Tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu tại công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I: LUẬN VĂN:
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
kinh doanh xuất khẩu tại công ty xuất nhập
khẩu Tổng hợp I
Lời nói đầu
Hiện nay Vệt Nam đang ở trong giai đoạn hội nhập. Nói đến ngoại thương của
Việt Nam chúng ta không thể không nói đến những bước thăng trầm của nó trước và
sau khi chuyển đổi nền kinh tế. Trước kia ảnh hưởng bởi nền kinh tế tập chung, ngoại
thương Việt Nam mang tính chất phiến diện nghèo nàn. Chúng ta chủ yếu quan hệ với
Liên Xô và các nước đông Âu trên cơ sở không hoàn lại. Từ khi chuyển đổi nền kinh tế
sang cơ chế thị trường với quan điểm: Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước,
không phân biệt chế độ chính trị trên cở các bên cùng có lợi thì nền ngoại thương Việt
Nam đã có sự thay đổi mạnh mẽ, hiện nay Việt Nam có quan hệ buôn bán với hầu hết
các quốc gia trên thế giới
Cùng với xu thế hội nhập, xuất khẩu đã trở thành vấn đề sống còn của nhiều nền
kinh tế thế giới. Việt Nam từ khi mở cửa nền kinh tế cũng đã xác định xuất khẩu là ...
81 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1541 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu tại công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
kinh doanh xuất khẩu tại công ty xuất nhập
khẩu Tổng hợp I
Lời nói đầu
Hiện nay Vệt Nam đang ở trong giai đoạn hội nhập. Nói đến ngoại thương của
Việt Nam chúng ta không thể không nói đến những bước thăng trầm của nó trước và
sau khi chuyển đổi nền kinh tế. Trước kia ảnh hưởng bởi nền kinh tế tập chung, ngoại
thương Việt Nam mang tính chất phiến diện nghèo nàn. Chúng ta chủ yếu quan hệ với
Liên Xô và các nước đông Âu trên cơ sở không hoàn lại. Từ khi chuyển đổi nền kinh tế
sang cơ chế thị trường với quan điểm: Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước,
không phân biệt chế độ chính trị trên cở các bên cùng có lợi thì nền ngoại thương Việt
Nam đã có sự thay đổi mạnh mẽ, hiện nay Việt Nam có quan hệ buôn bán với hầu hết
các quốc gia trên thế giới
Cùng với xu thế hội nhập, xuất khẩu đã trở thành vấn đề sống còn của nhiều nền
kinh tế thế giới. Việt Nam từ khi mở cửa nền kinh tế cũng đã xác định xuất khẩu là vấn
đề then chốt trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước giai đoạn 2001-2010 đang đặt ra cho
hoạt động xuất nhập khẩu những yêu cầu mới, đó là ngày càng phải chú trọng tới việc
nâng cao chất lượng cũng như hiệu quả cuả hoạt động xuất khẩu
Là một sinh viên của trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân, tiếp thu những kiến thức
hữu ích về lĩnh vực kinh tế đối ngoại nói chung cũng như hoạt động xuất nhập khẩu nói
riêng, được nhà trường tạo điều kiện thực tập tại Công ty XNK Tổng hợp I – một công
ty kinh doanh hiệu quả và có uy tín trên thị trường. Qua quá trình thực tập tại công ty,
em đã chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu
tại công ty XNK Tổng hợp I” để nghiên cứu trong luận văn của mình, với mong muốn
tìm hiểu sâu hơn về lĩnh vực xuất khẩu và hiệu quả của nó ở Việt Nam thông qua thực
tiễn tại Công ty XNK Tổng hợp I. Nội dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Lí luận chung về hiệu quả xuất khẩu và sự cần thiết phải nâng cao
hiệu quả xuất khẩu.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả xuất khẩu tại công ty XNK Tổng hợp I
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu của công ty XNK
Tổng hợp I trong thời gian tới.
Chương 1
cơ sở lí luận về hiệu quả kinh Doanh xuất khẩu và sự cần thiết phải nâng cao hiệu
quả kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp
1.1. Tổng quan về hiệu quả kinh doanh
1.1.1. Khái niệm và bản chất hiệu quả kinh doanh
1.1.1.1. Khái niệm hiệu quả kinh doanh
* Khái niệm kinh doanh
Để hiểu khái niệm hiệu quả kinh doanh trước hết ta xem xét khái niệm kinh
doanh. Đây là một khái niệm có nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho kinh doanh là
việc dùng công sức và tiền của để tổ chức các hoạt động nhằm mục đích kiếm lời trên
thị trường. Có người cho kinh doanh là việc bỏ ra một số vốn ban đầu vào hoạt động
trên thị trường để thu lại lượng vốn lớn hơn sau một khoảng thời gian nào đấy.
Luật kinh doanh của Việt Nam có khái niệm "kinh doanh là việc thực hiện một số
hoặc tất cả các công đoạn các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ
sản phẩm hoặc thực hiện các dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”.
Như vậy, nếu loại bỏ các phần khác nhau nói về phương diện, phương thức, kết
quả cụ thể của hoạt động kinh doanh thì có thể hiểu kinh doanh là các hoạt động nhằm
mục đích sinh lời của các chủ thể kinh doanh trên thị trường.
* Khái niệm hiệu quả kinh doanh
Nếu xét về kết quả cụ thể của hoạt động kinh doanh ta có thuật ngữ hiệu quả kinh
doanh. Trong quá khứ cũng như hiện tại còn có nhiều quan niệm khác nhau về thuật
ngữ này. Tuy nhiên, ta có thể chia các quan niệm này thành các nhóm cơ bản sau
- Quan điểm thứ nhất cho rằng: hiệu quả kinh doanh là kết quả thu được trong hoạt
động kinh doanh, là doanh thu tiêu thụ hàng hoá
Theo quan điểm này thì hiệu quả kinh doanh cũng chính là kết quả kinh doanh,
quan điểm này chỉ đề cập đến doanh thu mà không đề cập đến chi phí kinh doanh, hai
hoạt động kinh doanh cùng đem lại một kết quả, doanh thu thì chúng có cùng hiệu quả
kinh doanh dù chúng có hai mức chi phí khác nhau, đây là hạn chế của quan điểm này
- Quan điểm thứ hai cho rằng: hiệu quả kinh doanh là một quan hệ tỉ lệ giữa phần
tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí. Quan điểm này đã nói lên quan hệ
so sánh một cách tương đối giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả
đó, nhưng quan điểm này cũng có hạn chế là lại chỉ xét tới phần kết quả và chi phí bổ
sung.
- Quan điểm thứ ba cho rằng: hiệu quả kinh doanh là một đại lượng so sánh giữa
kết quả thu được và chi phí bỏ ra để có được kết quả đó. Quan điểm này đã phản ánh
được mối liên hợp bản chất của hiệu quả kinh doanh, vì nó gắn được kết quả với các chi
phí. Tuy nhiên, kết quả và chi phí đều luôn luôn vận động, nên quan điểm này chưa biểu
hiện được tương quan về lượng và chất giữa kết quả và chi phí
- Quan điểm thứ tư cho rằng: hiệu quả kinh doanh phải thể hiện được mối quan hệ
giữa sự vận động của kết quả với sự vận động của chi phí tạo ra kết quả đó, đồng thời
phản ánh được trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất.
1.1.1.2. Bản chất của hiệu quả kinh doanh
Từ các quan điểm trên ta có thể thấy được bản chất của hiệu quả kinh doanh. Hiệu
quả kinh doanh bản chất là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn
lực sản xuất, trình độ tổ chức và quản lý của doanh nghiệp để thực hiện ở mức cao nhất
các mục tiêu kinh tế - xã hội và chi phí thấp nhất. Hiệu quả kinh doanh phải được xem
xét ở cả hai mặt định tính và định lượng.
Về mặt định tính, mức độ hiệu quả kinh doanh là những lỗ lực của doanh nghiệp
và phản ánh trình độ quản lý của doanh nghiệp đồng thời gắn những lỗ lực đó với việc
đáp ứng các mục tiêu và yêu cầu của doanh nghiệp và của xã hội.
Về mặt định lượng, hiệu quả kinh doanh biểu hiện tương quan so sánh giữa kết quả
thu được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Hiệu quả kinh doanh chỉ có được khi
kết quả thu được lớn hơn chi phí bỏ ra, mức chênh lệch này càng lớn thì hiệu quả càng
cao và ngược lại. Cả hai mặt định tính và định lượng của hiệu quả kinh doanh có quan
hệ chặt chẽ với nhau không tách rời nhau.
Trong điều kiện hiện nay, khi mà các quốc gia trên thế giới luôn đề cao vấn đề an
toàn cho người tiêu dùng, an toàn vệ sinh, môi trường vấn đề lao động và trách nhiệm
xã hội thì hiệu quả kinh doanh từ khi còn gắn với hiệu quả chính trị - xã hội.
1.1.2. Phân loại hiệu quả kinh doanh
Trong thực tế có nhiều loại hiệu quả kinh doanh khác nhau để tiện cho việc quản lý
và nâng cao hiệu quả kinh doanh ta thường phân loại hiệu quả kinh doanh theo các tiêu
thức khác nhau.
* Căn cứ vào phương pháp tính hiệu quả kinh doanh thành hiệu quả tuyệt đối và
hiệu quả tương đối
Đây là hai hình thức biểu hiện mối quan hệ giữa kết quả và chi phí.
Hiệu quả tuyệt đối được tính bằng công thức
nhuËn lîi phÝchi -qu¶ kÕt H
Hiệu quả tương đối phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố sản xuất của doanh
nghiệp.
phÝChi
qu¶KÕt
H1
qu¶KÕt
phÝChi
H 2
* Nếu căn cứ vào phạm vi tính toán hiệu quả có hiệu quả kinh doanh tổng hợp và
hiệu quả kinh doanh bộ phận
Hiệu quả kinh doanh tổng hợp là hiệu quả kinh doanh tính chung cho toàn doanh
nghiệp.
Hiệu quả kinh doanh bộ phận là hiệu quả tính riêng cho từng bộ phận của doanh
nghiệp hoặc từng yếu tố sản xuất.
* Căn cứ vào khía cạnh khác nhau của hiệu quả có hiệu quả tài chính và hiệu quả
chính trị - xã hội.
Hiệu quả tài chính là hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp về mặt kinh tế tài
chính được biểu hiện qua các chỉ tiêu thu chi trực tiếp của doanh nghiệp.
Hiệu quả chính trị - xã hội là hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp về mặt chính
trị - xã hội - môi trường.
* Ngoài ra nếu căn cứ vào thời gian mang lại hiệu quả có hiệu quả trước mắt và
hiệu quả lâu dài, căn cứ vào đối tượng xem xét có hiệu quả trực tiếp và hiệu quả gián
tiếp.
Việc phân loại hiệu quả theo các căn cứ như trên chỉ có tính chất tương đối, một
chỉ tiêu có thể vừa là hiệu quả tuyệt đối vừa là hiệu quả tài chính, vừa là hiệu quả lâu
dài....do đó tuỳ thuộc vào mục đích và phạm vi nghiên cứu mà người ta có thể phân chia
hiệu quả kinh doanh theo các tiêu thức khác nhau.
1.1.3. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh
Có rất nhiều các chỉ tiêu về hiệu quả kinh doanh để đánh giá hiệu quả kinh doanh
của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường, người ta sử dụng một hệ thống các chỉ
tiêu để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hệ thống chỉ tiêu này cho
chúng ta biết số kết quả về mặt lượng của phạm trù hiệu quả kinh tế, hiệu quả đạt được
cao hay thấp sau mỗi kỳ kinh doanh.
1.1.3.1.Phân loại các chỉ tiêu trong hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp.
Các chỉ tiêu trong hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp được phân thành ba loại.
- Một là các chỉ tiêu dùng để tính toán hiệu quả kinh doanh, các chỉ tiêu này chỉ
dùng để tính toán hiệu quả kinh doanh chứ bản thân nó không phản ánh đầy đủ hiệu quả
kinh doanh của toàn doanh nghiệp. Các chỉ tiêu này bao gồm: Giá trị sản lượng hàng
hoá, giá thành, doanh thu tiêu thụ, vốn đầu tư...
- Hai là các chỉ tiêu sử dụng để phản ánh hiệu quả kinh doanh. Chỉ tiêu thuộc loại
này phản ánh trực tiếp hiệu quả kinh doanh thông qua quan hệ đạt được và các chi phí
bỏ ra để đạt được kết quả đó. Các chỉ tiêu này bao gồm năng suất lao động, thời hạn thu
hồi vốn đầu tư, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận.....
- Ba là các chỉ tiêu sử dụng để so sánh hiệu quả kinh doanh . Các chỉ tiêu này dùng
để so sánh hiệu quả kinh doanh giữa các doanh nghiệp, hay khi một doanh nghiệp có
nhiều phương án kinh doanh khác nhau và lựa chọn một trong số các phương án đó.
1.1.3.2. Hệ thống các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm lợi nhuận,
tỷ suất lợi nhuận, mức vốn hao phí cho một đơn vị sản phẩm, thời hạn thu hồi vốn đầu
tư, hệ số sử dụng vốn, năng suất lao động,...
+ Lợi nhuận: Chỉ tiêu lợi nhuận được tính theo công thức sau:
P= D - (Z + Th + TT)
Trong công thức trên
P: Lợi nhuận của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh
D: Doanh thu của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh
Z: Giá thành sản phẩm của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh
TT: Các tổn thất sau mỗi kỳ kinh doanh
Trong cơ chế thị trường lợi nhuận vừa được coi là nhân tố để tính toán hiệu quả
kinh tế vừa được coi là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp của doanh nghiệp.
+ Tỷ suất lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận được tính theo hai cách:
DT
P
'P1
vsx
p
p'2
P'1 cho biết một đồng doanh thu thì tạo được bao nhiêu đồng lợi nhuận
P'2 Cho biết một đồng vốn sản xuất (chi phí) thì tạo được bao nhiêu đồng lợi
nhuận.
Trong cơ chế thị trường thì tỷ suất lợi nhuận là một chỉ tiêu quan trọng, nó dùng để
so sánh khả năng sinh lời giữa các doanh nghiệp khác nhau, hay giữa các ngành khác
nhau.
+ Mức vốn hao phí cho một đơn vị sản phẩm.
Chỉ tiêu này được tính theo công thức:
Sv=
Q
V
Trong công thức trên:
Sv: Suất hao phí vốn
V: Tổng vốn
Q: Sản lượng (tính theo sản phẩm)
Chỉ tiêu này cho biết được hiệu quả sử dụng các loại vốn của doanh nghiệp. Lượng
vốn sử dụng trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu trên còn được cụ thể hoá cho từng loại vốn như sau
Q
VDT
S vdt
Q
VCDS vcd
Q
VLD
S vld
S vdt , S vcd , S vld : suất phí vốn đầu tư, vốn cố định, vốn lưu động
Các chỉ tiêu này cho thấy một đơn vị vốn sẽ tạo ra được bao nhiêu sản phẩm hàng
hoá. Các suất hao phí càng thấp thì hiệu quả càng cao và ngược lại.
+ Thời hạn thu hồi vốn đầu tư
Thời hạn thu hồi vốn đầu tư phản ánh khoảng thời gian mà vốn đầu tư dần dần
được thu hồi lại sau mỗi kì kinh doanh
Thời hạn thu hồi vốn đầu tư đựơc xác định bằng công thức
P
VDT
T v
VDT: tổng số vốn đầu tư cho kì kinh doanh đó
P: lợi nhuận thu được sau mỗi kì kinh doanh
T v mà càng ngắn thì hiệu quả dụng vố đầu tư càng cao và ngược lại
+ Hệ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
Đây là chỉ tiêu nghịch đảo của chỉ tiêu thời hạn thu hồi vốn đầu tư
Chỉ tiêu này cho biết khả năng sinh lời của một đồng vốn
+ Cùng với chỉ tiêu E người ta còn sử dụng các chỉ tiêu hệ số hiệu quả sử dụng vốn cố
định, vốn lưu động, và được tính bằng công thức
VLD
P
Evld
VLD
PEvcd
+ Năng suất lao động (W)
L
QW
Q khối lượng hàng hoá tạo ra trong kì
VDT
P
Tv
1E
L: số lượng lao động bình quân kì kinh doanh
Chỉ tiêu cho biết khối lượng sản phẩm hàng hoá được tạo ra trên một đầu người.
Chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả kinh doanh càng lớn
+ Suất hao phí lao động sống
Chỉ tiêu này là chỉ tiêu nghịch đảo của chỉ tiêu năng suất lao động
Q
L
WS ld
1
Chỉ tiêu cho biết lượng hao phí lao động cho việc tạo ra một đơn vị sản phẩm. Chỉ
tiêu này càng thấp chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng lao động càng có hiệu quả.
+ Ngoài các chỉ tiêu về năng suất lao động tính theo sản phẩm người ta còn tính các chỉ
tiêu sau
Doanh thu bình quân một lao động
L
DT
Mức sinh lời của một lao động
L
P
Trên đây chỉ là một số chỉ tiêu cơ bản phản ánh hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp, ngoài các chỉ tiêu trên người ta còn sử dụng nhiều các chỉ tiêu khác tuỳ thuộc
vào phạm vi và mục đích nghiên cứu
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp và
nhất là đối với một doanh nghiệp kinh doanh quốc tế thì hiệu quả kinh doanh của một
doanh nghiệp càng bị chi phối bởi nhiều nhân tố. Tuy nhiên ta có thể phân loại các nhân
tố này làm hai nhóm đó là nhóm các nhân tố bên trong doanh nghiệp và nhóm các nhân
tố bên ngoài doanh nghiệp.
1.1.4.1. Nhóm các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
Nhóm các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp bao gồm các nhân tố thuộc môi trường
kinh doanh quốc gia và các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh quốc tế
* Nhân tố môi trường kinh doanh quốc gia
Các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh quốc gia ảnh hưởng tới hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp bao gồm môi trường văn hoá chính trị, luật pháp, kinh tế và
cạnh tranh
- Môi trường văn hoá của quốc gia phản ánh thẩm mĩ, giá trị và thái độ, phong tục
tập quán, cấu trúc xã hội, tôn giáo, giao tiếp cá nhân, giáo dục…sự đa dạng về văn hoá
có thể tạo điều kiện cho một số sản phẩm này tăng doanh thu nhưng có thể lại làm cho
một số sản phẩm khác phải tăng chi phí để thích nghi hoá sản phẩm cho phù hợp với thị
hiếu địa phương. Do đó việc hiểu biết về nền văn hoá quốc gia sẽ giúp cho nhà quản trị
điều hành có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất và bán hàng của mình
- Những nhân tố chính trị và luật pháp là những vấn đề liên quan đến vai trò quan
trọng của chính phủ và luật pháp đối với kinh doanh. Các yếu tố chính trị và luật pháp
bao gồm sự ổn định của chính phủ, mức độ tham nhũng trong hệ thống chính trị, và các
tiến trình chính trị có ảnh hưởng tới các chính sách kinh tế.
Các yếu tố pháp luật bao gồm các đạo luật điều chỉnh việc trả lương tối thiểu, an
toàn lao động cho công nhân, bảo vệ môi trường và người tiêu dùng, và những gì được
quy định là hành vi cạnh tranh hợp pháp hay bất hợp pháp.
Hệ thống luật pháp của một quốc gia nào đầy đủ, rõ ràng nhất quán và mở rộng sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nhiệp, đồng thời tiết kiệm
được chi phí do luật pháp không rõ ràng, không nhất quán gây ra. Sự ổn định hay bất ổn
định của hệ thống chính trị cũng ảnh hưởng đến việc tăng kết quả kinh doanh hay giảm
chi phí kinh doanh.
- Những yếu tố kinh tế bao gồm các biến số về kinh tế và tài chính như lãi suất và
thuế suất, cơ cấu tiêu dùng, năng suất và mức sản lượng. Các yếu tố đó còn bao gồm các
chỉ số về hạ tầng cơ sở như truyền thông, mạng lưới phân phối … và mức độ sẵn có và
mức phí tổn về năng lượng.
Các yếu tố kinh tế và sự thay đổi của nó đều có tác động trực tiếp đến yếu tố thị
trường đầu vào và đầu ra của doanh nghiệp. Do đó nó ảnh hưởng đến việc tăng giảm các
chỉ tiêu kết quả kinh doanh hoặc tăng giảm một số loại chi phí kinh doanh. Sự biến
động chung có thể là cùng chiều giữa các yếu tố trên nhưng với tốc độ khác nhau cũng
tạo ra sự biến động không đều của các chỉ tiêu kết quả và chi phí do đó cũng tác động
tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
- Những yếu tố cạnh tranh bao gồm những yếu tố như số lượng các đối thủ cạnh
tranh của công ty và chiến lược cạnh tranh của chúng, cơ cấu giá thành và chất lượng
sản phẩm. Ngoài ra còn tính đến việc cạnh tranh có ảnh hưởng như thế nào đến giá
thành và mức độ sẵn có của các nguồn lực như lao động, vốn tài chính, nguyên liệu thô.
Cuối cùng các yếu tố cạnh tranh còn liên quan đến tính cách, hành vi cư sử và sở thích
của người tiêu dùng đối với các sản phẩm của công ty và các đối thủ cạnh tranh của nó,
như vậy các yếu tố cạnh tranh có ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp tới chi phí hay
kết quả của doanh nghiệp, có nghĩa là sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp.
Bốn nhóm yếu tố của môi trường kinh doanh quốc gia trên đây ảnh hưởng tới cách
thức hoạt động của tất cả các công ty kinh doanh trong bất kì môi trường kinh doanh
quốc gia nào. Các nhà sản xuất và các doanh nghiệp vừa và nhỏ không tham gia vào các
hoạt động kinh doanh quốc tế cũng bị ảnh hưởng.
Các công ty nội địa quan tâm chủ yếu tới việc các yếu tố bên ngoài trong một môi
trường kinh doanh quốc gia ảnh hưởng như thế nào tới hoạt động của công ty. Ngược
lại các công ty kinh doanh quốc tế phải quan tâm đến các yếu tố bên ngoài của tất cả
các yếu tố bên ngoài của tất cả các môi trường kinh doanh quốc gia có liên quan đến
hoạt động của công ty, đó là môi trường kinh doanh quốc tế.
* Môi trường kinh doanh quốc tế.
Môi trường kinh doanh quốc tế liên kết các môi trường kinh doanh quốc gia trên
thế giới với nhau, và trở thành đường dẫn theo đó các yếu tố bên ngoài của một nước
ảnh hưởng tới các công ty ở các quốc gia khác nhau. Môi trường kinh doanh quốc tế và
sự biến động của nó cũng tác động không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp, nếu như các biến động trong kinh doanh quốc tế thuận lợi sẽ mở ra nhiều thời
cơ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nó có thể làm cho doanh thu tăng do
nhu cầu về sản phẩm mà doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường tăng lên và ngược lại.
Giá cả của các sản phẩm trên thị trường thế giới biến động theo hướng tăng lên hay
giảm đi tác động trực tiếp đến giá cả các yếu tố đầu vào và đầu ra của doanh nghiệp. Sự
biến động về tỷ giá và lãi suất giữa các đồng tiền đặc biệt là giữa các đồng tiền mạnh
cũng ảnh hưởng tới chi phí vốn, đến giá cả các yếu tố đầu vào, đầu ra của doanh nghiệp,
và do đó ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Trên đây là các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp, ngoài ra các yếu tố bên trong
doanh nghiệp cũng có ảnh hưởng lớn tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.4.2. Các yếu tố bên trong doanh nghiệp .
Các nhân tố bên trong doanh nghiệp ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp bao gồm trình độ công nghệ, trình độ tổ chức sản xuất và trình độ quản lí của
doanh nghiệp
* Trình độ công nghệ và sự đổi mới công nghệ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Công nghệ mà doanh nghiệp sử dụng có tác động rất lớn đến sản phẩm mà doanh
nghiệp sản xuất ra, cũng như tác động đến chi phí và giá thành của sản phẩm. Việc
doanh nghiệp đổi mới và nâng cao trình độ công ghệ của doanh nghiệp cũng không
ngoài mục đích tăng doanh thu do tăng sản lượng hay do từ các sản phẩm có chất lượng
cao hơn và đáp ứng được nhu cầu của thị trường, do tăng giá bán của các sản phẩm có
chất lượng tốt hơn, mẫu mã kiểu cách đẹp hơn; do giảm được chi phí do giảm tiêu hao
nguyên liệu, giảm phế phẩm, tăng chính phẩm.
Hiện nay dưới tác động của cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển như vũ
bão, có vai trò ngày càng lớn mang tính chất quyết định tới việc năng cao năng suất,
chất lượng, hiệu quả và đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế ở nước ta, cùng với xu thế
chung đó các doanh nghiệp đã và đang tìm mọi biện pháp để nâng cao khả năng đầu tư,
ngày càng cải tiến và ứng dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất, cải thiện và nâng cao
trình độ kĩ thuật cho mình
* Trình độ tổ chức sản xuất của doanh nghiệp
Trình độ tổ chức sản xuất của doanh nghiệp được thể hiện ở nhiều mặt như tổ
chức cung cấp nguyên vật liệu, tổ chức lao động trong sản xuất.
Nguyên liệu( đối với các doanh nghiệp sản xuất ) là một yếu tố thiết yếu để tiến
hành sản xuất kinh doanh do đó việc cung ứng nguyên vật liệu có ảnh hưởng trực tiếp
đến sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp
Trình độ tổ chức sản xuất của doanh nghiệp tốt, hợp lí sẽ tạo điều kiện giảm chi
phí sản xuất do giảm được thời gian ngừng sản xuất vì nhiều lí do khác nhau, làm tăng
năng suất lao động. Việc doanh nghiệp thường xuyên cải tiến tổ chức sản xuất để việc
sản xuất ngày càng hợp lí cho phép giảm hao hụt nguyên vật liệu, giảm phế phẩm..
* Trình độ quản lí doanh nghiệp
Chi phí quản lí doanh nghiệp chiếm tỷ lệ % khá lớn trong tổng chi phí của doanh
nghiệp, trình độ quản lí của doanh nghiệp thể hiện ở việc xây dựng được một cơ cấu tổ
chức hợp lí và chi phí quản lí thấp. Nếu trình độ quản lí của doanh nghiệp tốt sẽ tạo
dựng lên dược bộ máy quản lí gọn nhẹ, có hiệu lực, điều này góp phần giảm chi phí
quản lí trong giá thành sản phẩm
Trình độ quản lí còn thể hiện ở việc doanh nghiệp biết sử dụng các phương pháp
và công cụ quản lí để kích thích khả năng sáng tạo của người lao động, cống hiến nhiều
hơn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, góp phần làm tăng yếu tố kết quả và
giảm chi phí kinh doanh một cách hợp lí, tức là nâng cao hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp
Nói tóm lại có rất nhiều nhân tố tác động tới hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Việc phân tích tác động của các nhân tố tới hiệu quả kinh doanh của các doanh
nghiệp một cách thường xuyên để tìm ra các biện pháp phát huy các nhân tố tích cực và
hạn chế các nhân tố tiêu cực là vấn đề cần thiết để nâng cao hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp
1.1.5. Các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
Để nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thì tuỳ vào từng điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể của từng doanh nghiệp mà mỗi doanh nghiệp có các biện pháp khác
nhau, mỗi doanh nghiệp sẽ có con đường riêng để nâng cao hiệu quả kinh doanh của
mình dựa vào năng lực của mình và điều kiện thị trường cho phép. Tuy nhiên để nâng
cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp có các phương hướng chung sau
1.1.5.1 Phương hướng cơ bản để nâng cao hiệu quả kinh doanh
Như ta đã biết hiệu quả kinh doanh về mặt lượng biểu hiện tương quan so sánh
giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Do đó để tăng hiệu quả
kinh doanh ta có ba phương hướng cơ bản sau
Thứ nhất là, tăng doanh thu: giả sử với một mức chi phí không đổi mà doanh thu
được nâng cao, điều này sẽ tương đương với hiệu quả kinh doanh được nâng cao.
Thứ hai là, giảm chi phí: phương hướng này nâng cao hiệu quả kinh doanh bằng
cách giảm bớt các chi phí một cách hợp lí
Thứ ba là, làm cho tốc độ tăng doanh thu lớn hơn tốc độ tăng chi phí. Theo phương
hướng này doanh nghiệp sẽ tác động vào cả kết quả và chi phí nhưng làm cho chúng có
sự biến động với tốc độ khác nhau. Đây là phương hướng trên thực tế được các doanh
nghiệp sử dụng một cách phổ biến
1.1.5.2. Các biện pháp cụ thể để thực hiện các phương hướng trên
Tăng doanh thu: muốn tăng doanh thu thì các doanh nghiệp phải tìm biện pháp để
tiêu thụ được nhiều hàng hoá hoặc là bán hàng ra với giá cao hơn. Để tiêu thụ được
nhiều hàng hoá các doanh nghiệp phải thực hiện một số biện pháp cụ thể như:
- Sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng cao hơn trước
- Tổ chức tốt công tác marketing để có nhiều khách hàng biết đến và chấp nhận sản
phẩm của doanh nghiệp
- Sản xuất ra các sản phẩm có mẫu mã đẹp và đa dạng hấp dẫn người tiêu dùng
- Một biện pháp nữa để tiêu thụ được nhiều hàng hoá hơn đó là mở rộng đoạn thị
trường mục tiêu của doanh nghiệp
Giảm chi phí: chi phí phát sinh trong nhiều giai đoạn và chi phí cũng gồm nhiều
loại do đó muốn giảm chi phí doanh nghiệp phải thực hiện tiết kiệm ở tất cả các khâu,
các giai đoạn. Một số biện pháp cụ thể như:
- Chuẩn bị tốt các điều kiện cần thiết cho quá trình kinh doanh
- Tổ chức tốt quá trình sản xuất
Hai biện pháp trên sẽ góp phần đảm bảo cho việc kinh doanh đựơc diễn ra liên tục
và đảm bảo kế hoạch
- Ngoài ra còn có các biện pháp khác như nâng cao công tác tổ chức quản lí và
thực hiện tốt chế độ hạch toán kinh doanh trong doanh nghiệp nhằm hạn chế thất
thoát…
Trên đây chỉ là một số biện pháp cơ bản nhằm thực hiện hai phương hướng cơ bản
là tăng doanh thu và giảm chi phí. Tuy nhiên, kinh doanh trong điều kiện sản xuất lớn
khó có thể giảm tổng chi phí vì sản lượng tăng quá lớn thì chi phí không thể giảm đi
được. Trong trường hợp này doanh nghiệp phải tìm cách để cho tốc độ tăng doanh thu
lớn hơn tốc độ tăng của chi phí và làm cho mối quan hệ giữa doanh thu và chi phí thay
đổi theo chiều hướng có lợi. Từ những biện pháp trên đây, các doanh nghiệp còn phải
tìm ra các biện pháp cụ thể hơn để nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Chẳng hạn
doanh nghiệp cần phải cân nhắc xem trong điều kiện hiện tại của mình thì yếu tố nào là
yếu tố chưa được sử dụng tiết kiệm để từ đó đề ra các biện pháp cụ thể để sử dụng tiết
kiệm hơn yếu tố đó.
1.2. Xuất khẩu và hiệu quả xuất khẩu
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của xuất khẩu
1.2.1.1. Khái niệm xuất khẩu
Điều quan trọng đối với một công ty kinh doanh trên thị trường quốc tế là phải lựa
chọn được cách thức thâm nhập vào từng thị trường nước ngoài riêng biệt. Những
phương thức chủ yếu để thâm nhập một thị trường nước ngoài bao gồm:
- Hình thức thâm nhập thị trường thông qua xuất khẩu và buôn bán đối lưu:
- Hình thức thâm nhập thông qua hợp đồng như hợp đồng sử dụng giấy phép, hợp
đồng kinh tiêu, hợp đồng quản lí, dự án chìa khoá trao tay
- Hình thức thâm nhập thông qua đầu tư như chi nhánh sở hữu toàn bộ, liên doanh,
liên minh chiến lược…
Tuỳ thuộc vào chiến lược và điều kiện của từng công ty mà công ty lựa chọn cho
mình hình thức thâm nhập thị trường một cách phù hợp.
Trong các hình thức thâm nhập thị trường nước ngoài nói trên thì xuất khẩu hàng
hoá là hình thức đầu tiên của quá trình thâm nhập thị trường quốc tế, thông qua hoạt
động tiêu thụ những hàng hoá được sản xuất ở trong nước ra thị trường nước ngoài.
Phần lớn các công ty bắt đầu việc mở rộng thị trường với tư cách là những nhà xuất
khẩu và chỉ sau đó mới chuyển từ phương thức này sang phương thức khác để phục vụ
thị trường nước ngoài.
Như vậy xuất khẩu là một hình thức thâm nhập thị trường nước ngoài. Giáo trình
Kinh Doanh Quốc Tế- ĐHKTQHN định nghĩa “Xuất khẩu là hoạt động đưa hàng hoá
và dịch vụ từ quốc gia này sang quốc gia khác”. Tuy nhiên ta cũng phải phân biệt hoạt
động xuất khẩu với hình thức hàng hoá được lưu chuyển qua biên giới quốc gia dưới
giác độ phi kinh doanh như làm quà tặng hoặc viện trợ không hoàn lại.
Hiện nay hình thức xuất khẩu được các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng phổ biến
do trong giai đoạn mới tham gia vào hoạt dộng thương mại quốc tế, khả năng mở rộng
thị trường nước ngoài bằng con đường khác còn nhiều hạn chế.
1.2.1.2. Đặc điểm của hoạt động xuất khẩu
Hình thức thâm nhập thị trường nước ngoài bằng hình thức xuất khẩu ra đời từ rất
lâu và cho đến nay nó vẫn là hình thức thâm nhập thị trường nước ngoài phổ biến sau
đây là một số đặc điểm chủ yếu của hình thức này
* Đối tượng xuất khẩu
Khi hình thức xuất khẩu mới ra đời thì đối tượng xuất khẩu chủ yếu là hàng hoá
hữu hình như các sản phẩm tiêu dùng và máy móc thiết bị …. Nhưng cho đến nay thì
đối tượng xuất khẩu không chỉ có hàng hoá hữu hình mà còn bao gồm cả các hoạt động
dịch vụ như vận tải, du lịch….
* Chủ thể tham gia vào hoạt động xuất khẩu
Tuỳ vào từng hình thức xuất khẩu mà các đối tượng tham gia vào hoạt động xuất
khẩu là khác nhau, tuy nhiên dưới giác độ chung ta có thể phân chia chủ thể tham gia
vào hoạt động xuất khẩu làm ba bên đó là nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu và nhà nước
Người xuất khẩu là người có hàng hoá, dịch vụ sản xuất ở trong nước và tìm cách
bán ra nước ngoài. Nhà nhập khẩu là người mua hàng hoá của người xuất khẩu với mục
đích là kinh doanh hay tiêu dùng trực tiếp. Chính phủ là chủ thể thứ ba tham gia vào
hoạt động xuất khẩu, chính phủ bao gồm chính phủ của nước xuất khẩu, nước nhập
khẩu. chính phủ có vai trò quan trọng trong việc điều tiết và quản lí các hoạt động xuất
nhập khẩu.
Hiện nay khi nền kinh tế phát triển, ngoài ba chủ thể trên còn có sự tham gia của
các tổ chức tài chính và ngân hàng với chức năng thanh toán, vai trò của các tổ chức
này ngày càng quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu. Ngoài ra còn có sự tham gia của
các nhà vận tải, bảo hiểm.
* Thanh toán trong xuất khẩu
Một vấn đề quan trọng trong xuất khẩu đó là vấn đề thanh toán. từ khi hình thức
xuất khẩu ra đời cho đến nay thì các phương tiện và hình thức thanh toán ngày càng
phát triển và hoàn thiện.
Ban đầu phương tiện thanh toán chủ yếu trong hoạt động xuất khẩu là tiền mặt.
Sau này tiền mặt ít được dùng thanh toán do sự phát triển của các phương tiện thanh
toán như séc, kì phiếu và hối phiếu.
Phương thức thanh toán ban đầu chủ yếu là phương thức chuyển tiền, ngày nay do
sự phát triển của hệ thống các tổ chức tài chính và ngân hàng thì các phương thức thanh
toán mới cũng ra đời như phương thức nhờ thu, phương thức tín dụng chứng từ (LC).
Đặc biệt phương thức LC hiện nay là phương thức được sử dụng phổ biến nhất do độ an
toàn của nó, đảm bảo lợi ích cho cả nhà xuất khẩu lẫn nhập khẩu.
Ngoài vấn đề thanh toán thì vấn đề vận tải và bảo hiểm cũng là hai vấn đề lớn
trong hoạt động xuất khẩu. Hai vấn đề này cùng với thanh toán ngày càng đóng vai trò
quan trọng và có ảnh hưởng lớn tới xuất khẩu
1.2.1.3 Các hình thức xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu diễn ra dưới hai hình thức là xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu
gián tiếp.
* Xuất khẩu trực tiếp
Là hoạt động bán hàng trực tiếp của công ty cho khách hàng của mình ở thị trường
nước ngoài. để thâm nhập thị trường nước ngoài thông qua xuất khẩu trực tiếp các công
ty thường sử dụng hai hình thức chủ yếu là:
Đại diện bán hàng
Đại lí phân phối
* Xuất khẩu gián tiếp
Xuất khẩu gián tiếp là hình thức bán hàng và dịch vụ của công ty ra nước ngoài
thông qua trung gian. Các trung gian chủ yếu trong kinh doanh xuất khẩu là:
Đại lí ( agent)
Công ty quản lí xuất khẩu.
Công ty kinh doanh xuất khẩu.
Đại lí vận tải
Đối với hình thức xuất khẩu gián tiếp thì các trung gian mua không chiếm hữu
hàng hoá của công ty mà chỉ trợ giúp công ty bán hàng ra nước ngoài.
1.2.2. Hiệu quả xuất khẩu
Xuất khẩu cũng là một hình thức kinh doanh do đó cũng phải tính tới hiệu quả của
hình thức kinh doanh này
1.2.2.1. Khái niệm hiệu quả xuất khẩu
Hiệu quả xuất khẩu cũng là hiệu quả kinh doanh nói chung, nó cũng biểu hiện sự
tương quan giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Đối với một
công ty kinh doanh cả nội địa lẫn kinh doanh xuất khẩu thì hiệu quả kinh doanh xuất
khẩu chỉ là một bộ phận của hiệu quả kinh doanh nói chung của công ty. Còn đối với
công ty chỉ kinh doanh xuất khẩu thì hiệu quả kinh doanh xuất khẩu cũng chính là hiệu
quả kinh doanh chung của công ty
Tóm lại hiệu quả xuất khẩu là một loại hiệu quả kinh doanh đặc thù gắn với hình
thức kinh doanh xuất khẩu
1.2.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả xuất khẩu
Những chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh nói chung về cơ bản vẫn áp dụng cho hình
thức kinh doanh xuất khẩu, nhưng ngoài những chỉ tiêu đó người ta còn sử dụng một số
chỉ tiêu đặc thù khác
* Lợi nhuận xuất khẩu
Lợi nhuận xuất khẩu cũng được tính bằng khoản chênh lệch dôi ra giữa tổng doanh
thu và tổng chi phí của hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên khi tính lợi nhuận xuất khẩu
phải tính đến yếu tố bảo toàn vốn kinh doanh, sở dĩ nói đến yếu tố này vì trong điều
kiện lạm phát lớn, giá trị đồng tiền bị mất giá, tỷ giá hối đoái giữa ngoại tệ và đồng Việt
Nam tăng cao, nhiều đơn vị kinh doanh xuất khẩu sau quá trình hoạt động cũng thu
được khoản chênh lệch dôi ra giữa tổng thu nhập và tổng chi phí bằng đồng Việt Nam
song khi quy đổi về giá trị gốc hay ngoại tệ thì lại bị lỗ.
Lợi nhuận của công ty kinh doanh xuất khẩu được tính bằng công thức
Lợi nhuận = doanh thu xuất khẩu – giá thu mua gốc – chi phí lưu thông – thuế
Trong công thức trên thì doanh thu bán hàng xuất khẩu bao gồm: doanh thu của
hoạt động xuất khẩu trực tiếp, doanh thu của xuất khẩu uỷ thác dưới dạng hoa hồng,
doanh thu do chênh lệch giá khi thực hiện tái xuất khẩu
Giá thu mua gốc là giá cả thu mua hàng xuất khẩu để phục vụ xuất khẩu
Thuế bao gồm các loại thuế: thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu …
* Các chỉ tiêu doanh lợi ( tỷ suất lợi nhuận xuất khẩu )
Để đánh giá chính xác hiệu quả kinh doanh xuất khẩu và có căn cứ để so sánh với
hiệu quả kinh doanh xuất khẩu của các đơn vị xuất khẩu khác, ngoài mức lợi nhuận
tuyệt đối người ta còn sử dụng các chỉ tiêu doanh lợi bằng cách so sánh mức lãi tuyệt
đối với kết quả kinh doanh xuất khẩu hoặc các yếu tố như vốn, chi phí kinh doanh, chi
phí lưu thông.
Các chỉ tiêu về tỷ suất lợi nhuận xuất khẩu về cơ bản cũng giống như các chỉ tiêu
tỷ suất lợi nhuận kinh doanh nói chung tuy nhiên trong xuất khẩu người ta còn sử dụng
một số chỉ tiêu đặc thù:
+ Tỷ lệ lãi doanh số bán hàng xuất khẩu
DTXK
P
P
'
B
+ Tỷ lệ lãi so với chi phí lưu thông
CPLT
P
P
'
C
* Lưu chuyển hàng hoá xuất khẩu
Để đánh giá kết quả kinh doanh và hiệu quả kinh doanh xuất khẩu người ta còn sử
dụng hai chỉ tiêu sau, hai chỉ tiêu này đều được coi như những chỉ tiêu đánh giá tốc độ
lưu chuyển hàng hoá
+ Số vòng lưu chuyển hàng hoá trong kì
Dbq
M
V
M; mức tiêu thụ trong kì
Dbq : dự trữ bình quân trong kì
Số vòng lưu chuyển bình quân trong kì càng lớn thì hiệu quả kinh doanh càng cao
và ngược lại
+ Thời gian lưu chuyển hàng hoá
T
VM
TDbqt 1
T: số ngày trong năm
t: càng ngắn thì hiệu quả kinh doanh càng cao
1.2.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh xuất khẩu
Khi một công ty kinh doanh xuất khẩu, dưới giác độ chung thì nó cũng giống như
bất kì một công ty nào khác, hiệu quả kinh doanh của công ty cũng chịu ảnh hưởng của
các nhân tố bên trong và bên ngoài doanh nghiệp như đã trình bày ở trên.
Nếu xem xét dưới góc độ là chi phí ảnh hưởng như thế nào tới hiệu quả kinh doanh
ta có thể thấy được hiệu quả xuất khẩu chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố sau. Những
nhân tố đó thường ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận xuất khẩu và do đó ảnh hưởng tới
hiệu quả xuất khẩu
* Mức lưu chuyển hàng xuất khẩu
Mức lưu chuyển hàng xuất khẩu có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp. Nếu hàng hoá được lưu chuyển với tốc độ cao thì lợi nhuận sẽ tăng và
giảm được chi phí lưu thông hàng hoá
* Cơ cấu hàng hóa kinh doanh xuất khẩu
Mỗi loại hàng hoá kinh doanh xuất khẩu có một mức lợi nhuận riêng phụ thuộc
vào nhiều yếu tố kinh doanh: mức độ cạnh tranh trên thị trường, chi phí kinh doanh,
thuế xuất nhập khẩu.. rất khác nhau. Cho nên khi cơ cấu hàng kinh doanh thay đổi sẽ
làm thay đổi chẳng những lợi nhuận chung của công ty, mà tỷ suất lợi nhuận theo các
cách tính khác nhau cũng sẽ thay đổi. Nếu kinh doanh mặt hàng có lãi suất lớn chiếm tỷ
trọng cao trong toàn bộ cơ cấu hàng xuất khẩu thì tương ứng hiệu quả cao và ngược lại.
* Nhân tố giá cả.
Nhân tố giá cả ở đây bao gồm giá cả của hàng hoá xuất khẩu, giá cả chi phí lưu
thông và tỷ giá hối đoái, ba nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của công ty.
Giá cả hàng hoá: giá mua hàng hoá và giá bán hàng hoá xuất khẩu có ảnh hưởng
trực tiếp tới lợi nhuận của đơn vị kinh doanh. Nếu giá mua hàng hoá quá cao, thì lãi gộp
giảm xuống và lợi nhuận cũng giảm và ngược lại. Định giá bán trên thị trường cũng ảnh
hưởng trực tiếp đến lợi nhuận. Bình thường giá cả định cao trong điều kiện không có
cạnh tranh thì lợi nhuận thu được dưới dạng lợi nhuận độc quyền cao. Nhưng định giá
bán cao trong điều kiện thị trường có cạnh tranh gay gắt, sức mua thấp thì hàng hoá sẽ
tiêu thụ chậm và lợi nhuận sẽ giảm. Cho nên trong điều kiện thị trường nhà kinh doanh
phải nắm vững thị trường để đề ra chính sách giá cả phù hợp và mục đích cuối cùng là
đẩy mạnh doanh số bán, chiếm lĩnh thị trường và tăng mức lợi nhuận tuyệt đối cho
doanh nghiệp.
Giá cả chi phí lưu thông: chi phí lưu thông chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí
cho hàng xuất khẩu, chi phí lưu thông lớn lợi nhuận sẽ giảm và ngược lại. Cho nên giá
cả chi phí lưu thông tăng hay giảm cũng ảnh hưởng tới lợi nhuận cũng như hiệu quả của
doanh nghiệp. Cho nên phấn đấu giảm chi phí lưu thông có ý nghĩa thiết thực đối với
tăng hiệu quả xuất khẩu.
Tỷ giá hối đoái giữa ngoại tệ và tiền Việt Nam thay đổi cũng ảnh hưởng trực tiếp
tới lợi nhuận của nhà kinh doanh xuất khẩu. Tăng tỷ giá ngoại tệ và đồng VN sẽ khuyến
khích xuất khẩu, xuất khẩu sẽ có lợi và ngược lại. chính vì vậy đối với các nhà xuất
khẩu, mặc dù tỷ giá hối đoái tăng hay giảm là yếu tố khách quan, nhưng việc theo dõi
diễn biến của tỷ giá để kịp thời đề ra những biện pháp điều chỉnh hoạt động kinh doanh
của mình cũng có tác dụng tăng thêm lợi nhuận và nâng cao hiệu quả kinh doanh cho
công ty.
* Thuế
Thuế là những khoản nghĩa vụ mà các đơn vị xuất nhập khẩu phải nộp cho nhà
nước. Mức thuế ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu các nhà xuất khẩu khi
chọn mặt hàng kinh doanh chú ý theo các nguyên tắc khi xây dựng luật thuế của nhà
nước thì cũng giảm đáng kể được thuế và tăng lợi nhuận.
Ngoài các nhân tố trên thì còn có nhiều nhân tố khác ảnh hưởng tới hiệu quả kinh
doanh xuất khẩu. Như giảm tới mức tối thiểu các khoản tiền bị phạt và bồi thường do
không thực hiện hợp đồng, giảm lượng hàng hoá hao hụt, mất mát ở tất cả các khâu kinh
doanh, chọn hình thức thanh toán phù hợp…cũng góp phần tăng mức lợi nhuận cũng
như nâng cao hiệu quả xuất khẩu của doanh nghiệp.
1.2.2.4. Phương hướng và biện pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu
Phương hướng chung để nâng cao hiệu quả xuất khẩu cũng là tăng doanh thu,
giảm chi phí hay làm cho tốc độ tăng doanh thu lớn hơn tốc độ tăng chi phí. Sau đây là
một số biện pháp cụ thể để tăng lợi nhuận và nâng cao hiệu quả xuất khẩu của doanh
nghiệp.
* Tăng khối lượng bán hàng xuất khẩu
Tăng khối lượng bán hàng xuất khẩu chẳng những tăng lợi nhuận do thu lợi trên
mỗi sản phẩm hàng hoá bán ra mà chi phí lưu thông cũng sẽ giảm đi do sử dụng tài sản
cố định có hiệu quả hơn, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận do vậy cũng tăng.
Tăng khối lượng hàng xuất khẩu bán ra bằng cách: tìm hiểu kĩ thị trường để mua
hàng hoá xuất khẩu phù hợp với thị hiếu của khách hàng, tránh tình trạng mua hàng vào
bán không được do nguyên nhân chủ quan; tìm thêm khách hàng mua hàng xuất khẩu;
tổ chức nguồn hàng về số lượng và chất lượng.
* Tăng giá bán hàng xuất khẩu
Dưới cơ chế thị trường thì việc tăng giá bán hàng xuất khẩu sẽ rất nhạy cảm, nó sẽ
tác động ngay tới khối lượng hàng hoá tiêu thụ. Vì vậy một sản phẩm muốn có giá bán
cao trước hết nó phải có chất lượng tốt, do đó để nâng cao chất lượng sản phẩm doanh
nghiệp phải tích cực đầu tư để đổi mới công nghệ sản xuất… ngoài ra một sản phẩm có
giá cao có thể do nó có mẫu mã kiểu cách đẹp. Hiện nay có xu hướng là một số doanh
nghiệp đi vào kinh doanh những sản phẩm “ độc” và do đó định giá sản phẩm ở mức
cao để thu lợi nhuận cao trên một đơn vị sản phẩm.
* Thực hiện những biện pháp giảm chi phí lưu thông xuất khẩu
Để thực hiện giảm chi phí lưu thông xuất khẩu có các biện pháp cụ thể sau:
Tăng mức lưu chuyển hàng hoá xuất khẩu: mở rộng và tăng nhanh tốc độ lưu
chuyển hàng hoá xuất khẩu là một nhân tố quan trọng giảm tỷ suất chi phí lưu thông và
nâng cao hiệu quả xuất khẩu, cho nên để đẩy mạnh mức lưu chuyển hàng hoá, rất cần
thiết phải làm tốt công tác tiếp thị, qua đó tìm hiểu dung lượng thị trường và thị hiếu
người tiêu dùng… đặc biệt chú ý khâu dự trữ hàng hoá để tránh hiện tượng thiếu hàng
kinh doanh hoặc dự trữ vượt định mức gây ứ đọng vốn, hàng xuống cấp dẫn đến chi phí
lưu thông cao.
Tổ chức tốt công tác vận tải hàng hoá: để giảm chi phí vận tải, trước tiên cần hợp
lí hoá quãng đường vận chuyển, tránh vận tải vòng, sử dụng xe hai chiều, ít khâu trung
gian sẽ tiết kiệm được chi phí bốc dỡ, bảo quản hàng hoá, sử dụng tối đa công suất và
trọng tải của các phương tiện vận tải và bốc dỡ.
Tổ chức tốt công tác quản lí kho như sử dụng tối đa công suất của kho về diện tích
và không gian chiếm dụng… tăng cường công tác bảo vệ nhằm tránh thất thoát hao hụt
hàng hoá xuất khẩu góp phần giảm chi phí lưu thông
Ngoài ra để giảm chi phí lưu thông doanh nghiệp cũng cần phải nâng cao trình độ
nghiệp vụ của cán bộ xuất khẩu, và quản lí tốt công tác thực hiện kế hoạch chi phí lưu
thông.
Tóm lại, để tăng hiệu quả kinh doanh xuất khẩu mỗi doanh nghiệp phải xây dựng
cho mình biện pháp riêng phù hợp với điều kiện, tình hình của doanh nghiệp và nhìn
chung để nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp cần phải áp dụng một cách đồng bộ các
biện pháp trên.
1.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu đối với các doanh
nghiệp Việt nam
Như ta đã biết hiệu quả kinh doanh là các chỉ tiêu phản ánh mối quan hệ giữa kết
quả và chi phí. Nâng cao hiệu quả kinh doanh là tìm mọi cách thay
đổi mối tương quan kết quả và chi phí theo chiều hướng có lợi cho kết quả cả về tuyệt
đối lẫn tương đối.
Các công ty kinh doanh nói chung và các công ty kinh doanh xuất khẩu nói riêng
khi hoạt động thì mục tiêu của họ là lợi nhuận tối đa. điều này chỉ có thể đạt được khi
doanh thu lớn hơn tổng chi phí. Nếu kết quả này đủ lớn thì các doanh nghiệp mới có thể
tồn tại và phát triển được, khi đó ta nói doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Ngược lại
nếu kết quả đó không đủ lớn thì doanh nghiệp đó rất có thể bị phá sản, không thể tồn tại
trên thị trường, khi đó ta nói doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả.
Từ nhận định trên ta có thể nói hiệu quả kinh doanh là điều kiện tồn tại, là mục
tiêu tồn tại của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng. Hơn nữa
doanh nghiệp phải luôn biết được mình hoạt động có hiệu quả hay không hay đang
trong tình trạng thua lỗ, nếu có hiệu quả thì cụ thể đạt ở mức nào, để liên tục nâng cao
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, đây là vấn đề cần thiết và cấp bách đối với
doanh nghiệp vì:
- Chỉ có kinh doanh có hiệu quả thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển
trong dài hạn
- Chỉ kinh doanh có hiệu quả cao thì doanh nghiệp mới ngày càng có uy tín và vị
thế trên thị trường.
Nâng cao hiệu quả kinh doanh ở đây không phải là chỉ tìm cách nâng cao hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp năm sau so với năm trước mà phải được hiểu theo
nghĩa là tìm cách nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp mình so với doanh
nghiệp của đối thủ cạnh tranh. Vì trong cơ chế thị trường, khi mà xu hướng cạnh tranh
ngày càng gay gắt, nếu doanh nghiệp không nâng cao hiệu quả kinh doanh để tích luỹ
vốn từ đó tăng nhanh khả năng quay vòng vốn, tăng cường đầu tư nâng cao chất lượng
sản phẩm…từ đó tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thì sản phẩm
của doanh nghiệp sẽ dần trở nên lạc hậu và mất khả năng cạnh tranh so với các sản
phẩm của đối thủ cạnh tranh và doanh nghiệp sẽ khó mà tồn tại được.
Tóm lại, nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhiệm vụ và cũng là mục tiêu của bất
kì một doanh nghiệp nào nói chung hay của các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu nói
riêng.
Chương 2
Thực trạng hiệu quả kinh doanh xuất khẩu tại công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I
2.1. Giới thiệu khái quát về công ty
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
2.1.1.1. Sự hình thành công ty
Đầu những năm 1980 khi nhà nước ban hành nhiều chủ trương, chính sách mới
nhằm khuyến khích hoạt động xuất nhập khẩu phát triển .Bên cạnh những thành tựu đạt
được như hoạt động xuất khẩu ở các địa phương phát triển, kim ngạch xuất khẩu tăng
nhanh thì trên thị trường cũng xuất hiện một số hiện tượng tiêu cực như tranh mua,
tranh bán, cạnh tranh không lành mạnh…
Trước tình hình đó bộ Ngoại Thương ( nay là bộ thương mại ) đã quyết định thành
lập công ty xuất nhập khẩu tổng hợp với mục đích thúc đẩy xuất nhập khẩu phát triển
và từng bước ổn định lại thị trường. Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp được thành lập
ngày 15/12/1981 theo quyết định số 1365/TCCB của bộ ngoại thương và đến tháng
3/1982 công ty đã đi vào hoạt động
2.1.1.2. Quá trình phát triển của công ty xuất nhập khẩu tổng hợp
Căn cứ vào tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, có thể
chia quá trình phát triển của công ty thành các giai đoạn như sau:
Giai đoạn thứ nhất : 1981 - 1984.
Giai đoạn thứ hai : 1985 - 1989.
Giai đoạn thứ ba : 1990 – nay.
* Giai đoạn 1981-1984.
Đây là giai đoạn đầu, công ty đang từng bước tìm cho mình một hướng đi đúng để
có thể đứng vững và phát triển.
Do mới thành lập, với điều kiện ban đầu còn nhiều khó khăn, thiếu thốn:
Về tổ chức: với biên chế gồm 50 cán bộ công nhân viên, số cán bộ có trình độ
nghiệp vụ rất ít và chủ yếu làm công tác nhập hàng, phục vụ cho công tác xk tại chỗ, có
thể nói đội ngũ cán bộ là còn thiếu và yếu.
+ Về cơ sở vật chất: cơ sở vật chất nghèo nàn và hầu hết do bộ cung cấp.
+ Về cơ chế chính sách: cơ chế quan liêu bao cấp còn thống trị, đưòng lối đổi mới
chưa được thể hiện rõ nét nhất là về đổi mới kinh tế
Với điều kiện tình hình ban đầu như trên hoạt động kinh doanh của công ty giai
đoạn này gặp nhiều khó khăn.
+ Mối quan hệ giữa công ty với các cơ sở trong nước chưa được xác lập , chưa
mấy địa phương biết đến công ty hoặc các địa phương còn chưa mấy tin tưởng vào cung
cách làm ăn của công ty, tên tuổi của công ty cũng còn quá mới mẻ với khách hàng
nước ngoài.
+ Nhịp độ phát triển công tác xuất nhập khẩu của công ty còn rất chậm.
Trong giai đoạn này công ty đã thực hiện một số biện pháp để thúc đẩy hoạt
động sản xuất kinh doanh phát triển:
+ Công ty cho rằng vấn đề cốt lõi lúc này là công tác tổ chức và con người: công
ty đã sắp xếp lại các phòng nghiệp vụ và quản lí một cách linh hoạt phù hợp với hoạt
động của công ty.
Để đào tạo đội ngũ cán bộ công ty đã lấy công tác thực tế tổ chức thường xuyên
những buổi học tập, trao đổi kinh nghiệm …Công ty cũng mạnh dạn gửi cán bộ đi đào
tạo theo trường lớp ở trong và ngoài nước nhằm chuẩn bị đội ngũ cán bộ cho công ty
trong tương lai.
+ Song song với việc giải quyết các vấn đề trọng tâm nêu trên công ty còn tập
chung giải quyết một số vấn đề như:
- Tháo gỡ những hạn chế trong cơ chế chính sách
- Công ty phải tìm cho mình một nguồn vốn ban đầu để phục vụ cho kinh doanh
vì không phải cứ kinh doanh uỷ thác là không cần vốn
- Công ty còn xác định cho mình cách vận dụng các phương thức kinh doanh để
phát triển rộng lớn hoạt động kinh doanh của mình.
* Giai đoạn 1985-1989
Đây là giai đoạn phát triển của công ty sau những năm mày mò và sơ bộ khẳng
định được một số vấn đề mà công ty cần xây dựng , trong giai đoạn này công ty còn tập
chung vào xây dựng tiềm lực cho những năm tiếp theo .
Trong giai đoạn này công ty đã tiếp tục xây dựng tiếp một số vấn đề đựơc xem là
trọng điểm là nhân tố thắng lợi của công ty
+ về phương thức kinh doanh công ty đã sử dụng phương thức đa dạng hoá
phương thức kinh doanh bao gồm xuất nhập khẩu uỷ thác, tự doanh và gia công xk.
+ Về vấn đề xây dựng quan hệ của công ty với cơ sở sản xuất công ty đã thực hiện
phương châm “bám địa phương, vì người sản xuất mà phục vụ”.
+ Công ty cũng rất chú trọng tới công tác thị trường.
+ Về việc xây dựng quỹ hàng hoá, công ty xác định phải xây dựng được một quỹ
hàng hoá phong phú, đa dạng và mạnh đủ sức đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh
của công ty.
Do thực hiện các biện pháp ở trên mà công ty đã đạt được những thành quả đáng
khích lệ trong giai đoạn này đó là:
+ Công ty đã có được đội ngũ cán bộ được trang bị ít nhiều kiến thức bằng thực tế
công tác và với một tổ chức tương đối hợp lí.
+ Công ty đã xây dựng được mmối quan hệ hữu cơ vớ các địa phương, đáp ứng
được nhiều yêu cầu cho địa phương, áp dụng linh hoạt các phương thức kinh doanh đối
vối các cơ sở ở tất cả các khâu quan trọng, tham gia ý kiến ngay từ khi cơ sở lập kế
hoạch sao cho có tính hiện thực.
+ Nhờ vào quỹ hàng hoá mà công ty đã thực hiện được kế hoạch kinh doanh của
mình một cách trọn vẹn, ngoài ra nhờ vào quỹ hàng hoá đủ mạnh mà công ty đã có vốn
bỏ ra ứng cho một số địa phương trong việc đầu tư sản xuất.
+ Trong công tác kinh doanh ở giai đoạn này hàng năm công ty đều thực hiện đạt
hoặc vượt mức kế hoạch
+ Ngoài ra công ty còn đầu tư vốn khá lớn cho việc phát triển sản xuất lâu dài
Nói chung giai đoạn 2 là giai đoạn phát triển của công ty, công ty đã được bộ
kinh tế đối ngoại cũng như bộ nội vụ tặng 5 bằng khen và 2 lá cờ đơn vị thi đua xuất
sắc.
* Giai đoạn 1990-nay
Đây là giai đoạn mà công ty vượt qua nhiều khó khăn và tiếp tục phát triển. Từ năm
1990 – 1992 tình hình kinh tế trong nước và quốc tế có nhiều biến động lớn ảnh hưởng
trực tiếp đến các ngành kinh tế trong đó có ngành phân phối và lưu thông bị tác động
mạnh mẽ. Đây là giai đoạn cơ chế thị trường dần dần rõ nét. Vấn đề cạnh tranh xảy ra
dữ dội, các khách hàng cũ trong nước không còn nhiều như trước. Thị trường xuất nhập
khẩu bị thu hẹp do mất thị trường các nước XHCN; khu vực ở thị trường tư bản đang bị
các đơn vị khía cạnh tranh. Các mặt hàng xuất khẩu lớn được uỷ thác các Công ty
không còn nhiều nữa; tỷ giá đồng đô la biến động mạnh, lạm phát có chiều hướng gia
tăng, tình hình thiếu vốn và chiếm dụng vốn lẫn nhau trong tổ chức khá phổ biến. Tóm
lại giai đoạn này Công ty hoạt động trong diễn biến phức tạp nên việc trụ vững được để
thoát khỏi vòng bế tắc và phát triển là một cố gắng rất nỗ lực.
- Từ sau giai đoạn khó khăn đó đến nay Công ty đã có hướng đi mới như mở rộng
đối tượng kinh doanh ra các đơn vị riêng lẻ, quận, huyện kể cả thành phần kinh tế ngoài
quốc doanh, chuyển dần từ uỷ thác sang tư doanh, triển khai kinh doanh gia công xuất
nhập khẩu các loại mặt hàng, khai thác việc nhập hàng phi mậu dịch phục vụ cho đối
tượng người Việt Nam công tác lao động, học tập ở nước ngoài được hưởng chế độ
miễn thuế: xây kho chứa hàng xuất nhập khẩu, kinh doanh dịch vụ....
2.1.2. Chức năng nhiệm vụ của công ty
2.1.2.1. Nhiệm vụ của công ty
Ngay từ khi ra đời công ty đã được xác định nhiệm vụ, chức năng chính của công
ty là:
+ Nâng cao khối lượng hàng xuất khẩu, mở rộng thị trường quốc tế, thu hút ngoại
tệ cho đất nước.
+ Nâng cao hiệu quả của hoạt động nhập khẩu, lập lại trật tự ổn định thị trưòng ở
trong nước.
Ngoài ra công ty còn có những nhiệm vụ sau.
+ Tuân thủ những chính sách, chế độ quản lí kinh tê, quản lí xuất nhập khẩu và
giao dịch đối ngoại.
+ Hoàn thành nghĩa vụ về thuế đối với ngân sách nhà nước.
+ Tạo nguồn vốn, khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn
+ Xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các kế hoạch sxkd.
+ Thực hiện cam kết trong các hợp đồng có liên quan.
+ Đảm bảo và từng bước nâng cao đời sống, đồng thời bồi dưỡng, nâng cao trình
độ nghiệp vụ, ngoại ngữ cho cán bộ công nhân viên của công ty.
+ Công ty cũng có nghĩa vụ phải làm tốt các công tác xã hội.
2.1.2.2. Quyền hạn của công ty
Là một công ty chịu sự quản lí của bộ thương mại, công ty xuất nhập khẩu tổng
hợp có những quyền hạn như sau:
+ Được đề xuất với bộ thương mại về việc xây dựng các chỉ tiêu, kế hoạch liên
quan đến hoạt động của công ty.
+ Được tự mình kí kết các hợp đồng kt ở trong và ngoài nước.
+ Được vay vốn và ngoại tệ dưới các hình thức.
+ Được sản xuất và gia công chế biến hàng xuất khẩu và tiêu dùng trong nước
như: hàng may mặc, đồ điện tử, điện lạnh, hàng nông, lâm hải sản…
+ Được kinh doanh trong một số lĩnh vực dịch vụ như cho thuê văn phòng, khách
sạn, cho thuê kho hàng, nhà xưởng và phương tiện bốc dỡ.
+ Được tham dự các hội chợ triển lãm trong và ngoài nước để giới thiệu sản phẩm
của mình.
+ Được mở các cửa hàng bánbuôn, bán lẻ trong và ngoài nước.
+ Công ty cũng được phép liên doanh, liên kết với các công ty sxkd ở nước ngoài
Ngoài ra công ty cũng có quyền tuyển dụng, đề bạt, kỉ luật cán bộ công nhân viên
theo như quy định.
2.1.3.Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty
2.1.3.1. Sơ đồ cấu trúc tổ chức của công ty
Ngay từ khi thành lập công ty xuất nhập khẩu tổng hợp 1 đã xác định yếu tố tổ
chức là một vấn đề quan trọng , quyết định sự thành bại của công ty. Do đó bộ máy tổ
chức của công ty luôn được xem xét để đáp ứng được nhu cầu của công ty trong từng
giai đoạn. Bộ máy tổ chức của công ty được tổ chức theo mô hình trực tuyến chức năng,
đây là mô hình khá phù hợp với hoạt động kinh doanh đa dạng của công ty (xem hình
2.1)
2.1.3.2. Chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận, phòng ban
+ Đứng đầu công ty là giám đốc, giám đốc là người đứng đầu công ty, lãnh đạo
hoạt động chung của công ty và là người chịu trách nhiệm chính về mọi hoạt động của
công ty.
+ Hai phó giám đốc có trách nhiệm tham mưu cho giám đốc và được uỷ quyền
quản lí một số lĩnh vực nhất định. Ví dụ phó giám đốc kinh doanh được uỷ quyền quản
lí các lĩnh vục kinh doanh như: gia công may mặc, công nghệ phẩm …
Các phòng chức năng của công ty gồm có phòng tổng hợp, phòng kế toán, phòng
tổ chức cán bộ và 8 phòng nghiệp vụ.
+ Phòng tổ chức cán bộ : là phòng có nhiệm vụ nắm toàn bộ nguồn nhân lực của
công ty, tham mưu cho giám đốc về việc bố trí sắp xếp cán bộ trong mỗi phòng ban .
Ngoài ra phòng tổ chức cán bộ còn phụ trách các công việc về tuyển dụng, đào tạo
và sử dụng cán bộ cũng như đề ra các chính sách biện pháp khen thưởng cũng như kỉ
luật đối với cán bô nhân viên của công ty.
+ Phòng tổng hợp : là phòng nắm thông tin về tình hình sx kd chung của công ty,
và có nhiệm vụ báo cáo trực tiếp cho giám đốc.
Phòng tổng hợp còn có nhiệm vụ như nghiên cứu và phân tích thị trường để đưa
ra các kế hoạch dài hạn cũng như trung hạn hay ngắn hạn, phòng tổng hợp cũng có
nhiệm vụ tìm kiếm khách hàng, giao dịch, đàm phán và lựa chọn khách hàng.
+ Phòng hành chính: có nhiệm vụ phục vụ nhu cầu văn phòng phẩm của công ty,
quản lí tài sản của công ty và quản lí cán bộ công nhân viên của công ty trong giờ làm
việc.
+ Phòng kế toán: hạch toán, kết toán và đưa ra các tổng kết đánh giá về toàn bộ
kết quả sxkd của công ty trong từng giai đoạn thời kì, đồng thời đảm bảo vốn cho hoạt
động sxkd của từng phòng ban của công ty,
+ Phòng nghiệp vụ 1: phụ trách về việc xuất khẩu các mặt hàng nông sản, khoáng
sản.
+ Phòng nghiệp vụ 2: Chuyên nhập khẩu
+ Phòng nghiệp vụ 3: Chuyên gia công xuất khẩu hàng may mặc
+ Phòng nghiệp vụ 4: Chuyên lắp ráp xe máy
+ Phòng nghiệp vụ 5: Xuất khẩu các mặt hàng nông sản, vải sợi
+ Phòng nghiệp vụ 6: Xuất khẩu cói và các doanh nghiệp sản phẩm cói
+ Phòngnghiệp vụ 7: Xuất khẩu nông sản, chế biến quặng, sắt thép
+ Phòng nghiệp vụ 8: Hàng giao nhận kho vận, đầu tư dịch vụ TM
+ Công ty còn có một hệ thống các văn phòng chi nhánh bao gồm:
Chi nhánh tại Hải Phòng
Chi nhánh tại Đà Nẵng và
Chi nhánh tại TPHCM.
+ Các liên doanh của công ty.
Liên doanh kinh doanh khách sạn : số 7 Triệu Việt Vương.
Liên doanh giao dịch kinh doanh : số 53 Quang Trung.
+ Các cơ sở sx của công ty :
Xưởng lắp ráp xe máy tại Hà Nội
Xí nghiệp gia công may mặc tại Hải Phòng.
2.1.4. Những đặc điểm kinh tế kỹ thuật ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh xuất
khẩu của Công ty
2.1.4.1. Đặc điểm về vốn
Khi ra đời phương thức kinh doanh chủ yếu của công ty là kinh doanh uỷ thác
xuất nhập khẩu, do đó nguồn vốn của công ty bị hạn chế do tư tưởng là kinh doanh uỷ
thác thì không cần đến vốn. Nguồn vốn của công ty ban đầu do bộ thương mại cấp với chỉ
138.000 VND.
Nhưng do sớm nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn, công ty đã luôn
luôn chăm lo và bổ sung cho nguồn vốn kinh doanh của mình để đáp ứng cho quá trình
kinh doanh. Cho đến nay nguồn vốn tự có của công ty đã lên tới gần 200 tỷ đồng và cơ
bản đáp ứng được nhu cầu kinh doanh của công ty
Phương thức xây dựng nguồn vốn của công ty
+ Huy động vốn nhàn rỗi từ đội ngũ cán bộ công nhân viên của công ty.
+ Vay nợ trong nước và nước ngoài.
+ Tích luỹ và bảo tồn vốn từ lợi nhuận của công ty qua các năm.
Một trong những phương thức huy động vốn có hiệu quả của công ty đó là
phương pháp xây dựng quỹ hàng hoá thông qua việc vay nợ nước ngoài bằng cách nhập
trước xuất trả nợ sau, với phương thức nhập trước xuất trả nợ sau, sòng phẳng đúng cam
kết. Chính nhờ quỹ hàng hoá mà công ty đã thực hiện được kế hoạch kinh doanh của
mình một cách trọn vẹn. Có thêm được hàng xuất, tập chung được một số lớn điạ
phương cơ sở đi vào một mối với mình tuy nhiên phương thức huy động vốn theo hình
thức này ngày càng bị hạn chế do đó công ty cần phải xác định cho mình những phương
thức huy động vốn hiệu quả hơn.
2. 1.4.2. Cơ sở vật chất của công ty
Có thể nói cho đến nay công ty đã có một hệ thống cơ sở vật chất tương đối hoàn
chỉnh đáp ứng được khá tốt yêu cầu sản xuất kinh doanh của công ty. Cơ sở kinh doanh
và trụ sở chính được đặt tại số 46 Ngô Quyền Hà Nội, ngay tại trung tâm thành phố
thuận tiện cho việc đi lại, giao dịch. Công ty trang bị gần như đầy đủ các phương tiện
phục vụ cho sxkd và trang thiết bị văn phòng, tạo điều kiện cho cán bộ công nhân viên
hoàn thành tốt nhiệm vụ. Hệ thống thông tin gồm máy điện thoại, fax, máy vi tính được
trang bị cho từng phòng ban, chi nhánh và cửa hàng. Các bộ phận này có thể liên lạc với
nhau và với đối tác nứơc ngoài, điều đó đã góp phần đưa lại thông tin kịp thời. Hệ thống
kho bảo quản dự trữ hàng hoá được bố trí thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hoá, đảm
bảo độ an toàn, sạch sẽ. Các gian hàng được bố trí đầy đủ giá kệ và tủ chứa hàng hoá.
Công ty cũng đã phần nào đáp ứng được nhu cầu vận chuyển hàng hoá của mình do đó
không phải đi thuê mướn, tiết kiệm được một phần chi phí sản xuất kinh doanh.
Nhìn chung so với các đơn vị khác công ty có một cơ sở vật chất tương đối tốt,
không có bộ phận nào quá lạc hậu cần thay thế gấp. Song do sự phát triển của nền kinh
tế đòi hỏi cần phải có sự đổi mới vì vậy cơ sở vật chất của công ty cũng cần phải được
nâng cấp cải tiến hơn nữa cho phù hợp với điều kiện hiện nay.
2.1.4.3. Đặc điểm về lao động của công ty
Khi mới thành lập, tổng số cán bộ công nhân viên của công ty chỉ có 50 người đa
số là cán bộ từ các công ty xuất nhập khẩu khác bị giải thể chuyển sang, số cán bộ có
trình độ nghiệp vụ rất ít và chủ yếu là làm công tác nhập hàng phục vụ cho công tác
xuất khẩu. Có thể nói đội ngũ cán bộ này còn yếu kém, chưa có kinh nghiệm và còn bỡ ngỡ
trong lĩnh vực uỷ thác.
Cho tới nay công ty đã có hơn 600 cán bộ, nhân viên và công ty cũng đang từng
bước hoàn thiện bộ máy lao động cho phù hợp với tình hình mới, đủ điều kiện đáp ứng
cho việc kinh doanh trong và ngoài nước. Trong tổng số cán bộ của công ty thì có tới
trên 90% có trình độ đại học, công ty luôn quan tâm tới việc bồi dưỡng trình độ nghiệp
vụ và ngoại ngữ cho cán bộ, công nhân viên, bên cạnh đó công ty còn thực hiện chế độ
tăng lương, bảo hiểm xã hội và các chế độ khác cho cán bộ công nhân viên theo đúng
quy định của nhà nước nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho họ an tâm làm việc, phấn khởi
tham gia vào hoạt động kinh doanh của công ty.
Bảng 2.1: Số lượng cán bộ, nhân viên của công ty.
Chỉ tiêu phân bổ lao động Số lượng Tỷ lệ (%)
Tổng số lao động 616 100
Phân theo cơ cấu
+Tổng điều hành
+Chuyên viên quản trị.
+Chuyên viên tác nghiệp.
04
200
412
0.79
32.33
66.88
Phân theo trình độ
+Đại học và trên đại học.
+Trung cấp và cao đẳng.
+Phổ thông trung học.
554
62
0
90
10
0
Nguồn: Phòng tổ chức cán bộ
2.1.4.4. Các phương thức kinh doanh của công ty
Khi mới thành lập thì hình thức kinh doanh chủ yếu của công ty là uỷ thác. Cho
tới những năm gần đây công ty đã đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh để nâng cao
hiệu qủa. Công ty thực hiện ba phương thức kinh doanh chủ yếu:
Một là, nhận uỷ thác xuất nhập khẩu: hiện nay vẫn là hình thức kinh doanh chính
của công ty, trong phương thức này công ty là người đứng ra tiến hành làm các thủ tục
xuất nhập khẩu cho bên uỷ thác và hưởng lợi nhuận theo số phần trăm do bên uỷ thác
trả. Theo phương thức này hàng hoá xuất khẩu ra nước ngoài vẫn dưới danh nghĩa của
nhà sản xuất còn công ty chỉ đóng vai trò là bên trung gian, nối kết giữa người nhập khẩu và
người xuất khẩu.
Hai là, gia công hàng xuất khẩu: Theo phương thức này công ty nhận nguyên
liệu gia công của khách hàng (chủ yếu là khách hàng nước ngoài) sau đó thuê nhân công
sản xuất ra thành phẩm rồi xuất lại cho khách hàng đó. Mặt hàng may mặc là mặt hàng
chủ yếu công ty kinh doanh theo phương thức này.
Ba là, tự doanh : đây là hình thức kinh doanh có tỷ trọng ngày càng tăng trong
tổng doanh thu hàng năm của công ty. Theo phương thức này công ty thực hiện việc
mua đứt, bán đoạn, có nghĩa là hàng hoá lúc này sẽ dưới danh nghĩa của công ty. Tuy
nhiên hiện nay công ty thực hiện hình thức này vẫn còn thụ động có nghĩa là chỉ khi có
khách hàng phía nước ngoài đặt hàng công ty mới tiến hành đi tìm nguồn cung ứng
trong nước vì vậy khối lượng hàng hoá giao dịch và doanh thu tuy tăng nhưng không
được ổn định.
Ngoài các hình thức kinh doanh như trên công ty còn thực hiện một số hình thức
kinh doanh khác như là buôn bán đối lưu hay tạm nhập, tái xuất…tuy nhiên các hình
thức này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng kim nghạch xuất nhập khẩu của công ty.
2.1.4.5. Thị trường của công ty
Thị trường hoạt động của công ty xuất nhập khẩu tổng hợp 1 cũng rất đa dạng
và phong phú. Tuy nhiên thị trường chính của công ty hiện nay vẫn là một số nước châu
á như là Đài Loan, Hồng Kông, Trung Quốc, Inđonêxia, Singapor…
Các bạn hàng châu Âu như là Anh, Pháp, Đức, Canađa… và Mỹ cũng đang trở
thành những bạn hàng đầy tiềm năng của công ty, khối lượng hàng hoá giao dịch với
các thị trường này ngày một tăng nhanh, mở ra nhiều cơ hội mới đối với công ty.
2.2. Tình hình kinh doanh xuất khẩu của Công ty trong những năm gần đây
Hoạt động xuất khẩu có vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động của Công ty
xuất nhập khẩu tổng hợp I. Lợi nhuận của Công ty chủ yếu thu được từ hoạt động xuất
khẩu, hơn 60% lợi nhuận của Công ty thu được là từ hoạt động xuất khẩu. Sau đây ta sẽ
xem xét tình hình xuất khẩu của công ty theo thị trường và theo mặt hàng.
2.2.1. Kim ngạch xuất khẩu theo mặt hàng của Công ty
Mặt hàng xuất khẩu của Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I rất phong phú, bao
gồm nhiều mặt hàng, một số mặt hàng chủ yếu của Công ty là:
+ Hàng nông sản
+ Hàng may mặc
+ Hàng thủ công mỹ nghệ
+ Lâm sản
+ Hải sản
+ Khoáng sản
- Trong các mặt hàng nói trên thì hàng nông sản chiếm vị trí quan trọng nhất, kim
ngạch xuất khẩu của hàng nông sản chiếm tới hơn 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của
Công ty. Mặt hàng nông sản lại bao gồm nhiều loại như gạo, cà phê, lạc nhân, ca cao.....
trong đó gạo, lạc nhân là hai mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất.
- Hàng thủ công mỹ nghệ gồm các hàng mây tre đan, gốm sứ, thêu bằng hoa....
đây cũng là mặt hàng truyền thống có thế mạnh xuất khẩu của Công ty từ nhiều năm
nay. Các mặt hàng này do Công ty đặt hàng từ các làng nghề nổi tiếng, có sức cạnh
tranh cao.
- Hàng may mặc bao gồm các loại như: áo sơ mi, jacket, váy áo nữ, quần áo thể
thao và quần áo trẻ em.... đây là mặt hàng được xuất khẩu vào rất nhiều thị trường khác
nhau, dưới các hình thức là gia công xuất khẩu và xuất khẩu uỷ thác.
Xuất khẩu uỷ thác hàng may mặc là hoạt động đã có từ lâu của Công ty và là
hình thức chủ yếu để xuất khẩu hàng may mặc còn hình thức gia công xuất khẩu mới
được hình thành do đó khối lượng và kim ngạch xuất khẩu còn nhỏ bé.
- Một số mặt hàng khác có giá trị xuất khẩu tương đối cao như là sản phẩm gỗ,
thiếc, tơ tằm......đây là các mặt hàng Công ty vẫn duy trì được sản lượng và kim ngạch
xuất khẩu khá ổn định. Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu của Công ty
trong thời gian qua được thể hiện ở bảng 2.2. Qua bảng kim ngạch xuất khẩu một số mặt
hàng của Công ty ta thấy:
- Tổng kim ngạch xuất khẩu của Công ty có xu hướng tăng theo các năm tuy
nhiên tốc độ tăng không đều qua các năm; riêng năm 2002 tổng kim
ngạch xuất khẩu giảm 18% so với năm 2001, nhưng sang đến năm 2003 thì tổng kim
ngạch xuất khẩu lại tăng 15% so với năm 2002.
- Một số mặt hàng như: gia công may mặc; nông lâm hải sản luôn chiếm tỷ trọng
cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu.
Đối với mặt hàng gia công may mặc năm 1999 và năm 2000 chiếm tỷ trọng rất
cao: năm 1999 là 40,9%, năm 2000 là 54,7%. Sang đến các năm tiếp theo thì tỷ trọng
xuất khẩu mặt hàng này có xu hướng giảm, nguyên nhân là do sự mất ổn định của thị
trường và nhiều thị trường của Công ty đã áp dụng hạn ngạch đối với mặt hàng may
mặc, còn ở một số thị trường khác Công ty gặp phải sự cạnh tranh mạnh mẽ.
- Nhóm mặt hàng nông, lâm hải sản ngày càng có tỷ trọng cao trong tổng kim
ngạch xuất khẩu. Nếu như năm 1999 tỷ trọng mặt hàng này là 17,16% thì đến 2003 tỷ
trọng là 51,2% và cao nhất vào năm 2001 tỷ trọng mặt hàng này đạt tới 67,7%.
Trong đó thì hàng nông sản đóng vai trò quan trọng và hai mặt hàng chủ lực là
gạo và lạc nhân; hai mặt hàng này thường xuyên chiếm tới 20-25% tổng kim ngạch xuất
khẩu; ví dụ như năm 2002 xuất khẩu lạc nhân đạt 6.606.854,4 USD trong tổng kim
ngạch xuất khẩu là 31.432.000 USD, chiếm tỷ trọng là 21%, năm 2001 tỷ trọng xuất
khẩu lạc nhân trong tổng kim ngạch xuất khẩu cũng đạt 18%, gạo là 6,5%.
- Mặt hàng thủ công mỹ nghệ được Công ty xác định là mặt hàng xuất khẩu tiềm
năng, tuy nhiên giá trị mặt hàng này vẫn còn quá thấp. So với các mặt hàng khác. Kim
ngạch xuất khẩu mặt hàng này chỉ chiếm 1 tỷ trọng nhỏ trong tổng kim ngạch xuất
khẩu, từ 0,4 đến 1,2%. Ngoài ra một số mặt hàng khác cũng có giá trị tương đối cao và
giữ được ở mức ổn định như xuất khẩu sản phẩm gỗ, công nghệ phẩm, các sản phẩm tơ
sợi....
2.2.2. Kim ngạch xuất khẩu theo thị trường của Công ty
Nhìn chung thị trường của công ty rất đa dạng bao gồm tất cả các nước có quan
hệ buôn bán với Việt Nam. Hiện tại Công ty xuất khẩu sản phẩm của mình tới 150
nước. Hai nhóm thị trường chính của Công ty là EU và ASEAN; ngoài ra còn một số thị
trường khác tương đối lớn là Nhật Bản, Trung Quốc và Mỹ( xem bảng 2.3). Mặc dầu
công ty kinh doanh với nhiều thị trường nhưng khối lượng và kim ngạch kinh doanh với
từng thị trường thì không lớn và không ổn định, có năm công ty kinh doanh với thị
trường này nhưng sang năm lại không. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh
doanh của công ty.
2.3. Hiệu quả kinh doanh xuất khẩu của công ty
2.3.1. Kết quả kinh doanh của công ty giai đoạn 2000-2003
Kết quả kinh doanh của công ty từ năm 2000 đến năm 2003 được thể hiện ở bảng
2.4. Các chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh của công ty cho thấy tình hình chung toàn
bộ hoạt động kinh doanh của công ty bao gồm hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu,
họat động kinh doanh bất động sản…. Bên cạnh đó còn cho thấy tình hình thực hiện
nghĩa vụ của công ty đối với nhà nước.
Các số liệu từ bảng tổng kết kết quả kinh doanh của công ty thể hiện tổng doanh thu
của Công ty nhìn chung là tăng qua các năm. Đặc biệt năm 2001 so với năm 2000 doanh
thu tăng 188653 tr.đ tương đương với 69%. Năm 2003 doanh thu cũng tăng so với năm
2002 là 143340 tr.đ tương đương với 4%. Riêng năm 2002 doanh thu giảm so với năm
2001 là 108455 tr.đ tương đương với giảm 23.4%.
Cùng với việc doanh thu tăng lên, chi phí của Công ty cũng tăng với tốc độ khá
nhanh. Năm 2001 chi phí tăng 191299 tr.đ tương đương với 71,4%. Năm 2003 chi phí
tăng 14334 tr.đ tương đương với tăng 4%. Riêng năm 2002 tổng chi phí giảm so với
năm 2001 là 108455 tr.đ tương đương với 23,4%.
Về tình hình lợi nhuận của công ty thì nhìn chung qua các năm công ty đều kinh
doanh có lãi, tuy mức lãi không cao. Mức lợi nhuận của công ty có sự biến động qua các
năm, cụ thể: năm 2003 so với năm 2002 lợi nhuận tăng
1326 tr.đ tương đương với tăng 26,7%. Năm 2002 lợi nhuận tăng 1511 tr.đ tương
đương với tăng 44%, riêng năm 2001 mức lợi nhuận giảm 1646 tr.đ tương đương với
giảm 32,5%, nguyên nhân là do tốc độ tăng của chi phí lớn hơn tốc độ tăng doanh thu,
doanh thu tăng 69% nhưng chi phí tăng tới 74,5%.
Để thấy rõ hơn mức độ tăng trưởng của các chỉ tiêu tổng doanh thu, tổng chi phí và
lợi nhuận ta xem biểu đồ sau.
Hình 2.2: Doanh thu, chi phí, lợi nhuận của công ty, 2000-2003
0
100000
200000
300000
400000
500000
Doanh thu
Chi phÝ
Lî i nhuËn
Nguồn: bảng 2.4
2.3.2. Phân tích chỉ tiêu hiệu quả chung của công ty
2.3.2.1. Phân tích hiệu quả tổng hợp tình hình kinh doanh của công ty
Từ bảng kết quả kinh doanh của công ty có thể tính được các chỉ tiêu phản ánh hiệu
quả kinh doanh tổng hợp của công ty. Các chỉ tiêu này được tổng hợp trong bảng 2.5
Các chỉ tiêu trong bảng số liệu phản ánh hiệu quả kinh doanh tổng hợp không cao,
cụ thể: chỉ tiêu lợi nhuận trên doanh thu năm 2003 có giá trị cao nhất là 0.0188 có nghĩa
là cứ một đồng doanh thu thì đem lại 0,0188 đồng lợi nhuận. Năm 2001 chỉ tiêu này có
giá trị thấp nhất, một đồng doanh thu chỉ đem lại 0,0075 đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu lợi
nhuận trên chi phí năm 2003 cũng có giá trị cao nhất là 0,0192 có nghĩa là cứ một đồng
chi phí bỏ ra sẽ đem lại 0,0192 đồng lợi nhuận, năm 2001 chỉ tiêu này cũng có giá trị
thấp nhất, một đồng đồng chi phí bỏ ra chỉ thu được 0,0075 đồng lợi nhuận.
2000 2002 2003 2001
Như vậy bình quân 1000 đ doanh thu qua các năm thu được 14 đồng lợi nhuận, 1000 đ
chi phí bỏ ra thu được trung bình 15 đ lợi nhuận, còn 1000 đ vốn kinh doanh trong kì thì
thu được trung bình là 15,5 đồng lợi nhuận.
So sánh các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tổng hợp giữa các năm thì năm 2001 có chỉ
tiêu hiệu quả tổng hợp tương đối thấp so với các năm 2000, 2002, 2003. Hiệu quả tổng
hợp năm 2001 giảm mạnh so với năm 2000, nhưng
sang đến năm 2002,2003 thì hiệu quả tổng hợp của công ty lại có xu hưóng tăng.
Mức độ biến động của các chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp được thể hiện rõ hơn qua biểu
đồ sau.
Hình 2.2: Các chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp của công ty
BIỂU ĐỒ TLN/TCP
0.0189
0.0075
0.0192
0.01425
0
0.005
0.01
0.015
0.02
0.025
2000 2001 2002 2003
NĂM
Đ
/Đ
BIỂU ĐỒ TLN/TDT
0.0185
0.0188
0.0141
0.0074
0
0.005
0.01
0.015
0.02
2000 2001 2002 2003
NĂM
Đ
Ồ
N
G
Nguồn: Bảng 2.5
2.3.2.2. Phân tích các chỉ tiêu hiệu quả bộ phận theo yếu tố sản xuất kinh doanh
* Hiệu quả sử dụng lao động
Lao động luôn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của công
ty, vì vậy khi phân tích hiệu quả kinh doanh của Công ty ta không thể không phân tích
hiệu quả sử dụng lao động. Các chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng lao động của Công ty được
tổng hợp trong bảng số liệu sau:
Bảng 2.6: Hiệu quả sử dụng lao động của công ty.
Chỉ tiêu Đơn vị 2000 2001 2002 2003
Tổng Doanh thu Tr.đ 273894 462547 354092 368426
Tổng Lợi nhuận Tr.đ 5067 3421 4972 6289
Số Lao động Người 695 715 740 756
Năng suất lao động (DT/LĐ) Tr.đ/người 394,09 646,9 478,5 487,34
Lợi nhuận bình quân (LN/LĐ) Tr.đ/người 7,29 4,78 6,66 9,16
Nguồn: báo cáo kết quả kinh doanh của công ty các năm 2000-2003
Do đặc điểm kinh doanh của công ty là một công ty kinh doanh thương mại.
Không giống như các doanh nghiệp chuyên sản xuất cho nên số lượng lao động của
công ty nêu trên chỉ là tương đối và chỉ là số lượng lao động chính của công ty. Các chỉ
tiêu về hiệu quả sử dụng lao động được tính cũng không thể so sánh được với các chỉ
tiêu cuả các đơn vị sản xuất khác mà chỉ có thể đánh giá chỉ tiêu này qua các năm của
công ty mà thôi.
Qua bảng số liệu cho thấy các chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng vốn có sự biến động
không đều qua các năm và hai chỉ tiêu NSLĐ và LNBQ1LĐ có sự biến động trái ngược
nhau ở năm 2001.
Về chỉ tiêu năng suất lao động(doanh thu/lao động), năm 2000 bình quân một lao
động tạo ra được 394,09 triệu đồng, năm 2001 là năm có mức cao nhất là 646,9 tr.đ,
năm 2002 là 478,5 trđ, năm 2003 là 487,34 tr.đ.
Về chỉ tiêu lợi nhuận bình quân một lao động, không giống như chỉ tiêu năng suất
lao động, chỉ tiêu này có sự biến động ngược lại. Năm 2001 chỉ tiêu này có giá trị thấp
nhất so với các năm khác. Điều này lại phản ánh hiệu quả sử dụng lao động của công ty
năm 2001 giảm so với năm 2000.
Năng suất lao động tính theo doanh thu tăng nhưng lợi nhuận bình quân một lao
động lại giảm, điều này hoàn toàn có thể sảy ra đối với một doanh nghiệp thương mại.
Do đối với doanh nghiệp này thì tỉ trọng chi phí lao động trong tổng chi phí là nhỏ.
Hơn nữa chỉ tiêu NSLĐ(doanh thu/lao động) đối với doanh nghiệp thương mại không
phản ánh thực sự được giá trị do lao động tạo ra như là đối với các doanh nghiệp sản
xuất.
Điều này cũng hoàn toàn hợp lí khi phân tích và so sánh hai chỉ tiêu doanh thu và
chi phí của công ty trong hai năm 2000 và 2001. Năm 2001 doanh thu tăng 69% nhưng
chi phí lại tăng tới 74,5% dẫn đến lợi nhuận giảm 32,5%.
* Hiệu quả sử dụng vốn của công ty
Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn của công ty được tổng hợp ở bảng số liệu sau:
Bảng 2.7 : Hiệu quả sử dụng vốn của công ty
Chỉ tiêu Đơn
vị
2000 2001 2002 2003
Tổng doanh thu Tr.đ 273894 462547 354092 386426
Tổng lợi nhuận Tr.đ 5067 3214 4972 6928
Tổng vốn bình quân Tr.đ 215864 244468 246543 254324
Vốn cố định bình quân Tr.đ 55345 54049 59170 58490
Vốn lưu động bình quân Tr.đ 160519 190149 187373 195834
Sức sản xuất của vốn Đ/Đ 1,27 1,89 1,44 1,45
Doanh lợi của vốn Đ/Đ 0,0234 0,0140 0,0201 0,0272
Doanh lợi vốn cố định Đ/Đ 0,0916 0,0633 0,0840 0,1184
Doanh lợi vốn lưu động Đ/Đ 0,0316 0,0180 0,0265 0,0354
Nguồn : Báo cáo kết quả kinh doanh của công ty 2000-2003
Các chỉ tiêu trong bảng số liệu cho thấy hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của công
ty là có lãi và nhìn chung là tăng qua các năm. Riêng năm 2001 vẫn do ảnh hưởng của
kết quả kinh doanh là lợi nhuận giảm mà các chỉ tiêu doanh lợi của vốn cũng giảm theo.
Cụ thể các chỉ tiêu như sau:
Chỉ tiêu sức sản xuất của tổng vốn năm 2001 có giá trị cao nhất là 1,89 cho biết
một đồng vốn năm 2001 tạo ra được 1,89 đồng doanh thu, sở dĩ có điều này là do năm
2001 có mức doanh thu cao đạt 462547 tr.đ. Năm 2002 sức sản xuất của vốn giảm so
với 2001 là 0,45 đồng tương đương với giảm 23%. Năm 2003 sức sản xuất của vốn tăng
0,05 đồng tương đương với tăng 3,5%.
Chỉ tiêu doanh lợi trên tổng vốn thì năm 2001 có giá trị nhỏ nhất so với các năm
khác, do chi phí năm 2001 tăng cao dẫn đến lợi nhuận bị giảm sút nhưng đến năm 2002
và năm 2003 thì chỉ tiêu này lại có xu hướng tăng. Năm 2000 cứ một đồng vốn kinh
doanh sẽ đem lại 0,0234 đồng lợi nhuận, năm 2001 là 0,0140 đồng, năm 2002 là 0,0201
đồng và năm 2003 cao nhất là 0,0272 đồng.
Cũng giống như chỉ tiêu doanh lợi của tổng vốn, các chỉ tiêu doanh lợi vốn cố
định, doanh lợi vốn lưu động cũng giảm vào năm 2001 và có xu hướng tăng vào các
năm 2002 và 2003.
Trên đây chỉ là một số chỉ tiêu cơ bản nhằm phản ánh hiệu quả kinh doanh chung
của công ty. Sau đây ta sẽ đi sâu vào phân tích các chỉ tiêu lợi nhuận xuất khẩu của
công ty trong thời gian qua.
2.3.3. Hiệu quả kinh doanh xuất khẩu của công ty thời gian qua
2.3.3.1. Kết quả kinh doanh xuất khẩu của công ty
Trước khi đi vào phân tích hiệu quả kinh doanh xuất khẩu của công ty ta phân
tích kết quả kinh doanh xuất khẩu của công ty
* Kim ngạch và doanh thu xuất khẩu
Kim ngạch xuất khẩu của công ty như đã được tính ở phần tình hình xuất khẩu của
công ty theo mặt hàng và theo thị trường, tuy nhiên đối với công ty thì kim ngạch xuất
khẩu lại không phải là doanh thu xuất khẩu của công ty.
Các hình thức kinh doanh xuất khẩu của công ty bao gồm xuất khẩu tự doanh,
xuất khẩu uỷ thác và tạm nhập tái xuất…. Mà trong hình thức xuất khẩu uỷ thác thì kim
ngạch xuất khẩu lại không phải là doanh thu xuất khẩu của công ty mà công ty chỉ nhận
được phí uỷ thác bằng số % nhất định của giá trị hàng xuất khẩu uỷ thác đó. Trong
những năm vừa qua hình thức xuất khẩu uỷ thác vẫn chiếm một tỷ lệ khá lớn trong tổng
kim ngạch xuất khẩu của công ty do đó thực tế doanh thu xuất khẩu của công ty nhỏ
hơn nhiều so với kim ngạch xuất khẩu của công ty.
* Chi phí xuất khẩu
Do tính chất kinh doanh phức tạp của công ty, công ty vừa kinh doanh xuất khẩu,
nhập khẩu, vừa kinh doanh bất động sản, dịch vụ… do đó các loại chi phí như chi phí
tiền lương, chi phí quản lí doanh nghiệp, chi phí vốn vay, sử dụng tài sản cố định…
công ty hạch toán và tính chung cho toàn bộ hoạt động kinh doanh của công ty, việc
phân bổ và tính riêng các chi phí đó cho từng lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu
hay dịch vụ là tương đối khó khăn và không thể chính xác hoàn toàn. Tuy nhiên có thể
bỏ qua việc phân bổ cho hoạt động dịch vụ vì hoạt động này có tỷ trọng rất nhỏ.
Khi việc phân bổ các chi phí trên là khó khăn thì việc tính riêng chi phí lưu thông
cho từng lĩnh vực xuất khẩu hay nhập khẩu cũng vậy và dẫn đến việc tính chi phí cho
từng lĩnh vực xuất khẩu hay nhập khẩu cũng không được chính xác hoàn toàn, tuy nhiên
công ty vẫn có thể tính được chi phí cho từng hoạt động một cách gần đúng.
Ví dụ như chi phí xuất khẩu của công ty bao gồm: giá vốn hàng xuất khẩu + chi
phí lưu thông hàng xuất khẩu, trong hai loại chi phí trên thì giá vốn hàng xuất khẩu luôn
tính được chính xác, chi phí lưu thông xuất khẩu chỉ có một phần là không hoàn toàn
chính xác do các chi phí khó phân bổ ở trên gây lên, công ty có thể dựa vào tỷ trọng của
từng hoạt động và đặc điểm kinh doanh của công ty trong năm để phân bổ các loại chi
phí đó cho từng lĩnh vực.
Kết quả kinh doanh xuất khẩu của công ty giai đoạn 2000-2003 được thể hiện ở
bảng số liệu sau
Bảng 2.8: Kết quả kinh doanh xuất khẩu của công ty 2000 - 2003
Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003
1.Doanh thu xuất khẩu 113932 185296 210159 219476
2.Chi phí xuất khẩu
Trong đó
+ Giá Vốn
+ Chi phí lưu thông xuất khẩu
111765
107917
3848
183241
178965
5276
206842
201123
5719
215187
208160
7027
3.Lãi gộp xuất khẩu 6015 7319 9036 11316
4.Lợi nhuận xuất khẩu 2167 2052 3317 4289
Nguồn: Phòng tổng hợp công ty xnk tổng hợp I.
Nhìn chung hoạt động xuất khẩu của công ty có xu hướng phát triển tốt. Mức lãi
gộp xuất khẩu tăng qua các năm, cụ thể: năm 2001 so với năm 2000 mức lãi gộp tăng
2605 tr.đ tương đương với 51% .Năm 2002 so với năm 2001 lãi gộp tăng 3246 tr.đ.
Năm 2003 so với năm 2002 mức lãi gộp tăng 2067 tr.đ tương đương với 20,3%. Trừ
năm 2001 thì các năm còn lại lợi nhuận xuất khẩu của công ty năm sau đều cao hơn
năm trước, cụ thể là năm 2002 lợi nhuận xuất khẩu tăng 1265 tr.đ, năm 2003 lợi nhuận
tăng 972 tr.đ.
2.3.3.2 Phân tích các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận xuất khẩu của công ty
Qua bảng kết quả kinh doanh xuất khẩu của công ty ta cũng sẽ tính được các chỉ
tiêu tỷ suất lợi nhuận xuất khẩu cuả công ty trong thời gian qua.
Các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận xuất khẩu của Công ty được thể hiện trong bảng
2.9.
Tỷ suất lợi nhuận xuất khẩu được thể hiện ở bảng qua ba chỉ tiêu là: lợi nhuận
xuất khẩu trên doanh thu xuất khẩu, lợi nhuận xuất khẩu trên chi phí xuất khẩu và lợi
nhuận xuất khẩu trên chi phí lưu thông xuất khẩu.
Chỉ tiêu lợi nhuận xuất khẩu trên doanh thu xuất khẩu phản ánh cứ một đồng
doanh thu xuất khẩu thì sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Theo bảng số liệu thì
năm 2003 là năm có tỷ suất lợi nhuận xuất khẩu trên doanh thu xuất khẩu là cao nhất
với giá trị là 0,0916, có nghĩa là cứ một đồng doanh thu xuất khẩu thì cho 0,0916 đồng
lợi nhuận. Năm 2001 là năm tỷ suất này có giá trị thấp nhất là 0,01107. Chỉ tiêu này
biến động qua các năm, cụ thể : năm 2001 so với năm 2000 chỉ tiêu LNXK/DTXK giảm
0.00813 đ tương ứng với giảm 42%, năm 2002 so với năm 2001 chỉ tiêu này tăng 41%
và năm 2003 so với năm 2002 chỉ tiêu này tăng 25%.
Chỉ tiêu lợi nhuận xuất khẩu trên chi phí xuất khẩu cho biết cứ một đồng chí phí
cho xuất khẩu sẽ đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Qua bảng số liệu
ta cũng thấy năm 2003 chỉ tiêu này có giá trị cao nhất là 0,01993; có nghĩa là cứ một
đồng chi phí xuất khẩu bỏ ra sẽ thu được 0,01993 đồng lợi nhuận, năm 2001 chỉ tiêu
này cũng có giá trị thấp nhất .
Chỉ tiêu lợi nhuận xuất khẩu trên chi phí lưu thông xuất khẩu cho biết cứ một đồng chi
phí lưu thông xuất khẩu bỏ ra sẽ đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Đối với công ty thì
ta thấy chỉ tiêu này có giá trị khá cao so với hai chỉ tiêu trên, sở dĩ có điều này là do chi
phí lưu thông có tỷ trọng nhỏ trong tổng chi phí của công ty, chi phí chiếm tỷ trọng lớn
nhất là chi phí giá vốn hàng hoá của công ty.
Nhìn chung các chỉ tiêu về tỷ suất lợi nhuận của công ty là khá tốt tuy có sự biến
động không ổn định qua các năm. Nếu ta đem so sánh các chỉ tiêu này với các chỉ tiêu
hiệu quả chung của công ty ta sẽ thấy lĩnh vực xuất khẩu kinh doanh có hiệu quả hơn so
với toàn bộ hoạt động kinh doanh của công ty.
Ví dụ năm 2003 một dồng doanh thu xuất khẩu cho 0,0196 đồng lợi nhuận còn
một đồng doanh thu nói chung chỉ cho 0,0188 đồng lợi nhuận. Để thấy rõ hơn sự biến
động của các chỉ tiêu ta xem biểu đồ sau
Biểu đồ 2.3: Các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận xuất khẩu
BIỂU ĐỒ LNXK/DTXK
0.01902 0.0196
0.01107
0.0157
0
0.005
0.01
0.015
0.02
0.025
2000 2001 2002 2003
NĂM
Đ
Ồ
N
G
BIỂU ĐỒ LNXK/CPXK
0.0194
0.0112
0.01604
0.01993
0
0.005
0.01
0.015
0.02
0.025
2000 2001 2002 2003
NĂM
Đ
Ồ
N
G
Trên đây chỉ là các chỉ tiêu doanh lợi gắn liền với doanh thu, chi phí xuất khẩu,
tuy nhiên hiệu quả của hoạt động xuất khẩu còn phải gắn liền với sự biến động của vốn
kinh doanh, chúng có quan hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau. Quy mô, sự linh
hoạt của vốn kinh doanh sẽ tác động tốc độ và quy mô của thương vụ xuất khẩu; kết
quả của thương vụ xuất khẩu sẽ tác động trở lại đối với nguồn vốn kinh doanh. Nếu
kinh doanh xuất khẩu có lãi thì vốn kinh doanh sẽ được bảo toàn và phát triển. Do vậy
khi phân tích hiệu quả kinh doanh phải xem xét nó trong mối quan hệ với sự biến động
của nguồn vốn kinh doanh
2.3.3.3. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn xuất khẩu của công ty
Đối với công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I thì vốn dược dùng chung cho toàn bộ
hoạt động kinh doanh của công ty. Do đó không thể chia ra được là vốn này dùng cho
kinh doanh xuất khẩu vốn này là dùng cho kinh doanh nhập khẩu, hay vốn lưu động
dành cho xuất khẩu, vốn cố định dành cho xuất khẩu …do đó khi đánh giá hiệu quả sử
dụng vốn kinh doanh xuất khẩu ta cũng có các chỉ tiêu: LNXK/VKD, LNXK/VCĐ,
LNXK/VLĐ ( nhưng VKD,VCĐ,VLĐ ở đây là vốn dùng chung cho hoạt động kinh
doanh của công ty ), do đó qua các chỉ tiêu trên ta chỉ dùng để phân tích tầm quan trọng
của hoạt động xuất khẩu đối với công ty, và chỉ dùng để so sánh hiệu quả xuất khẩu của
công ty giữa các năm với nhau mà thôi. Các chỉ tiêu trên không dùng để so sánh với
hiệu quả kinh doanh của các công ty khác
Kết quả của các chỉ tiêu này qua các năm dược thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2.10 : Hiệu quả sử dụng vốn xuất khẩu của công ty
Chỉ tiêu Đơn vị 2000 2001 2002 2003
Lợi nhuận xuất khẩu Tr.đ 2167 2052 3317 4289
Vốn kinh doanh bình quân Tr.đ 215864 244468 246534 245324
Vốn cố định bình quân Tr.đ 55345 54049 59170 58490
Vốn lưu động bình quân Tr.đ 160519 190419 187373 195834
Lợi nhuận xuất khẩu /Vốn kinh
doanh
Đ/Đ 0,01 0.0084 0,0134 0,0175
Lợi nhuận xuất khẩu /Vốn cố định Đ/Đ 0,039 0,038 0,056 0,0733
Lợi nhuận xuất khẩu /Vốn lưu động Đ/Đ 0,0135 0,011 0,0177 0,022
Nguồn:Báo cáo kết quả kinh doanh và bảng cân đối kế toán của công ty
Chỉ tiêu LNXK/VKD cho biết một đồng vốn kinh doanh trong năm sẽ đem lại
bao nhiêu đồng lợi nhuận xuất khẩu. Năm 2003 chỉ tiêu này có giá trị cao nhất là 0,0175
có nghĩa là cứ một đồng vốn kinh doanh trong năm sẽ đem lại 0,0175 đồng lợi nhuận
xuất khẩu. Năm 2001 là năm chỉ tiêu này có giả trị nhỏ nhất, một đồng vốn kinh doanh
trong năm chỉ đem lại 0,0084 đồng lợi nhuận xuất khẩu.
Chỉ tiêu LNXK/ VCĐ cho biết một đồng vốn cố định trong năm sẽ đem lại bao
nhiêu đồng lợi nhuận. Năm 2000 một đồng vốn cố định đem lại 0,039 đồng lợi nhuận,
năm 2001 là 0,038 đồng, năm 2002 là0.056 đồng và năm 2003 là 0, 0733 đồng.
Chỉ tiêu LNXK/VLĐ cho biết một đồng vốn lưu động trong năm sẽ đem lại bao
nhiêu đồng lợi nhuận. Năm 2000 một đồng vốn lưu động đem lại 0,0135 đồng lợi
nhuận, năm 2001 là 0,011 đồng, năm 2002 là 0,0177 đồng và năm 2003 là 0,22 đồng.
Như vậy các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn xuất khẩu của công ty nhìn chung là
tăng qua các năm, riêng năm 2001 giảm so với năm 2000 điều này thể hiện năm 2001
kinh doanh xuất khẩu có hiệu quả thấp nhất. Sang đến năm 2002, 2003 thì hiệu quả sử
dụng vốn kinh doanh của công ty lại có xu hướng tăng nhanh điều này thể hiện công ty
ngày càng kinh doanh xuất khẩu có hiệu quả.
Vai trò của hoạt động xuất khẩu cũng được thể hiện khi so sánh các chỉ tiêu hiệu
quả sử dụng vốn xuất khẩu nói trên với các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
nói chung. Năm 2000 một đồng vốn kinh doanh đem lại 0,0234 đồng lợi nhuận trong đó
lợi nhuận xuất khẩu là 0,01 đồng chiếm 40%. Năm 2001 một đồng vốn kinh doanh đem
lại 0,0140 đồng lợi nhuận trong đó lợi nhuận xuất khẩu là 0,0084đồng chiếm 60%.
Năm 2002 một đồng doanh thu đem lại 0,0201đồng lợi nhuận trong đó lợi nhuận xuất
khẩu là 0,0134 đồng chiếm 62%. Năm 2003 một đồng vốn kinh doanh đem lại
0,0272đồng lợi nhuận trong đó lợi nhuận xuất khẩu là 0,0175 đồng chiếm 60%. Như
vậy qua các năm thì lợi nhuận xuất khẩu ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lợi
nhuận của công ty điều này chứng tỏ hoạt động xuất khẩu ngày càng có vai trò quan
trọng.
2.3.3.4. Phân tích tỷ suất ngoại tệ của công ty
Trong hoạt động xuất khẩu thì kết quả kinh doanh được biểu hiện bằng số ngoại
tệ thu được do xuất khẩu còn chi phí kinh doanh phục vụ cho xuất khẩu lại thể hiện
bằng nội tệ VND. Vì vậy cần phải tính tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu để có thể biết được
phải chi ra bao nhiêu VND để có thể thu về được một ngoại tệ.
Chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ của công ty qua các năm được thể hiện ở bảng sau
Bảng 2.11: Tỷ suất ngoại tệ của công ty 2000-2003
Chỉ tiêu Đơn vị 2000 2001 2002 2003
Doanh thu xuất khẩu Tr.USD 8,137 12,77 13,94 14,12
Chi phí xuất khẩu Tr.đ 111765 183214 206842 215187
Tỷ suất ngoại tệ USD/VND 13735 14349 14838 15240
Tỷ giá trung bình USD/VND 14002 14512 15075 15545
Chênh lệch Đ 267 163 237 305
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của công ty 2000-2003
Qua bảng số liệu ta thấy tỷ suất ngoại tệ của công ty hàng năm đều nhỏ hơn tỷ giá
trung bình năm đó, điều này chứng tỏ hàng năm công ty hàng năm công ty đều kinh
doanh xuất khẩu có hiệu quả. Năm 2000 để thu được 1 USD công ty phải chi phí hết
13735 VND, chênh lệch so với tỷ giá trung bình là 267 VND. Năm 2001 là năm có mức
chênh lệch giữa tỷ suất ngoại tệ và tỷ giá trung bình là nhỏ nhất: 163 VND, năm 2003 là
năm có mức chênh lệch là lớn nhất: 305 VND. Điều này cũng nói lên là năm 2001 công
ty kinh doanh xuất khẩu đạt hiệu quả thấp nhất và năm 2003 là năm công ty kinh doanh
xuất khẩu đạt hiệu quả cao nhất.
2.3.4. Các biện pháp công ty đã áp dụng để nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất
khẩu
Trong thời gian qua trước bối cảnh chung và riêng hết sức phức tạp công ty đã
phấn đấu hết mình để giữ vững và ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh. Công ty đã
không ngừng áp dụng các biện pháp để nâng cao hiệu quả kih doanh. Sau đây là các
biện pháp mà công ty đã và đang làm để nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình.
2.3.4.1. Chuyển hướng một phần hoạt động sản xuất kinh doanh, tập trung đẩy mạnh
hoạt động xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu là hoạt động đem lại doanh thu cũng như lợi nhuận lớn hơn
so với hoạt động nhập khẩu, do đó công ty đã xác định tập
trung sức đẩy mạnh xuất khẩu, và giảm dần tỷ trọng nhập khẩu.
Những năm trước đây do nhiều nguyên nhân hoạt động xuất khẩu của công ty có
phần “lép vế ” so với hoạt động nhập khẩu. Điều này được thể hiện rõ khi so sánh kim
ngạch giữa nhập khẩu và xuất khẩu, từ năm 1993 đến năm 1999 kim ngạch nhập khẩu
luôn lớn hơn nhiều so với xuất khẩu, có năm giá trị nhập khẩu lớn hơn gấp hai lần kim
ngạch xuất khẩu
Từ khi cơ chế thay đổi, nghị định 57CP ra đời, hoạt động nhập khẩu bị thu hẹp
do nhiều doanh nghiệp tự đáp ứng nhu cầu, làm công ty mất nhiều khách hàng. Nếu
công ty không tập chung hết sức đẩy mạnh xuất khẩu sẽ ảnh hưởng đến quy mô của
mình. Do đó công ty tìm mọi biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu. Trước hết công ty cố gắng
ổn định tối đa mặt hàng xuất khẩu chủ lực là gia công may mặc, đồng thời quay lại làm
các mặt hàng truyền thống có giá trị lớn mà cơ chế trước đây không cho phép như gạo,
cà phê… vừa tận dụng mọi cơ hội để làm các mặt hàng công ty có kinh nghiệm như lạc,
quế hồi, đồ gỗ, thủ công mĩ nghệ. Bên cạnh các chính sách về mặt hàng nói trên công ty
còn sử dụng các biện pháp khuyến khích mạnh mẽ cho xuất khẩu như áp dụng chế độ
thưởng xuất khẩu …
Nhờ các biện pháp trên mà đến năm 2000 khoảng cách giữa nhập khẩu và xuất
khẩu đã thu hẹp đáng kể và đến năm 2001 thì giá trị xuất khẩu đã vượt xa nhập khẩu.
Điều này thể hiện ở mức lợi nhuận mà hoạt động xuất khẩu đem lại cho công ty luôn
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lợi nhuận của công ty.
Do kim nghạch xuất khẩu tăng lên mà doanh thu của công ty cũng không ngừng
tăng lên. Cùng với việc doanh thu tăng lên công ty còn giảm được chi phí do tiết kiệm
được thuế. Phần lớn các mặt hàng xuất khẩu của công ty đều được nhà nước khuyến
khích và không phải nộp thuế còn các mặt hàng nhập khẩu phần lớn phải nộp thuế với
mức thuế suất khá cao.
2.3.4.2. Tăng cường đầu tư cho sản xuất hàng xuất khẩu
Xuất khẩu hàng đã chế biến luôn đem lại hiệu quả cao hơn xuất khẩu hàng thô do
doanh thu và lợi nhuận của hình thức này đem lại cao hơn. Nhằm giảm bớt xuất khẩu
hàng thô và tăng dần tỷ trọng hàng chế biến xuất khẩu công ty đã từng bước đầu tư vào
chế biến hàng xuất khẩu.
Trong hai năm 1998 và 1999 công ty đã đầu tư hơn 4 tỷ đồng để xây dựng xí
nghiệp chế biến quế và lâm sản xuất khẩu tại Gia Lâm -Hà Nội và mở thêm một phân
xưởng may gia công tại Đoan Xá - Hải Phòng. Cả hai công trình này đều đã đi vào hoạt
động và từng bước đem lại lợi nhuận cho công ty. Năm 2002 công ty cũng đã đầu tư gần
3 tỷ đồng vào nhà xưởng nhằm phục vụ cho việc xuất khẩu. Dự kiến trong thời gian tới
công ty sẽ tích cực hơn nữa trong việc đầu tư cho sản xuất hàng xuất khẩu.
2.3.4.3. Cải tiến một bước trong công tác nội bộ; chú trọng công tác tổ chức cán bộ
Nếu như trước đây, việc giao nhiệm vụ và chỉ tiêu như kim ngạch, tài chính,
lương thưởng còn mang nặng tính bao cấp thì trong những năm gần đây đặc biệt là từ
năm 2001 công ty đã từng bước khắc phục hiện tượng này cụ thể là: đồng thời với việc
giao các chỉ tiêu tương đối công bằng công ty còn mở rộng quyền bình xét lương
thưởng đến cấp phòng ban căn cứ vào năng suất cá nhân đóng góp cho phòng…
Công ty còn hết sức chú trọng công tác tổ chức cán bộ. Trong bốn năm công ty đã
tổ chức đào tạo về chuyên môn, ngoại ngữ, chính trị cho 167 người, đề bạt tại chỗ 15
trường hợp ( 1 Giám đốc công ty, 1 Phó giám đốc công ty, 4 Trưởng phòng, 1 Phó giám
đốc xí nghiệp, 2 Phó giám đốc xí nghiệp, 1 Kế toán trưởng, 4 phó phòng). Công ty cũng
đang thực hiện chính sách tuyển dụng mới một số cán bộ trẻ, có năng lực chuyên môn
khá để dần thay thế lớp cán bộ cao tuổi.
Nhờ cải tiến, xắp sếp lại bộ máy tổ chức mà công ty đã có được bộ máy tương đối
gọn nhẹ, chi phí quản lí nhờ đó cũng được giảm bớt. Nhờ các biện pháp tăng cường
đoàn kết nội bộ mà cán bộ công nhân viên của công ty làm việc hăng say, hiệu quả hơn,
đem lại năng suất cao hơn cho công ty.
ngoài các biện pháp nói trên công ty còn thực hiện nhiều biện pháp khác nhằm
giảm chi phí tăng cường nguồn thu như tập chung khai thác triệt để cơ sở vật chất sẵn
có, tăng cường hoạt động dịch vụ nhằm tăng doanh thu như cho thuê kho, bãi, xe, thực
hiện dịch vụ giao hàng xuất khẩu.
Tóm lại, trong những năm qua công ty đã chú ý và không ngừng áp dụng những
biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình và nhờ áp dụng những biện
pháp đó mà công ty đã đứng vững và không ngừng phát triển.
2.4. Đánh giá chung về hiệu quả kinh doanh xuất khẩu của công ty
Qua việc phân tích các chỉ tiêu hiệu quả và những biện pháp mà công ty đã áp
dụng để nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu có thể thấy được những ưu điểm của
công ty cũng như những tồn tại của công ty trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh
xuất khẩu.
2.4.1. Những ưu điểm
Qua các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh nói chung và chỉ tiêu hiệu quả xuất khẩu
nói riêng có thể thấy về hiệu quả kinh doanh xuất khẩu công ty có những ưu điểm sau:
Thứ nhất, cũng như hoạt động kinh doanh nói chung hoạt động kinh doanh xuất
khẩu hàng năm đều có lãi. Số lãi của công ty hàng năm đạt từ 3 đến 7 tỷ một năm , đây
là một con số không nhỏ khi mà hiện nay hầu hết các doanh nghiệp nhà nước làm ăn
gần như không có lãi, thậm chí thua lỗ. Do kinh doanh có hiệu quả mà công ty thực hiện
tốt việc bảo toàn và phát triển vốn, đảm bảo sự tồn tại, góp phần vào việc tái đầu tư và
phát triển của công ty.
Thứ hai, lợi nhuận do lĩnh vực xuất khẩu đóng góp vào tổng lợi nhuận của công
ty có tỷ trọng ngày càng lớn. Nếu như trước năm 1999 hoạt động nhập khẩu luôn đóng
vai trò chủ đạo trong hoạt động của công ty thì từ năm 2000 đến nay hoạt động xuất
khẩu ngày càng có vai trò quan trọng, điều này thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2.12 : Tỷ trọng của lợi nhuận xuất khẩu
Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003
Tổng lợi nhuận 5067 3421 4972 6928
Lợi nhuận xuất khẩu 2167 2052 3317 4289
Tỷ trọng LNXK 42,8 59,9 66,7 62,1
Nguồn : Phòng tổng hợp Công ty Xuất Nhập Khẩu tổng hợp I
Tỷ trọng lợi nhuận xuất khẩu tăng khá nhanh qua các năm. Nếu như năm 2000 chỉ
chiếm 42,8% thì đến năm 2001 là 59,9%, năm 2002 là 66.7% và đến năm 2003 là
62,1% điều này nói lên vai trò ngày càng quan trọng của hoạt động xuất khẩu đối với
công ty.
Thứ ba, các chỉ tiêu hiệu quả xuất khẩu cho thấy nhìn chung hoạt đông xuất khẩu
ngày càng kinh doanh có hiệu quả hơn, trừ năm 2001 còn các năm khác các chỉ tiêu
doanh lợi đều cao hơn năm trước.
Thứ tư, các chỉ tiêu hiệu quả cũng cho thấy hoạt động kinh doanh xuất khẩu của
công ty kinh doanh có hiệu quả hơn so với các hoạt động khác của công ty. Điều này
thể hiện ở chỗ các chỉ tiêu doanh lợi xuất khẩu hàng năm của công ty đều cao hơn các
chỉ tiêu doanh lợi nói chung.
Thứ năm, trong thời gian qua công ty cung đã có những biện pháp đúng đắn nhằm
nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu điều này thể hiện ở kim ngạch và hiệu quả
xuất khẩu của công ty tăng khá nhanh trong hai năm gần đây.
2.4.2. Tồn tại và nguyên nhân
2.4.2.1 Những tồn tại
Bên cạnh những thành tựu đạt được, trong hiệu quả kinh doanh xuất khẩu công ty
vẫn còn một số tồn tại sau:
Thứ nhất, tuy kinh doanh xuất khẩu hàng năm đều có lãi song lợi nhuận của hoạt
động này còn chưa tương xứng với tiềm năng của công ty và chi phí do công ty bỏ ra,
và nhìn chung lợi nhuận còn thấp. Ví dụ như năm 2001 với doanh thu lên tới 462547
triệu đồng nhưng lợi nhuận của công ty chỉ đạt 3421 triệu đồng.
Thứ hai, mức lợi nhuận xuất khẩu hàng năm của công ty cũng không ổn định,
biến động qua các năm. Đặc biệt năm 2001 lợi nhuận của công ty giảm sút đáng kể, năm
2001 lợi nhuận của công ty giảm 1646 triệu đồng tương đương với giảm 32,5% so với
năm 2000.
Thứ ba, qua việc phân tích chi phí lưu thông của công ty ta thấy chi phí lưu thông
của công ty liên tục tăng qua các năm, đây cũng là một yếu tố giảm hiệu quả hoạt động
kinh doanh xuất khẩu cũng như hiệu quả kinh doanh của công ty nói chung.
Thứ tư, tuy đã có những biện pháp đưa ra để nâng cao hiệu quả kinh doanh
nhưng nhìn chung các biện pháp đó còn chưa đầy đủ và đồng bộ. Ví dụ như khi công ty
tìm mọi cách để nâng cao kim ngạch xuất khẩu, tăng doanh thu xuất khẩu nhưng lại để
cho chi phí tăng nhanh mà không có biện pháp giảm chi phí. Điều này thể hiện rõ nét ở
năm 2001, tuy kim ngạch cũng như doanh thu tăng nhưng lợi nhuận lại giảm, do chi phí
tăng nhanh.
Hay về chính sách mặt hàng, công ty đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh nhưng lại
không hướng về các mặt hàng có hiệu quả, nhiều mặt hàng của công ty kinh doanh có
giá trị cũng như hiệu quả kinh doanh khá thấp, điều này cũng ảnh hưởng đến hiệu quả
kinh doanh của công ty nói chung.
2.4.2.2 Nguyên nhân của những tồn tại trên
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trong hiệu quả kinh doanh của
công ty. Tuy nhiên ta có thể phân chúng thành hai nhóm là nhóm các nguyên nhân chủ
quan và nhóm các nguyên nhân khách quan.
* Nguyên nhân chủ quan
- Tỷ trọng của kim ngạch xuất khẩu uỷ thác của công ty còn khá cao, tuy tỷ trọng
kim ngạch xuất khẩu uỷ thác cao song lợi nhuận do hình thức này đem lại lại thấp, điều
này được thể hiện ở bảng sau
Bảng 2.13: Lãi gộp phân theo các hình thức xuất khẩu
Đv: Tr.đ
Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003
Tổng lãi gộp xuất khẩu 6015 7319 9036 11316
Lãi gộp xuất khẩu tự doanh 4970 5727 7946 9435
Lãi gộp xuất khẩu uỷ thác 1045 1592 1090 1881
Tỷ trọng Lãi gộp xuất khẩu uỷ thác 17,4% 21,7% 12% 16,6%
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của công ty 2000-2003
- Cơ cấu mặt hàng kinh doanh của công ty chưa thực sự hợp lí, một số mặt hàng
kinh doanh của công ty có giá trị xuất khẩu không cao. Nhiều mặt hàng mà công ty kinh
doanh có giá trị chế biến không cao, mà xuất khẩu chủ yếu dưới dạng thô. Hơn nữa việc
kinh doanh một số mặt hàng của công ty vẫn còn mang tính chất manh mún. Điều này
thể hiện ở giá trị lô hàng xuất khẩu của công ty có giá trị không lớn, công ty chưa thực
sự có được những bạn hàng lớn. Có năm một mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tương
đối lớn song có năm kim ngạch mặt hàng đó lại rất nhỏ, thậm chí bằng không.
- Công ty còn bị động trong quá trình nghiên cứu thị trường và tìm kiếm khách
hàng, chủ yếu các đơn đặt hàng đều do phía đối tác chủ động đặt hàng công ty, khi có
đơn đặt hàng công ty mới tìm kiếm nguồn hàng ở trong nước.
Hơn nữa nhiều mặt hàng của công ty hiện nay vẫn phải xuất qua nước trung gian
thứ ba mà chưa được xuất khẩu trực tiếp. Ví dụ các mặt hàng như lạc nhân, một số sản
phẩm may mặc để xuất sang EU công ty phải thông qua các công ty của Inđonexia hay
Malaixia…
- Nguồn vốn của công ty phục vụ cho kinh doanh tuy đã được cải thiện song vẫn
còn hạn chế. Vốn chủ sở hữu của công ty chỉ hơn 150 tỷ đồng trong khi đó nhu cầu vốn
cho kinh doanh hàng năm lên tới hàng vài trăm tỷ đồng, do đó công ty phải vay vốn từ
các nguồn như ngân hàng hay từ các công ty khác. hàng năm chi phí vốn vay của công
ty là tương đối lớn, trong khi lãi suất vốn vay hiện nay là tương đối cao, điều này cũng
ảnh hưởng lớn tới lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh của công ty.
* Nguyên nhân khách quan
Bên cạnh các nguyên nhân chủ quan thì các nguyên nhân khách quan cũng ảnh
hưởng không nhỏ tới hiệu quả kinh doanh của công ty.
- Cùng với quá trình hội nhập công ty gặp phải sự
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu tại công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I.pdf