Tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty điều hành hướng dẫn du lịch Vinatour: Luận văn
Một số giải pháp nhằm hoàn
thiện công tác phân tích tài
chính tại Công ty điều hành
hướng dẫn du lịch Vinatour
LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp cần phải kinh doanh có
hiệu quả, nâng cao khả năng cạnh tranh để phát triển. Trong việc quản trị
và điều hành doanh nghiệp, những vấn đề về tài chính luôn có ý nghĩa sống
còn đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Do vậy, doanh nghiệp
cần phải nắm bắt được thực trạng tài chính để đưa ra những quyết định
quản lý phù hợp. Bên cạnh đó, các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp như
các chủ nợ, cơ quan thuế… cũng quan tâm đến tình hình tài chính của
doanh nghiệp. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp cần phải thường xuyên phân
tích tình hình tài chính của mình. Thực tiễn cho thấy, những nhà kinh
doanh, các chủ doanh nghiệp chú trọng tới công tác phân tích tài chính thì
họ sẽ có những quyết định đúng và thành công trong kinh doanh, ngược lại
thì họ sẽ khó tránh khỏi sai lầm và bị thất bại...
101 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1072 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty điều hành hướng dẫn du lịch Vinatour, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Một số giải pháp nhằm hoàn
thiện công tác phân tích tài
chính tại Công ty điều hành
hướng dẫn du lịch Vinatour
LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp cần phải kinh doanh có
hiệu quả, nâng cao khả năng cạnh tranh để phát triển. Trong việc quản trị
và điều hành doanh nghiệp, những vấn đề về tài chính luôn có ý nghĩa sống
còn đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Do vậy, doanh nghiệp
cần phải nắm bắt được thực trạng tài chính để đưa ra những quyết định
quản lý phù hợp. Bên cạnh đó, các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp như
các chủ nợ, cơ quan thuế… cũng quan tâm đến tình hình tài chính của
doanh nghiệp. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp cần phải thường xuyên phân
tích tình hình tài chính của mình. Thực tiễn cho thấy, những nhà kinh
doanh, các chủ doanh nghiệp chú trọng tới công tác phân tích tài chính thì
họ sẽ có những quyết định đúng và thành công trong kinh doanh, ngược lại
thì họ sẽ khó tránh khỏi sai lầm và bị thất bại.
Nước ta đang trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế càng đòi
hỏi những thay đổi về chất lượng hoạt động tài chính doanh nghiệp, đặc
biệt là trong công tác phân tích tài chính. Các doanh nghiệp đã quan tâm
đến việc phân tích tài chính nhằm bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn. Tuy nhiên, vẫn còn những vướng mắc nhất định, từ nguồn thông tin
phục vụ đến nội dung và phương pháp phân tích, những điều này đã làm
hạn chế đáng kể hiệu quả và tác dụng của phân tích tài chính doanh nghiệp.
Đây cũng là vấn đề cần tháo gỡ trong công tác phân tích tài chính của Công
ty điều hành hướng dẫn du lịch Vinatour. Vì lý do này, em đã chọn đề tài
"Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại
Công ty điều hành hướng dẫn du lịch Vinatour"
Chương I: Khái quát về phân tích tài chính doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng công tác phân tích tài chính doanh nghiệp ở
Công ty điều hành hướng dẫn du lịch Vinatour.
Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính ở
Công ty điều hành hướng dẫn du lịch Vinatour.
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.1 sự cần thiết của phân tích tài chính doanh nghiệp
Để thấy được sự cần thiết của công tác phân tích tài chính doanh
nghiệp trước hết ta cần phải hiểu thế nào là một doang nghiệp và hoạt động
chính của doanh nghiệp. Theo luật doanh nghiệp được quốc hội nước
CHXHCN VN thông qua ngày 12/6/1999 thì Doanh nghiệp là tổ chức kinh
tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động
kinh doanh .
Trong nền kinh tế thị trường, các loại hình doanh nghiệp được chia
ra thành nhiều loại như doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân,
Công ty TNHH, Công ty cổ phần, Công ty liên doanh, Công ty 100% vốn
nước ngoài... Mỗi loại hình kinh doanh đều có ưu nhược điểm riêng của nó
và phù hợp với quy mô hoạt động, trình độ phát triển nhất định. Tuy nhiên,
tất cả các loại hình kinh doanh đều là các doanh nghiệp có nghĩa là đều tiến
hành các hoạt động kinh doanh trên thị trường để thu lợi nhuận.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp
phải bắt đầu bằng tiền và kết thúc cũng bằng tiền thu được từ việc bán
hàng. Muốn đầu tư vào tài sản, doanh nghiệp phải có nguồn tài trợ. Nguồn
tài trợ ngắn hạn để mua sắm TSLĐ còn tài trợ dài hạn để đầu tư cho TSCĐ.
Khi có nguồn tài trợ và đầu tư các tài sản, doanh nghiệp tiến hành sản xuất
kinh doanh. Kết thúc quá trình này, doanh nghiệp có thể xác định thu nhập,
chi phí, thuế và lãi cũng như xác định dòng tiền vào, ra trong ngân quỹ xí
nghiệp. Kết quả của quá trình kinh doanh được phản ánh trong báo cáo kết
quả kinh doanh và Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Trong khi đó, tại một thời
điểm nhất định ( thường là cuối tháng, quý, năm ... ) doanh nghiệp có thể
lập bảng cân đối kế toán trên cơ sở các dự trữ tài chính của mình.
Tóm lại, các dòng và dự trữ tài chính là nền tảng của hoạt động tài
chính doanh nghiệp, phản ánh toàn bộ những nghiệp vụ kinh tế phát sinh
trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì
vậy hoạt động tài chính là hoạt động không thể thiếu được trong hoạt động
sản xuất kinh doanh và trong thực hiện các mục tiêu của hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Việc nghiên cứu, phân tích và đánh giá sự chuyển hoá giữa các dòng
tài chính và dự trữ tài chính và ngược lại, cũng như sự ảnh hưởng của sự
chuyển hoá đó tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chính
là hoạt động phân tích tài chính. Phân tích tài chính doanh nghiệp sẽ dẫn
đến việc đưa ra các quyết định quản lý tài chính doanh nghiệp, từ đó có tác
động đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Theo giáo trình những vấn đề cơ bản về quản trị tài chính doanh
nghiệp thì: "Phân tích tài chính là một tập hợp các khái niệm, phương pháp
và các công cụ cho phép thu thập và xử lý các thông tin kế toán và các
thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính ở một doanh
nghiệp, khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp đó, giúp người sử dụng
thông tin đưa ra các quyết định tài chính, quyết định quản lý phù hợp."
Để hiểu rõ vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp, trước hết
chúng ta hiểu rõ về quản lý tài chính doanh nghiệp. Quản lý tài chính
doanh nghiệp là quá trình ra quyết định nhằm tác động đến các dòng và dự
trữ tài chính và sự chuyển hóa giữa chúng để đạt được các mục tiêu của
doanh nghiệp. Quản lý tài chính luôn luôn giữ một vị trí trọng yếu trong
hoạt động quản lý của doanh nghiệp, nó quyết định đến tính độc lập, sự
thành bại của doanh nghiệp trong cuộc đời kinh doanh. Mọi quyết định của
doanh nghiệp như đưa ra một sản phẩm mới hay ngừng sản xuẩt kinh
doanh một sản phẩm cũ, mở rộng quy mô TSCĐ hay thay đổi cơ cấu
TSCĐ, phát hành cổ phiếu, trái phiếu ... đều gián tiếp hoặc trực tiếp liên
quan đến hoạt động tài chính và do vậy, luôn cần đến các quyết định quản
lý tài chính.
Tuy nhiên, mục tiêu của quản lý tài chính doanh nghiệp lại phụ thuộc
vào quan điểm của từng người quan tâm đến tình hình tài chính doanh
nghiệp. Đó là ngân hàng, những nguồn tài trợ vốn cho doanh nghiệp trong
quá trình sản xuất kinh doanh. Đó còn là cơ quan thuế, những người quan
tâm đến nguồn thu vào NSNN từ doanh nghiệp. Và đặc biệt đó còn là
những người đầu tư trên thị trường chứng khoán, những nhà tài trợ tiềm
năng của doanh nghiệp. Với ý nghĩa đó, phân tích tài chính doanh nghiệp
cần thiết đối với tất cả các đối tượng:
- Đối với chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp: Phân
tích tài chính doanh nghiệp sẽ cho thấy khả năng thu được lợi nhuận, khả
năng phát triển và tối đa hoá giá trị doanh nghiệp, những vấn đề thuộc về
lĩnh vực đầu tư và tài trợ. Đối với những đối tượng này, phân tích tài chính
doanh nghiệp sẽ đưa đến các quyết định về đầu tư, các quyết định về lĩnh
vực, quy mô kinh doanh, quyết định chia lợi tức cổ phần. Ngoài ra phân
tích tài chính còn làm cơ sở cho các dự báo về tài chính để từ đó lập kế
hoạch đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh. Đặc biệt đối với các nhà quản
trị, đây là một công cụ hữu hiệu để quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh
của doanh nghiệp.
- Đối với ngân hàng và các chủ nợ: Mối quan tâm đặc biệt của nhóm
đối tượng này là khả năng thanh toán hiện tại và trong tương lai của doanh
nghiệp. Phân tích tài chính với các nhà cho vay sẽ giúp họ ra quyết định
chấp thuận hoặc từ chối cho vay. Đối với những khoản vay ngắn hạn, chủ
nợ quan tâm đặc biệt đến khả năng thanh toán hiện tại và khả năng thanh
toán nhanh của doanh nghiệp. Còn đối với các khoản cho vay dài hạn thì
mối quan tâm lại tập trung vào khả năng hoàn trả và sinh lời của doanh
nghiệp mà việc hoàn trả vốn và lãi sẽ tuỳ thuộc vào khả năng sinh lợi này.
- Đối với cơ quan thuế: Phân tích tài chính doanh nghiệp sẽ xác định
được doanh thu, chi phí và thu nhập của doanh nghiệp cùng các yếu tố khác
từ đó xác định được chính xác thuế doanh nghiệp phải nộp.
- Đối với các nhà đầu tư: Nhà đầu tư quan tâm đến 2 vấn đề chủ yếu
là khả năng sinh lời và mức độ rủi ro trong hoạt động của doanh nghiệp.
Phân tích tài chính doanh nghiệp sẽ cho biết khả năng sinh lời của vốn đầu
tư (lãi cổ tức) và đánh giá rủi ro phá sản tác động đến doanh nghiệp mà
biểu hiện của nó là khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn, năng lực
hoạt động của doanh nghiệp. Những yếu tố này thường xuyên tác động đến
trị gía của doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán và giúp nhà đầu tư ra
quyết định đầu tư của mình.
- Đối với những người lao động trong doanh nghiệp: Phân tích tài
chính doanh nghiệp sẽ cho biết khả năng hoạt động của doanh nghiệp, từ
đó có ảnh hưởng đến công ăn việc làm và những quyền lợi họ được hưởng
trong doanh nghiệp.
Nhìn chung, phân tích tài chính doanh nghiệp là một nhu cầu khách
quan của quản lý tài chính doanh nghiệp. Việc phân tích tài chính doanh
nghiệp còn là cơ sở cho những đối tượng quan tâm đến doanh nghiệp ra
quyết định chính xác theo những mục tiêu của họ. Tóm lại, công tác phân
tích tài chính là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết đối với tất cả
các doanh nghiệp.
Để thấy rõ vài trò và tầm quan trọng của phân tích tài chính trong
quản lý doanh nghiệp ta xem sơ đồ 1.1
Sơ đồ 1.1 : Vai trò và vị trí của công tác phân tích tài chính trong
quản lý doanh nghiệp.
Nghiên
cứu thị
trường
Ra quyết
định
quản lý
Lập kế hoạch sản
xuất kinh doanh
và tài chính
Tổ chức
điều
hành
Hoạt động
sản xuất
kinh doanh
Phân tích tài Kiểm toán Kế toán
chính doanh
nghiệp
(nội bộ và bên
ngoài)
thống kê
Qua sơ đồ trên ta có thể thấy rằng mỗi quyết định quản lý của doanh
nghiệp sẽ không thể thiếu những phân tích tài chính cần thiết. Phân tích tài
chính doanh nghiệp chủ yếu dựa vào các nguồn thông tin có sẵn từ nội bộ
doanh nghiệp qua các báo cáo tài chính. Tuy vậy nó không chỉ cung cấp
thông tin về thực trạng hoạt động tài chính mà hơn nữa, nó còn dự đoán các
nhu cầu tài chính và đưa ra những chỉ dẫn về điều chỉnh cơ cấu tài chính
doanh nghiệp.
1.2 Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
Công tác phân tích tài chính doanh nghiệp bao gồm các hoạt động từ
thu thập thông tin, xử lý thông tin cho đến dự đoán và ra quyết định. Trong
đó người phân tích phải sử dụng các phương pháp khác nhau để phân tích.
1.2.1 Công cụ sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính doanh nghiệp sử dụng mọi nguồn thông tin có
khả năng làm rõ mục tiêu của dự đoán tài chính. Từ những thông tin nội bộ
đến những thông tin bên ngoài, từ thông tin số lượng đến thông tin giá trị
đều giúp cho nhà phân tích có thể đưa ra được những lời nhận xét, kết luận
thích đáng. Tuy nhiên thông tin kế toán là một loại thông tin cực kỳ cần
thiết. Thông tin kế toán được phản ánh khá đầy đủ trong các báo cáo kế
toán. Phân tích tài chính được thực hiện trên cơ sở các báo cáo tài chính
được hình thành thông qua việc xử lý các báo cáo kế toán, đó là bảng cân
đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ...
- Bảng cân đối kế toán: Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài
chính mô tả tình trạng tài chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm
nhất định nào đó.Bảng cân đối kế toán gồm 2 phần là Tài sản và nguồn
vốn. Bên tài sản phản ánh toàn bộ tài sản hiện có đến thời điểm lập báo cáo
thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp: đó là TSCĐ, TSLĐ.
Bên nguồn vốn phản ánh nguồn hình thành các tài sản của doanh nghiệp
tính đến thời điểm lập báo cáo, đó là nguồn vốn chủ sở hữu và các khoản
nợ.
Bảng cân đối kế toán là một tư liệu quan trọng giúp cho nhà phân
tích đánh giá được khả năng cân bằng tài chính, khả năng thanh toán và cơ
cấu vốn của doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp lập bảng cân đối kế toán
theo từng ngày để theo dõi sự biến động của các loại tài sản trong doanh
nghiệp.
- Báo cáo kết quả kinh doanh: Báo cáo kết quả kinh doanh là báo cáo
tổng hợp cho biết tình hình tài chính của doanh nghiệp tại những thời điểm
nhất định. Đó là kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn doanh
nghiệp, kết quả hoạt động theo từng loại hoạt động kinh doanh. Ngoài ra
báo cáo kết quả kinh doanh còn cho biết tình hình thực hiện nghĩa vụ với
nhà nước của doanh nghiệp trong thời gian đó.
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một trong
bốn báo cáo tài chính bắt buộc mà bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải lập
để cung cấp cho người sử dụng thông tin của doanh nghiệp. Nếu bảng cân
đối kế toán cho biết những giá trị của tài sản của doanh nghiệp và nguồn
gốc của những tài sản đó, và báo cáo kết quả kinh doanh cho biết thu nhập
và chi phí phát sinh để tính được kết quả lỗ lãi trong một kỳ kinh doanh thì
báo cáo lưu chuyển tiền tệ được lập ra để trả lời các vấn đề liên quan đến
các luồng tiền vào, ra trong doanh nghiệp, tình hình tài trợ, đầu tư của
doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
- Các thông tin kế toán khác: Các bảng cân đối kế toán, báo cáo kết
quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ chỉ là những báo cáo tổng hợp,
mang tính thời điểm trong một thời kỳ nhất định. Do vậy, để đi vào chi tiết,
người phân tích phải sử dụng các tài liệu hạch toán khác như : sổ cái, thậm
chí cả chứng từ gốc trong các giao dịch mua, bán, vay nợ của doanh
nghiệp.
- Các thông tin khác: Hoạt động tài chính có liên quan mật thiết đến
các hoạt động khác của doanh nghiệp. Do vậy, để kết quả phân tích tài
chính được chính xác và phục vụ tốt nhất cho việc ra quyết định quản lý,
nhà phân tích cần phải sử dụng các thông tin khác như các thông tin về thị
trường, về giá cả các yếu tố đầu vào, giá cả các yếu tố đầu ra, sức mua của
sản phẩm.
1.2.2 Các phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
Phương pháp phân tích tài chính bao gồm một hệ thống các công cụ
và biện pháp nhằm tiếp cận và nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối
quan hệ bên trong và bên ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài
chính, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và chi tiết nhằm đánh giá tình hình tài
chính doanh nghiệp. Về lý thuyết có nhiều phương pháp phân tích tài chính
doanh nghiệp, nhưng trên thực tế người ta thường dùng phương pháp so
sánh và phân tích tỷ lệ :
1.2.2.1 Phương pháp so sánh:
So sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến để phân tích xác
định xu hướng, mức độ biến động của chỉ tiêu phân tích. Để tiến hành so
sánh, phải giải quyết những vấn đề cơ bản như xác định gốc so sánh, xác
định điều kiện so sánh. Gốc so sánh được chọn là gốc về mặt thời gian hoặc
không gian, nó phụ thuộc vào mục đích cụ thể của phân tích.
Kỳ phân tích thường được chọn là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, giá
trị so sánh có thể được lựa chọn là số tuyệt đối, số tương đối hoặc số bình
quân. Nội dung so sanh bao gồm:
- So sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy
rõ xu thế thay đổi tài chính của doanh nghiệp. Đánh giá sự tăng trưởng hay
thụt lùi trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để thấy mức độ phấn đấu
của doanh nghiệp
- So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số liệu trung bình của
ngành của các doanh nghiệp khác để đánh giá tình hình tài chính của doanh
nghiệp mình tốt hay xấu, được hay chưa được.
- So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với
tổng thể, so sánh theo chiều ngang của từng thời kỳ để thấy được sự biến
đổi cả về số lượng tương đối và tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đấy theo các
niên độ kế toán liên tiếp.
Các điều kiện để so sánh các chỉ tiêu là:
* Bảo đảm tính thống nhất về nội dung kinh tế các chỉ tiêu.
* Bảo đảm tính thống nhất về đơn vị tính các chỉ tiêu.
* Bảo đảm tính thống nhất về không gian, thời gian chỉ tiêu.
* Bảo đảm tính thống nhất về phương pháp tính các chỉ tiêu.
1.2.2.2 Phương pháp phân tích tỷ lệ
Phương pháp phân tích tỷ lệ dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ
của đại lượng tài chính. Về nguyên tắc, phương pháp tỷ lệ yêu cầu phải xác
định được các ngưỡng, các định mức để nhận xét, đánh giá tình hình tài
chính doanh nghiệp trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với giá trị
các tỷ lệ tham chiếu.
Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính được phân
thành các nhóm tỷ lệ đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo các
mục tiêu phân tích của doanh nghiệp. Đó là nhóm tỷ lệ về khả năng thanh
toán, nhóm tỷ lệ về cơ cấu vốn và nguồn vốn, nhóm tỷ lệ về năng lực hoạt
động kinh doanh, nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời. Mỗi nhóm tỷ lệ lại bao
gồm nhiều tỷ lệ, phản ánh riêng lẻ từng bộ phận của hoạt động của hoạt
động tài chính trong những trường hợp khác nhau. Tuỳ theo giác độ phân
tích mà người phân tích lựa chọn các nhóm chỉ tiêu khác nhau để phục vụ
mục tiêu phân tích của mình.
Phương pháp phân tích tỷ lệ là phương pháp phân tích truyền thống
được áp dụng phổ biến trong phân tích tài chính doanh nghiệp. Đây còn là
phương pháp có tính hiện thực cao với các điều kiện áp dụng ngày càng
được bổ sung và hoàn thiện.
1.2.2.3 Phương pháp phân tích tài chính Dupont
Phương pháp phân tích tài chính Dupont cho thấy mối quan hệ tương
hỗ giữa các tỷ lệ tài chính chủ yếu. Công ty Dupont là Công ty đầu tiên ở
Mỹ sử dụng các mối quan hệ chủ yếu này để phân tích các tỷ số tài chính.
Vì vậy nó được gọi là phương pháp Dupont. Ngày nay nó được sử dụng
rộng rãi ở nhiều quốc gia.
Theo phương pháp này, trước hết chúng ta xem xét mối hệ tương tác
giữa hệ số sinh lợi doanh thu với hiệu suất sử dụng tổng tài sản và ký hiệu
là Rr.
* Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (Rr):
Rr =
Lợi nhuận sau thuế
=
Lợi nhuận sau thuế
x
Doanh thu thuần
Tổng tài sản Doanh thu thuần Tổng tài sản
Tỷ số Rr cho thấy tỷ suất sinh lợi của tài sản phụ thuộc vào 2 yếu tố:
- Thu nhập ròng của doanh nghiệp trên một đồng doanh thu.
- Một đồng tài sản thì tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu.
Phân tích Rr cho phép xác định và đánh giá chính xác nguồn gốc làm
thay đổi lợi nhuận của doanh nghiệp là do hệ số sinh lợi doanh thu hay do
hiệu suất sử dụng tổng tài sản.
* Tỷ lệ sinh lời tiền vốn chủ sở hữu (Re):
Re =
Lợi nhuận sau thuế
=
Lợi nhuận sau thuế
x
DThu thuần
x
Tổng tài sản
Vốn chủ sở hữu Doanh thu thuần Tổng TS Vốn chủ sở hữu
Re = Rr x Tổng tài sản Vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu tổng tài sản trên vốn chủ sở hữu lại có thể phân tích thành:
Tổng tài sản = Tổng tài sản = 1 = 1 Vốn chủ sở hữu Tổng tài sản-nợ phải trả 1- Nợ phải trả 1 - Rd Tổng tài sản
Do vậy:
Re = Rr x
1
1 - Rd
Công thức này cho thấy khi hệ số nợ Rd tăng lên thì Re sẽ tăng, tức
tỷ lệ nợ cao sẽ khuyếch trương lợi nhuận của doanh nghiệp nếu doanh
nghiệp có lợi nhuận. Ngược lại nếu doanh nghiệp thua lỗ thì sẽ thua lỗ càng
nặng nề.
Tóm lại, phương pháp phân tích tài chính Dupont thực chất là phân
tích các tỷ lệ tài chính. Do vậy, để sử dụng phương pháp này, chúng ta phải
kết hợp nhuần nhuyễn với phương pháp tỷ lệ đã nêu ở trên.
1.2.2.4 Một số phương pháp khác
Ngoài ba phương pháp trên, người ta còn một số phương pháp khác
để phân tích tài chính. Ví dụ như:
* Phương pháp chi tiết: Người phân tích phải tìm hiểu và chi tiết hoá
các nội dung phân tích. Cụ thể là:
- Chi tiết theo các bộ phận cấu thành chỉ tiêu. Việc phân tích này sẽ
cho thấy sự ảnh hưởng của các khoản mục nhỏ tới chỉ tiêu tổng hợp.
- Chi tiết theo thời gian. Việc phân tích này sẽ cho thấy tính thời vụ
của chỉ tiêu phân tích.
- Chi tiết theo bộ phận cấu thành doanh nghiệp. Mục tiêu của việc
phân tích này là đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh doanh của các bộ
phận và khai thác điểm mạnh, hạn chế điểm yếu của từng bộ phận.
* Phương pháp liên hệ: Mọi kết quả kinh doanh đều có mối liên hệ
mật thiết với nhau giữa các mặt, các bộ phận cấu thành về nội dung kinh tế.
Do vậy, phương pháp liên hệ có thể sử dụng ngay với các mối liên hệ để
phân tích các chỉ tiêu, các tỷ lệ tài chính. Các mối liên hệ phổ biến trong
phân tích tài chính là:
- Liên hệ cân đối: Giữa tổng tài sản và tổng nguồn vốn, giữa nhu cầu
và khả năng thanh toán, giữa thu nhập, chi phí và kết quả kinh doanh...
- Liên hệ trực tuyến: Đây là mối quan hệ theo một hướng xác định
của các chỉ tiêu phân tích. Chẳng hạn lợi nhuận có quan hệ cùng chiều với
lượng hàng bán ra và ngược chiều với chi phí ...
- Liên hệ phi tuyến: Là mối liên hệ giữa các chỉ tiêu mà trong đó
mức độ liên hệ không được xác định theo một hướng nào đó. Chẳng hạn
liên hệ giữa vốn và doanh thu... Để tìm ra mối liên hệ này, ta phải sử dụng
các chỉ tiêu tài chính trung gian có liên hệ trực tuyến hoặc liên hệ cân đối
với các chỉ tiêu mà ta đang phân tích.
Ngoài ra, phân tích tài chính doanh nghiệp còn sử dụng nhiều
phương pháp khác dựa trên các công cụ hỗ trợ là máy vi tính và các phần
mềm tiện ích. Đặc biệt, các phương pháp kinh tế lượng được sử dụng để
đánh giá xu hướng biến động của các chỉ tiêu phân tích theo thời gian. Tuy
nhiên trong phạm vi đề tài này, em sẽ không đi sâu vào các các phương
pháp đó và trong quá trình phân tích tài chính doanh nghiệp, cần phải kết
hợp đồng bộ các phương pháp khác nhau để đạt kết quả theo đúng mục
đích phân tích.
1.2.3 Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.3.1 Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn trong
doanh nghiệp
Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn là xem xét
đánh giá sự thay đổi các chỉ tiêu cuối kỳ so với đầu kỳ trên bảng cân đối kế
toán về nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của doanh nghiệp. Qua việc
phân tích cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, người phân tích sẽ nắm
được sự tăng, giảm của nguồn vốn với sự tăng, giảm tương ứng của tài sản
trong một khoảng thời gian nhất định.
Nguyên tắc của phương pháp này là:
- Tăng tài sản, giảm nguồn vốn và ngược lại, giảm tài sản thì tăng
nguồn vốn.
- Tài sản và nguồn vốn phải cân đối với nhau.
Ngoài ra người ta còn sử dụng phương pháp phân tích theo dòng tiền
mặt trên cơ sở so sánh dòng tiền mặt đầu kỳ và cuối kỳ. Sau đó xác định
nguyên nhân làm thay đổi tăng, giảm tiền mặt cuối kỳ so với đầu kỳ, dựa
vào sự thay đổi theo từng chỉ tiêu của bảng cân đối kế toán. Mỗi sự thay
đổi cuối kỳ so với đầu kỳ trong từng chỉ tiêu của bảng cân đối kế toán đều
dẫn đến sự tăng (giảm) tiền mặt tương ứng, theo nguyên tắc:
- Tăng tiền mặt tương ứng với giảm tài sản và tăng nguồn vốn
- Giảm tiền mặt làm tăng tài sản và giảm nguồn vốn
- Tổng cộng tăng (giảm) tiền mặt đến cuối kỳ đúng bằng sự thay đổi
trên dòng tiền mặt cuối kỳ so với đầu kỳ của bảng cân đối kế toán.
Qua việc phân tích, ta sẽ xác định khả năng chuyển đổi vật tư, hàng
hoá và tài sản thành tiền mặt trong kỳ.
1.2.3.2 Phân tích tình hình bảo đảm nguồn vốn cho hoạt động
kinh doanh
Các loại tài sản trong doanh nghiệp bao gồm tài sản lưu động và đầu
tư ngắn hạn, tài sản cố định và đầu tư dài hạn. Để hình thành 2 loại tài sản
này phải có các nguồn vốn tài trợ tương ứng bao gồm nguồn vốn ngắn hạn
và nguồn vốn dài hạn.
- Nguồn vốn ngắn hạn là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng cho
khoảng thời gian dưới 1 năm cho hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm
nợ ngắn hạn, nợ quá hạn, nợ nhà cung cấp và nợ phải trả ngắn hạn khác.
- Nguồn vốn dài hạn là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng cho
khoảng thời gian trên 1 năm cho hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm
nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn vay dài hạn.
Nguồn vốn dài hạn được đầu tư để hình thành tài sản cố định, còn lại
được đầu tư vào tài sản lưu động. Chênh lệch giữa nguồn vốn dài hạn với
tài sản cố định được gọi là vốn lưu động thường xuyên. Đồng thời ta cũng
thấy rằng vốn lưu động thường xuyên chính là chênh lệch giữa TSCĐ với
nguồn vốn ngắn hạn.
VLĐ thường
xuyên =
Nguồn vốn
dài hạn - TSCĐ = TSLĐ -
Nguồn vốn
ngắn hạn
Chỉ tiêu VLĐ thường xuyên thể hiện mức độ an toàn của TSLĐ. Nó
cũng là chỉ tiêu tổng hợp để đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp, cụ
thể là:
- Nó cho biết doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ
ngắn hạn hay không? Nếu VLĐ thường xuyên nhỏ hơn 0, nghĩa là doanh
nghiệp đã sử dụng vốn ngắn hạn để đầu tư vào TSCĐ, do đó khả năng
thanh toán các khoản nợ ngắn hạn bị giảm sút. Ngược lại, nếu vốn lưu động
thường xuyên lớn hơn 0, khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn là rất
vững chắc.
- Nó cho biết TSCĐ của doanh nghiệp có được tài trợ một cách vững
chắc bằng nguồn vốn dài hạn hay không? Nếu VLĐ thường xuyên nhỏ hơn
0, các TSCĐ của doanh nghiệp có một phần được đầu tư bằng vốn ngắn
hạn, do vậy không chắc chắn.
Từ những phân tích nêu trên có thể thấy mức chuẩn của chỉ tiêu
VLĐ thường xuyên là bằng 0.
Ngoài chỉ tiêu VLĐ thường xuyên, để phân tích tình hình bảo đảm
nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh, người ta còn sử dụng chỉ tiêu nhu
cầu VLĐ thường xuyên. Nhu cầu VLĐ thường xuyên là nguồn vốn ngắn
hạn doanh nghiệp cần để tài trợ cho một phần TSCĐ, đó là hàng tồn kho và
các khoản phải thu. Hay nói cách khác, đó là những TSLĐ không phải là
tiền.
Nhu cầu VLĐ
thường xuyên =
Giá trị hàng tồn kho và các
khoản phải thu - Nợ ngắn hạn
Nếu nhu cầu VLĐ thường xuyên lớn hơn 0, nghĩa là nợ ngắn hạn
không đủ để tài trợ cho hàng tồn kho và các khoản phải thu, doanh nghiệp
phải dùng nguồn vốn dài hạn để tài trợ cho phần chênh lệch. Ngược lại, nếu
nhu cầu VLĐ thường xuyên nhỏ hơn 0, nguồn vốn ngắn hạn từ bên ngoài
đã đủ tài trợ cho các khoản sử dụng vốn ngắn hạn của doanh nghiệp, doanh
nghiệp không cần phải tài trợ thêm.
Giữa vốn lưu động thường xuyên và nhu cầu VLĐ thường xuyên có
mối liên hệ sau:
Vốn lưu động
thường xuyên
-
Nhu cầu vốn lưu động
thường xuyên
= Vốn bằng tiền
Việc phân tích các chỉ tiêu trên sẽ cho biết mức độ đảm bảo nguồn
vốn ngắn hạn và dài hạn để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Từ đó, doanh nghiệp sẽ có biện pháp để bảo đảm cân đối
vốn trong hoạt động tài chính, tránh những nguy cơ tiềm tàng như mất khả
năng thanh toán, tăng chi phí vốn ... Hơn nữa, việc phân tích trên còn góp
phần tối đa hoá lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.2.3.3 Phân tích kết cấu tài sản và nguồn vốn trong bảng cân đối
kế toán
Phân tích kết cấu tài sản và nguồn vốn gồm 2 nội dung chính là:
- So sánh các chỉ tiêu về tài sản và nguồn vốn trong bảng cân đối kế
toán về số tuyệt đối và tỷ trọng cuối kỳ so với đầu kỳ.
- So sánh, đánh giá tỷ trọng từng loại tài sản, nguồn vốn chiếm trong
tổng số và xu hướng biến động của các tỷ trọng này.
Trên cơ sở hai nội dung trên, người phân tích có thể đánh giá thực
trạng về nguồn vốn và tài sản của doanh nghiệp theo những tiêu thức nhất
định (tham chiếu) của doanh nghiệp nói riêng và của ngành nói chung.
1.2.3.4 Phân tích khái quát các chỉ tiêu tài chính trung gian và
trong báo cáo kết quả kinh doanh
Mục tiêu của việc phân tích những chỉ tiêu tài chính trong báo cáo
kết quả kinh doanh là xác định, phân tích mối liên hệ và đặc điểm của các
chỉ tiêu đó, đồng thời so sánh chúng qua một số niên độ kế toán liên tiếp và
so với số liệu trung bình của ngành, của địa phương nhằm đánh giá xu
hướng thay đổi của từng chỉ tiêu và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp
so với các doanh nghiệp khác.
Báo cáo kết quả kinh doanh bao gồm 9 chỉ tiêu cơ bản là:
1. Tổng doanh thu
2. Doanh thu thuần
3. Giá vốn hàng bán
4. Lãi gộp
5. Chi phí bán hàng quản lý
6. Lãi trước thuế và lợi tức tiền vay
7. Lợi nhuận trước thuế
8. Lợi nhuận sau thuế
9. Lãi không chia
Bên cạnh đó, ta có thể phân tích tỷ trọng của các chỉ tiêu tài chính
trung gian (Giá vốn, chi phí bán hàng, chi phí quản lý, lợi nhuận...,) trong
doanh thu thuần và đánh giá diễn biết của các tỷ trọng này qua các niên độ
kế toán.
1.2.3.5 Phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ tài
chính giữa các khoản có khả năng thanh toán trong kỳ với các khoản phải
thanh toán trong kỳ.
Để phân tích khẳ năng thanh toán của doanh nghiệp, ta phải phân
tích chi tiết nhu cầu và khả năng thanh toán nhằm đánh giá tình hình thanh
toán của doanh nghiệp trong thời gian trước mắt và triển vọng trong thời
gian tới (theo trình tự thời gian)... Theo đó, người phân tích trình tự các chỉ
tiêu theo 2 nhóm:
* Nhu cầu thanh toán được sắp xếp theo trình tự là:
- Những khoản cần thanh toán ngay: bao gồm các khoản nợ quá hạn
(phải nộp NSNN, nợ quá hạn ngân hàng, nợ các bộ công nhân viên, phải trả
người bán...,) và các khoản nợ đến hạn.
- Các khoản phải thanh toán trong thời gian tới.
* Về khả năng thanh toán: được xắp xếp theo tính thanh khoản, của
các tài sản, bao gồm:
- Các khoản dùng thanh toán ngay, gồm: tiền mặt tại quỹ, tiền gửi
ngân hàng, tiền đang chuyển.
- Các khoản có thể dùng thanh toán trong thời hạn tới, gồm: các
chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu, hàng gửi bán, thành phẩm và
TSLĐ khác.
Trên cơ sở xắp xếp nhu cầu và khả năng thanh toán, doanh nghiệp có
thể đưa ra các quyết định tài chính để đảm bảo khả năng thanh toán của
mình. Bên cạnh đó, việc phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp,
cần đưa ra các chỉ tiêu về hệ số thanh toán để tham chiếu với các mức
chuẩn chung hoặc mức chuẩn của ngành tại thời điểm nhất định. Hệ thống
chỉ tiêu này bao gồm:
Hệ số thanh toán ngắn hạn =
Tài sản lưu động
Nợ ngắn hạn
Hệ số này cho biết khả năng thanh toán chung của doanh nghiệp
trong ngắn hạn, nghĩa là khả năng đáp ứng các nhu cầu thanh toán dưới
một năm của các khoản mục tài sản lưu động của doanh nghiệp.
Hệ số thanh toán nhanh = Vốn bằng tiền + các khoản phải thu Nợ ngắn hạn
Hệ số này cho biết khả năng thanh toán của tiền và các khoản phải
thu nghĩa là các tài sản có thể chuyển nhanh thành tiền đối với các khoản
nợ ngắn hạn của doanh nghiệp.
Hệ số thanh toán tức thời = Vốn bằng tiền Nợ đến hạn
Hệ số này cho biết khả năng đáp ứng ngay các nhu cầu thanh toán
đến hạn của doanh nghiệp.
Ngoài các tỷ lệ trên, để đánh giá khả năng thanh toán của doanh
nghiệp khi các khoản dự trữ (hàng tồn kho) có sự biến động về giá trị,
người ta sử dụng chỉ tiêu:
Tỷ lệ dự trữ trên vốn lưu động
thường xuyên =
Giá trị hàng tồn kho
VLĐ thường xuyên
Tỷ lệ này cho biết phần thua lỗ mà doanh nghiệp có thể phải gánh
chịu do giá trị hàng tồn kho giảm. Thực vậy, VLĐ thường xuyên là một
phần nguồn vốn dài hạn để tài trợ cho những tài sản lưu động, trong đó có
hành tồn kho. Do vậy, khi giá trị hàng tồn kho giảm, nghĩa là vốn lưu động
thương xuyên bị giảm theo, làm giảm nguồn vốn chủ sở hữu của doanh
nghiệp .
1.2.3.6 Phân tích cơ cấu tài chính của doanh nghiệp:
- Về cơ cấu các loại tài sản, ta sử dụng chỉ tiêu sau:
Hệ số cơ cấu tài sản = TSCĐ ( hoặc TSLĐ ) Tổng tài sản
- Về cơ cấu nguồn vốn, ta có:
Hệ số cơ cấu nguồn vốn = Tổng vốn chủ sở hữu Tổng nguồn vốn
- Chỉ tiêu hệ số nợ tổng tài sản:
Hệ số nợ tổng tài sản = Tổng nợ phải trả Tổng tài sản
Tỷ lệ này được sử dụng để xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp
đối với các chủ nợ trong việc góp vốn. Thông thường các chủ nợ thích tỷ lệ
vay nợ vừa phải vì tỷ lệ này càng thấp thì khoản nợ càng được đảm bảo.
Trong khi đó, các chủ sở hữu doanh nghiệp thích tỷ lệ nợ cao vì họ muốn
lợi nhuận ra tăng nhanh. Tuy nhiên nếu tỷ lệ nợ quá cao, doanh nghiệp dễ
rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
- Chỉ tiêu hệ số nợ vốn cổ phần
Hệ số nợ vốn cổ phần = Tổng nợ phải trả Tổng vốn chủ sở hữu
Tỷ lệ này được dùng để đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu
doanh nghiệp. Đây là chỉ tiêu mà các chủ nợ rất quan tâm - nó thể hiện mức
độ an toàn cho các món nợ. Nếu hệ số trên là lớn thì rủi ro trong sản xuẩt
kinh doanh chủ yếu do các chủ nợ gánh chịu.
- Chỉ tiêu về khả năng thanh toán lãi vay:
Hệ số khả năng thanh
toán lãi vay =
Lợi nhuận trước thuế + Lãi vay
Lãi vay
1.2.3.7 Phân tích khả năng hoạt động của doanh nghiệp
Các tỷ lệ về khả năng hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả
sử dụng nguồn vốn của doanh nghiệp. Nguồn vốn của doanh nghiệp được
dùng để đầu tư cho các loại tài sản khác nhau gồm tài sản cố định, tài sản
lưu động. Do đó, người phân tích không chỉ quan tâm đến việc đo lường
hiệu quả sử dụng tổng nguồn vốn mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng
của từng bộ phận cấu thành nguồn vốn của doanh nghiệp. Chỉ tiêu doanh
thu tiêu thụ hay doanh thu thuần được sử dụng để đánh giá khả năng hoạt
động của doanh nghiệp.
- Các chỉ tiêu đánh giá như sau:
Vòng quay vốn lưu động = Doanh thu thuần Tài sản lưu động
Vòng quay hàng tồn kho = Doanh thu thuần Giá trị hàng tồn kho
hoặc
Vòng quay hàng tồn kho = Giá vốn hàng bán Hàng tồn kho
- Kỳ thu tiền bình quân:
Chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá khả năng thu hồi vốn trong
thanh toán trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu tiêu thụ bình quân
một ngày.
Kỳ thu tiền bình quân = Các khoản phải thu Doanh thu bình quân 1 ngày
Nó cho biết bình quân trong bao nhiêu ngày, doanh nghiệp có thể thu
hồi các khoản phải thu của mình.
Hiệu suất sử dụng TSCĐ =
Doanh thu thuần
TSCĐ
Chỉ tiêu này cho biết một đồng TSCĐ tạo ra được bao nhiêu đồng
doanh thu trong một năm.
Hiệu suất sử dụng tổng
tài sản =
Doanh thu thuần
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay toàn bộ vốn và cho biết một
đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu.
1.2.3.8 Phân tích khả năng sinh lãi của doanh nghiệp
Về phân tích khả năng sinh lãi của doanh nghiệp thì chúng ta có một
số chỉ tiêu đánh giá như sau:
Hệ số sinh lợi doanh thu =
Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu thuần
Hệ số sinh lợi của tài sản =
Lợi nhuận sau thuế + tiền lãi phải trả
Tổng tài sản
Hệ số sinh lợi vốn chủ
sở hữu =
Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu
1.2.3.9 Phân tích tình hình phân phối lợi nhuận của doanh
nghiệp
Đây là nội dung được các cổ đông và nhà đầu tư rất quan tâm. Các
chỉ tiêu đánh giá gồm có:
Tỷ lệ hoàn vốn cổ phần =
Lợi nhuận sau thuế
Vốn cổ phần
Thu nhập cổ phần =
Lợi nhuận sau thuế
Số lượng cổ phiếu thường
Lãi cổ tức = Lợi nhuận đem chia
Số lượng cổ phiếu thường
Tỷ lệ cổ tức =
Lãi cổ tức
Thu nhập cổ phần
1.2.3.10 Phân tích điểm hoà vốn
Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó mức doanh thu vừa đủ trang trải mọi
chi phí. Phân tích điểm hoà vốn sẽ cung cấp những thông tin cần thiết về
lượng sản phẩm cần tiêu thụ, doanh thu cần đạt tới khi biết sản phẩm và
doanh thu hoà vốn. Phân tích điểm hoà vốn còn chỉ ra ngưỡng doanh
nghiệp không bị lỗ để xác định quy mô đầu tư, quy mô sản xuất nhằm đạt
được lợi nhuận mong muốn. Do vậy phân tích điểm hoà vốn không chỉ là
nội dung quan trọng trong phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp mà nó
đặc biệt quan trọng trong phân tích các dự án đầu tư.
Để xác định điểm hoà vốn cần phân loại chi phí của doanh nghiệp
thành 2 loại chi phí cố định và chi phí biến đổi. Chi phí cố định gồm khấu
hao TSCĐ, tiền thuê (đối với thuê mua hoặc thuê hoạt động), chi phí quản
lý v.v.. Chi phí biến đổi là những chi phí thay đổi tỷ lệ thuận với sự thay
đổi của sản lượng, chẳng hạn nguyên, nhiên, vật liệu, nhân công trực tiếp…
Ký hiệu:
R - Doanh thu bán hàng
F - Tổng chi phí cố định
V - Chi phí biến đổi /1 đvsp
X - Lượng sản phẩm tiêu thụ
P - Giá bán đơn vị sản phẩm
C - Tổng chi phí trong kỳ
Sản lượng hoà vốn =
F
P - V
Doanh thu hoà vốn = F
1 - V P
Bên cạnh đó, người ta cũng xác định chỉ tiêu thời gian hoà vốn, là
thời gian mà mức doanh thu vừa đủ bù đắp chi phí sản xuất.
Tóm lại, phân tích tài chính của doanh nghiệp bao gồm rất nhiều nội
dung, đánh giá toàn diện các mặt trong hoạt động tài chính. Ngoài các chỉ
tiêu được đưa ra ở trên, người phân tích có thể sử dụng các phương pháp
phân tích khác nhau để đưa ra các chỉ tiêu khác để phân tích theo mục tiêu
của mình. Để thực hiện công tác phân tích tài chính doanh nghiệp, ta cần
phải tổ chức công tác phân tích tài chính doanh nghiệp.
1.2.4 Tổ chức công tác phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính doanh nghiệp là một trong những nhu cầu của
quản lý, do vậy, việc phân tích phải được tổ chức một cách chu đáo. Trong
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nó có thể do phòng tài chính - kế toán thực
hiện kết hợp với các nghiệp vụ về kế toán. Tuy nhiên, công tác phân tích tài
chính phải bao gồm từ việc định mục tiêu, lập kế hoạch, thu thập thông tin,
xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích cho đến khi hoàn thành viết báo cáo
phân tích.
1.2.4.1 Xác định mục tiêu phân tích
Trong quản lý hoạt động tài chính doanh nghiệp, phát hiện các vấn
đề nảy sinh là vô cùng quan trọng. Khi vấn đề đã được đặt ra, nhà quản lý
có thể xác định mục tiêu của việc phân tích. Thông thường, có 8 vấn đề
quan trọng để xác định mục tiêu phân tích trực tiếp được thể hiện ở sơ đồ
1.2
1.2.4.2 Lập kế hoạch phân tích
Khi đã phát hiện vấn đề và xác định mục tiêu phân tích, cần phải lập
kế hoạch phân tích. Kế hoạch phân tích phải xác định nội dung, phạm vi,
thời gian và cách tổ chức phân tích. Phạm vi phân tích có thể là toàn bộ
hoạt động tài chính hoặc chỉ một số vấn đề cụ thể. Theo đó, phân tích tài
chính được chia ra phân tích chuyên đề và phân tích toàn diện.
- Phân tích chuyên đề: Phạm vi phân tích chỉ tập trung vào một vấn
đề của hoạt động tài chính, như phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn,
phân tích khả năng thanh toán, phân tích khả năng sinh lời.
- Phân tích toàn diện: Phạm vi phân tích bao gồm toàn bộ các mặt
của hoạt động tài chính doanh nghiệp trong mối liên hệ bên trong cũng như
bên ngoài. Thông thường, phân tích toàn diện được thực hiện sau một năm
tài chính của doanh nghiệp.
Về mặt thời gian, phải xác định rõ việc phân tích là phân tích trước,
phân tích sau hay phân tích hiện hành:
- Phân tích trước: Là phân tích trước khi tiến hành một hoạt động
kinh doanh nào đó. Phân tích trước thường đưa ra những dự đoán về nhu
cầu, cách thức phân bổ các nguồn lực tài chính và lập kế hoạch thu hồi vốn
của doanh nghiệp.
- Phân tích hiện hành: Là việc phân tích đồng thời với quá trình kinh
doanh nhằm xác minh tính hợp lý về mặt tài chính của các dự án, dự đoán
kế hoạch và phục vụ cho việc điều chỉnh kịp thời các dự án, dự toán, kế
hoạch đó.
- Phân tích sau: Là phân tích các kết quả trên giác độ tài chính sau
khi đã thực hiện toàn bộ công việc.
Về mặt nội dung, kế hoạch phân tích phải bảo đảm tuân thủ theo các
mục tiêu phân tích đã nêu ở trên.
Trong kế hoạch phân tích còn phân công trách nhiệm các bộ phận
trực tiếp phân tích, các bộ phận phục vụ cung cấp tài liệu và tổ chức hội
nghị phân tích khi cần thiết nhằm thu thập nhiều ý kiến, đánh giá đúng thực
trạng và phát hiện đầy đủ các tiềm năng nhằm đưa ra các quyết định quản
lý tài chính tối ưu.
Sơ đồ 1.2 : Các vấn đề tài chính và các mục tiêu phân tích
Vấn đề tài chính Các mục tiêu phân tích
- Thiếu vốn
- Lưu chuyển vốn
- Khả năng thanh toán
- Cơ cấu vốn
- Quản lý hàng tồn kho
- Doanh số
- Cấu trúc tài sản
- Lưu chuyển tiền tệ
- Khả năng thanh toán
- Khả năng trả nợ
- Lưu chuyển vốn
- Kiểm soát chi phí, lợi nhuận
- Khả năng sinh lãi
- Doanh số
- Điểm hoà vốn
- Kiểm soát tín dụng
- Doanh số
- Cấu trúc tài sản
- Chi trả bằng tiền
- Luân chuyển vốn
- Khả năng thanh toán
- Đầu tư TSCĐ
- Doanh số
- Cấu trúc tài sản
- Kế hoạch hoá cơ cấu tài
chính
- Khả năng thanh toán
- Cơ cấu tài chính
1.2.4.3 Thu thập thông tin và kiểm tra tài liệu
Trong bước này, các bộ phận trong doanh nghiệp có trách nhiệm
cung cấp thông tin được thể hiện trên các báo cáo, các tài liệu phục vụ cho
việc phân tích. Trước khi đưa vào phân tích, cần phải kiểm tra tính hợp
pháp, hợp lệ của các tài liệu. Các tài liệu phải đáp ứng được các tiêu chuẩn
sau:
- Phải có tính hợp pháp, tức là có sự xác nhận của người có trách
nhiệm cung cấp thông tin.
- Phải được lập đúng theo mẫu quy định.
- Phải đáp ứng đúng nội dung phân tích.
- Các báo cáo phải không được mâu thuẫn với nhau về nội dung.
1.2.4.4 Xây dựng hệ thống chỉ tiêu và phương pháp phân tích
Các chỉ tiêu phân tích tài chính doanh nghiệp rất đa dạng. Có chỉ tiêu
số lượng, phản ánh quy mô của đối tượng phân tích. Có chỉ tiêu chất lượng,
phản ánh đặc tính, tính chất của đối tượng phân tích. Do vậy, theo những
nội dung phân tích đã được xác định, ta cần phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu
phân tích. Việc xây dựng hệ thống các chỉ tiêu phân tích phải dựa trên
những căn cứ sau:
- Thứ nhất: Chỉ tiêu phân tích tài chính doanh nghiệp phải phù hợp
với phạm vi và nội dung phân tích nhằm đáp ứng yêu cầu của quản lý hoạt
động tài chính.
- Thứ hai: Hệ thống chỉ tiêu phân tích phải mang đầy đủ các đặc
điểm của đối tượng phân tích. Nghĩa là việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu
phân tích tài chính phải dựa vào đặc điểm của từng ngành, từng lĩnh vực,
đặc điểm của từng khâu, từng giai đoạn trong quá trình hoạt động kinh
doanh của mỗi doanh nghiệp.
-Thứ ba: Việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính doanh
nghiệp phải căn cứ vào yêu cầu của lĩnh vực và cấp chủ thể quản lý. Bởi vì
mỗi chủ thể khác nhau lại có những yêu cầu khác nhau đối với nội dung
phân tích. Chẳng hạn, cơ quan thuế không quan tâm nhiều lắm đến khả
năng thanh toán của doanh nghiệp nhưng các chủ nợ lại rất quan tâm đến
điều này. Còn chủ doanh nghiệp thì lại quan tâm đến khả năng sinh lời của
doanh nghiệp.
- Thứ tư: Việc xây dựng hệ thốngchỉ tiêu phân tích phải căn cứ vào
phương pháp, kỹ thuật tính toán, đối với từng chỉ tiêu cũng như khả năng
thu thập thông tin của kế hoạch phân tích. Có như vậy, hệ thống chỉ tiêu
mới đảm bảo tính khoa học, chính xác, có khả năng cung cấp thông tin chất
lượng cao cho quá trình ra quyết định quản lý tài chính doanh nghiệp.
Sau khi đã xây dựng được hệ thống chỉ tiêu phân tích, người phân
tích cần sử dụng các phương pháp phân tích khác nhau để tính toán và đánh
giá các chỉ tiêu đó theo các mục tiêu phân tích đã đề ra.
1.2.4.5 Tổ chức hội nghị phân tích và viết báo cáo phân tích
Báo cáo phân tích là bảng tổng hợp những đánh giá cơ bản cùng
những tài liệu chọn lọc để minh hoạ rút ra từ quá trình phân tích. Báo cáo
phân tích có thể đưa cho các bộ phận khác nhau trong và ngoài doanh
nghiệp tham gia đóng góp ý kiến, thảo luận trong hội nghị phân tích. Báo
cáo phân tích phải nêu bật được thực trạng của vấn đề nảy sinh và đưa ra
những đề xuất để giải quyết vấn đề đó.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác phân tích tài chính doanh
nghiệp
Mục tiêu cuối cùng của công tác phân tích tài chính doanh nghiệp là
đưa ra những kết quả phân tích toàn diện, đánh giá một cách chính xác nhất
tình hình tài chính của doanh nghiệp. Tuy nhiên, những kết quả phân tích
phụ thuộc vào những điều kiện bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, vì
những điều kiện này quy định nguồn tài liệu, phương pháp xác định chỉ tiêu
phân tích.
1.3.1 Các nhân tố chủ quan :
Đây là nhóm nhân tố phụ thuộc vào điều kiện sản xuẩt kinh doanh và
quy trình hoạt động của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp đều có đặc điểm
riêng về sản phẩm, dịch vụ nó tạo ra cũng như về đặc điểm của quá trình
tạo ra những sản phẩm, dịch vụ đó. Do vậy, các thông tin thu nhập từ ngay
ban thân quá trình sản xuẩt, kinh doanh cũng mang những đặc tính riêng,
đòi hỏi người phân tích phải tổng hợp, phân tích và xử lý một cách linh
hoạt. Chẳng hạn đối với một doanh nghiệp sản xuất thì sản phẩm được tạo
ra bởi một quá trình mua sắm nguyên vật liệu đầu vào, qua quá trình sản
xuẩt tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh thì việc thu thập thông tin không thể
bỏ qua việc đánh giá giá trị các sản phẩm dở dang và TSCĐ. Nhưng đối với
một doanh nghiệp kinh doanh thương mại, mối quan tâm lại tập trung vào
khả năng tiêu thụ của các mặt hàng kinh doanh mà ít quan tâm đến TSCĐ
của doanh nghiệp. Những yếu tố thuộc về bản thân doanh nghiệp có ảnh
hưởng lớn đến công tác phân tích tài chính chủ yếu là :
- Đặc điểm của của sản phẩm kinh doanh.
- Đặc điểm của quá trình sản xuẩt,kinh doanh.
- Đặc của quá trình cung ứng hàng hoá và vật tư đầu vào.
- Đặc điểm của mạng lưới tiêu thụ.
- Đặc điểm về loại hình doanh nghiệp ( doanh nghiệp nhà nước,
Công ty cổ phần ... )
Bên cạnh đó, một nhân tố vô cùng quan trọng là việc tổ chức công
tác hạch toán kế toán của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp tổ chức tốt công
tác kế toán, những thông tin phục vụ cho công tác tài chính là những thông
tin chính xác, có độ tin cậy cao. Hơn nữa, việc tổ chức phân tích sẽ nhanh
chóng, kịp thời hơn. Ngược lại, nếu doanh nghiệp không tổ chức tốt công
tác kế toán thì ngay cả việc tập hợp và kiểm tra số liệu cũng đã làm mất rất
nhiều thời gian trước khi bước vào thực hiện phân tích.
Những nhân tố chủ quan phát sinh cho sự chi phối của bản thân
doanh nghiệp cũng có tác động đối với quá trình phân tích tài chính. Chẳng
hạn doanh nghiệp đang tiến hành một đợt cắt giảm chi phí, hoặc đang tập
trung vào việc mở rộng quy mô hoạt động... Trong những kế hoạch như
vậy, hiển nhiên hoạt động phân tích phải tính đến những tác động của việc
thực hiện kế hoạch đến các chỉ tiêu tài chính.
1.3.2. Các nhân tố khách quan:
Hoạt động tài chính doanh nghiệp luôn được đặt trong môi trường
kinh doanh, hệ thống pháp luật cùng quy định của nó. Trong môi trường
đó, quan hệ tài chính của doanh nghiệp được thể hiển rất phong phú và đa
dạng. Đó là quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với nhà nước, giữa doanh
nghiệp với thị trường tài chính, thị trường hàng hoá, dịch vụ và thị trường
sức lao động. Sự biến động của tất cả các nhân tố này đều ảnh hưởng trực
tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Do vậy, việc
phân tích tài chính doanh nghiệp không thể không tính đến ảnh hưởng của
những biến động đó để đưa ra nguyên nhân và biện pháp giải quyết cho
những vấn đề tài chính.
Mặt khác, các quan hệ tài chính trực tiếp giữa các doanh nghiệp với
các cổ đông, giữa doanh nghiệp với các chủ nợ... cũng tác động mạnh mẽ
tới việc phân tích tài chính doanh nghiệp. Các quan hệ này thể hiện cụ thể ở
các chính sách phân phối thu nhập, chính sách đầu tư và cơ cấu đầu tư...
của doanh nghiệp. Các chính sách này có tác động đến hoạt động tài chính
doanh nghiệp một cách trực tiếp. Do vậy, hoạt động phân tích tài chính một
mặt phục vụ các công tác này nhưng mặt khác xem xét chúng như những
nhân tố ảnh hưởng đến các chỉ tiêu phân tích như một tất yếu thuộc về đặc
trưng của doanh nghiệp.
Tóm lại, phân tích tài chính là một nhu cầu tất yếu của quản lý tài
chính doanh nghiệp. Nó cung cấp thông tin cho việc ra quyết định quản lý
của bản thân doanh nghiệp và các đối tượng khác quan tâm đến hoạt động
tài chính của doanh nghiệp. Để thực hiện phân tích tài chính doanh nghiệp,
ta phải lựa chọn các phương pháp phân tích phù hợp với các nội dung phân
tích nhằm đạt được mục tiêu của việc phân tích là làm rõ những vấn đề tài
chính xuất hiện trong quá trình sản xuẩt - kinh doanh của doanh nghiệp.
Công tác phân tích tài chính doanh nghiệp chịu sự tác động bởi nhiều nhân
tố chủ quan và khách quan, các nhân tố này ảnh hưởng đến việc thu nhập
và xử lý thông tin cũng như cách đánh giá các chỉ tiêu tài chính. Tuy vậy,
để đạt được kết quả phân tích chính xác, phục vụ đắc lực cho việc ra quyết
định quản lý doanh nghiệp thì công tác phân tích tài chính doanh nghiệp
cần phải được tổ chức một cách khoa học.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH Ở
CÔNG TY ĐIỀU HÀNH HƯỚNG DẪN DU LỊCH VINATOUR
2.1.Giới thiệu khái quát về Công ty điều hành hướng dẫn du lịch
Vinatour
Công ty Điều hành hướng dẫn du lịch - tên giao dịch quốc tế là
Vietnam National Travel Agency hoặc Vinatour - là doanh nghiệp Nhà
nước, trực thuộc Tổng cục du lịch Việt Nam. Trụ sở chính của Công ty tại
54 Nguyễn Du - Hà Nội. Đây là địa chỉ quen thuộc đối với nhiều hãng du
lịch của các quốc gia trong hơn 30 năm qua. Là một trong nhưng công ty lữ
hành hàng đầu và cũng là công ty du lịch lâu năm và có truyền thống nhất
của ngành du lịch Việt Nam - Vinatour có nhiệm vụ và chức năng chủ yếu
là khai thác nguồn khách du lịch ngoại quốc thông qua công tác tổ chức
đưa đón, hướng dẫn khách du lịch nước ngoài thăm quan, nghỉ ngơi và
khám phá những nét đẹp và truyền thống của dân tộc Việt Nam. Công ty
cũng có dịch vụ tổ chức cho người Việt Nam thăm quan, nghỉ ngơi và du
lịch trong nước và nước ngoài. Vì thế, ngoài nhiệm vụ kinh tế, công ty
cũng có nhiệm vụ chính trị quan trọng trong việc giới thiệu một nước Việt
Nam hiếu khách, yêu chuộng hoà bình, có truyền thống văn hoá lâu đời với
du khách nước ngoài. Có thể tóm tắt lịch sử hình thành và phát triển của
Công ty qua các mốc thời gian như sau:
2.1.1.Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty Vinatour
2.1.1.1.Giai đoạn 1960 - 1975
Công ty du lịch Việt Nam - tiền thân của tổng cục du lịch và công ty
Vinatour sau này - được thành lập tháng 7 năm 1960. Trong giai đoạn này,
công ty du lịch Việt Nam có một thời gian dài trực thuộc bộ nội vụ, nhiệm
vụ chủ yếu là tổ chức đón tiếp phục vụ ăn, nghỉ cho các đoàn đại biểu của
Đảng cộng sản và chính phủ Việt Nam, các đoàn đại biểu của các quốc gia
và các tổ chức quốc tế sang thăm và làm việc tại Việt Nam. Lúc đó, dù
chức năng tổ chức du lịch chưa cụ thể, cơ sở du lịch yếu kém nhưng công
ty luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và
quan trọng nhất là đào tạo cán bộ cho ngành du lịch. Ngày nay, đội ngũ cán
bộ trưởng thành trong chiến tranh của công ty hiện đang là những cán bộ
lãnh đạo chủ chốt của Tổng cục du lịch, công ty Vinatour và nhiều công ly
du lịch khác.
2.1.1.2.Giai đoạn 1975-1992
Cùng với việc thống nhất và công cuộc xây dựng, phát triển đất
nước, ngành Du lịch Việt Nam phát triển mạnh và nhanh do tiếp quản một
khối lượng lớn cơ sở vật chất tại Miền nam. Cùng với việc thực hiện những
nhiệm vụ được Nhà nước giao phó, công tác phục vụ khách du lịch cũng
từng bước được xây dựng và hoàn thiện. Công ty đã có những sản phẩm
dịch vụ trọn gói và dài ngày mang đặc trưng của ngành du lịch. Tổng cục
du lịch Việt Nam cũng ra đời trong thời gian này, đánh dấu một bước phát
triển mới của ngành du lịch Việt Nam. Để phù hợp với chức năng và nhiệm
vụ mới, ngày 5/5/1982, Tổng cục du lịch ra quyết định số 50/QĐ-TCCB
thành lập Ban điều hành việc đưa đón khách thuộc Công ty du lịch Việt
Nam có chức năng tổ chức công tác lữ hành trên toàn quốc và là đơn vị
hạch toán độc lập - là cơ sở để thành lập công ty điều hành hướng dẫn du
lịch sau này. Với cơ sở vật chất ban đầu: vốn lưu động 1.848đ, vốn cố định
306.100đ (thời điểm 1982), sau 10 năm hoạt động và phát triển, Ban điều
hành việc đưa đón khách (lúc này đã đổi tên thành trung tâm điều hành
hướng dẫn du lịch trực thuộc Tổng công ty du lịch Việt nam - bộ thương
mại) không ngừng lớn mạnh và hoàn thiện, với tầm hoạt động rộng khắp
trong nước và vươn tới các thị trường bên ngoài. Vào thời điểm này, trung
tâm có mối quan hệ với hầu hết các công ty du lịch trong nước, có văn
phòng đại diện tại thành phố Hồ Chí Minh và Matxcơva - Liên Xô cũ, phát
triển thị trường khu vực hai (các nước tư Bản chủ nghĩa) và phục vụ kiều
bào về thăm đất nước. Về nhiệm vụ kinh tế, trung tâm đã tích luỹ được
3.095.552.356đ vốn cố định và l07.477.196đ vốn lưu động (thời giá năm
1990) và có tới 200 cán bộ, công nhân viên. Sự phát triển có ý nghĩa lớn
nhất trong thời gian này của đơn vị là đã có quan hệ kinh doanh với hơn
100 hãng du lịch quốc tế thuộc nhiều nước và tổ chức quốc tế khác nhau,
đa dạng hoá nguồn khách du lịch, góp phần quan trọng vào việc phát triển
ngành du lịch Việt Nam.
2.1.1.3. Giai đoạn 1992 đến nay
Để phù hợp với yêu cầu quản lý và phát triển ngành du lịch Việt
Nam trong điều kiện giao lưu kinh tế và văn hoá giữa Việt Nam và các
nước trên thế giới ngày càng rộng mở. Tổng cục du lịch Việt Nam được
thành lập lại. Thực hiện nghị định 338/HĐBT ngày 20/11/1991 của Hội
Đồng bộ trưởng nay là Thủ tướng chính phủ, Tổng cục du lịch ra quyết
định số 86/QĐ-TCCB (ngày 27/03/1993), thành lập lại doanh nghiệp công
ty Điều hành hướng dẫn du lịch trên cơ sở Trung tâm Điều hành và hướng
dẫn du lịch theo quy chế thành lập và giải thể DNNN ban hành kèm theo
chức năng du lịch quốc tế. Từ đó, công ty Điều hành hướng dẫn du lịch
được thành lập và thực sự trở thành một công ty lữ hành mạnh và là nòng
cất của ngành du lịch Việt Nam. Từ đó đến nay, Công ty luôn hoàn thành
chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh, phát triển vững chắc, nộp ngân sách đầy đủ,
thu nhập của CBCNV tăng đều qua các năm. sự thành công lớn của công ty
là xây dựng được đội ngũ cán bộ điều hành, công nhân viên có nghiệp vụ
cao và chuyên sâu làm cho uy tín của công ty ngày một nâng cao trên thị
trường trong nước và quốc tế. Cùng với các văn phòng đại diện ở TP HCM
, Băng cốc, Pa ri, ... công ty hiện đang vươn rộng ảnh hưởng tới các thị
trường quan trọng như Bắc Mỹ và Nhật, tiếp tục phát triển thị trường
truyền thống Châu âu.
Với tư cách là một trong những doanh nghiệp hàng đầu của ngành du
lịch Việt Nam, công ty đã có sớm những hoạt động quảng cáo, tiếp thị tại
các thị trường lớn thông qua việc tham gia tích cực các hội nghị, hội chợ,
hội thảo tại các thị trường du lịch lớn mà công ty là thành viên như PATA
(là tổng thư ký của hiệp hội tại Việt Nam), JATA, ASTA. Hiện nay, công
ty có quan hệ với 192 hãng lữ hành quốc tế (trong đó có 3 1 hãng du lịch
Mỹ) và đang thực hiện các tour du lịch thường xuyên với 61 hãng du lịch
của 28 quốc gia. Nhờ vậy, công ty đã có một nguồn khách tương đối ổn
định và một số thị trường tiềm năng mà công ty có đủ khả năng cạnh tranh.
Đến nay, với 40 năm trưởng thành, công ty Vinatour đã không
ngừng lớn mạnh, trở thành một ngành kinh tế quan trọng của đất nước
trong thời kỳ đổi mới. Với 125 công ty du lịch của Trung ương và địa
phương (thuộc sở du lịch tỉnh, thành phố, ngành )với một sơ sở vật chất và
đội ngũ cán bộ to lớn (không kể các công ty liên doanh và công ty TNHH),
công ty Điều hành hướng dẫn du lịch Việt Nam - Vinatour đã có những
bước tiến vượt bậc, xứng đáng với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước và
đã thực hiện tết những trọng trách mà Đảng và Nhà nước giao phó.
Các nước và lãnh thổ có quan hệ gửi khách thường xuyên với Vinatour
Australia Denmark Isarel Spain
Austria Finland Italy Sweden
Belgium French Japan Switzerland
Brazil Germany Lao Russia
Britain Netherlands Malaysia Taiwan
Bungary Hongkong Mexico Thailand
China United Stated Singapore Norway
2.1.2.Cơ cấu tổ chức và đội ngũ lao động của công ty Vinatour
2.1.2.1.Tổ chức bộ máy của công ty
Là một doanh nghiệp Nhà nước, Vinatour có đội ngũ cán bộ trong
biên chế và có nhiệm vụ thực hiện công việc kinh doanh được Nhà nước
phê duyệt. Do đó, giám đốc công ty và kế toán trưởng là hai cán bộ do Nhà
nước chỉ định, chịu trách nhiệm tổ chức, điều hành và quản lý tài chính
trong việc thực hiện kế hoạch kinh doanh. Các cán bộ nhân viên còn lại là
lao động theo hợp đồng, được Nhà nước - đại diện là Giám đốc tuyển dụng
nhằm thực hiện mục đích kinh doanh. Tổ chức bộ máy của công ty theo
nguyên tắc tập trung nhưng bên cạnh Giám đốc luôn có tổ chức Đảng Cộng
Sản, tổ chức công đoàn và đoàn thanh niên giúp Giám đốc ra quyết định.
2.1.2.2.Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận
- Lãnh đạo công ty bao gồm giám đốc và phó giám đốc: Là những
người điều hành và quản lý trực tiếp mọi hoạt động của công ty. Giám đốc
còn có nhiệm vụ xây dựng bộ máy kinh doanh của công ty và chịu trách
nhiệm trước pháp luật về hoạt động của công ty. Hai phó giám đốc chịu
trách nhiệm cụ thể trong việc thực hiện kinh doanh, có thể thay giám đốc
trong trường hợp giám
đốc vắng mặt.
- Phòng tổ chức hành chính: Là bộ phận đảm bảo cơ sở hạ tầng về tổ
chức quản lý cho công ty. Có trách nhiệm và quyền hạn trong việc xắp xếp
lao động, thực hiện chế độ tiền lương và phổ biến các văn bản pháp quy về
các chính sách của Nhà nước đối với người lao động. Phòng chịu sự quản
lý trực tiếp của giám đốc.
- Phòng thị trường nước ngoài: Phòng thị trường nước ngoài là bộ
phận quan trọng nhất của một công ty lữ hành quốc tế. Do đó, trong
Vinatour nó do Giám đốc trực tiếp phụ trách Phòng thị trường nước ngoài
có nhiệm vụ khai thác nguồn khách tại các thị trường du lịch nước ngoài
vào Việt Nam thông qua việc tìm hiểu nhu cầu khả năng và tâm lý của từng
đôi tượng khách trong từng quốc gia. Công việc cụ thể của phòng là lập các
chương trình tour, tính giá, phối hợp với các phòng chức năng khác hoàn
thành mọi tour du lịch tại Việt Nam.
- Phòng tài chính kế toán: Vinatour có một phó giám đốc phụ trách
chung về tài chính nhưng trưởng phòng tài chính (là kế toán trưởng) mới là
người chịu trách nhiệm trực tiếp với Nhà nước và giám đốc công ty về mọi
hoạt động tài chính trong việc kinh doanh của đơn vị Phòng tài chính kế
toán có nhiệm vụ bảo đảm điều kiện tài chính cho kinh doanh và thu thập
thông tin, xử lý và hạch toán kế toán phục vụ cho yêu cầu quản lý của
doanh nghiệp. Ngoài ra, thông qua việc phân tích các tài liệu kế toán, kế
toán trưởng còn giúp đỡ Giám đốc trong việc lập và thực hiện kế hoạch
kinh doanh.
- Phòng thị trường trong nước: Phòng có chức năng khai thác khách
và tổ chức các tour trong nước hoặc từ Việt Nam ra nước ngoài cho khách
du lịch Việt Nam. Đây là một thị trường phụ nhưng đang ngày một phát
triển của công ty.
- Phòng hướng dẫn: Phòng hướng dẫn của Vinatour được tổ chức
theo các nhóm ngôn ngữ. Các hướng dẫn viên có nhiệm vụ trực tiếp thực
hiện các trương trình tour cùng với khách du lịch. Phòng hướng dẫn là
phòng trực tiếp sản xuất các hướng dẫn viên du lịch không chỉ là những
người lao động trực tiếp tạo ra sản phẩm du lịch mà còn là những người
giới thiệu đất nước Việt Nam với khách nước ngoài. Vì vậy mà một công ty
lữ hành có uy tín là một công ty có đội ngũ hướng đẫn viên giỏi ngoại ngữ,
tổ chức tết và nhiều kinh nghiệm. Do đó, phòng hướng dẫn luôn được hoàn
thiện và củng cố.
- Phòng điều hành: Là phòng có nhiệm vụ phức tạp nhất và đa dạng
nhất. Phòng điều hành có nhiệm vụ triển khai các dịch vụ liên quan đến
tour như đặt phòng, đặt ăn, thuê xe... chức năng điều hành là một trong
những chức năng chủ yếu của Vinatour, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh
của công ty luôn được trôi chảy.
- Phòng vận chuyển: Đó là một đội xe du lịch nhiều chủng loại phục
vụ khách du lịch của công ty. Khi đội xe không đủ đáp ứng nhu cầu cầu
công ty, Phòng vận chuyển có nhiệm vụ khai thác thêm các nguồn xe khác
đảm bảo dịch vụ vận chuyển đạt chất lượng cao.
- Các văn phòng đại diện và các đại lý dịch vụ du lịch: Có nhiệm vụ
hỗ trợ cho công ty trong việc thực hiện các tour du lịch hoặc khai thác thêm
các thị trường khác cung cấp dịch vụ phụ cho công ty. Các văn phòng đại
diện và đại lý dịch vụ du lịch có đầy đủ các chức năng tổ chức lữ hành
nhưng biên chế rất gọn nhẹ, mục đích nhằm hoạt động thật hiệu quả. Các
văn phòng đại diện và các đại lý dịch vụ du lịch được tự chủ trong các hành
lang kế hoạch kinh doanh công ty giao phó. Về lâu dài, các văn phòng đại
diện & đại lý dịch vụ du lịch là các cơ sở ban đầu cho việc thu hút khách
của Vinatour.
Giám đốc
Phó giám đốc phụ
trách tài chính
Phó giám đốc phụ
trách kinh doanh
Phòng
thị
trường
nước
ngoài
Phòng
tổ
chức
hành
chính
Các
đại lý
và dịch
vụ du
lịch
Các
văn
phòng
đại
diện
Phòng
tài
chính
kế toán
Phòng
thị
trường
trong
nước
Phòng
hướng
dẫn
Phòng
điều
hành
Phòng
vận
chuyển
2.1.2.3.Đội ngũ lao động của công ty
Từ một ban điều hành trực thuộc Tổng công ty du lịch Việt Nam cho
đến nay, công ty đã có:
- Lao động bình quân trong năm :150 người.
- Lao động có mặt thực tế: 125 người ( Trong đó: Hợp đồng không
thời hạn và dài hạn (biên chế) 107 người, hợp đồng ngắn hạn 18 người và
nam 79 người, nữ 46 người. Trình độ lao động của công ty đang ngày càng
được chú trọng về chất lượng được biểu thị qua đồ thị dưới đây:
2%
16%
14%
10%
58%
Trung häc
Lao ®éng phæ th«ng
CN kü thuËt
Cao ®¼ng
§¹i häc
Là một đơn vị kinh doanh dịch vụ với chất lượng cao và khắt khe.
Công ty luôn chú trọng tới trình độ nghiệp vụ của lực lượng lao động. Bên
cạnh đó, công ty cũng có một chính sách đào tạo lâu dài cho đội ngũ cán bộ
hướng dẫn, khuyến khích cán bộ, công nhân học tập, nâng cao trình độ, chủ
động trong công tác. Vì vậy, đội ngũ cán bộ của công ty luôn có uy tín về
trình độ nghề nghiệp đổi với công ty khác và với khách du lịch nước ngoài
luôn gắn bó với công ty.
2.1.2.4.Kết quả kinh doanh của Vinatour trong hai năm
2000 và 2001
Bước vào năm 2002 nền kinh tế trong nước đang trên đà giảm sút
nhịp độ tăng trưởng, hàng hoá sản xuất ra tiêu thụ chậm, ứ đọng, sức mua
giảm sút, thiên tai xảy ra liên tiếp và nghiêm trọng. Cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ khu vực tiếp tục gây nhiều bất lợi cho nền kinh tế nước ta.
Khách du lịch vào Việt Nam giảm và khách du lịch Việt Nam ra nước
ngoài hạn chế dần đến việc đi lại, tham quan du lịch, tổ chức hội nghị của
các cơ quan trong nước giảm. Tuy nhiên được sự quan tâm của Tổng cục
Du lịch, sự hợp tác và giúp đỡ tích cực của các ngành, các cấp, các ban
ngành, sự phấn đấu kiên trì và bền bỉ của công ty chúng ta vẫn giữ được
nhịp độ phát triển tương đối toàn diện, đúng hướng và có hiệu quả. Năm
2001 tổng số:
+ Khách du lịch đạt: 9814 khách đạt l06,67% kế hoạch năm.
+ Ngày khách đạt :30864 ngày/khách.
Trong đó, khách quốc tế vào: 7970 khách = 22543 ngày khách
Có: 4176 khách làm visa.
Như vậy, so với năm 2000 số khách tăng 7,94%. Các chỉ tiêu tài chính đạt
được trong năm là:
* Doanh thu: 1551607 USD và 3247104000 VND.
* Tổng quy đổi: 24.659.280.000 đạt 91,90% kế hoạch năm.
Lợi tức: 1300 triệu đồng, đạt 116,70% kế hoạch năm.
Nộp ngân sách: 1270 triệu đồng, đạt 80% kế hoạch năm.
Năm 2001 là năm mà những thành tựu kinh tế xã hội đã đạt được cộng với
tình hình chính trị ổn định là những nhân tố thuận lợi tạo đà cho sự phát
triển trên mọi lĩnh vực năm 2002. Tình hình khách du lịch vào Việt Nam
những tháng trong năm 2001 tăng nhiều so với cùng kỳ năm 2000 là những
dấu hiệu khả quan. Đặc biệt là các khu du lịch Hạ Long, Đà Nẵng,TP HCM
với chương trình hành động của Ngành với khẩu hiệu: "Việt Nam - điểm
đến của thiên niêm kỷ mới". Qua báo cáo tổng kết tình hình, kết quả hoạt
động kinh doanh năm 2001 của công ty cho thấy: Doanh thu tăng so với kế
hoạch với 26.308 triệu đồng đạt 100,14% kế hoạch năm. Dẫn đến lợi nhuận
đạt 1.141 triệu đồng đạt 99,6% kế hoạch năm. Số khách du lịch đạt 9987
khách đạt 102% kế hoạch năm, nhưng khách quốc tế lại giảm so với 2000,
khách quốc tế vào 7816 khách = 23920 ngày khách. Trong đó có 3900
khách làm visa.
2.2 Thực trạng công tác phân tích tài chính của Công ty điều hành hướng
dẫn du lịch Vinatour
Công ty Vinatour là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc tổng cục du
lịch, trong một thời gian dài trước đây chủ yếu là tiếp đón và phục vụ các đoàn
khách đến thăm viếng chứ không có khách du lịch, về vốn kinh doanh phụ thuộc
hoàn toàn vào nhà nước. Hoạt động tài chính của Công ty thời kỳ này mang nặng
tính chất bao cấp. Sau khi bắt đầu chuyển đổi cơ chế, Công ty đã dần thích ứng
được với nền kinh tế thị trường, chủ động trong việc tìm nguồn khách cũng như
tìm nguồn vốn kinh doanh… Tuy nhiên trong những năm đầu chuyển đổi cơ chế
này, hoạt động phân tích tài chính còn ở dạng sơ khai và chưa trở thành một nhu
cầu thực sự của quản lý. Đôi khi nó bị biến dạng trở thành vấn đề mang tính chất
đối phó với các cơ quan chức năng, nhất là với các cơ quan thuế. Công tác phân
tích tài chính chỉ bao gồm việc kiểm tra kiểm soát các hoá đơn, chứng từ mua
bán hàng hoá, lập và phân tích báo cáo kết quả kinh doanh chỉ với mục đích thực
hiện các nghĩa vụ của một doanh nghiệp nhà nước với cơ quan chủ quản.
Tuy nhiên trong những năm trở lại đây, Công ty đã bắt đầu chú trọng tới
việc phân tích tài chính. Trong thời kỳ này hoạt động của Công ty đã được mở
rộng ra thị trường du lịch của khá nhiều nước trên thế giới. Hoạt động kinh doanh
đã đi vào ổn định, chính vì thế mà Công ty đã nhận thấy tầm quan trọng của việc
duy trì và phát triển doanh nghiệp theo hướng lâu dài trên cơ sở định hướng
chính xác sự phát triển của thị trường. Trong bối cảnh Việt Nam là một điểm đến
an toàn và hấp dẫn đối với khách du lịch vì thế đây sẽ là một thị trường hấp dẫn.
Trong bối cảnh đó, sự mở rộng hoạt động của Công ty rất cần đến việc quản lý
tài chính một cách chặt chẽ, đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh và hướng tới
mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Chính vì vậy Công ty đã quan tâm đến việc phân
tích tài chính để phục vụ cho các quyết định trong quản lý của mình. Tuy nhiên,
cần phải đánh giá một cách toàn diện công tác phân tích tài chính của Công ty, từ
việc thu thập thông tin và nguồn tài liệu phục vụ phân tích, xác định mục tiêu,
xác định các nội dung, phương pháp phân tích cho đến việc tổ chức phân tích tài
chính.
2.2.1 Về nguồn tài liệu và cơ chế cung cấp thông tin phục vụ phân tích
Để nắm bắt kịp thời thông tin về hoạt động kinh doanh của các đơn vị
Công ty Vinatour đã thiết lập hệ thống các báo cáo gồm: báo cáo tình hình thực
hiện doanh thu hàng tháng, báo cáo về các loại chi phí, báo cáo đánh giá kết quả
kinh doanh của các hợp đồng cụ thể… Hệ thống các báo cáo này giúp Ban lãnh
đạo Công ty đánh giá hoạt động của Công ty trên hai mặt chủ yếu là doanh thu
thực hiện và lợi nhuận thực hiện trong tháng. Việc phân tích tình hình công nợ
chủ yếu do phòng tài chính - kế toán thực hiện, ban lãnh đạo Công ty chỉ phân
tích tình hình công nợ chung cùa toàn Công ty vào thời điểm cuối năm tài chính.
Bên cạnh các báo cáo nội bộ, Công ty cũng sử dụng các thông tin bên ngoài. Đó
là các bản tin thị trường, các văn bản pháp luật về điều tiết thị trường do Bộ tài
chính cũng như các đơn vị liên quan ấn hành. Đây là những thông tin có giá trị,
giúp cho việc định hướng hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động tài chính
nói riêng của Công ty.
Tuy vậy, nhưng thông tin về tình hình công nợ và thanh toán công nợ
chung của toàn bộ Công ty chưa được đề cập trong các báo cáo. Chúng chỉ được
thể hiện trên bảng cân đối kế toán của Công ty vào thời điểm cuối năm tài chính.
Trong thực tế, trong thời đại công nghệ thông tin phát triển như hiện nay, nhiều
Công ty , nhất là những Công ty có giao dịch thường xuyên, đã thiết kế những
phần mềm theo dõi hoạt động của Công ty từng ngày, từng tháng. Theo đó, Ban
lãnh đạo Công ty có thể nắm được tình hình nguồn vốn và sử dụng trong Công ty
ở bất kỳ thời diểm nào. Các doanh nghiệp hoàn toàn có điều kiện lập ra một bảng
cân đối kế toán chi tiết để nắm tình hình tài chính của họ. Tuy nhiên, Công ty
Vinatour vẫn chưa thiết lập được một hệ thống tin đủ mạnh để điều hành hoạt
động tài chính. Khi nguồn thông tin chưa đầy đủ thì việc phân tích, đánh giá chắc
chắn không đem lại hiệu quả cho công tác quản lý của Công ty. Ngoài ra, đối với
các báo cáo bắt buộc do Bộ tài chính quy định cho các doanh nghiệp Công ty
cũng chưa thực hiện tốt. Các báo cáo này gồm có:
- Bảng cân đối kế toán
- Báo cáo kết quả kinh doanh gồm báo cáo doanh thu,lỗ, lãi và báo cáo tình
hình thực hiện
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
- Thuyết minh báo cáo tài chính
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo không bắt buộc nhưng cũng đem lại
thông tin quan trọng trong phân tích tài chính doanh nghiệp. Đó là những thông
tin về các dòng tiền vào, ra doanh nghiệp và diễn biến của chúng trong năm tài
chính. Tuy nhiên, Công ty Vinatour chưa thực hiện báo cáo này, do vậy Ban lãnh
đạo Công ty cũng chưa nắm bắt được sự biến đổi các dòng tiền trong hoạt động
tài chính của mình. Bên cạnh đó, Công ty chưa thực hiện tốt báo cáo "thuyết
minh báo cáo tài chính". Báo cáo này được lập rất sơ sài, không đủ thông tin về
hoạt động sản xuất kinh doanhcủa Công ty cũng như những tác động của những
đặc điểm hoạt động đối với tình hình tài chính Công ty.
2.2.2 Về xác định các mục tiêu phân tích
Phân tích tài chính doanh nghiệp xét cho cùng là nhằm phát hiện những
vấn đề tài chính nảy sinh trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Và điều
quan trọng hơn, phân tích tài chính đảm bảo đưa ra những dự đoán xác đáng về
nhu cầu tài chính doanh nghiệp. Hoạt động phân tích tài chính, do vậy, phụ thuộc
vào cường độ hoạt động, phương thức tiến hành kinh doanh của doanh nghiệp.
Hoạt động của Công ty Vinatour diễn ra rất thường xuyên, Công ty
thường tiến hành thực hiện nhiều hoạt động cùng một lúc. Tuy vậy, các mục tiêu
mà Công ty đặt ra trong việc phân tích hoạt động tài chính chủ yếu hướng đến
phục vụ các thương vụ đơn lẻ. Nghĩa là khi tiến hành một hợp đồng cụ thể, Công
ty yêu cầu phòng tài chính kế toán kết hợp với phòng kinh doanh đưa ra một
phương án kinh doanh, trong đó bảm đảm yêu cầu có lãi và thu hồi vốn trong
một thời gian nhất định. Do việc triển khai nhiều hợp đồng, dòng tiền tổng hợp
vào, ra Công ty có những diến biến rất phức tạp, tạo ra sự bất ổn định giữa các
chỉ tiêu trên bảng cân đối kế toán. Và nhìn chúng, Công ty chưa đưa ra mục tiêu
cụ thể nào để phân tích tình hình tài chính của toàn bộ Công ty trong một thời
kỳ.
Do đặc điểm của việc quản lý hành chính, việc xác định các mục tiêu phân
tích của Công ty hướng vào hai nội dung chính, đó là:
- Phân tích tài chính để dự đoán nhu cầu tài chính và tìm nguồn tài
trợ
- Phân tích tài chính đảm bảo khả năng có lãi
Đối với mục tiêu thứ nhất, việc cân đối nguồn tài trợ thường do khoản vốn
kinh doanh của Công ty tự bỏ ra. Những hợp đồng lớn, ngoài nguồn tài trợ mua
chịu người bán, Công ty còn vay ngân hàng. Tuy nhiên, việc dự doán nhu cầu tài
chính và tìm nguồn tài trợ thường không có kế hoạch, do vậy các khoản nợ của
Công ty có xu hướng tăng lên. Như vậy, có thể thấy việc phân tích tài chính của
Công ty chưa thực sự được chú trọng và ngoài việc tìm nguồn tài trợ, Công ty
còn phải phân tích cả việc lưu chuyển vốn cũng như khả năng thanh toán chung
của Công ty. Nếu thực hiện tốt hai mục tiêu này, chắc chắn Công ty sẽ làm tốt
công việc đảm bảo nguồn tài trợ cho các hoạt động kinh doanh của Công ty.
Đối với mục tiêu thứ hai, mà thực chất là đưa ra những chỉ tiêu trong
phương án kinh doanh cụ thể như doanh thu, chi phí, các khoản nộp ngân sách
Nhà nước và mức lợi nhuận dự kiến. Trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt của thị
trường, Công ty đôi khi chấp nhận cả phương án kinh doanh có lợi nhuận trên
doanh thu thấp. Xét về tổng thể, mục tiêu này không phải là phân tích tài chính
bảo đảm khả năng tối đa hoá lợi nhuận mà chỉ là chấp nhận một tỷ lệ % lãi cho
từng thương vụ cụ thể.
Trong việc xác định các mục tiêu phân tích tài chính, Công ty đã bỏ qua
rất nhiều mục tiêu quan trọng khác như phân tích khả năng thanh toán, kiểm soát
tín dụng thương mại, chỉ trả bằng tiền, kế hoạch cơ cấu nguồn vốn và tài sản….
của toàn bộ Công ty. Những mục tiêu này tạo thành một hệ thống các mục tiêu
nhằm hướng tới việc tối đa hoá lợi nhuận và bảo đảm một nền tài chính lành
mạnh.
Tóm lại, xác định các mục tiêu phân tích tài chính của Công ty Vinatour
chưa đạt được đúng mức vai trò của công tác phân tích tài chính doanh nghiệp,
đó là phục vụ một cách tốt nhất cho các quyết định quản lý. Đây là nguyên nhân
dẫn đến việc quản lý tài chính của Công ty chưa tốt như đã nêu ở trên.
2.2.3 Về các phương pháp phân tích tài chính
Về các phương pháp phân tích, Công ty sử dụng chủ yếu phương pháp so
sánh và phương pháp tỷ lệ. Trong một giới hạn nhất định, các phương pháp này
đã phục vụ một cách tương đối tốt nhu cầu nắm bắt tình hình tài chính của các
chủ sở hữu Công ty. Trên thực tế, Công ty hầu như không bị lỗ vốn khi thực hiện
hợp đồng. Việc phân tích các phương án kinh doanh (bao gồm cả hoạt động tài
chính) tương đối chi tiết đảm bảo Công ty hoạt động có lãi. Nguồn vốn đầu tư
vào các dự án đa số là vốn ngân sách, các đối tác có tiềm lực tài chính mạnh.
Những
rủi ro lớn nhất chỉ do vốn thanh toán chậm, Công ty phải chịu lãi vay ngân hàng
làm tăng chi phí kinh doanh. Trong việc đánh giá kết quả phương án kinh doanh,
Công ty chú trọng tới việc so sánh các số liệu giữa các thời kỳ khác nhau ( tháng
, năm, quý ), giữa các khu vực thị trường khác nhau …Việc so sánh này đem lại
cho Công ty những thông tin có chất lượng để tiếp tục chuyển hướng các hoạt
động của mình. Bên cạnh đó, Công ty cũng quan tâm dến việc phân tích khả
năng sinh lời, tốc độ thu hồi vốn khi kinh doanh các sản phẩm khác nhau. Nó
giúp Công ty phát hiện các nhóm mặt hàng thị trường có nhu cầu, có khả năng
thu được lợi nhuận cao và từ đó có những quyết định đầu tư đúng hướng.
Trong phương pháp so sánh, Công ty tiến hành so sánh số thực hiện của
năm nay so với số thực hiện của năm trước.
Trong phương pháp tỷ lệ, Công ty tiến hành phân tích 2 nhóm tỷ lệ chủ
yếu là:
- Nhóm tỷ lệ về cơ cấu vốn: Hệ số nợ tổng tài sản, hệ số nợ vốn chủ sở hữu và
tỷ suất tự tài trợ.
- Nhóm tỷ lệ về Tỷ suất lợi nhuận: Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu và Tỷ
suất lợi nhuận trên vốn.
- Nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán: Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn và
khả năng thanh toán nhanh.
- Nhóm tỷ lệ khả năng hoạt động: Vòng quay vốn lưu động và vòng quay
hàng tồn kho.
2.2.4 Nội dung phân tích tài chính tại Công ty Vinatour
Trong điều kiện có nhiều cơ sở sản xuất khác nhau đóng tại nhiều khu vực
trong cả nước, hàng năm Công ty lập kế hoạch kinh doanh cho từng đơn vị cụ thể
trên cơ sở nhu cầu của thị trường, tiềm lực về vốn của Công ty cũng như khả
năng sản xuất của từng cơ sở. Do vậy, việc phân tích các chỉ tiêu tài chính
thường tập trung vào các chỉ tiêu số lượng, có tính chất quy mô hơn là các chỉ
tiêu có tính chất lượng. Sau đây là nội dung phân tích các chỉ tiêu tài chính của
Công ty:
2.2.4.1 Phân tích kết cấu tài sản nguồn vốn của Công ty Vinatour
Xem bảng 2.5: Kết cấu nguồn vốn và tài sản Công ty Vinatour trong các
năm qua.
Theo bảng này, ta có thể thấy :
* Về tài sản :
- Trong tổng tài sản, tài sản lưu động ngày càng chiếm tỷ trọng cao hơn
(năm 2000 là 41.56% và trong năm 2001 là 44.92%) và tài sản cố định ngày càng
chiếm tỷ trọng nhỏ hơn. Điều này cho thấy hoạt động tài chính của Công ty ngày
càng đi vào kinh doanh thương mại là chủ yếu, mà đã giảm đầu tư vào tài sản cố
định nhằm tăng năng lực sản xuất.
- Trong tài sản lưu động, lượng tiền mặt tại quỹ của năm 2001 đã giảm so
với lượng tiền mặt tại quỹ năm 2000 là 47.12%. Điều này làm cho khả năng
thanh toán nhanh của Công ty kém đi và là điều các chủ nợ không mong muốn.
Còn các khoản phải thu thì lại tăng khá nhanh ( năm 2001 tăng so với năm 2000
là 50,89% ) và là một trong những yếu tố chính làm tăng thêm tài sản. Điều này
cho thấy Công ty đang bị tồn đọng vốn dẫn tới việc tiền mặt tại quỹ giảm xuống.
Chính vì thế Công ty cần xem xét lại khoản mục này để có một cơ cấu tài sản
hợp lý, tránh tình trạng tồn đọng vốn quá nhiều sẽ làm bất lợi cho tình hình tài
chính của Công ty.
- Hàng tồn kho của Công ty giảm một cách đáng kể trong năm 2001 (giảm
30,11% so với năm 2000) Điều này cho thấy tốc độ giải phóng hàng tồn kho của
Công ty rất tốt, tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty đang gặp nhiều
thuận lợi, nhất là trong hoàn cảnh một loạt Công ty khác đang cạnh tranh kinh
doanh cùng mặt hàng sứ vệ sinh và sử dụng nhiều hình thức khuyến mãi để
chiếm thị trường.
- Tài sản lưu động khác tăng nhẹ so với năm 2000 (3,29 %). Nói chung khoản
mục này khá ổn định và Công ty cần duy trì một tỷ trọng phù hợp cho khoản mục
này.
* Về nguồn vốn :
- Nợ phải trả của Công ty chiếm 34,2% trong tổng nguồn vốn (năm 2000)
và 34,66 % trong năm 2001. Nhìn chung đây là một tỷ lệ hợp lý và khá ổn định
của Công ty. Nợ phải trả trong năm 2001 tăng so với năm 2000 nhưng không
đáng kể và đây cũng là điều phù hợp trong điều kiện Công ty đang mở rộng kinh
doanh. Qua việc tỷ lệ nợ phải trả ổn định qua các năm cho thấy Công ty có kế
hoạch trả nợ tốt.
- Trong năm 2001, nợ ngắn hạn có xu hướng tăng lên trong khi nợ dài hạn
lại giảm đi. Tuy nhiên những biến động này không lớn và không làm ảnh hưởng
đến kế hoạch kinh doanh của Công ty. Khoản phải trả tăng cao nhất về tỷ trọng (
27,35% ) nhưng về số tuyệt đối nhỏ nên không làm ảnh hưởng nhiều đến khoản
mục nợ phải trả.
Bảng 2.5 : Kết cấu tài sản và nguồn vốn của Công ty Vinatour trong
những năm qua ( đơn vị 1000VND)
Chỉ tiêu
Năm 2000 Năm 2001 ( +,-) 2001/2000
Lượng
Tỷ
trọng
(%)
Lượng
Tỷ trọng
(%)
Mức %(+,-)
A. Tài sản
I. TSLĐ và đầu tư
ngắn hạn
6243062 41.56
7112837
44.92 6349672 10.24
1. Tiền 2034363 2.95 1698222 1.53 -2075202 -47.12
2. Các khoản phải thu
3466345
19.56 4704551 28.94 14849000 50.89
3. Hàng tồn kho
203981
14.76 225158 10.11 -6634126 -30.11
4. TSLĐ khác 538373 4.29 484546 4.34 210000 3.29
II. TSCĐ và đầu tư dài
hạn
8946252 58.44
7984347
55.08 -3384000 -3.88
1. TSCĐ 8946252 56.89
7984347
52.97 -4284000 -5.04
2. Đầu tư dài hạn 0 1.55 0 2.11 900000 39.13
Tổng cộng tài sản 15189314 100 15097183 100 2956672 1.98
B.Nguồn vốn
III. Nợ phải trả 51010603 34.2 52724275 34.66 1713672 3.36
1. Vay ngắn hạn 11381000 7.63 11922000 7.83 541000 4.75
2. Vay dài hạn 22850000 15.32 21350000 14.03 -1500000 -6.57
3. Phải trả 10742583 7.2 13681327 8.99 2938744 27.35
4. Nợ khác 6037020 4 5770948 3.79 -266072 -4.41
IV. Vốn chủ sở hữu 98136000 65.8 99388000 65.34 1252000 1.28
1. LN chưa phân phối 1609000 1.08 1827000 1.2 218000 13.55
2. Vốn + quỹ 96527000 64.72 97561000 64.14 1034000 1.07
Tổng cộng nguồn vốn 149146603 100 152112275 100 2965672 1.99
Nguồn: Bảng cân đối kế toán Công ty Vinatour năm 2000&2001
- Vốn chủ sở hữu vẫn là khoản chính trong hoạt động của Công ty , chiếm
65,8% tổng nguồn vốn của Công ty trong năm 2000 và 65,34% trong năm 2001.
Đây là cơ cấu hợp lý với một doanh nghiệp nhà nước trong cơ chế thị trường.
Điều này cho thấy Công ty có thể chủ động trong nguồn vốn kinh doanh, nhưng
vẫn tận dụng được sự tài trợ từ bên ngoài. Trong danh mục vốn chủ sở hữu thì
phần lợi nhuận chưa chia chỉ chiếm một phần nhỏ ( 1,08% trong năm 2000 và
1,2% trong năm 2001) Còn lại là nguồn vốn và quỹ của Công ty, chiếm một tỷ
trọng lớn trong tổng nguồn vốn.
Tóm lại, phân tích kết cấu tài sản và nguồn vốn của Công ty cho thấy
Công ty có khả năng mở rộng hoạt động tốt thể hiện qua việc hàng tồn kho giảm
đi, các khoản phải thu tăng nhanh. Tuy nhiên, Công ty cũng cần chú ý đến việc
tiền mặt tại quỹ giảm một cách đáng kể trong khi các khoản phải thu lại tăng lên
nhanh. Điều này có nghĩa là Công ty đang bị tồn đọng vốn, ảnh hưởng tới quá
trình tái đầu tư sản xuất kinh doanh.
- Về cơ cấu tài chính của Công ty :
* Hệ số nợ tổng tài sản:
Năm 2000 : 34,2 %
Năm 2001 : 34,66%
Như vậy, trong hai năm 2000 và 2001, hệ số nợ tổng tài sản không biến
động là mấy và ở mức vừa phải, thể hiện được Công ty vẫn đang tự chủ về tài
chính, nhưng vẫn tận dụng được nguồn tài trợ từ bên ngoài ở mức vừa phải. Nói
chung cơ cấu nợ trên tổng tài sản của Công ty đang ở trạng thái tốt.
* Hệ số nợ vốn chủ sở hữu:
Năm 2000 : 51,97%
Năm 2001 : 53,05%
* Tỷ suất tự tài trợ
Năm 2000 : 65,8 %
Năm 2001 : 65,34%
Nói chung Công ty có một cơ cấu về nợ và vốn chủ sở hữu khá ổn định và
nói chung là tốt. Tuy nhiên qua việc phân tích các chỉ tiêu về tài sản cho thấy khả
năng thanh khoản của Công ty đang kém đi vì lượng tiền mặt tại quỹ giảm trong
khi những khoản phải thu lại tăng lên. Chính vì thế chúng ta cần phải phân tích
khả năng thanh toán của Công ty.
2.2.4.2 Phân tích khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán công nợ của doanh nghiệp phản ánh rõ nét chất
lượng của hoạt động tài chính. Nếu hoạt động tài chính tốt, doanh nghiệp sẽ ít bị
rơi vào tình trạng bị chiếm dụng vốn và cũng không phải đi chiếm dụng vốn,
luôn bảo đảm khả năng thanh toán cao. Do đó phân tích khả năng thanh toán
công nợ là một nhu cầu vô cùng cần thiết.
Để phân tích khả năng thanh toán của Công ty, ta dùng bảng 2.6
Bảng 2.6 Phân tích khả năng thanh toán của Công ty Vinatour
(đơn vị :triệu VND)
Phải thu Năm
2000
Năm
2001
Chênh
lệch
Phải trả Năm
2000
Năm
2001
Chêch
lệch
1.Phải thu 29178 44027 14849 1.Vay ngắn hạn 11381 11922 541
2.Vay dài hạn 22850 21350 -1500
3.Phải trả 10743 13681 2938
4.Nợ khác 6037 5771 -266
Tổng cộng 29178 44027 14849 51011 52724 1713
Nguồn : Bảng cân đối kế toán Công ty Vinatour năm 2000&2001
Qua bảng trên ta thấy: Nếu như chênh lệch phải thu - phải trả năm 2000 là
- 21824 triệu đ thì chêch lệch năm 2001 là -8697 triệu đ. Nhìn chung Công ty có
xu hướng ngày càng bị khách hàng chiếm dụng vốn. Các khoản phải thu tăng
mạnh (14849 triệu VND) trong khi các khoản phải trả vẫn ổn định. Điều này cho
thấy, công tác thu hồi nợ của Công ty chưa tốt.
Phân tích khả năng thanh toán của Công ty Vinatour cho thấy doanh
nghiệp hoạt động chủ yếu trên nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn tài trợ từ bên ngoài
cũng có nhưng chỉ chiếm một tỷ trọng vừa phải. Do công tác thu hồi nợ Công ty
làm chưa tốt nên việc bị chiếm dụng vốn tăng khá nhanh so với năm 2000.
Chúng ta xem xét một số chỉ tiêu về khả năng thanh toán :
a. Hệ số thanh toán ngắn hạn:
Năm 2000 =
61988603
= 1,22
51001000
Năm 2001 =
68338275
= 1,3
52724000
Hệ số này cho biết khả năng thanh toán chung của doanh nghiệp trong
ngắn hạn,nghĩa là khả năng đáp ứng các nhu cầu thanh toán dưới một năm của
các khoản mục tài sản lưu động của doanh nghiệp . Hệ số này phải luôn lớn hơn
1 thì khả năng thanh toán ngắn hạn của Công ty mới được bảo đảm. Như vậy
nhìn chung khả năng thanh toán ngắn hạn của Công ty Vinatour là khá an toàn.
Tuy nhiên, trong năm 2001, do các khoản phải thu chiếm tỷ trọng lớn trong tài
sản lưu động (64,4 %) nên nếu các khoản phải thu của Công ty không nằm trong
thời hạn thanh toán của các khoản nợ thì Công ty rất dễ rơi vào tình trạng mất
khả năng thanh toán.
b. Hệ số thanh toán nhanh:
Năm 2000 =
4403672 + 29178000
= 0,66
51001000
Năm 2001 = 2328470 + 44027000 = 0,88
52724000
Hệ số này cho biết khả năng thanh toán của tiền và các khoản phải thu
nghĩa là các tài sản có thể chuyển nhanh thành tiền đối với các khoản nợ ngắn
hạn của doanh nghiệp. Hệ số thanh toán nhanh có xu hướng tăng lên trong năm
2001. Tuy nhiên điều này cũng không thể làm cho Công ty yên tâm vì hệ số
thanh toán nhanh tăng là do các khoản phải thu tăng rất mạnh, còn tiền mặt tại
quỹ thực tế bị giảm đi. Điều này cũng cho thấy nếu các khoản phải thu không đòi
được đúng hạn thì sẽ dẫn tới việc mất khả năng thanh toán của Công ty.
c. Hệ số thanh toán tức thời
Năm 2000 =
4403672
= 0,086
51001000
Năm 2001 =
2328470
= 0,044
52724000
Hệ số này cho biết khả năng đáp ứng ngay các nhu cầu thanh toán đến hạn
của doanh nghiệp . Hệ số này trong năm 2001 giảm mạnh so với năm 2000. Điều
này phản ánh đúng thực tế rằng lượng tiền mặt tại quỹ trong năm 2001 giảm
mạnh so với năm 2000. Đây là tình trạng không tốt của tình hình tài chính Công
ty.
Nhìn chung các hệ số thanh toán của doanh nghiệp khá ổn định và có xu
hướng tăng dần. Tuy nhiên sự gia tăng này không làm cho Công ty yên tâm, vì
trong khi các hệ số nợ khác tăng thì hệ số thanh toán tức thời lại giảm. Điều này
làm cho việc thanh toán công nợ của Công ty phụ thuộc vào công tác thu hồi vốn,
làm Công ty không chủ động được trong việc thanh toán công nợ.
2.2.4.3 Phân tích kết quả kinh doanh và khả năng sinh lãi của
Công ty
Kết quả hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp bao gồm các chỉ tiêu
đánh giá tổng hợp các mặt hoạt động của doanh nghiệp đó. Thông thường, kết
quả kinh doanh phụ thuộc vào tình hình thị trường sản phẩm và mức tiêu thụ
hàng hoá của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế
kinh tế thị trường thì các hoạt động tài chính có ảnh hưởng đáng kể đến kết quả
hoạt động kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp hoạt động tài chính có sử dụng
nhiều nguồn tài trợ khác nhau, hình thành nhiều loại sản phẩm khác nhau thì
những chi phí vốn là một nhân tố quan trọng tác động đến kết quả kinh doanh
của doanh nghiệp.
Bảng 2.7 thể hiện kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty Vinatour qua
hai năm là 2000 và 2001.
Bảng 2.8 Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh của
Công ty Vinatour
( đơn vị: 1000 VND)
Chỉ tiêu 2000 2001
Chênh lệch
2001/2000
%Theo quy
mô chung
Mức % 2000 2001
1.Tổng doanh thu
2.Các khoản giảm trừ
3.Doanh thu thuần
4.Giá vốn hàng bán
5.Lợi nhuận gộp
6.Chi phí bán hàng
7.Chi phí quản lý DN
8.Lợi nhuận từ hoạt động KD
9.Lợi nhuận từ hoạt động TC
10.Thu nhập bất thường
102856000
0
102856000
67947000
34909000
19767747
12870065
2271188
0
0
119600000
0
119600000
78100000
41500000
23500236
15313000
2686764
0
0
16744000
0
16744000
10153000
6591000
3732489
2442935
415576
0
0
16,3
0
16,3
14,9
18,9
18,9
19
18,3
0
0
100
0
100
66,1
33,9
19,2
12,5
2,2
0
0
100
0
100
65,3
34,7
19,7
12,8
2,3
0
0
11.Tổng lợi nhuận trước thuế
12.Thuế TNDN
13.Lợi nhuận sau thuế
2271188
726780
1544408
2686764
859764
1827000
415576
132984
282592
18,3
18,3
18,3
2,21
0,71
1,5
2,25
0,72
1,53
Nguồn số liệu : Báo cáo kết quả kinh doanh Công ty Vinatour năm 2000 & 2001
Qua bảng 2.7 ta có thể rút ra một số nhận xét sau :
- Tổng doanh thu của Công ty có bước tăng trưởng khá, năm 2001 đã tăng
16,3% so với năm 2000. Doanh thu tăng lên là do một số nguyên nhân sau:
+ Tình hình thị trường đối với sản phẩm vật liệu xây dựng, trong đó có
mặt hàng sứ vệ sinh đang tăng trưởng với tốc độ lớn với đòi hỏi chất lượng ngày
càng cao. Do đó nó có nhiều diễn biến thuận lợi với các doanh nghiệp trong
ngành sản xuất vật liệu xây dựng nói chung và sản xuất sứ vệ sinh nói riêng, nhất
là đối với những Công ty có uy tín từ lâu và được khách hàng tín nhiệm như
Công ty Vinatour
+ Do những nỗ lực tiếp thị của Công ty Vinatour. Trong các năm trở lại
đây, Công ty liên tục tham dự các triển lãm trong nước và quốc tế, quảng cáo trên
các phương tiện thông tin đại chúng. Công ty đã tập trung vào việc cải tiến công
nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm để đáp ứng đòi hỏi của thị trường.
Bên cạnh đó, Công ty giữ chữ tín và tiếp tục mở rộng các thị trường quốc
tế quen thuộc như Ý, Nga, Ukraina, Nhật Bản … nhưng cũng không quên thị
trường trong nước. Công ty sản xuất đầy đủ các loại sản phẩm từ hàng cao cấp
đến bình dân để đáp ứng nhu cầu của mọi tầng lớp.
- Về tỷ trọng, giá vốn hàng bán không thay đổi đáng kể trong tổng doanh
thu. Nhìn chung tỷ trọng giá vốn hàng bán trong tổng doanh thu là khá ổn định
(năm 2000: 66,1% và năm 2001: 65,3%). Đó là do doanh nghiệp luôn định
hướng đúng thị trường, quan hệ tốt với những nhà cung cấp nguyên nhiên liệu
nên tuy trong một thị trường cạnh tranh quyết liệt, thường xuyên có sự giảm giá
mà tỷ trọng giá vốn hàng bán trên tổng doanh thu hầu như không thay đổi. Mặt
khác, tuy là khá ổn định nhưng tỷ trọng giá vốn hàng bán trên tổng doanh thu của
Công ty đang có xu hướng giảm đi. Đây là tín hiệu tốt đến hoạt động kinh doanh
của Công ty vì điều này đồng nghĩa với việc tỷ suất lợi nhuận của Công ty sẽ
tăng lên.
- Do tỷ trọng giá vốn hàng bán ổn định nên lợi nhuận gộp của Công ty
cũng ổn định và có xu hướng tăng lên, chiếm tỷ trọng 33,9% trong năm 2000 và
34,7% trên tổng doanh thu trong năm 2001. Lợi nhuận gộp đạt mức tăng trưởng
18,9 %. Đây là một kết quả tốt cho thấy Công ty đang đi đúng hướng và đang
đạy được những kết quả tốt trong hoạt động kinh doanh.
- Chi phí quản lý doanh nghiệp và chi phí bán hàng vẫn ổn định ở mức
khá cao. Chi phí bán hàng chiếm tỷ trọng 19,2% trên tổng doanh thu trong năm
2000 và 19,7% trong năm 2001. Còn chi phí quản lý doanh nghiệp chiếm tỷ
trọng 12,5% trên tổng doanh thu trong năm 2000 và chiếm 12,8% trong năm
2001. Tuy lợi nhuận gộp tăng lên nhưng chi phí bán hàng và chi phí quản lý
doanh nghiệp cũng tăng lên với tốc độ tương ứng nên không tạo được đột biết về
lợi nhuận từ kinh doanh. Lợi nhuận từ kết quả hoạt động kinh doanh cũng đạt
mức tăng trưởng 18,3% nhưng về tỷ trọng trên tổng doanh thu lại đạt rất thấp là
2,2% trong năm 2000 và 2,3% trong năm 2001. Qua đó chúng ta thấy vì chi phí
quản lý doanh nghiệp và chi phí bán hàng ở mức quá cao nên làm giảm lợi nhuận
từ kinh doanh của Công ty.
- Do Công ty không có thu nhập từ hoạt động tài chính cũng như thu nhập
bất thường nên lợi nhuận trước thuế của Công ty cũng chính là lợi nhuận từ hoạt
động kinh doanh. Công ty phải nộp thuế thu nhập 32% và lợi nhuận sau thuế của
Công ty chiếm tỷ trọng 1,5% trong năm 2000 và 1,53% trong năm 2001.
Ta nghiên cứu một số chỉ tiêu tài chính về lợi nhuận của Công ty:
* Hệ số sinh lợi doanh thu
Năm 2000 : 1,5%
Năm 2001 : 1,53 %
* Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu
Năm 2000 = 1544408 = 0,0157 = 1,57 %
98136000
Năm 2001 =
1827000
= 0,0184 = 1,84 %
99388000
Hệ số này cho biết 100 đồng vốn chủ sở hữu đưa vào kinh doanh sẽ thu
được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Hệ số này tăng lên chứng tỏ Công ty đã sử dụng
có hiệu quả hơn đồng vốn mình bỏ ra. Tuy nhiên hệ số này vẫn còn thấp chứng tỏ
hiệu quả sử dụng đồng vốn của Công ty chưa cao. Một lý do khác là do Công ty
kinh doanh dựa phần lớn vào vốn của mình là chính nên tỷ lệ lợi nhuận trên vốn
chủ sở hữu là chưa cao.
Tóm lại, qua những phân tích trên đây cho thấy, trong năm 2001, lợi
nhuận của Công ty Vinatour tăng lên khá nhiều chứng tỏ đây là một năm mà hoạt
động kinh doanh của Công ty phát triển tốt và Công ty đang phát triển đúng
hướng. Tuy nhiên tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của Công ty còn thấp, điều
này làm Công ty phải cố hơn nữa và cần huy động thêm nguồn tài trợ từ bên
ngoài cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Ngoài ra Công ty còn phải
giải quyết vấn đề giảm chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp vì hiện
tại nó đang chiếm một tỷ trọng quá lớn. Có như vậy mới có thể tăng được lợi
nhuận của Công ty.
2.2.4.4 Đánh giá khả năng hoạt động của Công ty
Để đánh giá khả năng hoạt động của Công ty, ta phải dùng các chỉ tiêu sau
- Doanh thu thuần: Doanh thu thuần của Công ty năm 2001 đã tăng 16,3%
so với năm 2000, điều đó cho thấy hoạt động của Công ty đã được mở
rộng về quy mô.
a. Vòng quay vốn lưu động:
Năm 2000 =
102856000
= 1,66
61988603
Năm 2001 =
119600000
= 1,75
68338275
Vòng quay vốn lưu động cho biết khả năng hoạt động tạo ra doanh thu của
các loại tài sản lưu động của doanh nghiệp. Trong trường hợp này, vòng quay
vốn lưu động của Công ty có xu hướng ổn định và trong năm 2001 đã tăng hơn
năm 2000 nhưng vẫn ở mức thấp, điều đó chứng tỏ khả năng hoạt động của Công
ty xét về chất lượng vẫn chưa được tốt. Nguyên nhân chính là do đặc điểm của
loại hình sản xuất vật liệu xây dựng, và một phần cũng do Công ty chưa có biện
pháp nhằm quản lý chặt chẽ vốn lưu động.
b. Vòng quay hàng tồn kho
Năm 2000 =
102856000
= 4,67 vòng
22026931
Năm 2001 =
119600000
= 7,77 vòng
15392805
Vòng quay hàng tồn kho trong năm 2001 đã tăng lên đáng kể so với năm
2000. Điều đó cho thấy trong năm 2001, tình hình kinh doanh của Công ty tốt
hơn năm 2000, kế hoạch thị trường được thực hiện tốt hơn dẫn đến hàng tồn kho
giảm đi so với năm 2000.
2.2.4.5 Tổng hợp các chỉ tiêu tài chính được sử dụng trong phân
tích tài chính của Công ty
Qua việc phân tích tình hình tài chính của Công ty, ta có thể tổng hợp các
chỉ tiêu mà Công ty đã sử dụng trong phân tích tài chính trong bảng2.8
Bảng 2.8 Kết quả phân tích tài chính tại Công ty Vinatour
Các chỉ tiêu phân tích Đơn vị
Năm
2000 2001
1. Hệ số nợ tổng tài sản % 34.2 34,66
2. Hệ số nợ vốn chủ sở hữu % 51,97 53,05
3. Tỷ suất tự tài trợ % 65,8 65,34
4. Hệ số thanh toán nhanh Lần 0,66 0,88
5. Hệ số thanh toán ngắn hạn Lần 1,22 1,3
6.Hệ số thanh toán tức thời Lần 0,086 0,044
7.Hệ số sinh lợi doanh thu % 1,5 1,53
8. Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu % 1,57 1,84
9.Vòng quay vốn lưu động Vòng 1,66 1,75
10.Vòng quay hàng tồn kho Vòng 4,67 7,77
Nguồn : bảng phân tích tài chính công ty Vinatour năm 2000&2001
Các chỉ tiêu trên cung cấp cho ban lãnh đạo Công ty một cái nhìn tổng
quát về tình hình tài chính của Công ty và đưa ra một số nhận xét sau :
- Hoạt động tài chính của Công ty ngày càng mở rộng về quy mô, thể hiện
qua các chỉ tiêu doanh thu, tổng tài sản tăng trong năm 2001 so với năm 2000.
- Về nguồn tài trợ: Để tài trợ cho hoạt động của mình, Công ty huy động
từ nhiều nguồn khác nhau. Trong đó, nguồn vốn chủ sở hữu đóng vai trò chủ đạo
và các nguồn vốn huy động từ ngoài cũng chiếm một khoản đáng kể. Những
nguồn vốn này đảm bảo một cách tương đối ổn định cho hoạt động của Công ty.
- Về khả năng thanh toán, phân tích tình hình khả năng thanh toán của
Công ty cho thấy khả năng thanh toán trong năm 2001 tốt hơn năm 2000 nhưng
với điều kiện Công ty kiểm soát được chặt chẽ tài sản lưu động, nhất là các
khoản phải thu, các khoản tạm ứng.
- Khả năng sinh lời của Công ty đang có xu hướng tăng lên. Điều này cho
thấy Công ty đang phát triển đúng hướng. Tuy nhiên khả năng sinh lời của Công
ty còn có thể tăng hơn nữa nếu Công ty giảm được chi phí bán hàng và chi phí
quản lý doanh nghiệp.
Nhìn chung ta thấy công tác quản lý vốn lưu động của Công ty chưa được
tốt. Từ đó có thể thấy rằng hoạt động quản lý tài chính của Công ty chưa được
thực hiện có hiệu quả.
2.3 Những thiếu sót còn tồn tại trong công tác phân tích tài chính của
công ty Vinatour
Trong công tác phân tích tài chính của công ty Vinatour, còn một số chỉ
tiêu quan trọng mà công ty chưa sử dụng để phân tích tình hình tài chính của
công ty:
2.3.1 Phân tích diễn biến tình hình nguồn vốn và sử dụng vốn
của Công ty
Đối với nội dụng này, hiện Công ty chưa phân tích một cách thường
xuyên. Do vậy, Công ty cần đưa nội dung này vào hoạt động phân tích tài chính.
Nội dung này thể hiện ở bảng 2.9:
Qua bảng trên ta có thể thấy :
- Trong năm 2001, nguồn vốn và sử dụng vốn của Công ty Vinatour tăng
15059 triệu đồng so với năm 2000. Điều đó phản ánh hoạt động của Công ty có
những bước tăng trưởng tốt trong năm 2001.
Trong đó, sử dụng vốn chủ yếu tăng ở các khoản phải thu (98,6%). Xem
xét hoạt động của Công ty cho thấy: phạm vi hoạt động của Công ty ngày càng
mở rộng, môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt dẫn tới việc Công ty phải
cho các đại lý trả tiền sau. Chính vì thế làm việc quyết toán có nhiều vướng mắc.
Do vậy các khoản phải thu chiếm tỷ trọng lớn là điều tất yếu xảy ra và có thể
chấp nhận được. Tuy nhiên Công ty cũng cần có biện pháp để quản lý chặt chẽ
các khoản này để tránh rủi ro trong thanh khoản.
Bảng 2.9 : Bảng phân tích diễn biến nguồn và sử dụng vốn của Công
ty Vinatour năm 2001 so với năm 2000
Đơn vị tính : triệu đồng
Chỉ tiêu
Tăng,giảm sử dụng vốn Tăng,giảm nguồn vốn
Lượng Tỷ trọng Lượng Tỷ trọng
1. Vốn bằng tiền 2075,2 13,8%
2. Các khoản phải thu 14849 98,6%
3. Hàng tồn kho 6634,2 44,1%
4. TSLĐ khác 210 1,4%
5. TSCĐ 3384 22,5%
6. Nợ ngắn hạn 1713.6 11,4%
7. Nguồn vốn chủ sở hữu 1252 8,2%
Cộng 15059 100% 15059 100%
Nguồn số liệu : Bảng cân đối kế toán của Công ty Vinatour năm 2000&2001
- Phần tăng còn lại của sử dụng vốn là phần tài sản lưu động khác tăng
không đáng kể (1,4%) chủ yếu tăng là do các khoản tạm ứng, trả trước.
- Vốn bằng tiền trong năm 2001 giảm đáng kể so với năm 2000 (giảm
2075,2 triệu). Điều này là hệ quả của việc tồn đọng vốn của Công ty khi các
khoản phải thu tăng lên. Tuy điều này không làm khả năng thanh toán ngắn hạn
và khả năng thanh toán nhanh của Công ty giảm xuống nhưng làm khả năng
thanh toán tức thời của Công ty kém đi. Đáng chú ý là hàng tồn kho năm 2001
giảm mạnh so với năm 2000 làm tăng nguồn vốn lên 6634,2 triệu đồng (44,1%).
Đây là tín hiệu đáng mừng cho Công ty cho thấy trong năm 2001 là năm Công ty
kinh doanh tốt, lượng sản phẩm tiêu thụ tăng lên và công tác dự báo nhu cầu thị
trường của Công ty chính xác hơn nên lượng tồn kho của Công ty giảm.
- TSCĐ của Công ty trong năm 2001 giảm đi 3384 triệu ( 22,5 % ) cho
thấy trong năm 2001 Công ty chưa chú trọng đến công tác bổ sung TSCĐ để đáp
ứng nhu cầu mở rộng sản xuất, lượng bổ sung TSCĐ nhỏ hơn số lượng khấu hao
TSCĐ dẫn tới tình trạng giảm TSCĐ.
- Nợ ngắn hạn và vốn chủ sở hữu trong năm 2001 đều tăng so với năm
2000. Cụ thể nợ ngắn hạn tăng 1713,6 ( 11,4% ) và vốn chủ sở hữu tăng 1252 (
8,2 % ). Điều này cho thấy Công ty đã chủ động được nguồn vốn của mình, tìm
được nguồn tài trợ phục vụ mục đích mở rộng sản xuất kinh doanh. Đây cũng là
nguồn tài trợ chính cho Công ty trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Và Công
ty cũng làm rất tốt việc giữ vững để tỷ lệ vốn đi vay và vốn chủ sở hữu ở một
mức hợp lý.
2.3.2 Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt
động kinh doanh.
Qua việc phân tích nguồn vốn của doanh nghiệp ta có thể thấy nguồn vốn
có tầm quan trọng như thế nào đến doanh nghiệp. Nó ảnh hưởng đến hầu hết các
quyết định về tài chính của doanh nghiệp cũng như nó là nhân tố quan trọng bậc
nhất, là điều kiện đầu tiên để Công ty có thể hoạt động. Do vậy, Công ty cần đặt
mục tiêu phân tích nguồn tài trợ là một mục tiêu quan trọng của phân tích tài
chính.
Đối với một doanh nghiệp có thể lựa chọn nhiều nguồn tài trợ khác nhau,
bao gồm các nguồn tài trợ ngắn hạn và dài hạn. Tuy nhiên việc sử dụng nguồn
tài trợ luôn đặt doanh nghiệp trước những rủi ro và chi phí của nguồn tài trợ. Rủi
ro mà doanh nghiệp phải chịu ở đây có thể là rủi ro lãi xuất hoặc rủi ro thanh
toán. Rủi ro càng cao thì chi phí do sử dụng nguồn tài trợ càng thấp. Vì vậy,
doanh nghiệp cần phân tích để sử dụng nguồn tài trợ một cách hợp lý, vừa đảm
bảo hạn chế rủi ro, vừa giảm được chi phí do sử dụng nguồn tài trợ.
Do đó, Công ty cần phân tích sử dụng nguồn tài trợ theo hướng giảm thiểu
nguồn vốn vay để giảm chi phí tài chính, đồng thời thường xuyên kết hợp với
khả năng thanh toán, đảm bảo với việc sử dụng các guồn vốn một cách hiệu quả
nhất.
Với nội dung này, Công ty cần bổ xung phân tích hai chỉ tiêu là vốn lưu
động thường xuyên và nhu cầu vốn lưu động. Nếu thực hiện phân tích tố hai chỉ
tiêu này, Công ty sẽ không bị động trong việc bảo đảm nguồn vốn cho hoạt động
kinh doanh đồng thời thực hiện tốt việc luân chuyển vốn.
Thực tế ở Công ty Vinatour, khoản mục TSCĐ khác ( chủ yếu là các
khoản tạm ứng ) cũng tạo ra nhu cầu VLĐ thường xuyên. Tuy nhiên để đảm bảo
sử dụng vốn đúng mục đích, Công ty cần giảm thiểu khoản mục này. Do vậy nhu
cầu VLĐ thường xuyên của Công ty cũng xẽ giảm và các nguồn tài trợ sẽ được
sử dụng có hiệu quả hơn.
Việc phân tích các chỉ tiêu VLĐ thường xuyên và nhu cầu VLĐ thường
xuyên được thể hiện trên bảng 2.10
Bảng 2.10 Vốn lưu động thường xuyên và nhu cầu vốn lưu động
thường xuyên của Công ty Vinatour qua các năm
( Đơn vị tính : nghìn đồng )
Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000
1. Nguồn vốn dài hạn
- Vốn chủ sở hữu
- Nợ dài hạn
2. Tài sản cố định
3. Vốn lưu động thường xuyên
4. Hàng tồn kho
5. Các khoản phải thu
6. TSLĐ khác
7. Nợ ngắn hạn
8. Nhu cầu VLĐ thường xuyên
120986000
98136000
22850000
84858000
36128000
22026931
29178000
6380000
28160603
29424328
120738000
99388000
21350000
80574000
40164000
15392805
44027000
6590000
31374275
34635530
Qua bảng trên cho thấy chỉ tiêu vốn lưu động thường x
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty điều hành hướng dẫn du lịch Vinatour.pdf