Luận văn Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại xí nghiệp hoá dược

Tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại xí nghiệp hoá dược: LUẬN VĂN: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Xí nghiệp Hoá Dược Lời nói đầu Hơn một thập kỷ qua, với đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước và bước đầu đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Những năm gần đây (Nhất là từ năm 1991 đến nay) nền kinh tế đang dần khởi sắc, đã có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế và thu hút đầu tư nước ngoài càng lớn, tạo thế và lực nhanh hơn. Bên cạnh thuận lợi đó các doanh nghiệp quản lý kinh doanh trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các mặt hàng phục vụ cho sức khoẻ đời sống vật chất của con người không ít khó khăn thử thách: trang thiết bị lạc hậu, trình độ công nghệ, trình độ quản lý chưa theo kịp với đà lên ngày càng cao của thị trường cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp tuy đã xoá bỏ, từ lâu nhưng vẫn còn là sức ỳ tâm lý rất lớn cản trở sự nhạ...

pdf68 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1038 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại xí nghiệp hoá dược, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Xí nghiệp Hoá Dược Lời nói đầu Hơn một thập kỷ qua, với đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước và bước đầu đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Những năm gần đây (Nhất là từ năm 1991 đến nay) nền kinh tế đang dần khởi sắc, đã có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế và thu hút đầu tư nước ngoài càng lớn, tạo thế và lực nhanh hơn. Bên cạnh thuận lợi đó các doanh nghiệp quản lý kinh doanh trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các mặt hàng phục vụ cho sức khoẻ đời sống vật chất của con người không ít khó khăn thử thách: trang thiết bị lạc hậu, trình độ công nghệ, trình độ quản lý chưa theo kịp với đà lên ngày càng cao của thị trường cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp tuy đã xoá bỏ, từ lâu nhưng vẫn còn là sức ỳ tâm lý rất lớn cản trở sự nhạy bén linh ứng với phương pháp và cách thức điều hành doanh nghiệp lớn nhất là trong lĩnh vực tài chính. Các doanh nghiệp còn nhiều lúng túng trong việc huy động, quản lý và sử dụng vốn, hầu hết các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bị rơi vào tình trạng thiếu vốn. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do công tác quản lý và sử dụng vốn kém hiệu quả. Trong khuôn khổ của chuyên đề thực tập em xin chọn đề tài nghiên cứu: " Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Xí nghiệp Hoá Dược". Đề tài bao gồm 3 phần: Phần I : Vốn và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường Phần II : Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tạiXí nghiệp Hoá Dược. Phần III : Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Xí nghiệp Hoá Dược . Phần I Vốn và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường I. Vốn và vai trò của vốn đối với các doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường vốn là điều kiện không thể thiếu được để thành lập một doanh nghiệp và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Với tầm quan trọng như vậy, việc nghiên cứu cần phải bắt đầu làm rõ khái niệm cơ bản vốn là gì và vai trò của vốn đối với doanh nghiệp thể hiện như thế nào. 1. Khái niệm Theo quan điểm của Marx, vốn ( tư bản) là giá trị đem lại giá trị thặng dư là một đầu vào của quá trình sản xuất. Định nghĩa của Marx có tầm khái quát lớn nhưng do bị hạn chế bởi những điều kiện khách quan lúc bấy giờ nên Marx đã quan niệm chỉ có khu vực sản xuất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế. Các nhà kinh tế học đại diện cho các trường phái kinh tế khác nhau cũng có các quan điểm khác nhau về vốn. Theo P. Samuelson vốn là những hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho quá trình sản xuất mới, là một đầu vào cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong cuốn " kinh tế học " của D. Begg tác giả đã đưa ra 2 định nghĩa về vốn hiện vật và vốn tài chính của doanh nghiệp: vốn hiện vật là dự trữ các hàng hoá đã sản xuất ra để sản xuất ra các hàng hoá khác; vốn tài chính là các loại giấy tờ có giá của doanh nghiệp. Các quan điểm của vốn ở trên tuy thể hiện được vai trò tác dụng trong những điều kiện lịch sử cụ thể với các yêu cầu, mục đích nghiên cứu cụ thể nhưng vẫn bị hạn chế bởi sự đồng nhất vốn với tài sản của doanh nghiệp. Thực chất vốn là biểu hiện bằng tiền, là giá trị của tài sản mà doanh nghiệp đang nắm giữ. Vốn và tài sản là hai mặt có giá trị và hiện vật của một bộ phận nguồn lực sản xuất mà doanh nghiệp huy động vào quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, vốn được quan niệm là toàn bộ những giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình sản xuất tiếp theo của doanh nghiệp. Khái niệm này không những chỉ ra vốn là một yếu tố đầu vào của sản xuất mà còn đề cập tới sự tham gia của vốn không chỉ bó hẹp trong một quá trình sản xuất riêng biệt, chia cắt mà trong toàn bộ trong mọi quá trình sản xuất và tái sản xuất liên tục trong suốt thời gian tồn tại của doanh nghiệp. Như vậy, vốn là yếu tố số một của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, nó đòi hỏi các doanh nghiệp phải quản lý và sử dụng có hiệu quả để bảo toàn và phát triển vốn, đảm bảo cho doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh. Vì vậy, các doanh nghiệp cần thiết phải nhận thức đầy đủ hơn về vốn cũng như những đặc trưng của vốn. Điều đó có ý nghĩa rất lớn đối với các doanh nghiệp vì chỉ khi nào các doanh nghiệp hiểu rõ được tầm quan trọng và giá trị của đồng vốn thì doanh nghiệp mới có thể sử dụng nó một cách có hiệu quả được. Các đặc trưng cơ bản của vốn: - Vốn phải đại diện cho một lượng tài sản nhất định: có nghĩa là vốn được biểu hiện bằng giá trị của tài sản hữu hình và tài sản vô hình của doanh nghiệp. - Vốn phải vận động sinh lời, đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. - Vốn phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định mới có thể phát huy tác dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. - Vốn có giá trị về mặt thời gian; điều này rất có ý nghĩa khi bỏ vốn vào đầu tư và tính hiệu quả sử dụng của đồng vốn. - Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định, không thể có đồng vốn vô chủ và không có ai quản lý. - Vốn được quan niệm như một hàng hóa và là một hàng hoá đặc biệt có thể mua bán quyền sử dụng vốn trên thị trường; tạo nên sự giao lưu sôi động trên thị trường vốn, thị trường tài chính. - Vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền của các tài sản hữu hình mà còn được biểu hiện bằng tiền của những tài sản vô hình ( Tài sản vô hình của doanh nghiệp có thể là vị trí kinh doanh, lợi thế trong sản xuất, bằng phát minh sáng chế, các bí quyết về công nghệ…) 2. Phân loại vốn. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để quản lý và sử dụng vốn một cách có hiệu quả các doanh nghiệp đều tiến hành phân loại vốn. Tuỳ vào mục đích và loại hình của từng doanh nghiệp mà mỗi doanh nghiệp phân loại vốn theo các tiêu thức khác nhau. 2.1 Phân loại vốn theo nguồn hình thành. 2.1.1. Vốn chủ sở hữu. a. Vốn pháp định. Vốn pháp định là số vốn tối thiểu phải có để thành lập doanh nghiệp do pháp luật quy định đối với từng ngành nghề. Đối với doanh nghiệp Nhà nước, nguồn vốn này do ngân sách nhà nước cấp hoặc có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước như khoản chênh lệch tăng giá làm tăng giá trị tài sản, tiền vốn trong doanh nghiệp, các khoản phải nộp nhưng được để lại doanh nghiệp. b. Vốn tự bổ sung Vốn tự bổ sung là vốn chủ yếu do doanh nghiệp được lấy một phần từ lợi nhuận để lại doanh nghiệp, nó được thực hiện dưới hình thức lấy một phần từ quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính. Ngoài ra, đối với doanh nghiệp nhà nước còn được để lại toàn bộ số khấu hao cơ bản tài sản cố định để đầu tư, thay thế, đổi mới tài sản cố định. Đây là nguồn tự tài trợ cho nhu cầu vốn của doanh nghiệp. 2.1.2. Vốn huy động của doanh nghiệp. Đối với một doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường, vốn chủ sở hữu có vai trò rất quan trọng nhưng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn. Để đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải tăng cường vốn huy động các nguồn vốn khác dưới hình thức vay nợ, liên doanh liên kết, phát hành trái phiếu và các hình thức khác. a. Vay vốn Doanh nghiệp có thể vay ngân hàng, các tổ chức tín dụng, các cá nhân, đơn vị kinh tế để tạo lập hoặc tăng thêm nguồn vốn. - Vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng rất quan trọng đối với các doanh nghiệp. Nguồn vốn này đáp ứng đúng thời điểm các khoản tín dụng ngắn hạn hoặc dài hạn theo nhu cầu của doanh nghiệp trên cơ sở các hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng và doanh nghiệp - Vốn vay trên thị trường chứng khoán. Tại những nền kinh tế có thị trường chứng khoán phát triển, vay vốn trên thị trường chứng khoán là hình thức huy động vốn cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu, đây là công cụ tài chính quan trọng dễ sử dụng vào mục đích vay dài hạn đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh. Việc phát hành trái phiếu cho phép doanh nghiệp có thể thu hút rộng rãi số tiền nhàn rỗi trong xã hội để mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. b. Vốn liên doanh liên kết. Doanh nghiệp có thể liên doanh liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp khác để huy động vốn nhằm thực hiện hoạt động mở rộng sản xuất - kinh doanh. Đây là một hình thức huy động vốn quan trọng vì hoạt động tham gia góp vốn liên doanh, liên kết gắn liền với việc chuyển giao công nghệ, thiết bị giữa các bên tham gia nhằm đổi mới sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp; doanh nghiệp cũng có thể tiếp nhận máy móc, thiết bị nếu hợp đồng liên doanh quy định góp vốn bằng máy móc thiết bị. c. Vốn tín dụng thương mại. Tín dụng thương mại là các khoản mua chịu từ nguồn cung cấp hoặc ứng trước của khách hàng mà doanh nghiệp tạm thời chiếm dụng. Tín dụng thương mại luôn gắn với một luồng hàng hoá dịch vụ cụ thể, gắn với một quan hệ thanh toán cụ thể nên nó chịu tác động của cơ chế thanh toán, của chính sách tín dụng khách hàng mà doanh nghiệp được hưởng. Đây là phương thức tài trợ tiện lợi, linh hoạt trong kinh doanh và nó còn tạo khả năng mở rộng hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Tuy nhiên các khoản tín dụng thương mại thường có thời hạn ngắn nhưng nếu doanh nghiệp biết quản lý một cách khoa học nó có thể đáp ứng phần nào vốn lưu động cho doanh nghiệp. d. Vốn tín dụng thuê mua. Trong hoạt động kinh doanh, tín dụng thuê mua là một phương thức giúp cho các doanh nghiệp thiếu vốn vẫn có được tài sản cần thiết sử dụng vào hoạt động trong kinh doanh của mình. Đây là phương thức tài trợ thông qua hợp đồng thuê giữa người thuê và người cho thuê. Người thuê được sử dụng tài sản và phải trả tiền thuê cho người cho thuê theo thời hạn mà hai bên thoả thuận, người cho thuê là người sở hữu tài sản và nhận được tiền cho thuê tài sản. Tín dụng thuê mua có hai phương thức giao dịch chủ yếu là thuê vận hành và thuê tài chính. * Thuê vận hành. Phương thức thuê vận hành hay còn gọi là thuê hoạt động là một hình thức thuê ngắn hạn tài sản. Hình thức thuê này có đặc trưng chủ yếu sau.  Thời hạn thuê thường rất ngắn so với toàn bộ thời gian tồn tại hữu ích của tài sản, điều kiện chấm dứt hợp đồng chỉ cần báo trước trong thời gian ngắn.  Người thuê chỉ phải trả tiền thuê theo thoả thuận, người cho thuê phải chịu mọi chi phí vận hành của tài sản như chi phí bảo trì, bảo hiểm, thuế tài sản … cùng với mọi rủi ro về hao mòn vô hình của tài sản. Hình thức này hoàn toàn phù hợp đối với những hoạt động có tính chất thời vụ và nó đem lại cho bên thuê là không cần phải phản ánh loại này vào sổ sách kế toán. * Thuê tài chính. Thuê tài chính là một phương thức tài trợ tín dụng trung hạn và dài hạn theo hợp đồng. Theo phương thức này, người cho thuê thường phải mua tài sản, thiết bị mà người thuê cần và đã thương lượng từ trước các điều kiện mua tài sản từ người cho thuê. Thuê tài chính có đặc trưng:  Thời hạn thuê tài sản của bên thuê phải chiếm phần lớn đời sống hữu ích của tài sản và hiện giá thuần của toàn bộ các khoản tiền thuê phải đủ để bù đắp những chi phí mua tài sản tại thời điểm bắt đầu hợp đồng. Trong thời hành thuê chính thức các bên trong hợp đồng không được tự ý huỷ hợp đồng.  Ngoài khoản tiền thuê tài sản trả cho bên cho thuê, các khoản chi phí bảo dưỡng vận hành, phí bảo hiểm, thuế tài sản, cũng như các rủi ro khác đối với tài sản do bên thuê phải chịu cũng tương tự như tài sản của doanh nghiệp . Trên đây là cách phân loại vốn theo nguồn hình thành, nó là cơ sơ để doanh nghiệp lựa chọn nguồn tài trợ phù hợp tuỳ theo loại hình sở hữu, ngành nghề kinh doanh quy mô, trình độ quản lý, trình độ khoa học kỹ thuật cũng như chiến lược phát triển và chiến lược đầu tư của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, đối với việc quản lý vốn ở các doanh nghiệp trọng tâm cần đề cập là hoạt động luân chuyển của vốn, sự ảnh hưởng qua lại của các hình thái khác nhau của tài sản và hiệu quả quay vòng vốn. Vốn cần đựơc xem xét dưới quan điểm hiệu quả. 2.2. Phân loại vốn theo phương thức chu chuyển 2.2.1. Vốn cố định Trong quá trình sản xuất kinh doanh sự vận động của vốn cố định gắn liền với hình thái biểu hiện vật chất của nó là tài sản cố định. Vì vậy, việc nghiên cứu về vốn cố định trước hết phải dựa trên cơ sơ tìm hiểu tài sản cố định. a. Tài sản cố định. Căn cứ vào tính chất và tác dụng trong khi tham gia vào quá trình sản xuất, tư liệu sản xuất được chia làm hai bộ phận là đối tượng lao động và tư liệu lao động. Đặc điểm cơ bản của tư liệu lao động là chúng có thể tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào nhiều chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó, mặc dù tư liệu sản xuất bị hao mòn nhưng chúng vẫn giữ nguyên hình thái ban đầu. Chỉ khi nào chúng bị hư hỏng hoàn toàn hoặc xét thấy không có lợi về mặt kinh tế thì khi đó chúng mới bị thay thế, đổi mới. Tài sản cố định là những tư liệu lao động của doanh nghiệp, khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh nó không thay đổi hình thái vật chất ban đầu, nó có thể tham gia nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm hàng hoá và giá trị của nó được chuyển dịch dần dần từng phần vào giá trị của sản phẩm tuỳ theo mức độ hao mòn vật chất của tài sản cố định. Bộ phận chuyển dịch vào trong giá trị sản phẩm mới tạo nên một yếu tố chi phí sản xuất sản phẩm và được thu hồi sau khi tiêu thụ được sản phẩm . Để có thể xem xét thế nào là tài sản cố định, Nhà nước ta có quy định một tư liệu lao động phải đạt đủ hai tiêu chuẩn sau đây: Thời gian sử dụng tối thiêu phải một năm trở lên. Giá trị phải đạt tới một độ lớn nhất định trong từng thời kỳ (hiện nay quy định từ 5 triệu đồng trở lên (Ttheo thời giá năm 1997). Để tăng cường công tác quản lý tài sản cố định cũng như vốn cố định và nâng cao hiệu quả sử dụng của chúng cần thiết phải phân loại tài sản cố định. Căn cứ vào tính chất tham gia của tài sản cố định trong doanh nghiệp thì tài sản cố định được phân loại: * Tài sản cố định dùng cho mục đích kinh doanh. Loại này bao gồm tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình.  Tài sản cố định hữu hình bao gồm các loại sau: Loại1: Nhà cửa, vật kiến trúc. Loại 2: Máy móc thiết bị dùng cho sản xuất - kinh doanh. Loại 3: Phương tiện vận tải, truyền dẫn. Loại 4: Thiết bị và dụng cụ quản lý. Loại 5: Vườn cây lâu năm xúc vật làm việc và cho sản phẩm. Loại 6: Các tài sản cố định khác.  Tài sản cố định vô hình hay những tài sản cố định không có hình thái vật chất ở nhiều doanh nghiệp có giá trị rất lớn như lợi thế thương mại, uy tín của doanh nghiệp và của sản phẩm, nhãn hiệu sản phẩm… * Tài sản cố định dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh quốc phòng. * Tài sản cố định mà doanh nghiệp phải bảo quản và cất giữ hộ Nhà nước. Việc phân loại tài sản cố định theo cách này giúp cho doanh nghiệp biết được vị trí và tầm quan trọng của tài sản cố định dùng vào mục đích hoạt động sản xuất kinh doanh và phương hướng đầu tư vào tài sản cố định hợp lý. Căn cứ vào tình hình sử dụng thì tài sản cố định của doanh nghiệp được chia thành các loại sau: * Tài sản cố định đang sử dụng. * Tài sản cố định chưa sử dụng * Tài sản cố định không cần dùng và chờ thanh lý. Các phân loại này giúp cho doanh nghiệp biết một cách tổng quát tình hình sử dụng tài sản cố định, mức độ huy động chúng vào hoạt động sản xuất, kinh doanh và xác định đúng đắn số tài sản cố định cần tính khấu hao, có biện pháp thanh lý những tài sản cố định đã hết thời gian thu hồi vốn. b. Vốn cố định của doanh nghiệp Việc đầu tư thành lập một doanh nghiệp bao gồm việc xây dựng nhà xưởng, nhà làm việc và quản lý, lắp đặt hệ thống các máy móc thiết bị chế tạo sản phẩm, mua sắm xe cộ và các phương tiện vận tải… khi các công việc được hoàn thành và bàn giao thì doanh nghiệp mới có thể bắt đầu tiến hành sản xuất được. Như vậy, vốn đầu tư ban đầu đã chuyển thành vốn cố định của doanh nghiệp. Vậy: vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định; đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng. Vốn cố định của doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong sản xuất - kinh doanh. Việc đầu tư đúng hướng tài sản cố định sẽ mang lại hiệu quả và năng xuất rất cao trong kinh doanh, giúp cho doanh nghiệp cạnh tranh tốt hơn và đứng vững trong cơ chế thị trường. 2.2.2. Vốn lưu động. a. Tài sản lưu động Trong quá trình sản xuất kinh doanh bên cạnh tài sản cố định, doanh nghiệp luôn có một khối lượng tài sản nhất định nằm rải rác trong các khâu của quá trình sản xuất: dự trữ chuẩn bị sản xuất, phục vụ sản xuất, phối hợp , tiêu thụ sản phẩm, đây chính là tài sản lưu động của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, giá trị của tài sản lưu động thường chiếm tới 50% - 70% tổng giá trị tài sản. Tài sản lưu động chủ yếu nằm trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và là các đối tượng lao động. Đối với lao động khi tham gia vào quá trình sản xuất không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu. Bộ phận chủ yếu của đối tượng lao động sẽ thông qua quá trình sản xuất tạo thành thực thể của sản phẩm, bộ phận khác sẽ hao phí mất đi trong quá trình sản xuất. Đối tượng lao động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất do đó toàn bộ giá trị của chúng được chuyển dịch một lần vào sản phẩm và được thực hiện khi sản phẩm trở thành hàng hoá. Đối tượng lao động trong các doanh nghiệp được chia thành hai thành phần: một bộ phận là những vật tư dự trữ để đảm bảo cho quá trình sản xuất được liên tục, một bộ phận là những vật tư đang trong quá trình chế biến ( sản phẩm đa dang, bán thành phẩm,…) cùng với các công cụ, dụng cụ, phụ tùng thay thế được dự trữ hoặc sử dụng, chúng tạo thành tài sản lưu động nằm trong khâu sản xuất của doanh nghiệp. Bên cạnh tài sản lưu động nằm trong khâu sản xuất, doanh nghiệp cũng có một số tài sản lưu động khác nằm trong khâu lưu thông, thanh toán đó là các vật tư phục vụ quá trình tiêu thụ, là các khoản hàng gửi bán, các khoản phải thu… Do vậy, trứơc khi bước vào sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần có một lượng vốn thích đáng để đầu tư vào những tài sản ấy, số tiền ứng trước về tài sản lưu động đó được gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp. b. vốn lưu động. Vốn lưu động luôn được chuyển hoá qua nhiều hình thức khác nhau, bắt đầu từ hình thái tiền tệ sang hình thái dự trữ vật tư - hàng hoá và lại quay trở về hình thái tiền tệ ban đầu của nó. Vì quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục cho nên vốn lưu động cũng tuần hoàn không ngừng có tính chất chu kỳ thành sự chu chuyển của vốn. Vậy: vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất cho doanh nghiệp đựơc thực hiện thường xuyên, liên tục. Trong doanh nghiệp, việc quản lý tốt vốn lưu động có vai trò rất quan trọng. Một doanh nghiệp được đánh giá là quản lý vốn lưu động có hiệu quả khi với một khối lượng vốn không lớn doanh nghiệp biết phân bổ hợp lý trên các giai đoạn luân chuyển vốn để số vốn lưu động đó chuyển biến nhanh từ hình thái này sang hình thái khác, đáp ứng đựơc các nhu cầu phát sinh. Muốn quản lý tốt vốn lưu động các doanh nghiệp trước hết phải nhận biết được các bộ phận cấu thành của vốn lưu động trên cơ sở đó đề ra được các biện pháp quản lý phù hợp với từng loại. Căn cứ vào công dụng của các tài sản lưu động thì vốn lưu động bao gồm: * Vốn lưu động nằm trong quá trình dự trữ sản xuất. Ví dụ vốn nguyên vật liệu, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, vốn về công cụ dụng cụ… * Vốn lưu động nằm trong quá trình trực tiếp sản xuất: vốn sản phẩm đang chế tạo, vốn bán thành phẩm tự chế, vốn về chi phí tổn được phân bổ… * Vốn lưu động lưu động nằm trong quá trình lưu thông: vốn thành phẩm và hàng hoá mua ngoài, vốn tiền tệ, vốn tạm ứng… Căn cứ vào hình thái biểu hiện vốn lưu động bao gồm: * Tiền mặt và chứng khoán có thể bán được. * Các khoản phải thu. * Các khoản dự trữ: vật tư, hàng hoá… 3.Vai trò của vốn đối với các doanh nghiệp. Tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh dù với bất kỳ quy mô nào cũng cần phải có một lượng vốn nhất định, nó là điều kiện tiền đề cho sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp. Về mặt pháp lý: Mỗi doanh nghiệp khi muốn thành lập thì điều kiện đầu tiên doanh nghiệp đó phải có một lượng vốn nhất định, lượng vốn đó tối thiểu phải bằng lượng vốn pháp định ( lượng vốn tối thiểu mà pháp luật quy định cho từng loại hình doanh nghiệp ) khi đó địa vị pháp lý của doanh nghiệp mới được xác lập. Ngược lại, việc thành lập doanh nghiệp không thể thực hiện được. Trường hợp trong quá trình hoạt động kinh doanh, vốn của doanh nghiệp không đạt điều kiện mà pháp luật quy định, doanh nghiệp sẽ bị tuyên bố chấm dứt hoạt động như phá sản, giải thể, sáp nhập… Như vậy, vốn có thể được xem là một trong những cơ sở quan trọng nhất để đảm bảo sự tồn tại tư cách pháp nhân của một doanh nghiệp trước pháp luật. Về kinh tế: Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn là một trong những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của từng doanh nghiệp. Vốn không những đảm bảo khả năng mua sắm máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ để phục vụ cho quá trình sản xuất mà còn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra thường xuyên, liên tục. Vốn là yếu tố quan trọng quyết định đến năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và xác lập vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Điều này càng thể hiện rõ trong nền kinh tế thị trường hiện nay với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, đầu tư hiện đại hoá công nghệ… tất cả những yếu tố này muốn đạt được thì đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn đủ lớn. Vốn cũng là yếu tố quyết định đến việc mở rộng phạm vi hoạt động của doanh nghiệp. Để có thể tiến hành tái sản xuất mở rộng thì sau một chu kỳ kinh doanh, vốn của doanh nghiệp phải sinh lời tức là hoạt động sản xuất kinh doanh phải có lãi đảm bảo vốn của doanh nghiệp bảo toàn và phát triển. Đó là cơ sở để doanh nghiệp tiếp tục đầu tư mở rộng phạm vi tiêu thụ, nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thương trường tiêu thụ, nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. Nhận thức được vai trò quan trọng của vốn như vậy thì doanh nghiệp mới có thể sử dụng vốn tiết kiệm, có hiệu quả và luôn tìm cách nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. II Hiệu quả sử dụng vốn. 1. Quan điểm về hiệu quả sử dụng vốn. Để đánh giá trình độ quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp, người ta sử dụng thước đo là hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó. Hiệu quả sản xuất kinh doanh được đánh giá trên hai góc độ: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Trong phạm vi quản lý doanh nghiệp, người ta chủ yếu quan tâm đến hiệu quả kinh tế. Đây là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất với chi phí hợp lý nhất. Do vậy, các nguồn lực kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp có tác động rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu mang tính thường xuyên và bắt buộc đối với doanh nghiệp. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp ta thấy được hiệu quả của hoạt động kinh doanh: nói chung và quản lý sử dụng vốn nói riêng. Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác, sử dụng và quản lý nguồn vốn làm cho đồng vốn sinh lợi tối đa nhằm mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu. Hiệu quả sử dụng vốn được lượng hoá thông qua hệ thống các chỉ tiêu về khả năng hoạt động, khả năng sinh lời, tốc độ luân chuyển vốn…Nó phản ánh quan hệ giữa dầu ra và đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh thông qua thước đo tiền tệ hay cụ thể là mối tương quan giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh thông qua thước đo tiền tệ hay cụ thể là mối tương quan giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra để thể hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Kết quả thu được càng cao so với chi phí vốn bỏ ra thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao. Do đó, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là điều kiện quan trọng để doanh nghiệp phát triển vững mạnh. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp phải đảm bảo các điều kiện sau:  Phải khai thác nguồn lực vốn một cách triệt để nghĩa là không để vốn nhàn rỗi mà không sử dụng, không sinh lời.  Phải sử dụng vốn một cách hợp lý và tiết kiệm.  Phải quản lý vốn một cách chặt chẽ nghĩa là không để vốn bị sử dụng sai mục đích, không để vốn bị thất thoát do buông lỏng quản lý. Ngoài ra, doanh nghiệp phải thường xuyên phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng vốn để nhanh chóng có biện pháp khắc phục những mặt hạn chế và phát huy những ưu điểm của doanh nghiệp trong quản lý và sử dụng vốn. Có hai phương pháp để phân tích tài chính cũng như phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, đó là phương pháp so sánh và phương pháp phân tích tỷ lệ. * Phương pháp so sánh. Để áp dụng phương pháp so sánh cần phải đảm bảo các điều kiện so sánh được của các chỉ tiêu tài chính ( thống nhất về không gian, thời gian, nội dung, tính chất và đơn vị tính toán…) và theo mục đích phân tích mà xác định gốc so sánh.. Gốc so sánh được chọn là gốc về thời gian hoặc không gian, kỳ phân tích được chọn là kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể được lựa chọn bằng số tuyệt đối, số tương đối hoặc số bình quân; nội dung so sánh bao gồm:  So sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu hướng thay đổi về tài chính doanh nghiệp. Đánh giá sự tăng trưởng hay thụt lùi trong hoạt động kinh doanh để có biện pháp khắc phục trong kỳ tới.  So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để thấy rõ mức độ phấn đấu của doanh nghiệp.  So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số liệu trung bình của ngành: của các doanh nghiệp khác để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp mình tốt hay xấu được hay chưa được.  So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng thể, so sánh theo chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến đổi cả về số tương đối và số tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế toán liên tiếp. * Phuơng pháp phân tích tỷ lệ. Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài chính trong các quan hệ taì chính. Sự biến đổi các tỷ lệ, đó là sự biến đổi của các đại lượng tài chính. Về nguyên tắc, phương pháp tỷ lệ yêu cầu phải xác định được các ngưỡng, các định mức để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp, trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với giá trị các tỷ lệ tham chiếu. Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính được phân thành các nhóm tỷ lệ đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ về khả năng lực hoạt động kinh doanh, nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời. Mỗi nhóm tỷ lệ lại bao gồm nhiều tỷ lệ phản ánh riêng lẻ, từng bộ phận của hoạt động tài chính, trong mỗi trường hợp khác nhau, tuỳ theo góc độ phân tích, người phân tích lựa chọn những nhóm chỉ tiêu khác nhau. Để phục vụ cho việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp người ta thường dùng một số các chỉ tiêu mà ta sẽ trình bày cụ thể trong phần sau. 2. Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả sử dụng vốn chung. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp một cách chung nhất người ta thường dùng một số chỉ tiêu tổng quát như hiệu suất sử dụng tổng tài sản, doanh lợi vốn, doanh lợi vốn chủ sở hữu. Trong đó: Hiệu suất sử dụng Doanh thu Tổng tài sản Tổng tài sản Chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay của toàn bộ vốn, nó cho biết một đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu vì vậy nó càng lớn càng tốt. Đây là một chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh sợi của một đồng vốn đầu tư. Chỉ tiêu này còn được gọi là tỷ lệ hoàn vốn đầu tư, nó cho biết một đồng vốn đầu tư đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu, trình độ sử dụng vốn của người quản lý doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. Ba chỉ tiêu trên cho ta một cái nhìn tổng quát về hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp nhưng như ta đã biết nguồn vốn của doanh nghiệp được dùng để đầu tư cho các loại tài sản khác nhau như tài sản cố định, tài sản lưu động. Do đó, các nhà phân tích không chỉ quan tâm tới việc đo lường hiệu quả sử dụng của tổng nguồn vốn mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành nguồn vốn của doanh nghiệp đó là vốn cố định và vốn lưu động. = Doanh lợi vốn = Doanh lợi vốn Chủ sở hữu Lợi nhuận Vốn chủ sở hữu Lợi nhuận Tổng tài = 2.1. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định. Như trong phần trước ta đã trình bày, tái sản cố định là hình tái biểu hiện vật chất của vốn cố định. Vì vậy, để đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn cố định thì cần phải đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định qua các chỉ tiêu sau: Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản cố định tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần trong một năm. Hệ số này càng lớn càng tốt: Chỉ tiêu này phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu thuần thì phải bỏ ra bao nhiêu đồng nguyên giá tài sản cố định. Hệ số này càng nhỏ càng tốt. Chỉ tiêu này cho biết trung bình một đồng tài sản cố định tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn càng chứng tỏ việc sử dụng tài sản cố định đổi mới tài sản cố định và hệ số loại bỏ tài sản cố định để xem xét tình hình đổi mới nâng cao năng lực sản xuất của tài sản cố định. Hiệu suất sử dụng Doanh thu thuần Nguyên giá bình = Suất hao phí tài sản cố Nguyên giá bình quân TSCĐ Doanh thu thuần = Sức sinh lời của tài sản cố Lợi nhuận Nguyên giá bình = Hệ số đổi mới tài sản cố định Giá trị TSCĐ mới tăng trong kỳ = Hai chỉ tiêu này không chỉ phản ánh sự tăng giảm thuần tuý về tài sản cố định mà còn phản ánh trình độ tiến bộ khoa học kỹ thuật, tình hình đổi mới trang thiết bị của doanh nghiệp. Ngoài ra để đánh giá trực tiếp hiệu quả sử dụng vốn cố định, doanh nghiệp sử dụng hai chỉ tiêu sau: Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn cố định có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn cố định bình quân trong kỳ sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Nó phản ánh khả năng sinh lời của vốn cố định, chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. Giá trị TSCĐ lạc hậu, cũ giảm trong kỳ Hệ số loại bỏ tài sản cố định = Hiệu suất sử dụng vốn cố định Doanh thu thuần Vốn cố định bình quân = Lợi nhuận Vốn cố định bình quân Hiệu quả sử dụng vốn cố định = 2.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Khi phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động người ta thường dùng các chỉ tiêu sau: Chỉ tiêu này phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu thuần thì cần bao nhiêu đồng vốn lưu động. Hệ số này nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao, số vốn tiết kiệm được càng nhiều và ngược lại Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn lưu động tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận, chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. Đồng thời, để đánh giá về hiệu quả sử dụng vốn lưu động ngưười ta cũng đặc biệt quan tâm đến tốc độ luân chuyển vốn lưu động vì trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn lưu động vận động không ngừng qua các hình thái khác nhau. Do đó, nếu đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động sẽ góp phần giải quyết về nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Để xác định tốc độ luân chuyển của vốn lưu động người ta dùng chỉ tiêu sau: Hệ số đảm nhiệm Vốn lưu động VLĐ bình quân trong kỳ = Sức sinh lợi của vốn lưu động Lợi nhuận VLĐ bình quân trong kỳ = Số vòng quay của vốn lưu Doanh thu thuần VLĐ bình quân trong kỳ = Chỉ tiêu này còn được gọi là hệ số luân chuyển vốn lưu động, nó cho biết vốn lưu động được quay mấy vòng trong kỳ. Nếu số vòng quay tăng thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động tăng và ngược lại. Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết cho vốn lưu động quay được một vòng, thời gian của một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển của vốn lưu động càng lớn và làm rút ngắn chu kỳ kinh doanh, vốn quay vòng hiệu quả hơn. Mặt khác, do vốn lưu động biểu hiện dưới nhiều dạng tài sản lưu động khác nhau như tiền mặt, nguyên vật liệu, các khoản phải thu… nên khi đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động người ta còn đi đánh giá các mặt cụ thể trong công tác quản lý sử dụng vốn lưu động. Sau đây là một số chỉ tiêu cơ bản nhất phản ánh chất lượng của công tác quản lý ngân quỹ và các khoản phải thu. Tỷ suất này cho thấy khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn (phải thanh toán trong vòng một năm hay một chu kỳ kinh doanh ) của doanh nghiệp là cao hay thấp. Nếu chỉ tiêu này xấp xỉ bằng 1 thì doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài chình là bình thường hoặc khả quan. Thời gian của một Vòng luân chuyển Thời gian của một kỳ phân tích Số vòng quay VLĐ trong = Tỷ suất thanh toán Ngắn hạn Tổng số TSLĐ Tổng số nợ ngắn hạn = Thực tế cho thấy, tỷ suất này lớn hơn 0,5 thì tình hình thanh toán tương đối khả quan, còn nếu nhỏ hơn 0,5 thì doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong thanh toán công nợ và do đó có thể phải bán gấp hàng hoá, sản phẩm để trả nợ vì không đủ tiền thanh toán. Tuy nhiên, nếu tỷ suất này quá cao lại phản ánh một tình trạng không tốt vì vốn bằng tiền quá nhiều, vòng quay tiền chậm làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Chỉ tiêu này cho biết mức hợp lý của số dư các khoản phải thu và hiệu quả của việc đi thu hồi nợ. Nếu các khoản phải thu được thu hồi nhanh thì số vòng luân chuyển các khoản phải thu sẽ nâng cao và Xí nghiệp ít bị chiếm dụng vốn. Tuy nhiên, số vòng luân chuyển các khoản phải thu nếu quá cao sẽ không tốt vì có thể ảnh hưởng đến khối lượng hàng tiêu thụ do phương thức thanh toán quá chặt chẽ ( Chủ yếu là thanh toán ngay hay thanh toán trong một thời gian ngắn). Chỉ tiêu này cho thấy để thu hồi được các khoản phải thu cần một thời gian là bao nhiêu. Nếu số ngày này mà lớn hơn thời gian bán chịu quy định cho khách hàng thì việc thu hồi các khoản phải thu là chậm và ngược lại, số ngày quy định bán chịu cho khách Tỷ suất thanh toán tức thời Tổng số vốn bằng tiền = Số vòng quay các khoản phải thu Tổng số doanh thu bán chịu Bình quân các khoản = Thời gian một vòng quay các khoản phải Thời gian kỳ phân tích Số vòng quay các khoản = lớn hơn thời gian này thì có dấu hiệu chứng tỏ việc thu hồi nợ đạt trước kế hoạch về thời gian. Ngoài ra, để phục vụ cho quá trình phân tích người ta còn sử dụng kết hợp với các chỉ tiêu tài chính khác như: tỷ suất tài trợ, tỷ suất đầu tư, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu,… Trên đây là các chỉ tiêu cơ bản được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn tại các doanh nghiệp. Tuy nhiên trong quá trình quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung cũng như quản lý và sử dụng vốn nói riêng doanh nghiệp luôn chịu tác động của rất nhiều các nhân tố. Do vậy, khi phân tích, đánh giá để đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thì doanh nghiệp phải xem xét đến các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp cũng như ảnh hưởng gián tiếp tới hiệu quả sử dụg vốn của doanh nghiêp. 3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. 3.1. Chu kỳ sản xuất Đây là một đặc điểm quan trọng gắn trực tiếp tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nếu chu kỳ ngắn, doanh nghiệp sẽ thu hồi vốn nhanh nhằm tái tạo, mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại, nếu chu kỳ sản xuất dài doanh nghiệp sẽ chịu một gánh nặng ứ đọng vốn và lãi phải trả cho các khoản vay. 3.2. Kỹ thuật sản xuất. Các đặc điểm riêng có về kỹ thuật tác động liên tục tới một số chỉ tiêu quan trọng phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định như hệ số đổi mới máy móc thiết bị, hệ số sử dụng về thời gian, về công suất. Nếu kỹ thuật sản xuất đơn giản, doanh nghiệp dễ có điều kiện sử dụng máy móc thiết bị nhưng lại phải luôn đối phó với các đối thủ cạnh tranh và yêu cầu của khách hàng ngày càng cao về sản phẩm. Do vậy, doanh nghiệp dễ dàng tăng doanh thu, lợi nhuận trên vốn cố định nhưng khó giữ được chỉ tiêu này lâu dài. Nếu kỹ thuật sản xuất phức tạp, trình độ trang bị máy móc thiết bị cao doanh nghiệp có lợi thế trong cạnh tranh giảm lợi nhuận trên vốn cố định. 3.3. Đặc điểm của sản phẩm Sản phẩm của doanh nghiệp là nơi chứa đựng chi phí và việc tiêu thụ sản phẩm mang lại doanh thu cho doanh nghiệp qua đó quyết định lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nếu sản phẩm là tư liệu tiêu dùng nhất là sản phẩm công nghiệp nhẹ như rượu, bia, thuốc lá…. thì sẽ có vòng đời ngắn, tiêu thụ nhanh và qua đó giúp doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh. Hơn nữa những máy móc dùng để sản xuất ra những sản phẩm này có giá trị không quá lớn do vậy doanh nghiệp dễ có điều kiện đổi mới. Ngược lại, nếu sản phẩm có vòng đời dài có giá trị lớn, được sản xuất trên dây chuyền công nghệ có giá trị lớn như ô tô, xe máy… việc thu hồi vốn sẽ lâu hơn. 3.4. Tác động của thị trường Thị trường tiêu thụ sản phẩm có tác động rất lớn tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nếu thị trường sản phẩm ổn định sẽ là tác nhân tích cực thúc đẩy cho doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng và mở rộng thị trường. Nếu sản phẩm mang tính thời vụ thì ảnh hưởng tới doanh thu, quản lý sử dụng máy móc thiết bị và tác động tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp 3.5. Trình độ đội ngũ cán bộ và lao động sản xuất ^ Trình độ tổ chức quản lý của lãnh đạo. Vai trò của người lãnh đạo trong quá trình sản xuất kinh doanh là rất quan trọng. Sự điều hành và quản lý sử dụng vốn hiệu quả thể hiện ở sự kết hợp một cách tối ưu các yếu tố sản xuất, giảm chi phí không cần thiết đồng thời nắm bắt các cơ hội kinh doanh, đem lại cho doanh nghiệp sự tăng trưởng và phát triển. ^ Trình độ tay nghề của người lao động. Nếu công nhân sản xuất có trình độ tay nghề cao phù hợp với trình độ công nghệ của dây chuyền sản xuất thì việc sử dụng máy móc thiết bị sẽ tốt hơn, khai thác tối đa công suất của máy móc thiết bị làm tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả sử dụgn vốn của doanh nghiệp. Để sử dụng tiềm năng lao động có hiệu quả nhất, doanh nghiệp phải có một cơ chế khuyến khích vật chất cũng như trách nhiệm một cách công bằng. Ngược lại, nếu cơ chế khuyến khích không công bằng quy định trách nhiệm không rõ ràng sẽ là cản trở mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 3.6. Trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh. Đây cũng là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải trải qua ba giai đoạn là cung ứng, sản xuất và tiêu thụ. - Cung ứng là quá trình chuẩn bị các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất như nguyên vật liệu, lao động… nó bao gồm hoạt động mua và dự trữ. Một doanh nghiệp tổ chức tốt hoạt động sản xuất kinh doanh tức là doanh nghiệp đó đã xác định được lượng phù hợp của từng loại nguyên nhiên vật liệu, số lượng lao động cần thiết và doanh nghiệp đã biết kết hợp tối ưu các yếu tố đó. Ngoài ra, đảm bảo hiệu quả kinh doanh thì chất lượng hàng hoá đầu vào phải được đảm bảo, chi phí mua hàng giảm đến mức tối ưu. Còn mục tiêu của dự trữ là đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh không bị gián đoạn, không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh nên để đồng vốn được sử dụng có hiệu quả thì phải xác định được mức dự trữ hợp lý để tránh trường hợp dự trữ quá nhiều dẫn đến ứ đọng vốn và tăng chi phí bảo quản. - Khâu sản xuất ( đối với các doanh nghiệp thương mại không có khâu này) trong giai đoạn này phải sắp xếp dây chuyền sản xuất cũng như công nhân sao cho sử dụng máy móc thiết bị có hiệu quả nhất, khai thác tối đa công suất, thời gian làm việc của máy đảm bảo kế hoạch sản xuất sản phẩm. - Tiêu thụ sản phẩm là khâu quyết định đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp phải xác định giá bán tối ưu đồng thời cũng phải có nhưng biện pháp thích hợp để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm nhanh chóng. Khâu này quyết định đến doanh thu, là cơ sở để doanh nghiệp tái sản xuất. 3.7. Trình độ quản lý và sử dụng các nguồn vốn. Đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Công cụ chủ yếu để theo dõi quản lý sử dụng vốn là hệ thống kế toán- tài chính. Công tác kế toán thực hiện tốt sẽ đưa ra các số liệu chính xác giúp cho lãnh đạo nắm được tình hình tài chính của doanh nghiệp nói chung cũng như việc sử dụng vốn nói riêng trên cơ sở đó ra quyết định đúng đắn. Mặt khác, đặc điểm hạch toán, kế toán nội bộ doanh nghiệp luôn gắn với tính chất tổ chức sản xuất của doanh nghiệp nên cũng tác động tới việc quản lý vốn. Vì vậy, thông qua công tác kế toán mà thường xuyên kiểm tra tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp, sớm tìm ra những điểm tồn tại để có biện pháp giải quyết. 3.8. Các nhân tố khác. Ngoài các nhân tố kể trên còn rất nhiều các nhân tố khách quan khác ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp: - Các chính sách vĩ mô của nhà nước trong nền kinh tế thị trường là điều tất yếu nhưng các chính sách vĩ mô của Nhà nước tác động một phần không nhỏ tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Cụ thể hơn từ cơ chế giao vốn, đánh giá tài sản cố định, sự thay đổi các chính sách thuế, chính sách cho vay, bảo hộ và khuyến khích một số loại công nghệ nhất định đều có thể làm tăng hoặc giảm hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các quy định của nhà nước về phương hướng, định hướng phát triển của các ngành kinh tế đều ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Tuỳ từng doanh nghiệp và tuỳ từng thời kỳ khác nhau mà mức độ ảnh hưởng, tác động của các yếu tố này có khác nhau. Ngoài ra, đối với những doanh nghiệp Nhà nước thì chủ trương, định hướng phát triển của ngành cùng với quy định riêng của các đơn vị chủ quản cấp trên cũng ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. - Tiến bộ khoa học kỹ thuật: Trong điều kiện hiện nay, khoa học công nghệ pháp triển với tốc độ chóng mặt, thị trường công nghệ biến động không ngừng và chênh lệch về trình độ công nghệ giữa các nước là rất lớn, làn sóng chuyển giao công nghệ sản xuất mặt khác, nó đặt doanh nghiệp vào môi trường cạnh tranh gay gắt. Do vậy, để sử dụng vốn có hiệu quả doanh nghiệp phải xem xét đầu tư vào công nghệ nào và phải tính đến hao mòn vô hình do phát triển không ngừng của tiến bộ khoa học kỹ thuật. - Môi trường tự nhiên: là toàn bộ các yếu tố tự nhiên tác động đến doanh nghiệp như khí hậu, thời tiết, môi trường… Các điều kiện làm việc trong môi trường tự nhiên phù hợp sẽ tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả công việc. Mặt khác, các điều kiện tự nhiên còn tác động đến các hoạt động kinh tế và cơ sở vật chất của doanh nghiệp. Tính thời vụ, thiên tai, lũ lụt… gây khó khăn cho rất nhiều doanh nghiệp và ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. 4. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh thường đặt ra nhiều mục tiêu và tuỳ thuộc vào giai đoạn hay điều kiện cụ thể mà có những mục tiêu được ưu tiên thực hiện nhưng tất cả đều nhằm mục đích cuối cùng là tốt đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu, đạt được mục tiêu đó doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển được. Một doanh nghiệp muốn thực hiện tốt mục tiêu của mình thì phải hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Trong khi đó sản xuất kinh doanh cũng chịu sự tác động của các yếu tố khác có tính chất quyết định đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Như phần trên ta đã trình bày hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, do vậy doanh nghiệp phải xét đến các nhân tố ảnh hưởng khi tìm các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đặc biệt trong điều kiện hiện nay. Trước đây trong cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, doanh nghiệp Nhà nước coi nguồn vốn cấp phát từ ngân sách Nhà nước đồng nghĩa với " Cho không " nên khi sử dụng nhiều doanh nghiệp không cần quan tâm tới hiệu quả, kinh doanh thua lỗ đã có nhà nước bù đắp đã gây ra tình trạng vô chủ trong việc quản lý và sử dụng vốn dẫn tới lãng phí vốn và hiệu quả kinh tế rất thấp. Theo số liệu thống kê cho thấy việc sử dụng tài sản cố định chỉ đạt 50% - 60% công suất thiết kế, phổ biến chỉ hoạt động 1 ca/ ngày vì vậy hệ số sinh lời của đồng vốn thấp. Khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp buộc phải chuyển mình theo cơ chế mới có thể tồn tại và phát triển. Cạnh tranh là quy luật của thị trường, nó cho phép tận dụng triệt để mọi nguồn lực của doanh nghiệp và của toàn xã hội vì nó khiến cho doanh nghiệp phải luôn tự đổi mới, hạ giá thành, tăng năng suất lao động, cải tiến mẫu mã chất lượng sản phẩm để có thể đứng vững trên thương trường và làm tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu. Bởi vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn có vị trí quan trọng hàng đầu của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đảm bảo an toàn tài chính cho doanh nghiệp. Hoạt động cơ chế thị trường đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải luôn đề cao tính an toàn, đặc biệt là an toàn tài chính. Đây là vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Việc sử dụng vốn có hiệu qủa sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng huy động các nguồn vốn tài trợ dễ dàng hơn, khả năng thanh toán của doanh nghiệp được đảm bảo, doanh nghiệp có đủ tiềm lực để khắc phục những khó khăn và một số rủi ro trong kinh doanh. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh. Để đáp ứng các yêu cầu cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm … doanh nghiệp phải có vốn, trong khi đó vốn của doanh nghiệp chỉ có hạn vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là cần thiết. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu và các mục tiêu khác của doanh nghiệp như nâng cao uy tín sản phẩm trên thị trường, nâng cao mức sống của người lao động… Vì khi hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận thì doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động và mức sống của người lao động cũng ngày càng được cải thiện. Điều đó giúp cho năng suất lao động cũng ngày càng được cải thiện. Điều đó giúp cho năng suất lao động của doanh nghiệp ngày càng nâng cao, tạo sự phát triển cho doanh nghiệp và các ngành liên quan. Đồng thời nó cũng làm tăng các khoản đóng góp cho ngân sách Nhà nước. Như vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp không những đem lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp và người lao động mà nó còn ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế và toàn xã hội. Do đó, các doanh nghiệp phải luôn tìm ra các biện pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Phần II Phân tích thực trạng sử dụng vốn và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của xí nghiệp hoá dược I.Tình hình đặc điểm chung của xí nghiệp hoá dược Xí nghiệp Hoá Dược là doanh nghiệp nhà nước trực thuộc tổng công ty dược Việt Nam thuộc Bộ y tế. Trước đây Xí nghiệp thuộc Xí nghiệp Hoá Dược – Thuỷ tinh, ngày 23/9/1996 theo quyết định số 165/QĐUB, Xí nghiệp Hoá Dược được tách ra thành lập Xí nghiệp riêng hoạt động với vốn do ngân sách nhà nước cấp và được hạch toán độc lập, với đội ngũ cán bộ cùng nhân viên là 161 người, được phân bố trong 6 phong ban nghiệp vụ và 5 phân xưởng sản xuất. Nhiệm vụ sản xuất của Xí nghiệp Hoá Dược là sản xuất và cung cấp thuốc và các sản phẩm hoá dược đáp ứng nhu cầu của nhân dân, các tổ chức và các doanh nghiệp ... Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Liên Hiệp các Xí nghiệp Dược Việt Nam (naylàTổng công ty Dược Việt Nam). Trải qua 35 năm hoạt động, được sự chỉ đạo của Bộ Y tế, tổng công ty Dược, Xí nghiệp luôn phấn đấu hoàn thành tốt các chỉ tiêu được nhà nước giao như: Doanh số, nộp ngân sách, đầu tư tích luỹ ... và không ngừng cải thiện đời sống cho người lao động. Vì thuốc là loại sản phẩn đặc biệt nó liên quan trực tiếp đến tính mạng của con người nên ở bất kỳ giai đoạn nào Xí nghiệp cũng đặt vấn đề chất lượng sản phẩm lên hàng đầu. Tuy nhiên do tồn tại cơ chế hành chúnh bao cấp (1960 - 1986) nên sản phẩm còn đơn điệu, ít được cải tiến, vì không có đối thủ cạnh tranh, bộ máy quản lý cồng kềnh, hoạt động trì trệ kém hiệu quả, thu nhập của người lao động thấp. Cùng với sự chuyển đổi của cơ chế kinh tế thị trường từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường; Xí nghiệp đã có những bước tiến bộ nhảy vọt, mặc dù đã trải qua nhiều khoá khăn về mặt quản lý, vốn, lao động, thị trường tiêu thụ, ..., nhưng với sự quyết tâm đi lên của ban lãnh đạo và toàn thể Xí nghiệp cùng với những biện pháp như: nhu cầu tiêu thụ thuốc ở Việt Nam là rất lớn, điều cốt yếu là sản phẩm phải đáp ứng được nhu cầu của thị trường, Xí nghiệp đã tổ chức sắp xếp lại sản xuất có chọn lọc đồng thời chú trọng đầu tư vào công nghệ kỹ thuật. Kết quả là Xí nghiệp đã đứng vững và dần phát triển hoà nhập với cơ chế thị trường. Để đẩy mạnh sản xuất, song song với biện pháp tổ chức nhằm phát huy hết tiềm năng sẵn có, Xí nghiệp còn đầu tư chiều sâu có trọng điểm vào công nghệ, thiết bị kỹ thuật để có thể đáp ứng được nhu cầu càng khắt khe của thị trường. Hiện nay Xí nghiệp đã ổn định tổ chức, tăng năng lực sản xuất, mở rộng thị trường tiêu thụ, sản xuất được các sản phẩm Dược điển Việt Nam I và một số sản phẩm đạt tiêu chuẩn Dược điển Anh. Mặc dù quy mô sản xuất không lớn nhưng những hoạt động của Xí nghiệp đã góp phần đáng kể vào sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Dưới đây là chỉ tiêu thể hiện kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp qua 3 năm trở lại đây. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của năm 1999, 2000,2001. Biểu số1 (Đơn vị triệu đồng ) Chỉ tiêu 1999 2000 2001 Tổng giá trị sản lượng 39.988 48.925 48.853 Tổng doanh thu 39.988 48.987 48.8 Thuế phải nộp 470 610,231 569,885 Lợi nhuận trước thuế 80.446 98.522,231 98.380,885 1. Đặc điểm tổ chức quản lý và sản xuất ở Xí nghiệp Hoá Dược. 1.1. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý của Xí nghiệp. Xí nghiệp Hoá Dược là một doanh nghiệp nhà nước tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường với tư cách là một pháp nhân kinh tế và được hạch toán độc lập. Xí nghiệp tiến hành tổ chức quản lý theo mô hình “ Tham mưu trực tuyến”. Có nghĩa là ban giám đốc đứng đầu và mỗi khi ra quyết định quản lý đều có sự tham mưu của các phòng ban trong Xí nghiệp với các chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Đồng thời cũng có sự phối hợp giúp đỡ lẫn nhau giữa các phòng ban để nâng cao hiệu quả hoạt động. Bộ máy quản lý của Xí nghiệp gồm: A - Ban giám đốc Giám đốc: là người đại diện hợp pháp của Xí nghiệp, chỉ đạo trực tiếp mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp. Phó giám đốc: Có nhiệm vụ giúp cho giám đốc và cùng chỉ đạo các vấn đề trong Xí nghiệp mà giám đốc giao cho. B – Các phòng ban Phòng tổ chức - hành chính: phòng này có nhiệm vụ quản lý về nhân sự, tiền lương và các khoản khác cho cán bộ công nhân viên, đồng thời tham mưu cho giám đốc về mặt tổ chức cũng như công tác hành chính của Xí nghiệp. Phòng kỹ thuật – Nghiên cứu: phòng này phải chịu trách nhiệm về mặt kỹ thuật cùng phối hợp với các phòng ban khác có liên quan, đồng thời thực hiện chức năng về mặt nghiên cứu để tổ chức sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng cao với quy trình công nghệ tiên tiến ... Phòng kiểm tra chất lượng – KCS: Phòng này chịu trách nhiệm kiểm tra chất lượng, mẫu mã, .. của các loại nguyên vật liệu, các loại sản phẩm trước và sau khi được nhập kho, kiểm tra việc thực hiện hay hoàn thành kế hoách của Xí nghiệp, Phòng kế hoạch – Cung tiêu: Phòng này có nhiệm vụ là tham mưu cho giám đốc về các kế hoạch tổng hợp, kế hoạch giá thành, cung ứng vật tư và nghiên cứu, tìm kiếm thị trường tiêu thụ. Phòng tài vụ: Phòng này chịu trách nhiệm hạch toán toàn bộ các nghiệp vụ liên quan đến vốn và tài sản của Xí nghiệp. Đồng thời tính toán ra kết quả hoạt động kinh doanh của Xí nghiệp. Phòng bảo vệ: Có nhiệm vụ bảo vệ đảm bảo an toàn trật tự, an ninh cho toàn Xí nghiệp. Khái quát chung về cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Xí nghiệp thông qua sơ đồ sau: Biểu số 2 Bộ máy quản lý của Xí nghiệp 1.2. Đặt điểm tổ chức bộ máy sản xuất. Để tiến hành sản xuất, Xí nghiệp đã tổ chức 4 phân xưởng sản xuất chính phù hợp với đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm. Mỗi phân xưởng chịu trách nhiệm sản xuất các loại sản phẩm nhất định. Đứng đầu phân xưởng là quản đốc, ở mỗi phân xưởng lại bao gồm các tổ sản xuất với người phụ trách là tổ trưởng. Phân xưởng I và II: Chuyên sản xuất các loại sản phẩm Hoá Dược. Phân xưởng III: Chuyên sản xuất các loại thuốc bào chế. Phân xưởng viên: chuyên sản xuất các loại thuốc ở dạng viên nén, thuốc dạng bột. Giámđốc Phó giám đốc Phòng tài vụ Phòng tổ chức hành chính Phân xưởng cơ điện Phòng kế hoạch cung tiêu Phòng kỹ thật nghiê n cứu Phòng kiểm tra chất lượng Phòng bảo vệ Ngoài 4 phân xưởng sản xuất chính ra Xí nghiệp còn có phân xưởng phụ là phân xưởng cơ điện đảm nhiệm việc sửa chữa và bảo dưỡng máy móc, cung cấp điện cho toàn bộ Xí nghiệp. Phân xưởng cơ điện gồm: + Tổ nồi hơi. + Tổ điện. + Tổ sửa chữa. 1.3. Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm. Các sản phẩm của Xí nghiệp bao gồm nhiều loại có tính chất đặc biệt liên quan đến sức khoẻ và tính mạng của con người nên quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm phải đảm bảo khép kín, sản phẩm xuất xưởng không thể có sản phẩm loại II mà phải là sản phẩm loại I đạt tiêu chuẩn Dược điểm. Do sản phẩm Dược phẩm sản xuất có đặc thù riêng, mỗi loại sản phẩm Dược có những định mức tiêu chuẩn kỹ thuật riêng biệt, thời hạn sử dụng trong thời gian nhất định cho nên quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của Xí nghiệp Hoá Dược là sản xuất phức tạp theo kiểu chế biến liên tục kế tiếp nhau. Các sản phẩm của Xí nghiệp làm ra đều phải dựa trên các phản ứng hoá học, cho nên về định mức vật tư, nguyên vật liệu cho từng sản phẩm phải được cụ thể cho từng loại vật tư, từng mặt hàng kể cả nguyên vật liệu chính cũng như nguyên vật liệu phụ. Trong sản xuất phải sử dụng nhiều nguyên vật liệu khác nhau như: nguyên vật liệu có nguồn gốc từ động thực vật, nguyên vật liệu khai thác từ các ngành Hoá học, có những loại nguyên vật liệu dễ cháy nổ, nguy hiểm, độc hại như: cồn, este, axit, ... Do vậy trong quá trình sản xuất các sản phẩm Hoá Dược phải được thực hiện đầy đủ các biện pháp an toàn, các điều kiện sản xuất phải được đảm bảo (ánh sáng, mặt bằng, ...). Các sản phẩm mà Xí nghiệp sản xuất ra hầu như đều phải trải qua các giai đoạn như tinh chế, đưa về điều kiện phản ứng hoá học, vẩy rửa, sấy, xay, đóng gói. Nguyên vật liệu chính để sản xuất sản phẩm ở Xí nghiệp Hoá Dược là các loại hoá chất như: CaCl2, Na2SO4, HClP, HClCN, H2SO4. Các loại nguyên vật liệu này trước khi nhập kho cũng được kiểm tra chất lượng sản xuất sản phẩm. Trong giai đoạn chuẩn bị sản xuất sản phẩm, các loại nguyên vật liệu phải được phân loại, xử lý, tinh chế, ... để đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật trước khi đưa vào sản xuất. Sau khi các hoá chất được đưa về điều kiện phản ứng (nhiệt độ, nồng độ, môi trường, ...) thì cho phản ứng với nhau. Khi phản ứng Hoá học xảy ra hoàn toàn thì tạo thành sản phẩm. Sản phẩm được đem vẩy rửa, sấy và xay tuỳ theo từng mặt hàng. Trước khi tiến hành đóng gói, nhập kho thành phẩm thì sản phẩm được chuyển sang cho bộ phận KCS để kiểm tra chất lượng. Quá trình đóng gói thành phẩm còn phải sử dụng các loại vật liệu phụ khác như: bao bì, lọ thuỷ tinh, lọ nhựa, ... Chất lượng sản phẩm chủ yếu phụ thuộc vào các loại nguyên vật liệu, do đó chi phí nguyên vật liệu thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số chi phí. Tuy nhiên cấu thành nên giá thành còn gồm các chi phí nhân công, chi phí khấu hao TSCĐ nên để giảm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm thì đòi hỏi Xí nghiệp phải có những biện pháp quản lý hữu hiệu. Sơ đồ 3. Sơ đồ quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm ở xí nghiệp hoá dược Nguyên vật Tính chế, loại bỏ Đưa về điều kiện phản ứng (Nồng độ, màu, pH, t ) Nguyên vật liệu B Tính chế, loại bỏ Đưa về điều kiện phản ứng (Nồng độ, màu, pH, t ) Cho phản ứng với nhau theo tỷ lệ quy định ở địều kiện nhiệt Vẩy rửa, sấy, KCS Biểu số 4 Xí nghiệp Hoá Dược: Bảng cân đối kế toán Ngày lập báo cáo 31/12/01 Đơn vị tính:VNĐ Tài sản Mã số Số đầu năm Số cuối năm A- Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn I- Tiền 1. Tiên mặt tại quỹ( gồm cả ngan phiếu) 2. Tiền gửi ngân hàng 3. Tiền đang chuyển II- Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn 1. Đầu tư chứng khoán ngắn hạn 2. Đầu tư ngắn hạn khác 3. Dự phòng giảm giá đầu tư ngắn hạn khác III- Các khoản phải thu 1. Phải thu của khách hàng 2. Trả trước cho người bán 3. Thuế GTGT được khấu trừ 100 110 111 112 113 120 121 128 129 130 131 132 133 134 34.603.466.433 2.228.734.422 87.781.608 2.140.952.814 0 0 0 0 0 11.867.228.638 9.820.901.536 1.566.825.308 0 341.378.481 54.908.284.633 345.709.140 214.383.804 131.325.336 0 0 0 0 0 27.244.606.563 24.587.483.057 1.964.159.208 0 549.413.373 Tài sản Mã số Số đầu năm Số cuối năm 4. Phải thu nội bộ - Vốn kinh doanh ở đơn vị trực thuộc - Phải thu nội bộ khác 5. Các khoản phải thu khác 6. Dự phòng các khoản hpải thu khó đòi IV- Hàng tồn kho 1. Hàng mua đang đi trên đường 2. Nguyên vật liệu tồn kho 3. Công cụ dụng cụ trong kho 4. Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang 5. Thành phảm tồn kho 6. Hàng hoá tồn kho 7. Hàng gửi bán 8. Dự phòng giảm giá hàng tồn kho V- Tài sản lưu động 1. Tạm ứng 2. Chi phí trả trước 3. Chi phí chờ kết chuyển 4. Tài sản thiếu chờ xử lý 5. Thế chấp, ký quỹ, ký cược VI- Chi phí sự nghiệp 1. Chi sự nghiệp năm trước 2. Chi sự nghiệp năm nay B - Tài sản cố định và đầu tư dài hạn I- Tài sản cố định 1. Tài sản cố định hữu hình - Nguyên giá 135 136 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 149 150 151 152 153 154 155 160 161 162 200 210 211 212 213 0 341.378.481 138.123.313 0 19.193.554.133 0 824.559.614 700.211.000 3.041.726.044 215.211.040 11.531.214 14.123.214.100 77.111.121 1.313.949.240 1.190.225.565 122.223.675 0 0 1.500.000 0 0 0 17.474.285.995 16.686.128.116 16.686.128.116 29.652.429.626 -12.986.301.510 0 549.413.373 143.550.925 0 25.579.354.464 0 736.206.283 950.311.111 7.104.597.393 200.122.441 10.125.211 17.578.991.025 0 1.738.614.466 1.372.113.380 212.501.086 0 0 154.000.000 0 0 0 24.959.301.826 24.949.301.826 24.949.301.826 41.730.458.268 -16.781.156.442 Tài sản Mã số Số đầu năm Số cuối năm - Giá trị hao mòn luỹ kế 2. Tài sản cố định thuê tài chính - Nguyên giá - Giá trị hao mòn luỹ kế 3.Tài sản cố định vô hình - Nguyên giá - Giá trị hao mòn luỹ kế II- Các khoản đầu tư tài chính dài hạn 1. Đầu tư tài chính dài hạn 2. Góp vốn liên doanh 3. Các khoản đầu tư dài hạn khác 4. Dự phòng giảm giá đầu tư dài hạn III- Chi phí xây dựng cơ bản dở dang IV- Các khoản ký quỹ, ký cược dài hạn Tổng cộng tài sản 214 215 216 217 218 219 220 221 222 228 229 230 240 250 0 0 0 0 10.000.000 5.000.000 -5.000.000 0 0 0 0 768.157.879 0 52.077.752.428 0 0 0 0 10.000.000 5.000.000 -5.000.000 0 0 0 0 0 0 79.867.586.459 A- Nợ phải trả I- Nợ ngắn hạn 1. Vay ngắn hạn 2. Nợ dài hạn đến hạn trả 3. Phải trả cho người bán 4. Người mua trả tiền trước 5. Các khoản thuế phải nộp nhà nước 6. Phải trả công nhân viên 7. Phải trả cho các đơn vị nội bộ 8. Các khoản phải trả, phải nộp khác II- Nợ dài hạn 1. Vay dài hạn 300 310 311 312 313 314 315 316 317 318 320 321 48.398.228.533 44.703.403.533 33.632.435.426 3.264.184.476 3.155.493.823 1.334.735.352 719.555.006 1.492.575.244 322.504.415 781.919.791 3.694.825.000 3.694.825.000 76.326.440.252 69.672.885.752 50.827.723.532 4.574.000.0008. 0890.213.688 3.819.576.853 449.052.393 1.527.948.057 306.128.320 78.242.909 6.653.554.500 6.653.554.500 Tài sản Mã số Số đầu năm Số cuối năm 2. Nợ dài hạn III- Nợ khác 1. Chi phí phải trả 2. Tài sản thừa chờ sử lý Nận ký quỹ, ký cược dài hạn 322 330 331 332 333 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 B- Nguồn vốn chủ sở hữu I- Nguồn vốn – quỹ 1. Nguồn vốn kinh doanh 2. Chênh lệch đánh giá lại tài sản 3. Chênh lệch tỷ giá 4. Quĩ đầu tư phát triển 5. Quĩ dự phòng tài chính 6. Lãi chưa phân phối 7. Nguồn vốn đầu tư XDCB II- Nguồn kinh phí, quĩ khác 1. Quĩ dự hpòng về trợ cấp mất việc làm 2. Quĩ khen thưởng phúc lợi 3. Quĩ quản lý của cấp trên 4. Nguồn vốn kinh phí sự nghiệp - Nguồn vốn kinh phí sự nghiệp năm trước - Nguồn vốn kinh phí sự nghiệp năm nay 5. Nguồn hình thành TSCĐ Tổng tài sản 400 410 411 412 413 414 415 416 417 420 421 422 423 424 425 426 427 430 3.679.523.895 3.718.132.786 2.796.219.904 0 140.732.929 737.165.171 0 44.014.782 0 -38.608.891 0 -38.608.891 0 0 0 0 0 52.077.752.428 3.541.146.207 3.641.763.897 3.474.261.108 0 0 115.305.358 0 52.197.431 0 -100.617.690 0 -100.617.690 0 0 0 0 0 79.867.586.459 Biểu số 5 Kết quả hoạt động kinh doanh Từ ngày 01/01/01 Đến ngày 31/01/01 Phần lãi lỗ Đơn vị tính: VNĐ Chỉ tiêu M S Số đầu năm Số phát sinh LK từ đầu năm Tổng doanh thu Trong đó:DT hàng xuất khẩu Các khoản giảm trừ(05+06+07) + giảm giá + Hàng bán bị trả lại + Thuế TTĐB, xuất khẩu phải nộp Doanh thu thuần(01-03) Giá vốn hàng bán Lợi nhuận gộp(10-11) Chi phí bán hàng Chi phí quản lý doanh nghiệp LN thuần từ hoạt động KD (20-(21+22) Thu nhập hoạt động tài chính Chi phí hoạt động tài chính LN thuần HĐ tài chính (31-32) Các khoản thu nhập bất thường Chi phí bất thường Lợi nhuận bất thường(41-42) Tổng lợi nhuậnn trước thuế (30+|40+50) 01 02 03 05 06 07 10 11 20 21 22 30 31 32 40 41 42 50 60 70 80 48.987.122.001 0 0 0 0 0 48.987.122.001 39.012.140111 9.974.498.189 4.122.356.000 5.775.623.112 9.897.979.112 247.956.875 4.897.657.842 -4.649.700.967 10.124.561.136 .909.753210 9.987.651.357 152.359.295 15.029.942 137.329.353 48.433.038.769 0 0 0 0 0 48.433.038.769 39.329.949.251 9.103.089.518 3.998.745.621 4.847.068.246 8.872.813.867 297.987.390 4.457.635.801 -4.159.648.411 976.330.875 946.973.337 29.357.538 125.730.399 40.233.728 85.496.671 48.433.038.76 9 0 0 0 0 0 48.433.038.76 9 39.329.949.25 1 9.103.089.518 3.998.745.621 4.847.068.246 8.872.813.867 297.987.390 4.457.635.801 - 4.159.648.411 976.330.875 946.973.337 29.357.538 Thuế thu nhập DN phải nộp Lợi nhuận sau thuế(60-70). 125.730.399 40.233.728 85.496.671 II. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại Xí nghiệp hoá dược 1. Tình hình sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp trong vài năm gần đây: Trong những năm qua, được sự chỉ đạo thường xuyên, trực tiếp của Tổng công ty Dược Việt Nam và Ban lãnh đạo xí nghiệp về việc giải quyết việc làm, nâng cao năng lực quản lý, tổ chức sản xuất và đầu tư mua sắm trang thiết bị tiên tiến nên doanh nghiệp đã đạt được một số kết quả đáng kích lệ. Tuy nhiên do sự cạnh tranh gay gắt của cơ chế thị trường đã gây không ít khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Sản phẩm Hóa Dược là loại sản phẩm đặc biệt không những phải cạnh tranh với những sản phẩm cùng loại trong nước mà còn phải cạnh tranh với một số sản phẩm ngoại nhập (vì sản phẩm dược có liên quan trực tiếp tới tính mạng của con người và toàn xã hội). Ta có thể thấy rõ tình hình kinh doanh qua một số chỉ tiêu sau đây: Kết quả sản xuất kinh doanh trong năm 1998, 1999, 2000 Biểu số 4 Đơn vị : Triệu đồng STT Chỉ tiêu Năm Tỷ lệ (%) 1999 2000 2001 00/99 01/00 1 Giá trị tổng sản lượng 39.988 48.925 48.853 122,35 99,85 2 Doanh thu 39.988 48.987 48.433 122,50 99,94 3 Doanh thu thuần 39.988 48.057 48.433 122,94 100,78 4 Lợi nhuận trước thuế 492,144 493,944 125,730 100,36 25,45 5 Tỷ suất LN/DTT x 100 1,25 1,02 0,25 0,82 0,245 6 Nộp NSNN 470 610,231 596,885 129,83 97,81 7 Tổng quỹ lương 4172 4955 5365 118,76 108,27 8 TNBQ 1 người / 1 tháng 1,193 1,419 1,433 118,94 100,99 Từ năm 2000 trở về trước doanh nghiệp luôn làm ăn có lãi, giá trị tổng sản lượng năm sau tăng so với năm trước. Năm 1999 giá trị tổng sản lượng đạt 39.988 triệu đồng, nhưng đến năm 2000giá trị sản lượng bằng 48.925 tăng 8.937 triệu đồng tương ứng với 122,35%. Doanh thu qua các năm cụ thể năm 2000 doanh thu tăng 8970 triệu động tương ứng với 122,94% so với năm 1999, lợi nhuận tăng 100,36% tương ứng với 1,8 triệu đồng. Đời sống của công nhân được cải thiện dần, tổng quỹ lương năm 2000 bằng 118,76% so với năm 1999, thu nhập bình quân đầu người tăng lên 118,94% so với năm 1999, tuy nhiên lợi nhuận của năm 2001 giảm so với năm 2000 là 488,21 triệu đồng tương ứng chỉ còn là 25,45% (so với 100,36% năm 2000/1999), nhưng điều đó không gây ảnh hưởng nhiều lắm đến thu nhập bình quân của công nhân viên. Nói chung hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty vẫn luôn có lãi, năm 1999 lợi nhuận trước thuế là 492 triệu đồng, năm 2000 là 493,944 triệu đồng, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu ở mức, 1,02 - 1,25 ( cứ 100 đồng doanh thu được 1,02- 1,25 đồng lợi nhuận). Tuy vậy, năm 2000 tỷ suất lợi nhuận giảm do tốc độ tăng doanh thu lớn hơn tốc độ tăng lợi nhuận. Bước sang năm 2001, dù có nhiều cố gắng song giá trị tổng sản lượng chỉ đạt được 48.853 triệu đồng bằng 99,85% so với năm 2000. Doanh thu giảm mạnh (giảm 29 triệu đồng ) bằng 99,94% so với năm 1999. Doanh nghiệp bị giảm 125,730 triệu đồng, tương ứng với 25,45% so với năm 1999. Tài liệu tài chính công ty qua các năm. Biểu số 5 TT Chỉ tiêu Đơn vị Năm Chênh lệch 2000/1999 Chênh lệch 2001/2000 1999 2000 2001 Tuyệt đối % Tuyệt đối % 1 Tổng tài sản Tr.đ 50.911 52.077 79.857 1.166 2,29 27.790 53,36 2 Tài sản lưu động " 28.333 34.603 54.908 6.270 22,12 20.305 58,67 3 Vốn bằng tiền " 293 2.228 345 1.935 60,40 -1.883 -84,51 4 Tài sản cố định " 13.640 16.696 24.949 3.056 22,40 8.253 49,43 5 Tổng nguồn vốn " 50.911 52.077 79.867 1.116 2,29 27.790 53,36 6 Nợ phải trả " 33.411 48.398 76.326 14.987 44,85 27.928 57,70 7 Nợ ngắn hạn " 39.715 44.703 69.672 14.488 50,43 24.969 55,85 8 Vốn chủ sở hữu " 4.657 3.679 3.541 -978 -21 -138 -3,75 9 Tỷ suất tài trợ (8)/(5)% % 9,14 7,06 4,43 -2,08 -22,75 -2,63 -37,25 10 Tỷ suất đầu tư (4)/(1)% % 26,79 32,06 31,25 5,27 19,67 -0,81 -2,52 11 Tỷ lệ (6)/(1) - 65,62 92,93 95,57 27,31 41,62 2,64 2,84 12 Tỷ suất TTNH(2)/(7) - 0,95 0,774 0,788 -0,18 -18,53 0,014 1,8 13 Tỷ suất TT tức thời(3)/(7) - 0,17 0,051 0,049 -0,119 -0,7 -0,002 -3,92 Qua những số liệu tính toán trên đây ta có thể thấy được khái quát tình hình tài chính của công ty trong 3 năm gần đây. Trước hết tổng tài sản và tổng nguồn vốn của doanh nghiệp liên tục tăng qua các năm, năm 2001 tổng tài sản tăng 53,36% so với năm 2000 và năm 2000 tăng 2,29% so với năm 1999. Giá trị tổng tài sản tăng là 50.911 triệu đồng lên 52.077 triệu đồng tăng lên 1166 triệu đồng, điều đó cho thấy doanh nghiệp đã có nhiều có gắng trong vốn huy động vốn tài trợ cho các tài sản của doanh nghiệp để có thể sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, việc tăng tài sản cũng như nguồn vốn của công ty đã thực sự hợp lý hay chưa thì ta sẽ phân tích cụ thể hơn trong những phần sau ở đây ta xem xét một số chỉ tiêu tài chính để có một cái nhìn tổng quát về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Về tỷ suất tài trợ năm 1999 chỉ tiêu này là 9,14% đến năm 2001 giảm xuống còn 9,14% tương ứng tuyệt đối là giảm 22.75%. Trong khi tổng nguồn vốn tăng từ 50.911 triệu đồng lên 52.077 triệu đồng. Sang năm 2000 chỉ tiêu nàylà 7,06 triệu đồng, đến năm 2001 giảm đi chỉ còn 4,43 triệu đồng tương ứng với giảm 37,25%, trong khi tổng tài sản tăng lên 79.857 triệu đồng hay tăng 27.780 triệu đồng so với năm 2000. Còn vốn chủ sở hữu thì lại có xu hướng giảm dần, năm 1999là 4.657 triệu đồng đến năm 2001 chỉ còn 3.541 triệu đồng, sự biến động như vậy là không hợp lý, nó cho thấy mức độc lập về tài chính của doanh nghiệp là thấp. Về tỷ suất đầu tư, năm 2000 so với năm 1999 tăng lên là 5,27% tương ứng tuyệt đối là 19,67%, nhưng đến năm 2001 tỷ trọng này giảm đi là 0,81% tương ứng tuyệt đối giảm là 2,52%. Điều đố cho thấy việc đầu tư vào sản xuất của năm 2001 là giảm làm cho lưọi nhuận cũng giảm dần theo các năm từ 492,144 triệu đồng năm 1999 đến năm 2001 chỉ còn 125,730 triệu đồng. Tỷ xuất thanh toán tức thời của doanh nghiệp ít có khả năng thanh toán ngay, liên tục bị giảm từ 0,17% xuống còn 0,049% hay tương ứng về mặt tuyệt đối từ 0,7%xuống còn 3,92%. Điều này cho thấy khả năng thanh toán và tiền mặt tồn tại quỹ là rất thấp. Ngoài ra, tỷ trọng nợ phải trả tiền trên tổng tài sản tăng nhanh qua các năm, năm 2001 tỷ trọng này là 95,57% là quá lớn so với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, tỷ trọng này tăng lên 1,46 lần so với năm 1999. Điều này dễ thấy vì nợ phải trả của công ty liên tục tăng năm 2000 tỷ lệ này, tăng 44,85% so với năm 1999, năm 2001 tăng lên 20,7% so với năm 2000. Vốn kinh doanh của công ty chủ yếu là vốn vay do đó tiền lãi phải trả cao mà thực tế việc sản xuất kinh doanh của công ty chủ yếu là vốn vay do đó tiền lãi phải trả cao mà thực tế việc sản xuất kinh doanh của công ty gặp nhiều bất lợi do đã ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của công ty trong những năm qua. Như vậy trong 3 năm 1999, 2000, 2001 tỷ suất thanh toán tức thời của doanh nghiệp ít có khả năng thanh toán ngay tồn quỹ tiềm mặt của doanh nghiệp là rất thấp. Vốn hoạt động thuần bằng tài sản lưu động - nợ ngắn hạn vốn lưu động của doanh nghiệp chưa đáp ứng đủ trong quá trình sản xuất kinh doanh. Năm 2000 vốn lưu động là ( ), năm 2000 là ( ) tình trạng này ảnh hưởng không tốt tới hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như khả năng thanh toán của công ty, cần có sự điều chỉnh để duy trì mức vốn luân chuyển thuần hợp lý. Bên cạnh đó, hiệu quả sử dụng vốn năm 2000 cũng giảm mạnh so vơi các năm trước. Hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp. Biểu số 6 Đơn vị: triệu đồng STT Chỉ tiêu 1999 2000 2001 1 Doanh thu 39.988 48.897 48.433 2 Lợi nhuận trước thuế 492,144 493,944 125,73 3 Lợi nhuận sau thuế 197 316 85,496 4 Tổng tài sản 50.911 52.077 79.867 5 Vốn chủ sở hữu 4.657 3.679 3.541 6 Hiệu suất sử dụng DT / (TTS) 0,77 0,94 0,61 7 Doanh lợi vốn (4)/ (2)% 0,97 0,95 0,16 8 Doanh lợi vốn CSH (5)/ (3)% 4,23 8.58 2,41 Năm 2000, hiệu suất sử dụng tổng tài sản là 0,94 triệu đồng tăng 17% so với năm 1999, nó cho biết một đồng tài sản đem lại cho doanh nghiệp 0,94 đồng doanh thu, nhưng đếm năm 2001 một đồng tài sản chỉ thu về 0,61 đồng doanh thu. Doanh lợi vốn năm 2000 tuy có giảm với năm 1999 nhưng 100 đồng vốn bỏ ra kinh doanh vẫn thu được 0,95 đồng lợi nhuận. Năm 2001 doanh nghiệp chỉ thu được 125,730 triệu đồng giảm so với năm 2000 là 368,214 triệu đồng. Điều đó cho thấy tuy doanh nghiệp chưa phát huy đúng khả năng tài sản mà doanh nghiệp đã đầu tư mà đã làm giảm đi hiệu suất sử dụng tổng tài sản mà mức sinh lợi của đồng vốn cũng bị giảm: 100 đồng vốn kinh doanh chỉ thu được 16 đồng lợi nhuận, dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là chưa hợp lý và chưa tận dụng triệt để của đồng vốn. Qua những chỉ tiêu phân tích sơ bộ trên đây có thể thấy rằng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đang gặp khó khăn. Ngoài những bất lợi do điều kiện khách quan mang lại thì hoạt động quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp cũng tác động không nhỏ. Do vậy, cần đi sâu phân tích chi tiết để thấy được những mặt mạnh và những mặt còn hạn chế để có giải pháp kịp thời và hiệu quả. 2. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại xí nghiệp Hoá Dược 2.1. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định tại xí nghiệp Hoá Dược Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp ta căn cứ vào năng lực hoạt động của tài sản cố định qua các chỉ tiêu phản ánh hiệu suất sử dụng tài sản cố định, mức sinh lời tài sản cố định… Hiệu quả sử dụng vốn cố định Biểu số 7 Đơn vị triệu đồng ST T Chỉ tiêu Năm %T,G %T,G 00/99 01/00 19999 2000 2001 1 Doanh thu thuần 39.988 48.057 48.433 22,94 0,78 2 LN trước thuế 492.144 493,514 125,958 0,28 -74,47 3 NG bình quân TSCĐ 30.956 33.549 35.701 8,37 6,41 4 VCĐ bình quân 12.915 17.825 20.822,5 38,01 16,81 5 Hiệu quả sử dụng TSCĐ 1,26 1,43 1,36 13,49 -4,89 6 Sức sinh lợi của TSCĐ 0,016 0,015 0,004 -0,062 -0,733 7 Suất hao phí TSCĐ 0,79 0,7 0,74 -0,114 0,057 8 Hiệu suất sử dụng VCĐ 3,03 3,01 2,33 -0,01 -0,23 9 Hiệu quả sử dụng VCĐ 0,016 0,015 0,04 -0,062 -0,733 So với năm 1999, chỉ tiêu sức sinh lợi nhuận tài sản cố định giảm đi 0,062%, tuy nhiên hiệu suất sử dụng của tài sản cố định vẫn tăng lên 0,17 đồng doanh thu thuần / 1 đồng TSCĐ và suất hao phí TSCĐ giảm xuống, năm 1999 để có 1 đồng doanh thu thuần doanh nghiệp phải bỏ ra, 0,79 đồng nguyên giá bình quân TSCĐ, đến năm 2000 công ty chỉ phải bỏ ra 0,70 đồng, công ty đã tiết kiệm được trên 0,07 tỷ đồng nguyên giá bình quân tài sản cố định nhờ việc nâng cao hiệu suất sử dụng TSCĐ. Điều này dễ hiểu vì trong năm 2000 doanh nghiệp đã đầu tư thêm máy móc thiết bị mới nguyên giá bình quân tăng lên 38,01% nên năng lực sản xuất của TSCĐ tăng lên khiến doanh thu thuần tăng lên 22,94% so với năm 1999, nhưng sức sinh lợi của TSCĐ lại giảm xuống. Năm 2000, do công ty hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả nên doanh thu tăng lên 22,98% nhưng do phải nhập ngoại và một số nguyên vật liệu làm tăng chi phí ngoài dự kiến làm cho tỷ lệ lãi định mức giảm xuống, nếu lợi nhuận không tăng lên tương ứng với tốc độ tăng doanh thu. Cũng vì thế mà hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp không tăng lên so với năm 1999: một đồng vốn cố định đem lại 0,015 đồng lợi nhuận bằng năm 1999 mặc dù hiệu suất sử dụng vốn cố định tăng lên 0,01% (một đồng vốn cố định bình quân mang lại 3,01 đồng doanh thu thu, giảm xuống 0,02 đồng. Sang năm 2001 doanh nghiệp bị giảm xuống còn 125,958 triệu đồng làm cho sức sinh lợi của vốn cố định giảm đi mạnh, sức sinh lợi của TSCĐ giảm tới 0,733% so với năm 2000, một đồng nguyên giá bình quân TSCĐ bị lỗ 0,004 đồng hiệu suất sử dụng TSCĐ giảm 4,89% so với 2000, suất hao phí TSCĐ tăng lên 0,057% để có một đồng doanh thu thuần doanh nghiệp phải bỏ ra 0,74 đồng nguyên giá TSCĐ tăng lên 0,04 đồng/1 đồng doanh thu). Năm 2001, doanh nghiệp tiếp tục đầu tư thêm phương tiện vận tải và máy móc thiết bị, nguyên giá bình quân TSCĐ tăng lên 6,41% so với năm 2000, nhưng hiệu suất sử dụng TSCĐ lại giảm xuống. Nguyên nhân là do phương tiện mới chưa phát huy được hết công suất trong khi vẫn tính khấu hao lớn, mức khấu hao năm 2001 là 3.498 triệu đồng chiếm 7,22% doanh thu. Trong khi đó công ty vẫn phải trả lãi ngân hàng năm 2001 là 3.326,5 triệu đồng chiếm 6,86% doanh thu. Tất cả các yếu tố đó đã làm giảm hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp. Tuy vậy, trong thời gian tới những phương tiện vận tải và máy móc thiết bị mới đầu tư sẽ phát huy năng lực sản xuất, doanh nghiệp sẽ khai thác sử dụng ở mức cao hơn tạo điều kiện nâng cao hiệu suất sử dụng ở mức cao hơn tạo điều kiện nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản cố định cũng như hiệu quả sử dụng vốn cố định. Trên đây là những đánh giá về hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty vật tư hàng hoá và vận tải. Để góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp một trong những hoạt động mà doanh nghiệp cần phải quan tâm đó là công tác quản lý, bảo toàn vốn cố định và đầu tư đổi mới TSCĐ của doanh nghiệp. 2.2.Hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty vật tư hàng hoá và vận tải: Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp ta dùng các chỉ tiêu như sức sinh lời, hệ số đảm nhiệm vốn lưu động và các chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển vốn lưu động và các chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển vốn lưu động như số vòng quay vốn lưu động, thời gian của một vòng luân chuyển. Hiệu Quả sử dụng vốn lưu động Biểu số 8 (Đơn vị tính triệu đồng) T Chỉ tiêu Đơn vị Năm Tỷ lệ tăng Tỷ lệ tăng T 1999 2000 2001 giảm 00/99 giảm 01/00 1 Doanh thu thuần Tr.đ 39.988 48.057 48.433 22,94 0,78 2 LN Trước thuế " 492.144 493,544 125,988 0,28 -74,47 3 VLĐ bình quân " 9.188 19.134 44.755,5 108,93 133,90 4 Sức sinh lợi của VLĐ: (2)/(3) " 0,053 0,025 0,003 -52,83 -88 5 Hệ số đảm " 0,234 0,398 0,924 70,08 132,16 6 Số vòng quay VLĐ Vòng 4,27 2,51 1,08 -41,21 -56,97 7 Thời gian 1 vòng luân chuyển Ngày 84,3 143,42 333,33 70,13 132,91 Ta nhận thấy sức lời của vốn lưu động liên tục giảm qua các năm năm 2000 so vớn năm 1999 sức sinh lời của vốn lưu động của vốn giảm xuống 1 đồng vốn lưu động bình quân chỉ đem lại 0,025 đồng lợi nhuận giảm 52,83%. Sang năm 20001công ty bị lỗ tới 125.958 triệu đồng (so với năm 2000 là 943.944) đã làm cho sức sinh lời của vốn lưu động giảm mạnh: Một đồng vốn lưu động bình quân bị lỗ 0,003 đồng và sức sinh lợi giảm 88% so với năm 2000 hiệu quả sử dụng vốn lưu động năm 2001 rất thấp doanh nghiệp đã không bảo toàn được vốn. Lưu động bình quân vẫn liên tục tăng nhưng với sản xuất của vốn lưu động lại có chiều hướng giảm xuống, thông qua hệ số đảm nhiệm vốn lưu động cho ta biết có một đồng doanh thu thuần thì phải bỏ ra bao nhiêu đồng vốn lưu động, từ số liệu trên cho ta thấy, hệ số đảm nhiệm vốn lưu động tăng với tốc độ ngày càng nhanh: Năm 2000 hệ số này tăng lên 70,08% và năm 2001 tăng lên 132,16% so với năm 2000. Nếu như năm 1999 để có một đồng doanh thu thuần thì doanh nghiệp chỉ phải bỏ ra 0,234 đồng, còn 2001 phải bỏ ra 0,924 đồng. Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động tăng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng thấp, không tiết kiệm được vốn lưu động. Ngoài chỉ tiêu trên để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động ta phải xét đến số vòng quay của vốn lưu động và thời gian của một vòng luân chuyển của vốn lưu động vì nó giúp ta thấy được khả năng quay vòng vốn của doanh nghiệp. Từ năm 1999 trở lại đây số vòng quay của vốn lưu động giảm dần, trong năm 1999 vốn lưu động quay ngược hơn 4 vòng nhưng đến năm 2001 vốn lưu động chỉ quay được hơn 1 vòng, doanh thu thu về rất thấp giảm 0,78% so với năm 2000 về số tuyệt đối 376 triệu đồng, trong khi đó vốn lưu động bình quân lại tăng lên 133,90% so với năm 2000 điều đó chứng tỏ tốc độ doanh thu thuần đã không tăng lên tương ứng với tốc độ tăng vốn lưu động làm giảm số vòng quay của vốn. Đồng thời, thời gian của một vòng luân chuyển vốn lưu động cũng tăng lên, năm 1999 thời gian một vòng luân chuyển là 84,3 ngày năm 2000 chỉ tiêu này là 143,42 ngày và năm 2001 thời gian của một vòng luân chuyển kéo dài tới 333,33 ngày. Điều đó cho ta thấy việc thu hồi vốn lưu động rất chậm và nó đã làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Sở dĩ hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp năm 2001 lại giảm thấp như vậy là do rất nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân quan trọng nhất là sự bất định, không thường xuyên cho việc công ty được thanh toán các khoản nợ và phải thường xuyên duy trì một khối lượng lớn hàng hoá vật tư bị ứ đọng ở kho và các đại lý gửi bán. III. nhận xét đánh giá hiệu quả sử dụng vốn tại Xí nghiệp hoá dược 1.Những thành tựu đã đạt được Xí nghiệp Hoá Dược . Là một doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong cơ chế thị trường có tính cạnh tranh ngày càng quyết liệt, ban lãnh đạo Xí nghiệp Hoá Dược đã tỏ rõ bản lĩnh kinh doanh của mình trong việc dẫn dắt công ty tồn tại và phát triển. Được sự lãnh đạo sát sao của tổng công ty Dược Việt nam nên Xí nghiệp Hoá Dược luôn hoàn thành và hoàn thành vượt mức chỉ tiêu trên giao, đóng góp đầy đủ mọi nghĩa vụ với nhà nước. Với chiến lược kinh doanh táo bạo Xí nghiệp từ một doanh nghiệp nhỏ đã phát triển và có vị trí không nhỏ trong ngành Dược Việt nam , tạo cho doanh nghiệp có một cơ hội để doanh nghiệp vươn lên tầm cao ngoài ra doanh nghiệp còn tạo công ăn việc làm cho con em cán bộ công nhân viên trong cơ quan và một số đối tượng lao động ở gần doanh nghiệp . Xí nghiệp đã chủ động đầu tư đưa cán bộ trong công ty đi đào tạo bồi dưỡng năng lực quản lý và cả trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tạo cho doanh nghiệp một đội ngũ cán bộ vững vàng và chuyên môn, năng lực tốt về quản lý tốt giúp cho công ty đứng vững và phát triển trong nền kinh tế thị trường. Công ty đã từng bước nâng cao thu nhập của cán bộ công nhân viên đảm bảo mọi chế độ chính sách Nhà nước đã đề ra. 2. Nguyên nhân của tồn tại: Do Xí nghiệp có quy mô nhỏ cho nên việc quản lý và điều hành còn nhiều hạn chế và khó khăn. Khó khăn nhất là huy động vốn lưu động để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Trong phần phân tích tình hình kinh tế của công ty cho thấy việc đảm bảo thanh toán của Xí nghiệp rất khó khăn. Các hệ số thanh toán tức thời và thanh toán ngắn hạn ở mức đáng lo ngại. Tình trạng này gây rủi ro mất khả năng thanh toán nếu công ty vấp phải những biến động của thị trường. Việc đầu tư tài sản cố định ở năm 2001 vừa qua không đạt được hiệu quả như mong muốn, hiệu suất và hiệu quả sử dụng tài sản cố định đều giảm mạnh không những đã làm giảm hiệu quả sử dụng tài sản cố định mà còn làm giảm đi vốn kinh doanh của doanh nghiệp . Nguyên nhân chính là do trang thiết bị đầu tư chưa phát huy được hết khả năng lực sản xuất trong khi vẫn tính khấu hao ở mức cao. Ngoài ra, trong việc tính khấu hao tạo nguồn vốn tái sản xuất cố định, doanh nghiệp mới chỉ thực sự chú ý đến công tác khấu hao các tài sản cố định đầu tư mới từ các nguồn vốn vay để đẩy nhanh tiến độ trả nợ trong khi đó việc tăng mức khấu hao hợp lý cho các tài sản thuộc nguồn vốn khác chưa được coi trọng đây là cơ sở nguồn vốn để tái đầu tư vào tài sản cố định Trên đây là một số hạn chế đã làm giảm hiệu quả sử dụng vốn tại Xí nghiệp Hoá Dược trong thời gian qua. Trên cơ sở tìm ra những nguyên nhân hạn chế, sau đây tôi xin mạnh dạn đề suất một số giải quyết nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Phần III: Một số Giải pháp nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn tại xí nghiệp hoá dược . I. Phương hướng phát triển của xí nghiệp thời gian tới: 1. Đánh giá chung giải pháp về hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp Hoá Dược trong các năm gần đây. Qua sự phân tích hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp Hoá Dược ta thấy rằng. Hoạt động sản xuất kinh doanh do tính phức tạp của dây chuyền sản xuất phải dựa trên các phản ưngs hoá học, không tránh khỏi phản ứng xảy ra không hoàn toàn đã lãng phí đi một phần NVL, máy móc thiết bị cũ kỹ đã qua nhiều lần sửa chữa nâng cấp, trình độ khoa học chưa đáp ứng được nhu cầu kỹ thuật hiện nay, các chính sách về vốn, thuế và một số các ưu đãi khác của chính phủ chưa thực sự sát sao với thực tế với tình hình của Xí nghiệp hiện nay. Trên cơ sở đó để nâng cao được hiệu quẩ sử dụng vốn thì phải đưa ra kế hoạch phương hướng phát triển trong thời gian tới. 2. phương hướng phát triển. Cùng với đà phát triển của nền kinh tế, bước sang thiên niên kỷ mới . Xí nghiệp Hoá Dược và vận tải đã đưa ra phương hướng và các chỉ tiêu kế hoạch cụ thể để nâng cao năng lực sản xuất và đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất. Đảng và Nhà nước ta đang đẩy mạnh chủ trươngtrong việc bảo vệ sức khoẻ cộng đồng và xã hội , là một cơ hội tốt để doanh nghiệp mở rộng sản xuất và mở rộng thị trường. Trong những năm tới Xí nghiệp chủ động trong việc xây dựng định hướng chiến lược phát triển của mình đó là: “tăng cường tốc độ nhanh,nâng cao hiệu quả chất lượng sản phẩm tạo công ăn việc làm cán bộ công nhân viên. Đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh để tăng tích luỹ đầu tư đảm bảo phát triển lâu dài và từng bước cải thiện đời sống cán bộ công nhân viên”. Kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng số lượng, chất lượng với đào taọ nguồn nhân lực. Nâng cao tầm hiểu biết về quản lý kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước cho độ ngũ cán bộ. Trên cơ sở kế hoạch phát triển của Tổng Công ty, Xí nghiệp Hoá Dược cũng để ra phương hướng phát triển và đưa ra chỉ tiêu phấn đấu giá trị tổng sản lượng trong 5 năm 2002 – 2006. II. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở doanh nghiệp. 1. Bảo toàn và phát triển vốn - nguyên tắc cơ bản trong quản lý và sử dụng vốn: Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu lâu dài của mọi doanh nghiệp là phát triển. Để đạt đựơc mục tiêu lâu dài đó doanh nghiệp phải luôn tuân theo một nguyên tắc cơ bản là bảo toàn và phát triển vốn. Bảo toàn vốn là cái ngưỡng tối thiểu mà doanh nghiệp phải đạt được để có thể duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp trên thương trường. Trước đây trong thời kỳ bao cấp, việc bảo toàn và phát triển vốn hầu như không được đặt ra với các doanh nghiệp. Tất cả mọi khâu, mọi quá trình sản xuất, từ sản xuất tới tiêu thụ đều thực hiện theo kế hoạch của Nhà nước do đó, mọi quyết định trong doanh nghiệp cũng phải tuân theo mệnh lệnh cấp trên, tính tự chủ trong kinh doanh là rất phổ biến. Nhà nước phải thường xuyên bổ sung, cấp thêm vốn. Nhưng từ khi chuyển đổi cơ chế kinh tế, quyết định giao vốn của Nhà nước đã mở rộng quyền tự chủ kinh doanh cho doanh nghiệp đồng thời cũng đặt ra yêu cầu buộc doanh nghiệp phải sử dụng vốn theo nguyên tắc “hiệu quả, bảo toàn và phát triển”. 0 1 3 4 5 2 GTGT Ttriệu 40.000 50.000 Yêu cầu bảo toàn vốn thực chất là việc duy trì giá trị, sức mua năng lực của nguồn vốn chủ sở hữu và mặc dù cơ cấu tài trợ của doanh nghiệp bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn vay nợ khác song mọi kết quả sản xuất kinh doanh cuối cùng đều phản ánh vào sự tăng giảm nguồn vốn vay bị thua lỗ thì những thua lỗ đó doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm bằng chính nguồn vốn của mình. Như vậy, thua lỗ của mọi khoản đầu tư dù được tài trợ bằng nguồn nào cũng làm giảm nguồn vốn chủ sở hữu. Vốn sản xuất kinh doanh mà trước hết là nguồn vốn chủ sở hữu là một đảm bảo cho doanh nghiệp tránh khỏi nguy cơ phá sản và là điểm tựa quan trọng cho mọi quyết định đầu tư cũng như tài trợ. Nguồn vốn chủ sở hữu được coi như sự bảo đảm trước Nhà nước, các bên đối tác, các nhà đầu tư về khả năng kinh doanh của doanh nghiệp. Quy mô của nguồn vốn chủ sở hữu cũng ảnh hưởng rất lớn tới khả năng đầu tư và tìm kiếm nguồn tài trợ của doanh nghiệp. Bởi vì, những tài sản cố định quan trọng nhất được đầu tư từ nguồn vốn chủ sở hữu và những nhà tài trợ đánh giá qua sự bảo đảm của nguồn vốn này. Chính vì vậy doanh nghiệp phải luôn phải chú ý tới yêu cầu bảo toàn và phát triển nguồn vốn chủ sở hữu. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, do tác động của nhiều nhân tố, giá trị của các nguồn vốn và tài sản doanh nghiệp luôn luôn biến động. Do đó, nếu cho rằng bảo toàn vốn chỉ bao gồm việc giữ nguyên về số tuyệt đối giá trị tiền tệ của vốn sản xuất kinh doanh qua các thời kỳ là không còn phù hợp. Để bảo toàn vốn, doanh nghiệp phải quan tâm đến giá trị thực ( giá trị ròng ) của các loại vốn tức là khả năng tái sản xuất giá trị các doanh nghiệp phải quan tâm đến giá trị các yếu tố đầu vào. Do vậy, yêu cầu đảm bảo vốn đối với các loại vốn trong doanh nghiệp là không giống nhau, do những đặc điểm riêng về sự chu chuyển, tham gia của từng loại vốn vào quá trình sản xuất, đặc điểm tái sản xuất... nên yêu cầu bảo toàn vốn cố định và vốn lưu động có sự khác nhau. 2. Nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn cố định. Việc bảo toàn và phát triển vốn cố định đặt ra như một nhu cầu tất yếu của mỗi doanh nghiệp. Yêu cầu khách quan này bắt nguồn từ những lý do sau đây - Trong cơ cấu vốn kinh doanh của doanh nghiệp, vốn cố định thường chiếm một tỷ trọng lớn, nó quyết định tới tốc độ tăng trưởng, khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. - So với chu kỳ vận động của vốn lưu động thì chu kỳ vận động của vốn ứng ra ban đầu cho chi phí về tài sản cố định. Trong thời gian đó, đồng vốn luôn bị “đe dọa” bởi những rủi ro do những nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan làm thất thoát vốn như lạm phát, hao mòn vô hình... - Khác với cách vận động của vốn lưu động là chuyển dịch giá trị một lần và cũng hoàn vốn một lần, vốn cố định chuyển dịch giá trị từng phần và hoàn vốn từng phần. Trong khi có một bộ phận của vốn cố định được chuyển hoá thành vốn tiền tệ – quỹ khấu hao ( phần động ) thì còn một bộ phận khác lại nằm trong phần gía trị còn lại của tài sản cố định ( phần tĩnh ). Nếu loại trữ những tác nhân chủ quan và khách quan thì muốn bảo toàn được vốn cố định thì “phần tĩnh” của vốn cố định phải nhanh chóng chuyển sang “phần động”. Đó là một quá trình khó khăn và phức tạp, đây chính là khâu dễ làm thất thoát vốn. Từ những lý do chủ yếu nêu trên ta thấy việc bảo toàn quan trọng công tác quản lý, sử dụng và bảo toàn vốn của doanh nghiệp. Trên lý thuyết, bảo toàn vốn cố định là phải thu hồi toàn bộ phần giá trị đã ứng ra ban đầu để mua sắm tài sản cố định. Điều này chỉ là lý tưởng và đúng điều kiện của nền kinh tế không có lạm phát và không có hao mòn vô hình. Trong thực tế, việc thu đủ nguyên giá tài sản cố định sẽ trở thành vô nghĩa nếu nó không đủ để tái sản xuất giản đơn tài sản cố định. Do vậy, trong nền kinh tế thị trường bảo toàn vốn cố định phải được hiểu một cách đầy đủ là phải thu hồi lượng giá trị thực của tài sản cố định. ở đây, giữa giá trị thực của tài sản cố định và nguyên giá của tài sản cố định là những đại lượng khác nhau song điều quan trọng là cả hai đại lượng này ít nhất phải có cùng sức mua để tạo ra một giá trị sử dụng tương đương. Có như vậy vốn cố định mới được bảo toàn và thực hiện tái sản xuất tài sản cố định. 3. Nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn lưu động. Do đặc điểm của vốn lưu động là chuyển dịch giá trị một lần vào giá trị sản phẩm trong một chu kỳ sản xuất, hình thái giá trị của nó thay đổi qua các giai đoạn của quá trình sản xuất tồn đọng dưới dạng tiền tệ, vật tư, hàng hoá... đây là những tài sản rất dễ gặp phải rủi ro do những tác động chủ quan từ phía doanh nghiệp và khách quan từ thị trường đem lại như - Sự ứ đọng vật tư, hàng hoá do việc sản xuất không đáp ứng được nhu cầu thị trường về thị hiếu, chất lượng, giá cả,... - Kinh doanh bị thua lỗ hoặc bị chiếm dụng vốn kéo dài dẫn đến sự thiêu hụt vốn lưu động, do doanh thu không đủ đáp ứng nhu cầu vốn lưu động - Nền kinh tế bị lạm pháp, giá cả tăng nhanh nên sau mỗi vòng luân chuyển, vốn lưu động của doanh nghiệp bị mất dần theo tốc độ trượt giá... - Mặt khác, vốn lưu động ở các doanh nghiệp có ngành nghề kinh doanh khác nhau thì có cơ cấu tài sản lưu động khác nhau và sự luân chuyển vốn lưu động chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau nên mỗi doanh nghiệp phải có phương pháp quản lý vốn phù hợp với những đặc điểm đó. Tuy nhiên, các doanh nghiệp phải dựa trên những nguyên tắc chung nhất cho việc bảo toàn và phát triển vốn lưu động của doanh nghiệp - Thời điểm kết thúc vòng quay của vốn nên tiến hành vào cuối mỗi kỳ kế toán ( quý, năm ) vì vòng quay vốn lưu động trùng với chu kỳ kinh doanh. - Căn cứ để xác định giá trị bảo toàn vốn là chỉ số vật giá chung hoặc chỉ số giá của sản phẩm hàng hoá chủ yếu phù hợp với nhu cầu và chiếm tỷ trọng lớn trong vốn lưu động của doanh nghiệp. - Đảm bảo tái sản xuất giản đơn về tài sản lưu động. Đó là những nguyên tắc và yêu cầu chủ yếu của việc bảo toàn và phát triển vốn của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường, dựa trên những nguyên tắc đó mà doanh nghiệp có biện pháp quản lý và sử dụng vốn cũng như tìm ra những giải pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. 4. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh vốn cố định và vốn lưu động có những đặc điểm khác nhau và việc bảo toàn chúng cũng tuân theo những nguyên tắc riêng. Do đó, phải có giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng từng loại vốn. 5. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định. a. Đánh giá và đánh giá loại tài sản cố định. Trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển nhanh như hiện nay, tài sản cố định thường xuyên phải đối mặt với nguy cơ hao mòn vô hình, do đó, để có cơ sở cho việc tính toán khấu hao thu hôi vốn đầy đủ, doanh nghiệp cần phải giảm thiểu sự chênh lệch giữa giá trị thực tế và giá trị trên sổ sách của tài sản. Muốn vậy, doanh nghiệp phải có kế hoạch và biện pháp đánh giá và đánh giá lại tài sản một cách thường xuyên, chính xác mức khấu hao hợp lý để thu hồi vốn hoặc kịp thời sử lý những tài sản cố định bị mất giá để chống lại sự thất thoát vốn.Tính hiệu quả cần phải đạt được các quyết định xử lý là phải bảo toàn vốn cố định trong mọi trường hợp biến động giá cả nói chung và hao mòn vô hình nói riêng. b. Lựa chọn phương pháp tính khấu hao và xác định mức khấu hao hợp lý Vốn cố định được thu hồi thông qua việc doanh nghiệp tính và trích lập qũy khấu hao, do đó việc bảo đảm tính và trích đủ khấu hao có một ý nghĩa hết sức quan trọng khi tính và trích khấu hao, người quản lý không chỉ quan tâm đến tình hình tài sản cố định, mức độ tham gia của nó vào quá trình sản xuất kinh doanh mà còn phải quan tâm đến thời hạn sử dụng nguồn vốn đầu tư, loại tài sản để lựa chọn phương pháp tính khấu hao thích hợp. Hiện nay, có nhiều phương pháp tính khấu hao tài sản cố định như phương pháp tuyến tính cố định, phương pháp luỹ thoái... nhưng phổ biến nhất hiện nay mà hầu hết các doanh nghiệp đang sử dụng là phương pháp khấu hao tuyến tính cố định ( phương pháp khấu hao bình quân theo thời gian ). Theo phương pháp này mức khấu hao hàng năm được tính bằng công thức NG Mk = T Trong đó: + Mk mức trích khấu hao hàng năm + NG nguyên giá tài sản cố định + T thời gian sử dụng định mức của tài sản cố định Tuy nhiên, tuỳ từng đặc điểm kinh doanh và điều kiện cụ thể của mỗi doanh nghiệp mà lựa chọn phương pháp tính khấu hao thích hợp để vừa đảm bảo thu hồi vốn nhanh vừa đảm bảo toàn bộ được vốn đỡ gây ra biến động về giá thành. c. Nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản cố định. Để nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản cố định các doanh nghiệp cần tận dụng tối đa công suất của máy móc thiết bị, giảm thời gian tác nghiệp, hợp lý hoá dây truyền công nghệ, đảm bảo thực hiện nghiêm ngặt chế độ duy tu bảo dưỡng máy móc, áp dụng các chế độ khuyến khích vật chất và trách nhiệm đối với người quản lý và sử dụng tài sản cố định. Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định, các doanh nghiệp cần phải tổ chức tốt quá trinh sản xuất. Có nghĩa là tổ chức sản xuất trong kinh doanh phải đảm bảo 3 nguyên tắc này đem lại những tác dụng to lớn như. Tiết kiệm thời gian trong sản xuất Sử dụng hợp lý công suất và thời gian hoạt động của máy móc thiết bị. Góp phần bảo đảm sản xuất cân đối nhịp nhàng. Bảo đảm hoàn thành kế hoạch sản xuất với hiệu qủa cao. d.Sửa chữa, duy tu bảo dưỡng tài sản cố định Công tác này có mục đích là duy trì khả năng hoạt động bình thường cho tài sản cố định và cần tiến hành định kỳ để có thể phát hiện, sửa chữa kịp thời những hỏng hóc chứ không phải đến lúc xảy ra sự cố mới xem xét sữa chữa,thay thế. Tuy nhiên, đôi khi chi phí sửa chữa còn hơn giá trị của tài sản cố định trong trường hợp này cần cân nhắc giữa việc chữa hay thanh lý tài sản này. e. Kiểm tra tài chính đối với hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp. Sau mỗi kỳ kế hoạch, nhà quản lý phải tiến hành phân tích, đánh giá tình hình sử dụng tài sản cố định và vốn cố định thông qua những chỉ tiêu phân tích hiệu quả sử dụng vốn. Từ đó, doanh nghiệp có thể đưa ra những quyết định đầu tư, điều chỉnh lại quy mô cơ cấu sản xuất cho phù hợp, khai thác được những tiềm năng sẵn có và khắc phục được những tồn tại trong quản lý. 6. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục, vốn lưu động luôn thay đổi hình thái giá trị và đặc điểm vận động của nó được thể hiện như sau - Trong giai đoạn cung ứng: vốn đựơc dùng để mua sắm vật tư, các đối tượng lao động dùng cho quá trình sản xuất. Như vậy, vốn lưu động đã thay đổi từ hình thái tiện tệ sang vật tư, hàng hoá. - Giai đoạn sản xuất: các loại vật tư, đối tượng lao động khác dưới sự tác độngcủa máy móc, người lao động sẽ bán thành phẩm. - Giai đoạn lưu thông: sản phẩm sau khi được tiêu thụ, vốn lưu động từ hình thái hoá hiện vật lại chuyển sang vốn tiền tệ – hình thái giá trị ban đầu. Sự vận động này diễn ra liên tục, đan xen lẫn nhau. Cứ như vậy, vốn lưu động được tiếp tục tuần hoàn và chu kỳ chuyển theo chu kỳ sản xuất. Do phương thức vận động có tính chất chu kỳ như trên, nên để nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn lưu động các doanh nghiệp cần áp dụng các biện pháp sau a. Xác định chính xác nhu cầu vốn lưu động ở từng khâu luân chuyển Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác quản lý vốn lưu động nhằm - Tiết kiệm vốn lưu động sử dụng trong sản xuất kinh doanh - Thông qua việc xác định nhu cầu lưu động ở từng khâu để nắm được lượng vốn lưu động cần phải đi vay– tránh ứ đọng vốn ( nhất là vốn đi vay ) Đảm bảo đủ vốn lưu động cần thiết cho sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục. Thúc đẩy tốc độ luân chuyển vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. b. Tổ chức khai thác tốt các nguồn vốn lưu động phực vụ cho sản xuất kinh doanh. Trước hết, doanh nghiệp cần khai thác triệt để các nguồn vốn nội bộ và các khoản vốn có thể chiếm dụng một cách thường xuyên ( nợ định mức ), sử dụng tiết kiệm có hiệu quả nhất nguồn vốn này. Nếu còn thiếu, doanh nghiệp phải tìm đến các nguồn vốn bên ngoài như vốn vay Ngân hàng và các tổ chức tín dụng, vốn liên doanh,vốn phát hành trái phiếu... tuy nhiên, các doanh nghiệp cần phải cân nhắc , tính toán, lựa chọn phương thức huy động sao cho chi phí vốn là thấp nhất. c. Các biện pháp tổng hợp Để nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn lưu động các doanh nghiệp ngoài cách sử dụng các giải pháp trên cần áp dụng một số biện pháp tổng hợp như: đẩy mạnh khâu tiêu thụ hàng hoá, xử lý kịp thời các vật tư hàng hoá chậm luân chuyển để giải phóng vốn. Thường xuyên xác định phần chênh lệch giá giữa giá mua bán đầu với giá thị trường tại thời điểm kiểm tra tài sản lưu động tồn kho để có biện pháp xử lý kịp thời, hiệu quả Thực hiện nghiêm túc, triệt để công tác thanh toán công nợ, chủ động phòng ngừa rủi ro, hạn chế tình trạng bị chiếm dụng vốn mà từ đó làm phát sinh nhu cầu vốn lưu động dẫn đến doanh nghiệp phải đi vay ngoài kế hoạch, tăng chi phí vốn mà đáng lẽ không có. Vốn bị chiếm dụng ngày càng trơ thành nợ khó đòi, gây thất thoát vốn của doa

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Xí nghiệp Hoá Dược.pdf
Tài liệu liên quan