Tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát trong việc thực thi chính sách tiền tệ ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào: LUẬN VĂN:
Một số giải pháp nhằm kiểm soát lạm
phát trong việc thực thi chính sách tiền
tệ ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lạm phát là bạn đồng hành của nền kinh tế thị trường. Trong thời đại ngày nay,
lạm phát là vấn đề trung tâm và nhạy cảm hàng đầu của đời sống kinh tế - xã hội ở các
quốc gia. Với tư cách là tổng hòa của các chính sách kinh tế - xã hội vĩ mô, lạm phát đã
có những tác động trực tiếp hay gián tiếp, nhanh hay chậm tích cực hoặc tiêu cực, ở mức độ
này hay mức độ khác... đến toàn bộ các lĩnh vực và khía cạnh hoạt động của Chính phủ,
doanh nghiệp, cá nhân, đến các quan hệ kinh tế đối ngoại và đối nội của quốc gia và tác
động đến tình hình kinh tế khu vực và thế giới với mức độ tùy theo vị thế kinh tế chính trị
mà nước đó đã đảm nhận trong khu vực và thế giới. Thực tiễn cho thấy lạm phát trên thế
giới luôn biến động không ngừng cùng với nhiều đặc tính mới mẻ.
Trong những năm gần đây, một số ngân hàng trung ươ...
119 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 965 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát trong việc thực thi chính sách tiền tệ ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Một số giải pháp nhằm kiểm soát lạm
phát trong việc thực thi chính sách tiền
tệ ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lạm phát là bạn đồng hành của nền kinh tế thị trường. Trong thời đại ngày nay,
lạm phát là vấn đề trung tâm và nhạy cảm hàng đầu của đời sống kinh tế - xã hội ở các
quốc gia. Với tư cách là tổng hòa của các chính sách kinh tế - xã hội vĩ mô, lạm phát đã
có những tác động trực tiếp hay gián tiếp, nhanh hay chậm tích cực hoặc tiêu cực, ở mức độ
này hay mức độ khác... đến toàn bộ các lĩnh vực và khía cạnh hoạt động của Chính phủ,
doanh nghiệp, cá nhân, đến các quan hệ kinh tế đối ngoại và đối nội của quốc gia và tác
động đến tình hình kinh tế khu vực và thế giới với mức độ tùy theo vị thế kinh tế chính trị
mà nước đó đã đảm nhận trong khu vực và thế giới. Thực tiễn cho thấy lạm phát trên thế
giới luôn biến động không ngừng cùng với nhiều đặc tính mới mẻ.
Trong những năm gần đây, một số ngân hàng trung ương các nước đã quyết
định chuyển hướng chính sách tiền tệ sang thực hiện chính sách lượng hóa mục tiêu lạm
phát. Kết quả nhiều công trình nghiên cứu cho thấy, những quốc gia áp dụng chính sách
mục tiêu lạm phát đã rất thành công trong việc duy trì tỷ lệ lạm phát thấp trong dài hạn,
kinh tế tăng trưởng ổn định và tỷ lệ thất nghiệp giảm.
Ngoài ra, các công trình nghiên cứu thực nghiệm cũng chỉ ra những lợi ích tiếp
theo từ việc thực thi chính sách mục tiêu lạm phát, bao gồm: làm tăng rõ ràng, minh
bạch công khai của chính sách tiền tệ; làm tăng trách nhiệm của NHTW; giúp công
chúng hiểu được chính sách tiền tệ một cách đơn giản, dễ dàng và hiệu quả; cải thiện
được môi trường tăng trưởng kinh tế ổn định; và nâng cấp phúc lợi xã hội.
Để đạt được các mục tiêu ổn định giá cả lâu dài, cho đến nay các NHTW đã sử
dụng các chính sách tiền tệ khác nhau như: Chính sách tiền tệ dựa vào tỷ giá cố định,
chính sách tiền tệ dựa vào khối lượng tiền cung ứng; Chính sách tiền tệ dựa vào GDP
danh nghĩa, và hiện nay, chính sách tiền tệ có xu hướng dựa vào lượng hóa mục tiêu
lạm phát.
Việc thiết lập chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát (NHTW sẽ
điều tiết nền kinh tế sao cho lạm phát chỉ ở mức độ nào đấy và từ đó sẽ lan tỏa đến mục
tiêu khác như tăng trưởng ổn định và tỷ lệ thất nghiệp giảm) điều này có nghĩa là lạm
phát là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc thiết lập chính sách tiền tệ.
Từ sau khi nền kinh tế Lào chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ
mô của Nhà nước mà hoạt động của hệ thống ngân hàng nhà nước được coi là khâu "đột
phá khẩu", thì hệ thống NHNN Lào đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc thực thi
mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ, kiềm chế, kiểm soát lạm phát (năm 1998 tỷ lệ lạm
phát là 90%, năm 1999: 128,38%, 2000: 23%, năm 2001: 7,81%, năm 2004: 10,46% và
đến tháng 6/2005 là 5,35%). Đi đôi với những thành công đã nói trên, hoạt động kiềm
chế, kiểm soát lạm phát còn một số hạn chế về mặt chủ quan và mặt khách quan. Hiện
tượng lạm phát diễn ra rất phức tạp trong năm 2002, tăng lên 10,63% và đến năm 2003
lại tăng lên 15,49% và cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế của Lào, đặc biệt
trong lĩnh vực tài chính tiền tệ.
Là một chính sách mới, nên chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát đang được các
nhà quản lý ngân hàng, các nhà kinh tế nghiên cứu, đánh giá và rút ra bài học kinh nghiệm
thông qua thực tế của các nước đang áp dụng chính sách này.
ở CHDCND Lào hiện nay vấn đề này còn khá mới mẻ và phức tạp, chính vì vậy
tôi đã lựa chọn đề tài: "Một số giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát trong việc thực thi
chính sách tiền tệ ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào" làm luận văn thạc sĩ kinh tế,
chuyên ngành: Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay, nền kinh tế không chỉ chịu ảnh
hưởng của các yếu tố bên trong mà còn chịu tác động mạnh mẽ bởi những yếu tố bên
ngoài. Đến nay, trên thế giới đã rất nhiều lý thuyết, nhiều cuốn sách, nhiều bài báo và
rất nhiều cuộc hội thảo quốc gia và quốc tế đã nghiên cứu vấn đề này.
Một số công trình đã nghiên cứu về chính sách mục tiêu lạm phát đối với các
quốc gia: Kinh tế học, sách tham khảo tập II của Paul a Samuelson Wiliamd. Nordhalls;
Lý thuyết lạm phát giảm phát và thực tiễn ở Việt Nam (sách tham khảo) của PTS.
Nguyễn Minh Phong, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Lạm phát hành trình và giải
pháp chống lạm phát ở Việt Nam của Lê Quốc Lý, Nxb Tài chính, Hà Nội, 2005; Lạm
phát mục tiêu: Kinh nghiệm thế giới và giải pháp cho Việt Nam của Phi Trọng Hiển, Tạp
chí Nghiên cứu kinh tế, số 323/2005; Chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát một cách
tiếp cận trong việc điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam của Đỗ Thị Đức Minh,
Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Hà Nội, 2005...
Với nội dung của các công trình nghiên cứu nói trên thì lĩnh vực nghiên cứu và đối
tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề bức xúc đối với CHDCND Lào hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Dựa trên lý thuyết chung của các nhà kinh tế học, đặc biệt trong lĩnh vực tài
chính ngân hàng và những bài học kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về vấn đề
kiểm soát lạm phát trong việc thực thi chính sách tiền tệ. Trên cơ sở đó, đối với
CHDCND Lào để làm rõ một số giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát trong việc thực thi
chính sách tiền tệ trong thời gian qua, rút ra được những nguyên nhân cơ bản của lạm
phát, có được những bài học kinh nghiệm để từ đó đưa ra các giải pháp hữu hiệu nhất
trong việc thực thi chính sách tiền tệ tại CHDCND Lào góp phần ổn định chính sách
tiền tệ và phát triển nền kinh tế của đất nước một cách bền vững.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ các lý thuyết về lạm phát và chính sách tiền tệ.
- Nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách này ở một số nước để rút ra bài học
cho CHDCND Lào.
- Phân tích thực trạng điều hành chính sách tiền tệ của CHDCND Lào, từng giai
đoạn, đề xuất những giải pháp nhằm thực hiện chính sách kiểm soát lạm phát.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Những vấn đề chung về CSTT với mục tiêu kiểm soát lạm phát, tình hình thực
hiện của mục tiêu này ở một số nước và thực trạng điều hành CSTT của CHDCND Lào
từ 1994 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và dựa
trên đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước làm cơ sở phương pháp luận. Các phương
pháp được sử dụng trong việc nghiên cứu đề tài bao gồm: phương pháp thống kê và miêu
tả, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh...
6. Đóng góp của luận văn
- Phân tích thực trạng thực thi CSTT nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát trong
năm qua, rút ra được thành công và hạn chế.
- Đưa ra các giải pháp chủ yếu, kiến nghị cụ thể có tính xây dựng nhằm năng cao
hiệu quả cao trong việc điều hành CSTT nói chung, mục tiêu kiểm soát lạm phát nói
riêng ở CHDCND Lào.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
Chương 1
Lạm Phát và chính sách tiền tệ
với mục tiêu kiểm soát lạm phát
1.1. Những vấn đề cơ bản về lạm phát
Lạm phát là một hiện tượng kinh tế đi liền với nền kinh tế thị trường. Có những
nhà kinh tế đi tìm một định nghĩa đúng cho thuật ngữ này, nhưng nói chung, chưa có sự
thống nhất hoàn toàn. Trong khi đó lạm phát luôn diễn ra và tác động đến nhiều mặt đối
với nền kinh tế các nước phát triển và đang phát triển, các nước từ lâu đã theo mô hình
của nền kinh tế thị trường và cả các nước đang có quá trình chuyển đổi. Không chỉ dừng
lại ở việc không thống nhất được với nhau một định nghĩa đúng về lạm phát mà còn
không thống nhất được với nhau những tác động do lạm phát mang lại.
Chính vì thế, cần thiết phải nhìn nhận vấn đề một cách có hệ thống hơn để từ đó
có những chính sách và giải pháp phù hợp ứng với những đổi thay đã và đang diễn ra
trong đời sống kinh tế
1.1.1. Khái niệm lạm phát
Lạm phát đã được đề cập đến rất nhiều trong các công trình nghiên cứu của các
nhà kinh tế. Trong mỗi công trình của mình, các nhà kinh tế đã đưa ra khái niệm về lạm
phát. Karl Marx cho rằng: "Lạm phát là sự phát hành tiền mặt quá mức cần thiết" [3, tr.
365]. Vào thập niên 1960, Milton Friedman khẳng định lại rằng: "Lạm phát bao giờ và ở
đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ" [15, tr. 800]. Theo thuyết trọng tiền (monetarism) - một
trường phái lớn về khoa kinh tế vĩ mô cho rằng, cần phải chú ý đến tổng mức chi tiêu của
xã hội và việc cung ứng tiền cho chi tiêu đó. Thuyết trọng tiền cho tiền tệ là trung tâm của
nền kinh tế, và việc cung tiền là nhân tố quyết định những sự vận động của tổng sản phẩm
quốc dân danh nghĩa trong ngắn hạn và nó là nhân tố quyết định đến giá cả trong dài hạn.
Thực ra, không nhất thiết bắt nguồn từ nguyên nhân là tiền tệ, tức là tăng lượng tiền cung
ứng quá mức đối với nền kinh tế. Nhiều cuộc lạm phát diễn ra lại bắt nguồn từ giá hoặc
xuất phát từ sự suy giảm trong tổng cung của chính nền kinh tế đó. R.Dornbusch và Fischer
cho rằng: "Lạm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế tăng lên trong một thời
gian nhất định" [47, tr. 587-588].
Nhìn chung, có hai cách tiếp cận: Một là, từ nguyên nhân; hai là, từ những ảnh
hưởng của nó.
Theo cách tiếp cận thứ nhất, "lạm phát là quá nhiều tiền đi săn quá ít hàng"
hoặc "lạm phát là khi tiền lương danh nghĩa tăng nhanh hơn năng suất lao động". Các
định nghĩa này thực chất chỉ là đưa ra các cách giải thích khác nhau về nguyên nhân của
lạm phát mà không phải là định nghĩa về lạm phát theo đúng nghĩa của nó.
Theo cách tiếp cận thứ hai, lạm phát là mức giá cả chung tăng lên. Tuy nhiên,
sự tăng giá mới chỉ phản ánh hình thức biểu hiện của lạm phát, còn bản chất của nó
được thể hiện ở tính chất của sự tăng giá là giá tăng cao kéo dài hay chỉ tạm thời?
Tóm lại, lạm phát là sự gia tăng phổ biến và với thời gian dài tổng mức giá cả
được đo bằng chỉ số giá của nhóm hàng hóa và dịch vụ cơ bản (rổ hàng hóa). Sự gia
tăng liên tục của giá cả làm suy yếu sức mua của đồng tiền và các tài sản tài chính khác
có giá trị cố định, gây ra những méo mó nghiêm trọng và tạo ra tình trạng không chắc
chắn trong môi trường kinh tế vĩ mô và vi mô.
1.1.2. Phân loại lạm phát
Có nhiều cách phân loại lạm phát dựa trên các tiêu thức khác nhau:
- Phân loại theo định lượng: Dựa trên độ lớn nhỏ của tỷ lệ phần trăm lạm phát
tính theo năm, trong đó có: (1) Lạm phát một con số hay gọi là lạm phát vừa phải. Loại
lạm phát này xảy ra khi giá cả tăng chậm và tỷ lệ lạm phát dưới 10%/ 1 năm và nền kinh
tế chấp nhận được với mức lạm phát này. (2) Lạm phát hai con số thể hiện khi tỷ lệ tăng
giá đã tăng đến hai con số mỗi năm. Nếu ở mức thấp của loại lạm phát này (> 10% mỗi
năm), tác động tiêu cực của nó đến nền kinh tế không lớn. Nhưng khi tỷ lệ tăng giá ở
mức hai con số cao lạm phát này gây tác hại nghiêm trọng trong nền kinh tế. (3) Lạm
phát phi mã và siêu lạm phát là loại lạm phát ba con số trở lên với tốc độ nhanh. Tác
động tiêu cực đến đời sống và tính ổn định của nền kinh tế.
- Phân loại theo định tính: (1) Lạm phát cân bằng và không cân bằng (cân bằng
ở đây là cân bằng với thu nhập), trên thực tế, lạm phát không cân bằng hay xảy ra. (2)
Lạm phát thuần túy là trường hợp đặc biệt khi giá cả hàng hóa tiêu dùng và hàng hóa
sản xuất đều tăng lên gần như cùng một tỷ lệ trong cùng một đơn vị thời gian, lúc này
nhu cầu cần tiền thực tế tăng cùng chiều và khá tương đương với cung ứng tiền thực tế.
(3) Lạm phát bất thường xảy ra có tính đột biến, loại lạm phát này gây ra những cú sốc
nền kinh tế và sự thiếu tin tưởng của người dân vào chính quyền. (4) Lạm phát dự đoán
trước là việc người ta nhìn thấy trước về lạm phát và tin rằng nó sẽ xảy ra bởi các
nguyên nhân của nó đã lộ diện.
Ngoài ra, căn cứ vào mức độ biểu hiện giá cả trên thị trường có lạm phát ngầm,
lạm phát công khai; căn cứ vào phạm vi ảnh hưởng về mặt không gian: có lạm phát
quốc gia và thế giới; căn cứ vào tính lịch sử, có lạm phát cổ điển gắn với xung đột chiến
tranh và lạm phát hiện đại gắn liền với hòa bình.
1.1.3. Đo lường lạm phát
Thông thường, lạm phát được tính toán gắn liền với tốc độ thay đổi của mức giá
cả một "rổ" hàng hóa và dịch vụ được lựa chọn nào đó, tùy thuộc đặc điểm và cách thức
riêng của mỗi nước cụ thể.
Để đo lường lạm phát, người ta phải so sánh giá cả giữa hai thời điểm khác
nhau t0 và t1. Tuy nhiên, trong một nền kinh tế có nhiều loại hàng hóa nên trong khoảng
thời gian t0 - t1 mỗi loại hàng hóa có mức tăng giá (Pt1 - Pt0) khác nhau. Do vậy, để tính
được tỷ lệ lạm phát chung cho nền kinh tế, người ta phải lấy chỉ số giá cả bình quân của
cả nước làm chuẩn, có ba loại chỉ số giá cả bình quân được sử dụng là:
Giá cả hàng tiêu dùng (CPI - Consumer price index): Chỉ số CPI được sử dụng
rộng rãi nhất. CPI tính chi phí của một rổ hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ trên thị trường
các nhóm chính đó là hàng lương thực, thực phẩm, quần áo, nhà cửa, chất đốt, vật tư, y
tế.
Giá cả hàng sản xuất bình quân (PPI - Producer price index): Đây là chỉ số giá
bán buôn. PPI được xây dựng để tính giá cả trong lần bán đầu tiên do người sản xuất ấn
định. Chỉ số này rất có ích vì nó được tính chi tiết sát với những thay đổi của thực tế.
Giá cả bán lẻ bình quân (RPI - Retail price index): Cuối cùng, lạm phát thường
được đo bằng chỉ số (%), tức là tỷ lệ lạm phát (%) giữa hai thời điểm t0 và t1 là bằng
mức tăng giá cả hàng hóa bình quân giữa hai thời điểm, chia cho giá ban đầu và nhân
với tỷ lệ %:
Tỷ lệ lạm phát (t0 và t1)
0
01
Pt
PtPt
1.1.4. Nguyên nhân của lạm phát
Lạm phát là kết quả của tổng hòa nhiều nguyên nhân kinh tế - xã hội; mỗi loại
lạm phát có những nguyên nhân đặc trưng riêng của nó tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế -
xã hội và cách quản lý kinh tế của từng quốc gia. Tuy nhiên, dù đa dạng và khác nhau
đến đâu đều có thể quy tụ được những nguyên nhân của lạm phát:
* Cung tiền tệ và lạm phát:
Theo trường phái tiền tệ: M. Friedman cho rằng: "Lạm phát bao giờ và ở đâu
cũng là một hiện tượng tiền tệ". Theo quan điểm của trường phái này, khi cung tiền
tệ tăng lên, kéo dài sẽ làm cho giá cả tăng kéo dài và gây ra lạm phát.
Chúng ta có thể sử dụng mô hình AD- AS để giải thích quan điểm của trường
phái tiền tệ.
P
P3
P
P
AS3
AS2
AS1
AD3
AD2
AD1
3
2
'
1
2
1
Hình 1.1: Mô hình AD, AS để giải thích quan điểm trường phái tiền tệ
Ban đầu, nền kinh tế ở điểm 1, với sản lượng tại mức tiềm năng và giá cả tại
P1- giao điểm của đường tổng cầu AD1 và đường tổng cung AS1. Nếu cung tiền tăng
đều đặn dần dần trong suốt cả năm, thì đường tổng cầu di chuyển sang phải đến AD2.
Trong một thời gian rất ngắn, nền kinh tế có thể chuyển động sản lượng có thể tăng cao
hơn mức tiềm năng, nhưng kết quả giảm thất nghiệp xuống dưới mức tỷ lệ tự nhiên sẽ
làm cho tiền lương tăng lên và đường tổng cung sẽ nhanh chóng dịch chuyển vào trong
và sự dịch chuyển ấy sẽ dừng khi nào đạt đến AS2, sản lượng quay trở lại mức tiềm
năng của đường tổng cung dài hạn. Tại thời điểm cân bằng mới thì P2 cao hơn P1. Nếu
cung tiền tiếp tục tăng trong những năm tiếp theo thì nền kinh tế lại chuyển động và lạm
phát xuất hiện. Tóm lại, trường phái tiền tệ cho rằng lạm phát nhanh có thể do sự tăng
cao của cung tiền tệ thúc đẩy.
Theo trường phái của Keynes, việc tăng chi tiêu của Chính phủ hoặc cắt giảm
thuế cũng làm tăng tổng cầu, do đó đẩy giá cả lên cao. Nhưng những vấn đề của chính
sách tài khóa lại có giới hạn của nó, vì vậy việc tăng lên của tỷ lệ lạm phát trong trường
hợp này chỉ là tạm thời. Một phân tích khác của phía Keynes về tác động của những cú
sốc tiêu cực lên tổng cung cũng sẽ làm giá cả tăng lên. Nhưng, nếu cung tiền tệ không
tiếp tục tăng lên để tác động lên tổng cầu thì đến một lúc nào đó, tổng cung lại quay trở
lại vị trí ban đầu, do vậy sự tăng giá trong trường hợp này cũng chỉ là một hiện tượng
nhất thời.
Với những phân tích như vậy, quan điểm của phía Keynes và phía tiền tệ tương
đối thống nhất nhau. Họ đều tin rằng: lạm phát cao chỉ xảy ra với một tỷ lệ tăng trưởng
tiền tệ cao.
* Công ăn việc làm cao và lạm phát
Một mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng mà đa số Chính phủ các nước theo đuổi
cũng thường gây nên lạm phát đó là tạo việc làm cho người lao động. Trong đó có hai
loại: lạm phát chi phí đẩy và lạm phát cầu kéo, được các nhà kinh tế học kết luận là kết
quả của chính sách này.
- Lạm phát do chi phí đẩy: Ngay cả khi sản lượng chưa đạt được đến tiềm năng
nhưng vẫn có khả năng xảy ra lạm phát và trên thực tế đã xảy ra ở nhiều nước. Loại lạm
phát này được gọi là lạm phát chi phí đẩy, vừa lạm phát vừa suy giảm sản lượng, tăng
thêm thất nghiệp. Các cơn sốc giá cả của thị trường đầu vào đặc biệt là vật tư thiết bị cơ
bản(xăng, dầu, điện....) là nguyên nhân chủ yếu khiến đường AS dịch chuyển lên trên.
Tổng cầu không thay đổi nhưng giá cả đã tăng và sản lượng lại giảm xuống.
- Lạm phát do cầu kéo: Lạm phát do cầu kéo thực chất là do sự mất cân đối về
cung-cầu hàng hóa dịch vụ trong đó cầu có khả năng thanh toán lớn hơn so với cung
hàng hóa hoặc tốc độ gia tăng tổng phương tiện thanh toán lớn hơn tốc độ gia tăng của
sản xuất. Kết quả là trên thị trường hàng hóa khan hiếm tương đối so với tiền, đồng thời
do cả hai nhóm nguyên nhân hàng và tiền. Nền sản xuất lạc hậu, kém phát triển, năng
suất lao động thấp, năng lực sản xuất đã hầu như đạt tới giá trị sản lượng tiềm năng
trong điều kiện trình độ hiện tại nhưng tiền vẫn được bơm ra quá sức hấp thụ thông qua
các van: Chi ngân sách quá lớn so với nguồn thu, mở quá rộng biên độ của hạn mức tín
dụng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc quá nhỏ, lãi suất tái cấp vốn quá thấp, hệ thống thị trường
vốn vừa thiếu, vừa không hoàn hảo trong khi ngoại tệ tràn vào nhiều càng tạo thành
những "hợp lực" kích cầu lên cao hơn so với cung...
* Lạm phát theo tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái liên quan chặt chẽ tới giá cả hàng hóa xuất nhập khẩu. Tỷ giá
giữa tiền nội địa và tiền nước ngoài càng lên (tiền trong nước mất giá) thì hàng hóa càng
lên giá. Và đến lượt mình, giá hàng hóa kéo tỷ giá lên nhanh hơn, gây ra tình trạng lạm
phát. suy cho cùng, mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá có thể quy về sự gia tăng của
cung ứng tiền. Tuy nhiên, các nhà kinh tế đều đồng thuận với nhau rằng có yếu tố tâm
lý trong khuynh hướng kéo hàng hóa lên theo tỷ giá trong khi lạm phát đã hình thành và
khuynh hướng này rất phổ biến trong khu vực xuất nhập khẩu [26, tr. 59].
* Thâm hụt ngân sách và lạm phát
Thâm hụt ngân sách cũng có thể là một nguyên nhân dẫn đến tăng cung ứng
tiền tệ và gây ra lạm phát cao.
Khi nhu cầu tiền của Chính phủ cho chi tiêu bị thiếu hụt, Chính phủ chủ trương
phát hành thêm tiền vào lưu thông để bù đắp cho các chi phí bị thiếu hụt. Khi vốn đầu
tư và chi tiêu của Chính phủ được bù đắp bằng cách phát hành thêm tiền, kể cả việc
tăng thuế, thì nó sẽ đẩy nền kinh tế đi vào thế mất cân đối, vượt quá sản lượng tiềm
năng của nó. Khi tổng cầu của nền kinh tế vượt quá khả năng sản xuất của nền kinh tế,
cầu tiền vượt quá lượng cung hàng hóa dẫn đến lạm phát, giá cả hàng hóa tăng lên
nhanh chóng.
Hàng hóa bị săn đuổi bởi lượng chi tiêu quá lớn. Như vậy, bản chất của lạm
phát đó do nguyên nhân cầu là do chi tiêu quá nhiều, trong lúc lượng cung hàng hóa bị
hạn chế.
Trong mọi trường hợp, tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước cao, kéo dài sẽ
là nguồn gốc tăng cung ứng tiền và gây ra lạm phát.
1.1.5. Các tác động của lạm phát
Lạm phát tác động trực tiếp đến nền kinh tế, làm thay đổi mức độ và hình thức sản
lượng, đồng thời tạo ra sự phân phối lại thu nhập và của cải xã hội. Hơn nữa, lạm phát tác
động đến nền kinh tế theo cả hai hướng tiêu cực và tích cực.
* Về mặt tích cực:
Với tốc độ lạm phát vừa phải (thường là từ 2% đến dưới 5 %/năm ở những
nước phát triển và dưới 10%/năm ở những nước kém phát triển), với việc chỉ số hóa lạm
phát cùng các kỹ thuật thích ứng khác, người ta nhận thấy lạm phát có thể đem lại một
số lợi ích, lạm phát như dầu mỡ "bôi trơn" nền kinh tế. Trong điều kiện nào đó, có thể
thông qua lạm phát từ 2-4%/năm để bỏ ngỏ khả năng có những lãi suất thực âm, có tác
dụng kích thích tiêu dùng, vay nợ và đầu tư, do đó giảm bớt thất nghiệp, kích thích tăng
trưởng kinh tế. Ngoài ra, lạm phát cho phép Chính phủ có thêm khả năng lựa chọn các
công cụ kích thích đầu tư vào những lĩnh vực kém ưu tiên thông qua mở rộng tín dụng
và tài trợ lạm phát. Giúp phân phối lại thu nhập và các nguồn lực xã hội theo các định
hướng mục tiêu và trong khoảng thời gian nhất định có chọn lọc.
* Về mặt tiêu cực:
- Lạm phát làm thay đổi lãi suất nhưng lãi suất là một chỉ số làm thay đổi kinh
tế vĩ mô cơ bản tác động đến thu nhập, tiêu dùng và đầu tư. Do vậy, thông qua lãi suất,
lạm phát tác động đến nhiều khía cạnh của đời sống kinh tế. Ví dụ: Đối với ngành ngân
hàng, để hoạt động vững vàng thì lãi suất thực tế phải ổn định mà lãi suất thực tế = lãi
suất danh nghĩa- tỷ lệ lạm phát. Để lãi suất thực tế không đổi, thì lãi suất danh nghĩa
phải tăng cùng tỷ lệ lạm phát. Khi hệ thống ngân hàng và tài chính tăng lãi suất danh
nghĩa thì nền kinh tế sẽ gặp khó khăn, thất nghiệp gia tăng, nhu cầu đầu tư giảm v.v...
- Lạm phát làm giảm thu nhập thực tế: Trong trường hợp thu nhập danh nghĩa
không đổi, lạm phát xảy ra sẽ làm giảm thu nhập thực tế.
- Lạm phát làm cho giá trị của tiền tệ không còn ổn định và không giữ được
chức năng thước đo giá trị. Xã hội gặp khó khăn trong việc tính toán tính hiệu quả, điều
chỉnh các hoạt động kinh doanh của mình.
- Lạm phát khiến cho việc phân phối thu nhập không bình đẳng: Trong quan hệ
kinh tế giữa người đi vay và người cho vay, khi lạm phát tăng cao, người cho vay chịu
thiệt và người đi vay sẽ được lợi, đã tạo nên sự phân phối thu nhập không bình đẳng
giữa người đi vay và người cho vay. Ngoài ra, một số người nắm giữ các hàng hóa có
giá cả tăng đột biến sẽ giàu lên, còn những người có hàng hóa mà giá không tăng hoặc
tăng ít hoặc người giữ tiền sẽ bị nghèo đi.
- Lạm phát tăng nguy cơ phá sản do vỡ nợ và làm tăng chi phí dịch vụ nợ nước
ngoài tính bằng ngoại tệ của cả các doanh nghiệp lẫn Chính phủ, do lạm phát thường
kéo theo việc điều chỉnh nâng tỷ giá và lãi suất đồng bản tệ với tư cách là các giải pháp
nhằm thích nghi và kiềm chế lạm phát (đồng thời, có trường hợp chính sự điều chỉnh
phá giá bản tệ là nguồn gốc trực tiếp làm gia tăng lạm phát do áp lực chi phí đẩy đối với
hàng hóa, vật tư nhập ngoại và tăng cầu đối với sản phẩm nội địa, sự tương tác qua lại
giữa chúng nếu vượt khả năng kiểm soát của Chính phủ, sẽ tạo ra vòng xoáy bất tận:
phá giá - lạm phát - phá giá... tàn phá nền kinh tế và đời sống kinh tế - xã hội của quốc
gia).
- Lạm phát còn làm cho môi trường kinh doanh trong nước xấu đi, khiến dòng
đầu tư nước ngoài vào chậm, thậm chí suy giảm, đi đôi với sự ra đi của dòng vốn trong
nước. Lạm phát kéo theo giá cả hàng nhập khẩu trở nên đắt đỏ hơn, hạn chế việc nhập
những hàng hóa, vật tư cần thiết. Lạm phát cao luôn gắn với thâm hụt tài chính và làm
thâm hụt đó trở nên nặng nề hơn, nhất là thâm hụt ngân sách.
1.2. Chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát
ở bất cứ một quốc gia nào có nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường, để
đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế vĩ mô đều phải sử dụng các công cụ chính sách
kinh tế vĩ mô như chính sách tài chính, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối
ngoại và chính sách tiền tệ; thông qua việc sử dụng, điều hành các công cụ này để tác
động đến các mục tiêu như tăng trưởng, lạm phát, dấu cách việc làm... Làm như vậy,
CSTT đóng vai trò là một bộ phận quan trọng và không thể thiếu trong hệ thống chính
sách kinh tế vĩ mô cũng như trong quá trình điều hành vĩ mô của Nhà nước.
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô mà trong đó
NHTW, thông qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm soát và điều tiết khối
lượng tiền cung ứng (hoặc lãi suất) căn cứ vào nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế, nhằm đạt
được các mục tiêu về giá cả, công ăn việc làm và tăng trưởng kinh tế trong một thời kỳ
nhất định.
Đối với những nước mà NHTW trực thuộc Chính phủ thì CSTT mà NHTW
thực hiện là CSTT quốc gia. Tùy vào tình hình kinh tế - xã hội trong khoảng thời gian
CSTT quốc gia được hoạch định theo chính sách tiền tệ mở rộng hay chính sách tiền tệ
thắt chặt.
1.2.1. Các mục tiêu của chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là một bộ phận trong tổng thể các chính sách kinh tế nhưng
CSTT cũng có mục tiêu, có tính chất riêng khi hướng tới mục tiêu chung. Tùy từng
quốc gia và từng giai đoạn khác nhau, CSTT có thể có mục tiêu khác nhau. Mặc dù mục
tiêu cụ thể của CSTT của các nước có khác nhau nhưng cơ bản giống nhau ở chỗ đều
hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền, tạo việc làm cho người
lao động.
1.2.1.1. Mục tiêu hoạt động
Mục tiêu hoạt động là chỉ tiêu được NHTW lựa chọn để sao cho khi sử dụng
các công cụ điều tiết sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu trung gian. Trong đó tiêu chuẩn được
lựa chọn phải đảm bảo: (1) Tính định lượng (thấy rõ được mức độ và tính nhạy cảm
trong tác động của môi trường hoạt động tới mục tiêu cuối cùng); (2) Tính nhạy cảm với
biến động của CSTT (mục tiêu hoạt động chịu ảnh hưởng đầu tiên về những thay đổi
trong CSTT và nó phản ánh lập tức kết quả mà thay đổi đó đem lại; (3) Có mối quan hệ
chặt chẽ và ổn định bởi mục tiêu trung gian được coi như mục tiêu của mục tiêu hoạt
động, vì thế mục tiêu hoạt động phải có ảnh hưởng nhanh nhạy và hiệu quả đến mục
tiêu trung gian.
Căn cứ vào tiêu chuẩn trên các chỉ tiêu thường được lựa chọn làm mục tiêu hoạt
động của NHTW bao gồm: lãi suất liên ngân hàng, dự trữ không vay, dự trữ đi vay.
1.2.1.2. Mục tiêu trung gian
Mục tiêu trung gian thực chất chỉ là phương tiện giúp cho NHTW đạt được các
mục tiêu cuối cùng.
Mục tiêu trung gian của CSTT bao gồm: Mức cung tiền tệ (M1, M2, M3), lãi suất
thị trường ngắn hạn, trung và dài hạn, tỷ giá, khối lượng tín dụng.Tuy nhiên, hiện nay
các nước thường sử dụng mức cung tiền tệ hay lãi suất thị trường làm mục tiêu trung
gian của CSTT. Trong đó, tiêu chuẩn được lựa chọn làm mục tiêu trung gian phải đảm
bảo. (1) Có thể đo lường được một cách chính xác và nhanh chóng; bởi vì, các chỉ tiêu
này chỉ có ích khi nó phản ánh được tình trạng của chính sách tiền tệ nhanh hơn mục
tiêu cuối cùng. NHTW có thể dựa vào các dấu hiệu này để điều chỉnh hướng tác động
khi cần thiết. Hiển nhiên NHTW không thể đưa ra tỷ lệ tăng trưởng M2 nếu nó không
biết hiện M2 đang tăng trưởng với tốc độ nào. Mặt khác, tính chất này cũng chỉ cho
NHTW biết nên chọn chỉ tiêu cụ thể nào trong tổng lượng tiền cung ứng. (2) Có thể
kiểm soát được: Khi NHTW có kỹ năng kiểm soát mục tiêu trung gian nó có thể điều
chỉnh mục tiêu đó cho phù hợp với định hướng của CSTT. (3) Có mối liên hệ chặt chẽ
với mục tiêu cuối cùng: Đây là tiêu chuẩn quan trọng nhất của mục tiêu trung gian, khả
năng có thể đo lường chính xác hoặc khả năng kiểm soát của NHTW sẽ trở nên vô
nghĩa nếu các chỉ tiêu được lựa chọn không ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng và giá
cả.
Việc lựa chọn lãi suất hay lượng tiền cung ứng làm mục tiêu trung gian của
CSTT tùy thuộc vào mức độ biến động tương đối của nhu cầu tiền tệ so với nhu cầu
hàng hóa được phản ánh thông qua sự biến động tương đối của đường IS so với LM
trong mô hình IS-LM. Khi đường IS biến động mạnh hơn đường LM thì tổng lượng tiền
cung ứng thích hợp với vai trò này hơn và khi đường LM biến động mạnh hơn đường IS
thì việc lựa chọn lãi suất làm mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ thích hợp hơn.
Ngoài hai mục tiêu nói trên còn có một số các chỉ tiêu khác thể hiện vai trò mục
tiêu trung gian như tổng khối lượng tín dụng, tỷ giá. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của
các chỉ tiêu này là mối quan hệ của chúng với các mục tiêu cuối cùng rất phức tạp và
không rõ ràng. Vì thế, ít khi nó được sử dụng làm mục tiêu độc lập, mà thường có thể
được sử dụng cùng với các mục tiêu khác như tổng lượng tiền cung ứng hoặc lãi suất.
1.2.1.3. Mục tiêu cuối cùng
Mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ hầu như thống nhất ở các nước: Sự
điều chỉnh lượng tiền cung ứng nhằm đạt mục tiêu trước hết là ổn định giá trị tiền tệ; từ
đó góp phần tăng trưởng kinh tế; tạo việc làm. Tùy thuộc vào điều kiện, tình hình kinh
tế ở mỗi nước trong từng thời kỳ mà NHTW đưa ra số lượng các mục tiêu khác nhau
cho CSTT.
+ ổn định sức mua tiền tệ: ổn định sức mua tiền tệ, thể hiện qua việc kiểm soát
lạm phát và ổn định tỷ giá hối đoái.
* ổn định giá trị đối nội của đồng tiền: Các nhà kinh tế đã cho rằng, lạm phát là
căn bệnh kinh niên của nền sản xuất hàng hóa, nhất là đối với nền kinh tế thị trường, vì
vậy kiểm soát và duy trì một mức giá cả ổn định và lạm phát ở mức có thể chấp nhận
được là một mục tiêu được đặt ra của CSTT.
Khi lạm phát gia tăng sẽ tác động đến mọi mặt hoạt động của nền kinh tế - xã
hội, làm sai lệch các chỉ tiêu kinh tế, ảnh hưởng đến phân phối lại, tác động tới tâm lý
đầu cơ cất trữ, bất động sản, vàng bạc, ngoại tệ, các tài sản có giá trị cao... gây ra tình
trạng khan hiếm hàng hóa giả tạo; giảm sức mua thực tế của đồng tiền. Từ đó, đời sống
của người lao động sẽ khó khăn; gây khó khăn cho hoạt động của hệ thống tài chính,
trong đó ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của ngân hàng.
* ổn định giá trị đối ngoại của tiền tệ: Trong điều kiện nền kinh tế thị trường
phát triển ở mức độ cao, một quốc gia muốn phát triển kinh tế thì không chỉ có các yếu
tố trong nước mà còn lệ thuộc vào xu thế phát triển của nền kinh tế quốc tế. Do vậy, xu
hướng phát triển nền kinh tế mở đã mang tính phổ biến trong thời đại ngày nay; khi đó
hệ thống tài chính tiền tệ của mỗi nước hội nhập vào tài chính quốc tế với tốc độ cao.
Tác động của hệ thống tài chính quốc gia vượt ra khỏi ranh giới quốc gia để tác động
đến hoạt động của các nền kinh tế khác. Sự tác động này nhiều hay ít phụ thuộc vào nền
kinh tế nước đó "mở" nhiều hay ít. Một sự biến động của tỷ giá sẽ tác động đến hoạt
động kinh tế trong nước, thể hiện trực tiếp và mạnh mẽ ở hoạt động xuất khẩu.
Như vậy, việc ổn định tỷ giá hối đoái là một mục tiêu quan trọng của CSTT, vì
khi có thay đổi của tỷ giá hối đoái tùy theo mức độ, có thể làm gia tăng hay giảm lạm
phát của nền kinh tế nước đó.
Việc ổn định thị trường hối đoái có nghĩa là ổn định giá trị đồng tiền nội địa so
với các đồng ngoại tệ sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp và cá nhân
trong hoạt động xuất nhập khẩu; tạo điều kiện cho nền kinh tế đất nước phát triển; thúc
đẩy quá trình hội nhập của nền kinh tế quốc tế của nước đó.
+ Góp phần tăng trưởng kinh tế: ở bất cứ quốc gia nào, phát triển đất nước đều
cần có một mức tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Một trong những yếu tố quan
trọng đến tăng trưởng kinh tế là do thay đổi khối lượng tiền trong lưu thông vì:
* Khi khối lượng tiền tăng, lãi suất thường giảm xuống, do vậy kích thích đầu
tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng GDP. Mặt khác, tăng khối lượng tiền tệ sẽ làm
tăng tổng cầu, sức mua hàng hóa trên thị trường tăng lên, hàng tồn đọng sẽ giảm đi, dẫn
đến các doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, kết quả là GDP tăng lên.
* Khi khối lượng tiền tệ giảm xuống, lãi suất có xu hướng tăng lên, vốn đầu tư
có "giá" cao hơn, đầu tư giảm xuống dẫn đến giảm GDP. Mặt khác, giảm khối lượng
tiền tệ, sẽ làm giảm tổng cầu, sức mua sẽ giảm, làm tăng lượng hàng hóa tồn đọng của
các doanh nghiệp, do đó các doanh nghiệp không có cơ hội mở rộng sản xuất, và khi đó
GDP giảm xuống.
Việc tăng giá hay giảm bớt khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân ở mỗi
thời kỳ, cần được sử dụng các công cụ CSTT phù hợp (hạn mức tín dụng, dự trữ bắt
buộc, lãi suất....) với những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể trên cơ sở vận dụng tối ưu
các qui luật phát triển kinh tế vào việc xây dựng các chính sách kinh tế; trong đó có
CSTT.
+ Góp phần tạo công ăn việc làm: CSTT phải xác lập mục tiêu: Tạo việc làm,
giảm thất nghiệp. Bởi vì, mọi của cải trong xã hội do lao động của con người tạo ra,
trong điều kiện sản xuất hàng hóa thì thất nghiệp tràn lan. Do vậy, CSTT phải quan tâm
đến khả năng tạo việc làm, giảm áp lực xã hội của thất nghiệp. Tạo việc làm có ý nghĩa
rất quan trọng là do:
- Thất nghiệp gây ra nghèo khó cho người lao động, từ đó gây ra những tệ nạn
xã hội.
- Chỉ số thất nghiệp là một trong những chỉ tiêu phản ánh khả năng sử dụng
hiệu quả nguồn lực xã hội.
- Các khoản trợ cấp thất nghiệp tăng lên làm thay đổi cơ cấu NS và là một trong
những nguyên nhân gây thâm hụt NSNN.
* Mối quan hệ giữa các mục tiêu:
Trong dài hạn các mục tiêu CSTT có liên quan chặt chẽ với nhau hỗ trợ và thúc
đẩy lẫn nhau. Vì vậy, khi thực thi CSTT không thể tuyệt đối hóa một mục tiêu nào,
không thể giải quyết các mục tiêu một cách độc lập trên tầm vĩ mô. Tuy trong ngắn hạn
có thể xảy ra sự xung đột, thậm chí triệt tiêu lẫn nhau giữa các mục tiêu.
- Việc giảm tỷ lệ thất nghiệp đồng nghĩa với việc thực hiện một chính sách tiền
tệ thắt chặt, lãi suất tăng lên làm giảm các nhân tố cấu thành tổng cầu, dẫn đến tổng cầu
của nền kinh tế giảm xuống. Thất nghiệp có xu hướng tăng lên. Mặt khác, việc duy trì
một tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn thường kéo theo chính sách tiền tệ mở rộng và sự tăng
giá.
- Mục tiêu công ăn việc làm mâu thuẫn với mục tiêu ổn định giá cả còn thể hiện
thông qua sự phản ứng của NHTW đối với các cú sốc cung nhằm đảm bảo mức cầu tiền
thực tế, kết quả là giá cả tăng lên.
- Mâu thuẫn này còn được thể hiện thông qua định hướng điều chỉnh tỷ giá;
Bằng việc hạ giá đồng bản tệ, các công nghiệp xuất khẩu có khả năng mở rộng quy mô
sản xuất. Tỷ lệ thất nghiệp vì thế giảm thấp kèm theo sự tăng lên của mức giá chung.
Như vậy, việc duy trì một mức tỷ giá ổn định và thích hợp sẽ làm giảm tỷ lệ công ăn
việc làm, trong khi một mức tỷ giá cao hơn sẽ góp phần giảm tỷ lệ lạm phát.
Thất nghiệp và tăng trưởng không có sự mâu thuẫn cả trong ngắn hạn và dài
hạn. Công ăn việc làm cao sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển và ngược lại. Tuy nhiên, mối
quan hệ giữa sự tăng trưởng và ổn định giá cả lại tương đối phức tạp; chúng mâu thuẫn
nhau trong ngắn hạn nhưng lại bổ sung cho nhau trong dài hạn.
Như vậy, trong ngắn hạn, NHTW không thể đạt được tất cả các mục tiêu trên.
Phần lớn NHTW các nước coi sự ổn định giá cả là mục tiêu chủ yếu và dài hạn của
chính sách tiền tệ, nhưng trong ngắn hạn đôi khi họ phải tạm thời từ bỏ mục tiêu chủ
yếu để khắc phục tình trạng thất nghiệp cao đột ngột hoặc các ảnh hưởng của các cú sốc
cung đối với sản lượng. NHTW theo đuổi một mục tiêu về dài hạn và đa mục tiêu trong
ngắn hạn.
+ Góp phần ổn định lãi suất: Là một mục tiêu cơ bản của CSTT, vì những biến
động của lãi suất sẽ làm cho kinh tế bấp bênh không ổn định. Lãi suất lên xuống bất
thường làm cho giá cả các loại hàng hóa cũng lên xuống bất thường. Thị trường tài
chính tiền tệ, thị trường hàng hóa và dịch vụ không ổn định và luôn biến động theo
chiều hướng không lường trước được, gây khó khăn cho việc lập các kế hoạch chi tiêu
và đầu tư trong tương lai của mọi chủ thể trong nền kinh tế. Lãi suất cao có thể tương
ứng với một nền kinh tế đang tăng trưởng và phát triển mạnh nhưng không đồng nghĩa
với một nền kinh tế phát triển bền vững, đặc biệt khi lãi suất quá cao sẽ gây ra tình trạng
siêu lạm phát. Ngược lại, lãi suất quá thấp biểu hiện một nền kinh tế trì trệ, tốc độ tăng
trưởng kinh tế thậm chí ở mức âm, tương ứng với tình trạng giảm phát. Như vậy, hậu
quả của tình trạng lãi suất quá cao hay quá thấp, lên xuống thất thường là một nền kinh
tế bất ổn. Đồng thời những biến động về lãi suất sẽ gây mất lòng tin trong công chúng
về khả năng kiểm soát hữu hiệu những công cụ và khả năng đạt được mục tiêu CSTT
của Chính phủ và NHTW.
Trên đây là một số mục tiêu vĩ mô chung mà các quốc gia trên thế giới đang
theo đuổi, tuy nhiên, một số nước còn tập trung vào các mục tiêu cụ thể, tùy thuộc vào
đặc điểm phát triển kinh tế đặc thù của mỗi quốc gia.
1.2.2. Công cụ điều hành và sự lựa chọn các giải pháp chính sách tiền tệ
Để đạt được các mục tiêu đã đề ra của CSTT, NHTW sử dụng một hệ thống
công cụ để điều tiết lượng tiền cung ứng bao gồm: tái cấp vốn, tỷ lệ dự trữ bắt buộc,
nhiệm vụ thị trường mở, lãi suất, tỷ giá hối đoái, hạn mức tín dụng... Việc sử dụng các
công cụ trên là tùy thuộc vào quan điểm, chính sách của từng quốc gia.
1.2.2.1. Công cụ trực tiếp
Công cụ trực tiếp là công cụ tác động về mặt lượng và NHTW kiểm soát công
cụ này chủ yếu bằng biện pháp hành chính. Khi NHTW sử dụng các công cụ trực tiếp
nó có tác động đến mục tiêu trung gian và từ mục tiêu trung gian tác động đến tổng cầu.
- Công cụ hạn mức tín dụng: Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW
bắt buộc NHTM phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Hạn mức tín dụng thường được sử dụng trong trường hợp nền kinh tế có lạm
phát cao nhằm khống chế trực tiếp và ngay lập tức lượng tín dụng cung ứng. Đây là
biện pháp nhằm khống chế dư nợ của các NHTM mà từ đó tác động đến lượng tiền
cung ứng trong nền kinh tế thông qua việc tác động vào hệ số mở rộng tiền tệ. Khi
NHTW tăng hạn mức tín dụng sẽ dẫn đến khả năng tăng cung ứng vốn tín dụng cho nền
kinh tế, tăng khả năng tạo tiền, tăng lượng tiền cung ứng và ngược lại. Hạn mức tín
dụng đưa ra bao giờ cũng phải nhỏ hơn nhu cầu vay của nền kinh tế mới có hiệu quả.
Tuy nhiên hạn mức tín dụng cũng có nhiều hạn chế như: Mang tính hành chính
quá cao, không chính xác và không có hiệu quả khi hạn mức tín dụng được quy định
không phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế. Ngoài ra, công cụ này tỏ ra kém linh hoạt
và không thể thay đổi thường xuyên. Những hạn chế này chủ yếu được xuất phát từ sự
thiếu căn cứ trong xác định hạn mức tín dụng và lỏng lẻo của các chế tài trong việc
quản lý nó.
- Công cụ kiểm soát lãi suất: NHTW trực tiếp ấn định trần lãi suất cho vay để
khống chế mức lãi suất của các NHTM áp dụng cho vay đối với nền kinh tế. NHTM
tăng giảm lãi suất cho vay theo trần lãi suất của NHTW, từ đó ảnh hưởng đến nhu cầu
vốn của nền kinh tế. Công cụ này có đặc điểm lớn nhất là không phụ thuộc với cơ chế
thị trường vì nó hạn chế sự cạnh tranh của các NHTM, hạn chế sự linh hoạt của thị
trường tiền tệ, giảm tính chủ động trong kinh doanh của hệ thống NHTM. Nếu NHTW
ấn định mức lãi suất quá thấp làm cho nhu cầu tiền tăng nhanh hơn dự đoán, gây khó
khăn về nguồn vốn cho NHTM không kịp điều chỉnh kịp thời bỏ lỡ cơ hội đầu tư của
mình.
- Công cụ tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là tỷ lệ trao đổi giữa hai đồng tiền. Khi
trở thành công cụ CSTT, NHTW sẽ trực tiếp can thiệp vào tỷ giá, điều chỉnh tỷ giá cho
những mục tiêu nhất định của NHTW trong từng thời kỳ: khuyến khích xuất khẩu; ổn định
giá trị đồng tiền... Tuy nhiên, khi sử dụng công cụ này đòi hỏi NHTW trong từng thời kỳ
phải cân nhắc một cách kỹ lưỡng, do nó có ảnh hưởng đến quan hệ kinh tế quốc tế, ảnh
hưởng tới hoạt động kinh doanh ngoại hối của các NHTM và các TCTD, từ đó tác động lớn
đến nền kinh tế. Về thực chất, tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiền tệ, bởi lẽ tỷ
giá không làm tăng hay giảm lượng tiền trong lưu thông. Tuy nhiên, có nhiều quốc gia,
đặc biệt là các quốc gia có nền kinh tế đang phát triển, đang chuyển đổi, lại coi tỷ giá là
công cụ bổ trợ quan trọng cho điều hành chính sách tiền tệ.
1.2.2.2. Công cụ gián tiếp
Đây là nhóm công cụ tác động trước hết vào mục tiêu của chính sách tiền tệ, thông
qua cơ chế thị trường mà tác động này được truyền đến các mục tiêu trung gian là khối
lượng tiền cung ứng và lãi suất. Nhóm công cụ này bao gồm:
- Công cụ tái cấp vốn: Tái cấp vốn là hình thức cấp vốn tín dụng của NHTW
đối với ngân hàng thương mại khi cấp một khoản tín dụng cho ngân hàng thương mại
một mặt, NHTW đã tăng lượng tiền cung ứng, mặt khác tạo cơ sở cho các ngân hàng
thương mại, tạo bút tệ cũng như khai thông được năng lực thanh toán của họ. Với công
cụ này, NHTW sẽ điều chỉnh tăng, giảm lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu phụ
thuộc vào mục tiêu của CSTT là thắt chặt hay nới lỏng tiền tệ, từ đó tác động tới lượng
tiền trong lưu thông. Khi NHTW thấy rằng, cần tăng thêm tiền cho lưu thông họ có thể
hạ thấp lãi suất tái cấp vốn xuống. Khi đó, một mặt, khuyến khích các ngân hàng
thương mại đến NHTW để vay vì giá cả tín dụng giảm, mặt khác dung lượng tín dụng
được cấp vốn với các ngân hàng thương mại tăng lên.
Cơ chế ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng: Đối với công cụ này NHTW ấn định
hạn mức TCK, lãi suất TCK và các điều kiện TCK. Những thay đổi này ảnh hưởng đến
mục tiêu cuối cùng khi các NHTM có nhu cầu vay NHTW và ảnh hưởng qua hai con
đường: khối lượng (hạn mức) và giá(lãi suất TCK).
Công cụ gián tiếp có khả năng điều tiết một cách linh hoạt các mục tiêu trung
gian. Tuy nhiên, mức độ phát huy hiệu quả của công cụ này căn cứ vào mức độ phụ
thuộc về vốn của NHTM vào NHTW. Vì thế, nó là công cụ kém chủ động. Để khắc
phục nhược điểm này người ta thường sử dụng kết hợp với công cụ dự trữ bắt buộc.
- Dự trữ bắt buộc: Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NHTM buộc phải duy trì
trên một tài khoản tiền gửi không hưởng lãi tại NHTW. nó được xác định bằng một tỷ lệ
phần trăm nhất định trên tổng số dư tiền gửi tại một khoảng thời gian nào đó. Mức dự
trữ bắt buộc được quy định khác nhau căn cứ vào thời hạn tiền gửi, vào quy mô và tính
chất hoạt động của NHTM.
Cơ chế tác động của dự trữ bắt buộc: Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc và do
đó mức dự trữ bắt buộc ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng như sau: tỷ lệ dự trữ bắt
buộc tăng lên sẽ làm giảm khả năng cho vay của hệ thống NHTM, giảm hệ số tạo tiền
và do đó khả năng mở rộng tiền gửi của hệ thống ngân hàng, giảm mức cung vốn
NHTW trên thị trường liên ngân hàng. Quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ gây nên
những ảnh hưởng ngược lại.
Lợi thế chủ yếu của dự trữ bắt buộc trong việc kiểm soát lượng tiền cung ứng là
sự thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ ảnh hưởng một cách bình đẳng đến tất cả các ngân
hàng. Đây là công cụ có ảnh hưởng mạnh mẽ đến khối lượng tiền cung ứng. Chỉ cần 1%
thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc tính trên tổng số dư tiền gửi bình quân ngày, mức dự trữ
sẽ là thay đổi đáng kể và dẫn đến sự thay đổi theo cấp số nhân của khối lượng tiền cung
ứng. Điều này làm cho công cụ dự trữ bắt buộc trở nên thiếu linh hoạt vì sự thay đổi
thường xuyên sẽ gây nên sự bất ổn định cho hoạt động của các ngân hàng và chi phí cho
sự điều chỉnh thích ứng với tỷ lệ dự trữ bắt buộc mới là rất tốn kém. Mặt khác, sự thay
đổi dự trữ bắt buộc (đặc biệt trong trường hợp tăng) gây ảnh hưởng ngay lập tức và trực
tiếp đến lượng vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng. Vì thế, công cụ này thường được
sử dụng kết hợp với các công cụ khác nhằm điều chỉnh lượng vốn khả dụng các ngân
hàng khi cần thiết.
- Nghiệp vụ thị trường mở: Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động NHTW mua,
bán giấy tờ có giá ngắn hạn (tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN, Chứng chỉ tiền gửi....)
trên thị trường tiền tệ, nhằm làm thay đổi cơ sở tiền tệ mà đặc biệt là tiền dự trữ trong hệ
thống NH, qua đó tác động đến lượng tiền cung ứng. Khi NHTW mua, bán trên thị
trường tự do, gọi là nghiệp vụ mua bán trên thị trường tự do. Do vậy, thị trường mở này
có khả năng tiếp nhận được một lượng rất lớn nghiệp vụ của NHTW mà không làm cho
giá cả biến động mạnh. Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ CSTT quan trọng của
NHTW. Nghiệp vụ thị trường này là yếu tố quyết định quan trọng nhất đối với những
thay đổi trong cơ sở tiền tệ và đó cũng là nguồn gốc chính gây nên những biến động
trong cung ứng tiền tệ. Đây là một trong những cửa ngõ rất quan trọng để NHTW phát
hành tiền vào nền kinh tế hoặc rút bớt tiền trong lưu thông về NHTW thông qua mua
hay bán các loại giấy tờ có giá. Qua nghiệp vụ mua bán này NHTW làm tăng hay giảm
dự trữ của các NHTM, tác động đến khả năng tín dụng của các NH này và từ đó làm
tăng hay giảm lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế.
Khi NHTW mua vào các giấy tờ có giá, tăng thêm tiền dự trữ cho hệ thống
ngân hàng nhằm kích thích tăng trưởng tín dụng, tăng lượng tiền cung ứng, thúc đẩy
đầu tư và tăng trưởng kinh tế, tăng việc làm.
Công cụ thị trường mở đã được các nước có nền kinh tế tiên tiến áp dụng và trở
thành công cụ quan trọng bậc nhất để điều hòa lưu thông tiền tệ.
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở thể hiện tính ưu việt của nó trên các nội dung
sau:
- NHTW có thể chủ động can thiệp vào thị trường tiền tệ và từ đó tác động trực
tiếp vào khả năng cung ứng tín dụng của các tổ chức tín dụng.
- Độ linh hoạt và chính xác cao, có thể sử dụng ở bất cứ lúc nào, (mong muốn
mức thay đổi dự trữ hoặc cơ số tiền tệ lớn hay nhỏ, NHTW lớn hay nhỏ, NHTW cũng
có thể thực hiện bằng cách mua bán một khối lượng lớn, hay nhỏ chứng khoán).
- NHTW dễ dàng đảo ngược tình thế khi có một quyết định sai lầm về việc sử dụng
công cụ này bằng cách lập tức đảo ngược lại việc sử dụng công cụ đó.
- Việc thực hiện có thể được hoàn thành nhanh chóng không gây nên những
chậm trễ về mặt hành chính. Khi muốn thay đổi cơ sở tiền tệ hoặc dự trữ NHTW có thể
quyết định và thực hiện ngay trong phiên giao dịch.
Nhưng nghiệp vụ thị trường mở còn hạn chế là nó chỉ phát huy hiệu quả thực sự
ở nơi có thị trường tài chính phát triển, khi NHTW kiểm soát được lượng vốn khả dụng
trong hệ thống ngân hàng. Vì thế, không phải quốc gia nào cũng sử dụng được công cụ
này.
Qua phân tích trên, chúng ta có thể hệ thống hóa các mục tiêu của CSTT và các
công cụ CSTT theo sơ đồ sau: (Sơ đồ 1.1.).
Sơ đồ 1.1: hệ thống hóa các mục tiêu của CSTT và các công cụ CSTT
1.2.2.3. Cơ chế lan truyền của chính sách tiền tệ
Công cụ
- Nghiệp vụ
thị trường
mở
- Chính sách
tái chiết
khấu
- Dự trữ bắt
Mục tiêu
hoạt động
- Tổng lượng
dự trữ
- Lãi suất
liên ngân
hàng
Mục tiêu
trung gian
- Mức cung
tiền
- Lãi suất
Mục tiêu
cuối cùng
- Giá cả
- Sản lượng
- Công văn
việc làm
Cơ chế lan truyền của chính sách tiền tệ là những kênh tác động mà NHTW có
thể sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ làm thay đổi các điều kiện tiền tệ trên thị trường
qua đó tác động đến tổng cầu của nền kinh tế làm thay đổi sản lượng, giá cả và việc làm
(tác động đến mục tiêu cuối cùng của CSTT).
CSTT ảnh hưởng đến các biến số kinh tế vĩ mô theo ba con đường: Tín dụng
ngân hàng, lãi suất và giá tài sản. Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.2: Sơ đồ các kênh dẫn chuyển tác động của CSTT
NHTW
MS
Giá tài
sản
Tín dụng
Tỷ giá Tăng giá
cổ phiếu
Thu nhập
thường xuyên
tăng
Tín dụng
NH
Bảng tổng
kết tài
sản
Lãi
suất
giảm
Đầu tư
tăng
X
Im
NX
Q
TGHN
Tiền
vay
Rủi
ro
đạo
đức
Dòng
lưu
ngân
Sự
tăng
giá
Tín dụng
I
AD
1.2.2.4. Sự lựa chọn các giải pháp chính sách tiền tệ
Như đã đề cập ở phần trên, mục tiêu ổn định giá cả được hầu hết các nhà kinh tế
khẳng định là mục tiêu bao trùm và lâu dài của chính sách tiền tệ. Tuy vậy, vấn đề ở đây
là phải thực thi CSTT như thế nào để đạt được mục tiêu này. Có 4 giải pháp CSTT khác
nhau được áp dụng tại các quốc gia: (1) Chính sách tiền tệ dựa vào các đại lượng tiền;
(2) chính sách tiền tệ dựa vào tỷ giá hối đoái; (3) chính sách tiền tệ dựa vào GDP danh
nghĩa; (4) chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát. Mỗi giải pháp có những
ưu thế và hạn chế riêng, phần dưới đây sẽ xem xét đến những vấn đề đó.
* Chính sách tiền tệ dựa vào các đại lượng tiền tệ: Nếu tốc độ vòng quay tiền
tương đối ổn định hay có thể dự báo trước được thì thông qua chỉ tiêu tăng khối lượng
tiền có thể duy trì mức tăng trưởng thu nhập danh nghĩa để đạt được ổn định giá cả lâu
dài.
- Trong một môi trường như thế, việc chọn khối lượng tiền làm mục tiêu có
những lợi thế sau:
+ NHTW dễ dàng kiểm soát được khối lượng tiền vì các đại lượng về khối
lượng tiền (M0, M1, M2...) có thể đo lường một cách chính xác trong thời gian ngắn.
+ Cho phép NHTW điều chỉnh chính sách tiền tệ của mình đáp ứng với các
chính sách trong nước khác.
+ Thúc đẩy lòng tin vào chính sách tiền tệ nhằm kìm hãm mức lạm phát thấp và
giúp hạn chế các nhà hoạch định chính sách tiền tệ rơi vào cái bẫy của các biện pháp
tình thế.
Tuy nhiên, nếu có sự bất ổn về vòng quay tiền đến mức làm yếu đi mối quan hệ
giữa đại lượng tiền tệ với biến số mục tiêu thì việc chính sách tiền tệ lấy đại lượng tiền
tệ làm mục tiêu sẽ không thực hiện được. Mối quan hệ lỏng lẻo giữa các biến số này có
nghĩa là cho dù đạt được mục tiêu cũng không thể tạo ra kết quả mong muốn về biến số
mục tiêu. Kết quả là việc sử dụng giải pháp này trở nên mơ hồ và khó lý giải.
* Chính sách tiền tệ dựa vào tỷ giá hối đoái: Tức là việc gắn giá trị nội tệ vào
một đồng tiền ổn định có tỷ lệ lạm phát thấp, hoặc gắn giá trị nội tệ vào ngoại tệ theo
chế độ tỷ giá cố định điều chỉnh từ từ (còn gọi là chế độ tỷ giá trườn bò - crawling peg).
Ưu điểm:
Việc sử dụng giải pháp này là tránh được vấn đề không nhất quán về mặt thời
gian, đồng thời, do NHTW cam kết duy trì tỷ giá cố định nên NHTW không thể theo
đuổi chính sách mở rộng tiền tệ quá mức mà hậu quả của nó là làm cho nội tệ bị phá
giá. Một lợi thế quan trọng nữa là neo tỷ giá đơn giản, rõ ràng và dễ hiểu đối với công
chúng.
Nhược điểm:
+ Tỷ giá mục tiêu có thể sẽ làm mất tính độc lập của chính sách tiền tệ vì phải bỏ dần
việc sử dụng các công cụ để đối phó với các cú sốc trong nước mà còn bị tổn thương bởi các
cú sốc bắt nguồn từ các nước có đồng tiền chọn làm neo.
+ Xóa bỏ tín hiệu thị trường ngoại hối đưa ra về quan điểm chính sách tiền tệ.
+ Dễ bị tấn công bởi việc đầu cơ đồng tiền chọn làm neo.
+ Không biết chắc chắn về giá trị tương lai của đồng bản tệ.
* Chính sách tiền tệ dựa vào GDP danh nghĩa: Giải pháp này có lợi thế tránh
được những cú sốc trong vòng quay tiền và vấn đề không nhất quán về thời gian, đồng
thời, cho phép quốc gia được độc lập trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền
tệ. Tuy nhiên, nhược điểm là NHTW không dễ dàng kiểm soát GDP danh nghĩa và cần
có nhiều thời gian kiểm chứng trước khi đánh giá sự thành công của chính sách tiền tệ.
Thêm vào đó việc dự tính mức tăng trưởng GDP tiềm năng(được lượng hóa bằng một
con số) thường có độ chính xác thấp và hay thay đổi, do đó việc công bố chỉ tiêu có thể
gây ra sự hiểu lầm cho công chúng. Đồng thời, chỉ tiêu này không dễ hiểu lại có sự
nhầm lẫn giữa GDP danh nghĩa và GDP thực tế [8, tr. 1-2].
* Chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát: Cũng giống như các
mục tiêu trên, việc lựa chọn giải pháp chính sách tiền tệ này cũng có những lợi thế
nhưng cũng không thể tránh được những hạn chế. Để tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề này,
chúng ta sẽ xem xét ở phần dưới đây.
1.2.3. Chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát
1.2.3.1. Khái niệm
Chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát là việc thực hiện chính sách
tiền tệ trong đó NHTW xây dựng một mục tiêu lạm phát theo tiến trình thời gian định
trước và sử dụng các công cụ chính sách đón đầu sẵn có để đạt mục tiêu đó. Mục tiêu
lạm phát là một khung chính sách tiền tệ với ba nội dung chính:(i). Xác định mục tiêu
lạm phát ở tầm trung hạn; (ii). Dự đoán tỷ lệ lạm phát trong tương lai; (iii). Tỷ lệ lãi suất
ngắn hạn được sử dụng như mục tiêu điều hành mà không có một mục tiêu trung gian rõ
rệt, để đạt được mục tiêu lạm phát có tính dự đoán về lạm phát trong tương lai.
Đồng thời, khung chính sách tiền tệ được thay đổi theo hướng sử dụng các biện
pháp đón đầu dựa trên dự đoán về lạm phát tầm trung hạn và mối quan hệ chặt chẽ giữa
mục tiêu điều hành và mục tiêu cuối cùng. Ví dụ như nhất định phải ổn định giá cả do
không đề xuất một mục tiêu trung gian nào.
Sơ đồ 1.3: Chính sách mục tiêu lạm phát
Các NHTW điều hành chính sách tiền tệ trong chính sách mục tiêu lạm phát
như sau:
+ Một là, NHTW xác định trước một mục tiêu lạm phát coi đó là cái chốt để
tiến hành chính sách tiền tệ tầm trung hạn.
+ Hai là, NHTW sử dụng các biến số thông tin như tổng tiền, tỷ lệ lãi suất, tỷ
giá, tỷ lệ lạm phát dự kiến, giá cả tài sản và các nguyên vật liệu chính để dự đoán tỷ lệ
lạm phát trong tương lai;
Các công cụ
CSTT
Mục tiêu
hoạt động
Mục tiêu
cuối cùng
+ Ba là, NHTW thiết lập và thực hiện chính sách tiền tệ sao cho tỷ lệ lạm phát
thực tế hội tụ theo NHTW thiết lập.
+ Bốn là, NHTW đánh giá lại việc thực hiện chính sách tiền tệ và rút kinh
nghiệm cho chính sách tiền tệ giai đoạn sau. Quá trình tổng kết này sẽ dẫn tới sự hội tụ
của tỷ lệ lạm phát thực tế với mục tiêu lạm phát dài hạn và tạo cơ sở cho việc ổn định
giá cả [52].
1.2.3.2. Điều kiện để một nước có thể theo đuổi chính sách tiền tệ với mục
tiêu kiểm soát lạm phát
Để thực thi chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát, một quốc gia ít
nhất phải có hai điều kiện căn bản sau:
Một là, NHTW phải điều chỉnh chính sách tiền tệ với một mức độ độc lập nào
đó. Điều này không có nghĩa là độc lập hoàn toàn với Chính phủ nhưng nó phải được tự
do trong việc lựa chọn các công cụ để đạt được mục tiêu mà Chính phủ cho là hợp lý.
Để làm được điều này, quốc gia đó không được để chính sách tài chính có ưu thế hơn
chính sách tiền tệ, tức chính sách tài chính không được khống chế chính sách tiền tệ. Tự
do không bó buộc của chính sách tài khóa có nghĩa rằng việc vay mượn của Chính phủ
từ NHTW là rất ít hoặc không có và thị trường tài chính nội địa đủ sâu để hấp dẫn các
khoản nợ công trái Chính phủ. Nó cũng có nghĩa là, Chính phủ cần có một cơ sở thu nhập
vững chắc và không cần dựa vào thu nhập có được từ " thuế đúc tiền".
Hai là, thiện chí và khả năng của các nhà chức trách trong việc không đặt quá
cao cho một số chỉ tiêu khác như, mức lương, mức sử dụng lao động hay tỷ giá hối đoái
vì công chúng không có gì đảm bảo rằng các nhà chức trách sẽ đặt mục tiêu lạm phát
cao hơn các mục tiêu này và ngược lại, nên sẽ thiếu đi sự tin cậy cần thiết cho thành
công [14, tr. 88-89].
Nếu thỏa mãn hai điều kiện trên, về mặt lý thuyết, một số quốc gia có thể theo
đuổi chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát.
1.2.3.3. Căn cứ để thiết lập chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát
+ Ai là người xác định mục tiêu lạm phát
Xét về mặt lý thuyết, Chính phủ thường là người đưa ra mục tiêu cụ thể cho
từng giai đoạn.
Xét về mặt thực tế, việc đưa ra mục tiêu này đều dựa vào sự tư vấn của Bộ
trưởng Bộ Tài chính hoặc của Thống đốc NHTW, nhưng cũng có những trường hợp
Chính phủ chỉ đưa ra định hướng thực thi chính sách tiền tệ theo chính sách mục tiêu
lạm phát, còn mục tiêu cụ thể lại do Thống đốc NHTW quyết định sau khi có tham khảo
ý kiến của Bộ trưởng Bộ Tài chính (tùy luật áp dụng của từng quốc gia trên thế giới).
+ Đo lường mức độ lạm phát mục tiêu
Trước hết là phải xác định chỉ số đo lường lạm phát: hầu hết các nước theo đuổi
chính sách này lựa chọn chỉ số giá tiêu dùng CPI để tính lạm phát mục tiêu bởi vì chỉ số
này quen thuộc và dễ hiểu đối với công chúng. Tuy nhiên, trong cách tính CPI của mỗi
nước cũng có khác nhau. Thường thì để cho việc dự đoán lạm phát và điều hành chính
sách tiền tệ sát với mục tiêu hơn các nước thường quan tâm đến việc tỷ lệ lạm phát cơ
bản tức CPI có loại trừ giá cả của các mặt hàng hay có biến động lớn (tránh cú sốc).
Sau khi đã xác định được chỉ số tính, việc tiếp theo là phải xác định lạm phát
mục tiêu là một con số cụ thể hay dao động trong một khoảng. Đồng thời, trong khoảng
mục tiêu đó, có nước lại chọn điểm giữa khoảng như là tỷ lệ lạm phát trung tâm để điều
hành chính sách tiền tệ sao cho tỷ lệ lạm phát nằm trong khoảng mục tiêu nhưng cố
gắng càng bám sát tỷ lệ lạm phát trung tâm càng tốt [14, tr. 89].
Việc tiếp theo là xác định tỷ lệ lạm phát như thế nào là hợp lý? Như chúng ta đã
biết, lạm phát ở mức độ nào đó có tác dụng kích thích sự phát triển kinh tế, tạo công ăn
việc làm, giảm thất nghiệp. Chính vì vậy, việc xác định tỷ lệ lạm phát mục tiêu rất quan
trọng. Về bản chất, mục tiêu lạm phát gắn với chỉ số lạm phát, do đó, việc xây dựng
mục tiêu lạm phát có nghĩa là xây dựng một chỉ số lạm phát cụ thể và điều này được
xem như mục tiêu ổn định giá cả trong một số năm tiếp theo. Tuy nhiên, ổn định giá cả
ở đây không có nghĩa là lạm phát bằng 0 mà phải được hiểu là chỉ số lạm phát có thể ở
mức trên 0 nhưng vẫn đảm bảo được mục tiêu ổn định giá cả.
Trong cách tính chỉ số lạm phát, cần thiết phải có sự loại trừ giá cả của một
số mặt hàng có biến động lớn mà khó có thể dự báo được, đồng thời chỉ số lạm phát
phải được công chúng quan tâm và được hiểu một cách dễ dàng.
+ Thời điểm nào là hợp lý
Để hình thành một chính sách mục tiêu lạm phát tin cậy sẽ là rất quan trọng và
cần thiết để đạt được một số thành công ban đầu trong việc kiểm soát lạm phát bởi vì
việc đạt được những thành công này làm cho dân chúng tin tưởng vào các chính sách
đang được Chính phủ hiện hành áp dụng.
Một số vấn đề quan trọng là khung thời gian hợp lý như thế nào? Bởi vì chính
sách tiền tệ ảnh hưởng lên lạm phát với độ trễ về thời gian tương đối dài, do đó, chính
sách tiền tệ không thể đạt được mục tiêu lạm phát cụ thể ngay lập tức mà chỉ có thể đạt
được sau một thời gian nhất định. Ngoài ra, các cú sốc có thể xảy ra trong khoảng thời
gian giữa điểm khởi xướng chính sách tiền tệ và thời điểm phát huy tác dụng của nó.
Điều này có nghĩa nên xác định mục tiêu ở tầm trung hạn [49].
+ Việc thực thi phải đảm bảo tính công khai, minh bạch và linh hoạt
Sau khi đã xác định được các vấn đề trên, mục tiêu lạm phát phải được chuyển
tải đến công chúng một cách rõ ràng, minh bạch và hiệu quả, để dân chúng hiểu được.
Đồng thời, NHTW phải có trách nhiệm giải thích và công bố đến dân chúng về những
thay đổi của chính sách với những lý do rõ ràng. Điều này làm tăng tính minh bạch và
giảm độ trễ của chính sách tiền tệ đến những thay đổi giá cả và những quyết định tiền
lương.
Tính linh hoạt của chính sách tiền tệ là nhằm đối phó lại với các
cú sốc về tổng cung hay tổng cầu, tức là chính sách này cho phép có độ lệch khỏi
mục tiêu lạm phát và mục tiêu lạm phát có thể thay đổi theo thời gian [14, tr. 90].
1.2.3.4. Đánh giá ưu nhược điểm của chính sách
Ưu điểm:
+ Công chúng hiểu được một cách nhanh chóng và dễ dàng về mục tiêu lạm
phát.
+ Sự minh bạch và rõ ràng về mục tiêu lạm phát có tác dụng làm cho các dự
tính về tỷ lệ lạm phát sát với lạm phát mục tiêu hơn, kết quả là mục tiêu ổn định giá cả
dễ thực hiện được.
+ Giảm được áp lực đối với NHTW trong việc theo đuổi các mục tiêu khác như
tăng trưởng, thất nghiệp.
+ Tính độc lập tương đối của NHTW được duy trì nên NHTW có thể đối phó
hiệu quả với những cú sốc xảy ra ở bên ngoài quốc gia.
+ Tránh được những thay đổi đột biến trong tốc độ vòng quay tiền, bởi vì nó
cho phép NHTW giảm được sự tập trung vào việc xử lý mối quan hệ giữa khối lượng
tiền và thu nhập danh nghĩa; thay vào đó, NHTW tập trung xử lý các thông tin nhằm dự
báo lạm phát và chọn lựa chính sách phù hợp để đạt được mục tiêu lạm phát mong
muốn.
Nhược điểm:
+ Bởi vì các hiệu ứng của chính sách lên lạm phát có độ trễ về mặt thời gian,
nên NHTW không thể dễ dàng kiểm soát được lạm phát. Như vậy, việc đạt được mục
tiêu lạm phát một cách chính xác về mặt thời gian thường gặp khó khăn và cũng vì thế
mà việc đánh giá mức độ thành công của chính sách thường chậm trễ.
+ Việc cố gắng để đạt được lạm phát mục tiêu có thể dẫn đến một mức tăng
trưởng không bền vững của công ăn việc làm và sản lượng.
1.3. chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát ở một số nước trên
thế giới và bài học kinh nghiệm
1.3.1. Chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát ở Hàn Quốc
1.3.1.1. Cơ quan xác định mục tiêu và tình hình kinh tế chính trị tại thời
điểm công bố mục tiêu
Chính sách mục tiêu lạm phát được áp dụng tại Hàn Quốc theo các điều khoản
của Luật Ngân hàng 1997. Đây là Bộ luật đã được sửa đổi để trao quyền tự quyết cao
hơn cho NHTW Hàn Quốc trong việc điều chỉnh và thực thi chính sách tiền tệ. Luật này
nhằm tạo ra chính sách tiền tệ trung lập và độc lập tuyên bố ổn định giá cả là mục đích
duy nhất của NHTW Hàn Quốc. Theo các điều khoản của luật này, NHTW Hàn Quốc
phải xây dựng một mục tiêu lạm phát hàng năm theo tín hiệu thị trường và thực hiện các
biện pháp để đạt được các mục tiêu đó. Chính sách mục tiêu lạm phát được áp dụng bắt
đầu từ năm 1998. Trước khi mỗi năm kết thúc, NHTW Hàn Quốc sẽ định ra một mục
tiêu ổn định giá cả cho năm sau, sau khi đã tham vấn ý kiến của Chính phủ, và sau đó tự
mình thiết lập và phổ biến một kế hoạch điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tín
dụng bao gồm cả mục tiêu ổn định giá cả. Cuối cùng, hàng tháng ủy ban chính sách tiền
tệ của NHTW Hàn Quốc quyết định định hướng của chính sách tiền tệ hàng tháng và
sau đó NHTW Hàn Quốc điều hành các chính sách tiền tệ theo định hướng này.
1.3.1.2. Cơ chế hoạt động của chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát
+ Thứ nhất: Mục tiêu được quản lý theo một khung dao động xung quanh một
mức lạm phát trung tâm(ví dụ mức lạm phát cơ sở là 2% và khung mục tiêu sẽ là 2%-
3%).Để thực hiện mục tiêu đề ra, NHTW Hàn Quốc xem lãi suất huy động với vai trò
mục tiêu điều hành mà không có mục tiêu trung gian, điều này có nghĩa là NHTW Hàn
Quốc sẽ căn cứ vào xu hướng biến động của giá cả để điều chỉnh mức lãi suất sao cho
đạt được mục tiêu đề ra. Nguyên nhân của việc lựa chọn này là do các nghiên cứu ở đây
chỉ ra rằng lãi suất huy động có tác dụng nhân quả trực tuyến đối với lãi suất ngắn hạn
và các biến số kinh tế.
+ Thứ hai: Chỉ số thích hợp để thiết kế mục tiêu là chỉ số giá CPI. NHTW Hàn
Quốc cho rằng CPI là chỉ số phù hợp nhất để điều hành chính sách tiền tệ. Chỉ số CPI
của Hàn Quốc có loại trừ các biến động do các nguyên nhân bất khả kháng như biến
động của giá nông sản do thiên tai, thay đổi giá cả do Chính phủ điều chỉnh thuế gây ra.
+ Thứ ba: NHTW Hàn Quốc tương đối độc lập trong việc hoạch định và thực
thi chính sách tiền tệ. Trước hết, khi hết năm NHTW Hàn Quốc xây dựng mục tiêu ổn
định giá cả cho năm tới sau khi đã tham vấn Chính phủ và thiết lập một kế hoạch điều
hành các chính sách tiền tệ và tín dụng có tính đến mục tiêu này trong vòng 15 ngày sau
khi xây dựng được các mục tiêu ổn định giá cả. Thứ hai, hàng tháng, NHTW Hàn Quốc
sẽ thông báo phương hướng của chính sách tiền tệ trong tháng đó ngay sau khi ủy ban
Chính sách tiền tệ của NHTW quyết định và Chính phủ sẽ có văn bản giải thích chi tiết
phương hướng này. Thứ ba, thường kỳ 03 tháng sau mỗi cuộc họp, NHTW Hàn Quốc
sẽ xuất trình bản báo cáo chính sách tiền tệ và tín dụng lên Quốc hội 02 lần/ năm,
thường vào tháng 03 và tháng 10, và Chính phủ có trách nhiệm trả lời các chất vấn của
các đại biểu quốc hội về bản báo cáo đó.
1.3.1.3. Mục tiêu kiểm soát lạm phát và quá trình thực hiện
Năm 1998, mục tiêu lạm phát được thiết kế như sau: Mức lạm phát trung bình là
9% và khung mục tiêu dao động 1% xung quanh mức trung bình.
Do sự bùng nổ khủng hoảng tiền tệ, sau khi tham khảo ý kiến của IMF, NHTW
Hàn Quốc đã thực hiện chính sách lãi suất cao. Chính sách lãi suất cao là sự lựa chọn
duy nhất để đảm bảo khả năng thanh khoản ngoại tệ và ổn định tỷ giá đối phó với luồng
ngoại tệ bị chuyển ra ngoài do mất lòng tin của các nhà đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, có rất
nhiều tác dụng phụ xấu đi kèm với chính sách lãi suất cao. Nó làm tăng sự trì trệ trong
các hoạt động kinh tế do thắt chặt tiêu dùng, đầu tư, đồng thời, làm tăng sự đóng cửa
đồng loạt của một số doanh nghiệp và tăng số lượng các khoản nợ xấu của các tổ chức
tài chính. Do vậy, nhằm hạn chế việc quá thắt chặt nền kinh tế, vào quý 2/1998, NHTW
Hàn Quốc đã dần giảm bớt sự can thiệp vào thị trường khi các điều kiện của thị trường
hối đoái đã được cải thiện nhờ vào cán cân thương mại thặng dư,các khoản trợ giúp của
các tổ chức tài chính quốc tế và dòng vốn đầu tư mới chuyển vào. Cuối cùng lãi suất
huy động giảm xuống 8,5% vào cuối tháng 8 năm 1998. Do NHTW Hàn Quốc dần
giảm bớt tỷ lệ can thiệp vào thị trường, lãi suất huy động thị trường chỉ còn 6,5% vào
cuối tháng 12.Và kết quả của hàng loạt những nỗ lực can thiệp đến cuối năm tỷ lệ lạm
phát là 7,5% thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra.
+ Năm 1999, mục tiêu lạm phát được thiết kế như sau: mức lạm phát trung tâm là
3% và khung mục tiêu dao động là 1% xung quanh mức trung tâm.
Trong nửa đầu năm 1999, thị trường tài chính và hối đoái tương đối ổn định.
Ngược lại, bất ổn tăng lên trên thị trường tài chính vào nửa cuối năm 1999 và việc tái ổn
định lại thị trường này là mối quan tâm hàng đầu của các nhà làm chính sách. NHTW
Hàn Quốc coi việc ổn định thị trường tài chính là quan trọng nhất, do vậy, đã từng bước
giảm dần lãi suất huy động, xuống mức 4,75% vào tháng 5/1999 và duy trì mức lãi suất
này tới tận tháng 01/2000.
+ Mục tiêu lạm phát cho năm 2000 được thiết lập như sau: NHTW xây dựng
mức lạm phát trung tâm của mục tiêu lạm phát năm 2000 là 2,5% với biên độ dao động
+/-1%. Với sự hỗ trợ của chính sách lãi suất thấp, nền kinh tế thực tế đã phát triển theo
chiều hướng đi lên với tỷ lệ tăng trưởng 10,7% năm 1999. Giá cổ phiếu tăng mạnh trong
thời gian ngắn. Lãi suất dài hạn cũng tăng lên do sự tăng mở rộng nhanh chóng của nền
kinh tế và nỗi lo sợ thị trường tài chính bất ổn định do vậy làm tăng chênh lệch giữa lãi
suất dài hạn và ngắn hạn. Xuất phát từ những điểm trên, NHTW Hàn Quốc quyết định
tăng mục tiêu cho lãi suất huy động qua đêm lên khoảng 4,75%- 5% trong tháng 02. Tác
động của những biện pháp trên làm cho áp lực lạm phát tăng lên. Gi¸¬ cả tiêu dùng tăng
nhanh trong 4 tháng bắt đầu từ tháng 6 do giá dầu quốc tế, giá dịch vụ công cộng và giá
thủy sản tươi sống tăng. Mặt khác, thị trường tài chính biến động mạnh do giá dầu quốc
tế tăng, giá hàng chưa thành phẩm giảm và do sự đổ vỡ trong các kế hoạch kinh doanh
của Daewoo Motor. NHTW Hàn Quốc quyết định tăng lãi suất huy động qua đêm lên
5% - 5,25% vào tháng 10 năm 2000.
Như vậy, NHTW Hàn Quốc sử dụng mục tiêu lạm phát ngắn hạn trong vòng 01
năm khi xây dựng mục tiêu lạm phát cho năm 1998 và năm 1999. Tuy nhiên, cần có
một khoảng thời gian trước khi chính sách tiền tệ có tác động đến các lĩnh vực kinh tế
và một khi các tác động này đã xảy ra, chúng sẽ diễn ra trong thời gian dài. Kết quả
nghiên cứu này cho thấy NHTW sẽ gặp khó khăn khi xây dựng và điều hành chính sách
tiền tệ chỉ dựa trên mục tiêu lạm phát ngắn hạn trong 01 năm. Hơn nữa, chính sách tiền
tệ thiển cận này sẽ không đạt được một trong những thành quả chính của hệ thống mục
tiêu lạm phát đó là đạt được lòng tin của dân chúng vào việc NHTW sẽ xây dựng và
điều hành chính sách tiền tệ nhất quán để giữ cho tỷ lệ lạm phát ổn định trong khoảng
thời gian trung hạn và dân chúng không phải lo lắng đến sự trượt giá đồng bộ do lạm
phát.
Vì vậy, bên cạnh mục tiêu lạm phát hàng năm, từ năm 2001 NHTW Hàn Quốc
còn xây dựng thêm mục tiêu lạm phát trung hạn để đảm bảo tính nhất quán của chính
sách tiền tệ trong trung hạn. Mục tiêu lạm phát trung hạn được xác định ở mức bằng
hoặc thấp hơn mục tiêu lạm phát hằng năm để đảm bảo rằng NHTW sẽ giữ được lạm
phát ở mức thấp và ổn định trong dài hạn. Mục tiêu trung hạn được coi là mục tiêu quan
trọng không có thời gian ân hạn do nó chủ yếu để thể hiện cam kết của NHTW nhằm
hạn chế dự đoán lạm phát lan rộng trong dân chúng. NHTW Hàn Quốc xây dựng mục
tiêu lạm phát trung hạn từ năm 2001 là 2,5% trên cơ sở mức trung bình hằng năm từ sau
năm 2001 [52].
1.3.2. Chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát ở Newzealand
1.3.2.1. Cơ quan xác định mục tiêu và tình hình kinh tế chính trị tại thời
điểm công bố mục tiêu
Hệ thống điều hành chính sách tiền tệ của New Zealand được quy định trong
Đạo luật Ngân hàng Dự trữ New Zealand được nghị viện thông qua vào tháng 12 năm
1989 và có hiệu lực vào tháng 1 năm 1990. Theo Đạo luật này, Ngân hàng Dự trữ New
Zealand có nghĩa vụ xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ nhằm đạt được và duy trì
sự ổn định của mức giá chung nhưng không quy định một mức chỉ tiêu lạm phát cụ thể.
Chỉ tiêu này được Bộ trưởng Bộ Tài chính và Thống đốc NHTW thống nhất theo thỏa
ước mục tiêu chính sách (Policy Targets Agreement- PTA) một cách công khai hóa và
là định hướng đồng thời là căn cứ để đánh giá quá trình điều hành chính sách tiền tệ
trong nhiệm kỳ thống đốc. PTA đầu tiên được ký vào 2/3/1990 đã lượng hóa được mục
tiêu lạm phát và thời hạn đạt được mục tiêu đó.
Quyết định thông báo mục tiêu lạm phát của New Zealand được thực hiện sau
chiến dịch chống lạm phát thành công. Việc công khai hóa mục tiêu lạm phát góp phần
giảm bớt tâm lý trông đợi lạm phát và làm cho mục tiêu của chính sách tiền tệ được đáp
ứng dễ dàng hơn.
1.3.2.2. Cơ chế hoạt động của chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát
Có thể nói phần lớn cơ chế mục tiêu lạm phát của New Zealand được quản lý
bởi các PTA vì các thỏa ước này thể hiện sự tuân thủ của Ngân hàng Dự trữ đối với Đạo
luật 1989 về mục tiêu chính sách tiền tệ. Mục tiêu chính sách tiền tệ của New Zealand là
đạt được và duy trì sự ổn định của mức giá chung. Để đạt được mục tiêu cuối cùng này,
Ngân hàng Dự trữ New Zealand không sử dụng bất kỳ một mục tiêu trung gian nào
khác ngoài mục tiêu lạm phát và đồng thời không chú ý nhiều lắm đến tốc độ tăng của
tổng mức cung tiền tệ và tín dụng khi nhận ra mối quan hệ thiếu hiệu quả giữa các chỉ
tiêu này với tỷ lệ lạm phát.
Cơ chế hoạt động như sau:
+ Thứ nhất, mục tiêu được quản lý theo một khung dao động mà không kiểm
soát một mức lạm phát cụ thể.
+ Thứ hai, chỉ số thích hợp để thiết kế mục tiêu là chỉ số giá CPI, và nó cũng là
thước đo căn bản để đánh giá hoạt động của NHTW. Trong khung mục tiêu đề ra,
NHTW tập trung đến việc kiểm soát "lạm phát cơ bản" tức là tỷ lệ lạm phát đã được
điều hòa(điều chỉnh một cách đều đặn) theo các yếu tố sức ép bên cầu và những kỳ
vọng vào tương lai có loại bỏ những biến động lớn gây shock bên cung. Trong cách tính
CPI của mình, NHTW New Zealand loại trừ sự biến động của lãi suất, những thay đổi
trong kim ngạch xuất nhập khẩu phát sinh từ sự tăng lên hay giảm xuống của giá cả xuất
hoặc nhập khẩu, sự thay đổi của thuế hàng hóa và dịch vụ hoặc sự thay đổi các loại thuế
gián thu khác, các thảm họa tự nhiên hoặc các dịch bệnh lớn làm thiệt hại môi trường sinh
thái và gây nguy cơ tăng giá, những thay đổi của mức đóng góp nghĩa vụ cho Chính phủ
hoặc chính quyền địa phương làm ảnh hưởng đáng kể đến mức giá.
+ Thứ ba, trong quá trình xây dựng thực thi chính sách tiền tệ, do tác động của
các biện pháp, chính sách luôn có một độ trễ so với thời điểm đưa ra chính sách, nên
NHTW cũng đã tính toán khoảng thời gian để đạt được mục tiêu và sự khác biệt về thời
gian để đạt được hai chỉ tiêu lạm phát cơ bản và lạm phát mục tiêu.
+ Thứ tư, NHTW là một cơ quan của Chính phủ, không độc lập trong việc
hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ nhưng phải chịu trách nhiệm trước Chính phủ
trước hoạt động của mình. Đồng thời, tất cả các số liệu và dự đoán liên quan đến lạm
phát được cung cấp cho công chúng.
Về mặt kỹ thuật, tình trạng của nền kinh tế là một yếu tố quan trọng trong việc
đánh giá áp lực lạm phát và trong nhiều trường hợp, mâu thuẫn giữa tăng trưởng và ổn
định được giải quyết trong các quyết định về điều chỉnh mức độ lạm phát. Điều này có
nghĩa là mặc dù Ngân hàng Dự trữ New Zealand tuyên bố theo đuổi mục tiêu duy nhất
là ổn định giá cả nhưng trong hoạt động thực tế nó vẫn phải cân nhắc đến các vấn đề
khác của nền kinh tế.
1.3.2.3. Mục tiêu kiểm soát lạm phát và quá trình thực hiện
Mục tiêu lạm phát được đưa ra trong các PTA qua các năm như sau: 1990: 3-
5%, năm 1991: 2,4- 4,5%, năm 1992: 1,5-3,5%, năm 1993-1996: 0-2%; từ năm 1997- nay:
0-3%.
Thời kỳ từ 3/1990 đến 3/1992: Tỷ lệ lạm phát giảm mạnh trong phạm vi từ 0-
2%, mức lãi suất cao ban đầu và sau đó giảm mạnh, tỷ giá giảm dần, tăng trưởng kinh tế
âm và tỷ lệ thất nghiệp tăng lên. Chính vì vậy, NHTW New Zealand đã thực hiện một
loạt các biện pháp nhằm nới lỏng chính sách tiền tệ như: Điều chỉnh giảm lãi suất hối
phiếu ngân hàng 90 ngày từ 14,6% vào giữa tháng 8/ 1990 xuống 11,5% vào giữa tháng
1/1991 và còn 8,8% vào cuối tháng 12/1991 đồng thời, tỷ giá cũng giảm một cách đáng
kể.
Thời kỳ 6/1992 đến 3/1994: Ngân hàng tập trung vào việc ổn định giá cả thay
cho việc cố gắng làm giảm tỷ lệ lạm phát. Từ tháng 3/1991 đến tháng 3/1992, chỉ số
CPI và mức lạm phát cơ bản giảm xuống 0,8% và 1,3% tương ứng, kinh tế New
Zealand bắt đầu được khôi phục và nhiệm vụ của NHTW là ổn định giá cả cho môi
trường phát triển. Chính sách tiền tệ được nới lỏng hơn nữa khi lãi suất hối phiếu 90
ngày giảm xuống còn 6,6%. Đến tháng 12/1992, chính sách tiền tệ lại được thắt chặt,
mức lãi suất hối phiếu 90 ngày lại tăng lên đến 7,8% do đó có sự xáo trộn nhỏ trên thị
trường tài chính. Giai đoạn sau đó, kinh tế trong nước tăng trưởng trong điều kiện kinh
tế ổn định, lãi suất hối phiếu 90 ngày giảm xuống 5% vào tháng 12/1993, tâm lý trông
đợi lạm phát của công chúng giảm xuống.
Thời kỳ từ 6/1994 đến nay: Lạm phát và lãi suất tăng lên, tỷ giá biến động theo
chiều hướng cũ, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và tỷ lệ thất nghiệp tiếp tục giảm. Thời
gian này, khung mục tiêu hai lần bị vi phạm và sau đó được thiết kế lại như là kết quả
của cuộc bầu cử.
áp lực lạm phát bắt đầu tăng lên từ năm 1994. Vấn đề nổi lên là Ngân hàng Dự
trữ không xác định được một cách chắc chắn mức tăng trưởng kinh tế tiềm năng của
New Zealand mà tại đó sự tăng trưởng không tạo nên áp lực lạm phát. Tốc độ tăng GDP
là 6%- cao hơn dự tính đã tạo nên sự nghi ngờ về việc khung mục tiêu lạm phát có thể
bị phá vỡ, mà điều này lại gây lên tâm lý trông chờ lạm phát của công chúng. Để phản
ứng lại, chính sách tiền tệ đã bắt đầu có những điều chỉnh vào tháng 6/1994: lãi suất hối
phiếu 90 ngày được điều chỉnh tăng lên, đến tháng 12/1994 đạt 9,5%, tỷ giá tăng lên
khoảng 4,5% trong năm 1994. Đến thời điểm gần cuối năm 1995, việc thắt chặt chính
sách tiền tệ vào cuối năm 1994 mới có hiệu quả: lạm phát danh nghĩa giảm xuống
nhanh vì sự tăng lên của lãi suất cho vay cầm cố bất động sản tăng. Mặc dù vậy, mức
lạm phát cơ bản chỉ giảm xuống 2% dù NHTW mong muốn tỷ lệ này giảm xuống còn
1,2%.
Với cơ chế hoạt động của New Zealand thì các quyết định liên quan đến chính
sách tiền tệ mang tính chất chính trị khá rõ rệt. Tháng 12/1996, một liên hiệp nghị viện
giữa Đảng Dân tộc và Đảng thứ nhất New Zealand đã được thống nhất trong thời hạn ba
năm. Thông báo đầu tiên là mục tiêu lạm phát có thể linh hoạt. PTA mới được ký giữa
Bộ trưởng Bộ Tài chính và Thống đốc vào ngày 10/12/1996 đã nới rộng khung mục tiêu
lạm phát là từ 0-3%. Việc mở rộng khung mục tiêu làm cho NHTW bớt gặp khó khăn
trong việc kiểm soát mục tiêu và hạn chế được những mối đe dọa đối với uy tín của nó [1,
tr. 37].
1.3.3. Chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Hiện nay, việc theo đuổi chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát tại Việt Nam
chưa được thực hiện. Việt Nam đang theo đuổi chính sách đa mục tiêu: ổn định giá trị
đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo
quốc phòng an ninh và nâng cao đời sống của nhân dân. Tùy từng thời điểm khác nhau
mà một mục tiêu nào đó trong hệ thống các mục tiêu trên được coi trọng hơn; ví dụ như
trong những năm đầu của thập kỷ 90 mục tiêu ổn định giá cả, kiểm soát lạm phát được
coi trọng nhất, còn những năm 1998-2000 thì ổn định tỷ giá được coi trong hơn. Việc
theo đuổi chính sách tiền tệ đa mục tiêu trong điều kiện chuyển đổi kinh tế là tương đối
hợp lý do cơ cấu kinh tế chưa hoàn thiện, hệ thống ngân hàng tài chính chưa phát triển,
đồng thời nhu cầu hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp duy trì hoạt động và phát triển là
cần thiết.Từ việc lựa chọn mục tiêu CSTT như trên, việc điều hành CSTT trong thời
gian qua đã đạt được những thành công đáng kể.
Đánh giá chung về việc điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam trong thời
gian qua
* Những thành công:
- Thứ nhất là sự góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy lùi và kiểm soát được lạm
phát, ổn định sức mua của đồng Việt Nam. Sự ổn định trong việc điều hành kinh tế vĩ
mô đã tạo điều kiện giúp nền kinh tế Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng cao và ổn
định: năm 1995 tăng 9,54%, năm 1996 tăng 9,34%, năm 1997 tăng 8,15%, năm 1998 tăng
5,8%, năm 1999 tăng 4,8%; năm 2000 tăng 6,7%; năm 2001 tăng 6,85%; năm 2002
tăng 7,04%; năm 2003 tăng 7,24%.Các mục tiêu kinh tế xã hội khác như chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm, thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo... cũng
được hỗ trợ bằng các biện pháp cụ thể như: tỷ trọng cho vay đối với các thành phần
kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên, ưu tiên đầu tư tín dụng vào các ngành trọng điểm,
mũi nhọn, cho vay người nghèo...
- Thành công thứ hai: Các công cụ của CSTT được xây dựng tương đối hoàn chỉnh
chuyển dần từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp. Cho đến nay, các
công cụ trực tiếp được sử dụng ít đi. NHNN chủ yếu điều hành CSTT bằng các công cụ
gián tiếp như DTBB, chiết khấu, TCK, NVTT.
* Những tồn tại và hạn chế:
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được trong việc thực hiện CSTT đa
mục tiêu, thì Việt Nam còn có những hạn chế tồn tại nhất định như:
Do CSTT của Việt Nam theo đuổi đa mục tiêu nên đôi khi mục tiêu này lại triệt
tiêu mục tiêu kia, trong giai đoạn vừa qua, một số chỉ tiêu không đạt yêu cầu Chính phủ
đề ra, đặc biệt là mục tiêu lạm phát.
Bảng 1.1: Tình hình thực hiện chính sách mục tiêu lạm phát
Đơn vị tính: %
Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004
Chỉ tiêu% 10 10 7 7-8 10 6 5 5-6 4-5 <5
Thực hiện% 12,7 4,5 3,6 9,0 0,1 -0,6 0,8 4 3 8,8
Nguồn: Báo cáo thường niên NHNN Việt Nam các năm từ năm 1997-2003
Mặc dù không đạt chỉ tiêu đề ra nhưng có những năm lạm phát lại ở mức hợp lý
góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như năm 1996 -1997. Tuy nhiên, vấn đề dự báo
và các biện pháp nhằm kiểm soát lạm phát của nền kinh tế nói chung và của NHNN nói
riêng, thì rõ ràng rằng khả năng dự báo lạm phát (cả về phương pháp tính và vấn đề thu
thập, xử lý thông tin về diễn biến trên thị trường) còn yếu kém, đồng thời,sự chỉ đạo và
điều hành giá cả tiêu dùng của nền kinh tế còn mang tính thụ động và hiệu quả không
cao. Chính điều này đã làm cho lạm phát thực tế những năm 1999- 2001 quá xa với chỉ
tiêu đề ra và trở thành lạm phát, còn năm 2004 lại vượt quá chỉ tiêu đề ra, gây nên
những ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển kinh tế.
Trong những năm gần đây, tỷ lệ tăng trong từng khối lượng tiền như tỷ lệ tăng
của M2 và M3 đôi khi thể hiện những biến động khác nhau.Do đó, hiệu quả của tỷ lệ
tăng M2 với vai trò là một mục tiêu trung gian của CSTT được coi là bị giảm xuống.
Hơn nữa, mối quan hệ chi phối giữa mục tiêu hoạt động cơ sở - MB với M2 ngày càng
thiếu ổn định làm cho việc sử dụng mục tiêu trung gian là M2 để điều hành CSTT bắt
đầu có dấu hiệu kém hiệu quả.
Một vấn đề cần quan tâm nữa là, hiện nay mức độ đô la hóa ở Việt Nam tương
đối cao đã có ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế cũng
như tới việc hoạch định và điều hành CSTT, chính sách tỷ giá. Đồng thời đô la hóa là
làm cho mối quan hệ giữa TPTTT M2 với giá cả và sản lượng đôi khi không tuân thủ
theo những quy luật vốn có. Vì vậy, mục tiêu trung gian là M2 đã không phát huy hết
tác dụng.
Về những hạn chế trong việc sử dụng các công cụ CSTT: Có thể nói hạn chế
lớn nhất trong việc thực thi CSTT ở Việt Nam thời gian qua là việc xây dựng và sử
dụng các công cụ của CSTT. Hệ thống các công cụ, đặc biệt là các công cụ gián tiếp,
mới được xây dựng và chưa có đủ điều kiện hoàn thiện, sự phối kết hợp các công cụ
chưa thường xuyên và thiếu hiệu quả. Một số hạn chế khác như việc xác định lượng tiền
cung ứng hàng năm chưa chính xác và chưa kịp thời so với các biến động kinh tế, chính
trị: Khối lượng cung ứng hàng năm chưa chính xác và chưa kịp thời so với các biến
động kinh tế, chính trị, khối lượng cung ứng được dự đoán thường quá lớn so với nhu
cầu thực tế, gây khó khăn trong việc kiểm soát tốc độ tăng của TPTTT, tạo ra áp lực
lạm phát đối với nền kinh tế hay sự phối kết hợp trong việc sử dụng các chính sách chưa
cao.
Kinh nghiệm của các nước cũng chỉ ra rằng, các nước theo đuổi chính sách mục
tiêu kiểm soát lạm phát thường sử dụng lãi suất ngắn hạn làm mục tiêu điều hành, bởi
kênh truyền dẫn này, có ảnh hưởng rất hiệu quả đối với giá cả.Tuy nhiên, muốn sử dụng
lãi suất ngắn hạn là mục tiêu điều hành cần phải thỏa mãn các điều kiện sau: (i). Phải tồn
tại một cơ chế mà lãi suất ngắn hạn có thể đơn phương quyết định lãi suất dài hạn mà
không có cơ chế ngược lại; (ii). Cần thiết phải có sự kiểm soát nhờ đó NHTW có thể sử
dụng các công cụ chính sách thích hợp để điều chỉnh lãi suất ngắn hạn; (iii). NHTW có
thể thông báo một cách có hiệu quả dự định của mình tới dân chúng dưới góc độ là sự
thay đổi trong mục tiêu điều chỉnh sẽ tác động tới lãi suất ngắn hạn và sau đó tới lãi suất
dài hạn thông qua sự thay đổi trong dự đoán lạm phát. ở Việt Nam rõ ràng lãi suất trên thị
trường tiền tệ vẫn chưa phải là một công cụ quyền lực của NHNN và phần nào gây ra sự
suy giảm hiệu lực của CSTT. NHNN vẫn chưa xác định được cơ chế điều hành lãi suất
ngắn hạn trên thị trường tiền tệ một cách chuẩn mực. Đồng thời, quan hệ giữa các loại lãi
suất chưa diễn ra theo đúng quy luật cung cầu và lãi suất ngắn hạn hầu như không có ảnh
hưởng đến thị trường vốn chung và dài hạn [14, tr. 91].
Một lý do nữa cũng không kém phần quan trọng trong đó là việc xây dựng và
điều hành CSTT của Việt Nam thời gian qua còn nhiều bất cập và chưa thực sự tạo
được niềm tin của công chúng.
* Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế như sau: (1). Do nền kinh tế Việt
Nam đang trong thời kỳ chuyển đổi và mở cửa với điểm xuất phát là một nền kinh tế
yếu kém, lạc hậu chính vì vậy việc tiếp cận với những nền kinh tế thị trường nói chung
còn gặp nhiều khó khăn. Riêng đối với chính sách tiền tệ mới được xây dựng và thực thi
trong hơn 10 năm qua nền kinh tế còn nhiều bỡ ngỡ cả về phương diện lý thuyết lẫn
thực tế; (2). Thị trường tài chính, tiền tệ kém phát triển làm cho công cụ của CSTT khó
có điều kiện phát huy hiệu quả. (3). Nền kinh tế Việt Nam đang ở trong giai đoạn đầu
nền kinh tế thị trường chưa ổn định. Chính vì vậy, quy luật thị trường vẫn chưa phát huy
hết tác dụng của nó, quan hệ cung - cầu trên thị trường còn bị tác động và can thiệp bởi
nhiều yếu tố chủ quan không theo quy luật thị trường; (4). Ngân hàng Nhà nước chưa
thực sự là cơ quan hoạch định CSTT mà về cơ bản chỉ là cơ quan thực thi CSTT, thậm
chí quá trình điều hành còn bị chi phối bởi các quyết định của Chính phủ. CSTT phụ
thuộc quá nhiều vào các chính sách khác, thậm chí làm hộ công việc của các cơ quan
khác như chính sách hội chợ và thông qua lãi suất, tỷ giá. Khoanh nợ, xóa nợ của các
NHTM thêm vào đó còn có khá nhiều các cơ quan, tổ chức tham gia chỉ đạo và giám sát
việc xây dựng thực thi CSTT. (5). Sự thiếu hụt về thông tin cũng như những khó khăn
trong việc thu thập dữ liệu cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quy trình xây dựng; (6). Sự phối
hợp giữa các bộ ngành chưa làm tốt và chặt chẽ, có những hạn chế trong việc ban hành các
chính sách, văn bản hướng dẫn thực thi; (7). Trình độ cán bộ điều hành thực thi CSTT còn
chưa đồng đều về mặt chuyên môn và kinh nghiệm.
1.3.4. Bài học kinh nghiệm đối với Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
Lào là một nước kém phát triển, nền kinh tế lạc hậu, chủ yếu là kinh tế nông
nghiệp chiếm 80%,và mới chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế thị trường. Vì vậy, Lào muốn theo đuổi được chính sách mục tiêu kiểm soát lạm
phát cần phải đạt được một số vấn đề cơ bản sâu đây:
1. Việc xác định thời điểm tốt nhất để tiến hành thực hiện mục tiêu là thời điểm
nào?. Có thể nói đây là yếu tố ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại của
CSTT.Thông thường thời điểm tốt nhất để tiến hành là sau khi đạt được một số thành
công ban đầu trong việc kiểm soát lạm phát.
2. Tính công khai minh bạch và sự giải thích có hiệu quả của chiến lược CSTT.
Chính là mục tiêu lạm phát phải được chuyển tải rộng rãi đến công chúng và thị trường
thông qua các phương tiện hợp lý nhất, kết hợp với việc chỉ dẫn tập quán..., NHTW
cũng phải thường xuyên phổ biến CSTT tới dân chúng để tạo lập được sự hỗ trợ và sự
hiểu biết mục tiêu, phải xác định cơ quan thiết lập và thực hiện mục tiêu nhằm xác định
rõ trách nhiệm của NHTW, Bộ tài chính. Có thể là NHTW, Chính phủ hoặc cả hai cơ
quan thiết lập mục tiêu, điều này có nghĩa là mục tiêu lạm phát được xác định trên cơ sở
cấu trúc hoặc là áp lực chính trị. Nhưng dù sao thì NHTW cũng cần phải có được sự độc
lập tương đối của mình trong việc thực thi chính sách này.
3. Việc lượng hóa chỉ tiêu, chỉ số lạm phát phải được công chúng quan tâm và
hiểu được một cách rõ ràng, chính xác, đúng lúc,đồng thời nó cũng phải loại trừ được
những ảnh hưởng của những cú sốc giá cả và những ảnh hưởng từ các hoạt động của
CSTT được thực hiện trước đây.
4. Việc xác định mức độ linh hoạt của CSTT, trong đó phải xác định được mục
tiêu lạm phát là một con số cụ thể hay được giới hạn trong một khung mục tiêu nhất
định? Độ lệch ngoài mục tiêu lạm phát được phép là bao nhiêu? Mục tiêu lạm phát có
được thay đổi theo thời gian hay không?
Như chúng ta đã biết những cú sốc có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ lạm phát bất cứ
lúc nào và những ảnh hưởng của CSTT là không ổn định, cho nên tỷ lệ lạm phát thường
có biến động lớn.Vì vậy, mục tiêu lạm phát nên được xác định bằng một khung nhất
định để có thể thích nghi với sự biến động của lạm phát. Đồng thời kinh nghiệm các
nước cũng chỉ ra rằng, việc duy trì một khung lạm phát hẹp, có thể dẫn tới sự biến động
của các công cụ hành chính mạnh hơn mức mà NHNN mong muốn và có thể dẫn tới sự
thiếu ổn định của các công cụ nếu những biến động này quá mạnh. Tuy nhiên, với một
khung lạm phát rộng sẽ làm cho công chúng nghi ngờ về cam kết của NHNN trong việc
thực thi mục tiêu lạm phát. Điều này làm phát sinh phương án tiếp cận thứ hai là mục
tiêu lạm phát là một con số cụ thể. Cách tiếp cận này là hạn chế tính linh hoạt của CSTT
trong việc đáp ứng lại các cú sốc, mà hiệu quả của chúng là làm cho tỷ lệ lạm phát bị
lệch ngoài mục tiêu đề ra. Một vấn đề nữa cần phải quan tâm là mục tiêu lạm phát có
thể thay đổi theo thời gian, có nghĩa là sử dụng thời gian như một công cụ để làm tăng
tính linh hoạt của chính sách mục tiêu lạm phát.
5. Việc xác định khung thời gian hợp lý đối với mục tiêu lạm phát: thường thì
khi theo đuổi chính sách này, NHTW khi thiết lập chính sách cần phải tính toán khung
thời gian như thế nào cho hợp lý; bởi vì, CSTT ảnh hưởng lên lạm phát với độ lệch về
thời gian tương đối dài; do đó, CSTT không thể đạt được mục tiêu lạm phát cụ thể ngay lập
tức mà chỉ có thể đạt được sau một thời gian nhất định. Ngoài ra các cú sốc kinh tế có thể
xuất hiện trong khoảng thời gian giữa thời điểm khởi xướng CSTT và thời điểm phát huy
tác dụng của nó.
Chương 2
Thực tiễn điều hành chính sách tiền tệ kiểm soát lạm phát ở cộng hòa dân chủ nhân dân lào
từ năm 1994 đến nay
2.1. Thực trạng lạm phát ở Lào từ năm 1994 đến nay
Sau những cải cách bước đầu về giá 1985, Lào bước vào thực hiện kế hoạch 5
năm lần thứ II (1986-1990). Giai đoạn 1986-1987, CHDCND Lào thực hiện thống nhất
bảy tỷ giá hối đoái chính thức khác nhau được áp dụng như: tỷ giá cho dự án, tỷ giá cho
các hoạt động thương mại, hoạt động du lịch, tiền gửi về nước, tỷ giá cho các công ty
hỗn hợp xuất nhập khẩu... Do những bất cập mà việc theo đuổi nhiều tỷ giá mang lại,
vào tháng 9 năm 1987, Chính phủ đã hạ xuống còn bốn tỷ giá. Đến giữa năm 1988, Lào
đã thiết lập tỷ giá hối đoái thống nhất và duy nhất là 400$/ Kíp, và từ những năm 1990
trở lại đây thì tỷ giá luôn ở mức 720 Kíp/ USD [25, tr. 110-111].
Tính từ thời kỳ năm 1990 - 1994, Trong những năm đầu của công cuộc đổi mới,
tình hình kinh tế-xã hội Lào phát triển tương đốt nhanh và ổn định. Tốc độ tăng trưởng
kinh tế (GDP) bình quân hàng năm tăng khoảng 6,5%, trong đó nông nghiệp tăng 3,4%;
công nghiệp 13% và dịch vụ 7%. Lạm phát đã giảm xuống so với trước. Tỷ giá hối đoái
tương đối ổn định, khoảng 900 Kíp/1USD. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 1995 đến 1999
tình hình kinh tế của Lào đã có chuyển biến không lành mạnh. Tốc độ tăng trưởng GDP
có xu hướng chậm lại và giảm dần, năm 1998 tăng 4%. Tỷ lệ lạm phát tăng lên từ hai
con số đến ba con số, tháng 6/1998 tỷ lệ lạm phát lên tới 101,57%; vào tháng 12/1998 tỷ
lệ lạm phát là 142%, tỷ lệ lạm phát thời điểm cao nhất trong lịch sử của Lào là 167%
vào tháng 3/1999 và bùng nổ trở thành siêu lạm phát năm 1998-1999. Xuất khẩu, đầu tư
trực tiếp, viện trợ nước ngoài giảm mạnh. Cán cân thanh toán quốc tế bội chi lớn và tỷ
giá hối đoái biến động không bình thường. Chỉ số giá cả tăng trung bình hàng năm ở
mức 38,54% - 88,02%. Lạm phát cao đã làm các doanh nghiệp trong nước và nước
ngoài hoạt động khó khăn; kinh doanh kém hiệu quả, các nhà đầu tư nản lòng. Ngân
hàng thương mại thiếu tiền mặt, dư nợ quá hạn cao, đứng trước nguy cơ đổ vỡ.
Tuy nhiên, sau khi siêu lạm phát có những tác động tiêu cực cho kinh tế -xã hội thì
chính sách chống lạm phát, kiềm chế và đẩy lùi siêu lạm phát, tiến tới kiểm soát lạm phát
mới trở thành vấn đề có ý nghĩa chiến lược quan trọng ở Lào.
Trước tình hình đó, Chính phủ Lào đã có nhiều biện pháp kiểm chế lạm phát,
đặc biệt trong năm 1997-1999. Kiểm soát lạm phát là một trong những vấn đề ưu tiên
trong việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Để bình ổn giá cả, Nhà
nước đã áp dụng đồng bộ các biện pháp tài chính, tiền tệ và đã có được những thành
công trong việc đẩy lùi siêu lạm phát vào những năm cuối thập kỷ 90 và tiếp tục chống
lạm phát vào đầu những năm 2000. Lạm phát đang ở mức 128,38% (tính trung bình
năm) vào năm 1999 giảm xuống rõ rệt vào năm 2000 còn 23,14% (tính trung bình năm)
và đến năm 2001 giảm xuống còn 7,81% (tính trung bình năm). Năm 2002 là 10,63%;
2003 là 15,49%; 2004 là 10,46% và cuối tháng 6/2005 tỷ lệ lạm phát là 8%, theo kế
hoạch năm 2005 tỷ lệ lạm phát là 8,5%.Trong thời gian trước những năm 2000, CSTT
tác động đến giá cả thị trường chủ yếu thông qua việc điều hòa lưu thông tiền tệ và
chính sách lãi suất. Điều đáng nói ở đây là do chưa thấy rõ tầm quan trọng của chính
sách lãi suất trong việc điều chỉnh kinh tế, giảm lạm phát nên ngân hàng quy định lãi
suất huy động của dân thấp xa so với tốc độ lạm phát; đồng thời, áp dụng lãi suất cho
vay với nền kinh tế cũng thấp hơn so với lạm phát và thấp hơn lãi suất tiền gửi. Chính
sách lãi suất âm này đã làm tê liệt hoạt động của ngân hàng. Phần lớn tiền mặt nằm
ngoài lưu thông hoặc bị cất giữ trong tay dân chúng, trong khi các đơn vị được vay vốn
với lãi suất thấp nên cũng không quan tâm tới hiệu quả sử dụng vốn thậm chí còn dùng
nguồn vốn vay để đầu cơ tích trữ vật tư, hàng hóa. Kết quả là lạm phát ngày càng tăng.
Phải đến tháng 7 năm 2000, sự thay đổi trong điều hành lãi suất mới góp phần ngăn
chặn lạm phát. Trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay, CSTT đang được xây dựng đúng
hướng và góp phần không nhỏ vào kiểm soát lạm phát mặc dù không tránh khỏi những
hạn chế, vướng mắc.
Bảng 2.1: Tỷ lệ lạm phát từ năm 1994 - 6/2005
Năm
Tỷ lệ
l.phát
1994 6.74
1995 19.65
1996 15.84
1997 19.50
1998 90.12
1999 128.38
2000 23.14
2001 7.81
2002 10.63
2003 15.49
2004 10.46
6/2005 5.35
2.1.1. Giai đoạn 1994 - 1996
2.1.1.1. Tỷ lệ lạm phát
Trong thời kỳ này lạm phát bắt đầu có biểu hiện biến động từ một con số đến
hai con số, đặc biệt là vào tháng 8/1995 tỷ lệ lạm phát lên tới 27,64%, đến cuối năm
1996 lạm phát là 15,84% nhưng chỉ số giá cả lại tăng lên tới 16,96%, tỷ giá hối đoái
cũng có sự biến động năm 1994 là 1USD = 772 LAK (Kíp Lào) đến cuối năm 1996 là
1USD = 948,58 Kíp trong 2 năm đồng Kíp Lào mất giá trung bình 11,9%. Qua những
con số nêu trên có thể thấy sự biểu hiện của lạm phát, sự tăng trưởng kinh tế có xu
Biểu 2.1: Tỷ lệ lạm phát từ
1994 - 6/2005
199
6
1997 199
9
2000 1998 1995 200
4
2003 2002 2001 6/200
5
6
0
5
0
4
0
3
0
2
0
1
0
12
0
11
0
10
0
9
0
8
0
7
0
13
0
0
23.
7.19.
15.19
6.
5.10.
15.10.
128.38
90.12
1994
7.
81
hướng giảm xuống từ 8,1% (1994) xuống 7% (1995) và đến 6.8% (1996) và tác động
của lạm phát trong giai đoạn này không có tác hại đến nền kinh tế của Lào, lạm phát
trong thời kỳ này đã chuyển từ dạng ẩn sang mở. Tuy nhiên, việc nhận thức đúng đắn về
lạm phát để đưa ra những giải pháp kiềm chế trong thời gian này là hết sức cần thiết, và
là nhiệm vụ cấp bách của các cơ quan có liên quan đặc biệt là NHNN Lào. Chúng ta có
thể xem tỷ lệ lạm phát dưới đây:
Bảng 2.2: Tỷ lệ lạm phát theo tháng từ năm 1994 - 1996
Đơn vị tính: %
Nă
m
T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12 CN
199
4
7.45 7.34 9.34 7.98 7.29 6.95 5.11 5.01 5.88 5.29 7.07 6.78 6.74
199
5
7.93 8.51 10.5
4
14.7
5
21.1
2
18.9
9
19.5
6
24.6
7
27.0
5
26.9
8
26.8
6
25.6
6
19.6
5
199
6
27.3
5
28.9
7
26.1
8
21.6
3
16.7
1
17.3
5
15.4
1
8.44 7.01 7.56 9.40 12.7
7
15.8
4
Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước Lào năm 1996.
Bảng 2.3: So sánh tỷ lệ tăng trưởng của GDP, tỷ lệ lạm phát
và chỉ số giá cả 1994-1996
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu 1993 1994 1995 1996
GDP 5.9 8.1 7.0 6.8
Tỷ lệ lạm phát 6.28 6.74 19.65 15.84
Chỉ số giá cả 11.47 12.24 14.64 16.96
Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước Lào năm 1996.
- Vào năm 1994 tỷ lệ lạm phát chỉ ở mức một con số, còn chỉ số giá cả ở mức
hai con số, cụ thể là: Tính cả năm tỷ lệ lạm phát là 6,74%, chỉ số giá cả là 12,24%. Nói
chung mức độ tỷ lệ lạm phát đã nêu trên cũng không ảnh hưởng đến nền kinh tế của
Lào.
- Vào năm 1995- 1996 tỷ lệ lạm phát có sự biến động từ một con số đến hai con
số, tính trung bình năm (năm 1995 tỷ lệ lạm phát là 19,65% và đến năm 1996 là
15,84%).
2.1.1.2. Nguyên nhân của lạm phát
Ngày 2 tháng 12 năm 1975, nước CHDCND Lào ra đời, trải qua các cuộc chiến
tranh nửa thế kỷ, nền kinh tế Lào ở trong tình trạng yếu kém về mọi mặt, chủ yếu dựa vào
viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam. Đến năm 1986 Đại hội IV
Đảng Nhân dân cách mạng Lào đánh dấu một bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện và sâu
sắc của nền kinh tế Lào đó là việc chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước cùng với xu thế mở của và hội
nhập với quốc tế.
Như chúng ta biết từ những năm 80, nền kinh Lào mọi mặt điều yếu kém chủ
yếu là dựa vào việc hỗ trợ của nước ngoài, sản xuất hàng hóa trong nước coi như không
có. Đến năm 1991, Đại hội V Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã khai mạc, đánh giá
thành tựu đạt được trong những năm qua và rút ra những khuyết điểm còn tồn tại trong
quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV. Đại hội Đảng lần thứ V đã đề
ra những chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, đổi mới hệ thống
chính trị nhằm tiếp tục xây dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân dân. Nền kinh tế đã
khởi sắc và đã có chiều hướng phát triển rõ rệt, GDP tăng trưởng tương đối ổn định,
trung bình là 7,3% (từ 1994 - 1996), chủ yếu là sự phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp
và dịch vụ. Đối với lĩnh vực tài chính ngân hàng cũng góp phần không ít vào chiến lược
phát triển kinh tế vĩ mô của đất nước.
Nguyên nhân lạm phát thời kỳ này bao gồm:
1. NHNN áp dụng CSTT nới lỏng về tỷ giá hối đoái có nghĩa là thị trường tự do
quyết định tỷ giá. NHNN là người quản lý chỉ số giá cả tăng lên theo tỷ giá hối đoái. Chính
phủ đã phải đưa ra một số biện pháp tăng cầu tiêu dùng nhằm tạo ra sự phát triển nhịp
nhàng giữa chống lạm phát và tăng trưởng kinh tế.
2. Chính phủ phải chi tổng vốn đầu tư 198,2 tỷ Kíp Lào, so với năm trước tăng
35%, chủ yếu là chi xây dựng cơ sở hạ tầng để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp chiếm
phần lớn, làm cho việc cung tiền tiền lưu thông trong xã hội tăng lên.
3. Đầu tư nước ngoài vào Lào có dấu hiệu tăng lên so với năm trước, vì năm
1994 Lào đã có luật đầu tư nước ngoài vào Lào, đây cũng là một lý do làm cho lượng
tiền trong xã hội tăng lên [29]. Thể hiện qua con số sau đây:
Bảng 2.4: Tình hình đầu tư nước ngoài từ 1990-1996
Đơn vị tính: Triệu USD
Chỉ tiêu 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996
Số dự án 48 69 101 157 112 32 53
Số vốn đăng ký 91.62 123.10 110.71 125.7 547 603 975
Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước Lào năm 1996.
Như vậy, sự gia tăng của chi tiêu Chính phủ, đầu tư trong nước và đầu tư nước
ngoài tăng làm cho tổng cầu của nền kinh tế tăng làm cho giá cả tăng.
2.1.2. Giai đoạn 1997-1999
2.1.2.1. Tỷ lệ lạm phát
Trong giai đoạn này, tỷ lệ lạm phát là ở mức cao nhất trong lịch sử của Lào
sau Đại hội IV của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, đặc biệt là trong giai đoạn 1997-
1998 Lào tiếp tục chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính trực tiếp của các nước
trong khu vực. Năm 1997 GDP tăng 7,2% nhưng 1998 GDP giảm xuống còn 4% và
trong tháng 3-1999 tỷ lệ lạm phát đột biến lên tới 167 % trở thành (siêu lạm phát), tỷ
giá hối đoái giữa đồng Kíp và đồng USD của NHNN quy định và thị trường tự do
trong năm 1996 mất giá 5%, năm 1997 mất giá 26,7%, năm 1998 mất giá 61,94% và
đến năm 1999 mất giá 54,34%, trong thời điểm nói trên nếu so sánh sự mất giá với
đồng Baht Thái Lan cũng khá cao (xem bảng 2.5). Sau thời kỳ tăng nhẹ nhưng liên
tục và tương đối đều đặn từ đầu năm, vào 1-1997 đến cuối quý I năm 1999 tỷ giá hối
đoái giữa đồng Kíp và USD đã tăng vọt lên đến 6.000 K/USD vào tháng 4, sau đó
tăng vọt lên đỉnh cao 9.320 K/USD vào tháng 7 năm 1999. Cũng trong thời gian đó,
chỉ số giá cả cũng tăng vọt lên 167% vào tháng 3 năm 1999 từ mức 11,4% vào 1-
1997. Còn năm 1998 là 62,75% trong tháng 5-1998 và đến tháng 6-1998 tăng vọt lên
đến 101,5%, thì chỉ số giá cả bình quân hàng năm từ 1997 -1999 tương ứng là
19,31%, 87,35% và 133,9%. Rõ ràng năm 1999, nhất là trong nửa đầu năm 1999,
mức lạm phát của Lào nghiêm trọng nhất trong giai đoạn 1997 - 1999.
CHDCND Lào vẫn là nước nông nghiệp, nông nghiệp chiếm tới khoảng 52%
GDP trong mấy năm trở lại đây; công nghiệp chiếm chỉ khoảng 23% và dịch vụ là trên
25%. Tăng trưởng của sản xuất nông nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với tăng trưởng
chung của toàn bộ nền kinh tế, đồng thời hỗ trợ quan trọng cho việc thực hiện các giải
pháp tiền tệ - tài chính chống lạm phát. Thực tế này cũng chỉ ra rằng, CHDCND Lào
còn có tiềm năng lớn trong tăng trưởng của khu vực công nghiệp và dịch vụ, đồng thời
có thể giảm tỷ lệ của khu nông nghiệp trong GDP nhưng tăng chất lượng của phát triển
nông nghiệp thông qua chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, áp dụng khoa học - công
nghệ , lựa chọn các loại cây giống, các con giống có năng suất cao vào trong lĩnh vực
này.
Bảng 2.5: Tỷ lệ mất giá đồng Kíp Lào so với USD và Baht Thái Lan
Đơn vị tính: %
Năm 1996 1997 1998 1999
Kíp/USD -5 -29 -61,94 -54,34
Kíp/Baht -4,8 -14,06 -50,48 -56,88
Nguồn: Báo cáo thường niên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Một số giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát trong việc thực thi chính sách tiền tệ ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.pdf