/1/2007 EU kết nạp thêm hai
thành viên mới là Bungari và Rumani, nâng tổng số thành viên trong khối là 27
nước. Với bước đi đúng đắn của mình thì lược đồ chính trị Châu Âu thay đổi diện
mạo một cách cơ bản. Giờ đây EU trở thành một khối thống nhất bao gồm 27 nước,
với dân số gần 600 triệu người, lãnh thổ EU tăng thêm 38% và trở thành thị trường
lớn nhất thế giới. Và đây là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn thứ hai của Việt
Nam với kim ngạch bình quân hàng năm đạt được từ 500 - 700 triệu USD (theo
thống kê của Cục Hải Quan)
Về thị hiếu của người tiêu dùng: Qua nghiên cứu cho thấy mỗi quốc gia
trong khối EU có đặc điểm tiêu dùng riêng, do vậy có thể thấy rằng thị trường EU
có nhu cầu đa dạng và phong phú về mặt hàng hóa, dịch vụ. Trên thực tế có những
hàng hóa được ưa chuộng trên thị trường Pháp, Italia, Bỉ nhưng lại không được
người tiêu dùng ở Anh, Đan Mạch, Đức chào đón. Điều này đòi hỏi các doanh
nghiệp nước ta phải tìm hiểu kỹ thị trường mà mình định tiếp cận, những đặc tính
tiêu dùng của từng nước đó, từ đó đáp ứng nhu cầu một cách tốt nhất. Tuy nhiên,
mặc dù có những điểm khác biệt về thị hiếu tiêu dùng của từng nước trong EU,
nhưng cả 15 nước thành viên trước đây đều là những quốc gia nằm trong khu vực
Tây và Bắc Âu nên có những nét tương đồng về trình độ phát triển kinh tế - văn hóa
- xã hội cho nên người tiêu dùng cũng có những điểm chung về sở thích và tiêu
dùng. Còn các nước mới gia nhập đã có truyền thống quan hệ kinh tế với Việt Nam
(hầu hết đều thuộc Đông Âu, cùng tham gia khối kinh tế của các nước XHCN trước
đây). Do đó, đặc tính tiêu dùng hàng may mặc đã được các doanh nghiệp Việt Nam
nghiên cứu và đã tiến hành xâm nhập thị trường này khá thành công. Nghiên cứu
Khoa Kinh tÕ & Qu¶n lý Trêng §HBK Hµ Néi
§å ¸n tèt nghiÖp NguyÔn V¨n HiÕn – Marketing K47
tổng quan thì người Châu Âu có sở thích và thói quen tiêu dùng các hàng hóa có
nhãn hiệu nổi tiếng thế giới. Họ cho rằng nhãn hiệu này sẽ gắn với chất lượng sản
phẩm và có uy tín lâu đời, cho nên khi dùng sản phẩm có nhãn hiệu nổi tiếng sẽ rất
yên tâm về chất lượng và an toàn cho người sử dụng. Vì vậy, trong nhiều trường
hợp, mặc dù sản phẩm có giá cao nhưng họ vẫn mua và không thích chuyển sang
tiêu dùng những sản phẩm không có thương hiệu hay nổi tiếng cho dù giá rẻ hơn
nhiều. Như thế những mặt hàng tiêu dùng nói chung cũng như những hàng may mặc
nói riêng mà ít danh tiếng sẽ rất khó tiêu thụ trong thị trường này.
EU luôn được coi là một thị trường khó tính vì Châu Âu vốn là một lục địa
“già”, với một lịch sử phát triển hàng nghìn năm, những phong tục tập quán đã ăn
sâu vào trong lòng người dân. Do đó các nhà nhập khẩu EU có xu hướng đòi hỏi
cao đối với hàng hóa nhập khẩu từ các nước ngoài vào, và họ thường tỏ ra thận
trọng và bảo thủ hơn khi tiêu dùng so với thị trường Mỹ. Điều này đã đưa tới các
doanh nghiệp may mặc phải đáp ứng được tốt các tiêu chuẩn chất lượng, các doanh
nghiệp phải có được chứng chỉ ISO 9000, đồng thời phải có những biện pháp nhằm
kích thích tiêu dùng của những người tiêu dùng tại lục địa “già” này.
Ngoài ra EU còn là một thị trường bảo vệ người tiêu dùng. Các sản phẩm khi
vào thị trường này phải trải qua các giai đoạn kiểm tra nghiêm ngặt về chất lượng,
về các yếu tố ảnh hưởng đến môi trường... và an toàn của người tiêu dùng luôn đặt
lên hàng đầu. EU đưa ra các quy định chuẩn quốc gia hoặc Châu Âu, các quy định
về nhãn mác hàng hóa rất khắt khe, và nhất là đối với thực phẩm, đồ uống, hàng
may mặc, vải lụa. Và việc làm sai quy cách về đóng gói, bao bì, thành phần... bị xử
lý rất nghiêm ngặt. Từ đó đã tạo ra những thách thức lớn đối với các doanh nghiệp
nước ta khi tiếp cận thị trường khó tính nhưng đầy hấp dẫn.
1.1.2 Mạng lưới phân phối tại EU
Hệ thống phân phối của EU về cơ bản cũng giống như hệ thống phân phối
của một quốc gia, gồm mạng lưới bán buôn và mạng lưới bán lẻ. Tham gia vào các
hệ thống phân phối này là các công ty đa quốc gia, hệ thống các cửa hàng, siêu thị,
các công ty bán lẻ độc lập... Hình thức tổ chức phổ biến nhất là kênh phân phối trên
thị trường EU là theo tập đoàn và không theo tập đoàn. Kênh phân phối theo tập
đoàn có nghĩa là các nhà sản xuất và nhập khẩu của một tập đoàn chỉ cung cấp hàng
Khoa Kinh tÕ & Qu¶n lý Trêng §HBK Hµ Néi
§å ¸n tèt nghiÖp NguyÔn V¨n HiÕn – Marketing K47
hóa cho hệ thống các cửa hàng và các siêu thị của tập đoàn này, mà không cung cấp
cho hệ thống bán lẻ cửa các tập đoàn khác. Hệ quả là tạo ra được một thương hiệu
riêng cho các tập đoàn bán lẻ và cũng gây ra những khó khăn cho những đối thủ
muốn thâm nhập hàng hóa của mình vào hệ thống phân phối này. Còn kênh phân
phối không theo tập đoàn, có nghĩa là các nhà sản xuất và nhập khẩu của tập đoàn
ngoài việc cung cấp hàng hóa cho hệ thống các cửa hàng trong tập đoàn của mình
còn cung cấp cả hàng hóa cho hệ thống bán lẻ của tập đoàn khác.
Khoa Kinh tÕ & Qu¶n lý Trêng §HBK Hµ Néi
§å ¸n tèt nghiÖp NguyÔn V¨n HiÕn – Marketing K47
Hình 2.1: Sơ đồ kênh phân phối sản phẩm may mặc tại thị trường EU
Theo tập đoàn Không theo tập đoàn
Nguồn: Phòng thị trường Công ty
Như vậy hệ thống phân phối của EU đã hình thành nên một tổ hợp chặt chẽ
và có nguồn gốc lâu đời. Tiếp cận được hệ thống phân phối này không phải là dễ
đối với các nhà xuất khẩu của nước ta nói riêng cũng như các nước khác trên thế
giới nói chung. Bởi vì nếu muốn hàng hóa vào được thị trường này thì trước hết
háng hóa phải đáp ứng được các tiêu chuẩn mà thị trường đưa ra, và đồng thời
muốn hàng hóa đến tay người tiêu dùng thì lại phải thông qua mạng lưới phân phối
tại đây. Với đặc trưng tổ chức mạng lưới phân phối như thế thì việc một hàng hóa
muốn thâm nhập sâu vào thị trường này phải cần có sự liên kết chặt chẽ với các tập
đoàn, hay các công ty xuyên quốc gia tại EU để thông qua họ mà hàng hóa của
mình có mặt trên thị trường EU. Để tìm hiểu thông tin về các tập đoàn hay các công
ty xuyên quốc gia, ta có thể tìm hiểu thông qua các đại sứ quán tại EU, tham tán
thương mại ... Và việc hàng hóa Trung Quốc xâm nhập mạnh thị trường này cũng là
do sự liên kết liên doanh mạnh mẽ với các công ty xuyên quốc gia tại EU.
Nhà sản xuất và các
nhà nhập khẩu
Nhà sản xuất và các nhà
nhập khẩu
Cửa hàng siêu thị
của nhà sản xuất
Cửa hàng, đại
lý của tập
đoàn
Hệ thống bán
lẻ khác ngoài
tập đoàn
Người tiêu dùng Người tiêu dùng
Khoa Kinh tÕ & Qu¶n lý Trêng §HBK Hµ Néi
§å ¸n tèt nghiÖp NguyÔn V¨n HiÕn – Marketing K47
1.2 Tình hình tiêu thụ sản phẩm
Hiện nay kênh phân phối của Công ty sử dụng cả hai kênh phân phối là kênh
trực tiếp và kênh gián tiếp. Doanh thu bán hàng của hai kênh trong những năm qua
như được tổng kết qua bảng sau:
Bảng 2.1 Doanh thu bán hàng ở các kênh phân phối
ĐVT: triệu đồng
Kênh phân phối Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006
Kênh trực tiếp 40.608 36.693 15.588
Kênh gián tiếp 151.317 164.896 189.298
Tổng cộng 191.925 201.289 204.886
Nguồn: Phòng kế kế toán tài vụ Công ty May Thăng Long
Qua bảng trên, ta thấy doanh thu của kênh trực tiếp giảm đi khoảng10% mỗi
năm, nhưng bên cạnh đó doanh thu của các kênh phân phối gián tiếp tăng lên hơn
10% qua các năm. Như vậy xu hướng này là một tích cực vì Công ty đã khai thác và
mở rộng được các kênh phân phối của mình, từ đó hàng hoá của Công ty đã có mặt
trên nhiều thị trường khác nhau, điều này cũng đồng nghĩa hình ảnh của Công ty
đang ngày càng được biết đến và bước đầu giành được uy tín trên thị trường.
Các mặt hàng chính mà Công ty xuất khẩu sang thị trường EU là áo Jacket
và áo khoác các loại, áo sơ mi, quần âu và hàng dệt kim. Doanh thu xuất khẩu của
Công ty may Thăng Long chiến xấp xỉ 83% tổng doanh thu vào năm 2006, trong đó
tỷ trọng xuất khẩu vào thị trường EU năm 2006 chiếm 15% tổng doanh thu xuất
khẩu. Tỷ trọng này còn chưa tương xứng với tiềm năng xuất khẩu của doanh
nghiệp, nguyên nhân là chúng ta vẫn chủ yếu ngắm đến xuất khẩu sang thị trường
Hoa Kỳ, vì vậy thị trường EU chưa được Công ty thực sự chọn làm khách hàng mục
tiêu trong chiến lược phát triển của Công ty trước đây. Nhưng hiện nay hạn ngạch
nhập khẩu vào Hoa Kỳ chặt chẽ hơn do các vụ kiện bán phá cho nên chiến lược của
Công ty đã coi thị trường EU là một thị trường chiến lược cần khai thác trong tương
lai.
Khoa Kinh tÕ & Qu¶n lý Trêng §HBK Hµ Néi
§å ¸n tèt nghiÖp NguyÔn V¨n HiÕn – Marketing K47
Hình 2.2: Tỷ lệ hàng xuất khẩu tại một số thị trường chính năm 2006
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
Các nước
khác
Nhật EU USA
Nguồn: Phòng thị trường Công ty may Thăng Long
Bảng 2.2: Tình hình xuất khẩu của Công ty
ĐVT: 1000 USD
STT Mặt hàng
Năm 2005 Năm 2006 So sánh 2006 với 2005
Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Mức
tăng/
giảm
Tỷ lệ
tăng/
giảm (%)
Tổng kim ngạch XK 46632 100% 57469 100% 10837 23,2%
1 Jacket và áo khoác
các loại
9655 20,7% 8771 15,26% 884 90,8%
2 Sơ mi các loại 7437 15,94% 4947 8,6% 2490 66,5%
3 Quần các loại 17695 37,94% 5979 10,6% 11716 33,8%
4 Quần áo khác 2875 6,16% 11749 20,44% 8874 408,6%
5 Hàng dệt kim 8970 19,26% 26023 45,2% 17053 290%
Nguồn: Phòng thị trường Công ty May Thăng Long
Công ty may Thăng Long cũng như các Công ty may lớn khác đều xuất khẩu
theo hai hình thức đó là gia công xuất khẩu và xuất khẩu trực tiếp nhưng tỷ trọng
xuất khẩu chủ yếu vẫn là gia công xuất khẩu theo các đơn hàng của bạn hàng nên
mặc dầu doanh thu xuất khẩu đem về lớn nhưng giá trị gia tăng trên một đơn vị sản
phẩm mang về thấp, còn xuất khẩu theo hình thức trực tiếp tỷ trọng còn thấp. Đây là
một bài toán khó mà Công ty May Thăng Long nói riêng và các doanh nghiệp may
khác của nước ta phải giải quyết để tăng giá trị xuất khẩu cũng như uy tín của mình
trên thị trường.
Khoa Kinh tÕ & Qu¶n lý Trêng §HBK Hµ Néi
§å ¸n tèt nghiÖp NguyÔn V¨n HiÕn – Marketing K47
1.3 Về công tác điều tra nghiên cứu thị trường
Công ty may Thăng Long với cơ cấu thuộc Bộ Thương Mại, là một thành
viên của Tổng Công ty may Việt Nam (Vinatex) có tình hình tiêu thụ tương tự như
các doanh nghiệp may mặc khác của nước ta trên thị trường EU. Các chủng loại
hàng hóa mà Công ty xuất khẩu sang thị trường EU phần lớn thông qua hợp đồng
gia công xuất khẩu ủy thác mà các doanh nghiệp nước ngoài đặt hàng, hay thực hiện
các đơn hàng của các doanh nghiệp trong cùng ngành để đáp ứng một đơn hàng lớn
của khách hàng.
Tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay khi Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương
mại thế giới WTO, cùng với việc giỡ bỏ hạn ngạch xuất khẩu thì đây là cơ hội mở
rộng khách hàng cũng như khai thác thị trường mới để tăng xuất khẩu FOB làm cho
giá trị gia tăng cao trên một đơn vị sản phẩm. Hiện nay Công ty may Thăng Long
đã hết sức quan tâm tới hoạt động tiêu thụ của mình trên thị trường quan trọng này,
như đã tham gia các hội chợ quốc tế ở EU với tư cách là một thành viên của
Vinatex, nối mạng cục bộ và mạng Internet để thu thập thông tin, tìm hiểu nghiên
cứu thị trường.. Bằng chứng của việc này đã được thể hiện qua các quyết định, kế
hoạch của Công ty phấn đấu tăng tỷ lệ xuất khẩu vào thị trường này lên mức trên
20%. Việc đánh giá tầm quan trọng của thị trường này đã cho thấy sự quan tâm lớn
của Công ty trong vấn đề tìm ra đầu ra cho sản phẩm, cũng như thâm nhập mạnh
vào một thị trường khó tính nhằm khẳng định một thương hiệu của Việt Nam. Công
ty đã và đang thực hiện các hoạt động nhằm nâng cao khả năng tiêu thụ của mình
tại thị trường này là:
Cũng giống như các doanh nghiệp may khác, Công ty đã có những giải pháp
nhằm quảng bá hình ảnh của mình trên phạm vi toàn cầu, bằng việc sử dụng
Internet, thương hiệu của Công ty có thể đến với người tiêu dùng ở trên khắp nơi
trên thế giới. Công ty đã từng bước xây dựng và hoàn thiện trang Web của mình là
Qua trang web này Công ty có thể giới thiệu các chủng
loại mặt hàng sản xuất, lịch sử hình thành và phát triển, lấy thông tin phản hồi từ
các khách hàng.... Nếu Công ty tập trung xây dựng trang web của mình thì đây cũng
là một kênh thu thập thông tin rất hiệu quả.
Khoa Kinh tÕ & Qu¶n lý Trêng §HBK Hµ Néi
§å ¸n tèt nghiÖp NguyÔn V¨n HiÕn – Marketing K47
1.4 Chính sách sản phẩm
Với nội dung của vấn đề này là việc tính toán xem nên đưa ra sản phẩm nào
vào thị trường, cũng như loại bỏ sản phẩm cũ ra khỏi thị trường nhằm đảm bảo cho
sự phát triển bền vững của doanh nghiệp, tạo ra sự đa dạng hóa, khác biệt hóa sản
phẩm. Tuy nhiên các chính sách sản phẩm được lập ra phần lớn ở các công ty có
một danh sách các sản phẩm đa dạng, phong phú, và chi phí cho việc thực hiện
chính sách này cũng là rất lớn bởi nó còn liên quan tới các biện pháp marketing. Tại
Công ty may Thăng Long, do đặc thù của ngành may là mang tính dây truyền, mẫu
mã lại thay nhanh chóng theo mùa, nên vấn đề tập trung vào chính sách sản phẩm là
hết sức quan trọng ảnh hưởng tới sự thành công và thất bại trên thị trường. Song do
tình hình sản xuất của Công ty phần lớn là gia công hàng may mặc rồi xuất khẩu ủy
thác, cho nên kỹ thuật sản xuất chưa cao, các sản phẩm chủ yếu là áo Sơ mi,
Comple, quần áo thể thao... với các chất liệu Cotton, vải pha T/C, vải polyester chứ
chưa hề sản xuất được áo cao cấp cho nam giới hay quần áo nữ sử dụng chất liệu
vải mềm mại. Do đó việc tập trung vào chính sách sản phẩm chưa đúng mức, chính
sách sản phẩm trong giai đoạn hiện nay là đầu tư vào việc nâng cao chất lượng sản
phẩm, tạo lập thương hiệu, thiết kế mẫu mã để tiến tới đưa ra thị trường các sản
phẩm mang thương hiệu Thaloga. Công tác vào đầu tư khác biệt khóa sản phẩm còn
ít, vẫn chủ yếu là sản xuất theo mẫu mã của các đơn đặt hàng.
Hình 2.3: Cơ cấu sản phẩm của Công ty may Thăng Long
50%
30%
20%
Quần áo nam
Quần áo nữ
Quần áo trẻ em
Khoa Kinh tÕ & Qu¶n lý Trêng §HBK Hµ Néi
§å ¸n tèt nghiÖp NguyÔn V¨n HiÕn – Marketing K47
Nguồn: Phòng thị trường Công ty may Thăng Long
Ta thấy rằng hiện nay sản phẩm đang được tập trung sản xuất là quần áo cho
nam giới chiếm tới 50%, tiếp sau đó là tỷ lệ sản phẩm cho nữ là 30% trong khi đó
quần áo trẻ em chỉ chiếm 20%. Mà theo công tác nghiên cứu điều tra thị trường cho
thấy xu hướng hàng may mặc cho nam giới đang dần có xu hướng bão hòa, trong
khi quần áo cho nữ và cho trẻ em đang có xu hướng tăng nhanh, nhưng lượng tăng
này lại kèm theo những yêu cầu về mẫu mã, chất lượng vải phù hợp với lứa tuổi...
Như vậy đứng trước những yêu cầu trên thì Công ty đang nghiên cứu để liên kết với
các doanh nghiệp nước ngoài nhằm cung ứng chủng loại quần áo cho phụ nữ và trẻ
em, đồng thời tìm hiểu để liên kết với các doanh nghiệp trên thị trường là đầu vào
để có được một nguồn nguyên liệu ổn định, chất lượng đảm bảo.
1.5 Chính sách giá
Với một hệ thống định giá theo các tiêu chuẩn đã đề ra, sau khi khách hàng
đặt hàng thì phòng thị trường sẽ lên phương án, phụ lục, đề nghị phòng kỹ thuật cho
phương án báo giá với khách hàng. Mặc dù có nhiều phương pháp định giá sản
phẩm sản xuất như định giá hòa vốn, định giá cạnh tranh, định giá dựa vào AVC...
nhưng tại Công ty may Thăng Long thì vẫn sử dụng phươg pháp định giá vào giá
thành sản phẩm cộng với tỷ lệ lợi nhuận mà Công ty muốn đạt được ở một lô hàng
nhất định. Chính sách giá của Công ty cũng không rõ ràng do đặc trưng của Công ty
là sản xuất hàng chủ yếu theo hình thức CMPT (gia công xuất khẩu), giá trị gia tăng
trong 1 đơn vị sản phẩm là không cao, chủ yếu tại các khâu như may, đóng gói,
hoàn thiện...
Bảng 2.3: Phương án báo giá gia công CMPT
N
o Style
QT
Y Description
Uni
t
C
M
Packin
g
Threa
d
Tota
l
Deliver
y
1
491/40
3 8.1 Jacket 2 lop 2.5 2.5 0.1 0.2 2.8 30/10
2 NEXT 3.5
Jacket 2 lop
TE 1.6 1.6 0.1 0.1 1.8 30/9
Nguồn: Phòng thị trường Công ty May Thăng Long
Thông qua phương án báo giá trên chúng ta thấy rõ việc định giá bán của
Công ty. Giá bán được phân chia thành các hạn mục khác nhau để từ đó tính tổng,
Khoa Kinh tÕ & Qu¶n lý Trêng §HBK Hµ Néi
§å ¸n tèt nghiÖp NguyÔn V¨n HiÕn – Marketing K47
tùy thuộc vào số lượng đặt hàng và ngày giao hàng, qui cách, chất lượng mà có
những giá chào khác nhau. Có thể những đơn đặt hàng chỉ gia công trong 2 công
đoạn là may và đóng gói thì giá cả sẽ lại khác so với theo hình thức CMPT làm tất
cả cho tới khi hoàn thiện sản phẩm. Việc định giá này của Công ty sẽ chỉ phù hợp
khi tiến hành sản xuất theo hình thức gia công, còn khi chuyển sang hình thức FOB
thì chính sách giá phải có sự thay đổi lớn để có thể thâm nhập thị trường một cách
hiệu quả. Khi đó các phương pháp định giá phải là các phương pháp tính giá hiện
đại, dựa vào AVC, đối thủ cạnh tranh... chính sách giá phải phù hợp với mục tiêu
lúc đó doanh nghiệp đặt ra.
1.6 Chính sách phân phối
Đặc điểm chủ yếu của hệ thống phân phối của Công ty là đã liên doanh với
các công ty nước ngoài để tạo điều kiện thuận lợi trong việc đưa hàng hóa vào thị
trường EU như thông qua Pan-Pacific. Dựa vào hệ thống phân phối tại thị trường
EU, những đặc trưng của kênh phân phối không theo tập đoàn mà công ty sẽ sản
xuất hàng hóa thâm nhập vào mạng lưới này rồi thâm nhập sang thị trường khác của
EU. Bằng việc tham gia các hội chợ trong nước cũng như nước ngoài, ngoài mục
đích quảng bá thương hiệu của mình mà còn là nhiệm vụ quan trọng khác là tìm ra
khách hàng cho các sản phẩm của mình. Hàng hóa của Công ty chủ yếu xuất khẩu
cho các tập đoàn bán lẻ lớn tại Châu Âu chứ không xuất khẩu sang cho hệ thống
cho hệ thống kênh phân phối nhỏ lẻ do Công ty chưa tạo dựng được mạng lưới phân
phối này. Với đặc trưng phân phối như thế Công ty không có khả năng tiếp cận trực
tiếp với người tiêu dùng mà phải qua những đại lý tiêu thụ để nhận biết được yêu
cầu và sản xuất. Như thế việc nhận biết nhu cầu và đề ra chính sách thích hợp để
đáp ứng với thị trường là chậm, có khi nhận biết được cơ hội rồi nhưng đến khi sản
xuất xong thì thời cơ đã qua... Xu hướng trong thời gian tới đây, Công ty có kế
hoạch tổ chức những hiệp hội bán lẻ tại các nước thược EU như Đức, Hà Lan... vì
cộng đồng người Việt sinh sống và tập trung buôn bán với số lượng đông, trong đó
có những người đã có uy tín, kinh nghiêm trong lĩnh vực kinh doanh. Điều này mở
ra một xu hướng phát triển kênh phân phối đến tận các đại lý tiêu thụ nhỏ lẻ, đến tận
tay người tiêu dùng, do đó có khả năng nắm bắt nhu cầu một cách kịp thời và có
những quyết định kinh doanh một cách hiệu quả.
Khoa Kinh tÕ & Qu¶n lý Trêng §HBK Hµ Néi
§å ¸n tèt nghiÖp NguyÔn V¨n HiÕn – Marketing K47
Thông qua kênh phân phối được thể hiện như sau:
Khoa Kinh tÕ & Qu¶n lý Trêng §HBK Hµ Néi
§å ¸n tèt nghiÖp NguyÔn V¨n HiÕn – Marketing K47
Hình 2.4: Kênh phân phối hàng may mặc của Công ty tại trường EU
Nguồn: Phòng thị trường Công ty May Thăng Long
Như vậy thông qua sơ đồ trên chúng ta thấy được rằng kênh phân phối của
Công ty rất đơn giản, nhưng phải thông qua các công ty nước ngoài, Công ty không
có kênh phân phối trực tiếp tới tay người tiêu dùng cũng như các đại lý của mình
trên thị trường EU. Điều này là do Công ty chưa đầu tư mạnh mẽ vào hệ thống kênh
phân phối nhỏ lẻ nguyên nhân có thể là thương hiệu của mình chưa mạnh và chi phí
sẽ cao khi thiết lập được kênh phân phối mà giảm bớt các nhà trung gian. Việc xây
dựng hệ thống kênh phân phối cho riêng mình tại thị trường EU là kém khả thi,
Công ty may Thăng Long cũng xác định được vấn đề này nên tiến hành liên doanh
với các doanh nghiệp trong hệ thống kênh phân phối không theo tập đoàn, như thế
với một chi phí hợp lý thì hàng hóa vẫn có thể xâm nhập vào thị trường Eu một
cách dễ dàng và dần dần sẽ xây dựng cho mình một hệ thống phân phối trên thị
trường này khi hội đủ các điều kiện về sản phẩm, thương hiệu của riêng mình, có
một lượng khách hàng đủ lớn...
1.7 Chính sách xúc tiến hỗn hợp
Xúc tiến hỗn hợp là một công cụ của marketing-mix nhằm hỗ trợ và thúc đẩy
việc thực hiện các mục tiêu đã xác định, nó sẽ chỉ bán sản phẩm cho khách hàng là
Công ty may Thăng Long
Khách hàng và nhà phân phối của
doanh nghiệp tại thị trường EU
( như Pan – Pacific...)
Người tiêu dùng tại
trường EU
Khoa Kinh tÕ & Qu¶n lý Trêng §HBK Hµ Néi
§å ¸n tèt nghiÖp NguyÔn V¨n HiÕn – Marketing K47
ai? với qui cách, chất lượng ra sao? ... Tùy thuộc vào mục tiêu từng giai đoạn cụ thể
mà chúng ta có chính sách hay các công cụ xúc tiến hỗn hợp nhất định. Trong giai
đoạn hiện nay, Công ty may Thăng Long đang từng bước xây dựng thương hiệu của
riêng mình. Các biện pháp quảng cáo trên các phương tiện đại chúng, báo chí, qua
các cuộc hội trợ ... và là 1 trong 13 Công ty thuộc đoàn đại biểu của Vinatex sang
tham gia hội chợ Dusseldorf - Đức. Việc tham gia hội chợ là dịp để Công ty giới
thiệu và quảng bá hình ảnh, sản phẩm của doanh nghiệp mình nhằm tìm kiếm bạn
hàng, đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Đức và EU. Tuy nhiên mặc dù đã tham
gia các hội trợ nhưng việc đầu tư cho các hoạt động này là chưa cao, chưa quảng bá
hình ảnh được nhiều thị trường mà mới dừng lại ở từng thị trường riêng biệt nhỏ lẻ.
Về mục tiêu khi tiến hành các hoạt động xúc tiến hỗn hợp cũng không được định ra
rõ ràng, hình ảnh của Công ty khi định vị vào trong tâm trí khách hàng còn hạn chế,
chưa nổi bật so với các công ty khác đang cạnh tranh như May 10, may Việt Tiến,
may Nhà Bè .... Điều này cũng có nghĩa là hình ảnh của Công ty đối với khách hàng
nước ngoài còn thấp nữa, và chúng ta cần rút kinh nghiệm khi nhìn hàng hóa Trung
Quốc nó được định vị là hàng hóa “rẻ”, đấy là một lợi thế khi tham gia trên thị
trường EU.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm may mặc trện thị
trường EU
2.1 Về bối cảnh kinh doanh
Những diễn biến phức tạp trong những năm đầu thế kỷ XXI đã và đang tác
động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế nói chung, quan hệ thương mại kinh tế Việt
Nam và liên minh Châu Âu nói riêng. Những tác động đó đã tạo ra một môi trường
kinh doanh đầy biến động, và đòi hỏi chúng ta phải nhận biết được các xu hướng đó
để định hướng, thực hiện, hoàn thành các mục tiêu mà mình đề ra. Các xu hướng
chính đã tác động đến môi trường kinh doanh tại EU đó là:
+ Thứ nhất: Quá trình toàn cầu hóa và khu vực hóa diễn ra mạnh mẽ trên mọi mặt
đời sống kinh tế của tất cả các quốc gia trên thế giới. Đây không phải là xu thế mà
đã trở thành thực tế sinh động, tác động đến mọi mặt của tiến trình phát triển thế
giới, cuốn hút mọi quốc gia đã và đang phát triển. Tuy nhiên cùng với sự phát triển
mạnh mẽ của toàn cầu hóa thì mâu thuẫn thương mại quốc tế đã diễn ra ngày càng
Khoa Kinh tÕ & Qu¶n lý Trêng §HBK Hµ Néi
§å ¸n tèt nghiÖp NguyÔn V¨n HiÕn – Marketing K47
gay gắt, nguyên nhân là do mâu thuẫn về lợi ích trong thương mại quốc tế giữa các
phát triển và đang phát triển ( điển hình là thất vại của hội nghị Cancun ở Mẽico,
của vòng đàm phán DOHA tại Quata và hiện nay cuộc đàm phán DOHA đang được
nối lại để tháo gỡ những vướng mắc). Xu thế mạnh mẽ của các liên kết kinh tế như
hiệp định tự do thương mại toàn Châu Mỹ vào năm 2005; tăng cường hợp tác trong
khu vực Châu á - Thái Bình Dương thông qua diễn đàn APEC; khu vực mậu dịch tự
do ASEAN ( AFTA) ... Việc k ý kết các hiệp định thương mại song phương giữa các
quốc gia với nhau và trong quan hệ đa tầng như vậy thì việc cùng một lúc phải thực
hiện nhiều nghĩa vụ khác nhau đã làm ảnh hưởng đến hiệo định chung thương mại
toàn cầu, cạnh tranh thương mại càng ngày càng gay gắt hơn.....
+ Thứ hai là, tiến trình hợp tác á - Âu (ASEM) đang được tăng cường mạnh mẽ.
Tháng 10 năm 2004, Việt Nam là nước chủ nhà của hội nghị thượng đỉnh ASEM V.
Việc tăng cường hợp tác á - Âu mà Việt Nam và các nước thành viên EU đều là
thành viên sáng lập và hình ảnh Việt Nam vừa tổ chức thành công hội nghị thượng
đỉnh APEC sẽ tác động mạnh mẽ đến quan hệ Việt Nam và EU. Quan hệ hợp tác
ASEM mạnh hơn sẽ tạo điều kiện tăng cường quan hệ hợp tác song phương, giải
quyết những mâu thuẫn nảy sinh trong khu vực cũng như toàn cầu.
+ Thứ ba. Liên minh Châu Âu đã mở rộng sang phía Đông vào ngày 1/1/2007 kết
nạp thêm hai thành viên mới là Bungari và Rumani, nâng tổng số là 27 thành viên.
Đây không chỉ là một sự kiện có nghĩa với EU, mà còn là yếu tố tác động đến thế
giới nói chung và đến quan hệ Việt Nam – EU nói riêng.
+ Thứ tư là, các nước thành viên ở Đông Âu được kết nạp thành viên sau này đều là
những nước có truyền thống quan hệ lâu đời với Việt Nam, và có nền kinh tế kém
phát triển hơn so với các thành viên cũ hiện nay. Do đó đòi hỏi EU phải tập trung,
nỗ lực hơn để giúp đỡ các nước này xóa dần khoảng cách phát triển giữa các thành
viên trong khối. Điều này chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới quan hệ của EU với bên ngoài
nói chung và quan hệ hợp tác giữa nước ta và EU nói riêng.
+ Thứ năm, do có sự luân chuyển vốn, dịch vụ, lao động trong Liên minh Châu Âu,
các thành viên mới sẽ có điều kiện thuận lợi hơn trong việc trao đổi thương mại, thu
hút vốn từ các nước thành viên EU cũ. Do đó tạo sự cạnh tranh gay gắt hơn trong
thu hút đầu tư và trao đổi thương mại bên ngoài EU.
Khoa Kinh tÕ & Qu¶n lý Trêng §HBK Hµ Néi
§å ¸n tèt nghiÖp NguyÔn V¨n HiÕn – Marketing K47
Như vậy tất cả các yếu tố về môi trường kinh doanh trên cấp độ vĩ mô đều
ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ hàng may mặc trên thị trường EU. Việc mở rộng
thị trường đã tạo ra một thị trường rộng lớn với nhu cầu mẫu mã đa dạng, phong
phú... Và nếu các doanh nghiệp Việt Nam có thể khai thác từ các nước thành viên
mới của EU vốn có quan hệ tốt và lâu đời thì đây là cửa gõ đi vào EU thuận lợi
hơn. Hệ quả là hàng hóa của chúng ta có thể giảm bớt các khâu trung gian nhờ tận
dụng chính sách luân chuyển tự do trong nội khối... Ngoài ra các điều kiện trên càng
tạo ra quan hệ thương mại kinh tế bền vững giữa khối ASEAN và EU, trong đó
nước ta là một nhân tố quan trọng trong diễn đàn này, từ đó tạo điều kiện xúc tiến
thương mại đối với các nước EU và đặc biệt là hàng may mặc sẽ tiếp cận với thị
trường này thông qua các hiệp định thương mại đa phương , song phương.
2.2 Xu hướng thay đổi sản phẩm
Theo báo cáo khảo sát xu thế thị trường năm 2006, thì sản phẩm may mặc có
xu hướng tăng trưởng nhanh nhất gồm quần áo thông dụng, quần áo mặc đi phố,
tiếp sau đó là quần áo mặc công sở, quần áo ngủ, quần áo dạ tiệc và quần áo thể
thao. Điều này cũng tương đương với các năm trước nhu cầu về quần áo thể thao
tăng nhanh ( đồng phục trượt tuyết, quần short, đồng phục thể thap, T-Shirt). Về
màu sắc thì phổ biến ngoài màu đen và trắng như các năm trước thì năm nay đa
dạng hơn về màu sắc, và dự đoán quần áo công sở là sẽ được tiêu dùng mạnh. Các
kiểu hoa văn phổ biến là cây cỏ, kẻ vuông và hình họa.... Các sản phẩm trên được
ưa thích bởi các nguyên liệu chính là vải cotton, dệt kim, len, nhung kẻ và lông thú
đối với các loại quần áo công sở. Nhưng trên chỉ là những sự dự đoán, sản phẩm
may mặc có đặc thù chu kỳ sống rất ngắn do đó khi nắm bắt được nhu cầu rồi thì
khâu thiết kế mới là quan trọng nhất. Hàng may mặc có tiêu thụ được tốt hay không
thì phần lớn cũng dựa vào mẫu mã thiết kế của sản phẩm có hợp mốt, có hợp thời
hay không.
2.3 Chất lượng dịch vụ
Theo xu hướng của một số năm trước thì chất lượng dịch vụ đối với các đơn
hàng may mặc không được trú trọng hơn so với giá cả, chất lượng hàng hóa. Hiện
nay khi mà chất lượng hàng may mặc giữa các quốc gia không còn sự khác biệt quá
lớn thì việc cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ sẽ được đặt lên hàng đầu. Việc đáp
Khoa Kinh tÕ & Qu¶n lý Trêng §HBK Hµ Néi
§å ¸n tèt nghiÖp NguyÔn V¨n HiÕn – Marketing K47
ứng một đơn đặt hàng nhanh chóng nhất, cùng với chất lượng hàng hóa được đảm
bảo và hợp đồng thanh toán thuận tiện cho khách hàng sẽ là lợi thế của các doanh
nghiệp. Cùng với chất lượng, giá cả tương đương nhau, thì hàng may mặc của
Trung Quốc có thể được chấp nhận nếu thời hạn giao hàng nhanh hơn so với thời
hạn giao hàng của nước ta, cũng như các ưu đãi trong các điều kiện tín dụng,... Sự
tiện lợi trong lĩnh vực này lại được phụ thuộc nhiều vào các ngành công nghiệp của
quốc gia đó, vào sự giao thương quốc tế cũng như các điều kiện thương mại quốc
tế.
2.4 Tình hình cạnh tranh về sản phẩm may mặc trên thị trường EU
2.4.1 Hàng may mặc Trung Quốc
Trung Quốc đã nổi lên là nước có khả năng chiếm lĩnh thị trường dệt may
lớn nhất thế giới. Theo các số liệu thống kê trong một vài năm trở lại đây thì vào
năm 2003, Trung Quốc chiếm tới 17% thị phần may thế giới, và con số này theo
thông báo của WTO đã đạt được 50% trong năm 2006. Chỉ tính riêng ở Mỹ, các nhà
sản xuất dệt may dự báo thị phần của Trung Quốc tăng từ 16% từ năm 2003 đến
71% vào cuối năm 2006 và đạt 42 tỷ USD, còn ở thị trường EU thì lượng hàng may
nhập khẩu từ Trung Quốc tăng gấp đôi trong thời gian 2002 – 2004 do Brussel bãi
bỏ hạn ngạch ở một số chủng loại hàng may mặc. Và trong 9 tháng đầu năm 2006,
kim ngạch xuất khẩu quần áo và đồ phụ liệu của Trung Quốc đạt 8.5 tỷ USD tăng
23%, xuất khẩu chỉ và sợi đạt 5,22 tỷ USD tăng 28%.
Hình 2.5: Thị phần của Trung Quốc trên thị trường may thế giới
50%50%
Các nước khác
Trung Quốc
Năm 2003 Năm 2006
83%
17%
Các nước khác
Trung Quốc
Khoa Kinh tÕ & Qu¶n lý Trêng §HBK Hµ Néi
§å ¸n tèt nghiÖp NguyÔn V¨n HiÕn – Marketing K47
Nguồn: Phòng thị trường Công ty
Để đạt được những thành tựu nói trên, trước hết chúng ta có thể thấy Trung
Quốc là mộh quốc gia có ngành dệt may từ rất lâu đời. Bên cạnh đó chủng loại hàng
hóa của Trung Quốc được đánh giá đa dạng về mẫu mã, kiểu dáng, chất lượng hàng
hóa tốt, đặc biệt hàng hóa của Trung Quốc trên thị trường được đánh giá là hàng
hóa có giá rẻ. Điều này đã đe dọa các ngành dệt may tại các nước nhỏ có năng lực
cạnh tranh kém hơn so với Trung Quốc. Nguyên nhân chính của hiện tượng này
chính là giá của các yếu tố đầu vào tương đối rẻ (nhân công, điện, nước sạch,
nguyên vật liệu... chỉ tính riêng với nước ta thì về giá nước sạch cung cấp tại Trung
Quốc chỉ vào khoảng 13 cents/m3 so với nước ta là từ 25-30 cents/m3, ngoài ra cả
hệ thống xử lý nước thải tại nước ta cũng không có quy mô như ở Trung Quốc, nơi
mà các nhà máy tập trung trong các khu công nghiệp cùng sử dụng hệ thống xử lý
nước thải của Nhà Nước với chi phi thấp). Hơn thế nữa chính phủ Trung Quốc luôn
luôn quan tâm tới việc gia tăng xuất khẩu đối với mặt hàng dệt may, nhằm chiếm
lĩnh thị phần thị trường thế giới. Như vậy với những chính sách của chính phủ
Trung Quốc nhằm khuyến khích phát triển ngành công nghiệp dệt may, cộng với
những lợi thế sẵn có thì dệt may Trung Quốc đã và đang là một đối thủ cạnh tranh
lớn nhất trên thị trường dệt may thế giới.
2.4.2 Hàng may mặc Ấn Độ
Được đánh giá đứng sau hàng dệt may Trung Quốc thì hàng may mặc của ấn
Độ đang có những bước tiến mạnh mẽ trên thị trường dệt may của thế giới. Theo
các thống kê cho thấy, ngành công nghiệp dệt may ấn Độ thu hút hơn 35 triệu lao
động, những năm qua tiêu thụ nội địa đạt khoảng 18 tỷ USD, xuất khẩu thu khoảng
20 tỷ USD ( năm 2005), khi tham gia vào thị trường dệt may tự do toàn cầu sẽ cho
doanh thu khoảng 65 tỷ USD vào năm 2010. Theo các quan chức ước tính thì vào
năm 2010 thì ấn Độ và Trung Quốc sẽ chiếm hơn 60% thị trường buôn bán dệt may
thế giới với giá trị khoảng 400 tỷ USD. Số liệu thống kê của tạp chí phố Wall thì
trong tháng 9 năm 2004, giá trị nhập khẩu đồ thêu và dệt may vào Mỹ từ ấn Độ là
2,76 tỷ USD trong khi nước ta là 2,17 tỷ USD, ngoài ra khi tập trung vào thị trường
EU thì hàng may mặc ấn Độ cũng tỏ rõ sức mạnh của mình khi trong năm 2005
Khoa Kinh tÕ & Qu¶n lý Trêng §HBK Hµ Néi
§å ¸n tèt nghiÖp NguyÔn V¨n HiÕn – Marketing K47
nước này xuất khẩu đạt 2.430,3 triệu USD, so với số liệu cùng kỳ năm ngoái cho
thấy mức tăng là 4,8% về số lượng, tăng 17,1% về giá trị. Sức mạnh của hàng dệt
may ấn Độ là ở những yếu tố chất lượng và mẫu mã của hàng hóa, cũng như sự
chấp nhận được về mặt giá cả. Ngoài ra ấn Độ có nguồn cung cấp nguyên liệu thô
(bông) sẵn có, giá thành lao động rẻ và kỹ năng tiếp thị sáng tạo của nhà xuất khẩu
ấn Độ...Chính vì vậy ngành dệt may của ấn Độ có một tiềm lực phát triển vô cùng
to lớn.
Năm 2006, nhiều công ty dệt may lớn của ấn Độ đã tập trung liên kết lại với
nhau để tạo thế mạnh cho nền công nghiệp này, họ liên kết từ sản xuất sợi đến sản
xuất hàng may mặc. Công ty KSA technopak dự tính trong ba, bốn năm tới ngành
dệt may ấn Độ cần 20- 30 tỷ USD vốn đầu tư so với mức vài tỷ USD các năm qua.
Nhận đầu tư trực tiếp vốn nước ngoài là một giải pháp về vấn đề huy động vốn để
mở rộng, mở thêm những cở sở sản xuất kinh doanh hiện đại, và điều này đã được
thể hiện qua các chính sách thu hút đầu tư của chính phủ ấn Độ trong thời gian qua.
Như vậy hàng dệt may của ấn Độ có đầy đủ nhân tố để trở thành một đối thủ
cạnh tranh đáng gờm. Có thể thấy dệt may ấn Độ chỉ đứng sau Trung Quốc và hai
quốc gia này đã và đang trở thành những đối thủ cạnh tranh lớn nhất trên thị trường
dệt may thế giới. Cả hai quốc gia này đều có nhiều thuận lợi về yếu tố đầu vào như
nguyên vật liệu tại chỗ, giá, nhân công, tính chuyên môn hóa cao....
2.4.3 Hàng may mặc từ các nước khác
Nền công nghiệp dệt may luôn là ngành có đóng góp nhiều cho xuất khẩu tại
các nước đang phát triển như Cam-pu-chia, xuất khẩu dệt may là nguồn thu ngoại tệ
lớn nhất, chiếm tới 80% tổng kim ngạch xuất khẩu với giá trị 1,4 tỷ USD/năm. Trên
bản đồ kinh tế thế giới trong lĩnh vực dệt may thì các nước đang phát triển luôn có
lợi thế về mặt nhân công, lao động với giá rẻ, đặc biệt là được các nước khác có
chính sách hỗ trợ thương mại do đó họ luôn có lợi thế so sánh. Tuy nhiên trong thời
gian gần đây Trung Quốc và ấn Độ đã chiếm lĩnh phần lớn thị phần hàng may mặc
thế giới, đẩy các nước yếu hơn vào thế bất lợi. Thị phần của các nước liên tiếp bị
giảm xuống trong một vài năm gần đây, đặc biệt là sau khi chế độ hạn ngạch dệt
may toàn cầu (MFA) chấm dứt hiệu lực vào ngày 31/12/2004 thì tình hình càng khó
khăn hơn cho các nước có nền kinh tế đang và kém phát triển, khi mà nền kinh tế
Khoa Kinh tÕ & Qu¶n lý Trêng §HBK Hµ Néi
§å ¸n tèt nghiÖp NguyÔn V¨n HiÕn – Marketing K47
phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu. Theo các phân tích của AFP, ngành dệt may
Philippines đối mặt với thách thức gay go đó là giá nhân công cao và lực lượng lao
động không ổn định của nước này, trong khi đó sự cạnh tranh càng ngày càng khốc
liệt hơn. Tại Bangladesh khoảng 3.500 nhà máy may mặc, sử dụng gần 2 triệu lao
động (hơn 80% là nữ) hàng năm đóng góp 75% tổng kim ngạch xuất khẩu. Hiệp hội
xuất khẩu và sản xuất quần áo nước này tính rằng một phần ba trong số các nhà máy
của ngành phải đóng cửa và sa thải từ 200.000 đến 300.000 lao động trong năm
2010, trong khi ngành công nghiệp dệt may tại Srilanka có nguy cơ phá sản.
Điều này đòi hỏi các nước phải có một chính sách liên minh với nhau nhằm
cứu vãn nền công nghiệp dệt may trong thời gian tới, đồng thời nâng cao khả năng
cạnh tranh của ngành công nghiệp dệt may đất nước mình.
2.4.4 Đánh giá về các đối thủ
Ưu điểm:
Tại các nước trên, ngành công nghiệp dệt may được tập trung trong các khu
công nghiệp, từ đó dẫn đến việc tăng hiệu quả theo quy mô, giảm các chi phí cố
định trên một đơn vị sản phẩm, tạo ra một sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh
nghiệp trong ngành, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa. Đặc biệt là Trung
Quốc đã có những khu công nghiệp dành riêng cho ngành dệt với quy mô lớn.
Các đối thủ cạnh tranh đều có nguồn lao động dồi dào, giá nhân công lao
động rẻ, giá các yếu tố đầu vào rẻ, các doanh nghiệp trong nước chủ động được các
nguồn nguyên liệu của mình. Ngoài ra các doanh ngiệp còn chủ động tiến hành các
biện pháp marketing sáng tạo, những người Trung Quốc đã lập được một hiệp hội
kinh doanh hàng dệt may tại Đức và hiện nay họ đang ngày càng nỗ lực đưa hàng
dệt may Trung Quốc với giá rất rẻ tấn công áp đảo các đối thủ tại thị trường này.
Được sự tập trung và hỗ trợ của chính phủ nhằm thúc đẩy phát triển của
ngành công nghiệp dệt may, cho nên các doanh nghiệp luôn được sự giúp đỡ của
chính phủ trong lĩnh vực xúc tiến thương mại, cung cấp thông tin thương mại, đồng
thời đưa ra các cảnh báo rủi ro đối với các doanh nghiệp khi tiến hành kinh doanh
hàng may mặc ra thị trường nước ngoài. Điều này vừa giúp doanh nghiệp thành
công trong việc tiếp cận thị trường nước ngoài, đồng thời chính phủ cũng đạt được
hiệu quả trong các chính sách kinh tế vĩ mô, thu hút ngoại tệ, đảm bảo công ăn việc
Khoa Kinh tÕ & Qu¶n lý Trêng §HBK Hµ Néi
§å ¸n tèt nghiÖp NguyÔn V¨n HiÕn – Marketing K47
làm, kiểm soát được tình hình thất nghiệp lạm phát, và tạo ra môi trường hấp dẫn
thu hút các nhà đầu tư vào nước mình.
Hàng may mặc tại các nước này cũng tập trung vào phát triển thương hiệu từ
rất lâu, và cho tới nay những mẫu mã và nhãn hiệu hang hóa đến từ Trung Quốc, ấn
Độ đã và đang được thừa nhận tại thị trường khó tính như thị trường EU, nơi mà các
nhãn hiệu thời trang lâu đời cũng như các trung tâm thời trang cao cấp của thế giới
đều tập trung tại đây. Theo một cuộc điều tra công bố thì 60% số người được hỏi
đều nghĩ rằng các công ty may HongKong được biết đến là trong lĩnh vực quần áo
thông dụng và quần áo mặc đi phố, họ có tiềm năng để phát triển thương hiệu của
riêng mình. Và khi so sánh giữa các thương hiệu các khu vực thì các thương hiệu
HongKong có khả năng cạnh tranh cao về mặt thiết kế hơn là giá cả.
Ngành công nghiệp dệt may tại các nước kém phát triển, những nước mà nền
công nghiệp may mặc được bảo hộ thường được hỗ trợ từ các nước phát triển hay từ
các chính phủ của các nươc đó. Liên minh Châu Âu đã tập trung các chính sách
nhằm củng cố sức cạnh tranh của ngành dệt may EU để tránh các tổn thất do hàng
hóa may mặc tại các nước thứ ba tràn ngập vào EU. EU đã tập trung củng cố và
phát triển lĩnh vực có giá trị gia tăng cao, ủy ban EEC đề nghị tài trợ 400 triệu Euro
dành cho nghiên cứu và phát triển (R&D) trong lĩnh vực dệt may, tập trung nghiên
cứu các loại chất liệu đặc biệt ( dựa trên nền tảng một nền công nghiệp phát triển
lâu đời và hiện đại).
Nhược điểm
Hàng may mặc Trung Quốc và ấn Độ do tốc độ chiếm lĩnh thị trường một
cách nhanh chóng đã gây một mối lo ngại cho các nước thuộc EU và các nước xuất
khẩu hàng may mặc khác. EU đã đề nghị Bắc Kinh áp dụng các biện pháp chế tài để
siết chặt lượng hàng xuất khẩu, kể cả việc hạn chế nhập nguyên phụ liệu bằng vốn
vay ưu đãi của Nhà Nước, trong năm 2006 do hàng may mặc Trung Quốc xuất khẩu
quá nhiều vào EU với giá thấp khiến cho EU phải tăng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm may mặc của Công ty cổ phần May Thăng Long tại thị trường EU.pdf