Tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh hàng nông thủy sản xuất khẩu của nước ta: 2
Luận Văn
Một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh
hàng nông thủy sản xuất khẩu của nước ta
3
CHƯƠNG I
THỰC TRẠNG SẢN XUẤT MỘT SỐ MẶT HÀNG
NÔNG THỦY SẢN CHỦ ĐẠO CỦA NƯỚC TA
TRONG NHỮNG NĂM QUA
I-Khả năng để sản xuất một số mặt hàng nông thủy sản xuất
khẩu:
1-Điều kiện tự nhiên:
a-Tiềm năng đất đai:
Lãnh thổ Việt Nam có diện tích là 331.688 km2(1), xấp xỉ 33 triệu ha,
trong đó vùng miềm núi và trung du chiếm gần 3/4 diện tích. Quỹ đất canh tác
hiện nay là 8,2 triệu ha và có thể mở rộng diện tích canh tác lên 10 triệu ha hoặc
cao hơn; trong đó có một phần đất bằng, đa số là đất dốc dưới 15 độ. Diện tích
đất canh tác hiện nay chiếm 25,1% tổng diện tích, trong đó diện tích canh tác
lúa đạt 4,2 triệu ha, diện tích gieo trồng là 6,8 triệu ha chiếm tỉ lệ 51,2%; diện
tích trồng cà phê là 310.000 ha (năm 1998) chiếm tỉ lệ 3,77%; diện tích trồng
cao su là 363.400 ha (năm 1998) chiếm tỉ lệ 4,42%(2); diện tích nuôi trồng thủy
sản là 372.000 h...
44 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1042 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh hàng nông thủy sản xuất khẩu của nước ta, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2
Luận Văn
Một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh
hàng nông thủy sản xuất khẩu của nước ta
3
CHƯƠNG I
THỰC TRẠNG SẢN XUẤT MỘT SỐ MẶT HÀNG
NÔNG THỦY SẢN CHỦ ĐẠO CỦA NƯỚC TA
TRONG NHỮNG NĂM QUA
I-Khả năng để sản xuất một số mặt hàng nông thủy sản xuất
khẩu:
1-Điều kiện tự nhiên:
a-Tiềm năng đất đai:
Lãnh thổ Việt Nam có diện tích là 331.688 km2(1), xấp xỉ 33 triệu ha,
trong đó vùng miềm núi và trung du chiếm gần 3/4 diện tích. Quỹ đất canh tác
hiện nay là 8,2 triệu ha và có thể mở rộng diện tích canh tác lên 10 triệu ha hoặc
cao hơn; trong đó có một phần đất bằng, đa số là đất dốc dưới 15 độ. Diện tích
đất canh tác hiện nay chiếm 25,1% tổng diện tích, trong đó diện tích canh tác
lúa đạt 4,2 triệu ha, diện tích gieo trồng là 6,8 triệu ha chiếm tỉ lệ 51,2%; diện
tích trồng cà phê là 310.000 ha (năm 1998) chiếm tỉ lệ 3,77%; diện tích trồng
cao su là 363.400 ha (năm 1998) chiếm tỉ lệ 4,42%(2); diện tích nuôi trồng thủy
sản là 372.000 ha.
Diện tích nước ta vào loại trung bình trên thế giới (đứng thứ 56 / hơn 200
quốc gia), nhưng do dân số đông nên bình quân đất đai tính theo đầu người chỉ
đạt 0,5 ha/ người (năm 1992) và bình quân đất canh tác là 0,1 ha / người.
Đất đai nước ta rất phức tạp và đa dạng về loại hình, nhưng chủ yếu phân
thành hai nhóm: nhóm đất núi và nhóm đất hình thành trên sản phẩm bồi tụ.
Nhóm thứ nhất chiếm khoảng 1/2 diện tích tự nhiên với hơn 16,5 triệu ha
chủ yếu là các loại đất feralit. Loại đất này được hình thành trong quá trình
phong hoá nhiệt đới, có tầng đất sâu, dày, ít mùn, chua và thường có mầu vàng
(1): Địa lý kinh tế Việt Nam PGS -PTS Lê Thông - 1997
(2): Báo cáo nghiên cứu: Tổng quan về ngành nông nghiệp Việt Nam. Tác động của Hiệp
định WTO về nông nghiệp - Bộ Thương mại (12/1999). Dự án VIE 95/024/A/01/99 trang 9
4
đỏ. Đất feralit đặc biệt là đất đỏ bazan (có hơn 2 triệu ha ở Tây Nguyên và
Đông Nam Bộ) thích hợp cho việc trồng các loại cây công nghiệp dài ngày
trong đó có cà phê, cao su.
Nhóm đất thứ hai tập trung ở các châu thổ và dọc theo các thung lũng
rộng lớn. Đây là loại đất trẻ mầu mỡ. Trong nhóm đất này thì phì nhiêu hơn cả
là đất phù sa với diện tích 3,12 triệu ha, phân bố chủ yếu ở đồng bằng sông
Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Loại đất này có độ PH trung tính, hàm
lượng dinh dưỡng khá thích hợp cho việc trồng lúa và nhiều loại cây khác.
Hiện nay, quỹ đất mà chúng ta đã đưa vào sử dụng (cho mục đích nông
nghiệp, lâm nghiệp, chuyên dùng và cư trú) là 18.881.240 ha(1), chiếm khoảng
57% tổng quỹ đất; đất chưa sử dụng là 14.217.845 ha(2), chiếm 43%. Quỹ đất
thuận lợi cho trồng lúa hầu như đã khai thác hết. Để nâng cao sản lượng lúa,
nông dân chỉ còn cách tăng vụ để nâng cao hệ số sử dụng đất và đầu tư thâm
canh. Quỹ đất thuận lợi cho trồng cây công nghiệp dài ngày có hơn 2 triệu ha,
song mới chỉ khai thác được rất ít chủ yếu là cao su (363.400 ha năm 1998), cà
phê (310.000 ha năm 1998)(3). Tóm lại, quỹ đất của chúng ta không nhiều song
đất đai lại thuận lợi cho việc trồng lúa và cây công nghiệp dài ngày. Nếu chúng
ta biết quản lý và sử dụng tốt quỹ đất hiện có thì sản lượng sẽ không ngừng
được tăng lên.
(1), (2), (4), (5): Địa lý kinh tế Việt Nam - Lê Thông -1997
(3): Báo cáo nghiên cứu: Tổng quan về ngành nông nghiệp Việt Nam. Tác động của Hiệp
định WTO về nông nghiệp –Bộ Thương mại (12/1999). Dự án VIE 95/024/A/01/99 trang 9.
5
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I THỰC TRẠNG SẢN XUẤT MỘT SỐ MẶT HÀNG NÔNG THỦY SẢN CHỦ
ĐẠO CỦA NƯỚC TA
3
1.1 Lư luận về cạnh tranh ......................................................................................... 3
1.1.1 Định nghĩa cạnh tranh ............................................................................... 3
1.1.2 Phõn loại cạnh tranh .......................................................................................... 5
1.1.2.1 Căn cứ vào cỏc chủ thể kinh tế tham gia vào thị trường .................................. 5
1.1.2.2 Căn cứ vào tính chất và mức độ ...................................................................... 6
1.1.2.3 Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế .................................................................. 6
1.1.3 Tỏc động của cạnh tranh đối với nền kinh tế....................................................... 7
1.2 Lư luận về năng lực cạnh tranh.......................................................................... 9
1.2.1 Định nghĩa năng lực cạnh tranh .......................................................................... 9
1.2.2 Cỏc tiờu chớ đánh giá năng lực cạnh tranh ....................................................... 10
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh : ............................................. 13
1.2.3.1 Cỏc nhõn tố bờn ngoài doanh nghiệp ............................................................. 13
1.2.3.2 Cỏc nhõn tố bờn trong ....................................................................................... 14
6
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HÀNG NÔNG SẢN
XUẤT KHẨU VIỆT NAM 15
2.1 T́nh h́nh xuất khẩu nông sản Việt Nam ........................................................... 15
2.2 Thực trạng năng lực cạnh tranh của nụng sản xuất khẩu Việt Nam............. 25
2.3 Đánh giá chung về năng lực cạnh tranh của nông sản xuất khẩu Việt Nam...... 31
2.3.1 Những thành tựu đă đạt được............................................................................ 31
2.3.2 Những tồn tại.................................................................................................... 32
2.3.3 Nguyờn nhõn của tồn tại................................................................................... 34
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NÔNG SẢN
XUẤT KHẨU VIỆT NAM. 36
KẾT LUẬN 41
TÀI LIỆU THAM KHẢO
b-Tiềm năng nước và khí hậu:
Nước cũng như đất là vấn đề sống còn của mỗi quốc gia nói chung và của
nền nông nghiệp nói riêng. Tài nguyên nước của Việt Nam khá phong phú bao
gồm nước trên mặt và nước dưới đất.
Hàng năm, lượng nước mưa cung cấp cho lãnh thổ nước ta trên 900 tỷ m3
nước(4). Lượng mưa lớn đã tạo cho nước ta một mạng lưới sông ngòi dày đặc
với 2345 con sông(5) dài trên 10 km, mật độ sông ngòi là 0,5-2,0 km/km2, trung
bình cứ 20 km bờ biển lại có một cửa sông. Tổng lượng dòng chảy hàng năm
7
phát sinh trên đất nước ta là 317 tỷ m3(1). Xét về mặt hoá tính, nước sông ngòi
Việt Nam có chất lượng tốt, độ khoáng hoá thấp, ít biến đổi, độ PH trung tính và
hàm lượng chất hữu cơ thấp.
Nguồn nước trên mặt của nước ta khá dồi dào nên chỉ cần khai thác 10-
15% trữ lượng nói trên là đảm bảo nhu cầu cho sản xuất và đời sống. Hiện nay,
nông nghiệp là ngành tiêu thụ nhiều nước nhất. Mức tiêu thụ năm 1990 là 47 tỷ
m3, năm 2000 là 60,5 tỷ m3. Tuy nhiên, do tổng lượng dòng chảy sông ngòi lớn
lại phân bố không đều, mùa mưa lượng dòng chảy chiếm tới 70-80%, mùa khô
chỉ chiếm 20-30% tổng lượng dòng chảy cả năm nên lũ lụt, hạn hán là mối đe
doạ thường xuyên đối với sản xuất nông nghiệp.
Nguồn nước ngầm ở nước ta có trữ lượng khá lớn, có thể cho sản lượng
130 triệu m3/ ngày.
Có thể nói, tiềm năng nước của chúng ta còn khá dồi dào, đủ cung cấp
cho mọi hoạt động trong đó có nông nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay, nguồn nước
đang bị nạn ô nhiễm đe doạ nghiêm trọng, ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng
của cây và độ an toàn vệ sinh thực phẩm.
Khí hậu gió mùa mang tính chất chí tuyến ở phía Bắc và tính chất xích
đới ở phía Nam là một khả năng lớn để phát triển một nền nông nghiệp đa dạng,
toàn diện.
Tác động của khí hậu đối với nông nghiệp nước ta trước hết là việc cung
cấp một lượng bức xạ lớn, nguồn ánh sáng dồi dào, nguồn nhiệt phong phú cho
cây trồng phát triển, đảm bảo cho cây có năng suất cao. Tiếp đó lượng ẩm
không khí và lượng mưa dồi dào tạo điều kiện cho cây trồng tái sinh, tăng
trưởng mạnh mẽ. Điều kiện sinh thái nóng ẩm giúp cho cây ngắn ngày có thể
tăng thêm một đến hai vụ một năm, cây dài ngày có thể khai thác được nhiều
đợt, nhiều lứa.
Khí hậu nước ta phân hoá mạnh theo chiều Bắc-Nam và theo độ cao. Khí
hậu miền Bắc có tính á nhiệt đới, miền Nam có tính á xích đạo, miền Trung có
(1): Địa lý kinh tế Việt Nam Lê Thông 1997
8
tính chất trung gian, chuyển tiếp giữa khí hậu miền Bắc và miền Nam. Sự phân
hoá theo vĩ độ và độ cao cho phép nước ta trồng được nhiều loại cây, cả cây
nhiệt đới, ôn đới, á nhiệt.
Ngoài ra, sản xuất nông nghiệp cần rất nhiều loại phân bón mà các hộ
nông dân ở nước ta đều có thể sản xuất các loại như phân chuồng, phân
xanh...hoặc phân chế biến từ dầu thô mà dầu ở nước ta lại có trữ lượng lớn chưa
khai thác hết công suất hay chế biến từ quặng (quặng Apatít ở Lào Cai).
Nước ta có 3260 km đường bờ biển, hàng nghìn km2 diện tích mặt hồ, ao,
đầm, sông ngòi để đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản. Thủy hải sản nước ta có
nhiều loại phong phú có giá trị xuất khẩu cao.như: cá ngừ, cá thu, cá mực, tôm
hùm, tôm sú. Cá nước ngọt thì có cá basa, cá tra, ngọc trai...
Tóm lại, điều kiện tự nhiên của nước ta là cơ sở khá thuận lợi để chúng ta
tăng cường phát triển sản xuất nông sản phục vụ nhu cầu cuộc sống và xuất
khẩu.
2-Tiềm năng lao động:
Theo số liệu thống kê của cuộc tổng điều tra dân số 1-4-1999 dân số nước
ta là 76,37 triệu người. Lực lượng lao động là 46 triệu người chiếm xấp xỉ 60%
dân số. Có tới gần 80% dân số sống ở nông thôn, trong đó lực lượng lao động ở
nông thôn khoảng 33 triệu người chiếm 72% lao động toàn xã hội. Do tỉ lệ tăng
dân số hiện nay giảm xuống còn 1,7%/năm nên hàng năm có khoảng 1,3 triệu
người(1) tham gia lực lượng lao động trong đó lao động nông thôn chiếm khoảng
1 triệu người. Lao động nông nghiệp Việt Nam như vậy là quá ư dồi dào, có
truyền thống cần cù, chịu khó, thông minh, ham học hỏi. Người nông dân Việt
Nam chủ yếu là làm nông nghiệp, gắn bó với mảnh đất của mình nên tích lũy
được nhiều kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp. Song do phần lớn trong số này
có trình độ tương đối thấp nên khả năng tiếp nhận, ứng dụng các thành tựu khoa
học nông nghiệp còn chậm. Tuy nhiên, từ sau khi đất nước đổi mới đến nay, đời
(1): Nguồn nhân lực Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - Hà Quý Tình. Tạp chí Cộng
sản số 7 (4/1999) trang 21
9
sống kinh tế khá lên, một bộ phận lớn nông dân nhất là lao động trẻ đã học qua
phổ thông, có đủ trình độ tiếp nhận và tham gia các chương trình khuyến nông
khá hiệu quả; nghiên cứu các giống mới, môi trường sinh thái mới để nuôi trồng
và áp dụng ở một số vùng một cách rất thành công.
3-Chính sách phát triển nông ngư nghiệp, nông thôn của Nhà nước:
Một thời kì dài, nền nông nghiệp của nước ta phát triển rất chậm, cơ cấu
không phù hợp, sản lượng thấp, cung không đáp ứng được cầu. Từ sau thời kì
đổi mới, nền nông nghiệp có bước phát triển vượt bậc. Khoán 10 là một thí dụ
sinh động về ảnh hưởng của chủ chương, chính sách của Nhà nước đến sự phát
triển của nông nghiệp. Khoán 10 cho phép các hộ nông dân được tự do canh tác
trên mảnh đất của mình, được đầu tư thâm canh, ứng dụng các tiến bộ khoa học
kỹ thuật nhằm đạt sản lượng cao, chất lượng tốt. Các hộ nông dân chỉ phải đóng
thuế theo định mức cho Nhà nước và trả tiền các dịch vụ mà họ sử dụng. Thực
tế, hình thức khoán này đã khuyến khích được nông dân tăng cường đầu tư, tăng
năng suất lao động, làm lợi cho mình và làm lợi cho xã hội.
Sau khoán 10, năm1994 Nhà nước lại ban hành Luật đất đai, trong đó quy
định thời gian sử dụng ruộng đất kéo tới 30 năm. Nông dân có quyền bán,
nhượng lại, thừa kế...Điều này đã làm cho họ gắn bó với mảnh ruộng hơn, yên
tâm với sản xuất. Đại hội Đảng khoá VIII đã đề ra chủ trương đưa đất nước ta
vào thời kỳ CNH-HĐH; trong đó có một vấn đề quan trọng là CNH-HĐH nông
nghiệp và phát triển nông thôn. Để thực hiện chiến lược này, Nhà nước đã đề ra
một loạt các chính sách như chính sách xoá đói giảm nghèo, chính sách khuyến
nông, phát triển khoa học công nghệ, chính sách ưu đãi tín dụng, chính sách hỗ
trợ giá nông sản, quy định giá trần, giá sàn.
Ngoài ra, Nhà nước còn có các chương trình và mô hình như : chương
trình giải quyết việc làm, chương trình dân số kế hoạch hoá gia đình, chương
trình tăng cường y tế và giáo dục cơ sở, mô hình điện, đường, trường, trạm...Tất
cả các chương trình này có một ý nghĩa và hiệu quả tích cực đối với sự phát
triển của nông nghiệp và nông thôn. Năm 1999, tổng vốn đầu tư cho nông
10
nghiệp nông thôn của Nhà nước tăng gấp rưỡi đất với năm 1998 (1), chủ yếu tập
trung vào các công trình thuỷ lợi, giao thông, điện và các công trình phúc lợi
khác. Công tác nghiên cứu, tìm tòi các giống cây, con mới cũng được đẩy mạnh
và đạt nhiều thành tựu. Công tác chăm sóc bảo vệ thực vật, động vật cũng được
quan tâm chú ý; đã có Chương trình trồng 5 triệu ha rừng với số vốn dự tính là
hơn 30.000 tỷ đồng (thực tế năm 1999 chỉ chi 328 tỷ đồng), Chương trình 135
giao cho xã làm chủ dự án. Sự ra đời của các dịch vụ nông nghiệp như cung ứng
giống, phân bón, thuốc trừ sâu, vận tải, vật liệu đã góp phần rất lớn vào sự thành
công của nông nghiệp Việt Nam trong mấy năm gần đây.
Đối với ngành thủy sản thì năm năm qua là thời kì phát triển mới của
ngành. Với phương châm kết hợp giữa khai thác với nuôi trồng và chế biến xuất
khẩu đã làm tăng chất lượng và hiệu quả sản xuất gắn với bảo vệ tài nguyên môi
trường. Thực hiện phương châm đó, một mặt Nhà nước khuyến khích các thành
phần kinh tế, khai thác mọi tiềm năng về vốn và kinh nghiệm; mặt khác tập
trung vốn ngân sách, vốn tín dụng ưu đãi cho ngành thủy sản, tập trung nguồn
vốn ngân sách cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và chế biến
thủy sản; ứng dụng tiến bộ sinh học trong chọn và lai tạo giống đi đôi với công
nghiệp hoá sản xuất thức ăn, mở rộng nuôi các loại thủy sản có giá trị tiêu dùng
và xuất khẩu khác như nghêu (Trà Vinh, Bến Tre), sò huyết (Kiên Giang, Bạc
Liêu, Cà Mau, duyên hải miền Trung), ba ba, ếch...Phát triển công nghiệp chế
biến thủy sản theo chiều sâu, gắn với xuất khẩu.
II-Tình hình sản xuất một số mặt hàng nông thủy sản xuất khẩu
trong mấy năm gần đây:
1-Tình hình sản xuất lúa gạo:
Việt nam là một nước nông nghiệp, có tập quán canh tác lúa nước lâu đời.
Cây lúa là sản phẩm chính của nền nông nghiệp. Nó không những góp phần bảo
(1): Khoa học và công nghệ phục vụ CNH-HĐH nông nghiệp và phát triển nông thôn-Đặng
Hữu-Tạp Chí Cộng sản số 17 (9/2000) trang 34
11
đảm đời sống cho nhân dân, mà trong thời kỳ hiện nay nó còn góp một phần rất
lớn vào giá trị tổng kim ngạch xuất khẩu thúc đẩy sự nghiệp CNH- HĐH đất
nước. Nhờ có các chính sách đổi mới mà sản lượng lúa gạo đã tăng hàng năm.
Bảng 1: Tình hình sản xuất lúa gạo một số năm
Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
Sản lượng
(Triệu tấn)
19,6 21,6 22,8 23,5 24,9 26,4 27,6 29,1 31,4 32,8
% so sánh 100 110 106 103 106 106 104,5 105,4 108 104,5
Nguồn: Báo cáo nghiên cứu: Tổng quan về ngành nông nghiệp Việt Nam. Tác động của Hiệp
định WTO về nông nghiệp - Bộ Thương Mại (12/1999). Dự án VIE 95/024/A/01/99 trang 9
Bảng trên cho thấy, tỉ lệ tăng tổng sản lượng lúa gạo qua các năm tuy
không ổn định (một phần do thiên tai , lũ lụt) nhưng tăng khá cao, trung bình
5,9% /năm. Tỉ lệ này cao hơn tỉ lệ tăng dân số trung bình hàng năm (1,8%) nên
đảm bảo đủ cung cấp cho nhu cầu trong nước và dư thừa để xuất khẩu. Trong
10 năm từ 1991 đến 2000, sản lượng lúa gạo đã tăng được 13,2 triệu tấn , một
mức tăng kỉ lục từ trước đến nay.
Sản lượng lúa gạo trong những năm qua tăng lên chủ yếu do hai yếu tố là
do tăng diện tích canh tác / diện tích gieo trồng và năng suất, trong đó quan
trọng nhất là tăng năng suất. Năm 1987, diện tích canh tác lúa là 3,5 triệu ha,
diện tích gieo trồng là 5,6 triệu ha. Năm 1997, số liệu tương ứng là 4,2 và 6,8(1),
tăng 20% và 21,4%. Nhìn chung, từ năm 1997 đến nay diện tích canh tác và
diện tích gieo trồng ổn định vì khả năng mở rộng diện tích canh tác là rất khó.
Năm 1987, năng suất lúa bình quân là 27 tạ/ha, năm 1997 là 40 tạ/ha tăng 48%.
Trong đó, năng suất lúa ở các vùng sản xuất lúa gạo chủ yếu như đồng bằng
(1): Nông nghiệp bền vững và sản xuất lương thực ở Việt Nam - Vũ Tuyên Hoàng – Tạp
chí Cộng sản số 22 (11/1998 ) trang 16
12
sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long rất cao, đạt trung bình trên 60 tạ/ha. Dự
kiến, trong những năm tới khi dân số của nước ta ngày một tăng trong khi diện
tích canh tác lúa có hạn thì tăng năng suất là việc rất quan trọng, đóng vai trò
chủ đạo giữ vững an ninh lương thực và góp phần xuất khẩu. Kế hoạch đến năm
2020, năng suất lúa bình quân phải đạt 59,4 tạ/ha.
Do sản lượng lúa gạo liên tục tăng cao hơn tỉ lệ tăng dân số nên lương
thực bình quân đầu người cũng liên tục tăng.
Bảng 2: Bình quân lương thực đầu người
Năm 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
Lương thực /
người (kg)
325 372 349 359 361 372 387 398 408 411 420
% so sánh 100 115 108 111 112 115 120 123 126 127 130
Nguồn: Xuất khẩu gạo ở Việt Nam - 10 năm nhìn lại - Nguyễn Sinh Cúc.
Tạp chí Cộng sản số 7 (4/1999) trang 45
Bảng trên cho ta thấy, bình quân lương thực đầu người của nước ta tăng
khá đều đặn, duy chỉ có năm 1991 là đột biến. Dự kiến đến năm 2020 dân số
nước ta là 105 triệu người, sản lượng lương thực quy thóc đạt 52,5 triệu tấn thì
bình quân lương thực sẽ đật 500 kg/ người(1).
Ngoài sản lượng, trong sản xuất lúa gạo, chúng ta cũng đặc biệt quan tâm
đến chất lượng; có như vậy mới đảm bảo đủ tiêu chuẩn xuất khẩu và cạnh tranh
được với các cường quốc xuất khẩu khác. Để đáp ứng yêu cầu tăng sản lượng
và tăng chất lượng, những năm qua các nhà khoa học đã không ngừng nghiên
cứu, cải tiến các giống lúa, nhằm tạo ra những giống có hiệu quả kinh tế cao
nhất. Các giống đã được đưa vào gieo trồng có thể kể đến như : IR64, OM1490,
OM2031, VND95-20, MTL250, IR62032, P4, P6... Ngoài giống, các biện pháp
kĩ thuật khác cũng không ngừng được cải tiến như kĩ thuật gieo trồng, quản lí
dịch bệnh, bón phân theo bảng màu lá lúa, tưới tiêu theo khoa học, ứng dụng
(1): Nông nghiệp bền vững và sản xuất lương thực ở Việt Nam - Vũ Tuyên Hoàng - Tạp
chí Cộng sản số 22 (11/1998) trang 18
13
các công nghệ sau thu hoạch như: sơ chế, bảo quản, dự trữ. Công nghệ đánh
bóng, xay xát gạo xuất khẩu cũng luôn được đổi mới về máy móc thiết bị. Nhờ
đó, chất lượng gạo Việt Nam đã được cải thiện đáng kể, có uy tín trên thị trường
xuất khẩu thế giới.
2-Tình hình sản xuất cà phê:
Cà phê là cây lấy hạt để chế biến làm đồ uống. Từ năm 1930, cà phê đã
được du nhập vào nước ta và tỏ ra thích hợp với sinh thái từ vĩ tuyến 20 độ Bắc
trở vào, đặc biệt là thích hợp với vùng đất bazan ở Tây Nguyên và Đông Nam
Bộ. Cà phê ở nước ta có 3 giống là cà phê vối (coffee Robusta), cà phê mít
(coffee Excelsa), cà phê chè (coffee Arabica). Trong 3 giống chỉ có cà phê vối
là thích hợp nhất (chiếm 95%) với điều kiện sinh thái. Tuy nhiên, do xuất xứ ở
các vùng núi cao, nên khi đưa xuống các thung lũng có biên độ nhiệt lớn cà phê
vối hay có bệnh rỉ sắt.
Sau giải phóng Miền Nam 1975, chúng ta chỉ có 11.400 ha, sản lượng
6800 tấn nhân. Đến năm 1980, diện tích cà phê tăng lên 22.500 ha nhưng sản
lượng chỉ đạt 8400 tấn (do 1/2 diện tích mới trồng). Năm 1994, diện tích cà phê
là 123.000 ha, tăng so với năm 1980 là 5,5 lần; sản lượng là 166.400tấn, tăng
19,8 lần. Năm 1997, diện tích cà phê là 270.000 ha, tăng so với năm 1994 là
2,19 lần; sản lượng là 400.300 tấn, tăng so với năm 1994 là 2,4 lần. Năm 1998,
diện tích cà phê là 310.000 ha, tăng 1,14 lần so với năm 1997; sản lượng là
430.000 tấn, tăng 1,07 lần so với năm 1997(Bảng 3).
Bảng 3: Diện tích và sản lượng cà phê một số năm
Năm 1975 1980 1994 1997 1998
Diện tích (1000ha) 11.4 22,5 123 270 310
Sản lượng (1000tấn) 6,8 8,4 166,4 400,3 430
14
Nguồn: Báo cáo nghiên cứu: Tổng quan về ngành nông nghiệp Việt Nam. Tác động của Hiệp
định WTO về nông nghiệp - Bộ Thương mại (12/1999). Dự án VIE 95/024/A/01/99 trang 9,10
Ta thấy, tốc độ tăng diện tích và tăng sản lượng của cà phê là cực kì cao.
Vì thị trường tiêu thụ trong nước không lớn (khoảng 5%/năm) nên phần lớn cà
phê sản xuất ra là để xuất khẩu. Năng suất cà phê của nước ta thuộc loại cao
nhất nhì thế giới. Năm 1991 đạt 800 kg/ha trong khi năng suất trung bình của
thế giới chỉ đạt 469 kg/ha. Năm 1994 chỉ số tương ứng là 1353 kg/ha và 492
kg/ha. Năm 1997 chỉ số tương ứng là 1666 kg/ha và 560 kg/ha. Như vậy, trong
7 năm năng suất cà phê tăng lên gấp đôi.
Tuy năng suất cà phê của ta rất cao nhưng do kĩ thuật canh tác và công
nghệ chế biến còn lạc hậu nên chất lượng cà phê xuất khẩu còn chưa cao mặc dù
chỉ là xuất thô tức là xuất khẩu cà phê nhân.
Cà phê nước ta được trồng chủ yếu ở Tây Nguyên. Có tới 75% diện tích
cà phê tập trung ở Đắc Lắc. Số còn lại ở Sông Bé, Đồng Nai và Lâm Đồng (mỗi
nơi chiếm 6% diện tích) và 7% diện tích rải rác ở các tỉnh khác(1). Hiện nay,
chúng ta còn nhiều khả năng mở rộng diện tích canh tác và nâng cao năng suất
cây cà phê.
3-Tình hình sản xuất cao su:
Cao su là một loại cây được trồng lấy mủ để sản xuất ra các loại sản phẩm
có chất cao su. Ở nước ta, loại cây này được trồng chủ yếu ở Tây Nguyên và
Đông Nam Bộ. Diện tích trồng cao su năm 1975 mới chỉ có 75.200 ha thì năm
1998 con số này đã là 363.400 ha, tăng 4,83 lần so với năm 1975(2).
Từ năm 1990 đến nay, các công ty cao su đã mở rộng quy mô sản xuất, áp
dụng công nghệ hiện đại, cơ khí hoá cao, tiết kiệm nhiên liệu và năng lượng,
(1): Thời báo Kinh tế Việt Nam số 31 (3/2001)
(2): Báo cáo nghiên cứu: Tổng quan về ngành nông nhgiệp Việt Nam. Tác động của Hiệp
định WTO về nông nghiệp- Bộ Thương mại (12/1999). Dự án VIE 95/024/A/01/99 trang 22
(3): Công nghiệp chế biến cao su trên đường hội nhập- Nguyễn Đăng Kiều, Nguyễn Hữu
Tiến. Tạp chí Cộng sản số 18(9/2000) trang 50
15
giảm cường độ lao động, bảo đảm an toàn lao động và vệ sinh môi trường...Nếu
trước năm 1989, cả nước mới chỉ có 15 nhà máy tại 10 công ty,thì đến cuối năm
1999 đã có 30 nhà máy tại 19 công ty với tổng công suất thiết kế đạt tới 225.000
tấn/năm(3).
Diện tích và sản lượng cao su từ năm 1990 tăng lên nhanh chóng.
Bảng 4: Diện tích và sản lượng cao su một số năm
Năm 1990 1993 1995 1997 1998
Diện tích (1000ha) 221,7 242,5 278,4 329,4 363,4
Sản lượng (1000tấn) 57,9 96,9 122,7 180,7 190
Năng suất(kg/ha) 261 399,5 440,7 548,5 522,8
Nguồn Báo cáo nghiên cứu:Tổng quan về ngành nông nghiệp Việt Nam.Tác động của Hiệp định
WTO về nông nghiệp -Bộ Thương mại.(12/1999)-Dự án VIE 95/024/A/01/99,trang 9,10,14
Qua bảng trên, ta thấy diện tích và sản lượng cao su tăng nhanh qua các
năm. Năm 1990, diện tích trồng cao su là 221.700 ha với sản lượng đạt ở mức
khiêm tốn 57,9 ngàn tấn. Năm 1993, diện tích là 242,5 ngàn ha, tăng so năm
1990 là 1,09 lần; sản lượng tăng lên rõ rệt là 96,9 ngàn ha, tăng 1,67 lần so với
năm 1990. Đến năm 1995, diện tích và sản lượng là 278,4 ngàn ha và 122,7
ngàn tấn, tăng so với năm 1993 tương ứng là 1,15 lần và 1,27 lần. Năm 1997,
diện tích và sản lượng tăng tương ứng lvới năm 1995 là 1,18 lần và 1,47 lần;
năm 1998 là 1,10 lần và 1,05 lần. Ta thấy, năm 1997, sản lượng cao su tăng một
cách đột biến so với các năm trước. Sản lượng cao su tăng trung bình khoảng
6,27%/năm, năng suất đạt trung bình qua các năm là 435 kg/ha. Từ năm 1990
đến năm 1999 sản lượng cao su đã tăng lên nhanh chóng đạt1050 ngàn tấn(1).
(1): Thuỷ sản Việt Nam sau 18 năm đổi mới 1980-1998. Nguyễn Sinh Cúc. Tạp chí Cộng sản số 20
(10/1998) trang 45.
16
Đây là thành tựu đáng tự hào trong thời gian qua đối với ngành công nghiệp chế
biến cao su Việt Nam.
4- Tình hình sản xuất thủy sản:
Thủy sản là một ngành rất có lợi thế ở Việt Nam vì chúng ta có đường bờ
biển dài, dọc theo chiều dài của đất nước, nguồn thủy sản lại rất phong phú và
đa dạng nên rất thuận lợi cho việc khai thác, nuôi trồng và vận chuyển.
Trong 5 năm 1991-1995, tổng sản lượng thủy sản toàn ngành đạt 6,1 triệu
tấn, tăng 32,4% so với thời kì 1986-1990; riêng năm 1995 đạt 1,58 triệu tấn so
với 969 ngàn tấn năm 1991. Sản lượng thủy sản xuất khẩu trong 5 năm đó đạt
1,35 triệu tấn, doanh thu 1944,3 triệu USD, tăng 43,7% so với 5 năm trước đó;
riêng năm 1995 xuất khẩu đạt 550 triệu USD(1).Năm 1995 so với năm 1991, sản
lượng thủy sản đánh bắt tăng 47,0%; sản lượng nuôi trồng là 402.000 tấn, tăng
gấp 2,39 lần năm 1991(168.000 tấn)(2). Sản lượng thủy sản năm 1998 đạt 1,7
triệu tấn, tăng khoảng 6% so với năm 1997. Sản lượng thủy sản nuôi trồng năm
1998 đạt 450 ngàn tấn, so với 168 ngàn tấn năm 1991 và 417 ngàn tấn năm
1997(3).
Bảng 5: Sản lượng nuôi trồng thủy sản một số năm
Năm 1991 1995 1997 1998 1999 2000
Sản lượng (1000tấn) 168 402 417 450
% so sánh liên hoàn 100 239 103,7 108
Nguồn: Thủy sản Việt Nam sau 18 năm đổi mới (1980-1998)-Nguyễn Sinh Cúc.
Tạp chí Cộng sản số 20 (10/1998) trang 45
Năm 1998, xuất khẩu thủy sản đạt 850 triệu USD, tăng 5% so với năm
1997(4). Năm 2000, ngành thủy sản đã đóng góp 25% vào tổng kim ngạch, xuất
(1),(2): Thuỷ sản Việt Nam sau 18 năm đổi mới 1980-1998. Nguyễn Sinh Cúc. Tạp chí Cộng sản số
20 (10/1998) trang 45
(3): Tổng quan kinh tế- xã hội năm 1998, triển vọng năm 1999. Nguyễn Sinh. Tạp chí Cộng sản số
1 (1/1999) trang 8.
(4): Kinh tế Thế giới 1998-1999: Đặc điểm và triển vọng. Nhà xuất bản chính tri quốc gia trang
260.
(5): Thành tựu 15 năm phát trtiển kinh tế-Nguyễn Cảnh Hưng. Tạp chí Cộng sản số 1 (1/2001)
trang 13.
17
khẩu đạt 1,4 tỉ USD, gấp 2,5 lần năm 1995(5). Đây là một thắng lợi to lớn của
ngành thủy sản do có sự chuyển đổi cơ cấu sản xuất cũng như cơ cấu đầu tư; cơ
cấu mặt hàng và cơ sở chế biến thủy sản xuất khẩu cũng chuyển biến theo
hướng đa dạng hoá gắn với yêu cầu của thị truường; nhiều cơ sở chế biến thủy
sản xuất khẩu được xây dựng mới ở các vùng sản xuất nguyên liệu như Cà
Mau, An Giang thu hút hàng chục nghìn lao động nông nghiệp, góp phần phân
công lại lao động ở nông thôn. Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế
khai thác mọi tiềm năng về vốn và kinh nghiệm, mặt khác tập trung vốn ngân
sách, vốn tín dụng ưu đãi cho ngành thủy sản.
18
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU MỘT SỐ MẶT HÀNG
NÔNG THỦY SẢN XUẤT KHẨU
I-Các thị trường chính và tiềm năng:
1-Các thị trường chính:
Về thị trường xuất khẩu, hiện nay Việt Nam đang xuất khẩu gạo tới trên
50 nước và lãnh thổ(1) ở tất cả các khu vực như châu Á, châu Âu, châu Phi, châu
Mĩ. Trong đó, thị trường châu Á, châu Phi chiếm 70-90%(2) lượng gạo xuất
khẩu hàng năm. Số còn lại là thị trường châu Âu, châu Mĩ. Các nước nhập khẩu
gạo chính của Việt Nam ở châu Á có thể kể đến là Indônêxia, Philippin,
Singapore, các nước vùng Trung Đông. Ở châu Phi có Angiêri, Nigiêria,
Tuynidi, Cônggô, Êtiôpia, Nam Phi, Libi. Ở châu Âu thì chủ yếu là Nga và
Đông Âu. Ở châu Mỉ thì chủ yếu là khu vực Mỉ latinh. Thị trường Châu Á,
Châu Phi rất dễ tính, không đòi hỏi chất lượng thật cao, chỉ cần giá rẻ nên rất
phù hợp với gạo Việt Nam.
Hai năm gần đây và các năm tới, thị trường lúa gạo thế giới cũng như thị
trường của Việt Nam gặp nhiều biến động theo cả 2 chiều hướng tích cực và
tiêu cực. Năm 1999 và năm 2000, lũ lụt, hạn hán xảy ra ở nhiều nơi khiến cho
các nước vốn xuất khẩu gạo bị giảm sản lượng mạnh, khả năng xuất khẩu hạn
chế; còn các nước vốn đã nhập khẩu gạo thì lại càng phải nhập nhiều hơn. Điển
hình là châu Phi, Trung Đông và Mĩ latinh vừa qua gặp hạn hán nặng và tình
hình chính trị rất bất ổn nên trong những năm tới họ sẽ phải nhập thêm nhiều.
Ngược lại, những nước trước đây vẫn nhập khẩu lớn gạo của Việt Nam ở châu
(1): Xuất khẩu gạo năm 2000, thời cơ -thách thức- giải pháp. Nguyễn Cảnh Hưng Tạp chí
Cộng sản số 8(4/2000) trang 41
(2): Nâng cao sức cạnh tranh hàng nông sản xuất khẩu ở nước ta -Nguyễn Đình Long-Tạp
chí Cộng sản số 4 (2/1999) trang 53
19
Á là Indônexia, Philippin, Bănglađét sẽ giảm nhu cầu trong những năm tới.
Theo cơ quan hậu cần quốc gia Indônexia, một vài năm tới nước này chỉ nhập
khoảng 1,8-2 triệu tấn gạo thay vì 3-3,5 triệu tấn như trước. Còn Philippin cũng
chỉ nhập 0,5-0,8 triệu tấn, giảm 0,5-0,7 triệu tấn(1). Sở dĩ như vậy là vì có sự
cạnh tranh giữa gạo của Thái Lan, Trung Quốc và gần đây là Campuchia với
Việt Nam về chất lượng, giá cả và thủ tục. Đây là một nguy cơ rất lớn đối với
xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Nhìn chung, trên thị trường chính của chúng ta, khả năng phát triển là rất
có hạn bởi vì như trên đã nói một số nước nhập khẩu lớn đã dần đi vào ổn định
kinh tế, chính trị, do vậy nhu cầu nhập khẩu gạo của họ giảm. Ở châu Phi,
Trung Đông và Mĩ latinh nhu cầu nhập khẩu có tăng, song thị trường ở đây còn
nhỏ bé, hơn nữa chúng ta lại có nhiều đối thủ cạnh tranh, do vậy tỉ trọng gạo
xuất sang khu vực này của chúng ta sẽ giảm đi và thay vào đó tỉ trọng xuất sang
một số thị trường tiềm năng mới mở sẽ ngày một tăng lên trong tổng kim ngạch
xuất khẩu gạo. Mục tiêu của chúng ta là cố gắng giữ vững thị trường truyền
thống, tăng cường, xâm nhập và mở rộng các thị trường mới.
Đối với mặt hàng cà phê, hiện nay, chúng ta đã xuất khẩu tới hơn 40 nước
và lãnh thổ, trong đó chủ yếu xuất sang EU, Bắc Mĩ, Nhật, Singapore. Chủng
loại cà phê xuất khẩu của chúng ta rất nghèo nàn, chủ yếu là cà phê hạt; cho nên
chúng ta thường xuất sang các nước phát triển có nền công nghiệp chế biến, để
họ sản xuất ra cà phê tinh chế. Thị trường cà phê là một thị trường cực kì bất ổn,
luôn có những biến động rất lớn, gây khó khăn cho các nước sản xuất và xuất
khẩu cà phê nhân. Có năm như niên vụ 1998-1999, giá cà phê lên rất cao
khoảng 900-1200 USD/tấn; nhưng năm 1999-2000 giá sụt đi hơn một nửa chỉ
còn khoảng 400-550 USD/tấn. Điều đó có nghĩa là, có năm các nước nhập khẩu
cà phê nhân nhiều, có năm họ nhập ít.
(1): Xuất khẩu gạo năm 2000, thời cơ -thách thức- giải pháp. Nguyễn Cảnh Hưng Tạp chí
Cộng sản số 8(4/2000) trang 41
20
Trong những năm tới, thị trường chính của chúng ta vẫn là EU, Bắc Mĩ,
Nhật, và Singapore. Cà phê của chúng ta chất lượng tương đối tốt mà giá lại rẻ
nên vẫn có sức cạnh tranh trên các thị trường này.
Đối với mặt hàng cao su, thị trường xuất khẩu chủ yếu của chúng ta trước
đây là Liên Xô, khoảng 80% sản lượng cao su của Việt Nam. Song những năm
gần đây, thị trường này không những không được mở rộng mà còn bị thu hẹp.
Hiện nay, ta chủ yếu xuất khẩu cao su sang Trung Quốc, chiếm 70% sản lượng.
Nhưng do xuất qua tiểu ngạch nên thường xuyên bị ép giá, nhu cầu mặt hàng
không ổn định, tình trạng ứ đọng sản phẩm thường xuyên xảy ra; xuất khẩu
sang châu Âu và Mỹ chỉ đạt 10% sản lượng(1); còn tiêu thụ trong nước thì thật ít
ỏi chỉ khoảng 20%.
Năm 2000, ta đã khai thác 213.000 tấn và xuất khẩu sang Nga 400 tấn với
giá là 670 USD/tấn tăng 30-40 USD/tấn so với năm trước(2).
Chất lượng cao su của chúng ta tốt, nhưng không phù hợp với nhu cầu
của thế giới nên chỉ xuất được sang Trung Quốc là chủ yếu.
Đối với mặt hàng thủy sản, thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là
EU chiếm khoảng 60%. Đây là bạn hàng xuất khẩu thủy sản thường xuyên của
Việt Nam từ nhiều năm qua. Khu vực này tuy dân số không lớn nhưng số lượng
hàng thủy sản tiêu thụ nhiều. Tính đến năm 1998, cả nước đã có 27 doanh
nghiệp chế biến thủy sản được xếp vào danh sách các đơn vị đủ tiêu chuẩn xuất
khẩu sản phẩm sang thị trường châu Âu.
Ngoài ra, ta còn xuất khẩu thủy sản sang Nhật Bản, chiếm khoảng 20%
sản lượng xuất khẩu của Việt Nam. Đây là một thị trường rất khó tính, đòi hỏi
chất lượng sản phẩm cao. Nhưng là thị trường xuất khẩu chủ yếu của ta từ lâu.
Nhật Bản cũng là một cường quốc về đánh bắt thủy hải sản, với các phương tiện
(1): Báo cáo nghiên cứu: Tổng quan về ngành nông nghiệp Việt Nam. Tác động của Hiệp
định WTO về nông nghiệp. Bộ Thương mại(12/1999). Dự án VIE 95/024/A/01/1999 trang 24
(2): Thời báo kinh tế Việ Nam số 146 (6/12/2000)
21
kỹ thuật rất hiện đại nhưng giá thành lại cao hơn so với nhập khẩu thủy sản từ
Việt Nam, hơn nữa chủng loại thủy hải sản của ta lại rất đa dạng, phong phú.
Ngoài EU và Nhật ra, Singapore cũng là thị trường xuất khẩu thủy sản
chủ yếu của ta.
2-Thị trường tiềm năng:
Ngoài thị trường chính ở châu Á, châu Phi, hiện nay gạo Việt Nam đã và
đang xuất sang các thị trường mới như EU, Bắc Mĩ, Nhật, Hàn Quốc. Đây là
các thị trường rất khó tính nhưng có tiềm năng lớn vì những nước này có nền
công nghiệp và dịch vụ ngày càng phát triển mạnh mẽ, nông nghiệp ngày càng
không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Sở dĩ như vậy vì phần lớn
diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị lấn chiếm để sử dụng vào việc xây dựng
các khu công nghiệp, trung tâm thương mại, khu vui chơi giải trí và khu dân cư.
Cùng với quá trình đó là việc một bộ phận dân cư tách ra khỏi lao động nông
nghiệp để tham gia vào lực lượng lao động phi nông nghiệp. Do vậy, sản lượng
tăng thêm do áp dụng khoa học kĩ thuật không bù được sản lượng mất đi do
thiếu đất canh tác và thiếu lao động nông nghiệp.
Thêm vào đó, quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với EU, Nhật, Hàn
Quốc đặc biệt là Mĩ ngày càng có bước phát triển mới. Riêng với EU và Nhật,
Việt Nam đã được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN), do vậy giá gạo nhập vào
các nước này sẽ giảm đi. Mặt khác, chất lượng gạo của chúng ta không ngừng
được cải thiện do thành quả của việc ứng dụng khoa học vào nông nghiệp, do
đó ngày càng được các khách hàng tin cậy và trụ vững được trên thị trường này.
Đối với cà phê, thị trường tiềm năng có thể kể đến là Trung Quốc, Hàn
Quốc, Thái Lan, Nga và Đông Âu. Những nước này hàng năm vẫn nhập cà phê
của ta, song số lượng rất khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của
ta và bạn. Do vậy, trong những năm tới, mục tiêu của chúng ta là đẩy mạnh
cạnh tranh nhằm nâng cao kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường này, khẳng
định uy tín và chất lượng của cà phê Việt Nam. Tuy nhiên , chúng ta cũng cần
22
đề phòng các biến động có thể xảy ra vì thị trường cà phê thường không ổn
định.
Đối với cao su, thị trường nội địa tiêu thụ 20%-30% sản lượng cao su.
Tuy nhiên, thị trường này có tiềm năng lớn vì nước ta là nước đang phát triển
nên có nhu cầu khối lượng cao su thiên nhiên lớn trong tương lai. Những ngành
tiêu thụ cao su lớn nhất là ngành công nghiệp ô tô, xe máy và các ngành công
nghiệp hỗn hợp sản xuất các đồ cao su gia dụng và các sản phẩm cao su khác
như tấm trải sàn, găng tay y tế,...Sản lượng tiêu thụ nội địa dự kiến tăng khoảng
35%-40% trong những năm đầu thế kỷ 21(1). Ngoài ra, ta còn xuất khẩu cao su
sang châu Âu và Mỹ, hai thị trường này chiếm khoảng 10% doanh số xuất khẩu.
Trong tương lai, Việt Nam có thể sẽ thu được những lợi thế lớn vì Trung Quốc
là nước tiêu thụ cao su thiên nhiên lớn nhất. Mức tiêu thụ cao su của Trung
Quốc tăng trên 7,5%/năm. Đối với thủy sản, thị trường tiềm năng của ta trong
tương lai sẽ là Bắc Mỹ, Đông Âu và Trung Đông.
Từ sau khi kí Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ, trao đổi buôn bán giữa hai
nước tăng mạnh. Dự báo đến năm 2005 thị trường này sẽ chiếm khoảng trên
20% sản lượng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam(2).
Đối với Đông Âu thì từ năm 1990 trở về trước là bạn hàng truyền thống
của Việt Nam. Sau cuộc khủng hoảng về kinh tế, khu vực này trở nên kiệt quệ,
nhưng những năm gần đây, nền kinh tế ở khu vực này đã được khôi phục và có
bước phát triển đáng kể, chất lượng cuộc sống được cải thiện, cùng với nó là
nhu cầu về thủy sản cũng tăng lên. Trong tương lai đây sẽ là thị trường xuất
khẩu lớn của Việt Nam.
Đối với Trung Đông, thì đây là một khu vực giầu có trên thế giới, nhưng
lại hay có những biến động về chính trị, nền kinh tế bị ảnh hưởng mà nguồn
(1): Báo cáo nghiên cứu: Tổng quan về ngành nông nghiệp Việt Nam. Tác động của Hiệp
định WTO về nông nghiệp. Bộ Thương mại(12/1999). Dự án VIE 95/024/A/01/1999 trang 23
(2): Kinh tế Thế Giới 1998-1999: Đặc điểm và triển vọng. Nhà xuất bản chính trị quốc gia,
trang 260.
23
thủy hải sản lại ít ỏi nên đây sẽ là thị trường xuất khẩu thủy sản lớn của ta trong
những năm tới.
II-Những thành tựu và khó khăn trong quá trình xuất khẩu:
1-Thành tựu:
a-Gạo:
Năm 1989, nước ta chính thức tham gia vào thị trường xuất khẩu lúa gạo
thế giới với số lượng xuất khẩu là 1,42 triệu tấn, thu về 290 triệu USD, giá bình
quân 204 USD/tấn. Tuy sản lượng gạo xuất khẩu chưa nhiều, giá còn thấp, chất
lượng gạo chưa phù hợp với thị hiếu của thị trường thế giới nhưng đối với nước
ta, kết quả đó đánh dấu sự sang trang của sản xuất lúa gạo từ tự cấp tự túc sang
kinh tế hàng hoá gắn liền với xuất khẩu. Từ năm 1989 đến nay, gạo nước ta
luôn có mặt trên thị trường thế giới với số lượng và chất lượng ngày càng cao
(duy có năm 2000 do thị trường biến động nên xuất khẩu bị giảm).
Bảng 6 - Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam
Năm 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 00
Số lượng (triệu
tấn)
1,42 1,63 1,1 2,0 1,72 2,0 2,1 3,1 3,7 3,8 4,6 3,5
Giá trị (tỷ USD) 0,29 0,31 0,24 0,42 0,37 0,43 0,53 0,87 0,9 1,1 1,03 0,7
Giá bình quân
(USD)
204 188 227 215 210 214 258 285 242 269 228 200
Nguồn; Xuất khẩu gạo ở Việt Nam - 10 năm nhìn lại - Nguyễn Sinh Cúc
Tạp chí Cộng sản - số 7 (4/1999) trang 47
Qua bảng trên, ta thấy mặc dù số lượng gạo xuất khẩu một số năm có biến
động song xu hướng chính vẫn là tăng lên. Trong 12 năm, nước ta đã cung cấp
cho thị trường thế giới hơn 30,3 triệu tấn gạo, bình quân 2,53 triệu tấn/năm; thu
về 7 tỉ 158 triệu USD, bình quân 596,5 triệu USD/năm, một con số rất đáng tự
hào mà trước đổi mới chỉ là mơ ước. Xuất khẩu gạo hàng năm chiếm tỉ trọng
trung bình khoảng 11% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, 3,3% GDP. Từ năm
1997 đến nay, Việt Nam đã vượt Mĩ để đứng thứ 2 sau Thái Lan về xuất khẩu
gạo. Điểm nổi bật của nước ta trong xuất khẩu gạo hơn 10 năm qua là tính ổn
24
định cao so với các đối thủ cạnh tranh. Theo đánh giá của FAO (Tổ chức lương
thực và nông nghiệp thế giới), ở châu Á ngoài Thái Lan còn có 3 nước khác có
khả năng cạnh tranh với Việt Nam trong xuất khẩu gạo là Ấn Độ, Pakistan và
Trung Quốc. Song12 năm qua, sản lượng gạo xuất khẩu của 3 nước này đều
không ổn định: Ấn Độ có năm xuất khẩu 5 triệu tấn gạo (1995) vượt lên đứng vị
trí thứ 2 sau Thái Lan, nhưng các năm khác lại rất thấp, phổ biến dưới 1 triệu
tấn (1993 là 767.000 tấn,1994 là 890.000 tấn, năm 1997là dưới 2 triệu tấn).
Pakistan năm cao nhất là 1,8 triệu tấn (1995), các năm khác dưới 1 triệu tấn.
Trung Quốc năm cao nhất là 1,6 triệu tấn, các năm khác cũng phổ biến ở mức 1
triệu tấn(1).
Bên cạnh sự tăng tiến về số lượng, sự tiến bộ về chủng loại và chất lượng
là thực tế và rất đáng tự hào. Trong những năm đầu xuất khẩu gạo, tỉ lệ gạo chất
lượng trung bình, tỉ lệ tấm cao trên 25% chiếm 80-90% nên sức cạnh tranh kém,
giá cả thấp (Bảng 6). Từ năm 1995 trở lại đây, chất lượng và chủng loại được
cải thiện nhiều. Gạo có chất lượng cao (hạt dài, ít bạc bụng), tỉ lệ tấm thấp (từ 5-
10%) chiếm khoảng 70% lượng gạo xuất khẩu và có xu hướng tăng lên; còn gạo
có chất lượng trung bình (hạt tròn, bạc bụng), tỉ lệ tấm cao (trên 10%) chiếm tỉ
trọng nhỏ và có xu hướng giảm dần. Giá gạo Việt Nam cũng tăng dần cùng với
xu hướng tăng của chất lượng gạo và quan hệ cung cầu của thị trường lúa gạo
thế giới. Giá gạo xuất khẩu bình quân 4 năm (1995-1998) là 269USD/tấn, tăng
61 USD/tấn so với giá bình quân 6 năm về trước đó (1989-1994). Điều đáng
chú ý là khoảng cách giữa giá gạo Việt Nam và Thái Lan đã bị thu hẹp dần từ
40-55 USD/tấn những năm 1989-1994 xuống còn 20-25 USD/tấn những năm
1995-2000(2)
Việc Việt Nam từ một nước nhập khẩu lương thực trở thành một cường
quốc xuất khẩu gạo có một ý nghĩa rất lớn đối với nền kinh tế nước ta. Xét về
(1),(2): Xuất khẩu gạo ở Việt Nam -10 năm nhìn lại - Nguyễn Sinh Cúc. Tạp chí Cộng sản
số 7 (4/1999) trang 44, 46
25
giá trị ngoại tệ mạnh thu đựơc, xuất khẩu gạo đứng thứ hai sau dầu thô, song
xét về tính chất sản phẩm thì gạo có nhiều điểm trội hơn dầu thô.
Thứ nhất, gạo xuất khẩu là phần để dành ra được sau khi đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng trong nước và an ninh lương thực; còn dầu thô phải xuất toàn bộ.
Thứ hai, gạo xuất khẩu là sản phẩm 100% Việt Nam, còn dầu thô là sản
phẩm liên doanh.
Thứ ba, dầu là sản phẩm khai thác từ tài nguyên thiên nhiên, càng khai thác
càng cạn kiệt; trong khi gạo là sản phẩm của trồng trọt, càng xuất khẩu càng kích
thích thâm canh, tăng vụ nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng.
Thứ tư, hiệu quả kinh tế-xã hội-quốc phòng-an ninh và môi trường của sản
xuất và xuất khẩu gạo cao hơn nhiều so với bất kì mặt hàng xuất khẩu nào của
nước ta.
b-Cà phê:
Hiện nay, cà phê đã trở thành mặt hàng mũi nhọn trong chiến lược hàng
nông sản xuất khẩu của Việt Nam. Cà phê đứng trong số mười mặt hàng (Top
ten) có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam (xấp xỉ 500-1000 triệu
USD).
Bảng 7: Tình hình xuất khẩu cà phê một số năm
Chỉ tiêu Đơn vị 1991 1993 1995 1997 1998 2000
Số lượng 1000 tấn 89,6 122,7 248,1 389 382 686
Giá trị Triệu USD 74 111 305 490 594 378
Giá / tấn USD 825,9 904,6 1230 1259,6 1555 550
Báo cáo nghiên cứu: Tổng quan về ngành nông nghiệp Việt Nam
- Bộ Thương mại trang 13,14
Qua bảng trên, ta thấy số lượng cà phê xuất khẩu liên tục tăng qua các
năm: năm 1998 số lượng xuất khẩu đạt 382.000 tấn nhiều hơn năm 1991 là
292,4 tấn, tỉ lệ tăng là 326,34% tức là gần gấp 3,3 lần; tương ứng với sự gia tăng
số lượng là sự gia tăng về giá trị kim ngạch xuất khẩu. Năm 1998, giá trị xuất
26
khẩu đạt 594 triệu USD, tăng so với năm 1991 là 520 triệu USD, gấp hơn 8 lần.
Với kết quả trên, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu cà phê lớn thứ 3 trên
thế giới sau Braxin và Côlômbia.
Sản xuất cà phê phát triển đã tạo ra sự thay đổi to lớn trong cơ cấu kinh tế
và đời sống của đồng bào vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Nếu như trước
đây khi cây cà phê chưa phát triển thì đồng bào ở đây chủ yếu độc canh cây lúa
trên mảnh đất không thích hợp cho việc trồng lúa do vậy đời sống rất thiéu thốn,
bấp bênh. Hiện nay, nhờ chính sách giao đất của nhà nước mà nhiều hộ đã đi
vào chuyên canh cây cà phê và đạt hiệu quả kinh tế rất cao, đời sống khá giả
hẳn lên. Các trang trại cà phê cũng là nơi thu hút được nhiều lao động, giải
quyết công ăn việc làm cho người địa phương và người ở vùng khác đến. Do
kim ngạch xuất khẩu cà phê mấy năm gần đây tăng liên tục (bình quân
20%/năm), có năm đạt gần 600 triệu USD mà cà phê đã được chính phủ ta xếp
vào 3 nhóm hàng mũi nhọn (cà phê, thuỷ sản, điện tử) cần được quan tâm chú
ý(1).
c-Cao su:
Nhờ tích cực đổi mới kỹ thuật, công nghệ chế biến, nâng cao tay nghề
công nhân mà việc chuyển hướng sang sản xuất cao su định chuẩn (SVR) đã
thành công. Nếu năm 1987, các công ty cao su đã sản xuất được 75,9% mủ khối
cao su định chuẩn; 3,5% mủ ly tâm (mủ kem); 13,5% mủ tờ (ICR,RSS); 2,9%
mủ creve và 4,4% cao su tinh sét thì đến năm 1996 cơ cấu này dã có nhiều thay
đổi, tỷ lệ tương ứng là 94,4%; 3,0%; 1,4% và 0,2%; năm 1999là 94,4%; 2,4%;
0,9% và 0,5%(2). Tính chung giai đoạn 1976-1980, sản lượng cao su chế biến
đạt 190.000 tấn, giai đoạn 1981-1990 đạt 488.000 tấn; giai đoạn 1990-1999 sản
(1): Nâng cao sức cạnh tranh hàng nông sản xuất khẩu của nước ta - Nguyễn Đình Long –
Tạp chí Cộng sản số 4 (2/1999) trang 53
27
lượng cao su đã tăng lên nhanh chóng đạt 1050 ngàn tấn, như vậy là đã tăng gấp
2,3 lần so với 10 năm trước và gấp 5,5 lần so với 5 năm sau giải phóng(3) .
Những năm gần đây, sản lượng cao su đã tăng đáng kể với tốc độ 6,27%
mỗi năm. Chất lượng cao su của chúng ta rất tốt đạt tiêu chuẩn quốc tế. Ngành
cao su đã đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước và còn dư thừa để xuất
khẩu góp phần làm tăng tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam.
d-Thủy sản:
Thực hiện phương châm đánh bắt xa bờ, hàng ngàn tàu đánh cá thuộc đủ
các thành phần kinh tế đã tấp nập ra khơi đến các ngư trường mới có nhiều tôm
cá hơn. Sáu tháng đầu năm 1998, sản lượng thủy sản đạt trên 800.000 tấn, tăng
2,5% so với cùng kỳ năm trước. Năm 1990, xuất khẩu đạt 205 triệu USD, năm
1997 đạt 776 triệu USD(1). Năm 1998, xuất khẩu đạt 850 triệu USD, tăng 5% so
với năm 1997(2).
Năm 2000 đạt 1,4 tỷ USD, gấp 2,5 lần năm 1995(3). Hàng thủy sản của
Việt Nam hiện nay đã được công nhận nằm trong danh sách nhóm I các nước
xuất khẩu thủy san vào thị trường EU sau khi đã vượt qua cuộc kiểm tra chất
lượng của cơ quan thực phẩm Mỹ.
Sự phát triển và tăng trưởng của ngành thủy sản trong những năm đổi
mới không chỉ tạo ra thế và lực mới cho ngành mà còn góp phần quan trọng
trong việc phân công lại lao động xã hội, chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. Từ đó khẳng định vị trí của ngành thủy
sản trong nền kinh tế nước ta một cách rõ ràng hơn.
2-Khó khăn-thách thức:
(2),(3): Công nghiệp chế biến cao su trên đường hội nhập. Nguyễn Đăng Kiều, Nguyễn
Hữu Tiến. Tạp chí Cộng sản số 18 (9/2000)
(1): Thuỷ snả Việt Nam sau 18 năm đổi mới 1980-1998. Nguyễn Sinh Cúc. Tạp chí Cộng
sản số 20 (10/1998) trang 47.
(2): Kinh tế Thế Giới 1998-1999: Đặc điểm và triển vọng.Nhà xuất bản chính trị quốc gia
trang 260.
(3): Thành tựu 15 năm phát triển kinh tế. Nguyễn Cảnh Hưng. Tạp chí Cộng sản số 1
(1/2001) trang 13
28
a-Gạo:
Trên thị trường lúa gạo thế giới hiện nay, mặc dù nước ta xếp thứ 2 về số
lượng gạo xuất khẩu sau Thái Lan; song trên thực tế ngoài Thái Lan ra, chúng ta
còn vấp phải sự cạnh tranh từ rất nhiều nước như: Mĩ, Ấn Độ, Pakistan, Trung
Quốc và gần đây là Campuchia. Những nước này đã làm ảnh hưởng đến xuất
khẩu gạo của Việt Nam. So với Thái Lan, sản lượng gạo của ta xấp xỉ với sản
lượng gạo của họ, song do dân số đông hơn nên xuất khẩu gạo của ta vẫn chưa
bằng được (Thái Lan xuất khoảng 6 triệu tấn/năm) mặc dầu năng suất lúa của ta
cao hơn hẳn của Thái Lan.
Về chất lượng, nói chung chất lượng gạo của Việt Nam còn thấp thể hiện ở
chỗ độ trắng không đều, tỉ lệ tấm, tỉ lệ bạc bụng còn cao; có hạt vàng, độ bóng còn
kém. Ngoài ra, còn một số yếu tố thương mại khác ảnh hưởng đến chất lượng gạo
xuất khẩu như mẫu mã bao bì đóng gói.
Về giá, giá gạo của ta luôn thấp hơn giá gạo của Thái Lan, Ấn Độ,
Pakistan kể cả Trung Quốc.
Bảng 8:So sánh giá gạo cùng phẩm cấp giữa Việt Nam và Thái Lan
Thời gian Loại gạo Giá gạo Việt Nam USD / tấn
Giá gạo Thái Lan
USD/tấn
1995
100%B(=5% tấm)
15% tấm
35% tấm
Giá bình quân FOB
262
352
328
306
1996
100%B(=5% tấm)
15% tấm
35% tấm
Giá bình quân FOB
284
382
364
330
1997
100%B(=5% tấm)
15% tấm
35% tấm
249,5
243
222
262
240
211,7
Nguồn: Nâng cao sức cạnh tranh hàng nông sản xuất khẩu của nước ta
Nguyễn Đình Long . Tạp chí Cộng sản số 4 (2/1999) trang 54
Mặc dù, mấy năm gần đây khoảng cách về giá đã được thu hẹp song khả
năng cạnh tranh ngang ngửa với Thái Lan về giá là có thể xảy ra. Điều này hoàn
29
toàn phụ thuộc vào chất lượng gạo của ta. Nếu chất lượng gạo của ta cũng tương
đương với gạo Thái Lan thì lúc đó giá gạo của Thái Lan phải theo giá gạo của
Việt Nam bởi vì chi phí sản xuất lúa của Việt Nam rẻ hơn của Thái Lan. Ước
tính chi phí sản xuất lúa ở Việt Nam bình quân vào khoảng 85-97 USD/tấn còn
Thái Lan là 105-125 USD/tấn.
Bảng 9: So sánh một số nhiên liệu chính cho sản xuất lúa
Vật tư chính Việt Nam Thái Lan
Xăng (lit) 0,35 USD = 2,4 kg thóc 0,4 USD = 2,7 kg thóc
Dầu DO (lit) 0,26 USD = 1,8 kg thóc 0,3 USD = 2 kg thóc
Điện (1kw/h) 0,064 USD = 0,5 kg thóc 0,12 USD = 0,65 kg thóc
Nguồn: Nâng cao sức cạnh tranh hàng nông sản xuất khẩu của nước ta -
Nguyễn Đình Long . Tạp chí Cộng sản số 4 (2/1999) trang 53
Như vậy, về mặt giá cả và giá thành lúa, chúng ta có lợi thế, song từ sản
xuất lúa đến gạo xuất khẩu có sức cạnh tranh mạnh vẫn còn một chặng đường
không ít khó khăn.
Ngoài những khó khăn trên, trong xuất khẩu gạo hiện còn có những yếu
kém, khó khăn như:
Thứ nhất là chưa có quy hoạch tổng thể và kế hoạch cụ thể về sản xuất
lúa gạo xuất khẩu (vùng nào, địa phương nào, bao nhiêu diện tích, cơ cấu giống
lúa, đầu tư thâm canh). Một số vùng và địa phương đã hình thành quy hoạch và
kế hoạch, song vẫn nặng tính tự phát cục bộ kể cả vùng đồng bằng sông Hồng
và sông Cửu Long.
Thứ hai là mạng lưới thu mua, vận chuyển, chế biến lúa hàng hoá phục
vụ xuất khẩu gạo vẫn phụ thuộc quá lớn vào tư thương chưa có sự tham gia tích
cực của doanh nghiệp lương thực nhà nước. Thực tế hiện nay các Tổng công ty
lương thực miền Bắc và miền Nam vẫn sử dụng tư thương để thu gom, vận
chuyển và chế biến, đánh bóng gạo xuất khẩu. Do vậy, tình trạng ép cấp, ép giá
đối với nông dân diễn ra phổ biến nhất là vào năm được mùa.
30
Thứ ba là cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ chế biến, bảo quản, xuất khẩu
còn yếu kém lại phân bố không đều. Hệ thống nhà máy xay xát, đánh bóng gạo
xuất khẩu những năm gần đây tuy có được trang bị thêm máy móc, thiết bị hiện
đại hơn nhưng số lượng ít chủ yếu được bố trí tại các thành thị lớn như thành
phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Mỹ Tho; trong khi những vùng và địa phương sản
xuất nhiều lúa hàng hoá xuất khẩu như An Giang, Đồng Tháp, Sóc Trăng lại
không có các nhà máy chế biến. Đầu mối xuất khẩu gạo tập trung quá lớn vào
cảng Sài Gòn, trong khi đó nguồn gạo lại ở Đồng bằng sông Cửu Long nên làm
tăng chi phí vận chuyển và chi phí trung gian khác.
Thứ tư là việc điều hành xuất khẩu gạo như hiện nay cũng đang bộc lộ
những nhược điểm. Hạn ngạch xuất khẩu gạo giao từ đầu năm trong khi chưa
biết kết quả sản xuất lúa trong năm như thế nào; do đó liên tục phải điều chỉnh
kế hoạch kể cả huỷ hợp đồng đã kí với khách hàng. Điều đáng chú ý là hạn
ngạch giao cho từng tỉnh cũng dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh trong
việc xin quota, sau đó đi mua gạo của các tỉnh khác về để tái xuất. Một số tỉnh
hoàn toàn không có lúa hàng hoá vẫn được cấp quota.
Thứ năm là thiếu vốn và thủ tục thanh toán của ngân hàng còn phiền
nhiễu. Để thực hiện các hợp đồng xuất khẩu gạo, các doanh nghiệp rất cần vốn
để mua lúa tạm trữ với số lượng lớn, tập trung vào thời điểm trong vụ thu hoạch
lúa. Trong khi đó, khả năng cung ứng của các ngân hàng Thương mại có hạn,
chính sách hỗ trợ lãi suất đối với doanh nghiệp xuất khẩu và phương thức bảo
lãnh của ngân hàng cũng có nhiều điểm chưa họp lý. Cuối năm 1999, nhiều
doanh nghiệp có được nhiều hợp đồng bán gạo trả chậm với số lượng lớn và có
thể gối đầu sang năm 2000, song do các ngân hàng không chịu tham gia thanh
toán và thu nợ nên đã không kí kết được.
Thứ sáu là gạo nhập khẩu lậu qua biên giới Tây Nam và phía Bắc còn
nhiều và có xu hướng ngày càng tăng. Tình hình này kéo dài từ năm 1999 làm
cho quan hệ cung cầu gạo trong nước diễn biến phức tạp và khó kiểm soát. Giá
sàn mua lúa của Nhà nước rất khó thực hiện nhất là ở các tỉnh đồng bằng sông
31
Cửu Long, ảnh hưởng đến nguồn cung của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo và
nhất là lợi ích của người trồng lúa hàng hoá ở Nam Bộ.
Đứng trước những khó khăn trên, ngành sản xuất lúa và gao xuất khẩu rất
cần có những giải pháp nhằm tháo gỡ để nâng cao sức cạnh tranh của hàng gạo
xuất khẩu, thúc đẩy xuất gạo một cách mạnh mẽ.
b-Cà phê:
Hiện nay, mặc dù nước ta là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ 3 thế giới sau
Braxin và Côlômbia, song sản lượng cà phê và số lượng xuất khẩu ra thị trường
thế giới của ta thì ít hơn nhiều so với hai nước trên. Sản lượng cà phê của
Braxin hiện nay đạt khoảng 2,4 triệu tấn (40 triệu bao), trong đó xuất khẩu
khoảng 1,3 triệu tấn. Sản lượng cà phê của Côlômbia hiện nay đạt khoảng 1,8
triệu tấn, trong đó xuất khẩu khoảng 1 triệu tấn. Sản lượng cà phê của Việt Nam
hiện nay đạt khoảng 722.000 tấn và xuất khẩu đạt 686.013 (1999-2000) tấn(1).
Khả năng mở rộng diện tích canh tác để đuổi kịp sản lượng của ta là rất lớn vì
trong số 2 triệu ha đất trồng cà phê, ta mới chỉ sử dụng có 330.000 ha.Tuy
nhiên, việc mở rộng diện tích để tăng sản lượng và đặc biệt là tăng số lượng
xuất khẩu của cà phê phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố.
Yếu tố đầu tiên phải kể đến là giá cả: Hiện nay, cà phê là mặt hàng tự do
thương mại, không hạn ngạch, không giấy phép nên giá cả xuất khẩu là giá quốc
tế, phụ thuộc vào quan hệ cung cầu của thị trường thế giới. Do vậy mà giá cà
phê lên xuống rất thất thường theo tình hình sản xuất (được mùa, mất mùa) và
theo tình hình tiêu thụ. Có năm giá rất cao như niên vụ 98-99, khuyến khích
được người trồng cà phê; có năm giá rất thấp như năm 2000-2001 chỉ còn 430
USD/tấn làm nản lòng người trồng cà phê. Giá cả thấp khiến cho không thể xuất
khẩu được vì càng xuất càng lỗ nặng.
Yếu tố thứ hai là: Hiện nay, trên thị trường cà phê, Việt Nam có rất nhiều
đối thủ cạnh tranh lớn như: Braxin, Côlômbia và nhóm các nước sản xuất cà
(1): Thời báo Kinh tế Việt Nam số 132 (11/2000)
32
phê ở khu vực Mĩ latinh (chiếm 60% sản lượng cà phê toàn cầu), Indônexia, Ấn
Độ, Bờ Biển Ngà. Các nước này tuy đều là thành viên của Hiệp hội các nước
sản xuất cà phê (ACPC), song cạnh tranh rất quyết liệt trên thị trường cà phê thế
giới.
Thứ ba là: Tuy là nước xuất khẩu cà phê lớn nhưng Việt Nam lại không
có thị trường tiêu thụ trong nước làm hậu thuẫn (nhu cầu trong nước khoảng
20.000 tấn/năm) nên khi cà phê trên thị trường thế giới rớt giá, người trồng cà
phê không biết xoay sở ra sao.
Khó khăn nữa là: Sản phẩm cà phê của ta còn nghèo nàn, chủ yếu là xuất
thô chưa qua chế biến. Các doanh nghiệp của ta chưa có đủ điều kiện cần thiết
để đầu tư nhập công nghệ chế biến. Chính vì chưa có công nghệ chế biến nên
chất lượng cà phê của ta còn thua kém so với một số nước khác.
Ngoài ra cũng như gạo, cà phê cũng chưa được các cấp các ngành quan
tâm hỗ trợ một cách thoả đáng nhất là vào lúc mùa vụ thu hoạch nên nhiều lúc
còn bị động, ảnh hưởng tiêu cực đến việc tranh thủ khách hàng, cạnh tranh với
các nước khác.
Những khó khăn trên của cà phê cũng cần có những giải pháp thích hợp
nhằm tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh xuất khẩu.
c-Cao su:
Mặc dù đã có tăng trưởng đáng kể nhưng ngành cao su mới phát triển về
chiều rộng chứ chưa phải chiều sâu. Sản lượng vẫn còn thấp so với sản lượng
của các nước sản xuất cao su khác trong khu vực (chỉ đạt khoảng 468kg/ha).
Về thị trường xuất khẩu thì thị trường xuất khẩu cao su của Việt Nam
không ổn định do sự phụ thuộc quá nhiều vào nhu cầu không dự đoán trước
được của Trung Quốc. Thị trường này cũng gặp không ít khó khăn do xuất qua
tiểu ngạch nên thường xuyên bị ép giá, nhu cầu mặt hàng không ổn định, tình
trạng ứ đọng sản phẩm hay xảy ra. Nhu cầu thị trường thay đổi đã gây ra rất
nhiều khó khăn cho ngành công nghiệp chế biến cao su của Việt Nam đặc biệt
33
là cơ cấu sản xuất sản phẩm chế biến không phù hợp với xu thế chung của nhu
cầu thị trường tiêu thụ trên thế giới.
Cụ thể là, từ những năm 70, các hãng làm lốp trên thế giới đã nhận ra
rằng với loại cao su cấp thấp (loại mủ SVR10 và SVR20) họ vẫn có khả năng
sản xuất được loại lốp tốt đạt được yêu cầu của người tiêu dùng, mà giá cao su
loại này lại thấp hơn nhiều so với chủng loại cao su loại I và loại thượng hạng
và thực tế đã tiêu thụ trên 70% toàn bộ lượng cao su tự nhiên xuất khẩu hàng
năm của các nước Malaixia, Inđônêxia, Thái Lan. Trong khi đó, Tổng công ty
cao su Việt Nam lại sản xuất phần lớn cao su loại I và thượng hạng chiếm trên
91%, cao su loại II (SVR10 và SVR20) chỉ chưa đầy 10%. Hiện nay, do trình độ
khoa học công nghệ phát triển nên nhu cầu cao su thiên nhiên giảm, được thay
thế bằng các loại chất dẻo tổng hợp.
d-Thủy sản:
Mặc dù những năm gần đây, ngành thủy sản có những bước phát triển
đáng kể về sản lượng nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản cũng như thu về giá trị
xuất khẩu lớn nhưng hiện nay ngành thủy sản cũng đang gặp không ít khó khăn.
Thứ nhất: Đối tượng khai thác thủy sản là tài nguyên thiên nhiên dưới
nước (tôm, cá, hải sản), nhưng loại tài nguyên này có giới hạn và ở nước ta đang
cạn kiệt nhất là vùng biển ven bờ, các sông ngòi, hồ chứa. Phương thức khai
thác vô tổ chức, quá nhiều lao động và tàu, thuyền đã tạo nên sự mất cân đối
giữa nguồn tôm cá với số lượng phương tiện và người đánh bắt, dẫn đến cạn
kiệt thủy sản ven bờ.
Thứ hai: Nghề khơi đòi hỏi nhiều vốn, phương tiện kỹ thuật đánh bắt
hiện đại và lao động có tay nghề cao. Những yêu cầu đó hiện nay còn rất xa vời
với điều kiện nước ta. Bài toán chuyển đổi lao động thủ công và tàu, thuyền nhỏ
cho phù hợp với yêu cầu nghề khơi là rất khó. Đó là chưa nói đến không phải
vùng khơi nào cũng nhiều cá và nhiều cá chưa chắc đã có hiệu quả vì chi phí
cao, cá không hợp với nhu cầu thị trường.
34
Thứ ba: Nuôi trồng thủy sản Việt Nam hiện nay đang đứng trước nhiều
khó khăn lớn như môi trường sinh thái bị phá vỡ, tài nguyên cạn kiệt (do chưa
sản xuất nhân tạo được cá giống nên việc săn lùng các giống tôm hùm, cá song,
cá cam...có nguy cơ làm lây lan dịch bệnh), cơ sở khoa học kỹ thuật cho nuôi
trồng thủy sản nước ta còn rất thiếu.
Thứ tư: Tổ chức thu mua, chế biến, xuất khẩu thủy sản còn chưa hợp lý,
dẫn đến tình trạng tranh mua, tranh bán, giành giật thị trường, đẩy giá nguyên
liệu lên quá cao so với giá trị, nên hiệu quả kinh doanh, chế biến, xuất khẩu
giảm.
Thứ năm: Hệ thống chế độ, chính sách đối với ngành thủy sản chưa đồng
bộ, thiếu cụ thể nên chậm đi vào cuộc sống. Là ngành sản xuất thường gặp
nhiều rủi ro do thiên tai, do thị trường thế giới biến động, trong khi đố chính
sách, chế độ đối với ngành thủy sản vẫn còn mang tính chung chung. Luật pháp
đã có, nhưng thực hiện chưa nghiêm, cả trong sản xuất và kinh doanh, xuất khẩu
thủy sản.
Thứ sáu: Thị trường tiêu thụ thủy sản chưa ổn định, gây khó khăn cho
người sản xuất và cơ sở chế biến. Thị trường các loại cá, tôm và thủy sản khác
cũng trong tình trạng tương tự, nhất là thị trường khó tính như EU, Nhật; trong
khi chất lượng và sức cạnh tranh của hàng thủy sản nước ta chưa cao, công nghệ
chế biến và điều kiện vệ sinh thực phẩm còn ở trình độ thấp.
Đứng trước những khó khăn trên đòi hỏi ngành thủy sản phải có những
biện pháp để khắc phục chúng, đưa ngành thủy sản phát triển mạnh mẽ hơn
trong tương lai.
35
CHƯƠNG III
TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO SỨC CẠNH
TRANH HÀNG NÔNG THỦY SẢN XUẤT KHẨU CỦA NƯỚC
TA
I-Triển vọng:
1-Triển vọng của gạo và cà phê:
Mặc dù, hiện nay, xuất khẩu gạo và xuất khẩu cà phê gặp rất nhiều khó
khăn do giá xuống quá thấp, song về lâu dài xuất khẩu gạo và cà phê có triển
vọng phát triển rất lớn. Bởi vì nước ta có nhiều lợi thế về đất đai, khí hậu, lao
động để phát triển sản xuất.
36
Thứ nhất: Năng suất sản xuất gạo và cà phê của ta cao hơn hẳn các nước
khác.
Thứ hai: Chi phí để sản xuất gạo và cà phê của ta cũng rẻ hơn. Đó là điều
kiện rất thuận lợi để cạnh tranh về giá.
Thứ ba: Chất lượng gạo và cà phê của ta đang ngày càng được cải thiện
do nhà nước đã quan tâm đầu tư đúng mức nhằm đổi mới trang thiết bị, công
nghệ phục vụ sản xuất và xuất khẩu.
Thứ tư: Sản phẩm gạo và cà phê của ta ít nhiều đã có tiếng tăm trên thị
trường thế giới. Hiện nay, thị trường gạo đã mở rộng tới hơn 50 nước, thị
trường cà phê mở rộng tới hơn 40 nước, trong đó chỉ có một số nước là thị
trường chính còn lại đa số các nước có nhập khẩu nhưng với số lượng và trị giá
thấp. Chính các nước này sẽ là đối tượng của chúng ta trong tương lai.
Thứ năm: Hiện nay, gạo và cà phê đóng góp một nguồn ngoại tệ khá lớn
(khoảng 1,5 tỉ USD, chiếm khoảng 12,5% tổng kim ngạch xuất khẩu) cho công
cuộc CNH-HĐH đất nước, do vậy Đảng và Nhà nước rất quan tâm và đề ra
nhiều chính sách nhằm thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu hai mặt hàng này.
Xét riêng về gạo thì những năm qua và trong những năm tới, sản lượng
gạo thế giới tăng rất ít, trong khi sản lượng gạo Việt Nam liên tục tăng (theo
FAO, trong 10 năm 1990-1999 sản lượng gạo tăng 70 triệu tấn trong đó Việt
Nam đóng góp 10 triệu tấn chiếm 14,29%). Năm 2000, sản lượng lúa gạo thế
giới đạt 581 triệu tấn, tăng so với năm 1999 là 8 triệu tấn, thì trong đó Việt Nam
tăng 1,5 triệu tấn, chiếm 18,75%(1). Như vậy, dân số thế giới thì không ngừng
tăng mà sản lượng lúa gạo thế giới tăng chậm, đó là điều kiện thuận lợi để Việt
Nam đẩy mạnh xuất khẩu gạo trong tương lai. Năm 1999, chúng ta đã đạt đến
đỉnh cao trong xuất khẩu là 4,55 triệu tấn, trong khi sản lượng chỉ đạt 31,4 triệu
(1): Xuất khẩu gạo ở Việt Nam-10 năm nhìn lại-Nguyễn Sinh Cúc. Tạp chí Cộng sản số 7
(4/1999) trang 45
37
tấn. Hy vọng trong những năm tiếp theo, xuất khẩu của nước ta sẽ vượt con số
này.
Xét về cà phê thì nước ta là một nước trẻ trong thế giới xuất khẩu cà phê,
vì vậy có rất nhiều tiềm năng để phát triển. Tiềm năng lớn nhất là tiềm năng đất
đai. Chúng ta còn một diện tích đất lớn chưa khai thác (1,7triệu ha), trong khi
các nước trồng cà phê già cỗi khác hầu như đã khai thác hết. Thứ hai là chi phí
sản xuất cà phê của ta rất thấp do năng suất cao hơn mức trung bình của thế giới
từ 1,7-2,5 lần. Do đó, chúng ta có lợi thế về giá. Thứ ba là các nước khác đặc
biệt là khu vực Mĩ latinh thường hay xảy ra thiên tai gây mất mùa nên cà phê
nước ta lúc đó rất được giá, không những xuất hết mà nhiều khi phải nhập ở
châu Phi về để giao cho khách đã trót kí hợp đồng từ trước.
2-Triển vọng của cao su và thủy sản:
Đối với cao su thì trong điều kiện hiện nay, nhu cầu tiêu thụ cao su mủ ly
tâm (mủ kem) trên thị trường thế giới vẫn còn lớn. Cụ thể là, nếu năm 1991, thế
giới tiêu thụ 596 ngàn tấn mủ ly tâm (mủ kem) thì đến năm 1996 đã lên đến 781
ngàn tấn, nghĩa là tăng 31,0% trong vòng 5 năm. Cũng trong thời gian đó, toàn
bộ cao su tự nhiên tiêu thụ trên thị trường thế giới chỉ tăng 21,1%(1). Điều này
có thể ở ra triển vọng cho cao su Việt Nam khả năng chen chân vào thị trường
cao su mủ ly tâm đang rộng mở. Trước hết là thị trường Malaysia, Hàn Quốc,
Đài Loan, Trung Quốc, Pháp...hiện đang nhập mặt hàng này của Việt Nam và
nhu cầu mỗi năm một tăng, theo dự kiến mỗi năm có thể tăng thêm vài vạn tấn.
Đây là điều rất thuận lợi cho việc tăng cường xuất khẩu cao su trong tương lai.
Đối với thủy sản thì có thể khẳng định rằng, với đà tăng trưởng như
những năm qua, với tiềm năng về điều kiện tự nhiên và lao động, với chính sách
đúng đắn cho sự phát triển; trong xu hướng ngày một tăng nhu cầu thủy sản trên
thế giới chúng ta có thể vươn lên thành một nước mạnh về thủy sản, lấy xuất
khẩu làm mũi nhọn góp phần tăng tích lũy cho CNH-HĐH đất nước. Xét về
(1): Công nghiệp chế biến cao su trên đường hội nhập. Nguyễn Đăng Kiều, Nguyễn Hữu
Tiến. Tạp chí Cộng sản số 18 (9/2000) trang 52.
38
tiềm lực ngành thủy sản, nước ta có đủ khả năng tăng trưởng mạnh hơn trong
thời gian tới và như trong các dự báo, đến năm 2010 có thể đạt 2 tỉ USD xuất
khẩu và 2,4 triệu tấn thủy sản cả nuôi trồng và khai thác.
II-Giải pháp:
1-Giải pháp vĩ mô:
a-Gạo:
Trong những năm tới, để tháo gỡ khó khăn hiện nay và tiếp tục thúc đẩy
xuất khẩu gạo, Nhà nước cần phải giải quyết các vấn đề sau:
Một là về sản xuất: Khẩn trương hoàn thiện quy hoạch vùng lúa xuất
khẩu của cả nước và kế hoạch cụ thể ưu tiên đầu tư vốn và khoa học kĩ thuật để
phát triển sản xuất lúa trong từng thời kì phù hợp với quy hoạch và kế hoạch
xuất khẩu gạo của cả nước. Nội dung của quy hoạch, kế hoạch và đầu tư cho
vùng lúa gạo xuất khẩu phải bám sát nhu cầu của thị trường thế giới trong từng
giai đoạn.
Hai là về chế biến, vận chuyển: Đây là khâu rất yếu hiện nay. Những
năm tới cần tập trung giải quyết theo các hướng: xây dựng mới các cơ sở chế
biến lúa gạo xuất khẩu tại các vùng sản xuất lúa hàng hoá phục vụ xuất khẩu
gạo theo quy hoạch, đồng thời nâng cấp, hiện đại hoá các cơ sở đã có để tăng
năng lực chế biến và tăng chất lượng gạo xuất khẩu. Hệ thống kho tàng, đường
sá, bến bãi phục vụ xuất khẩu gạo cũng cần được sự đầu tư thoả đáng. Cần mở
rộng cảng Cần Thơ đạt công suất 1 triệu tấn để trở thành đầu mối xuất khẩu gạo
chính. Theo tính toán, nếu xuất ở cảng Cần Thơ, mỗi tấn gạo sẽ tiết kiệm được 5
USD so với xuất tại Sài Gòn(1).
Ba là về tổ chức thu mua lúa hàng hoá: Để hạn chế tiến tới khắc phục
tình trạng tư thương thao túng thị trường, ép cấp, ép giá đối với nông dân, Nhà
nước cần xây dựng hệ thống tổ chức thu mua lúa hàng hoá phục vụ xuất khẩu
(1) : Xuất khẩu gạo năm 2000-thời cơ- thách thức-giải pháp-Nguyễn Cảnh Hưng. Tạp chí
Cộng sản số 8 (4/2000) trang 41
39
gắn với chính quyền địa phưong trong vùng quy hoạch; tiến tới hình thành
mạng lưới theo mô hình hợp tác xã hoặc tổ chức thu mua lúa thống nhất giữa
các địa phương theo phương thức và giá sàn quy định của Nhà nước. Giải quyết
thoả đáng quan hệ giữa Nhà nước, nông dân và các doanh nghiệp xuất khẩu gạo
trong phân phối lợi nhuận. Nhà nước cần hỗ trợ vốn để mua tạm trữ theo phưng
thức “mua thời điểm, bán thời giá”.
Bốn là về thị trường: Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa các nước về
xuất khẩu gạo như hiện nay và các năm tới, Việt Nam nhất thiết phải có hệ
thống các biện pháp hữu hiệu về thị trường. Từ năm 1999, Chính phủ đã bỏ thuế
xuất khẩu gạo, ngăn chặn nhập lậu gạo qua biên giới, cải cách thủ tục hải quan
nhằm tạo môi trường xuất khẩu thông thoáng hơn, kí kết các hiệp định thương
mại song phương và đa phương làm tiền đề cho việc cắt giảm thuế nhập khẩu
đối với mặt hàng gạo...
b-Cà phê:
Một là về sản xuất: Hiện nay ngoài việc thành lập mới các công ty cà phê
hoặc mở rộng các công ty cũ, Nhà nước còn tiến hành giao đất cho các hộ nông
dân để họ trồng cây cà phê. Nhà nước rất tích cực thông qua các công ty mở các
chương trình khuyến nông tạo điều kiện cho nông dân có được những kiến thức
cần thiết trong việc trồng cà phê. Các công ty cà phê cũng có những hỗ trợ cần
thiết về vốn, giống, kĩ thuật cho nông dân trên địa bàn mình quản lí.
Hai là về chế biến vận chuyển: Cà phê nước ta chủ yếu là xuất thô do
vậy đạt giá trị thấp. Hiện nay, nước ta mới có một nhà máy chế biến cà phê hoà
tan ở Biên Hoà với công suất 800 tấn/năm, quá nhỏ bé so với sản lượng cà phê
của ta. Phần lớn, nhu cầu cà phê tinh chế của ta được nhập từ Singapore (70%)
và Thái Lan (30%)(1), do vậy trong những năm tới, Nhà nước cần đầu tư vào
lĩnh vực sản xuất cà phê tinh chế để đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Mặt khác cũng cần chú trọng đến việc nhập thiết bị máy móc để sơ chế, bảo
(1) Nâng cao sức cạnh tranh hàng nông sản xuất khẩu ở nước ta - Nguyễn Đình Long. Tạp
chí Cộng sản số 4 (2/1999) trang 54
40
quản cà phê hạt sau khi thu hoạch đảm bảo giữ nguyên chất lượng ban đầu cho
cà phê. Mặc dù 75% sản lượng cà phê tập trung ở Đắc Lắc, song đầu mối xuất
khẩu chủ yếu tập trung tại Sài Gòn, một số ít xuất qua cảng Quy Nhơn và Nha
Trang làm chi phí vận chuyển và chi phí trung gian cao. Do vậy, cần mở rộng
cảng Quy Nhơn và Nha Trang, biến chúng thành đầu mối xuất khẩu cà phê
nhằm tiết kiệm chi phí, giảm giá thành và góp phần phát triển kinh tế ở các tỉnh
Nam Trung Bộ này.
Ba là về thị trường: Mặc dù thị trường đã được mở rộng tới hơn 40 nước,
song thị trường chính chỉ có một số nước như Mĩ, chiếm 22% số lượng xuất
khẩu, EU chiếm 45%, Nhật chiếm 8%, Singapore chiếm 6%. Do vậy, xuất khẩu
cà phê nước ta phụ thuộc rất lớn vào các thị trường này. Để giảm bớt sự lệ
thuộc, Nhà nước cần có các biện pháp nhằm tăng cường quan hệ hợp tác với các
nước khác để giúp cho việc xuất khẩu cà phê sang các thị trường này được
thuận lợi hơn.
Bốn là: Các ngân hàng cần tham gia tích cực vào hoạt động xuất khẩu cà
phê. Do giá cà phê lên xuống thất thường nên nhiều khi các công ty cà phê cần
rất nhiều vốn để mua tạm trữ cũng như cần bán trả chậm cho khách hàng. Do
vậy, nếu thiếu sự hỗ trợ của ngân hàng thì sẽ rất khó thực hiện.
c-Cao su:
Về sản xuất: Cần có biện pháp thiết thực để tăng nhanh tỉ lệ mủ ly tâm.
Sớm đưa nhà máy chế biến cao su mủ kem Thuận Phú vào hoạt động để có thể
sản xuất được 11.000-12.000 tấn mủ kem. Các năm sau nếu có nhu cầu mủ kem
cao hơn sẽ mở rộng các nhà máy hiện tại để có thể nâng công suất gấp đôi hiện
nay. Cần duy trì tỷ lệ cao su SVR-CV50 và SVR-CV60 trong khoảng 30% tổng
sản lượng cao su sơ chế trong một số năm tới. Điều quan trọng là làm thế nào để
tăng nhanh tỷ lệ cao su loại SVR10, SVR20 vì đây là loại cao su có thị trường
lớn trên thế giới. Nếu tăng ca kíp sản xuất và giải quyết tốt nguyên liệu đầu vào
thì khả năng đạt được 30-35 ngàn tấn là khả thi.
41
Về chế biến, vận chuyển: Cần tạo điều kiện cho Nhà máy Phú Bình
chuyên sơ chế mủ tạp đi vào hoạt động tốt hơn, nâng cấp các dây chuyền sơ chế
cao su loại II và có thể chuyển một số nhà máy sơ chế cao su loại I sang sản
xuất cao su loại II. Tập trung bồi dưỡng cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề.
Cần chú trọng nhập khẩu các thiết bị máy móc để nâng cao chất lượng sản
phẩm.
Về thị trường: Vì cao su xuất khẩu phụ thuộc chủ yếu vào thị trường
Trung Quốc nên thường xuyên bị ép giá, nhu cầu không ổn định nên trong
những năm tới cần tích cực mở rộng thị trường đặc biệt là xâm nhập vào thị
trường EU, Bắc Mỹ.
d-Thủy sản:
Để đưa ngành thủy sản phát triển và tăng trưởng ổn định, Chính phủ cần
có các chính sách và giải pháp đồng bộ chỉ đạo của các ngành, các cấp nhằm tạo
điều kiện cho ngành thủy sản phát huy tiềm năng, thế mạnh của mình, thực hiện
tốt các chỉ tiêu kinh tế của ngành. Cụ thể là:
Thứ nhất: Phát huy các nguồn lực trong dân một cách có hiệu quả là điều
có lợi, phù hợp với Nghị quyết Đại hội Đảng VIII cũng như tinh thần Nghị
quyết Hội nghị Trung ương lần thú 4 (khoá VIII).
Thứ hai: Cần phải phát huy nội lực, đổi mới phương thức chỉ đạo và
quản lý để giải phóng mạnh mẽ mọi tiềm lực hiện có về vốn, công nghệ và cơ
sỏ vật chất kỹ thuật của các thành phần kinh tế, hướng tới mục tiêu: năng suất,
chất lượng, hiệu quả toàn ngành và lợi ích quốc gia.
Thứ ba: Xác lập các chính sách phù hợp, khuyến khích các thành phần
kinh tế trong đó kinh tế Nhà nước phải có bước đổi mới thực sự và có lĩnh vực
hoạt động phù hợp thì mới có thể đóng vai trò chủ đạo thúc đẩy các thành phần
kinh tế khác phát triển. Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích phù hợp,
có sự hỗ trợ cần thiết nhằm nâng cấp hạ tầng cơ sở đưa vào sử dụng có hiệu
quả.
42
Thứ tư: Phải có phương án miễn, giảm các chi phí không thoả đáng, khắc
phục các yếu kém trong quản lý gây phiền hà.
Thứ năm: Vấn đề cấp bách là phải tổ chức một cách có hiệu quả và dồn
sức làm đồng bộ việc điều tra nguồn lợi, tốt nhất là có hiểu biết nguồn lợi thông
qua thống kê sản lượng đánh bắt (cùng việc hình thành đội tàu công ích) và hiệu
chỉnh số liệu kết hợp với điều tra kế hoạch để có số liệu nhanh, có ích cho tổ
chức khai thác, nhất là ở các vùng trọng điểm.
Thứ sáu: Ưu tiên đầu tư cho nông nghiệp nông thôn cũng như trong
ngành thủy sản. Để kết quả đầu tư đến được với người lao động (phần lớn là sản
xuất nhỏ), phải có sự đổi mới thực sự trong lĩnh vực cải cách hành chính, mà
trước hết là trong khâu kế hoạch hoá, quản lý đầu tư và các thủ tục cấp phát, cho
vay...
Điều kiện để đảm bảo tính khả thi của các giải pháp vĩ mô đối với gạo, cà
phê, cao su và thủy sản trên đây là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và vai trò
quản lí của Nhà nước trong mọi lĩnh vực sản xuất-chế biến-xuất khẩu từ trung
ương, địa phương đến cơ sở.
2-Giải pháp vi mô:
a-Gạo:
Ở mức độ vi mô, đối với gao đòi hỏi các doanh nghiệp kinh doanh xuất
khẩu gạo phải năng động, nhạy bén trước hết là ở khâu thu mua, chế biến, đóng
gói bao bì, cần thu mua gạo đồng nhất về chủng loại, giống, điều kiện chăm sóc,
chế biến, đồng nhất về phẩm cấp và bao bì đóng gói phải bền chắc, đẹp, chống
được hư hỏng trong quá trình vận chuyển. Thứ hai là phải năng động tìm kiếm
các khách hàng mới. Thứ ba là trong khi kí kết hợp đồng cần cố gắng thoả thuận
với khách về giá sao cho có lợi cho ta. Các doanh nghiệp cần có biện pháp thu
mua kịp thời, trực tiếp không nên mua qua trung gian.
b-Cà phê :
43
Hiện nay, việc xuất khẩu cà phê hoàn toàn nằm trong tay các công ty cà
phê (các công ty này cũng là các nhà sản xuất). Các công ty này đến mùa vụ thì
thu mua của nông dân trồng khoán cho công ty và của các trang trại trong vùng
về để sơ chế. Do vậy, thực chất trong công tác xuất khẩu công ty đã làm từ A
đến Z. Do giá cả cà phê tăng giảm thất thường nên điều cốt lõi các công ty cần
quan tâm là làm thế nào để điều hoà được công tác sản xuất và xuất khẩu sao
cho có lợi nhất. Muốn vậy, công ty phải thu thập được thông tin về sản lượng cà
phê thế giới, được mùa, mất mùa ra sao, xu hướng tăng giảm giá thế nào để có
kế hoạch sản xuất, thu mua, kí kết hợp đồng với khách hàng cho hợp lý. Các
công ty cũng cần quan tâm đến việc đầu tư máy móc thiết bị để sơ chế cà phê,
nâng cao chất lượng cho cà phê nhân xuất khẩu. Các công ty cũng cần tích cực
tìm kiếm các thị trường mới, khách hàng mới đặc biệt là từ Nhật, Singapore,
Thái Lan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đông Âu, Nga. Để làm được điều này, công
ty cần tăng cường công tác nghiên cứu thị trường và xúc tiến thương mại. Các
biện pháp thường được sử dụng là bán hàng cá nhân và hội chợ triển lãm.
c-Cao su:
Trước hết là phải mở rộng, phát triển sang chiều sâu để nâng cao sản
lượng. Tìm kiếm thị trường mới, nâng cao khả năng cạnh tranh so với các nước
trong khu vực, học tập kinh nghiệm của các nước xuất khẩu cao su lớn ở khu
vực như: Thái Lan, Malaysia, Inđônêxia, không nên phụ thuộc quá nhiều vào thị
trường Trung Quốc. Thứ hai là cần tăng nhanh tỉ lệ mủ cao su loại SVR10,
SVR20 vì đây là loại cao su đang có thị trường tiêu thụ lớn trên thế giới.
d-Thủy sản:
Về khai thác: Vấn đề quan trọng đặt ra trong thời gian tới là với chủ
trương vươn ra khai thác xa bờ thì cần có biện pháp tích cực phát triển nuôi
trồng thủy sản để nâng cao sản lượng và giá trị xuất khẩu. Tuy nhiên, xuất phát
từ tiềm năng nguồn lợi trong vùng biển nước ta mà đến nay chúng ta biết được
mức khai thác cao nhất có thể đạt được là 500 ngàn tấn thủy sản ở vùng biển xa
44
bờ cộng 700 ngàn tấn gần bờ là mức bền vững. Ngoài việc phát triển nghề cá
biển xa, việc nuôi cũng đòi hỏi tổ chức sản xuất mới, kinh tế hộ không đáp ứng
nổi, phát triển phải đi liền với sự liên kết ở dạng các tổ chức hợp tác, hợp tác xã
hay đòi hỏi có vai trò rõ ràng của doanh nghiệp Nhà nước.
Về phát triển nuôi trồng:
Thứ nhất: Cần tiếp tục đẩy mạnh việc nuôi thủy sản ven bờ. Thực tế cho
thấy: năm 1994, Thái Lan khai thác hải sản cho sản lượng 2,8 triệu tấn, giá trị
1440 triệu USD; trong khi nuôi thủy sản (tôm và cá biển) chỉ có 345.000 tấn
nhưng đạt giá trị 1638 triệu USD tức là 13% sản lượng nhưng lại chiếm 59%
giá trị tổng cộng(1).
Thú hai: Nước ta có khoảng 500.000 ha ruộng trũng, việc có kế hoạch sử
dụng ít nhất một vụ cho nuôi thủy sản vừa giải quyết được khó khăn tốn kém
cho công tác thủy lợi, vừa có sản phẩm thu nhập cao hơn, góp phần thực sự cho
cải tiến cơ cấu kinh tế nông thôn. Thực tế thời gian qua, nhiều địa phương đã
làm thử, kết quả đạt được khá tốt và có thể nhân rộng từng bước.
Thứ ba: Phát triển nuôi thâm canh và bán thâm canh là bước đi đúng đắn
trong việc sử dụng có hiệu quả các mặt nước ven biển. Phát triển phải đồng bộ
với quản lý, nhất là quản lý để có tính bền vững về sử dụng nguồn lợi và không
hủy hoại môi trường.
(1): Thế mạnh của nghề cá nhân đân, sự phát triển có hiệu quả và bền vững ngành thuỷ
sản. Tạ Quang Ngọc. Tạp chí Cộng sản số 23 (12/1998) trang 16.
45
KẾT LUẬN
Đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh hàng nông
thủy sản xuất khẩu của nước ta “ là một đề tài khó, đòi hỏi người viết phải có
một tri thức tổng hợp và nguồn tài liệu tham khảo đầy đủ về vấn đề đã nêu. Do
vậy, mặc dù đã có nhiều cố gắng, song bài viết này chắc chắn không tránh khỏi
có những chỗ thiếu sót. Tuy nhiên, về cơ bản bài viết đã giải quyết được những
vấn đề đã nêu ra ở phần mục lục, đặc biệt là tập trung vào phân tích thực trạng
xuất khẩu một số mặt hàng nông thủy sản, nêu ra được thành tựu, khó khăn, qua
đó dự báo được tương lai phát triển và đề ra một số biện pháp nhằm nâng cao
sức cạnh tranh của các mặt hàng này trên thị trường quốc tế.
Tuy đã nêu bật được những thành tựu và khó khăn, đặc biệt là của hai
mặt hàng gạo và cà phê, song do tài liệu còn thiếu thốn, kiến thức còn hạn hẹp
nên vẫn còn hạn chế. Cùng với nó là dự báo về triển vọng phát triển cũng như
các giải pháp đề ra cũng chưa được thuyết phục. Những mặt này rất cần được
thầy cô và những người quan tâm đến vấn đề này bổ sung thêm.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận Văn- Một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh hàng nông thủy sản xuất khẩu của nước ta.pdf