Tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình xây dựng và khai thác sử dụng các khu công nghiệp tại Hà Nội: 1
Luận văn
Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh quá
trình xây dựng và khai thác sử dụng
các KCN tại Hà nội
2
Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hà nội là trung tâm kinh tế văn hoá, chính trị và xã hội của cả nước. Để
đẩy mạnh sự nghiệp “ công nghiệp hoá và hiện đại hoá ” theo tinh thần của Nghị
Quyết TW8 , Hà nội cần thực hiện một sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế toàn diện
phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của đất nước và cơ cấu kinh tế quốc tế trên các
lĩnh vực. Trong đó vấn đề đầu tư vào các khu công nghiệp ( KCN) giữ một vai
trò quan trọng, đó là một trong những điêù kiện thuận lợi nhằm thu hút các nhà
đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào Hà nội. Kinh nghiệm của các nước đi
trước cho thấy việc khai thác thành công loại hình KCN sẽ là những nhịp cầu
nối nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với nền kinh tế công nghiệp hiện đại. Chính
vì vậy việc làm thế nào để có thể xây dựng và khai thác sử dụng một cách có
hiệu quả các KCN tại Hà nội đang là điều trăn trở củ...
123 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1277 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình xây dựng và khai thác sử dụng các khu công nghiệp tại Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh quá
trình xây dựng và khai thác sử dụng
các KCN tại Hà nội
2
Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hà nội là trung tâm kinh tế văn hoá, chính trị và xã hội của cả nước. Để
đẩy mạnh sự nghiệp “ công nghiệp hoá và hiện đại hoá ” theo tinh thần của Nghị
Quyết TW8 , Hà nội cần thực hiện một sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế toàn diện
phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của đất nước và cơ cấu kinh tế quốc tế trên các
lĩnh vực. Trong đó vấn đề đầu tư vào các khu công nghiệp ( KCN) giữ một vai
trò quan trọng, đó là một trong những điêù kiện thuận lợi nhằm thu hút các nhà
đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào Hà nội. Kinh nghiệm của các nước đi
trước cho thấy việc khai thác thành công loại hình KCN sẽ là những nhịp cầu
nối nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với nền kinh tế công nghiệp hiện đại. Chính
vì vậy việc làm thế nào để có thể xây dựng và khai thác sử dụng một cách có
hiệu quả các KCN tại Hà nội đang là điều trăn trở của các nhà quản lý kinh tế vĩ
mô. Thành công trong lĩnh vực này sẽ nhanh chóng đưa Hà nôi không chỉ là một
trung tâm kinh tế lớn của cả nước mà còn mở cửa , bước ra hoà nhập một cách
bình đẳng với các thành phố khác trong khu vực và trên toàn thế giới.
Hiện nay Hà nội có 05 khu công nghiệp tập trung với tổng diện tích lên
tới 765 ha hứa hẹn một khu vực sản xuất rộng lớn, có chất lượng cao. Thế nhưug
các dự án đầu tư sản xuất tại KCN tại Hà nội vẫn chỉ là những con số rất khiêm
tốn, các doanh nghiệp trong và ngoài nước vẫn còn do dự trong quá trình thăm
dò tình hình trước khi đầu tư vào đây. Chính vì vậy qua khảo sát và tìm hiểu tôi
lựa chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình xây dựng và khai
thác sử dụng các KCN tại Hà nội”. Mục đích nghiên cứu của đề tài là dùng
những lý luận cơ bản vận dụng để giải quyết vấn đề : "Làm thế nào để đẩy
nhanh quá trình xây dựng và khai thác sử dụng các khu công nghiệp tại Hà
Nội?"
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài .
Dùng những phương pháp lý luận cơ bản vận dụng để giải quyết vấn đề :
" Làm thế nào đẩy nhanh quá trình xây dựng và khai thác sử dụng các khu công
nghiệp tại Hà nội . "
3
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng : Nghiên cứu ở các khu công nghiệp.
- Phạm vi : Nghiên cứu tại khu vực Hà Nội.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử trong việc giải quyết các vấn đề của đề tài, trong đó chủ yếu dựa vào phương
pháp điều tra xã hội học.
5. Những đóng góp khoa học của luận án
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về khu công nghiệp
- Khái quát những kinh nghiệm phát triển khu công nghiệp của các nước
trong khu vực và trên thế giới, qua đó rút ra bài học cho Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng của các khu công nghiệp tại Hà Nội mặt mạnh cũng
như mặt yếu.
- Đề xuất ý kiến của mình về quan điểm, phương hướng, giải pháp nhằm
đẩy nhanh quá trình xaay dựng và khai thác sử dụng các khu công nghiệp tại Hà
Nội.
6. Kết cấu của luận án .
Phần mở đầu
Chương I : Một số lý luận về khu công nghiệp .
Chương II : Thực trạng của việc xây dựng và khai thác sử dụng của các khu
công nghiệp tại Hà nội trong thời gian qua .
Chương III: Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình xây dựng và khai
thác sử dụng các khu công nghịêp tại Hà nội .
Kết luận
Tài liệu tham khảo
4
Chương I
Những lý luận cơ bản về Khu Công Nghiệp
1.1 Khái quát chung về khu công nghiệp ( KCN )
1.1.1 Khái niệm về KCN ( Industrial Zone )
Hình thức đầu tư vào KCN còn gọi là KCN tập trung mới xuất hiện ở Việt
nam sau khi chính phủ cho phép thực hiện đầu tư theo hình thức khu chế xuất .
Khu công nghiệp là một lãnh địa được phân chia và phát triển có hệ thống theo
một kế hoạch tổng thể nhằm cung ứng các thiết bị kỹ thuật cần thiết, cơ sở hạ
tầng, phương tiện công cộng phù hợp với sự phát triển của một liên hiệp các
ngành công nghiệp nhằm đạt hiệu quả cao trong sản xuất công nghiệp và kinh
doanh.
ở Việt Nam, theo Điều 2 “Quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu
công nghệ cao ”, được Chính Phủ ban hành năm 1997 có quy định:
Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp, chuyên
sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp,
có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ
tướng Chính Phủ quyết định thành lập. Trong khu công nghiệp có thể có doanh
nghiệp chế xuất.
1.1.2 Đặc điểm cơ bản của khu công nghiệp.
Khu công nghiệp là một tổ chức không gian lãnh thổ công nghiệp luôn
gắn liền phát triển công nghiệp với xây dựng cơ sở hạ tầng và hình thành mạng
lưới đô thị, phân bố dân cư hợp lý. Khu công nghiệp có những đặc điểm chính
sau đây:
Khu công nghiệp có chính sách kinh tế đặc thù, ưu đãi nhằm thu hút vốn
đầu tư nước ngoài, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, hấp dẫn cho phép các nhà
5
đầu tư nước ngoài sử dụng những phạm vi đất đai nhất định trong khu để thành
lập các nhà máy, xí nghiệp, các cơ sở kinh tế, dịch vụ với những ưu đãi về thủ
tục xin phép và thuế đất (giảm hoặc miễn thuế).
Nguồn vốn xây dựng cơ sở hạ tầng chủ yếu thu hút từ nước ngoài hay các
tổ chức, cá nhân trong nước. ở các nước, Chính Phủ thường bỏ vốn xây dựng cơ
sở hạ tầng như san lấp mặt bằng, làm đường giao thông... ở Việt Nam, Nhà nước
không có đủ vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Vì vậy, việc đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng khu công nghiệp được hiểu là tiến hành kêu gọi vốn đầu tư nước
ngoài và trong nước kể cả xây dựng cơ sở hạ tầng.
Sản phẩm của các nhà máy, xí nghiệp trong khu công nghiệp dành chủ
yếu cho thị trường thế giới, đối tượng chủ yếu là phục vụ xuất khẩu. Tuy nhiên
để tăng thu ngoại tệ bằng cách giảm tối đa việc nhập khẩu máy móc, thiết bị và
hàng hóa tiêu dùng, các nhà sản xuất trong khu công nghiệp rất quan tâm đến
việc sản xuất hàng hoá có chất lượng cao với mục đích thay thế hàng nhập khẩu.
Mọi hoạt động kinh tế trong khu công nghiệp trực tiếp chịu sự chi phối
của cơ chế thị trường và diễn biến của thị trường quốc tế. Bởi vậy, cơ chế quản
lý kinh tế trong khu công nghiệp lấy điều tiết của thị trường làm chính.
Khu công nghiệp có vị trí địa lý xác định nhưng không hoàn toàn là một
vương quốc nhỏ trong một vương quốc như khu chế xuất. Các chế độ quản lý
hành chính, các quy định liên quan đến ra, vào khu công nghiệp và quan hệ với
doanh nghiệp bên ngoài sẽ rộng rãi hơn. Hoạt động trong khu công nghiệp sẽ là
các tổ chức pháp nhân và các cá nhân trong và ngoài nước tiến hành theo các
điều kiện bình đẳng.
Khu công nghiệp là mô hình tổng hợp phát triển kinh tế với nhiều thành
phần và nhiều hình thức sở hữu khác nhau cùng tồn tại song song: doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài dưới các hình thức hợp đồng, hợp tác kinh doanh,
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh và cả doanh
nghiệp 100% vốn trong nước.
6
Ra đời cùng với loại hình khu chế xuất, khu công nghiệp cũng sớm gặt hái
được nhiều thành công ở các quốc gia khác nhau, đặc biệt là các nước đang phát
triển.
1.1.3. Phân biệt giữa khu chế xuất và khu công nghiệp.
1.1.3.1. Khái niệm khu chế xuất ( KCX )
Khu chế xuất là một thuật ngữ có nguồn gốc tiếng Anh là “Export
Processing Zone”. Xung quanh khái niệm chung này cho đến nay có nhiều quan
niệm cụ thể khác nhau với nhiều định nghĩa tương ứng. Thông thường nội hàm
của khái niệm này thường thay đổi tùy theo thời gian và không gian cụ thể. Cho
đến nay các nhà kinh tế học còn có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm khu
chế xuất.
ở Việt Nam, khu chế xuất thường được hiểu theo nghĩa hẹp, theo đó, “Khu
chế xuất là một khu vực công nghiệp tập trung sản xuất hàng hoá xuất khẩu và
thực hiện các dịch vụ liên quan đến sản xuất hàng xuất khẩu. Khu chế xuất là
khu khép kín, có ranh giới địa lý được xác định trong quyết định thành lập khu
chế xuất, nhưng biệt lập với các vùng lãnh thổ ngoài khu chế xuất bằng một hệ
thống tường rào. Khu chế xuất được hưởng một quy chế quản lý riêng quy định
tại Quy chế khu chế xuất "
Như vậy, về cơ bản khu chế xuất là khu kinh tế tự do. ở đó, các xí nghiệp
công nghiệp được tổ chức ra để chuyên sản xuất hàng xuất khẩu. Thông thường,
nước chủ nhà đứng ra xây dựng các cơ sở hạ tầng của khu chế xuất, xây dựng
công trình sản xuất và phục vụ đời sống ở đây, sau đó kêu gọi các nhà đầu tư
nước ngoài mang vốn, thiết bị, nguyên vật liệu từ nước ngoài vào và thuê nhân
công của nước chủ nhà tổ chức thành lập khu chế xuất, tiến hành sản xuất hàng
hoá để bán trên thị trường thế giới. Các mặt hàng dưới dạng máy móc, thiết bị,
nguyên liệu nhập khẩu vào khu chế xuất và hàng hoá xuất khẩu từ khu chế xuất
ra thị trường thế giới đều được miễn thuế. Tuy nhiên, ở một số khu chế xuất,
7
cũng có hoạt động kinh doanh mua bán lại công nghệ, máy móc, thiết bị, nguyên
vật liệu trong nội bộ khu chế xuất hoặc giữa các khu chế xuất với nhau và việc
bán hàng hoá do khu chế xuất sản xuất ra trên thị trường nước chủ nhà. Chính vì
vậy, nó được gọi là khu chế biến xuất khẩu (hay còn gọi là khu chế xuất). Tuy
nhiên, còn có một số tên gọi khác như: Khu mậu dịch tự do (Malaysia), đặc khu
kinh tế (Trung Quốc), khu chế xuất tự do (Hàn Quốc)... Mặc dù cách gọi tên cụ
thể là rất khác nhau, nhưng nhìn chung ở các khu vực này chủ yếu là các hoạt
động sản xuất và chế biến còn hoạt động mua bán thì rất ít hoặc không thấy .
1.1.3.2. Phân biệt giữa khu công nghiệp và khu chế xuất
Điểm giống nhau
Khu công nghiệp và khu chế xuất đều là những địa bàn sản xuất công
nghiệp gồm nhiều xí nghiệp vừa và nhỏ, không có dân cư sinh sống, có ranh giới
pháp lý riêng, có ban quản lý riêng do Chính Phủ thành lập. Về cơ sở hạ tầng,
khu công nghiệp, khu chế xuất đều được cung cấp đầy đủ các yếu tố hạ tầng kỹ
thuật hiện dại, đạt các tiêu chuẩn quy định phục vụ trực tiếp cho hoạt động các
doanh nghiệp công nghiệp.
Về cơ cấu ngành, khu công nghiệp, khu chế xuất đều gồm các ngành truyền
thống như nông nghiệp, công nghiệp, thuỷ hải sản... mà trong nước có lợi thế so
sánh và các ngành công nghiệp mới như điện tử, lắp ráp...
Điểm khác nhau
Khu công nghiệp có phạm vi hoạt động rộng hơn khu chế xuất, nó không
chỉ bao gồm các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá và dịch vụ cho xuất khẩu mà
còn mở ra cho tất cả các ngành công nghiệp bao gồm cả sản xuất hàng xuất khẩu
và tiêu thụ trong nước.
Các doanh nghiệp 100% vốn trong nước có thể được vào khu công nghiệp,
khác với khu chế xuất chỉ liên kết với các công ty có vốn nước ngoài. Các ưu đãi
từ phía Chính Phủ cũng được thực hiện đối với doanh nghiệp trong khu công
8
nghiệp chú trọng tới việc sản xuất hàng xuất khẩu, do đó những doanh nghiệp
này sẽ được hưởng chế độ ưu đãi như trong khu chế xuất và cũng sẽ được hưởng
ưu đãi như trong khu công nghiệp.
Khu chế xuất là khu vực thu hút các dự án đầu tư nước ngoài để xuất
khẩu. Quan hệ giữa các doanh nghiệp chế xuất với thị trường nội địa là quan hệ
ngoại thương cũng giống như quan hệ giữa thị trường trong nước và thị trường
nước ngoài. Khu chế xuất là khu thương mại tự do, bởi vì hàng hoá từ khu chế
xuất ra nước ngoài và từ nước ngoài vào khu chế xuất không phải chịu thuế xuất
nhập khẩu và ít bị ràng buộc bởi hàng rào phi thuế quan. Còn quan hệ giữa các
doanh nghiệp khu công nghiệp với thị trường nội địa là quan hệ nội thương (trừ
doanh nghiệp chế xuất trong khu công nghiệp được hưởng ưu đãi như doanh
nghiệp trong khu chế xuất). Khu công nghiệp không phải là khu thương mại tự
do mà là khu sản xuất tập trung.
Về điều kiện ưu đãi, doanh nghiệp khu chế xuất được hưởng thuế thu nhập
10%, miễn thuế trong 4 năm đầu đối với doanh nghiệp sản xuất; nộp 15% và
miễn 2 năm đối với doanh nghiệp dịch vụ. Còn doanh nghiệp khu công nghiệp
nộp thuế thu nhập doanh nghiệp 15% đối với doanh nghiệp xuất khẩu dưới 50%
sản phẩm trong 2 năm; 10% đối với doanh nghiệp xuất khẩu trên 80% sản phẩm
và trong 2 năm.
Đối với nước sở tại, thì khu chế xuất có nhiều mặt lợi hơn so với khu công
nghiệp. Điều này có thể được lý giải bởi các lý do sau đây:
+ Doanh nghiệp chế xuất không được trực tiếp sử dụng thị trường nội địa
nên nhìn chung là không cạnh tranh với nền sản xuất trong nước.
+ Nhà nước không lo cân đối ngoại tệ cho doanh nghiệp mà ngược lại,
nguồn ngoại tệ của xã hội lại được tăng lên nhanh chóng nhờ hoạt động của khu
chế xuất .
+ Thúc đẩy việc mở cửa thị trường nội địa nhanh hơn, phù hợp với chủ
trương xây dựng nền kinh tế mở, hướng mạnh về xuất khẩu.
9
Tuy nhiên, những gì được coi là có lợi cho nước sở tại thì ngược lại là khó
khăn đối với nhà đầu tư. Để có thể xuất khẩu được 100% sản phẩm, việc tổ chức
sản xuất phải đạt chất lượng cao, đồng đều, giá hợp lý, phù hợp với điều kiện
cạnh tranh của thị trường quốc tế. Do các khó khăn trên mà các nhà đầu tư nước
ngoài thường quan tâm đến hình thức khu công nghiệp, nhằm tận dụng lợi thế về
thị trường nội địa. Do đó, việc xây dựng thành công các khu chế xuất thường
gặp khó khăn hơn là khu công nghiệp. Việc các nhà đầu tư nước ngoài coi trọng
mô hình khu công nghiệp là có căn nguyên riêng của nó, nhưng cần phải thấy
được một vấn đề là nếu một quốc gia có quá nhiều khu công nghiệp hoạt động
sẽ có hàng nghìn doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng chủ yếu do nước ngoài
đầu tư. Điều này sẽ tạo ra hiện tượng cạnh tranh gay gắt không cần thiết trên thị
trường nội địa.
Để khuyến khích đầu tư vào khu chế xuất, cần rà soát lại toàn bộ hệ thống
chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước theo tinh thần khuyến khích mạnh hơn,
ưu đãi nhiều hơn cho khu chế xuất, làm cho nó có đủ sức hấp dẫn mạnh hơn đối
với các nhà đầu tư so với khu công nghiệp. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng của các
khu công nghiệp và khu chế xuất là không ít khó khăn nhưng việc kêu gọi các
doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn này là khó khăn hơn nhiều. Chất lượng của một
khu chế xuất hay khu công nghiệp phụ thuộc nhiều vào chất lượng của các dự án
đã thu hút được.
1.1.4. Vai trò của các KCN
Với chức năng là những hạt nhân số một, những đòn bẩy của các vành đai
công nghiệp, các hành lang hay tam giác tăng trưởng kinh tế của cả nước, khu
công nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế
quốc dân.
10
1.1.4. 1. Đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu và giảm chi ngoại tệ
Sau chiến tranh thứ hai, nhiều quốc gia đã giành được độc lập dân tộc do
không muốn lệ thuộc vào chính quốc, đã thực hiện quá trình công nghiệp hoá-
hiện đại hoá nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập. Tuy nhiên, trên thực tế, họ
thường vấp phải vấn đề thiếu hụt ngoại tệ nghiêm trọng, khả năng tích luỹ bên
trong hầu như chưa có. Kết quả là họ phải chuyển hướng chiến lược từ công
nghiệp hoá hướng nội sang chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Vì
thế, một trong những biện pháp hiệu quả đối với các nước này là áp dụng mô
hình khu công nghiệp và khu chế xuất để thu hút các ngành sản xuất hàng xuất
khẩu và thu ngoại tệ. Thực tế ở nhiều nước xuất khẩu , hàng sản xuất ra từ các
khu công nghiệp chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng số lượng hàng hoá xuất khẩu
của nước đó. Trong giai đoạn đầu hoạt động của các khu công nghiệp , mục tiêu
tăng thu ngoại tệ của các khu công nghiệp nhìn chung không đạt được, vì các
doanh nghiệp phải dùng số ngoại tệ thu được từ xuất khẩu để nhập khẩu công
nghệ, thiết bị tiên tiến. ở đây cái lợi là nhập khẩu nhưng không mất ngoại tệ.
1.1.4.2. Thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài
Với qui chế quản lý và hệ thống chính sách ưu đãi, các khu công nghiệp sẽ
tạo ra một môi trường đầu tư kinh doanh, thuận lợi; có sức hấp dẫn đối với các
nhà đầu tư nước ngoài; từ đó giúp cho nước chủ nhà có thêm vốn đầu tư, tiếp
cận vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến, học được phong cách quản lý hiện đại.
Hơn thế nữa, việc phát triển khu công nghiệp cũng phù hợp với chiến lược của
các công ty đa quốc gia (TNCs) trong việc mở rộng phạm vi hoạt động trên cơ
sở tiết kiệm chi phí, tăng lợi nhuận, tranh thủ thuế quan ưu đãi từ phía nước chủ
nhà, khai thác thị trường rộng lớn ở các nước đang phát triển. Chính vì vậy mà
số vốn đầu tư vào các địa bàn này không ngừng tăng lên. Theo thống kê của
Ngân hàng thế giới (WB), các dự án thực hiện trong khu công nghiệp hầu hết do
các nhà đầu tư nước ngoài hoặc do liên doanh với nước ngoài thực hiện (khoảng
43% các dự án do đầu tư trong nước thực hiện, 24% do liên doanh với nước
11
ngoài, 33% do các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện). Do vậy, khu công nghiệp
đã đóng góp đáng kể trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Ví dụ,
ở Đài Loan và Malaixia trong những năm đầu phát triển, khu công nghiệp đã
thu hút khoảng 60% số vốn FDI.
Cùng với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, với thuận lợi về vị trí, ưu đãi
về chính sách và cơ chế, khu công nghiệp, khu chế xuất còn khuyến khích thu
hút các nhà đầu tư trong nước - một nguồn vốn tiềm tàng trong dân chúng có ý
nghĩa rất quan trọng và cũng là nguồn vốn rất lớn còn chưa được khai thác và sử
dụng một cách xứng đáng. Khu công nghiệp sẽ tạo môi trường và cơ hội phát
huy năng lực về vốn cũng như sản xuất kinh doanh trong cùng một điều kiện ưu
đãi đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Thông qua việc liên doanh, liên kết, các
doanh nghiệp trong nước có điều kiện và cơ hội để tiếp thu kinh nghiệm quản lý,
trình độ điều hành sử dụng các trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại của
người nước ngoài, bồi dưỡng nhân tài, thử các phương án cải cách để tiến dần
đến trình độ thế giới.
1.1.4.3. Tạo công ăn việc làm
Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, tình trạng phổ biến ở các nước kém
phát triển cũng như các nước đang phát triển là dân số gia tăng hết sức nhanh
chóng, song tốc độ tăng trưởng kinh tế lại rất chậm, tỷ lệ tích luỹ và đầu tư thấp.
Tình trạng đó dẫn tới hậu quả tất yếu là thiếu chỗ làm việc, nạn thất nghiệp ngày
càng gia tăng, trở thành sức ép lớn đối với chính phủ. Để giải quyết vấn đề này,
Chính Phủ các nước muốn tận dụng các khu công nghiệp để giải quyết việc làm,
tạo thu nhập cho người lao động. Điều này có thể làm được vì các chủ đầu tư
nước ngoài cũng muốn sử dụng nguồn lao dộng dồi dào và rất rẻ của nước chủ
nhà để tăng thêm lợi nhuận. Tuỳ thuộc vào từng loại ngành nghề mà có lao động
ở các trình độ khác nhau. Ngành nghề càng đa dạng càng thu hút được nhiều lao
động nhàn rỗi. Ngoài một bộ phận được đào tạo, có một tỉ lệ lao động đáng kể là
lao động phụ nữ, trẻ, chưa lập gia đình, không có tay nghề và từ vùng nông thôn
12
ra làm việc. Theo kết quả điều tra của Ngân hàng thế giới, đến nay các khu công
nghiệp đã thu hút được 30 triệu lao động so với giữa thập kỷ 80 chỉ là 500.000
lao động, trong đó, châu á là nơi tạo ra nhiều việc làm nhất nhờ phát triển loại
hình này.
Tuy nhiên, có nhiều ý kiến khác nhau về việc làm và thu nhập của công
nhân làm việc trong các khu công nghiệp . Đó là họ không được nắm giữ các
cương vị chủ cốt như tổng giám đốc và thủ quỹ mà chỉ nắm giữ các cương vị
quản lý trung gian, thiết kế chế tạo... Tiền lương của công nhân làm việc cho các
khu công nghiệp thường thấp hơn rất nhiều so với tiền lương trả cho công nhân
ở các nước phát triển khi cùng làm một công việc tương tự. Trong các khu công
nghiệp , nhất là các dự án có vốn đầu tư nước ngoài thì hầu như không có tổ
chức công đoàn bảo vệ quyền lợi công nhân hoặc nếu có thì hoạt động kém hiệu
quả . Song nếu so sánh tiền công giữa công nhân làm việc trong KCN so với
công nhân làm việc ngoài KCN thì mức lương của công nhân làm việc trong
KCN vẫn cao hơn. Ngoài ra họ còn được hưởng những khoản phụ cấp ngoài
lương khác như phụ cấp ăn trưa và có phương tiện đưa đón... Như vậy, về mặt
công ăn, việc làm và thu nhập, khu công nghiệp đã mang lại lợi ích rõ rệt cho
nước chủ nhà.
1.1.4.4 Tiếp nhận kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và phương pháp quản lý
hiện đại
Sau khi giành được độc lập, hầu hết các nước đang phát triển đều rơi vào
tình trạng phổ biến là thiết bị sản xuất cũ, quy trình công nghệ lạc hậu mà những
yếu tố này lại đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Do đó, họ coi việc tiếp thu công nghệ và kỹ năng quản lý hiện
đại một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất không chỉ là nhiệm vụ trước mắt mà
còn là mục tiêu có tính chiến lược. Kinh nghiệm xây dựng kinh tế của nhiều
13
nước cho thấy, việc ứng dụng tiến bộ công nghệ của nước ngoài là một trong
những bí quyết phát triển. Sao chép những phương pháp có hiệu quả hơn, đưa
chúng vào áp dụng trong nước thường là một giải pháp mang tính truyền thống.
Nhưng đối với các nước nghèo thì lại không dễ dàng như vậy. Có thể nước
nghèo cũng có nhiều chuyên gia kỹ thuật được trang bị những tri thức công nghệ
hiện đại, nhưng chỉ riêng họ thôi thì không thể giải quyết được toàn bộ những
vấn đề của một nước nghèo, bởi lẽ có quá nhiều hàng rào ngăn cản. Cần thấy
rằng bản thân công nghệ tiên tiến đã được phát triển là để đáp ứng các điều kiện
đặc biệt của các nước tiên tiến như lương cao, tư bản dồi dào so với lao động và
có nhiều kỹ sư lành nghề, trong khi đó điều kiện này lại không có ở các nước
nghèo. Chính vì vậy có một giải pháp khác thay thế giải pháp truyền thống này,
đó là việc đẩy mạnh đầu tư vào các KCN. Qua đó, người nước ngoài sẽ đưa vào
khu công nghiệp những thiết bị kỹ thuật tiên tiến, qui trình công nghệ hiện đại
để sản xuất ra các sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế có đủ sức mạnh cạnh tranh
trên thị trường, cũng từ đó thúc đẩy các doanh nghiệp của các vùng, các khu vực
đổi mới thiết bị và công nghệ, nâng cao từng bước chất lượng sản phẩm.
Xuất phát từ các trang thiết bị hiện đại, công nghệ kĩ thuật tiên tiến, các cán
bộ quản lý, các công nhân kĩ thuật và viên chức làm việc tại các khu công
nghiệp sẽ được đào tạo lại, đào tạo bổ sung cho thích hợp và trực tiếp tiếp thu
tác phong công nghiệp, kinh nghiệm quản lý, phương pháp kiểm tra chất lượng
hiện đại,... thích ứng với cơ chế thị trường và đạt hiệu quả cao. Những kết quả
này không chỉ mang lại cho khu công nghiệp mà nó còn tác động mạnh đến việc
thay đổi công nghệ, trang thiết bị, chất lượng sản phẩm, cơ chế hoạt động, kiến
thức và phương pháp quản lý của các doanh nghiệp bên ngoài, làm cho các
doanh nghiệp này cũng đổi mới để đạt hiệu quả kinh tế cao.
14
1.1.4.5. Tăng cường các mối liên kết và tác động tới bộ phận còn lại của
nền kinh tế
Một trong những mục đích thiết lập khu công nghiệp là thúc đẩy sự phát
triển toàn diện trong vùng, thực hiện marketing trên thị trường trong nước, mở
cửa nền kinh tế trong nước cho hệ thống mậu dịch và tài chính quốc tế, phát
triển hợp tác kinh tế đối ngoại và trao đổi kỹ thuật, đẩy mạnh công cuộc hiện đại
hoá đất nước. Các khu công nghiệp được coi như một bộ phận gắn liền của
chính sách mở cửa ra thế giới bên ngoài, tăng cường mối liên kết trao dổi kinh tế
và kỹ thuật với thế giới.
Hơn nữa, việc phát triển khu công nghiệp còn tạo ra sự tác động trở lại đối
với những động thái phát triển của các ngành sản xuất trong nước thông qua việc
các khu kinh tế đặc biệt này sử dụng vật liệu trong nước, hoặc qua việc doanh
nghiệp trong nước lắp ráp, chế biến và dịch vụ cho các khu công nghiệp .
Người ta cho rằng ảnh hưởng của các KCN đối với phần còn lại của nền
kinh tế thông qua hiệu ứng số nhân của Keynes. Thí dụ, ở Philipin, ngoài việc
làm trực tiếp đem lại cho công nhân ở khu chế xuất khoản tiền bình quân hàng
tháng 10 triệu peso, các KCN còn tạo việc làm gián tiếp cho các địa phương
xung quanh. Tiền lương và tiền công trả cho công nhân trong KCN cộng với tiền
mua các vật liệu linh kiện và dịch vụ ở địa phương của các doanh nghiệp thuộc
KCN theo hiệu ứng số nhân có thể cung cấp việc làm cho hơn 10.000 công nhân
bên ngoài. Và nếu như tỷ lệ tiêu dùng là 2/3 thu nhập thì 10 triệu peso thu nhập
của công nhân sẽ góp phần làm tăng thu nhập của các khu vực lân cận tới 30
triệu peso.
Nhìn chung, ảnh hưởng của khu công nghiệp đối với sự phát triển của nền
kinh tế là rõ ràng. Tuy nhiên, ở mỗi nước, ảnh hưởng đó có mức độ khác nhau.
Một điều khác cũng đáng lưu ý là dù mục tiêu của Nhà nước chủ nhà như thế
nào đi chăng nữa thì cũng phải đáp ứng được ở một mức độ nhất định những
15
yêu cầu và mục tiêu của các công ty Nhà nước, đặc biệt là các công ty xuyên
quốc gia. Bởi vì, có thu hút dược đầu tư của các công ty này thì khu công nghiệp
mới hoạt động có hiệu quả, qua đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các khu
vực xung quanh.
Tóm lại, có thể nói, khu công nghiệp là công cụ khá hữu hiệu để một đất
nước khởi động sự phát triển các lĩnh vực công nghiệp hướng về xuất khẩu, thay
thế nhập khẩu và sử dụng nhiều lao động trong nước, thu hút vốn đầu tư, công
nghệ, kinh nghiệm quản lý của các nước đang phát triển. Về lâu dài, các khu
công nghiệp tác động gián tiếp đến toàn bộ nền kinh tế qua khâu chuyển giao
công nghệ và qua những mối liên kết khu công nghiệp với nội địa. Cho dù còn
có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề lợi ích của các khu công nghiệp song đây
vẫn là một giải pháp thích hợp với giai đoạn đầu của quá trình đẩy nhanh sự phát
triển của các nước đang phát triển vì nó phù hợp trình độ quản lý, sử dụng vốn
đầu tư trong giai đoạn đầu chuyển sang cơ chế thị trường, là con đường mở cửa
để gia nhập vào nền kinh tế thế giới.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới KCN
Cũng như bất kỳ mô hình phát triển kinh tế nào, để thành lập khu công
nghiệp đòi hỏi phải thoả mãn những điều kiện nhất định. Đó là những yếu tố
quan trọng nhất, những điều kiện cần và những điều kiện đủ để đảm bảo cơ sở
cho sự thành công của mỗi khu công nghiệp trong việc thành lập và triển khai
hoạt động, nhằm thực hiện đúng vai trò của nó đối với sự phát triển chung của
đất nước.
Có thể nói, điều kiện thành lập khu công nghiệp chính là sự thoả mãn các
yếu tố liên quan đến sự đảm bảo môi trường đầu tư thuận lợi và khả năng sinh
lợi cho các nhà đầu tư, đồng thời liên quan đến lợi ích cho địa phương có khu
16
công nghiệp và đảm bảo thực hiện các mục tiêu của nước chủ nhà đề ra khi
quyết định thành lập khu công nghiệp bằng sự thành công của chính các dự án
này. Cũng tuỳ tính chất của từng khu công nghiệp dự định sẽ thành lập mà đòi
hỏi phải đáp ứng các yếu tố khác nhau, nhưng nói chung các khu công nghiệp
cần thoả mãn các điều kiện chủ yếu sau:
1.2.1 . Điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý
Khu công nghiệp phải được xây dựng ở vị trí địa lý thuận lợi, đảm bảo
cho giao lưu hàng hoá giữa khu công nghiệp với thị trường quốc tế và các vùng
còn lại trong nước. Đây là một trong những điều kiện cần thiết đối với sự thành
công của bất kỳ khu công nghiệp nào để đảm bảo cho việc vận chuyển hàng hoá
và nguyên liệu ra vào các khu công nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện nhất
nhằm giảm chi phí lưu thông và tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá sản xuất
ra. Các khu công nghiệp cần được xây dựng ở gần các khu vực đô thị, gần các
trung tâm văn hoá - xã hội,có hệ thống giao thông thuận lợi ...
Ngoài ra, về khí hậu, thời tiết, nhiệt độ, sông, hồ... cũng cần phải lưu tâm
để tránh gây khó khăn cho quá trình xây dựng và hoạt động sau này.
1.2.2. Cơ chế chính sách .
Nơi có dự kiến xây dựng khu công nghiệp phải có sự ổn định về chính trị,
an ninh và trật tự xã hội để bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ quyền
lợi và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể tham gia kinh doanh và đầu tư. Kinh
nghiệm cho thấy, các nhà đầu tư nước ngoài nhiều khi không coi những ưu đãi
về kinh tế là quan trọng hàng đầu, mà cái chính là sự ổn định về chính trị, xã hội
của nước tiếp nhận đầu tư.
Môi trường chính sách đóng vai trò quan trọng đối với sự thành công hay
thất bại của việc phát triển khu công nghiệp vì nếu có chính sách ưu đãi thì các
17
nhà đầu tư sẽ giảm được chi phí sản xuất và tăng lợi nhuận kinh doanh gây nên
sự hấp dẫn cho các nhà đầu tư .
Do dó chính sách đầu tư có mối liên hệ chặt chẽ với việc thu hút đầu tư
vào khu công nghiệp . Các chính sách ưu đãi như: miễn giảm thuế công ty, thuế
xuất nhập khẩu, thuế lợi tức; không hạn chế việc chuyển vốn và lợi nhuận của
các nhà đầu tư ra nước ngoài; xác định rõ quyền sử dụng đất của các nhà đầu
tư,... sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư. Đồng thời, phải có quy chế hoạt động của khu
công nghiệp rõ ràng, cụ thể và ổn định. Có như vậy, các nhà đầu tư mới an tâm
đầu tư vào khu công nghiệp và nước chủ nhà mới có thể quản lý tốt được hoạt
động của các doanh nghiệp trong KCN .
Chính sách kinh tế vĩ mô cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự thành công
của khu công nghiệp . Đó là các chính sách về: đầu tư, thương mại, lao động,
ngoại hối và các chính sách khác.
1.2.3. Cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội của vùng
Về các điều kiện kinh tế, các khu công nghiệp phải nằm trong khu vực có
chính sách ưu tiên của Nhà nước, đặc biệt là trong các khu vực làm đòn bẩy phát
triển kinh tế của cả nước. Những khu vực này có thể được Nhà nước hỗ trợ
trong quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phục vụ chung nhưng có
lợi cho cả khu công nghiệp như: nâng cấp sân bay, mở rộng cảng biển, cải tạo và
nâng cấp đường bộ, đường sắt,... và được các Bộ, các ngành tạo điều kiện thuận
lợi và giúp đỡ trong việc xây dựng các công trình cung cấp điện, nước, thông tin
liên lạc,...
. Khu công nghiệp là nơi không có dân cư sinh sống. Điều đó cho thấy
tầm quan trọng của các khu đô thị, các thành phố lân cận, nơi cung cấp đủ nguồn
lao động về số lượng và chất lượng. Người lao động phải có đủ trình độ cần thiết
để tiếp thu công nghệ, kỹ thuật hiện đại. Đây là yếu tố hỗ trợ rất hiệu quả cho
hoạt động của khu công nghiệp .
18
Đối với các nhà đầu tư, vấn đề cũng rất được quan tâm là nguồn nguyên
liệu sẵn có ở địa phương có đủ cung cấp thường xuyên cho các doanh nghiệp,
địa chất khu vực khu công nghiệp phải đảm bảo khả năng để xây dựng các xí
nghiệp, các công trình phục vụ sản xuất công nghiệp.
1.2.4. Vấn đề giải phóng mặt bằng và giá thuê đất .
Một yếu tố nữa cũng có ảnh hưởng là trong việc giải phóng mặt bằng quy
hoạch ngoài việc cần giải phóng nhanh mặt bằng mà cần phải lưu ý đến khả
năng đền bù không quá cao để tránh việc đẩy giá đất lên cao làm kém đi tính hấp
dẫn đối với nhà đầu tư .
Giá thuê đất phải được cân đối với khung giá đất ở các địa phương lân cận
và của khu vực sao cho thật sự hợp lý , có sức cạnh tranh cao .
1.2.5. Tổ chức quản lý, điều hành các KCN
Mỗi KCN đều có 1 Ban quản lý riêng của từng KCN
Mỗi tỉnh thành có 1 Ban quản lý KCN thực hiện chức năng quản lý nhà
nước, quản lý các KCN nằm trên địa bàn tỉnh, thành phố
Các Ban quản lý KCN của các tỉnh, thành phố trực thuộc sự quản lý của
UBND tỉnh, thành phố.
Việc ban quản lý KCN hoạt động tốt, có hiệu quả , thủ tục hành chính gọn
nhẹ, tạo điều kiện tốt cho các nhà đầu tư cũng có ảnh hưởng tới việc thu hút đầu
tư vào các KCN .
Trên đây tôi đã chỉ ra một số các nhân tố ảnh hưởng và điều kiện cần
thiết để xây dựng được khu công nghiệp theo yêu cầu và đạt tới thành công.
1.3 . Các chỉ tiêu đánh giá khả năng khai thác sử dụng
1.3.1. Tỷ lệ diện tích được điền đầy (TLĐĐ)
19
Chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả khai thác về việc sử dụng mặt bằng các KCN
Diện tích đã cho thuê
% Điền đầy = x 100 %
Tổng diện tích KCN
Chỉ tiêu này được đưa ra nhằm xác định tính hiệu quả của việc khai thác
và sử dụng đất có ích trên tổng diện tích đất được cấp phép theo dự án của KCN
.Đồng thời qua đố có thể so sánh được thành công trong việc khai thác sử dụng
diện tích đất giữa các KCN với nhau .
1.3.2. Số dự án đầu tư
Chỉ tiêu này nhằm xác định số dự án được đầu tư vào từng KCN và khả
năng thu hút các nhà đầu tư đồng thời nó còn dùng để so sánh hiệu quả khai
thác giữa các KCN với nhau .
1.3.3. Tổng số vốn đầu tư
Chỉ tiêu này dùng để xác định tổng số vốn đẫ được các nhà đầu tư đầu tư
cho từng KCN đồng thời qua đó so sánh hiệu quả thu hút vốn đầu tư giữa các
KCN với nhau .
1.3.4. Tỷ lệ vốn đầu tư trên một đơn vị diện tích đât KCN
Tổng vống đầu tư (Tr USD )
Tỷ lệ vốn đầu tư ( Tr USD/ ha ) =
Tổng diện tích KCN ( ha )
20
Chỉ tiêu này đựoc dùng để đánh giá , so sánh hiệu quả thu hút vốn đầu tư
trên một đơn vị diện tích giữa các KCN với nhau để từ đó chúng ta có thể đánh
giá được tính hấp dẫn thu hút vốn của các KCN một cách chính xác hơn .
1.3.5. Số lao động
Chỉ tiêu dùng để đánh giá khả năng thu hút lao động và giải quyết việc
làm giữa các KCN về số lượng lao động đang làm việc tại KCN . Qua chỉ tiêu
này chúng ta có thể thấy được lợi ích của việc xây dựng các khu công nghiệp
trong việc giải quyết tình trạng thất nghiệp và lao động dôi dư ở các địa phương
có KCN .
1.3.6. Tỷ lệ % đóng góp GDP
Tổng giá trị sản lượng của KCN
% GDP = x 100%
GDP
Chỉ tiêu này đánh giá khả năng và năng lực đóng góp của KCN vào việc
tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng GDP . Qua chỉ tiêu này chúng ta có thể thấy
được ảnh hưởng của khu công nghiệp đối với việc tăng trưởng GDP và tăng
trưởng kinh tế để từ đó có cách nhìn nhận đúng trong việc cần thiết phải đẩy
nhanh quá trình xây dựng và khai thác sử dụng các KCN.
1.4. Kinh nghiệm xây dựng và khai thác sử dụng các KCN
của một số nước và bài học rút ra
1.4.1.Kinh nghiệm xây dựng và khai thác sử dụng KCN, KCX của một
số nước ASEAN
1.4.1.1. Kinh nghiệm của Malaysia
21
Malaysia là một quốc gia thuộc ASEAN đã bắt đầu xây dựng KCN từ
năm 1970 . Malaysia là một trong những nước xây dựng KCN , KCX thành
công nhất trên thế giới . Nhiều công ty siêu quốc gia có tầm cỡ trên thế giới của
Mỹ , Nhật, Tây âu, Đài Loan, Singapore đã đặt cơ sở tại Malaysia. Các KCN,
KCX của Malaysia đã là hạt nhân cho việc xây dựng và phát triển nhanh chóng
ngành công nghiệp non trẻ của Malaysia. Một minh chứng quan trọng chứng
minh sự thành công của Malaysia là năm 1990 Malaysia đã trúng thầu làm tư
vấn cho dự án xây dựng KCN , KCX ở Kenya do ngân hàng thế giới tài trợ.
KCN của Malaysia về hình thức rất linh hoạt, đa dạng chứ không dập khuôn
máy móc. ở Malaysia việc quản lý toàn diện hoạt động các xí nghiệp trong KCN
, KCX không có một cơ quan chính nào của Chính phủ trung ương đảm nhiệm
mà giao cho chính quyền cấp Bang quản lý. Ngoài các chế độ được miễn thuế,
giảm thuế, được ưu đãI các điều kiện thuận lợi trong KCN , KCX các doanh
nghiệp của KCN, KCX còn được hưởng các chính sách ưu đãi đối với các xí
nghiệp nằm ngoàI KCN, KCX như trong luật “ khuyến khích đầu tư ”. Ngoài ra
tuỳ điều kiện , thẩm quyền của mình các Bang có thể có thêm ưu đãi nhằm thu
hút đầu tư , chính điều này cộng với sự quản lý sát sao của các cấp có thẩm
quyền đã tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh giữa các Bang trong việc thu hút đầu
tư
Kinh nghiệm chính của Malaysia là đã có mô hình KCN, KCX rất linh
hoạt không dập khuôn máy móc. Quy mô có thể lớn, nhỏ tuỳ thuộc vào điều
kiện cụ thể ( có thể là một khu rất rộng nhưng cũng có thể chỉ thu hẹp trong
phạm vi một nhà máy).
1.4.1.2. Kinh nghiệm của Thái lan
Thái Lan cũng là một quốc gia thuộc ASEAN đã xây dựng thành công mô
hình KCN , tính đến nay tai Thái lan có khỏng 40 KCN hoạt động dưới sự quản
lý của Cục quản lý các KCN và chịu sự điều chỉnh của Luật KCN. So với các
nước khác Thái lan có đIểm khác là phân chia việc xây dựng các KCN làm 3
vùng:
22
Vùng 1 : 6 tỉnh bao quanh Bangkok gồm 6 KCN .
Vùng 2 : 10 tỉnh xung quanh vùng 1 , gồm 12 KCN .
Vùng 3 : 60 tỉnh còn lại của Thái lan, gồm 11 KCN.
Điểm khác nữa là diện tích các KCN có thể mở rộng hơn so với diện tích
được duyệt khi thành lập KCN. Trường hợp đất trong KCN đã bán hết doanh
nghiệp muốn mở rộng mặt bằng sản xuất thì họ có thể thoả thuận với người có
đất ngoài hàng rào KCN nằm kề lô đất của họ để mua ( phải được phép và tuân
thủ các quy định của Cục quản lý các KCN ). Điều này tạo thuận lợi cho nhà đầu
tư muốn được đầu tư để mở rộng sản xuất ngay tại nơi họ đang có nhà xưởng.
Để khuyến khích đầu tư vào các vùng sâu, khó khăn xa Băngkok , nhằm cân
bằng sự phát triển trong cả nước Thái lan cũng có những chính sách ưu đãi cụ
thể cho 3 vùng như phân chia ở trên cụ thể:
Biểu 1 : Một số ưu đãi của các KCN ở Thái lan
Vùng 1 Vùng 2 Vùng 3
Thuế thu nhập công
ty
Miễn trong 3
năm
Miễn trong 7
năm
Miễn trong 8
năm và được
giảm 50% trong
5 năm tiếp theo
Thuế nhập khẩu thiết
bị máy móc
Được giảm
50%
Được giảm
50%
Được miễn
hoàn toàn
Thuế nhập khẩu
nguyên liệu sản xuất
( trường hợp cả 3
vùng xuất khẩu ít
nhất 30%)
Được miễn
trong 1 năm
Được miễn
trong 1 năm
Được miễn
trong 5 năm
Nguồn: Thông tin KCN Việt nam số 6 tháng 3/1998
23
Một trong 5 mục tiêu xây dựng KCN Thái lan là đảm bảo môi trường
trong sạch, thông qua Luật KCN và các quy chế bắt buộc để bảo vệ môi trường.
Thái lan đưa ra nguyên tắc công bằng , người gây ra ô nhiễm môi trường phải
đền bù thiệt hại. Do vậy khi thành lập KCN phảI có dự án thiết kế, xây dựng hệ
thống sử lý nước thải và được cơ quan có thẩm quyền về môi trường xem xét,
phê duyệt. Mọi chất thải phải sử lý và giải phóng triệt để, nhà đầu tư phải chi phí
xử lý chất thải. Việc sử lý nước thải qua một hệ thống liên hoàn và tiết kiệm
nguồn nước. Nước thải qua sử lý dùng làm lạnh nhà máy điện và tưới cây trong
KCN. Các nhà máy có thải ra khí độc được sử lý bằng thiết bị lọc riêng và
không thải vào không khí. Chất thải rắn có tính độc hại được chứa trong các
thùng chuyên dụng và chuyển đến kho chứa. Kho chứa được xây dựng theo tiêu
chuẩn của cơ quan quản lý môi trường. Chính nhờ những sự cố gắng như vậy
các KCN Thái lan là KCN xanh , sạch , đẹp.
Về dịch vụ một cửa: Mọi khách hàng muốn đầu tư vào KCN chỉ cần đến
Cục quản lý các KCN là có đủ thông tin cần thiết. Họ sẽ được giới thiệu mạng
lưới KCN, nghành nghề khuyến khích đầu tư , vị trí các KCN, các ưu đãi , các
thủ tục giấy tờ cần thực hiện. Sau một ngày họ được hướng dẫn chu đáo và làm
xong mọi thủ tục và một tuần sau họ được nhận giấy phép và có thể bắt tay vào
xây dựng nhà xưởng. Trong trường hợp ở xa , nhà đầu tư chưa đến được Thái
lan, họ thông qua mạng internet tìm hiểu KCN mình quan tâm, lô đất mình lựa
chọn. Sau đó Fax cho Cục quản lý các KCN, khi được Cục quản lý các KCN
chấp thuận họ sẽ đến Băngkok và ký hợp đồng. Thực tế ở Thái lan để đi đến
được Luật KCN trong đó quy định chế độ một cửa phải mất 07 năm. Đến nay
mặc dù có quy định chế độ dịch vụ một cửa nhưng Cục quản lý các KCN luôn
đặt ra nhiệm vụ tự hoàn thiện để giải quyết nhanh yêu cầu của khách hàng. Bởi
vì cho dù một cửa nhưng nhà đầu tư phải chờ đợi lâu cũng coi như nhiều cửa.
Từ đó Cục quản lý các KCN tự khẳng định vị trí , vai trò của mình trong việc
thu hút các nhà đầu tư và hoàn thành nhiệm vụ phát triển công nghiệp cân bằng
trong cả nước của Thái lan.
24
1.4.2. Kinh nghiệm xây dựng và khai thác sử dụng các KCN ở Đài loan
Nói đến sự thành công trong việc phát triển KCN ta không thể không nhắc
tới Đài Loan. Có thể nói Đài Loan là một trong những nước đi tiên phong và
thành công trong việc phát triển KCN. Từ cuối thập kỷ 50 , các nhà hoạch định
chính sách kinh tế ở Đài Loan đã nhận thức được vị thế của mình trong hệ thống
kinh tế thế giới và khu vực. Dựa trên những đIều kiện tự nhiên và xã hội của
mình để tồn tại và phát triển thì việc hình thành một “ cơ cấu kinh tế hướng
ngoại “ mang ý nghĩa sống còn đối với nền kinh tế Đài Loan. Đài Loan đã lựa
chọn cho mình một phương thức thích hợp để phát triển công nghiệp và tiến
hành công nghiệp hoá. Xuất phát từ tình hình trong nước và thế giới lúc bấy giờ
Đài Loan chủ trương phát triển mạnh các ngành công nghiệp nhẹ , sản xuất hàng
xuất khẩu sử dụng nhiều lao động. Các xí nghiệp mới được xây dựng có quy mô
vừa và nhỏ là phổ biến và được xây dựng tập trung ở các khu vực nhất định (
KCN, KCX ) theo quy định của chính quyền. Các xí nghiệp ở trong các khu vực
này có nhiều thuận lợi: điều kiện hạ tầng kỹ thuật ( đIện, nước, thông tin liên
lạc…) hoàn hảo , được hưởng một số ưu đãi về tài chính như được miễn, giảm
thuế trong một số năm, được hưởng thuế suất thấp một số trường hợp được vay
vốn ưu đãi.
Chủ trương xây dựng KCN rất đúng đắn, ở đây mỗi KCN đã trở thành
một trung tâm thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh trong vùng. Một tỉnh có
thể có một vài KCN, thậm chí huyện cũng có thể có KCN. Điều quan trọng là
phải làm tốt công tác quy hoạch phát triển KCN nói chung và quy hoạch hình
thành các KCN trên phạm vi cả nước. Trong công tác quy hoạch phát triển các
KCN, Chính phủ chỉ nên công bố kế hoạch, định hướng phát triển còn các nhà
đầu tư ( thuộc mọi thành phần kinh tế ) theo định hướng này sẽ tiến hành xây
dựng, phát triển các KCN cho phù hợp. Để làm được đIều này thì việc tạo ra
một mặt bằng pháp luật với đầy đủ các yếu tố pháp lý một cách đồng bộ có ý
nghĩa rất quan trọng. Từ thực tế xây dựng KCN Tân Trúc Đài Loan: được khôi
phục từ năm 1980 với diện tích 2.100 ha đến năm 1995 KCN Tân Trúc có 180
25
công ty với 42.257 người làm việc trong đó 31.5% có bằng Đại Học trở lên; 521
người có bằng tiến sĩ. Chính quyền ở đây rất quan tâm đãi ngộ người Hoa trở về
Đài Loan tham gia phát triển công nghệ. GDP bình quân đầu người trong khu là
258.890 USD gấp 18 lần GDP bình quân đầu người của cả nước ( theo số liệu
thống kê Đài Loan1996 ). Từ đây ta có thể rút ra một số kinh nghiệm sau: Sự
thành công trong đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu phát triển; hai trường
Đại Học Thanh Hoa và Giao Thông mỗi năm đào tạo 6000 nghìn lượt người
trong khu với nhiều hình thức. Xây dựng cả văn bản pháp lý, trong đó đáng chú
ý là tiêu chuẩn cho phép một công ty vào khu. Công ty nào vào khu phải theo
lĩnh vực công nghệ định hướng: Đầu tư cho nghiên cứu triển khai hàng năm
không dưới 5% doanh thu, riêng công ty nước ngoài trong 3 năm phải nội địa
hoá 50% nhân viên kỹ thuật. Cái chưa làm được là chưa tạo được sự hài hoà về
môi trường xã hội giữa KCN với bên ngoài nên đã tạo ra tâm lý không thật thoải
mái cho những nhà khoa học và gia đình sống trong khu Tân Trúc. Để sửa chữa
sai lầm này người ta đang có dự định hình thành ở đây một thành phố khoa học
– công nghệ cao. Đây chính là điểm mà ta cần lưu ý khi xây dựng các KCN. Về
việc thu hút đầu tư vào KCN Đài Loan dựa vào phương châm: Nhân dân có việc
làm, thu nhập thoả đáng Chính phủ thu được nhiều thuế và nhà đầu tư nước
ngoàI có lãi. Điều đáng quan tâm ở đây là Đài Loan cố gắng giữ ổn định về pháp
luật đầu tư, trung bình khoảng 07 năm mới có sửa đổi, bổ sung luật, trường hợp
cần thiết phải điều chỉnh sớm cũng chỉ dừng lại ở những chi tiết mang tính kỹ
thuật. Cùng với các biện pháp khuyến khích đầu tư được quy định bằng pháp
luật là việc khuyến khích đầu tư vào các KCN bằng đảm bảo cung cấp đủ điện
và chất lượng cao cho các nhà máy hoạt động trong các KCN. Để có đủ điện cho
các nhu cầu này, Đài Loan cho phép các nhà đầu tư nước ngoài và tư nhân trong
nước đầu tư xây dựng nhà máy điện song song với hệ thống nhà máy điện quốc
doanh. Đây thực sự là một biện pháp để nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế
Đài Loan so với nền kinh tế các nước khác.
Về quan niệm một cửa trong việc giải quyết các thủ tục hành chính được
quy định rất rõ : Người có nhu cầu giải quyết công việc chỉ cần đến một nơi, ở
26
đó sẽ được thông báo công khai tiến trình và thời hạn xử lý công việc. Nơi nhận
hồ sơ sẽ chịu trách nhiệm đôn đốc, xử lý công việc ở các khâu và theo đúng hẹn
trả kết qủa cho người có nhu cầu.
1.4.3. Những bài học kinh nghiệm.
Qua việc tìm hiểu tình hình , hoạt động và phát triển của KCN ở một số
quốc gia trên ta có thể rút ra những kinh nghiệm thành công cũng như tồn tại cần
khắc phục từ đó tìm ra con đường đúng đắn nhằm phát triển loại hình đầu tư này
tại Việt nam.
* Những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thành công của KCN là:
- Tiền lương của người lao động có thể thấp nhưng điều kiện làm việc của
họ thuận lợi hơn nhiều so với các cơ sở bên ngoài KCN .
- Tình hình chính trị xã hội của nước sở tại ,đặc biệt ở những khu vực gần
kề KCN phải ở trạng thái ổn định .
- Chế độ thuế đặc biệt ưu đãi và thủ tục đơn giản
- Địa điểm xây dựng thuận lợi
- Phương tiện liên lạc thuận lợi, giá rẻ
- Nguồn điện cung cấp đầy đủ ổn định
- Nguồn nước công nghiệp theo tiêu chuẩn được cung cấp đầy đủ
- Các ngành công nghiệp được hỗ trợ đầy đủ ( nguyên vật liệu, thiết bị , phụ
tùng )
- Các quy định về thủ tục đơn giản và dễ hiểu
- Các tiện nghi thuận lợi ( ăn, ở , giải trí, giáo dục , y tế…)
* Những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thất bại của KCN là:
- Mất ổn định về chính trị trong nước
- Năng lực sản xuất của các KCN không phù hợp, công suất sử dụng thấp,
thường chỉ đạt 50% dự kiến ban đầu
- Cơ sở hạ tầng của KCN yếu kém
- Chính sách khuyến kích đầu tư vào KCN kém hấp dẫn
- Tệ quan liêu tham nhũng và quá nhiều luật lệ địa phương
27
- Sai lầm trong lựa chọn địa đIểm xây dựng
- Thiếu lao động có tay nghề
- Tệ nạn buôn lậu giữa KCN và nội địa
- Hoạt động Marketing quốc tế kém
- Tổ chức quản lý KCN kém hiệu quả.
Ngoài ra
- Mô hình KCN cần đa dạng linh hoạt không thể dập khuôn, máy móc
được. Quy mô các KCN đến mức nào tuỳ thuộc vào đIều kiện cụ thể của từng
dự án
- Cần đánh giá đúng mục tiêu xây dựng KCN mà từ đó đặt ra thứ tự ưu tiên
đúng cho từng giai đoạn vì không thể cùng một lúc đạt được tất cả các mục tiêu.
Đôi khi phải tạm ngừng lợi ích trước mắt để có thể đạt được mục tiêu lâu dài.
- Để thu hút vào đầu tư trong tình hình các nước đang cạnh tranh gay gắt,
hiện nay ngoài lao động giá rẻ, thủ tục đầu tư là yếu tố hấp dẫn hàng đầu mang
tính quyết định nếu khắc phục được tốt những vướng mắc của các nước đi trước
Việt nam sẽ là một môi trường đầu tư thuận lợi với một nền kinh tế ổn định hàng
đầu trong khu vực
- Chính sách khuyến khích ưu đãi đầu tư như : Thuế, giá thuê đất, thời
hạn…
- Về luật : Số lượng các văn bản về luật không nhiều nhưng các quy định rõ
ràng cụ thể, thẩm quyền rõ ràng giữa các cơ quan tránh tình trạng đùn đẩy trách
nhiệm khi có sự cố. Thủ tục giấy tờ đơn giản, nhanh chóng.
- Hệ thống quản lý đơn giản. Trung ương ra luật, quản lý vĩ mô để đảm bảo
tính tập trung, thống nhất, địa phương được phân cấp quản lý cụ thể trực tiếp
- Tư nhân được phép đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở KCN
- Phải làm sao đạt được mục tiêu là mỗi KCN là một trung tâm có tác dụng
thúc đẩy mọi hoạt động kinh tế – xã hội trong vùng theo chiều hướng của một
nền kinh tế mở
- Trong công tác quy hoạch , phát triển các KCN , Chính phủ chỉ nên công
bố kế hoạch, định hướng phát triển, còn các nhà đầu tư trên cơ sở định hướng
28
này sẽ tiến hành xây dựng phát triển các KCN phù hợp với quy định của pháp
luật. Điều rất quan trọng ở đây là việc tạo ra một mặt bằng pháp luật với đầy đủ
các yếu tố pháp lý một cách đồng bộ
- Yếu tố môi trường phải được thường xuyên kiểm tra đánh giá.
- Cần phải nhận thức được rõ ràng là theo xu hướng tự do hoá thương mại,
tự do hoá đầu tư ngày một chiếm ưu thế do vậy KCN thuần tuý sẽ không còn giữ
được vị trí vai trò như trước nữa. Để thích nghi với tình hình mới cần có định
hướng chuyển đây thành KCN có trình độ kỹ thuật, công nghệ cao là nơi trung
chuyển , chế biến sản phẩm cao cấp không chỉ cho xuất khẩu mà còn cho cả thị
trường nội địa.
- Về thủ tục chế độ một cửa cần phải được quy định rất rõ: Người có nhu
cầu giải quyết công việc chỉ cần đến một nơi, ở đó sẽ được thông báo công khai
tiến trình và thời hạn sử lý công việc. Nơi nhận hồ sơ sẽ chịu trách nhiệm đôn
đốc xử lý công việc ở các khâu sao cho đúng hẹn trả được kết quả cho người yêu
cầu.Thủ tục này ở các nước trong khu vực làm rất tốt vì vậy muốn thu hút được
nhiều hơn ta chí ít cũng không thể thua kém họ .
1.5. Khái quát tình hình phát triển các KCN ở Việt nam
1.5.1. Số lượng các khu công nghiệp và khu chế xuất đã hình thành
Đến nay, sau gần 10 năm phát triển, bước đầu Việt Nam đã hình thành
được một mạng lưới khu công nghiệp và khu chế xuất trong phạm vi cả nước.
Chính mạng lưới này đã đóng vai trò là cơ sở cho việc hình thành cơ cấu kinh tế
mới phù hợp với mục tiêu và nội dung của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá
và hiện đại hoá đất nước.
Tính đến đầu năm 2000, trên địa bàn cả nước đã có 67 dự án khu công
nghiệp, khu chế xuất hình thành, phát triển hoặc được Chính Phủ cấp giấy phép
thành lập đang trong quá trình triển khai giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ
29
tầng (chưa kể khu công nghiệp Dung Quất có diện tích 14.000 ha). Trong số đó,
có 63 khu công nghiệp, 3 khu chế xuất, 1 khu công nghệ cao với tổng diện tích
lên tới trên 10.000 ha, bình quân mỗi khu có diện tích 160 ha. Các khu công
nghiệp, khu chế xuất được hình thành tại 27 tỉnh và thành phố trong cả nước,
trong đó miền bắc có 14 khu công nghiệp và khu chế xuất, miền trung có 13 và
miền nam có 40. Các khu công nghiệp, khu chế xuất này tập trung nhiều ở vùng
tứ giác kinh tế trọng điểm phía nam: thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Đồng Nai,
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và tỉnh Bình Dương .
Bảng 2 : Số lượng các KCN - KCX đã hình thành
1991 - 2000
Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
Số
lượng
1 2 1 4 5 15 21 15 2 1
Nguồn: Ban quản lý các khu công nghiệp - khu chế xuất.
Trong các khu công nghiệp, khu chế xuất đã được cấp giấy phép, có thể
phân thành các loại sau:
Một là, : 20 khu công nghiệp (kể cả 3 khu chế xuất) hiện đại, được xây
dựng mới hoàn toàn trên tổng số các khu công nghiệp do các Công ty nước
ngoài đầu tư xây dựng và phát triển hạ tầng theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam
Hai là, 16 khu công nghiệp được xây dựng trên khuôn viên đã có một số
doanh nghiệp công nghiệp đang hoạt động, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển
công nghiệp theo đúng quy hoạch mới, đồng thời tạo hạ tầng kỹ thuật phục vụ
tốt việc phát triển khu công nghiệp, có điều kiện xử lý chất thải với những thiết
bị hiện đại. Ngoài ra, các khu công nghiệp được hình thành nhằm đáp ứng yêu
30
cầu việc di dời các nhà máy, xí nghiệp đang ở trong nội thành các đô thị lớn, do
nhu cầu chỉnh trang đô thị và bảo vệ môi trường nên phải di chuyển vào khu
công nghiệp.
Ba là, 21 khu công nghiệp có quy mô nhỏ gắn liền với nguồn nguyên liệu
nông - lâm - thuỷ sản được hình thành ở một số vùng là những nơi có nguồn
nguyên liệu, nông sản hàng hoá nhưng khu công nghiệp chế biến chưa phát
triển.
1.5.2. Thực trạng xây dựng và phát triển hạ tầng khu công nghiệp và
khu chế xuất
Hình thức đầu tư xây dựng hạ tầng
Đồng thời với sự ra đời của các khu công nghiệp, các công ty phát triển hạ
tầng khu công nghiệp - một loại hình kinh tế mới cũng ra đời với mục đích thực
hiện việc xây dựng, kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công nghiệp có chất lượng
cao, theo tiêu chuẩn quy định nhằm phục vụ các doanh nghiệp trong khu công
nghiệp trong suốt quá trình hoạt động.
Hiện nay, tương ứng với 67 khu công nghiệp, cả nước đã có 67 công ty
phát triển hạ tầng khu công nghiệp được thành lập (trừ khu công nghiệp Dung
Quất). Có 3 hình thức đầu tư kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp: đầu tư của
các doanh nghiệp trong nước, các doanh nghiệp trong nước liên doanh với các
nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Trong giai đoạn
đầu, đầu tư trong nước chỉ chiếm gần 50%, song đến nay đã tăng lên 60% trong
tổng số 2 tỷ USD vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, tương đương 1,2 tỷ USD.
Hiện có 54 khu công nghiệp với vốn đầu tư xây dựng phát triển hạ tầng là
của các doanh nghiệp trong nước. Trong số 13 khu công nghiệp còn lại thì có
đến 12 khu do các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài xây dựng và kinh
doanh hạ tầng khu công nghiệp , phía Việt Nam phần lớn góp vốn bằng quyền
sử dụng đất, phía nước ngoài góp vốn xây dựng. Về quy mô, bình quân mỗi khu
công nghiệp ở nước ta có diện tích 163,3 ha, với vốn đầu tư xây dựng hạ tầng
31
ước tính là 31,7 triệu USD. Các khu công nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài xây dựng có quy mô bình quân 127 ha, ít hơn diện tích bình quân
của khu công nghiệp do doanh nghiệp trong nước xây dựng hạ tầng (177 ha),
nhưng lại được đầu tư với số vốn lớn hơn, 63 triệu USD so với 22,7 triệu USD.
Hiện nay, mới chỉ có duy nhất 1 khu công nghiệp có cơ sở hạ tầng được đầu tư
xây dựng bằng 100% vốn nước ngoài, đó là khu công nghiệp Đài Tư (Hà Nội)
do Đài Loan làm chủ đầu tư.
Tình hình thực hiện vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
Tổng số vốn đăng ký đầu tư cho cơ sở hạ tầng khu công nghiệp là 2.039
triệu USD. Nhưng trên thực tế, đến nay các khu công nghiệp mới thực hiện được
dưới 50%. Trong đó có 41 khu đã có các doanh nghiệp hoạt động, chiếm 2.300
ha, sử dụng 35% tổng diện tích phục vụ cho sản xuất công nghiệp và 20% so với
diện tích đất quy hoạch chung (2.000/10.000 ha ). Dự kiến hết năm nay sẽ có 21
khu công nghiệp được lấp đầy trên 50% diện tích hiện có. Thành phố Hồ Chí
Minh, các tỉnh Bình Dương và Đồng Nai có 16 khu công nghiệp được lấp đầy
trên 50% diện tích, dẫn đầu cả nước. Trong số 22 Ban quản lý khu chế xuất ở
các tỉnh được uỷ quyền cấp phép đầu tư chỉ có 10 Ban hoạt động, số còn lại
không có việc làm vì không có ai đến thuê. Theo các chuyên gia về khu công
nghiệp và khu chế xuất quốc tế thì một khu công nghiệp hay một khu chế xuất
được coi là thành công khi cho thuê được khoảng 80% diện tích đất công nghiệp
và điều quan trọng hơn là phải thu hút nhiều doanh nghiệp sản xuất sản phẩm có
chất lượng cao
1.5.3. Những đóng góp của các khu công nghiệp và khu chế xuất ở Việt Nam
Sau 9 năm hình thành và phát triển, đến nay các khu công nghiệp đã trở
thành một bộ phận không thể thiếu trong cơ cấu kinh tế Việt Nam. Hoạt động
của nó đã và đang đem lại những kết quả đáng khích lệ cả về mặt kinh tế và xã
hội.
32
Về việc thu hút vốn đầu tư, các khu công nghiệp, khu chế xuất ở nước ta
đến nay đã thu hút 850 dự án đầu tư nước ngoài với số vốn 6,5 tỷ USD (chiếm
81% tổng vốn đăng ký kinh doanh) của 24 nước và vùng lãnh thổ, phần lớn
thuộc vùng Đông - Bắc á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan) và Đông - Nam á
(Malaysia, Singapore, Thái Lan). Sáu tháng đầu năm 2000 đã có thêm 68 giấy
phép đầu tư nước ngoài đăng ký vào các khu công nghiệp với tổng số vốn đăng
ký 186,3 triệu USD, tăng 97% về tổng số dự án so với cùng kỳ năm ngoái. Do
kinh doanh có hiệu quả, đã có 18 dự án mở rộng quy mô sản xuất với tổng số
vốn đầu tư gần 80 triệu USD. Ngoài những dự án đầu tư nước ngoài, đầu tư
trong nước cũng từng bước khẳng định vị trí. Đến nay, trong tổng số 1.100
doanh nghiệp có tổng số vốn đăng ký 8 tỷ USD đang hoạt động tại các khu công
nghiệp thì có trên 600 doanh nghiệp là vốn đầu tư nước ngoài và gần 500 doanh
nghiệp trong nước với tổng số vốn 1,5 tỷ USD, chiếm gần 19% tổng vốn kinh
doanh các khu công nghiệp được cấp phép.
Về tình hình sản xuất kinh doanh, trong những năm gần đây, tuy số lượng
khu công nghiệp tăng chậm, nhưng số vốn của dự án đăng ký và triển khai lại
tăng khá nhanh. Nhiều dự án đầu tư đã đi vào hoạt động ổn định, góp phần tạo
ra nhiều sản phẩm công nghiệp với số lượng lớn, chất lượng cao, đủ sức cạnh
tranh trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Ngành nghề trong các khu công
nghiệp cũng rất đa dạng: công nghiệp nhẹ, hoá chất, chế biến thực phẩm, nông
sản, thuỷ sản, điện dân dụng, điện tử, tin học. Nhiều hãng công nghiệp nổi tiếng
của thế giới đã có mặt tại các khu công nghiệp Việt Nam và sản xuất những sản
phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế. Các công ty của Nhật Bản thực hiện các dự án có
công nghệ cao và đạt giá trị xuất khẩu lớn như vi điện tử, động cơ điện, người
máy, thuốc chữa bệnh, chế biến thực phẩm,... Các công ty của Hàn Quốc, Đài
Loan sản xuất các sản phẩm điện tử, sợi, dệt, may mặc, giày da, chế biến nông
sản chất lượng cao,...
Kết quả hoạt động của các khu công nghiệp đã và đang tạo ra những tiền
đề vật chất rất quan trọng, trước hết là vốn và khoa học công nghệ để thúc đẩy
nhịp độ tăng trưởng của ngành công nghiệp nói riêng và nền kinh tế Việt Nam
33
nói chung. Năm 1998, các khu công nghiệp, khu chế xuất đạt giá trị sản xuất
1.871 triệu USD, chiếm 20% giá trị sản xuất công nghiệp, trong đó xuất khẩu
chiếm 1,3 tỷ USD, chiếm 14% tổng giá trị xuất khẩu cả nước, 65% giá trị xuất
khẩu khu vực FDI. Năm 1999, tuy hoạt động đầu tư nước ngoài chững lại,
nhưng hoạt động của các khu công nghiệp vẫn có những khởi sắc và đem lại
hiệu quả thiết thực cho kinh tế Việt Nam. Giá trị sản xuất vẫn đạt 1,7 tỷ USD,
chiếm 20% giá trị sản xuất công nghiệp, trong đó đã xuất khẩu 1,5 tỷ USD,
chiếm 13% tổng giá trị xuất khẩu cả nước, tăng 200 triệu USD, góp phần chủ
yếu tạo nên sự đột biến về xuất khẩu của khu vực FDI với giá trị 4.594 triệu
USD, tăng 42,4% so với năm 1998.
Trong 6 tháng đầu năm 2000, các khu công nghiệp, khu chế xuất trong cả
nước đã tạo ra giá trị tổng sản lượng chiếm trên 25% giá trị sản lượng công
nghiệp và chiếm 16% giá trị xuất khẩu của cả nước với doanh số đạt 1,5 tỷ USD,
trong đó xuất khẩu đạt 1 tỷ USD (tỷ lệ xuất khẩu đạt 65% so với tổng sản phẩm
làm ra), tăng 25% so với cùng kỳ năm trước cả về doanh số và giá trị xuất khẩu .
Các khu công nghiệp, khu chế xuất ở nước ta đã góp phần tích cực thúc
đẩy quá trình hiện đại hoá thông qua việc ứng dụng máy móc, thiết bị mới và
công nghệ hiện đại vào sản xuất. Như đã nói ở trên, nhiều sản phẩm công nghiệp
chất lượng cao của Việt Nam đạt tiêu chuẩn quốc tế, được thị trường thế giới
chấp nhận đều được sản xuất tại các khu công nghiệp, khu chế xuất. Đó là các
sản phẩm công nghiệp điện tử, điện lạnh, điện dân dụng, cơ khí chính xác, thiết
bị bưu điện, bưu điện, lắp ráp ô tô, xe gắn máy, may mặc xuất khẩu. Các khu
công nghiệp, khu chế xuất là địa bàn thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài
tiến hành tổ chức sản xuất kinh doanh theo mô hình tiên tiến cả về kỹ thuật và
quản lý. Nếu so sánh trình độ trang bị máy móc, quy trình công nghệ giữa các
dự án trong khu công nghiệp, khu chế xuất với các dự án ngoài khu và đặc biệt
là so với trình độ chung của các doanh nghiệp trong nước thì tính hiện đại của
các khu công nghiệp, khu chế xuất cao hơn nhiều. Đây cũng là điều tất yếu, bởi
vì các sản phẩm được sản xuất tại các khu công nghiệp, khu chế xuất đều có
mục tiêu xuất khẩu là chủ yếu. Mô hình khu công nghiệp, khu chế xuất chính là
34
điều kiện tiền đề tạo ra các yếu tố để liên kết các doanh nghiệp công nghiệp đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam theo hướng hiện đại hóa cả về kỹ thuật và quản lý.
Các khu công nghiệp, khu chế xuất đã và đang tạo thêm việc làm mới
thu hút lao động xã hội vào làm việc lâu dài. Đến đầu năm 2000, trong các khu
công nghiệp đã có khoảng 30 vạn lao động Việt Nam làm việc với nhiều ngành
nghề khác nhau và tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao. Năm 1999, cả nước
đã có thêm 13,7 vạn lao động vào làm việc tại các khu công nghiệp, trong đó
Đồng Nai là 17.600 người, còn thành phố Hồ Chí Minh chỉ riêng 2 khu chế xuất
Tân Thuận và Linh Trung thu hút thêm 9,3 ngàn lao động. Nếu tính cả lao động
làm dịch vụ gián tiếp vào khu công nghiệp (như sản xuất nguyên liệu, vận
chuyển, tiếp thị, tiêu thụ sản phẩm,...) thì con số việc làm mới do các khu công
nghiệp tạo ra lên đến hàng triệu người. Không chỉ tăng về số lượng, các khu
công nghiệp còn là trường học để người lao động rèn luyện kỹ năng và tác
phong lao động công nghiệp.
Các khu công nghiệp, khu chế xuất phần lớn được xây dựng tại các
vùng nông thôn ven đô thị, nên sức lan toả của nó rất lớn. Cùng với sự ra đời
của khu công nghiệp, khu chế xuất là sự xuất hiện của các ngành nghề và dịch
vụ phi nông nghiệp mới ở nông thôn, thúc đẩy qúa trình đô thị hoá và công
nghiệp hoá. Việc xây dựng mới và nâng cấp cơ sở hạ tầng cũng như hình thành
các đô thị vệ tinh phục vụ các khu công nghiệp đang góp phần thu hẹp khoảng
cách về thu nhập và đời sống giữa thành thị với nông thôn, đẩy nhanh qúa trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và phân công lại lao động xã hội theo
hướng tiến bộ, xây dựng nông thôn mới.
Thực tế những năm qua cho thấy, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta
phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất là hoàn toàn đúng đắn. Vai trò của
các khu công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là
cần thiết, xét cả hai mặt kinh tế và xã hội. Hiệu qủa kinh tế đang có xu hướng
tăng dần trong những năm gần đây làm vơi đi nỗi lo về cung lớn hơn cầu của hệ
thống cơ sở hạ tầng trong các khu công nghiệp, khu chế xuất.
35
36
Chương II
Thực trạng của việc xây dựng và khai thác sử dụng của các khu
công nghiệp tại hà nội trong thời gian qua
2.1. Đặc điểm phát triển kinh tế xã hội của Hà nội.
2.1.1. Vị trí vai trò của Thủ đô Hà Nội.
Hà Nội là Trung tâm văn hoá chính trị , khoa học kỹ thuật đồng thời là
một trung tâm lớn về kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước. Thủ đô Hà nội
tập trung nhiều cơ quan của Đảng, Nhà nước và Chính phủ, có nhiều tổ chức
Quốc tế, các văn phòng đại diện nước ngoài, nhiều trung tâm nghiên cứu khoa
học, là nơi tập trung trí tuệ của một đội ngũ đông đảo các nhà trí thức , các cán
bộ khoa học kỹ thuật có trình độ cao và giàu kinh nghiệm thuộc nhiều ngành và
lĩnh vực khác nhau ở cả Trung ương và địa phương. Là một trung tâm lớn về
kinh tế hiện nay trên địa bàn hà Nội có 61 Tổng công ty, 914 doanh nghiệp Nhà
nước (không kể doanh nghiệp của Bộ Quốc phòng và Bộ Công an) gần 4000
doanh nghiệp được thành lập theo hai luật Công ty và luật doanh nghiệp tư nhân
, có 182 chi nhánh của tỉnh bạn, 324 dự án có vốn đầu tư nước ngoài và gần
90.000 hộ cá thể sản xuất kinh doanh trong các ngành kinh tế. Với vị trí ấy Hà
Nội đã và đang là trung tâm có tác động trực tiếp đối với phát triển kinh tế xã
hội của vùng cũng như của cả nước.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội.
Hà Nội ngày nay gồm 07 quận nội thành và 05 huyện ngoại thành trên
diện tích 927,39km2 trong đó khu vực nội thành: 82,78km2 với gần 2,7 triệu dân
37
chiếm 3,5% dân số cả nước. Đây cũng là nơi có mật độ dân số cao nhất nước ta
khoảng 2900 người/km2.
Do tốc độ đô thị hoá cao trong những năm vừa qua nên tỷ lệ tăng trưởng
dân số toàn thành phố trong giai đoạn 1992 - 1997 dao động trong khoảng 2,1%
- 2,8%/ năm. Tuy nhiên phải nói rằng hiện nay Hà Nội là một trong những tỉnh
thành phố có tỷ lệ tăng dân số tự nhiên thấp nhất toàn quốc (1,27%).
Lực lượng lao động Hà Nội rất dồi dào, dân số trong độ tuổi lao động
chiếm 60% so với tổng dân số, nguồn lao động nhìn chung có trình độ văn hoá,
trình độ KHKT cao, tay nghề vững vàng, cần cù, siêng năng. Cơ cấu lao động
làm việc trong các ngành kinh tế khu vực nội thành như sau:
- Khu vực I ( Nông nghiệp + Ngư nghiệp ) 6,5%
- Khu vực II ( Công nghiệp, TTCN, Xây dựng ) 39,8%
- Khu vực III ( Thương mại, dịch vụ ) 53,7%
- Tăng trưởng GDP: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của Hà Nội thời
kỳ 1991- 2000 đạt 12,5%, thời kỳ 1996 - 2000 là 10,38%. Hà Nội là một trong
số những địa phương có tốc độ tăng trưởng cao (tốc độ tăng GDP trung bình giai
đoạn 1990 - 1999 cao hơn cả nước từ 2 - 3%). Năm 2000, GDP của Hà Nội
chiếm 7,22% cả nước, 41% toàn vùng đồng bằng sông Hồng và 65,47% vùng
kinh tế trọng điểm phía Bắc.
- GDP bình quân đầu người tăng từ 470 USD ( năm 1991 ) lên 915
USD
( năm 1999) và gần 990 USD vào năm 2000, gấp khoảng 2,29% lần vùng đồng
bằng sông Hồng và 2,07 lần cả nước.
- Cơ cấu kinh tế và sự phát triển của các ngành kinh tế.
Cơ cấu công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp trong nền kinh tế Hà Nội có
sự chuyển đổi , từ 29,1%; 61,9% và 9% trong năm 1990 sang 38%, 58,25 và 3,8
trong năm 2000.
38
Công nghiệp: giá trị sản xuất công nghiệp thời kỳ 1991 - 1995 tăng trung
bình 13,7%; thời kỳ 1996 - 2000 tăng 15,16%. Năm 2000, tỷ trọng trong giá trị
sản xuất của 5 nhóm ngành công nghiệp trọng điểm của thành phố bao gồm cơ -
kim khí; điện - điện tử; dệt - may - giày; chế biến thực phẩm và vật liệu xây
dựng chiếm 75,7% tổng giá trị sản xuất công nghiệp.
Thành phố đã có 09 cụm công nghiệp cũ, 05 khu công nghiệp tập trung
mới được xây dựng . Nhiều mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống và nhiều
làng nghề cũng đang được phục hồi và phát triển.
Dịch vụ: Trong 10 năm qua, giá trị sản xuất của ngành dịch vụ tăng bình
quân 10,14%/ năm. Năm 1990, tỷ lệ sử dụng điện thoại tại Hà nội mới đạt -0,82
máy/100 dân , đến nay bình quân đạt 17 máy/100 dân. 100% các xã ngoại thành
cũng đều có điện thoại.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ trên thị trường xã hội tăng bình
quân 24,2%/năm.
Nông nghiệp : Trong 5 năm (1996 - 2000), sản xuất nông - lâm nghiệp và
thuỷ sản đạt mức tăng trưởng bình quân 4,89%/năm. Đời sống vật chất tinh thần
của người dân ở nông thôn ngoại thành được nâng cao, mức thu nhập hiện nay
tăng 2,4 lần so với năm 1990, tỷ lệ hộ giàu ở nông thôn đạt 24%.
Về thu hút các nguồn vốn : Tổng đầu tư xã hội bình quân hàng năm giai
đoạn 1996 - 2000 đạt 12.830 tỷ đồng. Đầu tư từ nguồn vốn nước ngoài trong
những năm 1992- 1996 chiếm tới 54% với tổng đầu tư xã hội thì tới năm 1999
(do khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực) chỉ còn chiếm 23 - 24%.
Ngược lại, tỷ trọng đầu tư từ nguồn vốn trong nước tăng mạnh và tăng ở tất cả
các nguồn: vốn Nhà nước từ 11,1% năm 1996 tăng lên 21,5% năm 2000; vốn tín
dụng Nhà nước từ 1,8% lên 3,2% vốn doanh nghiệp tự đầu tư từ 17,8% tăng lên
20,3%; vốn đầu tư của các thành phần kinh tế ngoài nhà nước từ 15,4% lên
26%; vốn nông dân tự đầu tư từ 1,3% lên 7,1%.
39
Xuất nhập khẩu : Mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu thời kỳ 1999 -
1999 là 16,17%, đưa kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn từ 755 triệu USD (năm
1995) lên 1.525 triệu USD (năm 2000).
Kim ngạch nhập khẩu giai đoạn 1999 -2000 tăng bình quân 18%/năm,
đưa kim ngạch nhập khẩu tăng từ 99 triệu USD (năm 1995) lên 420 triệu USD
(năm 2000). Năm 1991, tỷ trọng nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên vật liệu
phục vụ sản xuất chỉ chiếm 42,6% tổng kim ngạch nhập khẩu, đến năm 2000
chiếm 94,74%.
Xây dựng và quản lý đô thị : Đầu những năm 1990, địa giới hành chính
Thủ đô đã được điều chỉnh từ 2.139 km2 xuống còn 918,46km2. tháng 6/1998,
Chính phủ đã phê duyệt quy hoạch điều chỉnh chung của Hà Nội, tạo điều kiện
cho thành phố tập trung xây dựng và phát triển.
Một số khu đô thị mới đã được xây dựng , nhiều tuyến đường , trục đường
lớn , nút giao thông như Liễu Giải - Nguyễn Chí Thanh , Láng - Hoà Lạc, Láng
hạ , Trần Khát Chân , Đại Cổ Việt , đường Huỳnh Thúc Kháng, Hoàng Quốc
Việt... được mở rộng. Nhà ở đã được cải thiện , mức nhà ở bình quân hiện nay là
6m2/ người so với 4,5m2/ người năm1990. Tỷ lệ thu gom, xử lý rác thải tăng từ
40% ( năm 1990 ) lên 80%. Khối lượng cung cấp nước sạch tăng 2,5 lần. Diện
tích cây xanh tăng từ 1,8m2/ người ( năm 1990 ) lên 3,5 m2/ người .
Văn hoá - xã hội: Hà Nội là địa phương luôn đi đầu cả nước trong lĩnh
vực văn hoá, xã hội , thể hiện ở các mặt phổ cập trung học cơ sở (năm 1999),
xoá bỏ việc học 3 ca, tiêm chủng cho 99% trẻ em , tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng
giảm từ 37% năm 1994 xuống còn 18,7% năm 2000. Tỷ lệ tăng dân số năm
1989 là 1,51% giảm xuống còn 1,08% vào năm 1999.
2..1.3. Những lợi thế của Hà Nội trong việc thu hút đầu tư.
2.1.3.1. Là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá và khoa học kỹ thuật.
Là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá và khoa học kỹ thuật của cả nước,
Hà Nội có điều kiện thuận lợi để thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
40
hoá, Đây cũng là một tiền đề hết sức quan trọng cho việc hình thành và phát
triển nền kinh tế tri thức trong những thập kỷ tới.
2.1.3.2. Là thị trường lớn thứ hai trong cả nước.
Với số dân đứng thứ hai trên cả nước, hà Nội cũng là thị trường lớn thứ 2
sau TPHCM. Yếu tố này đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tại Hà Nội có cơ
hội tiếp cận với thị trường thuận lợi hơn, có nguồn thông tin thị trường đầy đủ
và nhanh chóng hơn và vì thế dễ dàng có những phản ứng thích hợp và kịp thời
khi xuất hiện những biến động trên thị trường.
2.1.3.3. Nhiều cơ sở nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghiệp.
Khoa học và công nghệ ngày nay đã trở thành nhân tố quyết định cho sự
nghiệp phát triển kinh tế. Là một Trung tâm Khoa học của cả nước, Hà Nội có
số lượng các cơ sở nghiên cứu, đào tạo nhiều nhất trên cả nước. Đây là một yếu
tố quan trọng để Hà Nội có thể nhanh chóng nghiên cứu và ứng dụng những tiến
bộ khoa học công nghệ vào trong đời sống sản xuất kinh doanh.
2.1.3.4. Là đầu mối giao thông.
Với vị trí đầu mối giao thông của cả đường bộ, đường sắt, đường thuỷ và
đường không, các doanh nghiệp tại Hà Nội có thuận lợi rất lớn trong việc cung
ứng và tiêu thụ các sản phẩm cuả mình. Ngày nay, trong môi trường Internet, sự
giao tiếp hầu như không còn khoảng cách về không gian, tuy vậy vị trí địa lý
vẫn còn giữ vai trò quan trọng. Ngoài ra, với cơ sở hạ tầng về điện và viễn thông
chất lượng cao, các doanh nghiệp Hà Nội cũng có lợi thế hơn ở các địa phương
khác trong giao dịch và kinh doanh.
2.1.3.5. Nguồn lao động dồi dào, đặc biệt lao động có tay nghề cao.
41
Nguồn lao động Việt nam dồi dào về số lượng nhưng còn non kém về
chất lượng. Tuy vậy, Hà Nội lại có ưu thế hơn hẳn so với những địa phương
khác bởi tỷ lệ tương đối cao về lao động có tay nghề. Bên cạnh đó, với số lượng
lớn các cơ sở nghiên cứu và đào tạo tại Hà Nội, Hà Nội có khả năng cung cấp
nhiều lao động có tay nghề cao trong thời gian tới.
2.2 . Thực trạng xây dựng và khai thác sử dụng các KCN tại Hà Nội.
2.2.1. Tình hình tổ chức và quản lý.
Ban Quản lý các Khu công nghiệp và chế xuất Hà Nội được Thủ tướng
Chính phủ quyết định thành lập để quản lý các KCN và KCX trên địa bàn. Cơ
cấu tổ chức của Ban Quản lý các Khu công nghiệp và chế xuất Hà Nội hiện nay
gồm :
01 Trưởng ban
02 Phó trưởng ban
06 Bộ phận chức năng :
- Văn phòng ban .
- Phòng quản lý doanh nghiệp .
- Phòng quản lý xuất nhập khẩu .
- Phòng quản lý đầu tư .
- Phòng quy hoạch môi trường .
- Trung tâm dịch vụ việc làm .
Số biên chế chính thức tại Ban Quản lý các KCN và CX Hà Nội hiện nay
là 25, số lao động hợp đồng là 7.
42
43
Ban Quản lý các Khu công nghiệp và chế xuất Hà Nội đã có nhiều cố
gắng để hoạt động theo cơ chế "1 cửa, tại chỗ", giải quyết nhanh các thủ tục
hành chính cho các nhà đầu tư vào KCN . Ban quản lý được Bộ kế hoạch và
Đầu tư uỷ quyền cấp GPĐT cho các loại dự án sau đây:
+ Phù hợp với qui hoạch KCN.
+ Doanh nghiệp chế xuất có qui mô vốn đến 40 triệu USD.
+ các dự án sản xuất có qui mô vốn đến 10 triệu USD.
+ Các sự án dịch vụ công nghiệp có qui mô vốn đến 5 triệu USD.
+ Không thuộc danh mục dự án có tiềm năng ảnh hưởng lớn đến môi trường.
Thời gian cấp GPĐT là 15 ngày kể từ ngày cơ quan cấp GPĐT nhận được
hồ sơ hợp lệ.
Trưởng ban
Phó ban
1
Phó ban
2
Văn
phòng
ban
Phòng
quản
lý
doanh
nghiệp
Phòng
quản
lý xuất
nhập
khẩu
Phòng
quy
hoạch
môi
trường
Phòng
quản
lý đầu
tư
Trung
tâm
dịch
vụ việc
làm
44
Ngoài ra, Ban quản lý được Bộ Thương mại uỷ quyền cấp giấy phép xuất
nhập khẩu, cấp chứng chỉ xuất xứ hàng hoá vào các nước ASEAN, Ban quản lý
tổ chức đào tạo và cung ứng lao động cho các doanh nghiệp.
2.2.2. Quá trình hình thành và phát triển các khu công nghiệp cũ .
Các KCN cũ ( Cụm công nghiệp được hình thành từ những năm 60 -70).
Trên thực tế ở Hà Nội đã hình thành những cụm công nghiệp từ những năm
1960 đến năm 1970. Đó là những cụm công nghiệp cũ, hình thành không theo qui
hoạch như : Vĩnh Tuy, Văn Điển, Cầu Bươu, Chèm, Đức Giang, Đông Anh.
Những cụm công nghiệp này do thiếu quy hoạch nên không được xây dựng đầy
đủ , không đồng bộ về cơ sở hạ tầng , lại nằm lộn xộn xen kẽ lẫn trong các khu
dân cư, bệnh xá, cơ sở dịch vụ. Vì vậy đã gây nên nhiều khó khăn trong việc phát
triển đô thị và thực sự đang trở thành gánh nặng củaThành phố. Có thể nói sự ra
đời tự nhiên của tổ hợp một số nhà máy, xí nghiệp là do sự đòi hỏi cần thiết trong
việc phát triển kinh tế công nghiệp của thành phố, do đó chưa tính hết những khả
năng phát triển của thành phố trong tương lại, đặc biệt là vấn đề môi sinh.
Bảng 3
Các cụm công nghiệp chính, hiện có trên địa bàn thành phố Hà Nội
TT Các cụm công nghiệp
Số Doanh
nghiệp
Diện
tích
đất (ha)
Nhân
công
1 Minh Khai - Vĩnh Tuy - Mai Động 38 81 15.910
2 Giáp Bát - Trương Định 13 32 3.760
3 Văn Điển - Pháp Vân 14 39 59.000
4 Thượng Đình 29 76 17.270
5 Cầu Diễn - Mai Dịch 8 27 1.950
6 Gia Lâm - Yên Viên - Đức Giang 21 38 10.230
7 Đông Anh 22 68 8.280
8 Chèm 5 14 2.310
45
9 Cầu Bươu 5 4 1.390
Tổng cộng 155 379 120.100
Điểm yếu cơ bản của các cụm công nghiệp này là thiếu quy hoạch, xây
dựng thiếu đồng bộ, nhất là các cơ sở hạ tầng. Theo kết quả kiểm tra gần đây thì
không một nhà máy xí nghiệp nào có phương án xử lý bảo vệ môi trường, đặc
biệt là không có cơ chế quản lý hành chính nhà nước của chính quyền trên địa
bàn có KCN. Điều đó dẫn đến hiện tượng quy hoạch lộn xộn, trong khu vực nhà
máy, xí nghiệp có đủ cả các công trình phục vụ sinh hoạt như: nhà ở, trại trẻ,
bệnh xá, cơ sở dịch vụ..vv... Chính điều này giờ đây đã trở thành gánh nặng của
thành phố và bản thân các Công ty, doanh nghiệp trong quá trình giải toả để đảm
bảo tính chất thuần nhất của KCN : KCN phải là nơi chỉ dành cho sản xuất kinh
doanh và được quản lý chặt chẽ về mọi mặt.
Mặt khác, các cụm công nghiệp được hình thành từ những năm trước đây
đã, đang và sẽ nằm trong khu phát triển dân dụng của Thành phố Hà Nội, vì thế
chúng sẽ gây ảnh hưởng rất lớn về vấn đề môi trường và giao thông đô thị.
Do vậy, những KCN này bộc lộ nhiều thiết sót mà cho đến nay vẫn chưa
hoàn toàn giải quyết được , nhất là trong điều kiện hiện nay các cụm công
nghiệp cũ không thể đáp ứng được đòi hỏi yêu cầu của việc phát triển kinh tế
trong quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá. Để đáp ứng được những đòi hỏi
cấp bách trên Hà nội cần phải nhanh chóng hình thành các KCN tập trung có
đầy đủ cơ sở hạ tầng, được quy hoạch đầy đủ nằm xa khu dân cư vừa có tác
dụng thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội vừa góp phần khắc phục những hậu quả
tiêu cục của các cụm công nghiệp trước đây để lại, đó chính là một giải pháp lâu
dài cho Công nghiệp Hà Nội trong những năm phát triển sau này.
2.2.3. Quá trình xây dựng và hình thành các KCN của Hà Nội.
46
Ngoài các KCN cũ đã có, Thành phố đang sắp xếp củng cố để nâng cao
hiệu quả và đi đúng quĩ đạo KCN theo định hướng chung của Chính phủ. 5 Khu
Công nghiệp trên địa bàn Hà Nội đã được Nhà nước cấp giấy phép hoạt động
theo qui chế KCN, KCX, KCNC ban hành kèm theo Nghị định 36/CP ngày
24/4/1997, đó là: KCN Sài đồng B, KCN Nội Bài, KCN Hà Nội - Đài Tư, KCN
Daewoo - Hanel và KCN Thăng Long.
KCN Sài đồng B.
Chủ đầu tư công trình hạ tầng kỹ thuật là công ty Điện tử Hanel bằng
nguồn vốn trong nước - Năm cấp giấy phép 1996 .
Tổng diện tích : 97 ha, trong đó đất xây dựng KCN: 79ha.
Giai đoạn I: 30 ha đã được lấp đầy diện tích 100%. Với sự hoạt động của
8 doanh nghiệp trong đó có một doanh nghiệp chế xuất 100% vốn nước ngoài , 7
doanh nghiệp liên doanh giữa nước ngoài với Việt nam.
Giai đoạn II: 18ha, đã triển khai xây dựng Cơ sở hạ tầng 9,1 ha , đến
tháng 6/2000 đã lấp đầy diện tích và đang giải phóng mặt bằng 9 ha còn lại để
phấn đấu cuối năm 2001 sẽ lấp đầy và phủ kín 100% diện tích. KCN này đang
phấn đấu để "nhà tư không phải chờ đất và có đất để đầu tư xây dựng xí nghiệp
trong KCN".
Hướng ưu tiên cho đầu tư vào KCN này là các sản phẩm điện tử và các
sản phẩm không có chất thải gây ô nhiễm môi trường.
Cho đến hết năm 2000 đã có 23 dự án đầu tư được cấp giấy phép đầu tư
vơi tổng số vốn đăng ký đầu tư là 289 triệu USD.
KCN Hà Nội - Đài Tư:
100% là vốn đầu tư hạ tầng kỹ thuật của phía Đài Loan - Năm được cấp
giấy phép 1995.
Tổng diện tích :40 ha.
47
Đang tích cực hoàn thiện nhanh toàn bộ Cơ sở hạ tầng 40 ha, vào tháng
4/2000 Cơ sở hạ tầng đã cơ bản được xây dựng. Tính đến tháng 6 năm 2000 vừa
qua đã có 04 trong tổng số 17 xí nghiệp của các nhà đầu tư Đài Loan được cấp
giấy phép đầu tư triển khai xây dựng nhà máy, trong năm 2001 KCN cũng sẽ
được lấp đầy diện tích , đó là quyết tâm của các nhà đầu tư Đài Loan đã đăng ký
đầu tư vào KCN này.
Hướng ưu tiên đầu tư vào KCN này là các sản phẩm điện tử, chế biến
nông sản thực phẩm, may mặc và sản xuất các đồ dùng gia đình.
Cho đến hết năm 2000 đã có 04 dự án đầu tư được cấp giấy phép đầu tư
với tổng số vốn đăng ký đầu tư là 6,21 triệu USD.
KCN Thăng Long:
Xây dựng hạ tầng kỹ thuật là Công ty liên doanh giữa tập đoàn Sumitomo
và Công ty cơ khí Đông Anh- Năm cấp giấy phép 1997.
Tổng diện tích: 121 ha, trong đó đất xây dựng công nghiệp: 121 ha.
Đây là liên doanh giữa tập đoàn SUMITOMO và Công ty Cơ khí Đông
Anh, bằng phương pháp xây dựng tạo lập mặt bằng tiên tiến thông qua sáng kiến
của các chuyên gia Việt nam và Nhật Bản; hút cát ướt trực tiếp từ sông Hồng
vừa chắc nền móng vừa tiết kiệm chi phí san lấp, tạo dựng mặt bằng KCN này
và tháng 6/2000 đã hoàn thành, khai trương và ngay từ bây giờ đã có nhiều các
nhà đầu tư trong và ngoài nước đặt vấn đề thuê đất với diện tích lớn và ngay
trong năm 2000 đã có ba xí nghiệp được cấp giấy phép hoạt động mở đầu cho
hàng loạt các xí nghiệp khác vào đầu tư tại KCN này.
Hướng ưu tiên đầu tư vào KCN là các sản phẩm điện tử, viễn thông và
các sản phẩm công nghiệp tiêu dùng khác.
Cho đến hết năm 2000 đã có 02 dự án đầu tư được cấp giấy phép đầu tư
vơi tổng số vốn đăng ký đầu tư là 9,4 triệu USD.
48
KCN Nội Bài - Sóc Sơn:
Xây dựng hạ tầng kỹ thuật là Công ty liên doanh giữa Công ty Renong
Malaysia và Công ty Xây dựng Công nghiệp của Việt nam
Năm cấp giấy phếp 1994
Tổng diện tích : 100ha, trong đó đất xây dựng KCN: 100ha.
Đã hoàn thành Cơ sở hạ tầng giai đoạn I với 50 ha đất, đã có 03 nhà máy
hoạt động trong ngành nội địa hoá sản xuất phụ tùng xe máy, ô tô, sản xuất
khung nhà thép tiền chế với khẩu độ lớn theo tiêu chuẩn quốc tế phục vụ cho sản
xuất khẩu và tiêu thụ nội địa. Cuối năm 1999, Thành phố Hà Nội đã chính thức
bàn giao sử dụng con đường 131 nối trực tiếp từ quốc lộ 2 trên đường cao tốc
Thăng Long đến KCN tạo nên một ưu thế để KCN này phát huy tối đa lợi thế về
đi lại (so với đi đường cũ tiết kiệm từ 15 đến 25 phút). Mặt khác, KCN này nằm
trong vùng kinh tế được hưởng chế độ miễn phí giảm thuế lợi tức theo Nghị
định 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Đầu
tư nước ngoài tại Việt nam. Đây cũng là một địa chỉ hấp dẫn của nhà đầu tư.
Đầu năm 2000 đã có nhiều nhà đầu tư, tập đoàn công nghiệp sản xuất phụ tùng ô
tô, xe máy, điện đến làm việc với KCN Nội Bài - Sóc Sơn đặt vấn đề thuê đất.
Hướng ưu tiên cho đầu tư vào KCN này là các sản phẩm cơ khí, máy
móc, KCN nằm trên địa bàn khuyến khích đầu tư, được hưởng ưu đãi của nhà
nước Việt nam.
Cho đến hết năm 2000 đã có 04dự án đầu tư được cấp giấy phép đầu tư
vơi tổng số vốn đăng ký đầu tư là 40,4 triệu USD.
KCN Sài Đồng A.
Xây dựng hạ tầng kỹ thuật là công ty liên doanh giữa tập đoàn Daewoo và
Công ty Điện tử Hanel - Năm cấp giấy phép 1996.
49
Tổng diện tích : Diện tích 407 ha được quy hoạch làm 3 chức năng: KCN
197 ha, khu nhà ở 100 ha và 110 ha làm công viên, vườn hoa. Trong đó KCN sẽ
được xây dựng và phát triển vào năm 2001.
Đây là liên doanh giữa tập đoàn DAEWOO Hàn Quốc với Công ty Điện
tử Hà Nội (HANEL). Do sự hồi phục của nền kinh tế Hàn Quốc sau cuộc khủng
hoảng tài chính - tiền tệ khu vực và sự tiến triển tốt của môi trường đầu tư của
nước ta nói chung và Hà Nội nói riêng hi vọng rằng tập đoàn này sẽ cùng với
phía Việt nam nhanh chóng triển khai dự án trong năm 2001.
2.2.4. Tình hình khai thác , sử dụng và những kết quả đã đạt được .
2.2.4.1. Tình hình sử dụng đất và giá thuế đất.
Tổng diện tích 5 khu công nghiệp tập trung của Hà nội hiên nay khoảng
765 ha. Trong đó đất để xây dựng KCN là 597 ha, còn lại để xây dựng khu
thương mại, nhà ở, khu công viên cây xanh (khu đô thị mới liền kề phục vụ
KCN).
Tính đến nay đã có hơn 80 ha đất thuộc 2 KCN được xây dựng xong hạ
tầng kỹ thuật giai đoạn I, trong đó: KCN Nội Bài 50 ha, Sài Đồng B 39 ha,
chiếm 15% trên tổng số đất dành xây dựng khu công nghiệp. Các khu Thương
mại, nhà ở, khu công viên cây xanh kề bên các KCN hiện nay còn chưa được
phê duyệt dự án (dự tính để hoàn thành hạ tầng 5 KCN này cần 250 triệu USD
và 170 tỷ đồng (VNĐ) vốn đầu tư).
Giá thuê đất hiện nay tuỳ thuộc vào diện tích thuê, thời gian thuê, có thể
trả từng năm hoặc cả đời dự án. Mức giá cụ thể kể cả phí hạ tầng không quá 2,5
USD/m2/ năm. Doanh nghiệp có thể thoả thuận mức giá thấp hơn với Công ty
kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công nghiệp.
2.2.4.2. Tình hình đầu tư , sản xuất trong các KCN của Hà nội.
50
Cho đến 2000 đã có 4/5 KCN tiếp nhận các dự án đầu tư vào sản xuất
công nghiệp, đó là: KCN Sài Đồng B. Nội Bài, Thăng Long, Hà Nội - Đài Tư.
Đến hết năm 2000, đã có 33 dự án được cấp GPĐT vào trong KCN với tổng số
vốn đăng ký đầu tư trên 345 triệu USD: trong đó: KCN Sài Đồng B có 23 dự án
với tổng số vốn đăng ký đầu tư là 289 triệu USD; KCN Bội Bài có 4 dự án với
tổng số vốn đăng ký đầu tư là: 40,4 triệu USD; KCN Hà Nội - Đài tư có 4 dự án
với tổng số vốn đăng ký đầu tư: 6,21 triệu USD; KCN Thăng Long có 2 dự án
với tổng số vốn đăng ký đầu tư là 9,4 triệu USD.
Có 14 dự án đã hoạt động với tổng số vốn đăng ký gần 313 triệu USD,
trong đó vốn thực hiện 292 triệu USD (chiếm 93,2%).
2.2.4.3. Những kết quả bước đầu.
"5 năm là một thời gian không dài, song với sự quan tâm chỉ đạo của
Lãnh đạo Thành phố, với sự cố gắng nỗ lực của đội ngũ cán bộ và sự năng động
sáng tạo của bộ máy lãnh đạo. Ban Quản lý các KCN và CX Hà Nội đã thu được
những kết quả bước đầu Góp phần thiết thực cho sự nghiệp phát triển kinh tế -
xã hội của Thủ đô trong thời gian qua".
KCN đầu tiên tại Hà Nội (Khu Sài đồng B) đã được Chính phủ cấp giấy phép
vào năm 1997 với 5 doanh nghiệp có sẵn cụm công nghiệp Gia lâm trước đây có
tổng số vốn đăng ký 265,4 triệu USD, chiếm diện tích 23 ha. Từ đó đến nay, 4 KCN
nữa đã được hình thành tại Hà Nội với tổng diện tích quy hoạch là 765 ha, đã cấp
giấy phép cho 33 dự án đầu tư vói tổng số vốn đầu tư 345,8 triệu USD .Sự ra đời 5
Khu Công nghiệp trên đã được lãnh đạo Thành phố đánh giá là nhân tố quan trọng
thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm, hỗ trợ mạnh mẽ cho
quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế trên địa bàn Thủ đô.
51
Bảng 4 : Tình hình cấp giấy phép đầu tư và vốn đăng ký (1997 - 2000)
1997 1998 1999 2000 Tổng
Số GFĐT 15 3 2 13 33
Vốn đ/ ký và đ/ chỉnh
vốn (tr. USD)
307.6 4.4 9.7 24.1 345.8
BiÓu ®å 1 : Tæng vèn ®¨ng ký ®Çu t vµo c¸c KCN Hµ
néi
307.6
4.4 9.7
24.1
0
50
100
150
200
250
300
350
1997 1998 1999 2000
Vèn ®¨ng ký
52
Biểu đồ 2 : Số dự án đầu tư được cấp phép
15
3
2
13
0
2
4
6
8
10
12
14
16
Sè dù ¸n
1997
1998
1999
2000
53
Thành tựu của các KCN Hà Nội có thể được khái quát theo một số khía
cạnh sau:
a. Góp phần tăng trưởng kinh tế.
Mặc dù chỉ có 14 doanh nghiệp hoạt động trong các KCN nhưng doanh thu
của các doanh nghiệp này trong 11 tháng đầu năm 2000 đã đạt 138.2 triệu USD
(chủ yếu là xuất khẩu), chiếm hơn 30% giá trị sản xuất của khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài trên địa bàn Hà Nội. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp trong KCN đã tạo điều kiện hình thành một loạt các doanh nghiệp vệ tinh
trên địa bàn thành phố cung cấp các sản phẩm đầu vào và các dịch vụ cho các
KCN. Như vậy, hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN không những những
góp phần trực tiếp mà cả gián tiếp tới sự tăng trưởng kinh tế của Thủ đô, giúp cho
kinh tế Thủ đô vượt qua được những thử thách, khó khăn trong thời gian qua.
b. Hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu, tạo việc làm:
Biểu đồ 3 : Tổng số lao động và lao động do trung tâm dịch
vụ việc làm tuyển dụng
2250
2450
3160
3850
115 240
460
675
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
3500
4000
4500
1997 1998 1999 2000
Lao ®éng
TuyÓn dông
54
Các KCN được hình thành tại những vùng sản xuất nông nghiệp ở một số
huyện ngoại ô thành phố. Sự xuất hiện các KCN tại những huyện này có tác
động thay đổi cơ bản cơ cấu kinh tế của những huyện đó, đồng thời cũng góp
phần tích cực thúc đẩy quá trình chuyển đổi cấu kinh tế của Thủ đô nói chung.
Với việc cải thiện cơ sở hạ tầng thông qua việc hình thành các KCN không
những làm thay đổi bộ mặt và trình độ dân trí nông thôn ngoại thành mà còn tạo
điều kiện thuận lợi cho người dân phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp ở
nông thôn, nâng cao đời sống của người dân.
Từ nội dung trên có thể nhận định rằng: bên cạnh việc thúc đẩy
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, các KCN còn có tác động thu hẹp khoảng cách
phát triển giữa các vùng nông thôn và thành thị. Quan trọng hơn, ngoài việc
thu hút hơn 3800 lao động ( năm 2000 ) , hoạt động của các KCN còn tạo
điều kiện cho nhiều người nông dân tự tạo ra việc làm, cung cấp sản phẩm
và dịch vụ các doanh nghiệp trong KCN.
c. Thúc đẩy phát triển ngoại thương.
Sự phát triển của các doanh nghiệp trong KCN không chỉ góp phần cho
Thủ đô tăng trưởng mang tính số lượng mà còn nâng cao cả chất lượng tăng
trưởng. Hầu hết sản phẩm từ các doanh nghiệp này đều có khả năng cạnh tranh
không chỉ trên thị trường trong nước mà trên cả thị trường thế giới. Trong khi
chỉ có 14 doanh nghiệp hoạt động tại các KCN (so với 3361 doanh nghiệp trong
toàn Thành phố) thì kim ngạch xuất khẩu từ các doanh nghiệp này đã chiếm tới
35,7% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu toàn thành phố và chỉ chiếm 29,2% tỷ trọng
kim ngạch nhập khẩu. Những số liệu này chứng tỏ các doanh nghiệp đã có năng
lực cạnh tranh, sử dụng nguồn lực trong nước tốt hơn các doanh nghiệp khác và
quan trọng hơn, sự phát triển này hoàn toàn phù hợp với tiến trình hội nhập kinh
tế của nước ta.
55
Biểu đồ 4 : Tổng doanh thu và xuất khẩu
Bảng 5 : Xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp trong KCN.
Đơn vị : Triệu USD
Năm 1998 1999 2000
KCN
HN
Hà
Nội
So
sánh tỷ
lệ
KCN
HN
Hà
Nội
So
sánh tỷ
lệ
KCN
HN
Hà
Nội
So sánh
tỷ lệ
Xuất
khẩu
93,9 306,5 30,6% 107,5 325 33% 118,4 350,5 33,78%
NK 83,7 369,5 22,6% 96,8 375 25,8% 102,4 350 29,2%
Qua các số liệu so sánh ở trên cho thấy tỷ trọng XNK của các doanh
nghiệp trong các KCN - CX Hà Nội so với toàn Thành phố là tương đối lớn và
ngày càng tăng lên. Nếu năm 1998 tỷ trọng đạt 30,6% thì năm 1999 đã tăng lên
93.9
107.5
118.4
156.8 160.6
185.3
0
40
80
120
160
200
1998 1999 2000
XuÊt khÈu
doanh thu
56
33% và 6 tháng năm 2000 đạt 35,7%. Tuy nhiên so với tỷ lệ xuất khẩu thì tỷ lệ
nhập khẩu lại thấp hơn nhiều, điều này càng khẳng định tính hiệu quả trong sản
xuất kinh doanh mà các doanh nghiệp đạt được. Mặt khác, nếu năm 1999 khi đó
chỉ có 6 Công ty có mặt hàng xuất khẩu trong tổng số 13 Công ty hoạt động thì
năm 2000 con số Công ty có mặt hàng xuất khẩu tăng lên 8 Công ty trong tổng
số 14 Công ty.
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của các Công ty tại các KCN hàng năm trên
mức 14%, tỷ trọng này đã vượt mục tiêu tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu mà
Thành phố đề ra là: 9-10%. Hoặc nhìn rộng hơn, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu
của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Hà nội cũng cao hơn các doanh
nghiệp trong nước. Năm 1999, tăng trưởng xuất khẩu của các doanh nghiệp này
là 22%, trong khi đó tăng trưởng của các doanh nghiệp trong nước chỉ đạt 10%.
d. Giữ vai trò chủ lực trong một số ngành công nghiệp hiện đại.
Quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế đòi hỏi nền kinh tế phải nhanh chóng
tạo điều kiện phát triển những ngành kinh tế mũi nhọn, có tiềm năng mạnh trong
đất nước. Công nghiệp tin học và điện tử là một ngành có thể sẽ tạo cơ sở cho
những bước nhảy vọt cho nền kinh tế Việt nam. Nhiều doanh nghiệp trong Khu
Công nghiệp (Daewoo-Hanel và Orion) đã chiếm 70% kim ngạch xuất khẩu của
ngành điện tử trên địa bàn Hà Nội. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp đã cố gắng
nâng cao tỷ lệ nội địa hoá trong quá trình sản xuất một số sản phẩm lắp ráp và
sản phẩm xuất khẩu.
e. Góp phần tăng thu ngân sách trên địa bàn.
Hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN không chỉ tạo thêm việc làm
cho người lao động mà còn đóng góp một phần cho thu ngân sách trên địa bàn
57
thành phố. Chỉ riêng trong 9 tháng đầu 2000, 14 doanh nghiệp đã nộp ngân sách
được trên 5 triệu USD (tăng 11% so với cùng kỳ năm trước).
Biểu đồ 5 : Số doanh nghiệp hoạt động và
số thuế nộp ngân sách
10
12 12
13
5 5.1 5.3
6.6
0
2
4
6
8
10
12
14
1997 1998 1999 2000
Sè DN Ho¹t ®éng Thu NS ( Tr USD )
f. Tăng cường chuyển giao công nghệ.
Việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài không chỉ phục vụ cho mục
tiêu tăng trưởng mà bên cạnh đó những dự án này còn góp phần đắc lực thúc đẩy
quá trình chuyển giao công nghệ cho nền kinh tế nước ta. Trong bối cảnh nền
kinh tế vừa thoát khỏi chiến tranh, nhiều nhà máy xí nghiệp còn phải sử dụng
những công nghệ cách đây vài chục năm, lạc hậu nhiều thế hệ thì việc xuất hiện
những nhà máy trong các KCN với công nghệ hiện đại cũng là một trong những
nhân tố tác động tích cực đến việc chuyển giao công nghệ có kỹ thuật cao trên
địa bàn Thủ đô. Một số sản phẩm mới đã xuất hiện và được tiêu thụ không chỉ
58
trên thị trường trong nước mà cả trên thị trường thế giới như thiết bị quang học
(của Pentax), chi tiết trong công nghiệp điện tử (của Orion - Hanoi - Metal),...
g. Hỗ trợ công tác bảo vệ môi trường, tạo cơ sở cho phát triển bền vững.
Phát triển bền vững là mục tiêu lâu dài và quan trọng không chỉ của Việt
nam mà là mục tiêu phấn đấu chung của cả thế giới. Sự phát triển vô tổ chức,
không chú ý đến vấn đề môi trường của thế giớ trong những thập kỷ qua đã buộc
loài người đã phải trả giá đắt cho sự sống nói chung trên thế giớ. Vì thế, bảo vệ
môi trường đã trở thành vấn đề quan trọng và cấp thiết hơn bao giờ trong tiến
trình phát triển của loài người. Phát triển các KCN tập trung nói chung và của
các KCN Hà Nội trong thời gian qua nói riêng là một mô hình phù hợp trước
những đòi hỏi này. Quy trình sản xuất của hầu hết các doanh nghiệp trong Khu
Công nghiệp đều hiện đại hơn so với các xí nghiệp cùng loại của Việt nam,
không gây ô nhiễm môi trường, hệ thống xử lý chất thải ở các KCN có chất
lượng tốt, đảm bảo giảm thiểu tác động xấu đến môi trường đô thị.
2. 3. Đánh giá chung những thuận lợi, khó khăn và vấn đề
tồn tại đối với các khu công nghiệp Hà Nội.
2.3.1. Nhóm các vấn đề khung pháp lý.
2.3.1.1. Một số văn bản pháp lý chưa thống nhất, thiếu cụ thể dẫn đến
nhiều cách hiểu khác nhau.
Khung khổ pháp lý nói chung và các văn bản pháp lý liên quan đến kinh
tế, đến các KCN nói riêng vẫn còn ở tình trạng thiếu đồng bộ, không thống nhất,
chưa cụ thể. Hầu hết các luật được ban hành với nội dung thiếu cụ thể, luôn phải
chờ Nghị định , Thông tư hướng dẫn thi hành. Việc ban hành các Nghị định,
thông tư hướng dẫn thường bị chậm và có lúc không phù hợp lẫn nhau làm giảm
tác dụng của luật . Nôị dung các quy định cũng còn thiếu rõ ràng dẫn đến hiện
59
tượng hiểu và sử dụng không thống nhất giữa các cơ quan. Đây là một trong
những nguyên nhân gây ra cách xử lý tuỳ tiện của các cơ quan quản lý Nhà nước
và nhiều khi làm xuất hiện nhiều khiếu kiện không cần thiết, cản trở quá trình
cải cách làm xấu môi trường đầu tư ở nước ta.
2.3.1.2. Cơ chế phân cấp và uỷ quyền thiếu đồng bộ, chưa đủ điều kiện để
thực hiện cơ chế một cửa, tại chỗ.
Trong việc thu hút các nguồn vốn FDI, các nhà đầu tư nước ngoài gặp
tương đối nhiều khó khăn ngay từ khâu thành lập doanh nghiệp ở Việt nam. Khó
khăn xuất hiện trước hết từ tính không rõ ràng, không nhất quán của các văn bản
pháp lý liên quan đến việc cấp phép đầu tư. Điều đó đã làm cho hệ thống thủ tục
xem xét, phê duyệt và cấp phép mang tính chủ quan, tuỳ tiện, chậm chạp. Hơn
nữa, giấy phép đầu tư cũng chỉ là bước đầu, sau đó, nhà đầu tư nước ngoài cần
phải có được rất nhiều phê duyệt cho nhiều mục đích khác nhau từ các cơ quan
của Chính phủ. Cũng giống như nhiều lĩnh vực khác, nguyên tắc phân cấp trong
quản lý đầu tư chủ yếu dựa vào quy mô chứ không phải dựa vào tính chất của dự
án. Trong thời gian mà Việt nam đang còn là môi trường hấp dẫn đối với đầu tư
nước ngoài thì nguyên tắc này dễ dẫn đến hiện tượng tranh giành "quyền cấp
phép" giữa TW và địa phương. Nhiều dự án đầu tư nước ngoài chủ yếu chỉ sản
xuất hàng dân dụng, không tác động đến tổng thể nền kinh tế nhưng vẫn phải có
đầy đủ các thủ tục, tiến hành đầy đủ các bước gây tốn kém về chi phí và thời
gian cho các nhà đầu tư , điều đó đã làm hạn chế dòng đầu tư vào Việt Nam.
Trong tình hình hiện nay, khi Việt nam không còn trở thành nơi hấp dẫn đầu tư
nhất trong khu vực, khó có hiện tượng tranh giành thì việc phân cấp lại không
gắn liền cùng việc phân quyền. Trên thực tế, quyền hạn của chính quyền thành
phố Hà nội trong việc chủ động đưa ra các biện pháp khuyến khích đầu tư nước
ngoài (như thuế, giá đất...) bị giới hạn trong phạm vi rất nhỏ bé. Điều đó đã dẫn
tới sự hạn chế tính chủ động của Hà nội trong việc hoạch định chính sách.
Nguyên tắc "một cửa" mặc dù đã được đưa ra từ lâu nhưng trên thực tế, các thủ
tục hành chính rườm rà và tuỳ tiện còn được sửa đổi chưa đáng kể. Hệ thống phê
duyệt đầu tư phức tạp này không những gây ra sự chậm trễ và không chắc chắn
60
này đã làm gia tăng mức độ rủi ro và các chi phí giao dịch cho các dự án đầu tư
ngay từ giai đoạn đầu tiên đồng thời có thể làm cho các nhà đầu tư mất đi cơ hội
đầu tư và kinh doanh. Hệ thống cấp phép phức tạp, không rõ ràng trên không
những làm tốn thời gian tiền bạc của các nhà đầu tư nước ngoài mà còn là cơ hội
xuất hiện nạn tham nhũng trong quá trình xét duyệt, cấp phép cho các nhà đầu tư
nước ngoài. Những vấn đề này là một trong những nguyên nhân làm cho mức độ
hấp dẫn của môi trường đầu tư ở Việt nam và Hà nội sụt giảm.
Trong tình hình khoa học kỹ thuật và công nghệ đang có những bước tiến
chưa từng có trong lịch sử, với điều kiện nhu cầu cuộc sống ngày càng đa dạng,
thì việc thay đổi quy mô và lĩnh vực kinh doanh một cách linh hoạt nhằm thích
nghi với thị trường là một nhân tố quan trọng của các nhà thầu đầu tư. Nhưng,
theo quy định của pháp luật Việt nam, mỗi lần thay đổi quy mô và lĩnh vực, các
nhà đầu tư lại phải xin phép và quy trình này cũng hầu như không khác gì so với
xin phép đầu tư ban đầu. Như vậy, riêng việc đăng ký và bổ sung, sửa đổi đăng
ký kinh doanh, khâu đầu tiên của cả quá trình kinh doanh đã là một trở ngại lớn
cho các nhà đầu tư nước ngoài khi có ý đồ đầu tư vào Việt nam cũng như đầu tư
vào các KCN tại Hà nội làm ảnh hưởng không tốt tới quá trình xây dựng và khai
thác sử dụng .
Đối với các nhà đầu tư trong nước, thủ tục xin phép thành lập và đăng ký
kinh doanh đã được cải thiện cơ bản từ khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực. Tuy
vậy, việc đưa Luật Doanh nghiệp vào đời sống thực tế hoàn toàn không dễ dàng,
quá trình này còn phải vượt qua một số khó khăn sau:
Lâu nay, giấy phép, giấy chứng nhận vẫn được nhiều công chức, nhiều cơ
quan coi như là một “công cụ quản lý Nhà nước”. Việc bãi bỏ giấy phép làm cho
họ lúng túng, chưa xác định được phải tiếp tục quản lý các doanh nghiệp như thế
nào.
Một số giấy phép bị bãi bỏ vào thay bằng những điều kiện mà nhà đầu tư phải
cam kết thực hiện trong suốt quá trình kinh doanh. Những bộ, ngành có liên quan
61
còn chưa kịp thời nghiên cứu để đưa ra những điều kiện kinh doanh cụ thể, gây lúng
túng cho các nhà đầu tư cũng như cơ quan đăng ký kinh doanh.
Một số văn bản hướng dẫn cần thiết vẫn chưa được ban hành, đặc biệt là
hệ thống tổ chức cơ quan đăng ký kinh doanh.
Số lượng và trình độ cán bộ của cơ quan đăng ký kinh doanh nói chung
còn thiếu và yếu, trang thiết bị còn kém, chưa đủ khả năng để nối mạng toàn
quốc. Điều này sẽ gây khó khăn không nhỏ cho cơ quan đăng ký kinh doanh
trong việc thực hiện chức năng của mình.
Mặc dù Chính phủ đã có một số chính sách về phân cấp tạo điều kiện cho
Ban Quản lý KCN Hà nội thực hiện chính sách "một cửa", song các cơ quan
chức năng khác lại quá chậm trễ khi ban hành các thông tư hướng dẫn cụ thể
làm cản trở tác dụng tích cực của những chính sách này. Trên thực tế tại Ban
Quản lý các KCN và CX Hà Nội, cơ chế “một cửa”, “ tại chỗ ” vẫn đang còn bị
vướng mắc tương đối nhiều , giấy phép xây dựng, giấy phép lao động vẫn chưa
được uỷ quyền cho Ban Quản lý, các nhà đầu tư và những người lao động vẫn
phải theo cơ chế "nhiều cửa", nhiều nơi" với những thủ tục phức tạp, mất nhiều
thời gian , Một số chủ trương phân cấp và uỷ quyền đã được TW ban hành
nhưng chưa được Thành phố Hà nội thực hiện . Tương tự như một số Bộ, ngành
ở cấp TW, UBND Thành phố Hà Nội vẫn chưa kịp thời ban hành những hướng
dẫn cụ thể để triển khai một số chủ trương phân cấp và uỷ quyền cho Ban Quản
lý các KCN và CX Hà Nội, ví dụ việc phân cấp giấy phép đầu tư cho các doanh
nghiệp trong nước và đầu tư vào KCN vẫn chưa được phân cho Ban Quản lý các
KCN và CX Hà Nội mà do cơ quan quản lý Nhà nước khác phê duyệt. làm giảm
tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư khi đầu tư vào các KCN .
2.3.2. Nhóm các vấn đề liên quan đến quản lý Nhà nước và thủ tục
hành chính.
62
2.3.2.1. Sự phối hợp giữa Ban Quản lý và Ban, ngành của TW và Thành
phố cũng như với Công ty kinh doanh cơ sở hạ tầng chưa thực hiện sự thông
suốt.
Trong điều kiện chưa thực hiện được cơ chế "một cửa", tại chỗ", việc phối
hợp giữa Ban Quản lý các KCN và CX Hà Nội và các cơ quan chức năng của
TW và Thành phố cũng như với Công ty kinh doanh cơ sở hạ tầng sẽ có ý nghĩa
quyết định cho việc đơn giản hoá các thủ tục cho nhà đầu tư. Trong thời gian
qua, do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là việc phân công và sự nỗ lực của cán bộ
trong Ban Quản lý và các cơ quan liên quan, nên việc phối hợp này còn chưa kịp
thời và nhịp nhàng. Điều đó đã gây trở ngại cho các nhà đầu tư, nhất là việc kéo
dài thời gian thực hiện các thủ tục cần thiết.
2.3.2.2. Thủ tục Hải quan chưa thực sự thuận lợi cho doanh nghiệp.
Do hầu hết các doanh nghiệp trong KCN đều có hoạt động xuất nhập khẩu
nên công tác hải quan tại KCN sẽ có một vai trò quan trọng cho việc hỗ trợ các
doanh nghiệp tại đây. Cho đến nay, các doanh nghiệp này vẫn phải trải qua đầy
đủ tất cả các thủ tục, gặp tất cả các khó khăn trong quá trình này giống như các
doanh nghiệp ngoài KCN.
Sau khi Nghị định 57/1998 được ban hành, thủ tục hải quan đã có những
bước chuyển biến cơ bản trong năm 1999, thời gian thông qua đã được rút ngắn
đáng kể. Mặc dù đã có những bước tiến đáng kể, nhưng hiện nay, hải quan vẫn
là một trở ngại không nhỏ cho các doanh nghiệp trong quá trình xuất nhập khẩu.
Một số trở ngại chính là:
- Thủ tục khai hải quan còn phức tạp, có thể đơn giản hoá tiếp được.
- Công tác giám quản vừa phiền hà, vừa không hiệu quả.
- Việc áp dụng mã thuế hải quan vẫn còn mang tính tuỳ tiện, gây phiền hà
và tạo cơ hội cho nạn tham nhũng phát triển.
Việc cải tiến thủ tục hải quan cho các doanh nghiệp trong KCN sẽ là một
nhân tố làm hấp dẫn môi trường đầu tư vào các KCN trên địa bàn Hà Nội.
63
2.3.2.3. Thời gian giải quyết một số thủ tục hành chính còn kéo dài so với
các địa phương khác.
Bên cạnh sự phối hợp thiếu nhịp nhàng và kịp thời giữa các cơ quan chức
năng như đã nêu trên , thời gian giải quyết thủ tục hành chính còn kéo dài hơn
nhiều so với các địa phương khác, ví dụ quá trình thẩm định thiết kế kỹ thuật,
thẩm định môi trường cho các sự án nằm trong KCN. Cải cách thủ tục hành
chính, rút n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình xây dựng và khai thác sử dụng các KCN tại Hà nội.pdf