Tài liệu Luận văn Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại sở giao dịch I ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam: LUẬN VĂN:
Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh tại sở giao dịch I ngân hàng nông nghiệp
và phát triển nông thôn Việt Nam
lời mở đầu
Sự chuyển biến của nền kinh tế đất nước, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
là một bước ngoặt lịch sử quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta. Với
đường lối đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
của Đảng và Nhà nước đã tạo tiền đề cho sự khôi phục và phát triển của các thành phần
kinh tế ngoài quốc doanh. Kinh tế ngoài quốc doanh từng bước được đổi mới và ngày
càng khẳng định vị trí quan trọng của nó đối với sự phát triển của nền kinh tế.
Trong bối cảnh đổi mới chung của đất nước, thị trường trong nước được khơi
thông, thị trường quốc tế được mở rộng, sản xuất kinh doanh đa dạng phong phú đã kích
thích, thu hút mọi tiềm n...
66 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1210 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại sở giao dịch I ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh tại sở giao dịch I ngân hàng nông nghiệp
và phát triển nông thôn Việt Nam
lời mở đầu
Sự chuyển biến của nền kinh tế đất nước, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
là một bước ngoặt lịch sử quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta. Với
đường lối đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
của Đảng và Nhà nước đã tạo tiền đề cho sự khôi phục và phát triển của các thành phần
kinh tế ngoài quốc doanh. Kinh tế ngoài quốc doanh từng bước được đổi mới và ngày
càng khẳng định vị trí quan trọng của nó đối với sự phát triển của nền kinh tế.
Trong bối cảnh đổi mới chung của đất nước, thị trường trong nước được khơi
thông, thị trường quốc tế được mở rộng, sản xuất kinh doanh đa dạng phong phú đã kích
thích, thu hút mọi tiềm năng về kỹ thuật, công nghệ, trí tuệ, vốn, tài sản của các tầng lớp
dân cư đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Song cùng với sự phát triển của sản xuất kinh
doanh thì nhu cầu về vốn cũng ngày càng lớn. Để đáp ứng được nhu cầu đó đã hình thành
các tổ chức tín dụng với những ưu thế mới như ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên
doanh, ngân hàng cổ phần, ngân hàng ngoài quốc doanh.
Với sự chuyển biến đó, các ngân hàng thương mại với tư cách là một trung gian tài
chính quan trọng của xã hội cũng phải chuyển hướng chiến lược. Đó là từng bước thay
đổi cơ cấu tín dụng hợp lý cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh theo sự chuyển biến
của nền kinh tế. Việc thay đổi cơ cấu tín dụng này của các ngân hàng là hoàn toàn hợp lý
vì kinh tế ngoài quốc doanh chứa đựng những nội tại rất lớn nên khi được quan tâm nó sẽ
phát triển một cách nhanh chóng và chính đó sẽ trở thành thị trường tín dụng vững chắc
và rộng lớn của các ngân hàng. Tuy nhiên thị trường kinh tế ngoài quốc doanh lại biến
động rất phức tạp, do đó trong giai đoạn đầu của sự chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, quan
hệ tín dụng giữa ngân hàng và khu vực này còn nhiều vướng mắc cần phải được giải
quyết tốt.Trong thời gian ngắn đi thực tế tại sở giao dịch I ngân hàng Nông nghiệp và
phát triển nông thôn Việt Nam, em thấy việc nghiên cứu một cách có hệ thống nội dung
và biện pháp nhằm tháo gỡ các vướng mắc, tiến tới hoàn thiện công tác tín dụng ngân
hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh cho phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường
là một vấn đề hết sức hấp dẫn và cần thiết.
Với suy nghĩ đó, cùng với những kiến thức được trang bị qua 3 năm học tại trường
Đại học kinh tế quốc dân, , em mạnh dạn chọn nghiên cứu chuyên đề: "Một số giải pháp
nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại
sở giao dịch I ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam”.
Chuyên đề này gồm 3 chương:
Chương I - Tín dụng và tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển của khu vực kinh
tế ngoài quốc doanh.
Chương II - Thực trạng cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Sở
giao dịch I ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam”.
Chương III - Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng
ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại sở giao dịch I ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
chương I
tín dụng và tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh
I- Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh
1. Vai trò của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đối với nền kinh tế.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI với chủ trương của Đảng và nhà nước chuyển
đổi nền kinh tế từ cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều
tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã gạt bỏ mọi quan niệm bảo thủ,
cứng nhắc và khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển. Với chính sách kinh tế
nhiều thành phần đã khơi dậy tiềm năng và sức sáng tạo của nhân dân, tạo nên sức bật
cho nền kinh tế đã có tác dụng to lớn đến việc giải phóng sức lao động, sáng tạo, tự chủ
cho mọi người lao động, làm cho mọi hoạt động của nền kinh tế ngày càng đa dạng và
phong phú, đáp ứng đầy đủ và kịp thời những biến động về hàng hoá và dịch vụ của toàn
xã hội.
Chính sách và chủ trương mới của Đảng và Nhà nước trong việc chuyển đổi nền
kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thi trường đã tạo tiền đề khách quan
cho sự khôi phục và phát triển nhanh chóng khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Kinh tế
ngoài quốc doanh là thành phần kinh tế được phân định dựa vào tính chất sở hữu về tư
liệu sản xuất không có sở hữu Nhà nước và chỉ có trong nền kinh tế thị trường mới tạo
được môi trường kinh doanh thuận lợi cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tự
khẳng định mình. Trong nền kinh tế thị trường, mọi chủ thể tham gia vào thị trường cho
dù kinh tế quốc doanh hay kinh tế ngoài quốc doanh đều chịu sự chi phối và điều tiết bởi
hàng loạt các qui luật của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Cơ chế thị trường đánh giá và
chấp nhận các thành viên tham gia thị trường không phải căn cứ vào tính chất sở hữu về
tư liệu sản xuất mà căn cứ vào kết quả kinh doanh của các thành viên, các thành viên đều
bình đẳng trong sự sàng lọc cuả cơ chế thị trường. Trong môi trường kinh doanh đó, kinh
tế ngoài quốc doanh với tính tự chủ, năng động và sáng tạo sẽ nhanh chóng thích nghi với
những biến đổi thường xuyên của thị trường, ngày càng tự khẳng định mình trong sự
chuyển biến của nền kinh tế, đóng góp phần lớn vào công cuộc chuyển mình của đất
nước. Trong lĩnh vực công nghiệp khối lượng sản phẩm do các công ty tư nhân, cổ phần,
trách nhiệm hữu hạn, liên doanh, 100% vốn nước ngoài, hộ cá thể sản xuất nhỏ, hợp tác
xã... sản xuất ra đạt tỷ trọng lớn trong tổng sản lượng của toàn nghành công nghiệp. Sự
phát triển của lực lượng vận tải ngoài quốc doanh nhanh chóng trong những năm gần đây
đã góp phần thúc đẩy giao lưu kinh tế giữa các vùng một cách thuận lợi và nhanh chóng.
Trong lĩnh vực xây dựng kinh tế ngoài quốc doanh cũng chiếm 2 - 6%, còn trong lĩnh vực
thương mại, dịch vụ, khách sạn kinh tế ngoài quốc doanh chiếm đa số từ 50 - 70%. Qua
đó ta thấy khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là một khu vực rộng lớn và quan trọng trong
tổng thể thống nhất của nền kinh tế nước ta. Nó đã có mặt ở hầu hết các lĩnh vực hoạt
động của nền kinh tế và bao gồm nhiều thành phần kinh tế với lực lượng sản xuất lớn
mạnh góp phần quan trọng trong việc tạo ra của cải của xã hội. Kinh tế ngoài quốc doanh
cũng đã đóng góp lớn cho tổng sản phẩm xã hội và tạo ra nhiều công ăn việc làm cho đất
nước.
*Thực trạng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh hiện nay:
Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 1996 theo tinh thần Nghị quyết đại hội
Đảng lần thứ VIII được triển khai trong môi trường tương đối thuận lợi, thế lực của đất
nước đã tăng lên đáng kể sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới. Theo ước tính ban
đầu, tổng sản phẩm trong nước tăng trên 9,34% so với năm 1995, sản xuất công nghiệp
duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, ước tính cả năm giá trị sản xuất của toàn ngành tăng
14,1% so với năm 1995. Trong đó khu vực ngoài quốc doanh tăng 12,4%, khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài tăng 21,4%. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh đặc
biệt, một số ngành có tỷ trọng lớn như lắp ráp đồ điện tử, sản xuất thiết bị điện, dệt và
may mặc. Trong khu vực này tính đến cuối năm 1996 đã có 552 dự án cho sản phẩm với
tổng số vốn kinh doanh là 6,9 tỷ USD thuộc 25 trong số 29 ngành công nghiệp cấp 2.
Trong năm qua các cơ sở này đã tạo ra 25,1% giá trị sản xuất của toàn ngành công
nghiệp. Trong một số ngành, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng khá cao:
100% trong ngành dầu khí, gần 40% trong ngành da, 18% trong ngành thực phẩm và đồ
uống, 16% trong ngành may mặc...
Công nghiệp kinh tế ngoài quốc doanh có vốn đầu tư trong nước tăng trưởng
không đều. Công nghiệp tư nhân tăng 49,7%, các doanh nghiệp hỗn hợp sở hữu tăng 37%
so với năm trước, hộ cá thể chỉ tăng 1% và hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp giảm 0,9%
với nguyên nhân chủ yếu là do phương hướng sản xuất của các hợp tác xã và hộ cá thể
chưa rõ ràng, trình độ trang bị kỹ thuật còn thấp kém.
Trong năm 1998, với sự ảnh hưởng cuả cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực,
nền kinh tế nước ta cũng gặp phải những khó khăn, mức tăng tổng sản phẩm giảm xuống
còn 6%, giảm 3% so với năm 1997.
Sản xuất công nghiệp cả năm là 11,5% ,giảm 1,7% so với năm 1997 trong đó khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh có vốn đầu tư trong nước hầu như không tăng, khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài tăng rất ít. Khu vực công nghiệp có vốn đầu tư trong nước đã xuất
hiện xu hướng tăng chậm dần. Mặc dù trong những năm qua khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh đạt được mức độ tăng trưởng tương đối cao, giải quyết nhiều công ăn việc làm cho
người lao động. Nhưng mức tăng trưởng đó có xu hướng tăng chậm lại do một số nguyên
nhân khác nhau. Ta có thể khái quát một số trở ngại cản trở sự phát triển của khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh.
Thứ nhất là: do thiếu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, đặc biệt là khu vực có vốn đầu tư trong nước
do không có quá trình tích tụ và tập trung vốn nên hầu hết các doanh nhiệp này đều khởi
sự với số vốn ít ỏi, chủ yếu bằng nguồn vốn tự có của mình và vay mượn bạn bè, người
thân. Tín dụng ngân hàng có vai trò thấp trong việc thúc đẩy sự ra đời của các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh. Điều đó có thể do một số nguyên nhân sau:
- Thời hạn cho vay quá ngắn so với chu kỳ sản xuất kinh doanh.
- Cơ chế lãi suất chưa hợp lý, có thể vẫn còn cao hơn mức doanh lợi của các doanh
nghiệp.
- Mối quan hệ giữa khu vực kinh tế ngoài quốc doanh với ngân hàng còn lỏng lẻo.
Thứ hai là: trình độ công nghệ sản xuất thấp, lạc hậu.
Trình độ công nghệ quyết định đến năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh
của sản phẩm trên thị trường. Hiện tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có công nghệ
tiên tiến, hiện đại không nhiều, chỉ có một số công ty liên doanh, công ty có vốn đầu tư
nước ngoài mới được trang bị máy móc dây chuyền mới, còn hầu hết các doanh nghiệp có
vốn đầu tư trong nước còn sử dụng công cụ thủ công, dây chuyền thiết bị chắp vá thiếu
đồng bộ. Việc nâng cao trình độ công nghệ của các doanh nghiệp này gặp các trở ngại
sau:
- Khả năng mở rộng vốn của các doanh nghiệp, hộ kinh doanh còn rất hạn chế như
đã được đề cập ở trên.
- Thiếu thông tin về công nghệ, các dịch vụ tư vấn về công nghệ kém phát triển,
năng lực tiếp thu và sử dụng công nghệ tiên tiến còn hạn chế.
- Thiếu một chiến lược qui hoạch tổng thể phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh để hỗ trợ đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ cho các doanh nghiệp.
- Môi trường sản xuất trong thời gian qua đã tạo sự e ngại, thiếu tự tin và quyết
tâm trong các quyết định đổi mới công nghệ.
Thứ ba là: thị trường tiêu thụ sản phẩm nhỏ bé bấp bênh.
Khi sản xuất ra được sản phẩm, các chủ doanh nghiệp lại có một mối lo lớn là
không tiêu thụ được sản phẩm do có không ít sản phẩm nhập ngoại chất lượng khá hơn
nhưng giá lại rẻ hơn. Trong những năm qua do không cạnh tranh nổi với hàng nhập lậu
mà nhiều doanh nghiệp đã phải ngừng hoạt động.
Thứ tư là: do trình độ và kỹ năng của người lao động còn thấp, gắn liền với trình
độ công nghệ thấp trong các doanh nghiệp thuộc khu kinh tế ngoài quốc doanh là lực
lượng lao động với trình độ tay nghề không cao. Chỉ có một số ít các doanh nghiệp có thể
thu hút được lực lượng lao động với tay nghề cao còn nhìn chung trình độ tay nghề của
lao động trong các doanh nghiệp này còn rất thấp.
2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động kinh tế ngoài quốc doanh.
2.1. Khái niệm và sự ra đời của tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ra đời từ rất lâu, từ khi chế độ nguyên thuỷ tan rã, có sự phân công lao
động và trao đổi hàng hoá thì tín dụng đã được hình thành và bước đầu phát triển. Tín
dụng, đó là quan hệ xã hội tạo nên sự nợ nần lẫn nhau giữa người đi vay và cho vay.
Trong đó: người cho vay tạm thời chuyển quyền sử dụng một số tiền nào đó cho người đi
vay trong một thời gian nhất định nhưng vẫn giữ quyền sở hữu đối với số tiền đó. Người
đi vay sau đó phải trả cho người cho vay số tiền gốc và một số tiền nhất định gọi là lãi.
Điều này cho thấy tín dụng là quan hệ vay mượn có hoàn trả.
Hình thức tín dụng đầu tiên ra đời là tín dụng nặng lãi mà đặc trưng của nó là cho
vay với lãi suất rất cao và chủ yếu là tín dụng cho tiêu dùng. Trải qua các thời kỳ phát
triển, khi có sự phân biệt giữa sản xuất, tiêu thụ và do tính thời vụ trong sản xuất, mua
bán sản phẩm thì quan hệ tín dụng thương mại xuất hiện. Đó là quan hệ tín dụng bằng
hàng hoá giữa những doanh nghiệp hoạt động trực tiếp trong lĩnh vực sản xuất lưu thông
hàng hoá, được hình thành trên cơ sở mua bán chịu hàng hoá. Tín dụng thương mại một
mặt đáp ứng được nhu cầu vốn của những doanh nghiệp tạm thời thiếu đồng thời giúp
cho các doanh nghiệp tiêu thụ được sản phẩm hàng hoá của mình. Mặt khác hình thức tín
dụng này giúp cho các doanh nghiệp chủ động khai thác được vốn nhằm đáp ứng kịp thời
nhu cầu sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sản xuất lưu thông hàng hoá phát triển.
Tuy nhiên, tín dụng thương mại bị hạn chế về phạm vi qui mô, về thời hạn và chiều
hướng của quan hệ tín dụng. Nghĩa là, tín dụng thương mại chỉ có thể thực hiện giữa
những người có quan hệ giao dịch thường xuyên trong phạm vi quan hệ mua bán chịu
hàng hoá đã thực hiện; vốn cho vay là một bộ phận nằm trong chu kỳ của người cho vay
nên không thể kéo dài thời hạn.
Từ đó, tín dụng ngân hàng ra đời khắc phục được các hạn chế của tín dụng thương
mại nhưng cũng đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của tín dụng thương
mại.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ của một bên là ngân hàng,
một tổ chức chuyên kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ với một bên là tất cả các tổ chức, cá
nhân trong xã hội trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay, vừa là người cho
vay.
Khắc phục được những hạn chế của tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng ngày
càng phát triển mạnh, phạm vi hoạt động ngày càng rộng và trở thành hình thức tín dụng
chủ yếu trong nền kinh tế. Và nó luôn phát huy được vai trò đáp ứng nhu cầuvề vốn để
duy trì và mở rộng quá trình tái sản xuất đồng thời được sử dụng như một công cụ tài trợ
cho những ngành kinh tế khác phát triển theo yêu cầu phát triển kinh tế của nhà nước.
2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh:
Vốn là một phạm trù của kinh tế hàng hoá, là một trong những yếu tố quyết định
sản xuất và lưu thông hàng hoá. Để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp đều phải tính
toán sao cho sử dụng vốn có hiệu quả nhất, tăng nhanh vòng quay của vốn. Trong nền
kinh tế thị trường việc xây dựng và phát triển vốn của các doanh nghiệp là không đơn
giản, bởi vì nó bị chi phối bởi nhiều yếu tố như cơ chế quản lý của Nhà nước, trí tuệ, tài
năng của chủ doanh nghiệp và sự xuất hiện các cơ hội “vàng” của nền kinh tế thị trường.
Vì vậy có nhiều doanh nghiệp ăn nên làm ra, trong khi đó có không ít doanh nghiệp bị
mất vốn dẫn đến phá sản. Tuy nhiên vốn vẫn là điều kiện tiên quyết cho mọi loại hình sản
xuất kinh doanh và câu hỏi luôn đặt ra đối với các nhà sản xuất kinh doanh là tìm nguồn
vốn ở đâu với chi phí thấp nhất. Đây thực sự là một vấn đề khó khăn đối với các doanh
nghiệp nói chung và càng phức tạp hơn với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Kể từ khi nền kinh tế nước ta được cải cách, môi trường kinh tế, chính trị xã hội ổn
định đã tạo được niềm tin và làm chỗ dựa vững chắc cho sự phát triển của khu vực kinh
tế ngoài quốc doanh. Thành phần kinh tế này ở nước ta chủ yếu hình thành từ các doanh
nghiệp Nhà nước chuyển đổi sở hữu, từ sự phá sản của các tổ chức kinh tế tập thể, tổ hợp
tác được xắp xếp lại, từ một số cá nhân bỏ vốn ra kinh doanh. Mặt khác lại ra đời trong
nền kinh tế hậu chiến, phát triển qua nhiều giai đoạn thăng trầm, không có quá trình tích
tụ vốn và tập trung vốn nên vốn của các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh rất nhỏ bé và
nghèo nàn. Điều đó gây khó khăn trong việc mở rộng kinh doanh, giảm sức cạnh tranh,
ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của các đơn vị trong khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh. Tình trạnh thiếu vốn xảy ra ở hầu hết các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và
không phải chỉ ở thời điểm thành lập doanh nghiệp mà còn diễn ra trong quá trình sản
xuất. Do nguồn vốn của các doanh nghiệp này chủ yếu là vốn tự có, nguồn vốn bên ngoài
chiếm tỷ trọng rất ít và hầu như vốn của họ nằm dưới dạng máy móc, thiết bị, nhà xưởng
vì vậy khi tiến hành hoạt động sản xuất hay đầu tư mở rộng thì các doanh nghiệp này phải
cần đến sự hỗ trợ từ bên ngoài. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhất là khu vực
ngoài quốc doanh có vốn đầu tư trong nước có cơ sở vật chất nhỏ bé, cho nên mức độ tin
cậy trong quan hệ kinh tế với thành phần kinh tế khác cũng như với ngân hàng còn thấp,
do đó gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm nguồn vốn có lãi suất hợp lý hoặc vay vốn
ngân hàng. Việc thiếu vốn để đầu tư cùng với trình độ trang bị kỹ thụât còn thấp kém,
công nghệ chắp vá, thiếu đồng bộ đã làm giảm ưu thế của các đơn vị doanh nghiệp ngoài
quốc doanh và cản trở sự phát triển của nó. Tuy nhiên, trong những năm gần đây với cơ
chế quản lý kinh tế mới của Đảng và Nhà nước thì những khó khăn trong công tác huy
động vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã từng bước được giải quyết và sự
phát triển của thành phần kinh tế này không thể thiếu được sự hợp tác của các ngân hàng
thương mại.
Trong nền kinh tế thị trường, các ngân hàng thương mại với tư cách là một trung
gian tài chính, có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của kinh tế nói
chung và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng. Các ngân hàng thương mại hoạt
động với mục tiêu xuyên suốt của mình là tập trung tích tụ nguồn vốn để đáp ứng cho nền
kinh tế. Với nguồn vốn huy động được từ các thành phần kinh tế, thông quan hoạt động
tín dụng ngân hàng, các ngân hàng có thể đáp ứng được nhu cầu về vốn của các thành
phần kinh tế với qui mô lớn và trong thời gian dài, đảm bảo cho quá trính sản xuất được
diễn ra liên tục. Tính hoàn trả và có lợi tức là đặc trưng cơ bản của tín dụng ngân hàng,
nó vừa kích thích việc sử dụng vốn có hiệu quả, buộc người sản xuất kinh doanh phải
nâng cao trách nhiệm khi sử dụng vốn của ngân hàng. Người vay phải luôn quan tâm đến
việc tính toán tiết kiệm chi phí, tăng nhanh vòng quay của vốn để nâng cao lợi nhuận,
đảm bảo hoàn trả cả vốn và lãi đúng hạn cho ngân hàng. Thông qua tín dụng ngân hàng
có thể tham gia vào các hoạt động của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, tăng
cường sử dụng vốn đúng mục đích, hạn chế kinh doanh bất hợp pháp của các doanh
nghiệp. Hiện nay chỉ có khoảng 30% vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đầu tư
vào sản xuất còn lại phần lớn tập trung vào lĩnh vực thương nghiệp và dịch vụ. Thông qua
định hướng các doanh nghiệp vay vốn đầu tư vào các ngành sản xuất là lĩnh vực sản xuất
nhà nước mong muốn. Quá trình đầu tư vốn tín dụng của ngân hàng không phải trải đều
cho các chủ thể có nhu cầu mà nhủ yếu tập trung cho những khách hàng hoạt động có
hiệu quả. Điều đó thúc đẩy quá trình tập trung vốn, giảm bớt tình trạng kinh doanh phân
tán, lẻ tẻ trong nền kinh tế và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
tăng sức cạnh tranh của mình trên thị trường.
* Hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh:
Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, cùng với sự ổn định
về chính trị đã tạo điều kiện khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển. Vì vậy mà
tốc độ tăng trưởng kinh tế ở nước ta trong những năm gần đây là tương đối cao, bên cạnh
đó phải kể đến khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Sự phát triển của nền kinh tế
làm cho nguồn vốn huy động được của các ngân hàng ngày càng tăng. Do ngân hàng
thương mại là một tổ chức kinh doanh hàng hoá đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ
nên khi đã có được đầu vào (huy động được tiền gửi) thì ngân hàng phải tìm được đầu ra,
tức là tìm khách hàng để đầu tư cho vay.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bị
gạt ra khỏi danh sách khách hàng của các ngân hàng thương mại. Khách hàng chủ yếu
của các ngân hàng lúc này là các đơn vị quốc doanh, toàn bộ vốn của ngân hàng được
dùng để đầu tư cho các đơn vị quốc doanh theo kế hoạch của Nhà nước, việc thua lỗ của
các ngân hàng được Nhà nước cấp bù. Hiện nay các ngân hàng đã chuyển sang chế độ
hạch toán kinh doanh độc lập, với phương châm “đi vay để cho vay” đòi hỏi các ngân
hàng phải thực sự năng động trong kinh doanh, phải quan tâm đến cả đầu vào và đầu ra,
bảo đảm tự trang trải mọi chi phí hoạt động và có lãi.
Mặt khác trong nền kinh tế thị trường, hiện nay ở nước ta các doanh nghiệp Nhà
nước cũng phải kinh doanh độc lập, tự chịu trách nhiệm về hoạt động sản xuất kinh doanh
của mình. Cùng với sự khắt khe của cơ chế thị trường đã buộc các doanh nghiệp Nhà
nước khi vay vốn phải tính toán xem khi nào cần vay vốn, khối lượng vay bao nhiêu,
không thể vay tràn lan như trước nữa do phải tự gánh chịu và trang trải công nợ cho ngân
hàng. Đồng thời với cơ chế tự đào thải của nền kinh tế thị trường, nhiều doanh nghiệp
quốc doanh đã không trụ được và bị phá sản, điều đó làm cho số lượng khách hàng của
các ngân hàng giảm đi trong khi nguồn vốn huy động được từ nền kinh tế ngày một tăng.
Cùng với sự phá sản và giải thể của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì trong nền
kinh tế lại xuất hiện một chủ thể kinh doanh mới với cách làm ăn năng động, linh hoạt và
đầy sáng tạo như các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty liên doanh. .
. Ngân hàng cũng như các doanh nghiệp khác, để tồn tại và phát triển được đòi hỏi ngân
hàng kinh doanh phải có hiệu quả, huy động được đầu vào thì phải tìm được các yếu tố
đảm bảo đầu ra. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng được các ngân hàng chú
ý hơn, thực tế cho thấy nếu ngân hàng nào có quan hệ tín dụng với thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh thì hiệu quả đồng vốn mang lại sẽ cao hơn. Tuy mới bước đầu triển
khai việc cho vay của các ngân hàng thương mại với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
nhưng đã cho thấy một kết quả đáng khích lệ, do tăng thêm một khối lượng lớn khách
hàng nên đã giảm được một số lượng vốn lớn dư thừa, hiệu quả tín dụng cao hơn. Theo
dự đoán của Tổng cục thống kê thì từ nay đến năm 2000 số vốn của các đơn vị ngoài
quốc doanh của người Việt Nam sẽ tăng nhanh cả về số tuyệt đối và tỷ trọng trong tổng
số các nguồn đầu tư trong nước. Như vậy khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta
chứa đựng trong mình những tiềm năng lớn mà khi được chú ý và đầu tư của các ngân
hàng sẽ mở ra một thị trường tín dụng vững chắc và rộng lớn trong tương lai. Mở rộng
cho vay với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh không chỉ là một biện pháp mở rộng thị
trường đầu tư của các ngân hàng mà còn tạo điều kiện phát triển mối quan hệ kinh tế giữa
ngân hàng với khu vực kinh tế này, mở rộng thị trường huy độngvốn của các ngân hàng
thương mại thông qua đó đẩy mạnh các nghiệp vụ khác của ngân hàng.
ii- Các hình thức tín dụng ngân hàng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, đã xuất hiện rất nhiều các hình thức tín
dụng mới. Trong nền kinh tế thị trường, với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, các ngân
hàng thương mại luôn tìm cách tạo ra những hình thức tín dụng mới phù hợp và đáp ứng
các nhu cầu của quá trình tái sản xuất nhằm làm đa dạng hoá các hình thức cho vay để mở
rộng tín dụng, thu hút khách hàng, tăng lợi nhuận và giảm rủi ro cho ngân hàng.
Theo tính chất đặc điểm của nghiệp vụ cho vay ta có thể chia ra các hình thức tín
dụng sau:
1. Cho vay luân chuyển.
Cho vay luân chuyển là hoạt động cấp tín dụng, trong đó ngân hàng cho phép
khách hàng được vay mượn thường xuyên của ngân hàng với nội dung đã thoả thuận
trong hợp đồng tín dụng. Ngân hàng mở cho khách hàng một tài khoản lưỡng hệ vừa dư
nợ, vừa dư có (tài khoản vãng lai). Trong đó toàn bộ thu nhập của người vay được nhập
vào bên có của tài khoản và toàn bộ chi tiêu của người vay được trích từ bên nợ tài khoản.
Trong hình thức tín dụng này, ngân hàng chỉ khống chế số dư nợ mà không khống chế
doanh số cho vay. Người vay có thể sử dụng vốn vay dưới nhiều hình thức khác nhau như
rút tiền mặt, phát séc, chuyển khoản hay mua chứng khoán. Điều kiện để ngân hàng cho
vay luân chuyển là người vay phải có tài sản thế chấp, cầm cố. Cho vay luân chuyển
thường là cho vay ngắn hạn với các thời hạn chủ yếu thường là 3 hoặc 6 tháng.
2. Tín dụng chiết khấu.
Trong các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, kỳ phiếu thương mại được
phát hành và lưu thông theo qui định của pháp luật, người có kỳ phiếu chưa đến hạn
thanh toán, nếu cần tiền họ có thể đem bán cho ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương
mại mua kỳ phiếu đó với giá bằng mệnh giá đáo hạn của kỳ phiếu trừ đi lợi tức, hoa hồng
và các khoản lãi chiết khấu. Quan hệ mua bán kỳ phiếu giữa các ngân hàng với chủ kỳ
phiếu được gọi là hình thức tín dụng chiết khấu. Thường thì các ngân hàng thương mại
chỉ chiết khấu các loại kỳ phiếu mà thời hạn còn lại của kỳ phiếu từ 3 đến 6 tháng.
3. Tín dụng nhận trả.
Để đảm bảo cho người sở hữu chắc chắn được thanh toán, nhà phát hành có thể
thương lượngvới các ngân hàng nhận trả thay kỳ phiếu cho mình. Khi đến hạn trả nếu
người phát hành ký phiếu không có khả năng trả nợ thì ngân hàng phải trả nợ. Vì vậy mà
người phát hành kỳ phiếu phải mất một tỷ lệ hoa hồng “ nhận trả” cho nhà ngân hàng.
Trước khi thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng phải kiểm tra khả năng trả nợ, năng lực
tài chính của người phát hành kỳ phiếu, khi đến hạn thanh toán của kỳ phiếu thì người
phát hành phải nộp tiền cho ngân hàng nhận trả.
4. Tín dụng cầm đồ.
Đây là khoản tín dụng ngân hàng cấp cho khách hàng có thể chấp nhận bằng các
tài sản thế chấp, cầm cố. Tín dụng cầm đồ cho vay thời gian ngắn hạn và mang tính thời
vụ. Giá cả tín dụng cầm đồ gồm: lãi và các dịch vụ chi phí. Tín dụng cầm đồ là loại cho
vay rất phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn đa năng của nền kinh tế thị trường. Loại hình tín
dụng này nhằm mở rộng và đa dạng hoá hình thức bảo đảm tiền vay.
5. Tín dụng trả nhiều lần.
Đây là loại cho vay mà khoản nợ gốc và lãi được trả nhiều thời hạn, mỗi thời hạn
trả một phần. Đây là hình thức tín dụng rất phù hợp với đặc điểm sử dụng vốn, của người
vay, nó vừa kích thích được tiêu thụ hàng hoá, vừa mở rộng sản xuất và khuyến khích
tiêu dùng.
6.Tín dụng bảo lãnh.
Tín dụng bảo lãnh là loại cho vay phát sinh do ngân hàng nhận thanh toán cho
người bán hàng trong trường hợp người mua (người được ngân hàng bảo lãnh) không có
khả năng thanh toán số nợ này ngân hàng sẽ thu dịch vụ phí bảo lãnh từ khách hàng, mức
thu phụ thuộc vào nhu cầu bảo lãnh và thời hạn bảo lãnh vay. Thời hạn bảo lãnh có thể
ngắn, trung và dài hạn. Tín dụng bảo lãnh có vai trò rất quan trọng trong trường hợp các
khoản thu, các khoản chi của khách hàng không ăn khớp nhau, các nhà sản xuất vẫn bảo
đảm được hoạt động sản xuất liên tục thông qua hoạt động tín dụng bảo lãnh. Các nguồn
đầu vào và đầu ra của nhà sản xuất được thực hiện một cách nhịp nhàng hơn.
7. Tín dụng thuê mua
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hình thức tín dụng thuê mua cũng ngày
càng phong phú hơn. Đây là hình thức tín dụng ngân hàng cho người khác sử dụng tài sản
của người cho thuê, với những điều đã được cam kết ghi trong hợp đồng. Hết thời hạn
thuê bên thuê phải trả lại tài sản đó cho người cho thuê hoặc có thể cho luôn lại tài sản đó.
Tín dụng thuê mua phát triển một cách nhanh chóng trong nền kinh tế thị trường, nó giúp
cho các doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất lựa chọn dây chuyền thiết bị phù hợp với
mình. Các chủ cho thuê có thể là ngân hàng trực tiếp hoặc các công ty con của ngân hàng
hoặc các công ty chuyên doanh thuê mua độc lập. Thời gian cho thuê có thể là ngắn,
trung và dài hạn nhưng phổ biến là trung và dài hạn.
Qua các hình thức tín dụng trên, cho chúng ta thấy tín dụng là một sản phẩm hàng
hoá của ngân hàng thương mại trên thị trường. Nền kinh tế ngày càng phát triển thì nhu
cầu về tín dụng ngày càng đa dạng. Đó là sản phẩm hàng hoá độc đáo, tuyệt vời trên thị
trường vốn để các nhà sản xuất kinh doanh và các tầng lớp dân cư lựa chọn.
Chương II
Thực trạng cho vay đối với
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
ở sở giao dịch I ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn việtNam
I- Giới thiệu chung về sở giao dịch I ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Việt Nam
1. Tổ chức và chức năng hoạt động.
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam gọi tắt là Ngân hàng
Nông nghiệp, hoạt động theo mô hình tổng công ty Nhà nước qui định số 90/TT ngày
07/03/1994 của Thủ tướng Chính phủ và theo điều lệ do Thống đốc ngân hàng Việt Nam
phê chuẩn trên cơ sở kế thừa ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam (thành lập ngày
14/01/1990 theo qui định số 400/CP của Thủ tướng Chính phủ)
Tên giao dịch quốc tế của ngân hàng là Việt Nam Bank For Agriculture and Rural
Development (tên viết tắt VBARD) với số vốn điều lệ là 2200 tỷ đồng Việt Nam.
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam là doanh nghiệp Nhà
nước kinh doanh tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng đối với các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước, làm uỷ thác các nguồn vốn trung , dài và
ngắn hạn của Chính phủ, các tổ chức kinh tế xã hội, cá nhân trong và ngoài nước, thực
hiện tín dụng tài trợ cho nông nghiệp và nông thôn.
Sở giao dịch I ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam được
thành lập theo quyết định ngày 25/11/1990 của Tổng Giám đốc ngân hàng Nông nghiệp
và phát triển nông thôn Việt Nam, là một bộ phận thuộc trung tâm điều hành ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
Sở giao dịch I là một pháp nhân tự chủ tài chính, tự chịu trách nhiệm về kết quả
kinh doanh và những cam kết của mình, có bảng tổng kết tài sản và con dấu riêng; hoạt
động trong khuôn khổ pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính, theo
qui định của Tổng Giám đốc ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
Sở giao dịch I đặt tại số 4 Phạm Ngọc Thạch-Đống Đa-Hà Nội, tài khoản tiền gửi
thanh toán mở tại ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Thực hiện chức năng của một ngân hàng thương mại, sở giao dịch đi vào hoạt
động với nhiệm vụ được giao là:
- Là nơi thử nghiệm các văn bản, thể lệ, chế độ nghiệp vụ mới của Trung ương để
rút kinh nghiệm, hướng dẫn thực hiện chung trong toàn hệ thống.
- Theo dõi chỉ đạo thực hiện các cơ chế mới của ngành, điều hòa điều chuyển vốn
đối với 23 chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp tỉnh, thành phố, khu vực phía Bắc (từ Hà
Tĩnh trở ra).
- Quản lý, đầu tư và cho vay đối với những doanh nghiệp lớn đầu ngành thuộc Bộ
nông lâm ngư nghiệp đóng trên địa bàn Hà Nội.
Ra đời và được tiếp cận ngay với nền kinh tế thị trường, sau hơn 7 năm hoạt động
vừa làm vừa rút kinh nghiệm, đến nay bộ máy tổ chức của sở giao dịch I đã khá hoàn
chỉnh với 4 phòng ban (Phòng kinh doanh, phòng kế toán, phòng ngân quỹ, phòng hành
chính và kiểm soát)
Từ năm 1995 trở đi, sở hoạt động với 2 chức năng chính là:
- Thực hiện nhiệm vụ thanh toán và điều chuyển vốn theo lệnh của Tổng Giám đốc
ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, là đầu mối xử lý các nghiệp
vụ thanh toán giữa các chi nhánh của ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Việt Nam trong toàn hệ thống, quan hệ với ngân hàng Nhà nước và ngân sách nhà nước.
- Trực tiếp kinh doanh tiền tệ, tín dụng trên địa bàn Hà Nội
* Nhiệm vụ của phòng kế toán:
+ Thực hiện các lệnh của trung tâm điều hành, hạch toán, điều chuyển vốn các loại
cho các cơ sở, chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp trong toàn hệ thống, các công ty trực
thuộc và ngân hàng phục vụ người nghèo.
+ Tổ chức thanh toán vốn trong nội bộ hệ thống ngân hàng Nông nghiệp trong cả
nước.
+ Tổ chức thanh toán cho khách hàng có quan hệ giao dịch tại sở.
+ Làm các dịch vụ khác theo yêu cầu của khách hàng.
+ Tập hợp số liệu, cân đối kế toán theo chế độ kế toán thống kê.
* Nhiệm vụ của phòng kế hoạch kinh doanh.
+ Huy động vốn.
+ Tập trung khai thác nguồn vốn để đầu tư tại chỗ cho các đơn vị, các tổ chức kinh
tế, các hộ sản xuất kinh doanh có nhu cầu vay vốn và chuyển vốn lên Trung ương góp
phần cân đối chung cho toàn nghành.
+ Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp Nhà nước, các tổ
chức kinh tế ngoài quốc doanh.
+ Thẩm định các dự án đầu tư vốn theo chỉ định của Chính phủ.
+ Xây dựng kế hoạch kinh doanh tín dụng hàng tháng, quí, năm.
+ Tập hợp số liệu cho thông tin rủi ro và báo cáo thông kê định kỳ.
+ Xây dựng kế hoạch thông tin tiếp thị mở rộng mạng lưới.
+ Kinh doanh ngoại tệ và tổ chức thanh toán quốc tế.
+ Xây dựng kế hoạch kinh doanh và điều hành kế hoạch.
* Nhiệm vụ của phòng ngân quĩ.
+ Kiểm, đếm, bảo quản, thu chi tiền mặt.
+ Điều chuyển tiền.
+ Bảo quản các chứng từ và tài sản có giá.
* Nhiệm vụ của phòng hành chính và kiểm soát.
+ Kiểm tra chặt chẽ các hoạt động kinh doanh của sở nhằm đảm bảo sự chấp hành
nghiêm chỉnh chính sách pháp luật của Nhà nước và chế độ, thể lệ của ngành để nâng cao
chất lượng kinh doanh, đảm bảo an toàn cho con người, tài sản và giữ uy tín cho ngành.
+ Giúp ban giám đốc chăm lo đời sống cán bộ.
- Đối tượng phục vụ chủ yếu của sở giao dịch I ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển nông thôn Việt Nam là các doanh nghiệp Nhà nước lớn đầu ngành trên địa bàn thành
phố Hà Nội. Bên cạnh đó sở cũng đang ngày càng mở rộng thị trường kinh doanh đối với
các ngành, các thành phần kinh tế khác thoả mãn kịp thời mọi nhu cầu tín dụng thanh
toán của các tổ chức kinh tế và các tầng lớp dân cư.
Đến cuối năm 1996 sở giao dịch có 3 chi nhánh trực thuộc:
+ Chi nhánh số 1: địa điểm 23 đường Nguyễn Trãi.
+ Chi nhánh số 2: địa điểm 293 Tây Sơn.
+ Chi nhánh số 3 địa điểm C4 Thành Công.
Do hoạt động không có hiệu quả, sở đã quyết định rút chi nhánh số 1 và số 3. Hiện
nay, sở chỉ có một chi nhánh ở số 293 Tây Sơn. Hoạt động chủ yếu của chi nhánh này là:
huy động vốn bằng nhiều hình thức, đầu tư tín dụng với kinh tế ngoài quốc doanh với
biên chế tổ chức của một ngân hàng cấp 4.
2. Sơ lược về hoạt động kinh doanh của sở giao dịch I.
Đối với nhiệm vụ được giao và các mục tiêu kế hoạch các năm từ 1994 đến nay, sở
giao dịch I liên tục hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao cho và hoàn thành vượt mức kế
hoạch, mức sinh lời năm sau cao hơn năm trước, tỷ lệ nợ quá hạn thấp. Cụ thể:
2.1. Thực hiện nhiệm vụ hạch toán, điều chuyển vốn theo lệnh của Tổng Giám đốc ngân
hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
Thực hiện lệnh của trung tâm điều hành, sở I đã tổ chức hạch toán, điều chuyển
vốn đến các sở, chi nhánh trong toàn hệ thống, điều chuyển vốn đến các công ty trực
thuộc trung tâm điều hành, các chương trình đầu tư vốn theo chỉ định của Chính phủ, các
dự án đầu tư của các tổ chức trong nước và nước ngoài, bảo đảm vốn thanh toán cho
khách hàng của toàn hệ thống có quan hệ với các ngân hàng thương mại quốc doanh,
ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, ngân hàng nước ngoài có trụ sở
trên địa bàn Hà Nội, doanh số hoạt động trên lĩnh vực này tăng nhanh qua các năm cụ thể
như sau:
Biểu 1:
Đơn vị: Tỷ đồng.
1995 1996 1997 1998
- DS thanh toán với các TCTD 3.321 7.148 8.595 6.393
- DS TT LH đi bên có 50 2.202 5.343 5.875
- DS TT LH đến bên có 1.231 26.207 34.948 51.898
- DS TT LH đến bên nợ 1.478 26269 34.715 52.224
- DS điều chuyển vốn bên có 1.326 1.040 14.226 20.984
- DS điều chuyển vốn bên nợ 873 1.039 14.279 20.999
Nguồn: báo cáo tổng kết hàng năm của SGDI - NHNNo & PTNT VN.
Cùng với nhiệm vụ thực hiện các lệnh hạch toán, điều chuyển vốn, thanh toán với
các ngân hàng trên địa bàn, sở giao dịch I phối hợp chặt chẽ với các ban, phòng có liên
quan của trung tâm điều hành theo dõi sát số dư tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước thành
phố Hà Nội và sở giao dịch ngân hàng Nhà nước Trung ương để xử lý vốn thanh toán kịp
thời hoặc ký nhận tiền vay của ngân hàng Trung ương, các tổ chức tín dụng đúng lúc cần
thiết nhằm tiết giảm chi phí chung nhưng bảo đảm đủ vốn thanh toán trong mọi tình
huống giữ được uy tín cho toàn hệ thống.
Theo chủ trương chỉ đạo của trung tâm điều hành, sở bố trí nhân lực tổ chức thực
hiện tốt việc chuyển tiền liên ngân hàng, chuyển lỗ, lãi của các đơn vị trong hệ thống, bố
trí cán bộ cung cấp số liệu, chứng từ cho các đoàn kiểm tra, thanh tra, kiểm toán theo lệnh
của Tổng Giám đốc...
Nhìn chung các hoạt động hạch toán theo lệnh của trung tâm điều hành trong thời
gian qua sở đã thực
hiện : nghiêm túc, kịp thời, chính xác an toàn.
2.2. Thực hiện nhiệm vụ kinh doanh trực tiếp.
2.2.1. Công tác huy động và sử dụng vốn:
Với phương châm “đi vay để cho vay”, sở I luôn tạo điều kiện thuận lợi cho khách
hàng khi đến gửi tiền và vay vốn, tạo được chữ “tín” với khách hàng. Số lượng khách
hàng mở tài khoản và giao dịch thanh toán qua ngân hàng ngày càng tăng. Nguồn vốn
liên tục tăng trưởng qua các năm đã thoả mãn nhu cầu đầu tư tín dụng tại chỗ, đồng thời
chuyển một khối lượng lớn vào nguồn của toàn ngành để trung tâm điều hành điều vốn
cho nơi thiếu. Đến 31/12/1998 tổng nguồn vốn tự huy động trên địa bàn đạt số dư 2372 tỷ
đồng kể cả nguồn ngoại tệ qui đổi ra VNĐ, so với cùng kỳ năm 1997 tăng 198 tỷ đồng
(bằng 109%). Tính đến cuối năm 1998, nguồn vốn huy động bình quân 44 tỷ đồng/1 cán
bộ công nhân viên. Cơ cấu nguồn vốn được cải thiện hơn năm trước. Tỷ trọng nguồn vốn
không kỳ hạn chiếm 44% tổng nguồn, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm 1997. Đây là nguồn
vốn lãi suất đầu vào thấp tạo cơ hội thuận lợi để hạ lãi suất cho vay, mở rộng tín dụng,
lựa chọn, thu hút khách hàng mới, khách hàng lớn tới giao dịch vay vốn tại sở I, tạo điều
kiện để sở I đứng vững và cạnh tranh có hiệu quả trên thương trường Thủ đô.
Biểu 2: Số dư nguồn vốn các năm 1995 - 1998
Đơn vị: Triệu đồng.
Chỉ tiêu/thời điểm 31/12/1995 31/12/1996 31/12/1997 31/12/1998
Tiền gửi không kỳ
hạn
106.388 241.144 773.786 1.055.656
Tiền gửi có kỳ hạn 219.101 391.248 340.621 490.442
Kỳ phiếu, trái phiếu 44.392 269.697 559018 325.740
Vay TCKT 500.000 500.000
Tổng nguồn vốn 369.881 902.089 2.173.425 2.371.838
Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của SGDI - NHNNo & PTNT VN.
Với số vốn huy động như trên, sở I đã tự lực hoàn toàn về nguồn vốn đầu tư và cho
vay tại sở, giúp Trung ương cân đối vốn cho các tỉnh, thành phố trong cả nước.
Do nguồn vốn tăng trưởng ổn định nên hoạt động tín dụng tại sở được mở rộng.
Doanh số cho vay năm 1998 đạt 570 tỷ đồng, gấp 1,65 lần năm 1997 (tăng 225 tỷ đồng).
Tổng dư nợ đến tháng 12 năm 1998 là 201 tỷ đồng đạt bình quân 3,7 tỷ đồng/1 cán bộ
công nhân viên. Cơ cấu dư nợ như sau:
- Dư nợ doanh nghiệp Nhà nước: chiếm tỷ trọng 90% tổng dư nợ.
- Dư nợ doanh nghiệp ngoài quốc doanh: chiếm tỷ trọng 10% tổng dư nợ.
- Dư nợ ngắn hạn: chiếm tỷ trọng 96,5% tổng dư nợ.
- Dư nợ trung hạn: chiếm tỷ trọng 3,5% tổng dư nợ.
- Dư nợ quá hạn: 3 tỷ 188 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 1,58%.
Tổng dư nợ giảm so với cùng kỳ năm 1997 là 720 triệu đồng (giảm 0,02%). Trong
đó nợ quá hạn tập trung hầu hết ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tồn đọng từ những
năm trước.
Năm 1998 bằng nhiều biện pháp sở đã tích cực thu và giảm dư nợ ngoài quốc
doanh được 969 triệu đồng (doanh số thu nợ quá hạn 2,32 tỷ đồng)
Theo chỉ đạo của Thống đốc ngân hàng Nhà nước, Tổng Giám đốc ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam trong năm 1998 sở I đã triển khai chấn
chỉnh các hoạt động ngân hàng đặc biệt là các biện pháp chỉnh sửa để nâng cao chất
lượng tín dụng, giảm nợ quá hạn tập trung vào các khâu:
- Thẩm định và xét duyệt cho vay.
- Tự kiểm tra bổ xung chấn chỉnh các bộ hồ sơ vay vốn.
- Thành lập tổ thu nợ cơ động phối hợp với các cấp chính quyền cơ sở và các
ngành pháp luật để thu nợ quá hạn, tổ chức phát mại tài sản thế chấp, lập hồ sơ khởi kiện
ra toà án đối tượng cố ý trốn tránh trách nhiệm trả nợ để thức tỉnh nghĩa vụ trả nợ đối với
các đối tượng có nợ quá hạn.
Biểu 3: Số dư nợ các năm 1995 - 1998
Đơn vị: Triệu đồng.
Chỉ tiêu 1995 1996 1997 1998
1. Dư nợ ngắn hạn 41.830 57.499 242.632 194.723
Trong hạn 39.192 54.793 238.724 191.605
- DN Nhà nước 25.895 42.966 219.947 182.928
- DN ngoài QD 13.297 11.827 18.777 8.677
2. Dư nợ trung hạn 2.679 2.803 2.493 6.663
Trong hạn 2.679 2.692 2.493 6.592
- DN Nhà nước 2.000 1.440 1.185 4.868
- DN ngoài QD 679 1.252 1.308 1.724
3. Dư nợ quá hạn 2.638 2.817 3.908 3.188
- Ngắn hạn 2.638 2.706 3.908 3.118
- Trung hạn 111 71
4. Tỷ lệ nợ quá hạn 5,93% 4,67% 1,6% 1,58%
Tổng dư nợ 44.509 60.302 245.125 201.386
Nguồn: báo cáo tổng kết hàng năm của SGDI - NHNNo & PTNT VN.
2.2.2. Công tác kế toán, thanh toán và ngân quỹ:
Song song với nhiệm vụ thanh toán, hạch toán, điều chuyển vốn cho toàn ngành,
sở đã tổ chức hạch toán đầy đủ, kịp thời, chính xác các nghiệp vụ kinh doanh trực tiếp, tổ
chức tốt công tác chuyển tiền nhanh qua mạng vi tính góp phần tăng nhanh vòng quay
vốn, tăng số lượng khách hàng đến giao dịch với sở I, đồng thời tổ chức tốt công tác huy
động vốn thông qua nghiệp vụ tuyên truyền, hướng dẫn khách hàng mở tài khoản tiền gửi
thanh toán. Đến 31/12/1998 có 987 khách hàng mở tài khoản thanh toán tại sở I tăng 263
khách hàng so với năm 1997. Năm 1998 sở I đã đón tiếp trên 35 nghìn lượt khách tới giao
dịch gửi tiền, rút tiền, chuyển tiền đi và đến nhận tiền. So với năm 1997 khối lượng công
việc tăng nhanh cụ thể là:
- Số món chuyển tiền đi tăng 45%
- Số món chuyển tiền đến tăng 40%
- Số lượng chứng từ kế toán tăng 30%
- Khối lượng công việc tăng nhanh do bố trí cán bộ làm việc phù hợp, không tăng
biên chế, tổ chức điều hành khoa học nên đã hoàn thành nhiệm vụ đảm bảo yêu cầu: an
toàn, chính xác. Tuy khối lượng thu chi lớn kiểm chọn phức tạp nhưng tại sở không xảy
ra tình trạng thiếu, mất quĩ, năm nào cũng trả tiền thừa cho khách với khối lượng lớn.
Riêng năm 1998 cán bộ kiểm ngân đã trả tiền thừa cho khách hàng 165 món với giá trị
306 triệu đồng; phát hiện và lập biên bản thu giữ và nộp ngân hàng Nhà nước một khối
lượng tiền giả với giá trị 7620 ngàn đồng.
2.2.3. Công tác kinh doanh ngoại tệ:
Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ ở sở I được phép triển khai từ tháng 7 năm 1998.
Qua 6 tháng vừa học vừa làm tuy còn bỡ ngỡ, chưa có kinh nghiệm nhưng vì sự nghiệp
phát triển của ngành và đòi hỏi của khách hàng số cán bộ được phân công làm nhiệm vụ
kinh doanh ngoại tệ quyết tâm cao đồng thời được sở kinh doanh hối đoái khối kinh tế đối
ngoại trung tâm điều hành tận tâm hỗ trợ nên đã thu được những kết quả đáng khích lệ.
Tuy mới hoạt động nhưng các nghiệp vụ: Thanh toán, mua bán ngoại tệ huy động
tiền gửi, tiết kiệm thực hiện chính xác kịp thời chưa xẩy ra sai sót, bước đầu gây dựng
được tín nhiệm với khách hàng tạo tiền đề tốt cho năm 1999.
2.2.4. Kết quả tài chính:
Được trung tâm điều hành hỗ trợ, sở I có nhiều cơ hội để huy động vốn với lãi suất
thấp tạo nguồn để trung tâm điều hành điều hòa vốn trong hệ thống.
Phí thừa vốn của sở qua các năm đều chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu.
Năm 1998: tổng thu là 1.956 tỷ đồng, tăng 645 tỷ đồng so với năm 1997.
tổng chi là 1.951 tỷ đồng , tăng 637 tỷ đồng so với năm 1997.
Tính riêng thu phí làm dịch vụ năm 1998 đạt 727 triệu đồng, bằng 4% doanh thu
nội bảng và bằng 87% quỹ tiền lương + ăn ca thực chi của sở I.
3. Đánh giá kết quả kinh doanh của sở I trong những năm gần đây.
Qua việc thực hiện nhiệm vụ kinh doanh các năm, sở giao dịch I ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam đã khẳng định được vị thế của mình trong hệ
thống ngân hàng Nông nghiệp. Bên cạnh những điều kiện thuận lợi, sở còn gặp phải
nhiều khó khăn và thách thức mới. Điều này thể hiện rõ nét trong một số điểm tồn tại mà
sở cần sớm có giải pháp khắc phục để nâng cao hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh
của mình.
Thứ nhất: các khách hàng lớn của sở chủ yếu là các doanh nghiệp hoạt động trên
lĩnh vực nông nghiệp và địa bàn nông thôn nên chịu tác động rất lớn của chu kỳ sản xuất
mang tính thời vụ của các doanh nghiệp này. Điều này có nghĩa là dư nợ tín dụng tại hội
sở tăng giảm mạnh theo chu kỳ sản xuất kinh doanh của họ. Chính vì vậy bên cạnh việc
kiểm soát nguồn vốn và tín dụng đối với khách hàng truyền thống này, sở cần mở rộng thị
trường sang phía các khách hàng thuộc các loại hình kinh doanh khác.
Thứ hai: Doanh số cho vay cũng như dư nợ của hội sở chủ yếu tập trung vào các
doanh nghiệp Nhà nước (tuy số lượng không nhiều nhưng qui mô lại lớn). Việc giải quyết
cho vay với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hộ sản xuất còn gặp nhiều vướng mắc
về thủ tục thế chấp tài sản và xử lý phát mại tài sản thế chấp nên trong khi nhu cầu vay
vốn của các đối tượng này rất lớn mà sở không giải quyết được.
Thứ ba: việc cho vay trung và dài hạn tuy đã được mở ra và giải quyết cho vay
được một số món nhưng số lượng món và số tiền cho vay ra còn ít, chiếm tỷ trong nhỏ.
Cuối năm 1997, tỷ lệ dư nợ trung hạn chỉ chiếm 1,02% tổng dư nợ, năm 1998 con số này
là 3,5% (tăng 2,48%)
Điểm nổi trội cần phải kể đến là trên lĩnh vực nông nghiệp và địa bàn nông thôn
ngoại thành Hà Nội, sở I giữ vị trí gần như độc quyền đối với việc cho vay vốn và tài trợ
cho các dự án. Đây cũng là thị trường giầu tiềm năng chưa được khai thác mà sở giao
dịch I có thể phát huy thế mạnh và sở trường của mình để thu hút khách hàng, nâng cao
hiệu quả kinh doanh của bản thân sở đồng thời góp phần cải thiện đời sống nông thôn, bộ
phận chính của nền kinh tế đất nước.
II- Thực trạng cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
Nhằm thực hiện chủ trương mở rộng quan hệ tín dụng với tất cả các thành phần
kinh tế của ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, đồng thời tạo điều
kiện thuận lợi cho việc mở rộng quan hệ tín dụng tới kinh tế ngoài quốc doanh sở giao
dịch I đã hình thành đội ngũ cán bộ tín dụng có trình độ, nhiệt tình và năng động chuyên
cho vay tới kinh tế ngoài quốc doanh.
1. Những vấn đề chung về cho vay kinh tế ngoài quốc doanh.
1.1. Mục đích và nguyên tắc vay vốn.
Sở giao dịch I ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam cho vay
kinh tế ngoài quốc doanh nhằm tạo điều kiện và khuyến khích những hộ thiếu vốn sản
xuất kinh doanh vay vốn ngân hàng để phát triển sản xuất hàng hoá, mở mang ngành
nghề mới và kinh doanh dịch vụ có hiệu quả kinh tế thiết thực tạo công ăn việc làm góp
phần xây dựng xã hội văn minh, dân giàu nước mạnh.
* Về nguyên tắc vay vốn.
- Khách hàng vay vốn ngân hàng phải sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả
thuận trong hợp đồng tín dụng:
+ Phải hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín
dụng.
+ Việc đảm bảo tiền vay phải thực hiện theo qui định của Chính phủ, Thống đốc
ngân hàng Nhà nước và hướng dẫn về bảo đảm tiền vay của ngân hàng Nông nghiệp đối
với khách hàng.
1.2. Điều kiện vay vốn.
Ngân hàng xem xét và quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các điều kiện sau:
* Một là có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân
sự theo qui định của pháp luật cụ thể là:
- Pháp nhân: phải có đủ các điều kiện được công nhận là pháp nhân và năng lực
pháp luật dân sự của pháp nhân theo điều 94 và điều 96 Bộ luật dân sự và các qui định
của pháp luật.
- Doanh nghiệp tư nhân phải được thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp
tư nhân.
- Hộ gia đình cá nhân:
+ Thường trú tại địa bàn nơi chi nhánh của ngân hàng Nông nghiệp đóng trụ sở;
Trường hợp hộ chỉ đăng ký tạm trú thì phải có xác nhận hộ khẩu của nơi thường trú và
phải có xác nhận của uỷ ban nhân dân xã (phường) nơi đến cho phép hoạt động sản xuất,
kinh doanh.
+ Đại diện cho hộ gia đình để giao dịch với ngân hàng Nông nghiệp là chủ hộ hoặc
người đại diện cuả chủ hộ, người đại diện phải có đủ năng lực hành vi dân sự và năng lực
pháp luật dân sự theo điều 16, điều 19, điều 20,điều 21, điều 119 bộ luật dân sự.
+ Đối với hộ nông dân (nông, lâm, ngư, diêm): được cơ quan có thẩm quyền cho
thuê, giao quyền sử dụng đất, mặt nước.
+ Đối với hộ đánh bắt thủy sản phải có phương tiện đánh bắt và được cục bảo vệ
nguồn lợi thủy sản cho phép đánh bắt.
+ Đối với hộ gia đình cá nhân kinh doanh: được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy
phép kinh doanh.
+ Đối với hộ làm kinh tế gia đình và hộ khác: được ủy ban nhân dân xã, phường
xác nhận cho phép sản xuất, kinh doanh hoặc làm kinh tế gia đình. Riêng đối với hộ là
nông, lâm trường viên phải có xác nhận của Giám đốc nông, lâm trường.
- Tổ hợp tác:
+ Có hợp đồng hợp tác theo điều 120 Bộ luật dân sự.
+ Đại diện của tổ hợp tác phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi
dân sự.
* Hai là có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
- Có vốn tự có tham gia vào dự án, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đời
sống theo tỷ lệ trong qui định này.
- Kinh doanh có hiệu quả, không có nợ quá hạn trên 6 tháng với ngân hàng Nông
nghiệp.
- Đối với pháp nhân và doanh nghiệp tư nhân phải có công nợ lành mạnh và phải
mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng Nông nghiệp nơi cho vay.
- Đối với khách hàng vay vốn phục vụ nhu cầu đời sống phải có nguồn thu nhập
ổn định để trả nợ ngân hàng.
* Ba là mục đích sử dụng vốn vay phải hợp pháp.
Không vi phạm pháp luật, phù hợp với, chương trình phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương, phù hợp với mục đích được giao, thuê, khoán quyền sử dụng đất, mặt nước.
* Bốn là có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi, có hiệu quả.
* Năm là thực hiện các qui định về bảo đảm tiền vay theo qui định của Chính phủ, ngân
hàng Nhà nước và hướng dẫn của ngân hàng Nông nghiệp.
* Sáu là đối với doanh nghiệp Nhà nước là đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc của
pháp nhân, ngoài các điều kiện nêu trên phải có thêm điều kiện sau:
Đơn vị phụ thuộc phải có giấy ủy quyền vay vốn của đơn vị chính. Nội dung ủy
quyền phải thể hiện rõ mức tiền được vay cao nhất, thời hạn vay vốn mục đích vay vốn và
cam kết trả nợ thay khi đơn vị phụ thuộc không trả được nợ.
1.3. Đối tượng cho vay.
* Ngân hàng Nông nghiệp cho vay các đối tượng:
- Giá trị vật tư, hàng hóa, máy móc, thiết bị và các khoản chi phí để khách hàng
thực hiện các dự án hoặc phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống và đầu tư
phát triển.
- Số tiền thuế xuất khẩu khách hàng phải nộp để làm thủ tục xuất khẩu mà giá trị lô
hàng xuất khẩu đó ngân hàng Nông nghiệp có tham gia cho vay.
- Số lãi tiền vay trả cho ngân hàng Nông nghiệp trong thời hạn thi công, chưa
nghiệm thu bàn giao và đưa tài sản cố định vào sử dụng mà khoản trả lãi được tính trong
giá trị tài sản cố định.
* Ngân hàng Nông nghiệp không cho vay các đối tượng:
- Số tiền thuế phải nộp, trừ số tiền thuế xuất khẩu qui định tại khoản thứ hai ở trên.
- Số tiền để trả nợ gốc và lãi vay cho tổ chức tín dụng khác.
- Số lãi tiền vay trả cho chính ngân hàng Nông nghiệp, trừ trường hợp cho vay số
lãi tiền vay theo qui định tại khoản thứ ba ở trên.
1.4. Thủ tục và hồ sơ cho vay.
Tuỳ theo từng loại hình khách hàng, phương thức cho vay, bộ hồ sơ cho vay bao
gồm:
* Một là hồ sơ do ngân hàng lập.
- Báo cáo thẩm định tái thẩm định.
- Các loại thông báo: thông báo từ chối cho vay, thông báo cho vay, thông báo gia
hạn nợ, thông báo nợ quá hạn, thông báo nợ quá hạn, thông báo tạm ngừng cho vay,
thông báo chấm dứt cho vay.
- Báo cáo kiểm tra sử dụng vốn vay, báo cáo phân tích tình hình tài chính.
- Sổ theo dõi cho vay (dùng cho cán bộ tín dụng)
* Hai là hồ sơ do khách hàng và ngân hàng cùng lập:
- Hợp đồng tín dụng hoặc sổ vay vốn
- Hợp đồng đảm bảo tiền vay
* Ba là hồ sơ do khách hàng lập và cung cấp:
Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng gửi đến ngân hàng Nông nghiệp nơi cho vay
các giấy tờ sau:
- Đối với pháp nhân và doanh nghiệp tư nhân:
+ Hồ sơ pháp lý (khi thiết lập quan hệ vay vốn).Tuỳ theo loại hình pháp nhân,
doanh nghiệp tư nhân, lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh, có các giấy tờ sau:
. Quyết định hoặc giấy phép thành lập doanh nghiệp.
. Điều lệ doanh nghiệp (trừ doanh nghiệp tư nhân).
. Quyết định bổ nhiệm tổng giám đốc (giám đốc), kế toán trưởng, quyết định công
nhận ban quản trị, chủ nhiệm hợp tác xã.
. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
. Giấy phép hành nghề.
. Giấy phép đầu tư (đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài).
. Hợp đồng liên doanh (đối với doanh nghiệp liên doanh).
. Quyết định giao vốn và các văn bản giao tài sản của Cục quản lý vốn và tài sản
Nhà nước tại doanh nghiệp (Nếu là doanh nghiệp Nhà nước).
. Biên bản góp vốn, danh sách thành viên sáng lập (Công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn).
. Giấy chứng nhận vốn đầu tư ban đầu (Doanh nghiệp tư nhân).
. Hồ sơ dự án đối với cho vay trung, dài hạn.
. Các giấy tờ khác cần thiết theo qui định của pháp luật.
Các thủ tục về kế toán theo qui định của ngân hàng như: đăng ký mẫu dấu, chữ ký
của chủ tài khoản hoặc người được uỷ quyền, đăng ký chữ ký cuả cán bộ giao dịch với
ngân hàng, giấy đăng ký mở tài khoản tiền gửi (nếu chưa mở).
+ Hồ sơ kinh tế:
. Kế hoạch sản xuất kinh doanh trong kỳ.
. Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh kỳ trước liền kề.
. Báo cáo thực hiện kế hoạch sản xuất, kinh doanh kỳ trước liền kề.
+ Hồ sơ vay vốn: (cho mỗi lần vay hoặc một hợp đồng tín dụng).
. Giấy đề nghị vay vốn.
. Dự án, phương án sản xuất, kinh doanh dịch vụ đời sống.
. Bản sao hợp đồng mua hàng hoặc báo giá, phiếu nhập kho, các chứng từ thanh
toán (nếu có).
. Hồ sơ đảm bảo tiền vay theo qui định.
Đối với khách hàng đã vay vốn lần đầu, từ lần vay thứ hai chỉ cần bổ xung các tài
liệu có thay đổi.
- Đối với hộ gia đình, cá nhân hoặc tổ hợp tác:
+ Hồ sơ pháp lý:
. Các tài liệu chứng minh năng lực pháp luật dân sự và hành vi dân sự:
# Xác nhận hộ khẩu đối với hộ gia đình, cá nhân ở nông thôn.
# Sổ hộ khẩu đối với hộ gia đình, cá nhân ở đô thị.
. Giấy phép kinh doanh được cấp có thẩm quyền cấp (đối với hộ kinh doanh).
. Giấy tờ hợp pháp, hợp lệ được giao, cho thuê, chuyển quyền sử dụng đất, mặt
nước (đối với hộ nông, lâm, ngư, diêm).
. Giấy phép đánh bắt thuỷ, hải sản, đăng kiểm tàu thuyền (đối với hộ đánh bắt
thuỷ, hải sản).
. Hợp đồng hợp tác, chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn cho
phép hoạt động (đối với tổ hợp tác).
. Hồ sơ dự án đối với cho vay trung dài hạn.
. Các giấy tờ khác cần thiết theo qui định của pháp luật.
+ Hồ sơ vay vốn:
. Đối với hộ vay không phải thực hiện thế chấp, cầm cố, bảo lãnh: Giấy đề nghị
vay vốn kiêm phương án sản xuất kinh doanh.
. Đối với hộ phải thực hiện thế chấp, cấm cố bảo lãnh.
# Giấy đề nghị vay vốn.
# Dự án hoặc phương án sản xuất kinh doanh.
# Hồ sơ đảm bảo tiền vay theo qui định.
Đối với cho vay hộ gia đình, cá nhân qua tổ vay vốn: ngoài các hồ sơ đã qui định
như trên đối với từng hộ gia đình, cá nhân phải có thêm:
. Biên bản thành lập tổ vay vốn, danh sách thành viên có xác nhận của Uỷ ban
nhân dân xã, phường.
. Hợp đồng dịch vụ vay vốn.
Đối với cho vay hộ gia đình, cá nhân thông qua doanh nghiệp: ngoài các hồ sơ đã
qui định như trên đối với hộ gia đình, cá nhân, tổ hợp tác, phải có thêm:
. Danh sách hộ gia đình, cá nhân đề nghị ngân hàng cho vay.
. Hợp đồng dịch vụ vay vốn.
Đối với cho vay doanh nghiệp để chuyển tải vốn cho hộ gia đình, cá nhân. Ngoài
hồ sơ đã qui định như trên đối với doanh nghiệp phải có thêm:
. Danh sách hộ gia đình, cá nhân đề nghị ngân hàng cho vay.
. Hợp đồng cung ứng vật tư, tiền vốn cho hộ gia đình, cá nhân nhận khoán.
Đối với khách hàng cho vay đời sống:
+ Giấy đề nghị vay vốn.
+ Hồ sơ đảm bảo tiền vay theo qui định.
1.5. Qui trình chung xét duyệt cho vay.
- Cán bộ tín dụng trực tiếp nhận hồ sơ vay vốn của khách hàng, có trách nhiệm đối
chiếu danh mục hồ sơ như qui định, kiểm tra tính hợp pháp hợp lệ của từng hồ sơ, báo
cáo trưởng phòng tín dụng hoặc tổ trưởng tín dụng.
- Trưởng phòng (tổ trưởng) tín dụng cử cán bộ thẩm định các điều kiện vay vốn
theo qui định.
- Trưởng phòng tín dụng hoặc tổ trưởng tín dụng có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ
vay vốn, kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của hồ sơ và báo cáo thẩm định do cán bộ tín
dụng trình, tiến hành xem xét tái thẩm định (nếu cần thiết), ghi ý kiến vào báo cáo thẩm
định, tái thẩm định (nếu có) và trình giám đốc quyết định.
- Giám đốc ngân hàng Nông nghiệp nơi cho vay xem xét, kiểm tra lại hồ sơ vay
vốn và báo cáo thẩm định, tái thẩm định (nếu có) do phòng tín dụng trình lên, xem xét
quyết định cho vay hoặc không cho vay và giao cho phòng tín dụng:
+ Nếu không cho vay thì thông báo cho khách hàng biết bằng văn bản.
+ Nếu cho vay thì ngân hàng Nông nghiệp nơi cho vay cùng khách hàng lập hợp
đồng tín dụng.
+ Khoản vay vượt quyền phán quyết thì thực hiện theo qui định hiện hành của
ngân hàng Nông nghiệp.
- Sau khi hoàn tất các khâu công việc trên, nếu khoản vay được giám đốc ký duyệt
cho vay thì bộ phận tín dụng chuyển hồ sơ cho bộ phận kế toán thực hiện nghiệp vụ hạch
toán kế toán, thanh toán. Thủ quĩ thực hiện giải ngân cho khách hàng (nếu cho vay bằng
tiền mặt) cán bộ tín dụng vào sổ theo dõi cho vay, thu nợ.
- Sau khi thực thiện giải ngân, cán bộ tín dụng phải tiến hành kiểm tra tình hình sử
dụng vốn vay theo quy định.
- Thời gian thẩm định cho vay:
+ Các dự án trong phán quyết : trong thời gian không quá 10 ngàylàm việc đối với
cho vay ngắn hạn và không quá 45 ngày làm việc đối với cho vay trung, dài hạn kể từ khi
ngân hàng Nông nghiệp nơi cho vay nhận được đầy đủ hồ sơ vay vốn hợp lệ và thông tin
cần thiết của khách hàng theo yêu cầu của ngân hàng Nông nghiệp; ngân hàng Nông
nghiệp nơi cho vay phải quyết định và thông báo việc cho vay hoặc không cho vay đối
với khách hàng. Trường hợp quyết định không cho vay, phải thông báo cho khách hàng
bằng văn bản, nêu rõ lý do từ chối cho vay.
+ Các dự án, phương án vượt quyền phán quyết :
. Trong thời gian không quá 5 ngày làm việc đối với cho vay ngắn hạn và không
quá 25 ngày làm việc đối với cho vay trung và dài hạn kể từ khi ngân hàng Nông nghiệp
nơi cho vay nhận được đầy đủ hồ sơ vay vốn hợp lệ và thông tin cần thiết của khách
hàng theo yêu cầu của ngân hàng Nông nghiệp, ngân hàng Nông nghiệp nơi cho vay phải
làm đầy đủ thủ tục trình lên ngân hàng Nông nghiệp cấp trên. Trong thời gian không quá
5 ngày làm việc đối với cho vay ngắn hạn và 20 ngày làm việc đối với cho vay trung và
dài hạn kể từ ngày nhận đủ hồ sơ trình, ngân hàng Nông nghiệp cấp trên phải thông báo
chấp thuận hoặc không chấp thuận.
. Các dự án, phương án mức phán quyết thuộc quyền của Phó Tổng Giám đốc phụ
trách tín dụng. Tổng giám đốc ngân hàng Nông nghiệp hoặc hội đồng quản trị, các chi
nhánh trình thẳng trung tâm điều hành, không phải qua văn phòng đại diện.
- Hàng tháng (cuối tháng), kế toán cho vay tiến hành sao kê các khoản vay vốn đã
quá hạn, sắp đến hạn, báo cáo giám đốc để chỉ đạo, điều hành.
2. Thực tế tình hình cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại sở giao
dịch I ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam trong thời gian
qua.
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng xoay quanh ba nghiệp vụ chính:
- Các nghiệp vụ bên nợ (huy động vốn)
- Các nghiệp vụ bên có (sử dụng vốn)
- Các nghiệp vụ trung gian (thanh toán, bảo quản giấy tờ có giá..)
Chính vì vậy, cho vay vốn hay sử dụng vốn không phải là một hoạt động độc lập,
riêng rẽ. Có huy động vốn mới có vốn để cho vay, ngược lại , cho vay có hiệu quả, kinh
tế phát triển thì mới có nguồn vốn lớn để huy động, đồng thời có làm tốt nghiệp vụ trung
gian thì hai nghiệp vụ trên mới được thực hiện tốt. Nói cách khác, ngân hàng phải thực
hiện chiến lược kinh doanh tổng hợp mà trong đó nghiệp vụ sử dụng vốn phải được chú
trọng để kết hợp cùng hai nghiệp vụ còn lại tạo nên hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
2.1 Phương thức cho vay.
Theo qui chế hiện hành của ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các ngân hàng thương
mại có thể áp dụng không dưới 7 phương thức cho vay:
- Cho vay từng lần.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng.
- Cho vay theo dự án đầu tư.
- Cho vay hợp vốn.
- Cho vay trả góp.
- Cho vay theo mức tín dụng dự phòng.
- Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
- Các thương thức cho vay khác phù hợp với quy chế và các qui định khác của
ngân hàng nhà nước.
Các phương thức cho vay trên được áp dụng linh hoạt trong hệ thống ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn, nó được cụ thể hoá trong quyết định 180 của hội
đồng quản trị ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Tuy nhiên ở sở giao dịch I
chủ yếu chỉ vận dụng cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức tín dụng đối với các
thành phần của kinh tế ngoài quốc doanh.
* Thứ nhất là phương thức cho vay từng lần.
Đặc trưng của phương thức cho vay nay là áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu
và đề nghị vay vốn từng lần và khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên. Mỗi
lần vay vốn, khách hàng và ngân hàng làm thủ tục vay vốn cần thiết và ký hợp đồng tín
dụng.
- Trường hợp có lưu vụ, được áp dụng trong vay vốn hộ gia đình, cá nhân ở vùng
chuyên canh trồng lúa có hai vụ liền kề:
+ Điều kiện, thủ tục:
. Hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu lưu vụ, trước ngày đến hạn của món vay ít nhất 5
ngày phải làm giấy đề nghị lưu vụ.
. Cán bộ tín dụng thẩm định xem xét nhu cầu lưu vụ của hộ gia đình, cá nhân, đồng
thời phải kiểm tra hiệu quả của phương án đang vay, phương án có hiệu quả mới đựoc
ngân hàng xét cho lưu vụ.
+ Hộ gia đình, cá nhân, phải trả đủ số lãi nợ của món vay trước.
+ Thời hạn lưu vụ: không quá thời hạn của một vụ kế tiếp.
+ Khi có nhu cầu lưu vụ, hộ gia đình, cá nhân chỉ cần làm giấy tờ đề nghị lưu vụ,
các thủ tục khác không phải lập lại.
* Thứ hai là phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng.
Đặc trưng của phương thức cho vay này là áp dụng với khách hàng có nhu cầu vay
vốn thường xuyên, sản xuất kinh doanh ổn định, có uy tín trong quan hệ tín dụng với
ngân hàng, ưu tiên các doanh nghiệp Nhà nước như: doanh nghiệp kinh doanh lương
thực, vật tư nông nghiệp, các công ty kinh doanh thương mại, xuất nhập khẩu,..
- Ngân hàng nơi cho vay cùng khách hàng ký hợp đồng tín dụng, thoả thuận hạn
mức tín dụng duy trì trong thời hạn nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất kinh doanh.
- Phát tiền vay: Trong phạm vi hạn mức tín dụng, thời hạn hiệu lực của hợp đồng
tín dụng, mỗi lần rút vốn vay, khách hàng lập giấy nhận nợ tiền vay kèm theo các chứng
từ xin vay phù hợp với mục đích sử dụng vốn trong hợp đồng tín dụng.
- Quản lý hạn mức tín dụng:
+ Ngân hàng nơi cho vay phải quản lý chặt chẽ hạn mức tín dụng đảm bảo không
vượt quá hạn mức tín dụng đã ký kết.
+ Trong quá trình vay vốn, trả nợ, nếu việc sản xuất kinh doanh có thay đổi và
doanh nghiệp có nhu cầu, khách hàng phải làm giấy đề nghị xác định lại hạn mức tín
dụng; Ngân hàng nơi cho vay xem xét, nếu thấy hợp lý thì chấp thuận điều chỉnh hạn mức
tín dụng và cùng khách hàng ký bổ xung hợp đồng tín dụng.
+ Ký kết hợp đồng tín dụng mới: Trước 10 ngày khi hạn mức tín dụng cũ hết hạn
khách hàng phải gửi cho ngân hàng kế hoạch vay vốn kỳ tiếp theo. Căn cứ vào nhu cầu
vay vốn của khách hàng và chu kỳ sản xuất, kinh doanh kế tiếp, ngân hàng nơi cho vay
thẩm định để xác định hạn mức tín dụng và thời hạn cho vay mới.
2.2. Lãi suất cho vay.
Mức lãi suất cho vay do sở giao dịch I và khách hàng thoả thuận với qui định của
ngân hàng Nhà nước và ngân hàng Nông nghiệp về lãi suất cho vay tại thời điểm ký kết
hợp đồng tín dụng. Đồng thời sở I có trách nhiệm công bố công khai mức lãi suất cho vay
cho khách hàng biết. Sở I áp dụng mức lãi suất thỏa thuận với khách hàng thuộc cả khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh và khu vực kinh tế quốc doanh nhưng luôn tuân thủ nguyên
tắc “đi vay để cho vay” bảo đảm hạch toán kinh doanh có lãi. Lãi suất cho vay ngắn hạn
hiện nay tại sở I là 1,1% tháng, lãi suất cho vay trung, dài hạn là 1,15% tháng cao hơn
mức lãi suất cho vay ngắn hạn.
2.3. Thời hạn cho vay .
- Cho vay ngắn hạn: được xác định phù hợp với chu kỳ sản xuất, kinh doanh và
khả năng trả nợ của khách hàng, tối đa đến 12 tháng. Tuy nhiên cho vay ngắn hạn tại sở I
hiện nay chủ yếu là loại thời hạn 3 tháng và 6 tháng. Nói chung thời hạn cho vay như vậy
đáp ứng được nhu cầu của khách bởi vì các khách hàng vay vốn sở I chủ yếu kinh doanh
thương nghiệp, dịch vụ vòng quay vốn nhanh. Nếu là sản xuất thì chủ yếu là những mặt
hàng cho chu kỳ sản xuất ngắn, thu hồi vốn nhanh.
- Cho vay trung, dài hạn: Thời hạn cho vay được xác định phù hợp với thời hạn thu
hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất nguồn vốn cho vay
của sở.
+ Thời hạn cho vay trung hạn: Từ trên 12 tháng đến 60 tháng (5 năm).
+ Thời hạn cho vay dài hạn từ trên 60 tháng trở lên, nhưng không quá thời hạn
hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đôí với pháp nhân
và không quá 15 năm đối với cho vay các dự án phục vụ đời sống.
2.4. Mức vốn cho vay.
Sở giao dịch I căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng, vốn tự có của khách
hàng tham gia vào dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đời sống, tỷ lệ cho vay
tối đa so với giá trị tài sản làm đảm bảo tiền vay theo quy định của Chính phủ, ngân hàng
Nhà nước và hướng dẫn của ngân hàng Nông nghiệp, khả năng trả nợ của khách hàng và
khả năng nguồn vốn của sở để quyết định mức cho vay, nhưng không vượt quá mức qui
định tại điều 79 Luật các tổ chức tín dụng.
- Đối với cho vay ngắn hạn, khách hàng phải có vốn tự có tối thiểu 20% trong tổng
nhu cầu vốn. Riêng đối với doanh nghiệp Nhà nước phải có vốn tự có tối thiểu 10% trong
tổng nhu cầu vốn.
- Đối với cho vay trung, dài hạn khách hàng phải có vốn tối thiểu 30% trong tổng
nhu cầu vốn.
- Riêng cho vay đời sống, khách hàng phải có vốn tự có tối thiểu 40% trong tổng
nhu cầu vốn.
- Khách hàng có uy tín trong quan hệ vay vốn với sở, nếu vốn tự có thấp hơn qui
định trên thì thông qua hội đồng tín dụng sở I xem xét quyết định cho phù hợp.
2.5. Trả nợ gốc và lãi.
- Căn cứ vào đặc điểm sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, khả năng tài chính, thu nhập
và nguồn trả nợ của khách hàng, sở I và khách hàng thoả thuận việc trả nợ gốc và lãi tiền
vay hết sức linh hoạt.
+ Các kỳ hạn trả nợ gốc.
+ Trả theo định kỳ hàng tháng, quí, vụ, chu kỳ kinh doanh hoặc trả lãi cùng với kỳ
trả nợ gốc.
+ Trả theo phương pháp trả góp.
+ Trường hợp đến kỳ trả lãi, khách hàng chưa có khả năng trả, nêu lý do chính
đáng và được sở chấp thuận thì trả vào kỳ sau.
- Thu nợ cho vay theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Đối với khách hàng vay
bằng vốn nội tệ, khách hàng được quyền trả nợ trước thời hạn, số lãi phải trả được tính
từ ngày vay đến ngày trả nợ. Đối với khách hàng vay bằng ngoại tệ, nếu trả trước thời
hạn thì sở và khách hàng thoả thuận về số lãi tiền vay phải trả nhưng không vượt quá mức
lãi đã ghi trong hợp đồng tín dụng.
- Khi đến kỳ hạn trả nợ hoặc kết thúc thời hạn cho vay, nếu khách hàng không trả
được nợ đúng hạn và không được điều chỉnh kỳ hạn nợ hoặc không được gia hạn nợ thì
số nợ đến hạn phải chuyển sang nợ quá hạn và khách hàng phải chịu lãi suất nợ quá hạn
đối với số tiền chậm trả.
- Đồng tiền trả nợ và việc đảm bảo giá trị nợ gốc bằng các hình thức thích hợp,
phù hợp với qui đinh của pháp luật.
2.6. Các biện pháp đảm bảo tiền vay.
Chuyển sang cơ chế thị trường các tổ chức tín dụng nói chung,sở giao dịch I nói
riêng hoạt động kinh doanh tiền tệ phải tuân thủ theo nguyên tắc “ đi vay để cho vay” .
Do vậy để đảm bảo trong quá trình cho vay sở I đang sử dụng các biện pháp sau:
- Thế chấp: thế chấp tài sản vay vốn ngân hàng là việc khách hàng dùng tài sản là
bất động sản thuộc quyền sở hữu của mình để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ
(bao gồm nợ gốc, lãi và tiền phạt lãi quá hạn) đối với bên cho vay.
Việc cho vay dưới hình thức thế chấp được áp dụng với hầu hết các món vay của
sở. Tài sản thế chấp chủ yếu là nhà thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người vay (do cơ
quan có thẩm quyền xác nhận và trong một số trường hợp là quyền sử dụng đất hợp pháp.
Tài sản thế chấp có thể được dùng để thế chấp cho nhiều lần vay mà các lần vay
sau không phải làm lại giấy tờ cam kết thế chấp tài sản với điều kiện trong văn bản thế
chấp lần đầu người cho vay cam kết dùng tài sản thế chấp cho nhiều lần vay và trong
khuế ước nhận nợ lần sau người vay phải thoả thuận dùng tài sản thế chấp cam kết lần
trước để thế chấp cho số tiềnvay lần nay.
- Bảo lãnh : Bảo lãnh vay vốn ngân hàng là việc người thứ ba (pháp nhân hoặc cá
nhân - gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên cho vay (bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện
nghĩa vụ trả nợ thay cho bên vay vốn (bên được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà bên
được bảo lãnh không trả được toàn bộ hay 1 phần nợ vay (bao gồm nợ gốc, lãi và tiền
phạt quá hạn) cho bên nhận bảo lãnh. Bên bảo lãnh, thực hiện bảo lãnh bằng tài sản của
mình các bên có thể thoả thuận bên bảo lãnh phải thế chấp, cầm cố tài sản cho bên nhận
bảo lãnh.
- Cầm cố: Cầm cố tài sản vay vốn ngân hàng là việc bên vay vốn (bên cầm cố) có
nghĩa vụ giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên vay vốn (bên nhận cầm cố)
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ (bao gồm nợ gốc, lãi tiền phạt quá hạn). Nếu tài sản tài
sản mà pháp luật có qui định đăng ký quyền sở hữu tài sản thì phải giao bản gốc giấy tờ
quyền sở hữu tài sản cho bên nhận cầm cố để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với
bên nhận cầm cố. Nếu tài sản nhận cầm cố không cần giấy chứng nhận quyền sở hữu thì
cũng phải giao trực tiếp tài sản đó cho bên nhận cầm cố. Những loại tài sản dùng để cầm
cố tại sở I chủ yếu là các kỳ phiếu của các ngân hàng thương mại quốc doanh, trái phiếu,
tín phiếu kho bạc nhà nước và cả xe máy mới.
Trên cơ sở cơ chế tín dụng đó hình thành về mối quan hệ tín dụng giữa sở I và các
khách hàng thuộc kinh tế ngoài quốc doanh diễn biến cụ thể ra sao? sau đây là số liệu về
tình hình cho vay dư nợ kinh tế ngoài quốc doanh ở sở I trong thời gian qua:
Biểu 4: Tình hình cho vay - dư nợ kinh tế ngoài quốc doanh tại sở giao dịch I ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam
Đơn vị: triệu đồng.
Chỉ tiêu/năm 1996 1997 1998
1. Doanh số cho vay KTNQD 50.400 29.600 41.943
2. Tỷ trọng doanh số cho vay
KTNQD/tổng DS
29,3% 8,56% 7,33%
3. Dư nợ cuối kỳ KTNQD 13.079 20.085 10.401
4. Tỷ trọng dư nợ KTNQD/tổng dư
nợ
21,69% 8,19% 5,16%
Nguồn: báo cáo tổng kết hàng năm của SGDI - NHNNo & PTNT VN.
Doanh số cho vay kinh tế ngoài quốc doanh tăng giảm không ổn định: năm 1997
doanh số cho vay giảm gần một nửa so với năm 1996, tuy nhiên năm 1998 doanh số cho
vay lại tăng lên những vẫn thấp hơn so với năm 1996. Bên cạnh đó dư nợ của kinh tế
ngoài quốc doanh cũng giảm dần, tỷ trọng dư nợ năm1997 giảm xuống giảm 13,5% so
với năm 1996 và lại tiếp tục giảm 3,03% ở năm 1998.
Kinh tế ngoài quốc doanh giảm cả doanh số và dư nợ do hầu hết các hộ sản xuất
kinh doanh trên địa bàn Thủ đô chưa hoàn thiện được hồ sơ thế chấp vay vốn ngân hàng,
chủ yếu là do thiếu quyền sử dụng và sở hữu nhà đất nên chưa làm được thủ tục xác nhận
của công chứng Nhà nước. Nhiều khách hàng sản xuất kinh doanh có hiệu quả những
năm trước sở vận dụng văn bản chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội về phần
cấp xác nhận tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng nhưng đến năm 1998 không được
phép vận dụng nên nhu cầu vay vốn của của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đang bị
ách tắc.
Tuy nhiên thực tế khách quan này không diễn ra đồng đều trong tất cả các loại
hình khách hàng cuả kinh tế ngoài quốc doanh, quy mô, mức độ cũng như xu hướng của
mối quan hệ vay vốn của các loại hình kinh tế ngoài quốc doanh khác nhau cũng khác
nhau.
Loại công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân được coi
là loại hình kinh doanh lớn nhất, khách hàng lớn nhất trong thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh hiện nay.
Loại hình kinh tế tư nhân và cá thể lâu nay cũng được Nhà nước khuyến khích
phát triển tuỳ theo điều kiện và năng lực phát triển của họ để làm phong phú thêm thị
trường sản xuất và tiêu dùng trong nước. Nhưng đến năm 1998 thì tỷ trọng doanh số cho
vay với loại hình kinh tế này giảm hẳn do những trường hợp vướng mắc về các biện pháp
đảm bảo tiền vay.
Với cơ cấu tín dụng theo các loại hình tổ chức kinh doanh như vậy, công tác tín
dụng của sở I khá phức tạp trong việc tìm phương hướng xâm nhập vào thị trường tín
dụng của kinh tế ngoài quốc doanh một cách nhanh chóng và có hiệu quả đòi hỏi cường
độ lao động của ngân hàng đặc biệt là cán bộ tín dụng bỏ ra rất lớn. Việc thẩm định tương
đối vất vả do các món vay phát sinh không tập trung về cả không gian lẫn thời gian.
Thêm vào đó trong quá trình vốn vay được sử dụng cán bộ tín dụng cũng phải thường
xuyên sâu sát xem xét tình hình sản xuất kinh doanh cũng như khả năng tài chính của
khách hàng nhằm đảm bảo an toàn vốn vay. Ngoài phương án sản xuất kinh doanh và tài
sản thế chấp món vay, ngân hàng rất khó có thể nắm bắt được những thông tin khác đặc
biệt là về tình hình tài chính của khách vay trước thời điểm vay vốn. Đặc biệt là đối với
các hộ cá thể và tư nhân do không tiến hành hạch toán kế toán theo pháp lệnh kế toán
thống kê của Nhà nước nên việc xác định các chỉ tiêu cơ bản (vô cùng quan trọng) hầu
như không thể làm được. Hơn nữa tư nhân cá thể không có tài khoản tiền gửi thanh toán
tại ngân hàng, đây là việc khó khăn lớn nữa cho việc theo dõi việc sử dụng vốn vay của
khách hàng. Những trở ngại trên cũng như trình độ tổ chức quản lý và năng lực am hiểu
môi trường pháp lý của khách hàng thuộc kinh tế ngoài quốc doanh còn yếu kém khiến
ngân hàng phải hết sức thận trọng và có phần rụt rè cho vay khu vực kinh tế này. Điều đó
cũng góp phần cản trở lớn tới việc đẩy mạnh cho vay kinh tế ngoài quốc doanh của sở
giao dịch I.
Tuy môi trường đầu tư còn tiềm ẩn nhiều rủi ro như vậy song trong chiến lược
kinh doanh hướng tới kinh tế ngoài quốc doanh của mình sở I đã xác định được tầm quan
trọng của việc đáp ứng nhu cầu vay vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp thuộc
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Do vậy bên cạnh việc đẩy mạnh cho vay bổ sung
vốn lưu động sở I đã từng bước cố gắng tăng doanh số cho vay trung dài hạn đáp ứng nhu
cầu đầu tư chiều sâu phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh. Tuy nhiên kinh tế ngoài quốc doanh chưa phải là khách hàng quen thuộc của sở I
trong cả lĩnh vực vay vốn trung và dài hạn, doanh số cho vay trung dài hạn kinh tế ngoài
quốc doanh còn rất thấp dư nợ quá hạn đã giảm.
Biểu 5: Tình hình nợ quá hạn của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại sở giao dịch I
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam
Đơn vị: triệu đồng
1996 1997 1998
Chỉ tiêu Doanh
số
Tỉ lệ
(%)
Doanh
số
Tỉ lệ
(%)
Doanh
số
Tỉ lệ
(%)
Tổng DNQH 2817 3.908 3.188
KTQD 0 0 1 0.03 250 7.84
KTNQD 2817 100 3.907 99.97 2.938 92.16
Nguồn: báo cáo tổng kết hàng năm của SGDI - NHNNo & PTNT VN.
Từ biểu trên ta thấy hầu hết nợ quá hạn đều tập trung vào khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh. Theo biểu 3 ngân hàng cho vay chủ yếu là ngắn hạn, đầu tư trung - dài hạn là
rất thấp. Nếu có thì ưu tiên cho khu vực kinh tế quốc doanh. Bởi vậy dư nợ quá hạn chủ
yếu thuộc cho vay ngắn hạn là phù hợp với thực tế cho vay của sở I.
Nhìn chung các khoản nợ quá hạn hiện nay của ngân hàng do nợ quá hạn từ các
năm trước vẫn chưa thu hồi được. Theo con số của quý I năm 1999, tại sở I vẫn còn 3
công ty trách nhiệm hữu hạn có dư nợ quá hạn chưa thu hồi được (Công ty trách nhiệm
hữu hạn Bình Minh: 39 triệu đồng; Công ty trách nhiệm hữu hạn Tiến Thắng: 447 triệu
đồng; Công ty trách nhiệm hữu hạn Minh Anh: 171 triệu đồng). Ngân hàng cũng đã tiến
hành các biện pháp cần thiết và thu hồi được một lượng nợ quá hạn đáng kể (riêng năm
1998 đã thu hồi được 969 triệu đồng nợ quá hạn khu vực kinh tế ngoài quốc doanh).
Từ những con số trên cho ta thấy tại sở giao dịch I cho vay khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh vẫn còn nhiều hạn chế chưa được giải quyết thỏa đáng.
Tuy nhiên đã nói đến hoạt động kinh doanh thì không thể không nói đến những rủi
ro mất mát có thể xảy ra. Đặc biệt kinh doanh ứng dụng ngân hàng được xác nhận là loại
hình kinh doanh tiềm ẩn nhiều rủi
ro nhất. Các khoản nợ phát sinh không ai có thể khẳng định hoàn toàn chính xác về
khả năng hoàn trả bởi vì khả năng thanh toán nợ của người vay có thể thay đổi sau khi
món vay được thực hiện. Nợ quá hạn phát sinh do nhiều nguyên nhân khác nhau: có
nguyên nhân khách quan, có nguyên nhân thuộc về cơ chế chính sách kinh tế, có nguyên
nhân bất khả kháng, nhưng cũng có những nguyên nhân chủ quan thuộc về bên cho vay
hoặc bên vay. . . Nhiều nguyên nhân gây ra nợ quá hạn trong quá trình đầu tư tín dụng với
kinh tế ngoài quốc doanh càng không thể thống kê hết trong một nền kinh tế chuyển đổi,
môi trường pháp lý chưa ổn định, thiếu đồng bộ. Mặt khác, các thành phần thuộc kinh tế
ngoài quốc doanh lại bị hạn chế nhiều về trình độ tổ chức sản xuất, trình độ hiểu biết pháp
luật.
Thực trạng trên cho thấy các biện pháp đảm bảo, kết hợp với việc đẩy mạnh cho
vay với việc tăng cường độ an toàn của vốn tín dụng chưa được sử dụng một cách hữu
hiệu. Thực tế sở I cho thấy đang còn nhiều vướng mắc là những nhân tố trở ngại cho quá
trình đẩy mạnh cho vay kinh tế ngoài quốc doanh trên cơ sở đảm bảo an toàn vốn tín
dụng ngày càng cao.
III- Những tồn tại trong quá trình cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại
sở giao dịch I ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
1. Tồn tại từ phía ngân hàng.
1.1. Quyết định cho vay.
Những quy định cho vay trong ngân hàng còn nhiều bất cập nên khách hàng
thường lợi dụng sơ hở để lừa đảo, chiếm dụng vốn. Mặc dù các chính sách, cơ chế ngân
hàng đã tổ chức cho cán bộ tín dụng học hỏi, tìm hiểu nhưng chỉ mang tính đối phó, vì
vậy các hiện tượng làm sai nguyên tắc vẫn xảy ra. Các thể lệ, chế độ cho vay không được
tuân thủ, hồ sơ cho vay không được xem xét kỹ trước khi quyết định cho vay. Việc đánh
giá tài sản thế chấp chưa được lập, bảo quản không đúng quy định nên khó khăn khi xử lý
tài sản thế chấp, gây thất thoát cho ngân hàng. Đặc biệt là khâu kiểm tra, kiểm soát trong
quá trình sử dụng vốn không được ngân hàng coi trọng, đôn đốc trả nợ chưa kịp thời nên
vốn thường sử dụng sai mục đích dẫn đến nợ quá hạn.
Các món nợ quá hạn không được chuyển kịp thời, lãi không được thanh toán đúng
hạn (lãi treo) dẫn đến thất thoát cho ngân hàng. Đến tháng 3/1999 tại sở I còn trên 1.675
triệu đồng tiền lãi chưa thu trên 1 năm và 1.302 triệu đồng tiền lãi dưới 1 năm ngân hàng
chưa thu hồi được.
Cho vay ngoài quốc doanh đối với những món vay lớn rủi ro rất cao vì khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh có vốn tự có thấp. Khi có biểu hiện xấu làm ăn thua lỗ của
doanh nghiệp thì ngân hàng rất khó khăn trong vấn đề thu hồi vốn, đê
dễ dẫn đến nợ quá hạn.
1.2. Kiểm tra, kiểm soát trong quá trình sử dụng vốn vay của ngân hàng.
Trong quá trình cho vay, điều ngân hàng quan tâm hàng đầu là khả năng trả nợ của
khách hàng. Muốn vậy, ngoài thẩm định trước khi cho vay ngân hàng phải xem xét việc
sử dụng vốn vay của khách hàng vì nếu vốn vay được sử dụng hiệu quả thì khả năng trả
nợ là chắc chắn hơn.
Thực tế tại sở I trong thời gian qua vấn đề kiểm tra quá trình sử dụng vốn còn
nhiều vấn đề vướng mắc. Tâm lý của cán bộ tín dụng thường yên tâm khi có tài sản đảm
bảo tiền vay. Song thực tế khi dẫn đến nợ quá hạn thì vấn đề xử lý tài sản đảm bảo tiền
vay là vô cùng phức tạp, khó thu hồi đủ vốn vì thường có nhiều chi phí phát sinh.
Do không coi trọng vấn đề quản lý vốn trong khi cho vay nên thường xảy ra các
hiện tượng thất thoát vốn ngân hàng như:
- Khách hàng sử dụng vốn không đúng mục đích. Thậm chí các khoản khách hàng
vay ngân hàng để đầu tư ngắn hạn lại sử dụng vào đầu tư trung dài hạn như mua sắm máy
móc thiết bị, đầu tư xây dựng cơ bản,... Khi đáo hạn không có tiền trả cho ngân hàng dẫn
đến nợ quá hạn kéo dài.
- Do làm ăn kinh doanh không hiệu quả, nợ chồng chất nếu ngân hàng không kiểm
tra chặt chẽ sẽ xảy ra tình trạng sử dụng vốn vay nơi này bù đắp khoản nợ nơi khác và vì
vậy khoản vay của ngân hàng rủi ro rất cao, khó thu hồi. Thông thường ngân hàng chỉ
tăng cường thanh tra, kiểm soát việc sử dụng vốn khi phát hiện khoản vay đó có vấn đề.
Nhưng đến lúc đó việc xử lý đã rất khó khăn, không thể chủ động như việc kiểm tra, đôn
đốc sử dụng vốn có hiệu quả ngay từ đầu.
1.3. Cho vay trung - dài hạn.
Cho vay trung - dài hạn bước đầu được chú ý nhưng tỷ trọng vần còn nhỏ bé: Nhu
cầu vay vốn trung dài hạn của các loại hình kinh tế ngoài quốc doanh để xây dựng mới,
cải tạo, đầu tư chiều sâu, phát triển sản xuất kinh doanh ngày càng lớn, nắm bắt được tình
hình đó sở I đã có những nỗ lực không nhỏ nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Tuy
nhiên tỷ trọng doanh số cho vay trung-dài hạn trong tổng doanh số cho vay kinh tế ngoài
quốc doanh cho đến năm 1998 chỉ đạt 0,24%. Nguyên nhân chủ yếu vẫn là thiếu nguồn
vốn huy động dài hạn. Ngoài ra đầu tư trung và dài hạn còn chứa nhiều rủi ro, cán bộ tín
dụng còn chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc thẩm định cho vay các dự án đầu tư trung
- dài hạn đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Đây cũng là trở ngại trong việc
đẩy mạnh cho vay trung - dài hạn ở các ngân hàng thượng mại nói chung và sở I nói
riêng.
1.4. Lãi suất cho vay được áp dụng đồng nhất cho tất cả các loại hình sản xuất - thương
nghiệp - dịch vụ.
Thực tế hiện nay, kinh doanh thương nghiệp dịch vụ tỷ suất lợi nhuận vẫn cao hơn
khối hoạt động sản xuất. Như vậy ở đây sở I chưa thể hiện được mối quan tâm chia sẻ lợi
nhuận một cách phù hợp với các bạn hàng kinh doanh của mình. Điều này có thể cản trở
một số khách hàng, đặc biệt là cơ sở sản xuất đến vay vốn ngân hàng bởi lẽ có thể xảy ra
hoặc lợi nhuận mà họ thu được hầu như chỉ đủ trả nợ lãi ngân hàng hoặc thậm chí lợi
nhuận đó không đủ trả lãi ngân hàng. Thực tế hiện nay, chủ yếu chỉ có các đơn vị, cá
nhân kinh doanh thương nghiệp, dịch vụ vay vốn ngân hàng, số đơn vị sản xuất còn ít.
Mà đây lại là những đối tượng đang được Nhà nước chú ý khuyến khích phát triển.
Những vướng mắc và tồn tại trên đây bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân cả từ phía
môi trường khách quan, cơ chế chính sách của Nhà nước và qui định của ngân hàng
Trung ương đến sự vận dụng cơ chế tín dụng của bản thân sở I. Vì vậy cần phải có giải
pháp thích hợp về lãi suất nhằm một mục đích tối cao đưa vốn tín dụng ngân hàng xâm
nhập ngày càng rộng rãi có hiệu quả, an toàn vào quá trình sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh tương xứng với nhu cầu và tiềm năng của chúng.
1.5. Về mặt cán bộ tín dụng.
Cán bộ tín dụng là một trong những yếu tố quyết định chất lượng của một khoản
cho vay. Yêu cầu của một cán bộ tín dụng không chỉ là kiến thức chuyên môn mà để một
quyết định cho vay đưa ra được hiệu quả đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có kiến thức tổng
hợp về kinh tế, chính trị, xã hội. Cán bộ tín dụng phải biết phân tích và dự đoán các tình
huống có thể xảy ra để từ đó lượng hoá các rủi ro của các khoản vay.
Nhưng thực tế tại sở mặc dù cán bộ tín dụng hầu hết được đào tạo chính quy
chuyên ngành song chưa có kiến thức toàn diện, chưa có khả năng phân tích các tình
huống để lượng hóa các rủi ro trong tương lai của các khoản vay. Các dự án đánh giá
không đúng thực trạng, không khả thi nên những dự toán trong khi cho vay và thực tế khi
dự án đi vào hoạt động rất khác nhau nên rủi ro xảy ra là tất yếu.
Một phần nguyên nhân do sự chủ quan của cán bộ tín dụng. Đối với những khách
hàng quen của mình cán bộ tín dụng thường chủ quan hơn trong thẩm định, xét duyệt cho
vay cũng như kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng vốn vay. Quyết định cho vay chủ yếu dựa
vào những thông tin mà khách hàng cung cấp thay cho những thông tin mà ngân hàng
phải tìm hiểu, thẩm định tính đúng đắn. Vì vậy khi khoản vay có vấn đề cán bộ tín dụng
thường không phát hiện kịp thời để xử lý dẫn đến không thu hồi được nợ.
Thông thường ngân hàng coi một khoản vay phải được hoàn trả gốc và lãi theo
đúng hợp đồng tín dụng là trách nhiệm của cán bộ tín dụng nhưng lại không có chính
sách ưu đãi đối với họ. Nhưng thực tế có những rủi ro mà ngay cả cán bộ tín dụng cũng
không thể lường trước và ngăn chặn được (rủi ro bất khả kháng). Khi rủi ro xảy ra ngân
hàng thường quy trách nhiệm cho cán bộ tín dụng. Những rủi ro này lại thường xảy ra khi
cho vay ngoài quốc doanh nên tâm lý của cán bộ tín dụng không nhiệt tình trong cho vay
khu vực này.
Ngân hàng chưa có công cụ để kiểm soát việc quan hệ mua bán giữa các khách
hàng cũng như các công cụ tích cực để bắt buộc các khách hàng phải sử dụng vốn vay
đúng mục đích nên việc giám sát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp còn nhiều hạn chế.
2. Tồn tại từ phía khách hàng.
Cho vay khu vực kinh tế ngoài quốc doanh rủi ro chủ yếu phát sinh từ khách hàng.
Từ những đặc điểm của khu vực kinh tế này (đã phân tích ở chương I) cho ta thấy tại sở I
có một số tồn tại từ phía khách hàng sau:
Đây là khu vực kinh tế còn tồn tại nhiều vấn đề về hoạt động sản xuất kinh doanh
chưa được giải quyết đặc biệt là trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt hiện nay như:
làm ăn manh mún, chụp giật, vốn nghèo nàn, thậm chí có những doanh nghiệp kinh
doanh bằng vốn ảo, công nghệ lạc hậu, nhan lực chưa đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh
doanh ngày một phát triển, chưa có chế độ hạch toán kinh tế khoa học,. . nên hầu hết các
doanh nghiệp khu vực này làm ăn kém hiệu quả , có những doanh nghiệp không có khả
năng xây dựng phương án sản xuất kinh doanh cho mình. Vì vậy cho vay khu vực này rủi
ro rất cao mà ngân hàng không thể lường trước được. Đây cũng là một nguyên nhân chính
dẫn đến dư nợ quá hạn tăng và là câu trả lời cho sự giảm dư nợ khu vực này trong những
năm gần đây. Trong cơ chế cạnh tranh khốc liệt hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp phải
có vốn tăng cường cho sản xuất kinh doanh, nhưng do vốn tự có nhỏ bé nên các doanh
nghiệp khi kinh doanh thua lỗ thường chiếm dụng vốn lẫn nhau, lừa đảo, bỏ trốn dẫn đến
không thu hồi được nợ (năm 1998 ngân hàng thất thoát 968 triệu đồng do khách hàng lừa
đảo bỏ trốn).
Những khó khăn trong xử lý tài sản đảm bảo tiền vay một phần cũng do khách
hàng cố tình gây nên. Khách hàng thường không ủng hộ ngân hàng trong xử lý tài sản thế
chấp mà thường gây khó dễ, đặc biệt là trường hợp kinh tế ngoài quốc doanh do người
đứng ra đăng ký kinh doanh không thực sự kinh doanh, khi phát sinh nợ quá hạn, xử lý tài
sản thế chấp khó khăn trong quy trách nhiệm các bên liên quan. Khi đưa ra cơ quan pháp
luật xử lý thường tốn kém cho ngân hàng.
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường sử dụng vốn không hiệu quả do sử
dụng vốn sai mục đích hoặc do kinh doanh thua lỗ. Vì vậy cho vay khu vực này nợ quá
hạn cao.
3. Tồn tại từ phía cơ chế chính sách của Nhà nước, của ngân hàng Nhà nước.
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam là một ngân hàng
thương mại quốc doanh, mà sở giao dịch I là đơn vị trực thuộc của ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam nên hoạt động của nó chịu nhiều tác động của
các chính sách, quy định của Nhà nước cũng như ngân hàng Nhà nước.
Những năm gần đây mặc dù Nhà nước đã có chính sách phát triển kinh tế ngoài
quốc doanh, cũng như chính sách bình đẳng giữa các thành phần kinh tế nhưng trên thực
tế kinh tế quốc doanh vẫn được ưu đãi hơn cả về cơ hội phát triển cũng như chính sách
đầu tư vốn. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chưa được quan tâm ưu đãi đúng mức.
Bên cạnh đó là sự quản lý Nhà nước đối với khu vực này còn lỏng lẻo, các hiện
tượng vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh doanh của khu vực này vẫn thường xảy ra
như: hoạt động kinh doanh không đúng với giấy phép đăng ký kinh doanh, hoạt động
kinh doanh phi pháp, trốn thuế,... Vì vậy, rủi ro kinh doanh của khu vực này rất lớn,
không đủ tin cậy để ngân hàng cho vay.
Về phía ngân hàng phải chịu sự quản lý của nhiều cấp trung gian với các quy chế,
chính sách còn chồng chéo từ Nhà nước, ngân hàng Nhà nước rồi đến hướng dẫn của các
bộ, ngành khác nhau. Các cơ chế này đã không những làm hạn chế thế chủ động cho vay
của ngân hàng mặt khác lại chưa đủ sức để điều chỉnh một cách có hiệu quả những diễn
biến phức tạp thực tế diễn ra trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Những quy chế
về thế chấp, cầm cố tài sản của các đơn vị vay vốn tại ngân hàng chưa khoa học, công
bằng gây thiệt hại cho ngân hàng và nền kinh tế. Nhiều doanh nghiệp vốn được đầu tư
chủ yếu từ ngân hàng song khi bị giải thể, phá sản thì ngân hàng không phải là người
được thanh toán đầu tiên từ nguồn thanh lý tài sản. Những nguồn tài sản còn lại không
phải là nguồn mà đơn vị vay vốn dùng để thế chấp nên ngân hàng không được đòi quyền
lợi. Vì những vướng mắc này mà sở giao dịch I trong những năm qua đã có nhiều món nợ
quá hạn tồn đọng không thể thu hồi được.
Các quy định về xử lý tài sản đảm bảo tiền vay cũng chưa thông thoáng, chưa phù
hợp với quan hệ tín dụng, ở nước ta chưa thành lập được trung tâm trọng tài kinh tế theo
đúng nghĩa. Bên cạnh đó, các quy định về thế chấp, cầm cố, bảo lãnh rất chặt chẽ. Mục
đích là để đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia mà ở đây là ngân hàng và đơn vị vay
vốn. Nhưng vô hình chung vì những quy định chặt chẽ đó mà chính quyền lợi của ngân
hàng và khách hàng bị vi phạm.
Thông thường xử lý tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh thông qua cơ quan pháp
luật đảm bảo an toàn cho khách hàng nhưng mất nhiều thời gian và tốn kém. Trường hợp
nếu bán tài sản thế chấp là nhà còn nhiều vướng mắc về luật dân sự (ngân hàng muốn bán
nhà phải lo chỗ ở khác cho chủ sở hữu nhà).
Nhưng nếu ngân hàng tự xử lý lại gặp rất nhiều khó khăn. Theo nguyên tắc cả
ngân hàng và chủ tài sản đứng ra bán tài sản. Nghĩa là tài sản muốn bán được phải được
sự đồng ý của chủ sở hữu, trong lúc tình trạng chung là khách hàng không đồng ý, gây
khó khăn cho ngân hàng trong việc phát mại tài sản.
Để thu hồi được món nợ thông qua phát mại tài sản thế chấp ngân hàng gặp rất
nhiều thủ tục rườm rà, tốn thời gian và chi phí trong khi số tiền thu hồi được chưa chắc đã
đủ bù đắp những khoản nợ của khách hàng, chưa kể các chi phí phát sinh.
chương iii
một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao
chất lượng tín dụng đối với khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh tại sở giao dịch i
ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn việt nam
i- định hướng hoạt động của sở giao dịch i ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn việt nam trong thời gian tới.
Hiện nay, trong cơ chế thị trường, các ngân hàng thương mại đều hoạt động kinh
doanh theo hướng “đi vay để cho vay”, không sử dụng đến nguồn vốn cấp phát, huy động
vốn theo hướng có lợi cho kinh doanh và liên tục tìm kiếm cơ hội đầu tư vốn có hiệu quả.
Bên cạnh chức năng trực tiếp kinh doanh trên địa bàn Hà Nội, sở giao dịch I ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam còn thực hiện chức năng hạch toán và
điều chuyển vốn trong toàn hệ thống theo lệnh của Tổng Giám đốc. Chính vì vậy, để tạo
được tính chủ động trong hoạt động kinh doanh của mình và để đáp ứng một cách tốt nhất
mọi nhu cầu của khách hàng đến vay vốn và giao dịch sở I đã đề ra những phương hướng
và nhiệm vụ sau :
- Công tác tín dụng tiếp tục đặt phương châm an toàn và hiệu quả cao lên vị trí
hàng đầu.
- Tập trung giải quyết dư nợ quá hạn, các trường hợp dư nợ quá hạn trên 6 tháng
cần tiến hành phát mại tài sản để thu hồi nợ.
- Tăng cường huy động vốn bằng nhiều biện pháp, đặc biệt
với nguồn vốn trung và dài hạn.
- Đưa chế độ học tập luật ngân hàng và các luật các tổ chức tín dụng, các luật có
liên quan khác song song với học các văn bản thể lệ, chế độ, quy trình nghiệp vụ của
ngành.
- Với tiềm năng và khí thế của mình, sở giao dịch I phấn đấu hoàn thành tốt các
mục tiêu sau:
+Tổng nguồn vốn huy động đến cuối năm 1999 phấn đấu đạt từ 2.000 đến 2.500 tỷ
đồng.
+ Tổng dư nợ từ 200 tỷ đến 250 tỷ đồng.
+ Nợ quá hạn dưới 2% / tổng dư nợ.
+ Chênh lệch thu chi nghiệp vụ theo 946A đạt trên 40 tỷ đồng.
II- một số giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay đối với khu vực kinh tế ngoàI quốc doanh
ở sở giao dịch I ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam.
Hiện nay do xu hướng mở cửa của nền kinh tế, các chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, ngân hàng liên doanh hoạt động ở Việt Nam đặc biệt trên địa bàn thành phố Hà
Nội ngày càng tăng. Sự xuất hiện đó làm cho mức độ cạnh tranh trên thị trường tiền tệ tín
dụng ngày càng lớn. Để có thể đứng vững trong quá trình đó đòi hỏi mỗi ngân hàng trong
đó có sở giao dịch I phải thực sự quan tâm tới chất lượng công việc của mình. Nghiên cứu
và thực thi các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng cho vay đối với kinh tế ngoài
quốc doanh là nhiệm vụ quan trọng của sở I. Trên tinh thần đó một số giải pháp và kiến
nghị sau đây có thể được đưa ra để xem xét:
1. Giải pháp đối với sở giao dịch I.
1.1. Biện pháp tạo nguồn.
Sở giao dịch I luôn xác định nguồn thu nợ để tái quay vòng vốn là một trong
những nguồn vốn quan trọng. Trong khi nguồn huy động của dân cư chủ yếu là dưới 1
năm mà tín dụng trung dài hạn đòi hỏi phải có thời hạn từ trên một năm đến 3 - 5 năm thì
nguồn thu nợ từ các dự án trước là nguồn chính để nuôi các dự án sau. Đẩy mạnh các biện
pháp thu nợ, tránh nợ quá hạn cũng góp phần cải thiện chất lượng tín dụng. Đối với các
dự án cho vay bằng nguồn ngân sách trước đây, sở giao dịch I đang tích cực thu nợ và
được Chính phủ cho phép sử dụng để hỗ trợ cho nguồn vốn dài hạn đang khó khăn.
Việc tìm kiếm những nguồn dài hạn trên thị trường quốc tế cũng rất đáng được
quan tâm. Sở giao dịch I đã rất chủ động trong việc ký kết các hiệp định khung với ngân
hàng nước ngoài, vay vốn từ các tổ chức quốc tế như quỹ phát triển kinh tế xã hội châu á,
quỹ hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. . .Tuy nhiên cần hết sức thận trọng trong việc
vay vốn nước ngoài vì nếu quản lý không tốt nguồn vốn vay sẽ dần đến nguy cơ không
trả được nợ nước ngoài. Nên chăng sở giao dịch I nghiên cứu áp dụng phát hành trái
phiếu ra nước ngoài. Vì sở giao dịch I đã rất quen thuộc với việc phát hành trong nước,
nghiệp vụ chuyên môn đã được củng cố thì việc hướng ra thị trường quốc tế là có khả
năng. Trước mắt có thể phát hành cho những nước, ngân hàng Trung ương đã có mối
quan hệ với sở giao dịch I, ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam để thăm dò thị
trường và kịp thời rút kinh nghiệm.
1.2. Nghiên cứu khách hàng.
Để đảm bảo khả năng sinh lời trong hoạt động kinh doanh, trước hết sở giao dịch I
cần phải đảm bảo sự an toàn vốn trong kinh doanh nhưng tránh được rủi ro là một việc
làm khó khăn vì trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp luôn ở trong quá trình
cạnh tranh qua đó các doanh nghiệp sẽ tiếp tục tồn tại phát triển hoặc sẽ lâm vào tình
trạng đình đốn, bế tắc kéo dài hoặc phá sản là hoàn toàn phụ thuộc vào chính năng lực
của doanh nghiệp. Do vậy trong quan hệ với khách hàng ngân hàng phải luôn có những
thông tin đầy đủ, kịp thời và xác thực nhất về khách hàng của mình để có những thái độ
ứng xử kịp thời, phù hợp.
Trước khi thiết lập mối quan hệ tín dụng ngân hàng cần phải biết: đối tượng được
đầu tư là ai? Số vốn cần vay là bao nhiêu? và thời gian nào thu hồi được vốn vay. Vì vậy
mỗi ngân hàng cần thiết phải phân tích kinh tế và xếp loại doanh nghiệp. Việc phân tích
kinh tế giúp cho ngân hàng:
- Nhìn nhận một cách khách quan, logic tình hình hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp trong quá khứ cũng như hiện tại, dự kiến xu hướng phát triển của doanh nghiệp
trong tương lai, trên cơ sở đó đánh giá chính xác đối tượng cần được đầu tư để có đối
sách thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả vốn đầu tư.
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng sản xuất, kinh doanh và tình hình tài chính của
doanh nghiệp để xem xét xu hướng phát triển của từng ngành, từng lĩnh vực kinh tế. Đây
là căn cứ để ngân hàng đánh giá cơ cấu, chất lượng tín dụng theo từng đối tượng cho vay
cũng như theo từng lĩnh vực đầu tư vốn. Trên cơ sở những điều tìm hiểu được, ngân hàng
tiến hành lập hồ sơ khách hàng, phân loại khách hàng theo từng tiêu thức như: khả năng
thanh toán, tình hình tài chính,.. các khách hàng có thể được phân ra thành 3 loại:
Loại 1: Phương hướng sản xuất kinh doanh ổn định, vốn tự có lớn, tài chính lành
mạnh, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao có uy tín trong quan hệ vay trả.
Loại 2: Việc sản xuất kinh doanh chưa ổn định, gặp khó khăn tạm thời về tài chính
nhưng kinh doanh có lãi.
Loại 3: Không có phương án kinh doanh cụ thể, kết quả sản xuất kinh doanh thua
lỗ hoặc không có lãi, tình hình tài chính không lành mạnh, trình độ quản lý yếu kém, việc
hạch toán kế toán không đúng với qui định của pháp lệnh kế toán thống kê.
Dựa vào tiêu thức phân loại trên, sở I có thể áp dụng một số biện pháp sau nhằm
nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng.
- Cho vay tín chấp với những khách hàng có phẩm chất kinh doanh tốt, có nhà, đất
hay cửa hàng thực sự nhưng không đủ cơ sở pháp lý (giấy tờ sở hữu nhà đất không có dấu
của công chứng) hoặc nhà thuê hợp đồng với Nhà nước có giá trị cao, địa thế đẹp, dễ
chuyển nhượng quyền sử dụng. Việc đảm bảo an toàn vốn tín dụng trong những trường
hợp này sẽ được tăng cường trên cơ sở mối liên hệ chặt chẽ, thường xuyên của ngân hàng
với chính quyền sở tại và các cơ quan hữu quan, trong trường hợp rủ ro có thể nhanh
chóng chuyển quyền sử dụng nhà cho người khác để thu hồi vốn.
- Cho vay theo hình thức thế chấp, cầm cố với những khách hàng mà việc sản xuất
kinh doanh chưa ổn định, gặp khó khăn về tài chính nhưng việc kinh doanh có lãi và
trong quá trình hoạt động doanh nghiệp chấp hành đúng những qui định của pháp luật
Nhà nước và qui chế của ngân hàng.
- Từ chối cung cấp tín dụng cho những khách hàng không đủ năng lực trong việc
sản xuất kinh doanh.
1.3. áp dụng nghiệp vụ tín dụng thuê mua.
Thực tế đã chứng minh nhiều doanh nghiệp sử dụng tài sản cố định không đạt
hiệu quả kinh tế cao. Nhiều loại tài sản cố định thời gian sử dụng hữu ích trong năm chỉ
đạt từ 50% - 70%. Trong quá trình sắp xếp lại sản xuất, các doanh nghiệp đều chú ý tới
việc bố trí lại tài sản cố định hợp lý. Những tài sản thừa, không sử dụng được nhượng
bán hoặc điều chuyển (kể cả đất đai, nhà xưởng, phương tiện thiết bị máy móc) tuy nhiên
có những loại tài sản cố định dù hiệu quả thấp, thời gian sử dụng hữu ích không nhiều
nhưng không thể bán nhượng được vì rất cần thiết cho sản xuất kinh doanh. Mặt khác,
trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp luôn có các phương án nhạy bén dể đạt
hiệu quả cao. Do vậy cần nhiều
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại sở giao dịch I ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.pdf