Tài liệu Luận văn Một số giải pháp kỹ thuật nghiệp vụ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu tại công ty dịch vụ du lịch và thương mại TST: Luận văn
Đề Tài:
Một số giải pháp kỹ thuật
nghiệp vụ nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động nhập khẩu tại
công ty dịch vụ du lịch và
thương mại TST
1
LỜI NÓI ĐẦU
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đánh dấu bước ngoặt lớn trong cơ
chế quản lý kinh tế nước ta từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trong bối cảnh mới, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương mở rộng quan
hệ ngoại thương. Kinh doanh xuất nhập khẩu đóng một vai trò quan trọng
trong công cuộc phát triển nền kinh tế đất nước. Xuất khẩu là nguồn tăng thu
ngoại tệ, nâng cao khả năng phát triển nền kinh tế. Song nhập khẩu lại là điều
kiện cần thiết để thực hiện tái sản xuất mở rộng, thực hiện công nghiệp hoá -
hiện đại hoá đất nước. Nhập khẩu cho phép tận dụng được tiềm năng về khoa
học kỹ thuật tiên tiến của các nước trên thế giới.
Trong quá trình đổi mới và xây dựng đất nước nhu cầu về máy móc thiết
bị, vật l...
74 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1317 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Một số giải pháp kỹ thuật nghiệp vụ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu tại công ty dịch vụ du lịch và thương mại TST, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Đề Tài:
Một số giải pháp kỹ thuật
nghiệp vụ nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động nhập khẩu tại
công ty dịch vụ du lịch và
thương mại TST
1
LỜI NÓI ĐẦU
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đánh dấu bước ngoặt lớn trong cơ
chế quản lý kinh tế nước ta từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trong bối cảnh mới, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương mở rộng quan
hệ ngoại thương. Kinh doanh xuất nhập khẩu đóng một vai trò quan trọng
trong công cuộc phát triển nền kinh tế đất nước. Xuất khẩu là nguồn tăng thu
ngoại tệ, nâng cao khả năng phát triển nền kinh tế. Song nhập khẩu lại là điều
kiện cần thiết để thực hiện tái sản xuất mở rộng, thực hiện công nghiệp hoá -
hiện đại hoá đất nước. Nhập khẩu cho phép tận dụng được tiềm năng về khoa
học kỹ thuật tiên tiến của các nước trên thế giới.
Trong quá trình đổi mới và xây dựng đất nước nhu cầu về máy móc thiết
bị, vật liệu vật tư không ngừng tăng lên . Cùng với tiến trình phát triển của đất
nước, công ty Thương mại du lịch và dịch vụ TST đã không ngừng vươn lên
tự hoàn thiện mình. Hoạt động kinh doanh XNK nói chung và kinh doanh
nhập khẩu máy móc thiết bị, vật liệu vật tư... nói riêng đã đạt được những kết
quả bước đầu tương đối khả quan. Tuy nhiên đội ngũ cán bộ công nhân viên
trong công ty không thoả mãn với những việc đã làm được mà luôn trăn trở
để thực hiện tốt hơn nữa chức năng, nhiệm vụ mà Bộ Thương mại giao phó.
Trong điều kiện bối cảnh kinh tế - chính trị thế giới có nhiều thay đổi
theo chiều hướng xấu, cuộc khủng hoảng tài chính khu vực Châu á vẫn còn
dư âm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các nước trong khu
vực. Bên cạnh đó chính sách quản lý nhập khẩu của Nhà nước cũng còn nhiều
tồn tại như biểu thuế nhập khẩu chưa khoa học, thủ tục hành chính còn nhiều
phiền phức... Trước rất nhiều khó khăn như vậy làm thế nào để hoạt động
nhập khẩu của công ty đạt hiệu quả cao? làm thế nào để phát huy thế mạnh
của công ty có uy tín trong và ngoài nước? đó là những câu hỏi đặt ra từ thực
trạng hoạt động nhập khẩu ở công ty dịch vụ du lịch và thương mại TST.
2
Trong thời gian thực tập tốt nghiệp tại công ty em đã tập trung nghiên
cứu thực trạng hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty và đã chọn đề tài:
"Một số giải pháp kỹ thuật nghiệp vụ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
nhập khẩu tại công ty dịch vụ du lịch và thương mại TST" làm luận văn
tốt nghiệp.
Do tính phức tạp của vấn đề, sự hạn hẹp về thời gian nên bài viết của em
còn nhiều điểm chưa hoàn chỉnh, không thể tránh khỏi những sai sót, em rất
mong sự góp ý kiến của các thầy cô giáo trong khoa.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo hướng dẫn Bùi Đức Dũng
cùng tập thể cán bộ phòng kinh doanh đã giúp đỡ em hoàn thành tốt luận văn
của mình.
3
CHƯƠNG I
NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ - MỘT HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN
CỦA KINH DOANH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I. TẦM QUAN TRỌNG CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1. Vị trí của hoạt động nhập khẩu trong Thương mại Quốc tế.
1.1. Khái niệm và vai trò của Thương mại Quốc tế đối với sự phát
triển của mỗi Quốc gia.
Thương mại quốc tế là mối quan hệ trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa một
quốc gia với quốc gia khác, là một bộ phận trong quan hệ kinh tế quốc tế của
một nước với các nước khác trên thế giới.
Thương mại Quốc tế làm tăng khả năng thương mại của mỗi quốc gia.
Từ sự khác biệt về tài nguyên, khoáng sản, lực lượng sản xuất, kỹ thuật công
nghệ… đã làm cho chi phí để sản xuất ra mỗi sản phẩm có sự khác biệt giữa
nước này với nước khác.
Thương mại Quốc tế góp phần mở rộng thị trường của mỗi quốc gia.
Thương mại Quốc tế trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tất yếu dẫn
đến cạnh tranh, theo dõi, kiểm soát lẫn nhau rất chặt chẽ giữa các chủ thể kinh
doanh Thương mại Quốc tế.
Thương mại Quốc tế cho phép mua được những hàng hoá và dịch vụ ở
những thị trường có giá rẻ hơn, sau đó bán chúng ở những thị trường có giá
cao. Nhưng điều lý thú hơn cả là không phải lúc nào ta cũng mua được các
sản phẩm có giá rẻ và bán chúng với giá đắt mà cái chính là chúng ta lợi dụng
được lợi thế so sánh, nhờ đó qua trao đổi Quốc tế mà cả hai bên đều có lợi.
Nói đến Thương mại Quốc tế không thể không tìm hiểu về các lý
thuyết kinh tế, đặc biệt là quy luật lợi thế so sánh. Quy luật lợi thế so sánh
4
nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất, coi đó là chìa khoá của phương
thức thương mại. Một quốc gia phải tập trung vào sản xuất và trao đổi sản
phẩm mà ở đó thể hiện mối tương quan thuận lợi hơn giữa các mức chi phí cá
biệt của Quốc gia đó với mức chi phí trung bình Quốc tế trên thị trường Thế
giới. Do đó có thể thấy cốt lõi của lợi thế so sánh là sự khéo léo lựa chọn, biết
kết hợp giữa ưu thế của một nước với ưu thế của nước khác để đạt được lợi
thế tối đa trên cơ sở một khả năng hạn chế.
Như vậy, một Quốc gia muốn phát triển thì phải bảo đảm hiệu quả tối
đa của việc chuyên môn hoá trên cơ sở lợi thế so sánh. Làm được điều đó thì
bất cứ một quốc gia nào cũng có thể tham gia vào thị trường Thương mại
Quốc tế một cách có lợi nhất.
1.2. Vị trí của công tác nhập khẩu trong Thương mại Quốc tế đối với
một quốc gia.
Nước ta cũng như nhiều nước khác có khả năng rất lớn về nhiều mặt
như: tài nguyên thiên nhiên, lao động... song không chỉ nhằm vào chúng một
cách độc lập mà hy vọng đạt hiệu quả cao. Tức là nói ngắn gọn không thể có
một nền kinh tế phát triển cao dựa trên cơ sở hoàn toàn tự cấp tự túc.
Để khai thác hiệu quả tiềm năng trên, chúng ta phải có vốn, khoa học
kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Để có những yếu tố này chúng ta có thể sử
dụng nhiều phương pháp mà phương pháp cơ bản nhất là thông qua Thương
mại Quốc tế trong đó chủ yếu và giữ vị trí chủ động là hoạt động nhập khẩu.
Trong điều kiện chúng ta còn tương đối lạc hậu về kinh tế công nghệ kỹ thuật
thấp kém thì việc thay thế lao động thủ công bằng lao động máy móc hiện đại
hoá lực lượng sản xuất không thể ngày một ngày hai mà chỉ có thể tiến hành
từng bước bằng nhập khẩu trong một thời gian dài. Việc thay đổi chiến lược
kinh tế từ "đóng cửa” sang "mở cửa” là vô cùng quan trọng. Nền kinh tế mở
sẽ tạo ra những hướng phát triển mới, tạo điều kiện khai thác lợi thế tiềm
năng của nước chúng ta trong phân công lao động Quốc tế một cách có lợi
5
nhất. Thương mại Quốc tế chỉ ra cho một nước lợi thế của mình, nên đầu tư
vào đâu, đầu tư vào lĩnh vực nào có lợi nhất. Nhập khẩu sẽ giúp chúng ta gỡ
những vướng mắc mà những nước nghèo thường mắc phải, phương châm đó
là vay mượn công nghệ nước ngoài trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá.
2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu.
Nhập khẩu là một trong hai hoạt động cấu thành hoạt động ngoại
thương. Có thể hiểu đó là việc mua hàng hoá, dịch vụ từ nước ngoài về phục
vụ cho nhu cầu trong nước hoặc tái sản xuất nhằm mục đích thu lợi. Nhập
khẩu thể hiện sự phụ thuộc gắn bó lẫn nhau giữa nền kinh tế của một quốc gia
với nền kinh tế Thế giới. Hiện nay khi các nước đều có xu hướng chuyển từ
đối đầu sang đối thoại, nền kinh tế quốc gia đã hoà nhập với nền kinh tế Thế
giới thì vai trò của nhập khẩu đã trở nên vô cùng quan trọng.
- Nhập khẩu mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước, cho phép tiêu
dùng một lượng hàng hoá lớn hơn khả năng sản xuất trong nước và tăng mức
sống của nhân dân.
- Nhập khẩu làm đa dạng hoá mặt hàng về chủng loại, quy cách, mẫu
mã cho phép thoả mãn nhu cầu trong nước.
- Nhập khẩu tạo ra sự chuyển giao công nghệ, do đó tạo ra sự phát triển
vượt bậc của sản xuất xã hội, tiết kiệm chi phí và thời gian, tạo ra sự đồng đều
về trình độ phát triển trong xã hội.
- Nhập khẩu tạo ra sự cạnh tranh giữa hàng nội và hàng ngoại, tạo ra
động lực bắt buộc các nhà sản xuất trong nước phải không ngừng vươn lên,
tạo ra sự phát triển xã hội và sự thanh lọc các đơn vị sản xuất.
- Nhập khẩu xoá bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ triệt để nền kinh tế
đóng, chế độ tự cấp, tự túc.
- Nhập khẩu giải quyết những nhu cầu đặc biệt (hàng hoá hiếm hoặc
quá hiện đại mà trong nước không thể sản xuất được).
6
- Nhập khẩu là cầu nối thông suốt nền kinh tế, thị trường trong và ngoài
nước với nhau, tạo điều kiện phân công lao động và hợp tác quốc tế, phát huy
được lợi thế so sánh của đất nước trên cơ sở chuyên môn hoá.
3. Các hình thức nhập khẩu thông dụng trong thương mại quốc tế.
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu chỉ được tiến hành ở các doanh
nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp, nhưng trong thực tế do tác động
của môi trường, điều kiện kinh doanh cùng với sự năng động sáng tạo của
người kinh doanh đã tạo ra nhiều hình thức nhập khẩu khác nhau. Có thể kể ra
đây một vài hình thức nhập khẩu đang được sử dụng tại các doanh nghiệp của
nước ta hiện nay.
3.1. Nhập khẩu trực tiếp:
Hoạt động nhập khẩu trực tiếp là hình thức nhập khẩu độc lập của một
doanh nghiệp xuất nhập khẩu trên cơ sở nghiên cứu kỹ thị trường trong và
ngoài nước, tính toán đầy đủ các chi phí đảm bảo kinh doanh có lãi, đúng
phương hướng, chính sách luật pháp của Nhà nước cũng như quốc tế.
Trong hoạt động nhập khẩu tự doanh, doanh nghiệp hoàn toàn nắm
quyền chủ động và phải tự tiến hành các nghiệp vụ của hoạt động nhập khẩu
từ nghiên cứu thị trường, lựa chọn bạn hàng, lựa chọn phương thức giao dịch,
đến việc ký kết và thực hiện hợp đồng. Doanh nghiệp phải tự bỏ vốn để chi
trả các chi phí phát sinh trong hoạt động kinh doanh và được hưởng toàn bộ
phần lãi thu được cũng như phải tự chịu trách nhiệm nếu hoạt động đó thua
lỗ.
Khi nhập khẩu tự doanh thì doanh nghiệp được trích kim ngạch nhập
khẩu, khi tiêu thụ hàng nhập khẩu doanh nghiệp phải chịu thuế doanh thu,
thuế lợi tức.
Thông thường, doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng nhập khẩu với nước
ngoài, còn hợp đồng tiêu thụ hàng hoá trong nước thì sau khi hàng về sẽ lập.
7
3.2. Nhập khẩu uỷ thác.
Hoạt động nhập khẩu uỷ thác là hoạt động nhập khẩu hình thành giữa
một doanh nghiệp hoạt động trong nước có ngành hàng kinh doanh một số
mặt hàng nhập khẩu nhưng không đủ điều kiện về khả năng tài chính, về đối
tác kinh doanh... nên đã uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao
dịch ngoại thương tiến hành nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của mình. Bên
nhận uỷ thác phải tiến hành đàm phán với nước ngoài để làm thủ tục nhập
khẩu theo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng một hoa hồng gọi là phí uỷ
thác. Quan hệ giữa doanh nghiệp uỷ thác và doanh nghiệp nhận uỷ thác được
quy định đầy đủ trong hợp đồng uỷ thác.
Nhập khẩu uỷ thác có đặc điểm: trong hoạt động nhập khẩu này, doanh
nghiệp Xuất nhập khẩu (nhận uỷ thác) không phải bỏ vốn, không phải xin hạn
ngạch (nếu có), không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ vì không phải tiêu
thụ hàng nhập mà chỉ đứng ra đại diện cho bên uỷ thác để giao dịch với bạn
hàng nước ngoài, ký hợp đồng và làm thủ tục nhập hàng cũng như thay mặt
cho bên uỷ thác khiếu nại đòi bồi thường với nước ngoài khi có tổn thất.
Khi tiến hành nhập khẩu uỷ thác thì đại diện của các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu chỉ được tính kim ngạch xuất nhập khẩu chứ không được tính
doanh số, không chịu thuế doanh thu. Khi nhận uỷ thác, các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu này (nhận uỷ thác) phải lập hai hợp đồng:
- Một hợp đồng mua bán hàng hoá với nước ngoài
- Một hợp đồng nhận uỷ thác với bên uỷ thác.
3.3. Nhập khẩu liên doanh.
Đây là một hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kỹ thuật
một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh
nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng, kỹ thuật để cùng
giao dịch và đề ra các chủ trương biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập
8
khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên,
cùng chia lãi nếu lỗ thì cùng phải chịu.
Nhập khẩu liên doanh có đặc điểm: so với tự doanh thì các doanh
nghiệp nhập khẩu liên doanh ít chịu rủi ro bởi mỗi doanh nghiệp liên doanh
nhập khẩu chỉ phải góp một phần vốn nhất định, quyền hạn và trách nhiệm
của các bên cũng tăng theo số vốn góp, việc phân chia chi phí, thuế doanh thu
theo tỷ lệ vốn góp, lãi lỗ hai bên phân chia tuỳ theo thoả thuận dựa trên vốn
góp cộng với phần trách nhiệm mà mỗi bên gánh vác.
Trong nhập khẩu liên doanh thì doanh nghiệp đứng ra nhận hàng sẽ
được tính kim ngạch xuất nhập khẩu. Khi đưa hàng về tiêu thụ thì chỉ được
tính doanh số trên số hàng tính theo tỷ lệ vốn góp và chịu thuế doanh thu trên
doanh số đó.
Doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp tham gia liên doanh phải lập hai hợp đồng:
- Một hợp đồng mua hàng với nước ngoài.
- Một hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp khác (không nhất thiết
phải là doanh nghiệp Nhà nước).
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu.
4.1. Các chế độ chính sách luật pháp trong nước và quốc tế:
Đây là những vấn đề quan trọng mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất
nhập khẩu buộc phải nắm vững và tuân theo một cách vô điều kiện. Vì nó thể
hiện ý chí của Đảng lãnh đạo mỗi nước, sự thống nhất chung của Quốc tế, nó
bảo vệ lợi ích chung của các tầng lớp trong xã hội, lợi ích của các nước trên
thương trường Quốc tế. Hoạt động nhập khẩu được tiến hành giữa các chủ thể
các Quốc gia khác nhau. Bởi vậy, nó chịu sự tác động của các chính sách, chế
độ, luật pháp của các quốc gia đó. Chẳng hạn như tự sửa đổi thực hiện, sửa
đổi luật pháp quốc gia hay sự thực hiện thay đổi chính sách thuế ưu đãi của
một nước hay một nhóm nước, điều đó không những chỉ ảnh hưởng đến nước
đó mà còn ảnh hưởng đến các nước có quan hệ kinh tế xã hội với những nước
9
đó. Đồng thời, hoạt động xuất nhập khẩu phải nhất định tuân theo những quy
định luật pháp Quốc tế chung. Luật pháp quốc tế buộc các nước vì lợi ích
chung phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong hoạt
động của mình trong hoạt động nhập khẩu, do đó tạo nên sự tin tưởng cũng
như hiệu quả cao trong hoạt động này.
4.2. Tỷ giá hối đoái.
Nhân tố này có ý nghĩa quyết định trong việc xác định mặt hàng, bạn
hàng, phương án kinh doanh, quan hệ kinh doanh của không chỉ một doanh
nghiệp xuất nhập khẩu mà tới tất cả các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập
khẩu nói chung. Sự biến đổi của nhân tố này sẽ gây ra những biến động lớn
trong tỷ trọng giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Ví dụ khi tỷ giá hối đoái của
đồng tiền thanh toán có lợi cho việc nhập khẩu thì lại bất lợi cho xuất khẩu và
ngược lại.
Mặt khác có rất nhiều loại tỷ giá hối đoái: tỷ giá hối đoái cố định, tỷ giá
hối đoái thả nổi, tỷ giá hối đoái thả nổi tự do và tỷ giá hối đoái thả nổi có
quản lý. Vì vậy khi tiến hành bất cứ một hoạt động thương mại xuất nhập
khẩu nào, doanh nghiệp cũng cần nắm vững xem hiện nay quốc gia mà mình
định hoạt động đang áp dụng loại tỷ giá nào, bởi việc ấn định này sẽ có ảnh
hưởng rất lớn đến lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu và kinh doanh hàng nhập
khẩu.
4.3. Sự biến động thị trường trong nước và nước ngoài.
Có thể hình dung hoạt động nhập khẩu như một chiếc cầu nối thông
thương giữa hai thị trường: đầu cầu bên này là thị trường trong nước, đầu cầu
bên kia là thị trường ngoài nước. Nó tạo sự phù hợp gắn bó cũng như phản
ánh sự tác động qua lại giữa chúng, phản ánh sự biến động của mỗi thị
trường, cụ thể như sự tôn trọng giá, giảm nhu cầu về một mặt hàng nào đó
10
trong nước sẽ làm giảm lượng hàng hoá đó chuyển qua chiếc cầu nhập khẩu
và ngược lại. Cũng như vậy, thị trường ngoài nước quyết định tới sự thoả mãn
các nhu cầu trên thị trường trong nước. Sự biến đổi của nó về khả năng cung
cấp, về sự đa dạng của hàng hoá, dịch vụ cũng được phản ánh qua chiếc cầu
nhập khẩu để tác dụng đến thị trường nhập khẩu.
4.4. Nền sản xuất cũng như sự phát triển của các doanh nghiệp
Thương mại trong và ngoài nước.
Sự phát triển sản xuất của những doanh nghiệp trong nước tạo ra sự
cạnh tranh mạnh mẽ với sản phẩm nhập khẩu, tạo ra sản phẩm nhập khẩu từ
đó làm giảm nhu cầu hàng nhập khẩu. Còn nếu như sản xuất kém phát triển
không sản xuất được những mặt hàng đòi hỏi kỹ thuật cao thì nhu cầu về hàng
nhập khẩu tăng lên là điều tất nhiên và do đó nó ảnh hưởng đến hoạt động
nhập khẩu.
Ngược lại, sự phát triển của nền sản xuất nước ngoài làm tăng khả năng
của sản phẩm nhập khẩu, tạo ra sản phẩm mới thuận tiện, hiện đại, sẽ hấp dẫn
nhu cầu nhập khẩu đẩy nó lên cao tạo đà cho hoạt động nhập khẩu phát triển.
Tuy nhiên, không phải lúc nào sản xuất trong nước phát triển thì hoạt
động bị thu hẹp, mà nhiều khi để tránh sự độc quyền, tạo ra sự cạnh tranh,
hoạt động nhập khẩu lại được khuyến khích phát triển. Tương tự như vậy, để
bảo vệ quyền sản xuất trong nước, khi nền sản xuất nước ngoài phát triển thì
hoạt động nhập khẩu càng bị thu hẹp và kiểm soát gắt gao.
Cũng như sản xuất, sự phát triển của hoạt động Thương mại trong và
ngoài nước, sự phát triển của các doanh nghiệp kinh doanh Thương mại quyết
định đến sự chu chuyển, lưu thông hàng hoá trong nền kỹ thuật hay giữa các
nền kinh tế. Chính vì vậy, nó tạo thuận lợi cho công tác nhập khẩu. Mặt khác
do chủ thể của hoạt động nhập khẩu chính là các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu, sự phát triển của doanh nghiệp này đồng nghĩa với việc thực hiện một
cách có hiệu quả các hoạt động nhập khẩu. Trong một nước mà các doanh
11
nghiệp Thương mại không được tự chủ phát triển, chịu sự can thiệp quá sâu
của Nhà nước thì hoạt động nhập khẩu cũng không thể phát huy thế chủ động,
tinh thần sáng tạo không thể vươn mạnh ra nước ngoài từ đó tạo ra sự bí bách
trong nền kinh tế.
4.5. Hệ thống tài chính ngân hàng.
Hiện nay, hệ thống tài chính ngân hàng đã phát triển hết sức lớn mạnh,
nó can thiệp sâu tới tất cả các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ, dù tồn tại dưới
hình thức nào, thuộc thành phần kinh tế nào.
Có được điều đó là bởi nó đóng vai trò hết sức to lớn trong hoạt động
quản lý, cung cấp vốn, đảm trách việc thanh toán một cách thuận tiện, chính
xác, nhanh chóng cho các doanh nghiệp. Hoạt động nhập khẩu sẽ không thực
hiện được nếu không có sự phát triển của hệ thống ngân hàng, dựa trên các
thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động nhập khẩu, đảm bảo cho
họ về mặt lợi ích kỹ thuật cũng như xã hội và cũng nhiều trường hợp do có
lòng tin với ngân hàng mà các doanh nghiệp với số lượng vốn lớn kịp thời tạo
điều kiện cho doanh nghiệp chớp được những thời cơ kinh doanh.
4.7. Hệ thống cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải, thông tin liên lạc:
Việc thực hiện hoạt động nhập khẩu không thể tách rời với hoạt động
vận chuyển và thông tin liên lạc. Nhờ có thông tin liên lạc hiện đại mà công
việc có thể tiến hành thuận lợi, kịp thời. Còn việc vận chuyển hàng hoá từ
nước này sang nước khác là một công việc hết sức quan trọng trong hoạt động
nhập khẩu. Do đó sự hiện đại hoá công việc nghiên cứu và áp dụng những
công nghệ tiên tiến của khoa học kỹ thuật vào hệ thống thông tin và giao
thông vận tải là tất yếu ảnh hưởng to lớn đến hoạt động nhập khẩu.
Trên đây, chúng ta đã xem xét một số nhân tố chính ảnh hưởng có tính
chất quyết định đến hoạt động nhập khẩu của bất cứ một quốc gia nào. Bên
cạnh đó cũng còn rất nhiều nhân tố khác. Vì vậy hoạt động nhập khẩu hết sức
12
phức tạp và có mối tác động qua lại tương hỗ với nhiều hoạt động khác trong
nền kinh tế.
II. NỘI DUNG CHÍNH CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU.
Hoạt động nhập khẩu là một quá trình bao gồm rất nhiều khâu từ khâu
nghiên cứu thị trường đến khâu tiếp nhận và bảo quản hàng hoá. ở mỗi khâu
đều cần phải nghiên cứu thực hiện một cách đầy đủ kỹ lưỡng, đồng thời phải
đặt các khâu trong mối quan hệ hữu cơ với nhau. Có như vậy hoạt động nhập
khẩu mới đạt được hiệu quả cao, phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và nhu cầu
tái sản xuất mở rộng trong nước, thực hiện nhiệm vụ của cấp trên giao đồng
thời cũng đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
Hoạt động nhập khẩu rất phức tạp và biến động muôn hình muôn vẻ
nhưng nhìn chung các hoạt động nhập khẩu đều bao gồm các bước sau:
1. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu.
Thị trường là phạm trù khách quan gắn liền với sự ra đời và phát triển
của nền sản xuất hàng hoá.
Việc nghiên cứu thị trường là công việc đầu tiên cũng là công việc đòi
hỏi cần được tiến hành liên tục thường xuyên trong suốt quá trình kinh doanh
của doanh nghiệp.
1.1. Nghiên cứu thị trường trong nước.
Việc nghiên cứu thị trường trong nước nhằm mục đích nhận biết sản
phẩm nhập khẩu, từ đó chọn ra mặt hàng kinh doanh có lợi nhất. Muốn như
vậy phải trả lời được những câu hỏi sau:
* Thị trường trong nước cần những mặt hàng gì? Tình hình tiêu thụ
mặt hàng đó ra sao?
Cần phải xác định được nhu cầu của người tiêu dùng về các mặt hàng
một cách cụ thể về quy cách, phẩm chất, kiểu dáng, bao bì, nhãn hiệu, số lượng
để nhập khẩu hàng hoá về thoả mãn đúng, đủ, kịp thời những nhu cầu đó.
13
* Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống? Tình hình sản
xuất mặt hàng đó ở trong nước như thế nào?
Mỗi sản phầm hàng hoá đều có chu kỳ sống riêng. Chu kỳ sống của
mỗi sản phẩm bao gồm các pha: pha giới thiệu, pha phát triển, pha hưng
thịnh, pha bão hoà, pha suy thoái, ở mỗi pha chu kỳ sống, nhu cầu của người
tiêu dùng về sản phẩm là rất khác nhau, biểu hiện ra thành hành động mua
cũng cũng rất khác nhau. Do vậy để kinh doanh nhập khẩu đạt hiệu quả cao
cần thiết phải nghiên cứu chu kỳ sống của sản phẩm và nắm bắt được sản
phẩm đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống.
Bên cạnh nghiên cứu nhu cầu về hàng hoá nhập khẩu, cần phải nghiên
cứu để biết được cung trong nước về hàng hoá đó. Chênh lệch nhu cầu về
hàng hoá và cung trong nước của hàng hoá đó chính là nhu cầu về hàng hoá
nhập khẩu. Yếu tố ảnh hưởng trực tiếp mạnh mẽ đến cung của một hàng hoá
là khả năng sản xuất và tốc độ phát triển sản xuất của hàng hoá đó. Do vậy,
muốn biết được nên kinh doanh nhập khẩu mặt hàng gì với số lượng là bao
nhiêu cần phải nghiên cứu tình hình trong nước về sản xuất mặt hàng đó như
thế nào.
1.2. Nghiên cứu thị trường hàng hoá quốc tế.
Một trong những yếu tố quan trọng của thị trường là cung về hàng hoá.
Kinh doanh nhập khẩu đòi hỏi phải nghiên cứu thị trường hàng hoá quốc tế là
một yếu tố khách quan.
Nghiên cứu thị trường hàng hoá quốc tế bao gồm việc nghiên cứu toàn
bộ quá trình tái sản xuất trên phạm vi quốc tế. Tức là việc nghiên cứu không
chỉ dừng lại ở lĩnh vực lưu thông mà còn nghiên cứu cả trong lĩnh vực sản
xuất và phân phối hàng hoá.
Nghiên cứu thị trường hàng hoá nhằm hiểu biết về quy luật hoạt động
của chúng- thể hiện qua nhu cầu, cung ứng, và giá cả - liên hệ với điều kiện
14
của doanh nghiệp và nhu cầu về hàng hoá nhập khẩu ở trong nước để quyết
định kinh doanh mặt hàng gì và lựa chọn đối tác kinh doanh thích hợp.
1.3. Nghiên cứu dung lượng thị trường và các yếu tố ảnh hưởng đến
dung lượng thị trường hàng hoá.
Có thể hiểu dung lượng thị trường của một mặt hàng là khối lượng
hàng hoá đó được giao dịch trên một khu vực thị trường nhất định (một quốc
gia, một khu vực hay trên toàn thế giới) trong một thời kỳ nhất định thường là
một năm.
Dung lượng thị trường không phải là yếu tố tĩnh mà thường xuyên biến
động do nó chịu sự tác động tổng hợp của rất nhiều yếu tố khác nhau. Nghiên
cứu dung lượng thị trường nhằm mục đích xác định được vị trí của doanh
nghiệp trên thương trường. Còn việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến dung
lượng thị trường để có thể dự đoán được sự biến động của nó trên cơ sở đó vạch
ra các kế hoạch chiến lược kinh doanh dài hạn và ngắn hạn cho doanh nghiệp.
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường tập trung
vào những nhân tố chủ yếu sau:
* Các nhân tố làm dung lượng thị trường biến động có tính chu kỳ: bao
gồm: sự vận động của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa, tính chất thời vụ của
sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hoá.
- Sự vận động của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa là nhân tố quan
trọng nhất có ảnh hưởng đến tất cả thị trường hàng hoá. Nắm vững ảnh hưởng
của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa đối với thị trường hàng hoá có ý nghĩa
quan trọng trong việc vận dụng các kết quả nghiên cứu thị trường và giá cả để
chọn thời gian giao dịch thích hợp nhằm đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất.
- Nhân tố thời vụ ảnh hưởng đến dung lượng thị trường hàng hoá trên
cả ba khâu sản xuất, lưu thông, tiêu dùng. Một số hàng hoá chịu ảnh hưởng
của các yếu tố mang tính chất thời vụ do đó việc sản xuất, lưu thông, tiêu
dùng những hàng hoá này cũng rất khác nhau nên sự tác động của nhân tố
15
thời vụ đến dung lượng thị trường của những hàng hoá khác nhau cũng rất
khác nhau. Nghiên cứu nhân tố này đòi hỏi phải nắm vững đặc điểm của mặt
hàng kinh doanh và tính chất thời vụ của nó để ra các quyết định đúng đắn về
hành động mua, vận chuyển và phân phối hàng hoá đó trong nước.
* Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài.
Có những nhân tố không làm thay đổi dung lượng thị trường hàng hoá
một cách nhanh chóng mà ta có thể dễ dàng nhận biết ngay được. Những nhân
tố này có thể gây những biến động rất lớn về dung lượng thị trường nhưng
phải trải qua một quá trình chứ không phải trong một thời gian ngắn. Có thể
đến các nhân tố như tiến bộ khoa học kỹ thuật, các biện pháp và chính sách
của nhà nước và các tập đoàn tư bản lũng đoạn, thị hiếu và tập quán người
tiêu dùng, ảnh hưởng của các hàng hoá thay thế.
* Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời:
Các nhân tố có thể kể đến là: các yếu tố tự nhiên, thiên tai, bão lụt, hạn
hán.. gây ra sự biến đổi cung cầu của một số mặt hàng nhất định. Cần phải
nghiên cứu các yếu tố này để có thể đối phó được với các tình huống bất ngờ
xảy ra.
1.4. Nghiên cứu giá cả hàng hoá trên phạm vi thị trường thế giới.
Trên thị trường thế giới, giá cả không những phản ánh mà còn điều tiết
cung cầu. Việc xác định đúng đắn giá cả trên thị trường quốc tế trong hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu có ý nghĩa quan trọng đối với hiệu quả
Thương mại Quốc tế. Cụ thể nó sẽ làm tăng thu ngoại tệ trong xuất khẩu và
giảm chi ngoại tệ trong nhập khẩu.
* Dự đoán xu hướng biến động của giá cả và các nhân tố ảnh hưởng
đến xu hướng ấy.
Tuỳ theo mục đích mà dự báo xu hướng biến động của giá cả trong thời
gian ngắn và dài. Kết quả nghiên cứu dự báo trong thời gian dài thường được
16
sử dụng vào mục đích lập kế hoạch nhập khẩu hàng năm. Dự báo trong thời gian
ngắn nhằm phục vụ trực tiếp cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu hiện tại.
* Các nhân tố tác động lên xu hướng biến động giá cả của hàng hoá.
Các nhân tố tác động lâu dài:
- Nhân tố chu kỳ: sự vận động có tính chất quy luật của nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa qua các giai đoạn của chu kỳ sẽ làm thay đổi quan hệ cung cầu
về các loại hàng hoá đó trên thị trường. Khi quan hệ cung cầu trên thị trường
thay đổi thì kéo theo sự thay đổi của giá cả hàng hoá là một điều tất yếu.
- Nhân tố lũng đoạn và giá cả: lũng đoạn làm xuất hiện nhiều mức giá
khác nhau đối với cùng một loại hàng hoá, thậm chí ngay trên cùng một khu
vực thị trường tuỳ theo mối quan hệ giữa người mua và người bán.
- Nhân tố cạnh tranh: cạnh tranh có thể làm cho giá biến động theo
những xu hướng khác nhau. Cạnh tranh giữa những người bán xảy ra khi trên
thị trường có xu hướng cung lớn hơn cầu khiến cho giá có xu hướng giảm
xuống. Cạnh tranh giữa những người mua xuất hiện trên thị trường khi cầu có
xu hướng lớn hơn cung làm cho giá cả trên thị trường có xu hướng tăng lên.
Đây cũng chính là mối quan hệ giữa cung cầu và giá cả.
- Nhân tố lạm phát: giá cả hàng hoá không những được quyết định bởi
giá trị của nó, mà còn được quyết định bởi giá trị của một đơn vị tiền tệ hiện
hành.
Trên thị trường thế giới, giá cả hàng hoá thường là sự biểu hiện giá trị
của nó thông qua những đồng tiền mạnh (như Đôla Mỹ, Demac Đức, Bảng
Anh...). Do đặc điểm của nền kinh tế thị trường, bản thân giá trị của đồng tiền
cũng có thể bị thay đổi. Lạm phát và giảm phát làm cho giá cả của hàng hoá
tăng lên hay giảm xuống một cách bất thường.
* Xác định giá xuất - nhập đối với thị trường có quan hệ giao dịch.
17
Trên cơ sở phân tích đúng đắn ảnh hưởng của các nhân tố, ta có thể dự
đoán được xu hướng biến động của giá cả trên thị trường thế giới, từ đó xác
định được mức giá cho từng mặt hàng mà ta có kế hoạch nhập.
Nếu hàng hoá nhập khẩu là đối tượng giao dịch phổ biến hoặc có các
trung tâm giao dịch quốc tế thì nhất thiết phải tham khảo thị trường thế giới
về hàng hoá đó. Đồng thời cần tham khảo giá xuất khẩu loại hàng hoá đó từ
khu vực thị trường các nước bạn hàng đi các nước nhập khẩu khác. Cần chú ý
tới cước phí vận tải, các chế độ ưu đãi thuế quan để định giá cho chính xác.
Với các mặt hàng nhập khẩu thông thường, có thể dựa vào giá chào
hàng của các đơn vị cung ứng, giá nhập khẩu của các năm trước đó có tính
đến các thay đổi của sản phẩm và các yếu tố có liên quan để đưa ra một mức
giá nhập khẩu hợp lý, nâng cao hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp.
2. Giao dịch đàm phán và ký kết hợp đồng nhập khẩu.
2.1. Lựa chọn đối tượng giao dịch
Lựa chọn đối tượng giao dịch bao gồm vấn đề lựa chọn đối tượng để
giao dịch và lựa chọn thương nhân. Khi lựa chọn nước để nhập khẩu hàng hoá
nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước, chúng ta cần nghiên
cứu tình hình chung của nước đó như khả năng và chất lượng hàng xuất khẩu
của họ, chính sách, luật pháp, tập quán thương mại... Khi lựa chọn thương
nhân để giao dich, trong điều kiện cho phép, hiệu quả nhất là nên chọn người
sản xuất để nhập khẩu trực tiếp. Tuy nhiên, khi muốn thâm nhập vào thị
trường mới, mặt hàng mới thì việc giao dịch qua trung gian với tư cách là đại
lý môi giới lại có ý nghĩa quan trọng. Để lựa chọn được chính xác và đúng
đắn, không nên căn cứ vào những lời quảng cáo, tự giới thiệu, mà cần phải
tìm hiểu khách hàng về thái độ chính trị của thương nhân, khả năng tài chính,
quan điểm kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh, uy tín và mối quan hệ của họ
trong kinh doanh.
18
Khi nghiên cứu những vấn đề trên đây, người ta áp dụng hai phương
pháp chủ yếu sau:
- Điều tra qua tài liệu và sách báo hay còn gọi là điều tra tại phòng làm
việc. Đây là phương pháp phổ biến nhất và tương đối tốn kém. Tài liệu
thường dùng để nghiên cứu là các bản tin giá cả thị trường của VNTTX và
của trung tâm thông tin kinh tế đối ngoại, các báo cáo của cơ quan thường vụ
Việt Nam ở nước ngoài, các báo tạp chí như: MOCI (Pháp), Far Eastern
Economic Review (Anh), Financial Time (Anh)...
- Điều tra tại chỗ (Fiel reseach) theo phương pháp này người ta cử
người đến tận thị trường để tìm hiểu tình hình, tiếp xúc với các thương nhân.
Phương pháp này tuy tốn kém nhưng giúp đơn vị kinh doanh mau chóng nắm
được những thông tin chắc chắn và toàn diện.
Ngoài hai phương pháp trên đây, người ta còn có thể sử dụng các
phương pháp sau: mua, bán thư, mua dịch vụ thông tin của các công ty điều
tra tín dụng, thông qua người thứ ba để tìm hiểu...
2.2. Đàm phán và ký kết hợp đồng.
a. Thương lượng, đàm phán hợp đồng nhập khẩu.
Sau giai đoạn nghiên cứu, tiếp cận thị trường, lựa chọn đối tượng giao
dịch, các doanh nghiệp tiến hành xúc tiến việc chuẩn bị ký kết hợp đồng nhập
khẩu. Nhưng để tiến tới ký hợp đồng mua bán với nhau, người nhập khẩu
thường phải qua một quá trình giao dịch, thương lượng với nhau về các điều
kiện giao dịch, công việc này trong hoạt động ngoại thương gọi là đàm phán
có thể đàm phán giao dịch qua thư tín, điện thoại... nhưng đối với những hợp
đồng lớn, phức tạp, cần giải thích thoả thuận cụ thể với nhau thì nên giao dịch
đàm phán với nhau bằng cách gặp gỡ trực tiếp. Đàm phán theo phương pháp
này tuy chi phí cao nhưng đảm bảo hiệu quả và nhanh chóng.
Trình tự đàm phán như sau:
19
- Hỏi giá: do bên mua (bên nhập khẩu) đưa ra, tức là phải nêu rõ tên
hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, thời gian giao hàng, điều kiện thanh
toán (loại tiền thanh toán, thể thức thanh toán...). Về phương diện pháp lý thì
đây là lời thỉnh cầu trước khi bước vào giao dịch, về phương diện thương mại
thì đây là việc người mua đề nghị người bán cho biết giá cả hàng hoá và các
điều kiện mua hàng. Hỏi giá không ràng buộc trách nhiệm của người hỏi giá.
- Phát giá: luật pháp coi đây là lời đề nghị ký kết hợp đồng. Phát giá có
thể do người bán hoặc người mua đưa ra. Nhưng trong buôn bán ngoại
thương, phát giá là chào hàng thường do người xuất khẩu thể hiện ý định bán
hàng của mình bằng cách nêu rõ các điều kiện đã nêu trong hỏi giá (chú ý có
thêm điều kiện giao hàng).
- Hoàn giá: bên mua không chấp nhận hoàn toàn chào hàng đó mà đưa
ra đề nghị mới.
- Chấp nhận: là sự đồng ý hoàn toàn tất cả các điều kiện chào hàng.
- Xác nhận: hai bên mua và bán sau khi đã thống nhất với nhau về điều kiện
giao dịch có thể lập hai văn kiện ghi lại mọi điều đã thoả thuận, gửi cho nhau.
Trong các bước giao dịch đàm phán trên thì chào hàng và đặt hàng là
hai khâu được quan tâm hơn cả vì đó là cơ sở để dẫn đến ký kết hợp đồng
nhập khẩu. Việc giao dịch, đàm phán sau khi đã có kết quả sẽ dẫn đến ký kết
hợp đồng nhập khẩu.
b. Hợp đồng nhập khẩu.
Hợp đồng nhập khẩu chính là hợp đồng kinh tế ngoại thương, trong đó
có sự thoả thuận của đương sự có quốc tịch khác nhau về chuyển giao quyền
sở hữu hàng hoá, nghĩa vụ thanh toán, trả tiền nhận hàng.
Hợp đồng kinh tế ngoại thương của nước ta bắt buộc phải thể hiện dưới
hình thức văn bản. Bởi đây là hình thức tốt nhất trong việc bảo vệ quyền lợi
của hai bên, nó xác định rõ ràng mọi quyền lợi và nghĩa vụ của bên mua và
20
bên bán, tránh được những hiểu lầm do không thống nhất về quan niệm, đồng
thời tạo điều kiện thuận lợi cho thống kê, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện.
Hợp đồng nhập khẩu có các điều khoản chủ yếu như sau:
+ Phần mở đầu: Ghi thông tin về số hợp đồng, ngày và nơi ký hợp
đồng, về chủ thể hợp đồng (tên giao dịch Quốc tế, địa chỉ, số điện thoại...)
+ Điều khoản tên hàng: Tên hàng phải ghi rõ, chính xác để không xảy
ra hiểu lầm, có thể ghi rõ địa danh sản xuất (xuất xứ hàng hoá), nhà sản xuất,
quy cách, tên thông dụng, tên thương mại, tên khoa học (nếu có)...
+ Điều khoản số lượng: Ghi rõ số lượng, khối lượng, trọng lượng, quy
cách, đơn vị đo lường... Nếu số lượng quy định khoảng chừng phải dự liệu
theo một sai số có thể chấp nhận được. Trọng lượng hàng hoá có thể tính cả
trọng lượng bì hoặc không (phải ghi rõ). Cũng có thể tính trọng lượng hàng
hoá theo trọng lượng thương mại tức là có độ ẩm tiêu chuẩn.
+ Điều khoản phẩm chất: Hợp đồng phải ghi rõ tiêu chuẩn quy định
phẩm chất của hàng hoá, tính năng cơ, lý, hoá, công suất, hiệu suất (máy
móc), thẩm mỹ... để phân biệt hàng hoá này với hàng hoá khác. Cũng có thể
căn cứ vào mẫu mã hàng hoá và các tài liệu kỹ thuật, nhãn hiệu hàng hoá hay
căn cứ vào một tiêu chuẩn được công nhận trong tập quán Thương mại Quốc tế.
+ Điều khoản bao bì: Điều quan trọng nhất trong kinh doanh Thương
mại Quốc tế là phải bảo đảm hàng hoá có bao bì phù hợp tính năng, hình dáng
kích thước của hàng hoá và phương thức vận tải.
Còn về phương thức xác định giá cả của bao bì: nếu bên bán chịu trách
nhiệm cung cấp bao bì, thì việc tính giá của bao bì có thể có mấy trường hợp:
giá cả bao bì được tính vào giá cả hàng hoá (không tính riêng), giá cả của bao bì
do bên mua trả riêng, và giá cả của bao bì được tính như giá cả của hàng hoá.
+ Điều khoản cơ sở giao hàng: Hiện nay, tất cả các doanh nghiệp tham
gia hoạt động kinh doanh XNK đều có thể áp dụng một trong 13 điều khoản
cơ sở giao hàng Incoterm 2000
21
+ Điều khoản giá cả: bao gồm đồng tiền tính giá và mức giá. Đồng tiền
tính giá có thể dùng tiền của nước nhập khẩu, xuất khẩu hoặc của nước thứ
ba, nhưng phải là đồng tiền ổn định và tự do chuyển đổi được. Mức giá tức
mức giá Quốc tế mà các bên phải tuân theo. Phương pháp quy định giá có thể
theo các loại sau:
Giá cố định: tức là giá được quy định khi ký kết hợp đồng mà không
sửa đổi.
Giá quy định: được xác định trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Giá linh hoạt: là giá có thể được điều chỉnh trong quá trình thực hiện
hợp đồng.
Giá di động: người ta quy định mức giá ban đầu, sau đó tính toán lại
trong khi thực hiện hợp đồng trên cơ sở giá ban đầu.
Nhưng trong việc xác định giá cả, thông dụng hơn cả người ta luôn
luôn định rõ điều kiện cơ sở giao hàng có liên quan với giá đó. Sở dĩ như vậy
là vì điều kiện giao hàng đã bao hàm các trách nhiệm và các chi phí mà người
bán phải chiụ trong việc mua hàng như: vận chuyển, bốc dỡ, mua bảo hiểm,
chi phí lưu kho, làm thủ tục hải quan... Vì vậy trong các hợp đồng mua bán,
mức giá bao giờ cũng được xác định căn cứ và điều kiện cơ sở giao hàng và
điều kiện cơ sở giao hàng ấy thường được ghi bên cạnh rõ ràng.
+ Điều khoản giao hàng: nội dung của điều khoản này xác định thời
hạn, địa điểm, phương thức giao hàng và thông báo giao hàng. Thời hạn giao
hàng là thời hạn mà người bán phải hoàn thành nghĩa vụ giao hàng. Nếu các
bên không có thoả thuận gì khác thì thời hạn này là lúc di chuyển rủi ro, tổn
thất từ người bán sang người mua. Giao hàng không đúng hạn có thể thiệt hại
và phải bồi thường. Có ba kiểu quy định giao hàng: giao hàng có định kỳ,
giao hàng không có định kỳ và giao hàng ngay.
22
Phương thức giao hàng: có thể quy định tiến hành tại một địa điểm nào
đó, có thể giao sơ bộ, giao cuối cùng hoặc có thể giao nhận về số lượng, chất
lượng...
Thông báo giao hàng: các điều kiện về cơ sở giao hàng đã bao hàm
nghĩa vụ thông báo giao hàng. Tức là quy định nội dung và số lần thông báo
khi người bán giao hàng xong.
+ Điều khoản thanh toán trả tiền: trong việc thanh toán trả tiền hàng,
các bên thường phải xác định những vấn đề về đồng tiền thanh toán, thời hạn
trả tiển, phương thức trả tiền và các điều kiện đảm bảo hối đoái.
Đồng tiền thanh toán: giống như các điều khoản trên quy định trong
Thương mại Quốc tế, đồng tiền thanh toán phải là đồng tiền ổn định và tự do
chuyển đổi được.
Thời hạn thanh toán: trong Thương mại Quốc tế, bên nhập khẩu có thể
trả tiền trước, trả tiền sau hoặc trả tiền ngay.
Phương thức thanh toán: trong giao dịch Quốc tế, phương thức thanh
toán phổ biến nhất là phương thức nhờ thu và phương thức tín dụng chứng từ.
Phương thức tín dụng chứng từ được sử dụng rộng rãi và an toàn nhất. Nó là
sự thoả thuận mà trong đó một ngân hàng theo yêu cầu của bên mua trả tiền
cho bên bán hoặc bất cứ người nào theo lệnh của bên bán trong một thời hạn
nhất định khi bên bán xuất trình bộ chứng từ đầy đủ và đã thực hiện mọi yêu
cầu được quy định trong một văn bản được gọi là thư tín dụng (letter of credit
L/C). Có hai loại thư tín dung: thư tín dụng có thể huỷ ngang (revocable L/C)
và thư tín dụng không thể huỷ ngang (ỉnevocable L/C).
Thư tín dụng có thể huỷ ngang là loại L/C do ngân hàng mở (ngân hàng
phát hành L/C) có thể sửa đổi hoặc huỷ bỏ bất cứ lúc nào không cần báo trước
cho người hưởng lợi (bên bán). Thư tín dụng không thể huỷ ngang là loại L/C
mà trong thời hạn hiệu lực của nó, ngân hàng mở không có quyền huỷ bỏ
23
hoặc sửa đổi nội dung, đó là cam kết chắc chắn đối với người bán trong thanh
toán tiền hàng, đồng thời bảo đảm hàng hoá cho người mua.
Phương thức nhờ thu là phương thức thanh toán trong đó người bán khi
giao hàng hoá, dịch vụ cho người mua, uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền. Có
hai loại phiếu nhờ thu được sử dụng đó là: nhờ thu không kèm chứng từ và
nhờ thu kèm chứng từ. Loại phiếu nhờ thu không kèm chứng từ là phương
thức trả tiền nhờ thu phiếu trơn (clean collection). Theo phương thức này,
ngân hàng không nắm được chứng từ, người mua có thể dùng bộ chứng từ
nhận được từ nước ngoài để đi nhận hàng mà không cần qua ngân hàng xong
vẫn trì hoãn được việc trả tiền. Loại phiếu nhờ thu kèm chứng từ là phương
thức trả tiền phải kèm chừng (documentary collection). Theo phương thức
này, ngân hàng khống chế bộ chứng từ, người mua muốn có chứng từ để nhận
hàng thì phải trả tiền và chấp nhận trả tiền.
+ Điều khoản bảo đảm hối đoái: vì đồng tiền trên thế giới luôn bị lạm
phát, mất giá hay bị thay đổi do nhiều nguyên nhân khác nhau, vì vậy các bên
có thể thoả thuận quy định những điều kiện bảo đảm tỷ giá hối đoái. Có thể
dùng vàng hoặc đồng tiền mạnh, ổn định.
+ Điểu khoản bảo hành: là sự bảo đảm của người bán về chất lượng
hàng hoá trong thời gian nhất định được gọi là thời hạn bảo hành. Người ta
thường thoả thuận về phạm vi đảm bảo của người bán, thời hạn bảo hành và
trách nhiệm của người bán trong thời hạn bảo hành.
+ Điều kiện bất khả kháng: trong trường hợp nếu có rủi ro xảy ra, bên
đương sự được hoàn toàn và trong một chừng mực nào đó được miễn trách
nhiệm nếu rủi ro đó có tính chất khách quan mà không thể khắc phụ được.
Trách nhiệm của bên gặp rủi ro là phải lập tức thông báo cho bên kia bằng
văn bản. Người ta thường thoả thuận chỉ định một tổ chức chứng nhận sự việc
xảy ra, thường là phòng thương mại.
3. Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
24
Sau khi hợp đồng mua bán ngoại thương được ký kết, đơn vị kinh
doanh xuất nhập khẩu với tư cách là một bên ký hợp đồng phải tổ chức hợp
đồng đó. Đây là một công việc rất khó khăn, phức tạp đòi hỏi phải tuân thủ
luật pháp Quốc gia, Quốc tế, đảm bảo uy tín của cả hai bên. Về mặt kinh
doanh, trong quá trình thực hiện các khâu công việc, đơn vị kinh doanh phải
cố gắng tiết kiệm chi phí lưu thông, nâng cao tính doanh lợi và hiệu quả của
các nghiệp vụ giao dịch.
Để thực hiện một hợp đồng nhập khẩu, đơn vị kinh doanh phải tiến
hành các khâu công việc sau:
3.1. Xin giấy phép nhập khẩu:
Hiện nay, việc xin giấy phép nhập khẩu của các doanh nghiệp kinh
doanh XNK ở Việt Nam vẫn được áp dụng trong trường hợp:
- Nếu là hàng hoá thuộc diện quản lý bằng hạn ngạch thì doanh nghiệp
phải xin giấy phép XNK của Bộ Thương mại.
- Nếu là hàng hoá không thuộc diện quản lý bằng hạn ngạch thì doanh
nghiệp không cần phải xin giấy phép.
3.2. Mở L/C.
Nếu hợp đồng nhập khẩu quy định thanh toán bằng L/C thì bên mua
phải lập L/C. Thời gian mở L/C nếu hợp đồng không quy định gì thì phụ
thuộc vào thời gian giao hàng, thông thường thì L/C được mở khoảng 20-25
ngày trước thời hạn giao hàng. Cơ sở mở L/C là các điều khoản trong hợp
đồng nhập khẩu. Người nhập khẩu phải căn cứ vào đó để điền vào mẫu xin
mở L/C gọi là giấy mở tín dụng khoản nhập khẩu.
3.3. Thuê tàu lưu cước.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu, việc thuê tàu chở hàng
được tiến hành dựa vào ba căn cứ sau: những điều khoản của hợp đồng mua
bán, đặc điểm của hàng hoá nhập khẩu và điều kiện vận tải. Chủ hợp đồng
25
phải chú ý tới từng loại hàng hoá để thuê phương tiện vận tải cho phù hợp.
Hàng hoá có khối lượng lớn thì thuê tàu chuyến, hàng hoá có khối lượng nhỏ
thì thuê tàu chậm, hàng lỏng thì thuê Tanker, hàng tươi sống thuê phương tiện
vận tải có thiết bị làm lạnh... Việc thuê tàu, lưu cước đòi hỏi có kinh nghiệm
nghiệp vụ, có thông tin về thị trường thuê tàu và tinh thông các điều kiện thuê
tàu. Vì vậy thông thường, chủ hàng thường uỷ thác việc thuê tàu, lưu cước
cho một công ty vận tải chuyên nghiệp. Cơ sở pháp lý điều tiết mối quan hệ
giữa hai bên nhận uỷ thác thuê tàu và uỷ thác thuê tàu là hợp đồng uỷ thác.
Có hai loại hợp đồng uỷ thác:
- Hợp đồng uỷ thác thuê tàu cả năm.
- Hợp đồng uỷ thác chuyến.
Chủ hàng xuất nhập khẩu căn cứ vào đặc điểm vận chuyển của hàng
hoá để lựa chọn loại hình hợp đồng uỷ thác cho thích hợp.
3.4. Mua bảo hiểm.
Hàng hoá chuyên chở trên đường thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất vì
thế chủ hàng nhập khẩu thường mua bảo hiểm tại các Công ty bảo hiểm có uy
tín. Hợp đồng bảo hiểm có thể là hợp đồng bảo hiểm hoặc là bảo hiểm
chuyến. Để ký hợp đồng bảo hiểm cần nắm vững những điều kiện bảo hiểm:
- Bảo hiểm mọi rủi ro.
- Bảo hiểm có tổn thất riêng.
- Bảo hiểm miễn tổn thất riêng.
Ngoài ra có một số loại bảo hiểm phụ: vỡ, rò, rỉ, mất trộm, ôxi hoá... và
bảo hiểm đặc biệt: chiến tranh, đình công, bạo động, dân biến...
Việc lựa chọn điều kiện bảo hiểm phải dựa trên 4 căn cứ:
- Điều khoản hợp đồng.
- Tính chất hàng hoá.
- Tính chất bao bì và phương thức xếp hàng.
26
- Loại tàu chuyên chở.
- Tình hình khí hậu thời tiết, chính trị, xã hội...
3.5. Làm thủ tục hải quan.
Hàng hoá khi đi ngang qua biên giới quốc gia để nhập khẩu đều phải
làm thủ tục hải quan gồm ba nội dung chủ yếu sau:
- Khai báo hải quan: chủ hàng phải khai báo các loại chi tiết hàng hoá
lên tờ khai về: loại hàng hoá (hàng mậu dịch, phi mậu dịch, hàng trao đổi tiền
ngạch biên giới, hàng tạm nhập tái xuất), số lượng, khối lượng, giá trị hàng
hoá, phương tiện vận tải, nước giao dịch... kèm theo đó là giấy phép nhập
khẩu, hoá đơn, bản kê chi tiết để cơ quan hải quan kiểm tra thủ tục giấy tờ.
- Xuất trình hàng hoá: hàng hoá nhập khẩu phải được sắp xếp trật tự,
thuận tiện cho việc kiểm tra, mọi chi phí liên quan đến việc đóng mở hàng hoá,
chủ hàng phải chịu. Yêu cầu việc xuất trình hàng hoá phải đảm bảo trung thực.
- Thực hiện các quyết định của hải quan: nghĩa vụ của chủ hàng là phải
chấp hành mọi quyết định của hải quan về việc: nộp thuế trong vòng 30 ngày
nếu hàng hoá được nhập, hoặc nộp phạt nếu hàng hoá sai quy định, tịch thu
nếu hàng hoá nằm trong danh mục cấm nhập của Nhà nước.
3.6. Kiểm tra hàng hoá nhập khẩu và giao nhận với tàu.
Hàng nhập khẩu về qua cửa khẩu sẽ được kiểm tra kỹ càng, mỗi cơ
quan tuỳ theo chức năng của mình mà tiến hành công việc kiểm tra đó. Nếu
phát hiện những tổn thất, thiếu hụt, mất mát hay đổ vỡ cơ quan chức năng sẽ
lập biên bản rõ ràng. Người nhập khẩu với tư cách là một bên đứng tên vận
đơn thư dự kháng nếu nghi ngờ hoặc thực sự thấy hàng có tổn thất, yêu cầu
lập biên bản giám định.
Theo quy định của Nhà nước về việc giao dịch hàng với tàu, các cơ
quan vận tải, ga cảng có trách nhiệm nhận hàng hoá trên các phương tiện vận
tải vào ga cảng, bảo quản hàng hoá đó trong quá trình xếp dỡ, lưu kho, lưu bãi
27
và giao cho đơn vị nhập khẩu theo lệnh của đơn vị ngoại thương đã xuất khẩu
hàng hoá đó. Thông báo cho các đơn vị nhập khẩu ngày tàu về cảng.
3.7. Thanh toán.
Đây là khâu trọng tâm, cuối cùng của tất cả các giao dịch, kinh doanh
trong Thương mại Quốc tế.
Nếu hợp đồng quy định thanh toán bằng L/C, đơn vị mở L/C gửi giấy
xin mở tín dụng khoản nhập khẩu đến ngân hàng ngoại thương cùng với hai
uỷ nhiệm chi: một uỷ nhiệm chi để ký quỹ theo quy định về việc mở L/C và
một uỷ nhiệm chi nữa để trả thủ tục phí cho ngân hàng ngoại thương, đơn vị
kinh doanh nhập khẩu phải kiểm tra chứng từ và nếu thấy chứng từ hợp lệ thì
trả tiền cho ngân hàng, sau đó nhận chứng từ đi lấy hàng.
Nếu hợp đồng nhập khẩu quy định thanh toán tiềnhàng bằng phương
thức nhờ thu thì sau khi nhận được chứng từ ở ngân hàng ngoại thương đơn vị
kinh doanh nhập khẩu được kiểm tra chứng từ trong một thời gian nhất định,
nếu trong thời gian này đơn vị kinh doanh nhập khẩu không có lý do chính
đáng để từ chối thanh toán thì ngân hàng coi như yêu cầu đòi tiền là hợp lệ.
Quá thời hạn quy định cho việc kiểm tra chứng từ, mọi tranh chấp giữa bên
bán và bên mua về thanh toán tiền hàng sẽ được trực tiếp giải quyết giữa các
bên đó hoặc qua cơ quan trọng tài.
Chú ý: chứng từ thanh toán cần được lập hợp lệ, chính xác và được
nhanh chóng giao cho ngân hàng nhằm thu hồi vốn nhanh.
3.8. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại.
Khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, nếu chủ hàng nhập khẩu phát hiện
thấy hàng nhập khẩu bị tổn thất, đổ vỡ, thiếu hụt, mất mát thì cần lập hồ sơ
khiếu nại ngay để khỏi làm mất thời cơ khiếu nại.
Đối tượng khiếu nại là người bán nếu hàng hoá có chất lượng hoặc số
lượng không phù hợp với hợp đồng, có bao bì không thích đáng, thời hạn giao
hàng bị vi phạm, hàng giao không đồng bộ.
28
Đối tượng khiếu nại là người vận tải nếu hàng hoá bị tổn thất trong quá
trình chuyên chở hoặc nếu sự tổn thất đó do người vận tải gây ra.
Đối tượng khiếu nại là Công ty bảo hiểm nếu hàng hoá- đối tượng của
bảo hiểm bị tổn thất do thiên tai, tai nạn bất ngờ hoặc lỗi của người thứ ba gây
nên, nếu những rủi ro này đã được mua bảo hiểm.
Đơn khiếu nại phải kèm theo những bằng chứng về việc tổn thất (như
biên bản giám định, COR, ROROPC hay CSC...), hoá đơn, vận đơn đường
biển, đơn bảo hiểm (nếu khiếu nại Công ty bảo hiểm)...
Nếu việc khiếu nại là có sơ sở, chủ hàng xuất khẩu phải giải quyết bằng
một trong những phương pháp sau:
- Giao hàng còn thiếu.
- Giao hàng tốt thay thế hàng kém chất lượng.
- Sửa chữa hàng hỏng.
- Giảm giá hàng mà số tiền giảm giá được trang trải bằng hàng hoá giao
vào thời hạn sau đó.
Nếu việc khiếu nại không được giải quyết thoả đáng, hai bên có thể
kiện nhau tại hội đồng trọng tài (nếu có thoả thuận trọng tài) hoặc tại toà án.
29
CHƯƠNG II
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TẠI
CÔNG TY DỊCH VỤ DU LỊCH VÀ THƯƠNG MẠI TST
I. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY.
1. Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty.
Công ty Dịch vụ Du lịch và Thương mại TST - Tourism Service and
Trade Company là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Tổng Công ty Đầu
tư Phát triển Công nghệ và Du lịch (DETETOUR), được thành lập theo Nghị
định 388 của Thủ tướng Chính phủ và được Bộ Thương mại cấp giấy phép
xuất nhập khẩu trực tiếp số: 5.271.012/GP ngày 22 tháng 1 năm 1994.
Công ty Dịch vụ du lịch và Thương mại TST là một doanh nghiệp quốc
doanh hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực dịch vụ xã hội mà chủ yếu là xuất
nhập khẩu và dịch vụ du lịch. Công ty là đơn vị hạch toán kinh doanh độc lập,
có tư cách pháp nhân, được mở tài khoản tại ngân hàng trong và ngoài nước,
được sử dụng con dấu riêng theo mẫu quy định.
Doanh nghiệp được thành lập và bắt đầu phát triển, hoạt động kinh
doanh trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt, quyết liệt của cơ chế thị trường, vậy
mà Công ty vẫn duy trì được hoạt động và tồn tại trong lúc cả nước ta đã có
nhiều doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và nhiều loại hình doanh
nghiệp khác nhau làm ăn thua lỗ đi đến giải thể, phá sản.
Do yêu cầu phát triển của Công ty, trong quá trình phát triển đã hình
thành một số tổ chức như: Liên doanh với nhà máy sản xuất thuốc là Bến
Thành với Công ty Ba Son, thành lập Chi nhánh của Công ty tại Thành phố
Hồ Chí Minh, liên doanh nhà khách tại Đồ Sơn, mở thêm trung tâm sửa chữa
và bảo hành xe gắn máy, kinh doanh khách sạn Nam Đế. Do tổ chức mới
được hình thành nên Công ty đặt ra phương châm vừa hoạt động vừa rút kinh
nghiệm để dần dần vươn lên.
30
Đại hội Đảng lần thứ VIII với những chính sách đổi mới đã mở ra một
thời kỳ mới, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, Nhà nước chủ
trương chuyển nền kinh tế sang hoạt động theo cơ chế thị trường, đẩy mạnh
giao lưu văn hoá trong nước và Quốc tế, khuyến khích các doanh nghiệp phát
triển đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu.
Trong hoàn cảnh mới, Công ty TST với đường lối hợp lý đã tạo được
mối quan hệ tốt từ Trung ương đến địa phương và được các cơ quan chủ quản
ủng hộ, được Tổng công thức, từ các đồng chí lãnh đạo đến các cơ quan chức
năng luôn tạo điều kiện giúp đỡ, bảo đảm cho hoạt động của Công ty như về
vốn, cho phép mở rộng thêm ngành nghề, tạo điều kiện cho Công ty kinh
doanh rộng hơn, đa dạng hơn.
Đến này Công ty đã có một đội ngũ cán bộ nhân viên được tuyển chọn,
80% quân số có trình độ đại học và trung cấp chuyên môn có khả năng hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao. Công ty đã tạo được mối quan hệ tốt với các
nước như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Pháp, Singapore, Mỹ, ý, Đức...
Đầu tư mở rộng hợp tác liên doanh và nâng cấp các cửa hàng bán lẻ, tiến hành
các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu để thu ngoại tệ, áp dụng các biện
pháp hữu hiệu để tổ chức nguồn hàng xuất nhập khẩu, định giá mua bán trên
cơ sở căn cứ vào thị trường, thu thập thông tin, tham gia triển lãm hội chợ...
để từ đó thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh: bảo toàn và phát triển vốn kinh
doanh, từng bức nâng cao cơ sở vật chất của Công ty, dần dần nâng cao mức
sống cho cán bộ công nhân viên, tăng nhanh kim ngạch xuất nhập khẩu,
hướng nhập khẩu vào những nguồn hàng có nhiều triển vọng và mang lại
nhiều lợi nhuận.
2. Cơ cấu, chức năng và nhiệm vụ chủ yếu của Công ty.
2.1. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty.
Công ty Dịch vụ du lịch và Thương mại TST
Tên giao dịch là: Tourism Service and Trade Company.
31
Địa chỉ: 1A Láng Hạ - Ba Đình - Hà Nội - Việt Nam.
Công ty trực thuộc Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc
gia được Bộ Thương mại cấp giấy phép XNK trực tiếp số 1.251.012/GP ngày
22 tháng 1 năm 1994, phê duyệt điều lệ và tổ chức hoạt động của Công ty
Dịch vụ Du lịch và Thương mại (TST).
Công ty thực hiện chế độ hạch toán kinh tế độc lập, có tư cách pháp
nhân, chịu trách nhiệm về kinh tế, nhân sự, về các hoạt động và tài sản của
mình. Công ty hoạt động theo luật pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, luật doanh nghiệp và các điều lệ của Bộ Thương mại.
Chức năng hoạt động kinh doanh của Công ty:
Mục đích thông qua các hoạt động của Công ty, thông qua các lĩnh vực
hoạt động kinh doanh XNK và đầu tư liên doanh liên kết với các bạn hàng
trong và ngoài nước theo luật pháp Việt Nam để phát triển sản xuất, khai thác
vật tư, nguyên vật liệu, hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội
và tạo nguồn hàng xuất khẩu, góp phần phát triển nền kinh tế quốc dân.
Nhiệm vụ và quyền hạn của Công ty:
Xây dựng và thực hiện các kế hoạch dài hạn, ngắn hạn về sản xuất kinh
doanh xuất nhập khẩu, gia công, lắp rát, kinh doanh thương mại, dịch vụ
thương mại, du lịch, liên doanh liên kết đầu tư... trong và ngoài nước theo
đúng pháp luật hiện hành của Nhà nước và hướng dẫn của Bộ Thương mại.
Xây dựng các phương án kinh doanh và dịch vụ, phát triển theo kế
hoạch và mục tiêu chiến lược của Công ty.
Tổ chức nghiên cứu nâng cao năng suất lao động, áp dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm phù hợp với
thị hiếu của khách hàng.
Chấp hành pháp luật Nhà nước, thực hiện chế độ chính sách về quản lý
và sử dụng tiền, vốn, vật tư, tài sản, nguồn lực, thực hiện hạch toán kinh tế,
bảo toàn và phát triển vốn, thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước.
32
Thực hiện đầy đủ cam kết đã ký với các tổ chức kinh tế trong và
ngoài nước.
Quản lý toàn diện, đào tạo và phát triển đội ngũ công nhân viên theo
pháp luật, chính sách hiện hành của Nhà nước và phân cấp quản lý của Bộ để
thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Công ty. Chăm lo đời sống, tạo
điều kiện lao động cho người lao động và thực hiện vệ sinh môi trường, thực
hiện phân phối lao động.
Bảo vệ doanh nghiệp, bảo vệ môi trường, giữ gìn trật tự an ninh chính
trị và trật tự an toàn xã hội theo quy định của pháp luật, thuộc phạm vi quản
lý của Công ty.
Công ty có quyền hạn sau:
- Kinh doanh theo mục đích thành lập của Công ty và theo ngành nghề
đã đăng ký kinh doanh.
- Chủ động trong sản xuất, kinh doanh, trong ký kết hợp đồng kinh tế
với bạn hàng trong nước và nước ngoài về liên doanh hợp tác đầu tư, nghiên
cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật đúng chế độ chính sách của Nhà nước.
- Được giao và quản lý sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, tài sản,
nguồn lực. Được huy động các nguồn vốn khác theo pháp luật hiện hành để
thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Công ty.
- Được tiếp thị quảng cáo, tham gia triển lãm, hội chợ, tham gia hội
thảo của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước.
- Được quyền chủ động tổ chức bộ máy quản lý mạng lưới sản xuất
kinh doanh, dịch vụ phù hợp với nhiệm vụ được giao và có hiệu quả cao.
Quản lý và sử dụng đội ngũ lao động, áp dụng các hình thức trả công lao động
khoán khen thưởng để làm đòn bẩy tăng năng suất lao động theo đúng pháp
luật và chế độ của Nhà nước quy định, sự phân cấp quản lý của Bộ Thương mại.
2.2. Cơ cấu, tổ chức bộ máy quản lý của Công ty.
33
Đứng đầu Công ty là Giám đốc, Giám đốc điều hành Công ty theo chế
độ một thủ trưởng và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của Công ty trước
pháp luật, Bộ Thương mại và tập thể công nhân viên của Công ty. Giám đốc
Công ty được tổ chức máy quản lý và mạng lưới kinh doanh phù hợp với
nhiệm vụ của Công ty và phân cấp quản lý của Bộ.
Giúp việc cho Giám đốc là một phó Giám đốc mà Công ty lựa chọn và
đề nghị Tổng Giám đốc bổ nhiệm.
Kế toán trưởng chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc Công ty, có
trách nhiệm giúp Giám đốc Công ty tổ chức thực hiện toàn bộ công tác kế
toán thống kê, thông tin kinh tế, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của
Công ty theo qui định hiện hành của Nhà nước.
Nhiệm vụ của các phòng ban chức năng do Giám đốc quy định cụ thể
Các tổ chức sản xuất, kinh doanh, dịch vụ (chi nhánh, xí nghiệp, trung tâm,
kho trạm, cửa hàng) thực hiện chế độ hạch toán kinh tế phụ thuộc vào Công
ty, được sử dụng con dấu riêng theo quy định của Nhà nước.
Giám đốc Công ty quy định quy chế tổ chức và hoạt động đối với từng
đơn vị phụ thuộc theo phân cấp quản lý của Bộ. Thủ trưởng các đơn vị phụ
thuộc dưới sự chỉ đạo của Giám đốc Công ty có trách nhiệm điều hành theo
đúng luật lệ của Công ty và pháp luật của Nhà nước.
Công ty có bốn phòng ban chính, các chi nhánh và một số liên doanh
như sau:
- Phòng hành chính có chức năng tham mưu cho Giám đốc về tổ chức
nhân sự, chế độ chính sách đồng thời tổng hợp tình hình chung của Công ty,
báo cáo thông tin chính xác kịp thời về khâu tổ chức hành chính quản trị giao
dịch Quốc tế.
- Phòng kế hoạch có chức năng nhiệm vụ quản lý tài chính, quản lý bảo
toàn và phát triển vốn hoạt động, tiền tệ của Công ty, đồng thời có nhiệm vụ
34
thu thông tin về tài sản, công nợ, vốn phục vụ công tác quản lý kinh doanh
của Công ty.
- Phòng kinh doanh có chức năng mở rộng kinh doanh, tìm kiếm khách
hàng, tổ chức thực hiện công tác Marketin, thực hiện nghiệp vụ xuất nhập
khẩu uỷ thác cho các đơn vị có nhu cầu.
- Phòng du lịch có chức năng dẫn khách du lịch Quốc tế ra vào Việt
Nam theo các tour mà Công ty ký hợp đồng. Tổ chức thực hiện nghiên cứu,
đánh giá thị trường du lịch, tổ chức và xây dựng các dịch vụ kèm theo, đáp
ứng đầy đủ các nhu cầu của khách du lịch.
- Chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh do một phó Giám đốc Công ty
phụ trách có nhiệm vụ, chức năng là xuất nhập khẩu máy móc, thiết bị,
nguyên vật liệu phục vụ sản xuất (thiết bị phục vụ các ngành nông công
nghiệp, hàng tiêu dùng...). Chi nhánh được xem như một bộ phận cơ sở của
Công ty có khả năng tự kinh doanh, hạch toán lỗ lãi dưới sự chỉ đạo, hỗ trợ
của Công ty Dịch vụ Du lịch và Thương mại (TST) tại Hà Nội.
- Khách sạn Nam Đế: tuy mới chỉ đi vào hoạt động từ đầu năm 1996,
song khách sạn thường xuyên khai thác được 46,3% số phòng. Hoạt động
kinh doanh của khách sạn Nam Đế là phục vụ khách nghỉ ngơi, phục vụ các
cuộc hội thảo, hội nghị. Trong thời gian tới, Công ty chủ trương mở rộng hoạt
động khách sạn với nhiều dịch vụ vui chơi phong phú hơn.
Ngoài ra, Công ty còn có các liên doanh tham gia là:
- Ba Son Fitflex (Singapore) tập trung nghiên cứu chế tạo gioăng, sản
xuất ống thuỷ lực cung cấp cho Quốc phòng.
- Liên doanh thuốc Fine (Pháp): có chức năng giới thiệu, quảng cáo và
bán hàng tại Hà Nội và một số vùng lân cận.
- Điều hoà nhiệt độ (Malayxia- Nhật) có chức năng chủ yếu cung cấp
trang thiết bị cho văn phòng làm việc và một số đồ gia dụng phục vụ cho
người tiêu dùng.
35
- Trung tâm bảo hành và sửa chữa xe gắn máy (Thái- Nhật): hiện nay
bắt đầu đi vào hoạt động bảo hành, bảo dưỡng xe gắn máy.
- Liên doanh nhà khách ở Đồ Sơn: với cơ sở vật chất và hệ thống phòng
hiện đại, đội ngũ nhân viên phục vụ trẻ đẹp, tay nghề giỏi luôn sẵn sàng phục
vụ quý khách những ngày nghỉ sảng khoái. Liên doanh đang dần dần thu hút
khách đến nghỉ ngơi ngày một đông.
Sơ đồ tổ chức bộ máy hoạt động của Công ty.
BAN GI M ĐỐC CÔNG TY
Chi nhánh tại
TP
Hồ Chí Minh
Phòng
kinh
doanh
Phòng
du lịch
Phòng
h nh
chính
Phòng
kế toán
Bason
Fitflex
Thuốc
lá Fine
Điều ho
nhiệt độ
Malayxia-
Nhật
Trạm dịch vụ
Honda Thái-
Nhật
Khách
sạn Nam
Đế
Liên doanh
khách sạn tại
Đồ Sơn
Trung tâm bảo
h nh v sửa
chữa xe gắn
máy
36
3. Phân tích khái quát về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
Công ty
3.1. Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty trong những năm
gần đây.
Biểu 1 : Phản ánh kết quả kinh doanh của Công ty Dịch vụ Du lịch
và Thương mại TST qua hai năm 1999 - 2000.
Đơn vị : triệu đồng
So sánh
Các chỉ tiêu
Thực hiện
năm 1999
Thực hiện
năm 2000 Chênh lệch Tỷ trọng (%)
1. Tổng doanh thu 79.506,361 91.183,754 11.677,393 114,68
2. Tổng số thuế nộp 15.299,958 18.159,35 2.859,392 118,69
Thuế xuất nhập khẩu 12.491,5 14.183,7 1.692,2 113,55
3. Doanh thu thuần 64.206,403 73.024,404 8.818,001 113,76
4. Giá vốn hàng bán 63.068,503 71.751,404 8.682,901 113,76
5. Lợi tức gộp 1.137,9 1.273 135,1 111,87
6. Tổng chi phí 1.102,5 1.234,3 131,8 112,00
- Chi phí bán hàng 498,83 593,72 99,98 119,00
- Chi phí quản lý DN 603,67 640,58 36,91 106,11
7. Tỷ suất phí 1,38 1,35 -0,03
8. Lợi tức ròng 35,4 38,7 3,3 109,32
9. Tỷ suất lợi nhuận 1,43 1,39 -0,04 97,2
* Phân tích :
Căn cứ vào số liệu trong bảng phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh
của Công ty Dịch vụ Du lịch và Thương mại (TST) ở trên, ta có thể rút ra một
số kết luận như sau :
- Nhìn một cách tổng quát thì tình hình kinh doanh của côngty là tốt.
Tổng doanh thu thực hiện năm 2000 là tăng 114.68% so với năm 1999.
37
Kết quả của tổng doanh thu tăng kéo theo các chỉ tiêu tiếp theo cũng
tăng theo :
- Tổng số thuế nộp tăng : 18.69%. Trong đó, thuế xuất nhập khẩu tăng
13.55% so với tiền tăng là 1.692.200.000đồng. Riêng về thuế lợi tức, Công ty
trực thuộc Trung tâm Khoa học Công nghệ và Môi trường quản lý vì vậy
được ưu tiên miễn thuế lợi tức mà chỉ phải nộp thêm một khoản đóng góp cho
Trung tâm gọi là khoản nộp cấp trên.
- Doanh thu thuần tăng : 13.73%
- Giá vốn tăng : 13.76%
- Tổng chi phí tăng : 12%
- Lợi tức ròng tăng : 9.32%
Đi sâu vào xem xét cốt lõi của vấn đề, ta nhận thấy :
Về tỷ suất phí giảm 0.03% chứng tỏ tình hình quản lý chi phí của Công
ty rất tốt. Bên cạnh đó tốc độ tăng của tổng chi phí (12%) thấp hơn tốc độ
tăng của tổng doanh thu (14.68%) càng chứng minh điều đó. Tổng chi phí
tăng là do hai yếu tố :
- Chi phí bán hàng tăng 19% ứng với số tiền tăng là : 94.890.000đồng
- Chi phí quản lý doanh nghiệp tăng 6.11% ứng với số tiền tăng là
36.910.000đồng.
Tổng chi phí tăng không phải là xấu bởi nó ứng với sự phát triển của
hoạt động kinh doanh, mà trên thực tế trong năm 2000 Công ty TST đã nâng
tổng doanh thu lên 91.183.754.000.000đồng.
Tuy nhiên bên cạnh những mặt đạt được, công ty cần phải chú ý đến
một số vấn đề : trước hết là nói đến chỉ số tỷ suất lợi nhuận, sở dĩ phải nhấn
mạnh tỷ suất lợi nhuận của công ty là do năm 2000 so với năm 1999 lợi
nhuận thu được từ một đồng vốn bỏ ra ở năm 2000 này giảm 30.000 đồng tức
là chỉ số này giảm 2.8%. Đó là do năm 2000 giá vốn hàng bán là tăng
38
13,76%. Vấn đề là tốc độ tăng của tổng doanh thu lại không cao hơn tốc độ
tăng của giá vốn hàng bán là mấy. Điều này chứng tỏ hiệu suất sử dụng vốn
của Công ty chưa cao. Để khắc phục tình trạng này, Doanh nghiệp cần phải
có các biện pháp nhằm giảm bớt chi phí, tăng mức lưu chuyển hàng hoá, mức
lưu chuyển vốn, tìm cách giảm bớt vốn hàng bán bằng cách tìm kiếm và phát
hiện những nguồn hàng đảm bảo thuận lơị về giá cả cũng như chất lượng.
Mặt khác kết quả cuối cùng, lợi tức ròng của Công ty năm 2000 là
38.700.000 đồng tăng về số tuyệt đối là 3.300.000 đồng, về số tương đối là
9,32%. Có thể dễ dàng nhận thấy rằng, tốc độ tăng của lợi tức ròng thấp hơn
hẳn so với tốc độ tăng của các chỉ tiêu khác. Mục tiêu cuối cùng của tất cả các
doanh nghiệp đã, đang và sẽ kinh doanh trong nền kinh tế thị trường đều có
thể nói chính xác, ngắn gọn là lợi nhuận. Nếu như các mặt chi tiêu khác như :
Tổng doanh thu, tổng giá vốn, tổng chi phí đều tăng mà chỉ tiêu lợi nhuận
không tăng hoặc tăng ít không đủ đảm bảo cho sự mở rộng và phát triển của
doanh nghiệp, thì sớm hay muộn doanh nghiệp cũng đi đến sụp đổ. Đây cũng
là một vấn đề mà Công ty Dịch vụ Du lịch & Thương mại (TST) đang phải
đối mặt, nếu tình trạng này còn tồn tại trong thời gian tiếp theo thì hậu quả sẽ
là : doanh nghiệp không mở rộng được quy mô kinh doanh, hoạt động đình
trệ... nhất là Công ty lại đang hoạt động kinh doanh trong điều kiện thị trường
có sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp.
Nói tóm lại, kết quả kinh doanh các mặt tuy có một số chỉ tiêu hiệu quả
đạt chưa cao, song Công ty TST đã có những cố gắng nhất định nhằm đưa
hiệu quả hoạt động kinh doanh ngày một lên cao. Trong thời gian sắp tới,
Công ty cần tiếp tục phát huy những mặt đã đạt được, nhanh chóng khắc phục
những mặt còn yếu kém, những khó khăn chủ quan và khách quan, để nâng
cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh của Công ty mình.
39
3.2. Hoạt động nhập khẩu những mặt hàng chủ yếu kinh doanh của
Công ty :
Biểu 2 : Phản ánh tình hình nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu
Đơn vị : 1000USD.
So sánh 2000/1999
Hàng hoá NK 1998 1999 2000
Chênh lệch %
* Tổng giá trị NK 5350 5433 5470 37 100,68
1. Ô tô 715 527 341 -186 64.7
2. Linh kiện xe máy 2480 2326 2269 -57 97.55
3. Hoá chất 533 679 813 134 117.73
4. Nguyên liệu, vật tư 984 1384 1642 258 118.64
5. Hàng tiêu dùng 638 517 405 -112 78.34
Năm 1998, tổng số kim ngạch nhập khẩu của Công ty là 5350 ngàn
USD. Trong đó nhập khẩu ôtô là 715 ngàn USD, nhập linh kiện xe máy là
2480 ngàn USD, nhập hoá chất 533 ngàn USD, nhập khẩu nguyên vật liệu vật
tư là 984 ngàn USD, nhập khẩu hàng tiêu dùng là 638 ngàn USD.
Năm 1999 tổng số kim ngạch nhập khẩu của Công ty là 5433 ngàn
USD. Trong đó nhập khẩu ôtô là 527 ngàn USD, nhập linh kiện xe máy là
2326 ngàn USD, nhập hoá chất 679 ngàn USD, nhập khẩu nguyên vật liệu vật
tư là 1384ngàn USD, nhập khẩu hàng tiêu dùng là 517 ngàn USD.
Năm 2000 tổng số kim ngạch nhập khẩu của Công ty là 5470 ngàn
USD. Trong đó nhập khẩu ô tô là 341 ngàn USD giảm 35.3% so với năm
1999, nhập linh kiện xe máy là 2269ngàn USD, giảm 2.45% so với năm 1999,
nhập hoá chất 813 ngàn USD tăng 17.73% so với năm 1999, nhập khẩu
nguyên vật liệu vật tư đạt 1642 ngàn USD tăng 18.64% so với năm 1999 cuối
40
cùng là nhập khẩu hàng tiêu dùnglà 405 ngàn USD giảm 21.66% so với
năm1999.
Nhận xét :
Qua phân tích ở trên, có thể nhận thấy rằng tình hình kim ngạch nhập
khẩu tại Công ty có xu hướng biến động tăng giảm khác nhau theo từng năm.
Sở dĩ có sự biến động này là do trong mấy năm gần đây nhà nước đang dần có
những thay đổi về chính sách kinh tế đặc biệt là chính sách XNK. Đồng thời
hoàn thiện dần để sự mở cửa về kinh tế của nước ta phát triển theo hướng có
lợi nhất. Vì vậy, Công ty TST phải luôn luôn có sự điều chỉnh hoạt động
XNK của mình cho đúng đắn hợp lý, từ đó làm cho không những tổng kim
ngạch nhập khẩu tăng giảm khác nhau mà cả cơ cấu tỷ trọng các mặt hàng
NK cũng tăng giảm khác nhau. Các mặt hàng phục vụ cho sản xuất như mặt
hàng hoá chất, vật tư thiết bị cho công nghiệp, nông nghiệp có xu hướng tăng,
còn các hàng hoá như linh kiện xe máy, ô tô có xu hướng giảm. Nguyên nhân
của tình hình trên còn là do sự thay đổi nhu cầu khác nhau của mỗi loại hàng
hoá ở thị trường trong nước. Những năm gần đây, nhu cầu hàng tiêu dùng đã
được sản xuất trong nước đáp ứng tương đối đầy đủ chỉ còn một lượng rất
nhỏ cần bổ sung và thay thế. Bên cạnh đó lại có rất nhiều liên doanh sản xuất
với nước ngoài được thành lập, các doanh nghiệp khác cũng kinh doanh nhập
khẩu đẩy mạnh kim ngạch nhập khẩu làm thị trường tràn ngập hàng hoá gây
ra một sự cạnh tranh khốc liệt, giá cả hàng hoá thì biến động lớn, mất ổn định
và có xu hướng bị ép xuống. Ngược lại nhu cầu về nguyên vật liệu vật tư thiết
bị cho sản xuất công nghiệp, nông nghiệp đặc biệt là ngành xây dựng lại có
xu hướng tăng lên cùng với sự phát triển của ngành kinh tế. Vì thế giá trị và
cơ cấu những mặt hàng này trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Công ty tăng
lên theo từng năm.
Nguyên nhân của xu hướng tăng hàng hoá về nguyên vật liệu, vật tư
thiết bị, của mặt hoá chất và xu hướng giảm của tình hình NK ô tô linh kiện
41
xe máy và hàng tiêu dùng cũng là do Nhà nước có chính sách khuyến khích
nhập khẩu vật tư, nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất, hạn chế nhập khẩu ô
tô, xe máy và hàng tiêu dùng.
3.3. Kết quả các hình thức nhập khẩu
a. Hình thức nhập khẩu trực tiếp.
Đây là hình thức nhập khẩu chủ yếu chiếm 80% trong các hợp đồng
nhập khẩu của công ty. Mặc dù nhập khẩu theo hình thức này đòi hỏi công ty
phải có một lượng vốn lớn trong một thời gian tương đối dài nhưng công ty
có thể huy động được ở các bạn hàng (như tiến hành các hoạt động liên
doanh, liên kết với các doanh nghiệp khác để nhập khẩu trực tiếp) hay vay
của ngân hàng. ở hoạt động này, công ty chủ động tính toán, trực tiếp tìm
nguồn hàng, ký kết thực hiện hợp đồng nhập khẩu và công ty sẽ tự bỏ vốn ra
để nhập khẩu rồi phân phối cho các đơn vị thực hiện hoặc các cửa hàng của
công ty tiêu thụ. Khi tiến hành nhập khẩu theo hình thức này phòng kinh
doanh sẽ phải nghiên cứu nhu cầu của khách hàng trong nước để biết được họ
cần nhập khẩu mặt hàng gì sau đó tiến hành xem xét nguồn hàng và thị trường
cung cấp. Sau khi lựa chọn đúng chủng loại mặt hàng cần nhập và bạn hàng
cung cấp, phòng kinh doanh sẽ tiến hành lập phương án kinh doanh và đệ
trình lên ban giám đốc để phê duyệt. Nếu phương án được chấp thuận thì
phòng kinh doanh sẽ bắt đầu tiến hành nhập khẩu. Đây là hình thức mang lại
hiệu quả cao vì lợi nhuận đạt được thường cao hơn phí uỷ thác, hơn nữa công
ty còn nắm quyền chủ động về nguồn hàng và bạn hàng trong kinh doanh.
Tuy nhiên, mức độ rủi ro của hình thức này cũng cao hơn vì có nhiều khả
năng hàng hoá nhập về không bán được hoặc phải bán với giá thấp.
b. Hình thức nhập khẩu uỷ thác.
Đây là hình thức nhập khẩu những hàng hoá mà các doanh nghiệp, đơn
vị sản xuất kinh doanh khác ở trong nước có nhu cầu, nhưng vì một lý do nào
đó, họ không có khả năng tổ chức nhập khẩu như không có hạn ngạch, không
liên hệ đầu tư được với các doanh nghiệp, bạn hàng nước ngoài, không có
kinh nghiệm nhập khẩu, nên phải uỷ thác cho Công ty Dịch vụ Du lịch và
Thương mại TST đứng ra đàm phán ký kết, thực hiện hợp đồng nhập khẩu,
42
sau đó giao hàng lại cho đơn vị uỷ thác và hưởng % hoa hồng theo thoả thuận
được ghi trong hợp đồng nhận uỷ thác.
Như vậy, sau khi nhận được đơn đặt hàng và các văn bản, tài liệu cần
thiết có liên quan từ phía các doanh nghiệp trong nước, công ty sẽ tiến hành
công tác thu thập thông tin, nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước. Trước
hết công ty sẽ tiến hành nghiên cứu, thu thập các thông tin về tình hình giá cả
của hàng hoá cùng loại ở thị trường trong nước cũng như mã số thuế, thuế
suất và phụ thu của mặt hàng đó. Sau đó, công ty sẽ tiến hành nghiên cứu thị
trường nước ngoài, lựa chọn đối tác kinh doanh, lập phương án cụ thể và tiến
tới ký kết thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Trong quá trình này chủ đầu tư sẽ
phải chuyển tiền vào tài khoản của công ty để công ty thực hiện các nghiệp vụ
nhập khẩu. Mục đích cuối cùng là công ty phải nhập khẩu được máy móc
thiết bị theo đúng yêu cầu của chủ đầu tư và nhận được phí uỷ thác. Hiện nay
công ty vẫn áp dụng hình thức nhập khẩu uỷ thác này là do:
Thứ nhất nó giúp công ty có thêm thu nhập cho công nhân viên.
Thứ hai thời gian để có và thực hiện được một hợp đồng nhập khẩu
trực tiếp là tương đối lâu, do đó công ty có thể tiến hành nhập khẩu uỷ thác để
tạo thêm công ăn việc làm. Bên cạnh đó nhờ hoạt động này công ty sẽ duy trì
được các bạn hàng cũ, quen được những đối tác mới, có được những kinh
nghiệm làm ăn mới giúp phần nào cho hoạt động nhập khẩu trực tiếp của
công ty.
c. Phân tính kết quả các hình thức nhập khẩu
Biểu 3 : Phản ánh kết quả nhập khẩu theo hình thức
Đơn vị : 1000USD
1998 1999 2000 So sánh 2000/1999 Hình thức
NK Số lượng Tỷ trọng Số lượng Tỷ trọng Số lượng Tỷ trọng Chênh lệch %
* Tổng giá
trị NK
5350 100 5433 100 5470 100 37 100,68
1. NK
trực tiếp
3654 68,3 3895,5 71,7 4036,9 73,8 141,4 103,63
2. NK 1696 31,7 1537,5 28,3 1433,1 26,2 -104,4 93,2
43
uỷ thác
Năm 1998 Công ty thực hiện kim ngạch nhập khẩu đạt 5350 ngàn
USD. Trong đó nhập khẩu trực tiếp là 3654 ngàn USD chiếm 68,3% trong
tổng kim ngạch nhập khẩu. Công ty nhận uỷ thác cho các đơn vị uỷ thác khác
là 1696 ngàn USD chiếm 31.7% tổng kim ngạch nhập khẩu.
Năm 1999, Công ty thực hiện kim ngạch nhập khẩu đạt 5433 ngàn
USD. Trong đó nhập khẩu trực tiếp là 3895,5 ngàn USD chiếm 71.7% giá trị,
nhập khẩu uỷ thác có tỷ trọng là 28.3% ứng với số tiền đạt được là 1537,5
ngàn USD.
Năm 2000, Công ty thực hiện kim ngạch nhập khẩu đạt 5470 ngàn
USD, tăng 0.68% so với năm 1999 với giá trị tăng 37 ngàn USD. Trong đó
nhập khẩu trực tiếp là 4036,9 ngàn USD tăng 3.63% so với năm 1999 với trị
giá tăng là 141.4ngàn USD chiếm tỷ trọng 73.8% trong tổng kim ngạch NK.
Công ty nhận uỷ thác cho các đơn vị uỷ thác là 1433.1 ngàn USD giảm 6.8%
so với năm 1999 với trị giá giảm là 104.4 ngàn USD chiếm tỷ trọng 26.2%
tổng kim ngạch nhập khẩu.
Nhận xét :
Qua phân tích số liệu ở trên, có thể nhận thấy rằng giá trị nhập khẩu
của Công ty theo hình thức nhập khẩu trực tiếp chiếm từ 60 - 70% và tăng
theo từng năm, nhập khẩu uỷ thác chiếm tỷ trọng từ 20 - 30% và giảm theo
từng năm. Nguyên nhân là do Công ty đẩy mạnh nhập khẩu theo phương thức
trực tiếp vì phương thức này mang lại hiệu quả cao hơn còn phương thức
nhập uỷ thác chỉ được hưởng lợi nhuận % hoa hồng. Vì vậy giá trị kim ngạch
nhập khẩu uỷ thác ngày càng giảm cả về khối lượng và giá trị hàng hoá.
Nguyên nhân của việc giảm giá trị nhận nhập khẩu uỷ thác là do bắt đầu từ
mấy năm trở lại đây tình hình tiêu thụ hàng hoá trên thị trường nội địa gặp
nhiều khó khăn do cạnh trạnh và do sản xuất trong nước đã phần nào thay thế
44
được các mặt hàng nhập khẩu, chính sách của Nhà nước nhằm quản lý điều
hành tác động đến công tác nhập khẩu đã gây ra nhiều thay đổi. Bên cạnh đó,
nhà nước lại ban bố ra hạn ngạch hàng hoá, xuất nhập khẩu, quy định những
mặt hàng nằm trong định hướng của mình... làm cho số lượng đơn đặt hàng
của các đơn vị sản xuất kinh doanh trong nước đối với Công ty giảm xuống.
Đồng thời nhập khẩu theo phương thức uỷ thác giảm xuống cũng là do hiệu
quả kinh doanh mà nó mang lại không cao.
Tuy nhiên sớm dự đoán được tình hình biến động của nhu cầu sản xuất
và tiêu dùng trong nước cùng với sự ảnh hưởng của các chính sách nhà nước
tới nhập khẩu, công ty đã thay đổi cơ cấu mặt hàng phù hợp, do đó tình hình
nhập khẩu của công ty đã đi vào ổn định, thu được lợi nhuận cao, phát huy hết
thế mạnh của nó đem lại một kết quả kinh doanh đáng mừng.
II. PHÂN TÍCH QUY TRÌNH NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY DỊCH VỤ DU
LỊCH VÀ THƯƠNG MẠI TST.
1. Công tác nghiên cứu thị trường:
Ngay sau khi thành lập theo nghị định 388 của thủ tướng Chính phủ,
Công ty dịch vụ du lịch và thương mại TST đã tiến hành thiết lập và dần dần
mở rộng thị trường, mạng lưới kinh doanh và mặt hàng kinh doanh.
Về thị trường kinh doanh, Công ty dịch vụ du lịch và thương mại có
một hoạt động kinh doanh chủ yếu là xuất nhập khẩu thương mại vì vậy công
ty không chỉ quan hệ và chịu ảnh hưởng của thị trường trong nước mà cả thị
trường nước ngoài. Trong những năm gần đây điều kiện quốc tế đang tạo ra
một thị trường quốc tế thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu của công ty.
Bên cạnh đó, sự kiện Mỹ bỏ cấm vận đối với Việt Nam, sự kiện nước ta tham
gia các hiệp ước liên minh thế giới, khu vực và các nước láng giềng, chính
sách đối ngoại mở rộng của nhà nước đã mở ra một thị trường rộng lớn.
Qua xem xét, ta có thể dễ dàng nhận thấy công ty có rất nhiều mối liên
hệ với bạn hàng và các nước trên thế giới, chủ yếu là các nước trong khu vực
45
Đông Nam á, đây là thị trường có triển vọng, chất lượng hàng hoá tốt, kỹ
thuật công nghệ cao, sản xuất đang phát triển mạnh. Vì vậy đây sẽ là một khu
vực thị trường trong dự án cần khai thác và phát triển hơn nữa của công ty
trong tương lai.
Về thị trường nhập khẩu, công ty luôn duy trì và phát triển các nguồn
hàng từ thị trường Đông Nam á, Nhật Bản, Thái Lan, Hàn Quốc, Xingapo,
Hồng Kông, Đài Loan, thị trường Đông Âu trước đây là thị trường cung cấp
hàng hoá khá lớn cho công ty, đấy là thị trường truyền thống, làm ăn lâu dài
và đáng tin cậy. Nhưng gần đây sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu
đã làm công ty mất đi một thị trường quan trọng. Riêng về thị trường EU đây
là thị trường có triển vọng mà công ty đang từng bước thâm nhập.
Về thị trường xuất khẩu, công ty mới chỉ liên doanh liên kết với cùng
một số đối tác tổ chức xuất khẩu một số mặt hàng truyền thống sang các nước
trong khu vực như Trung Quốc, Hồng Kông, Xingapo, Thái Lan, Hàn Quốc.
Trong tương lai công ty sẽ dự kiến mở rộng thị trường du lịch của mình, tìm
kiếm những điểm du lịch mới trong nước, tổ chức những chuyến du lịch mới
ra những nước có tiềm năng về du lịch trên thế giới.
Từ khi thành lập, Công ty liên tục mở rộng danh mục các mặt hàng kinh
doanh. Lúc đầu, Công ty chỉ nhập kinh doanh một số mặt hàng như bánh kẹo,
hàng tiêu dùng, phương tiện vận tải, đến nay mặt hàng kinhd oanh của Công
ty vô cùng phong phú, Công ty mở rộng quy mô kinh doanh, nhập thêm
những mặt hàng như ôtô các loại, tủ lạnh, linh kiện điện tử tin học, xe máy,
nguyên vật liệu xây dựng... Xuất phát từ chủ trương đa dạng hoá mặt hàng,
ngành hàng, công ty nhanh chóng nắm bắt, phát triển những mặt hàng phù
hợp bắt kịp với những biến đổi của nhu cầu thị trường. Bí quyết “bán những
gì thị trường muốn mua chứ không phải thứ bạn muốn bán” cung cấp đúng
những mặt hàng mà thị trường yêu cầu đã được ban giám đốc và cán bộ công
nhân viên trong công ty thực hiện khai thác một cách triệt để.
46
Trong thời gian gần đây, cơ cấu mặt hàng kinh doanh có thay đổi các
mặt hàng phục vụ cho sản xuất, xây dựng có xu hướng tăng lên, còn các mặt
hàng phục vụ cho tiêu dùng có xu hướng giảm xuống. Nguyên nhân của sự
tăng giảm này là do dự thay đổi nhu cầu khác nhau của mỗi loại hàng hoá trên
thị trường, do sự phát triển của sản xuất trong nước đã đáp ứng một số lượng
lớn nhu cầu hàng hoá, do sự phát triển của nền kinh tế.
Bên cạnh đó, hiện nay chính sách của nhà nước là giảm nhập siêu tăng
kim nghạch xuất khẩu, đối với hoạt động nhập khẩu nhà nước chỉ khuyến
khích nhập khẩu một số mặt hàng phục vụ cho sản xuất và xây dựng như vật
tư thiết bị, nguyên vật liệu sản xuất cho công nghiệp, nông nghiệp. Nhà nước
hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng. Chính vì vậy công ty tập trung khai thác
các nguồn hàng vật tư, thiết bị, máy móc hiện đại có kỹ thuật tiên tiến, chỉ
nhập khẩu hàng tiêu dùng cao cấp mà sản xuất trong nước chưa đáp ứng
được.
Hoạt động nghiên cứu thị trường do Phòng Kinh doanh đảm nhiệm.
Căn cứ vào các thông tin thu thập được Phòng Kinh doanh tiến hành phân tích
xác định nhu cầu thực tế của thị trường trong nước và các yếu tố có liên quan
đến mặt hàng nhập khẩu như dung lượng thị trường, các đối thủ cạnh tranh,
sự biến động thị trường, tỷ suất ngoại tệ, giá cả hiện tại trên thị trường và các
chính sách của Nhà nước có ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh mặt hàng
đó. Kết quả của phân tích cho phép Công ty lập ra kế hoạch nhập hàng có
hiệu quả nhất.
Đối với thị trường quốc tế, Công ty thường thu thập các thông tin dựa
vào các phương tiện thông tin đại chúng cập nhật hàng ngày như các tạp chí
thông tin thương mại, báo thương mại. Trong trường hợp thị trường nhập
khẩu là thị trường mới Công ty cử nhân viên ra nước ngoài để trực tiếp tiếp
cận thị trường lựa chọn đối tác giao dịch. Ngoài ra, Công ty còn tham gia các
47
hội chợ triển lãm nhằm giới thiệu các mặt hàng nhập khẩu của Công ty để
nắm bắt nhu cầu thị hiếu của khách hàng trong nước.
Nói tóm lại, công tác nghiên cứu thị trường cả trong nước và ngoài
nước đối với các loại hàng hoá nhập khẩu ở công ty đã tiến hành thường
xuyên và liên tục với nhiều nguồn thông tin khác nhau rồi từ đó có những
biện pháp xử lý thông tin một các nhanh chóng và chính xác, loại bỏ kịp thời
những thông tin nhiễu, thông tin giả để giúp cho việc dự đoán nhu cầu cho
việc lập phương án kinh doanh một cách đúng đắn hiệu qủa kinh tế cao.
Qua việc phân tích trên đây, ta thấy thị trường và những sản phẩm hàng
hoá mà công ty đang khai thác và kinh doanh hiện nay trên thị trường có rất
nhiều và phong phú. Chính vì vậy, công ty đang hoạt động trong một bối cảnh
cạnh tranh khốc liệt và rất nhiều khó khăn. Nhưng với một chiến lược kinh
doanh về thị trường, về sản phẩm… hợp lý, đúng đắn, nhanh nhạy và linh
hoạt, công ty đã và đang từng bước hoàn thiện củng cố và phát triển vị trí của
mình trong nền kinh tế
2. Lựa chọn đối tác kinh doanh.
Thông thường mỗi mặt hàng có rất nhiều các nhà cung cấp. Các nhà
cung cấp này có thể trong một quốc gia hoặc nhiều quốc gia khác nhau.
Nhiệm vụ đối với Phòng Kinh doanh là phải xem xét các yếu tố có khả năng
xảy ra khi Công ty muốn đặt mối quan hệ ngoại thương với các nhà cung cấp.
Các yếu tố này có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến hoạt động kinh doanh
của Công ty. Để trả lời câu hỏi này Phòng Kinh doanh thường tổng hợp phân
tích một số chỉ tiêu sau:
+ Mối quan hệ ngoại giao giữa 2 nước, tình hình kinh tế - chính trị.
+ Hệ thống tài chính tiền tệ, sự biến động giá cả tại nước đó.
+ Loại hình đối tác: Hãng, công ty liên doanh hay doanh nghiệp Nhà nước.
+ Khả năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ, uy tín.
48
Sau đó, việc chọn đối tác sẽ căn cứ vào kết quả so sánh giữa các đơn
chào hàng, cụ thể Công ty sẽ so sánh để xác định đơn chào hàng nào đáp ứng
đầy đủ các yêu cầu về mặt kỹ thuật, công nghệ, phạm vi cung cấp, giá cả, điều
kiện thanh toán, điều kiện giao hàng... Trong các đơn chào hàng thì giá cả là
vấn đề rất quan trọng. Vì vậy, Phòng Kinh doanh phải tiến hành phân tích
xem với giá đó thì hàng hoá nhập có được thị trường trong nước chấp nhận về
chất lượng giá cả hay không. Sau khi tiến hành nghiên cứu phân tích và so
sánh, Công ty sẽ đi đến quyết định cuối cùng là nên chọn đối tác nào.
3. Đàm phán và ký kết hợp đồng.
* Đàm phán:
Cũng giống như bất kỳ một hợp đồng kinh tế thông thường nào việc ký
kết hợp đồng nhập khẩu của Công ty cũng có thể là gặp gỡ trực tiếp hoặc gián
tiếp đàm phán thông qua thư từ, điện tín. Đối với những khách hàng quen
thuộc hoặc khách hàng ở xa thì Công ty thường ký theo hình thức gián tiếp có
nghĩa là Công ty sẽ lập hợp đồng, ký tên và đóng dấu sau đó gửi đến cho nhà
cung cấp. Phương thức này cho phép Công ty ký kết hợp đồng một cách
nhanh hơn và tiết kiệm được một khoản chi phí. Trên thực tế, việc lập hợp
đồng nhiều khi không phải do cán bộ Phòng Kinh doanh lập mà do chính phía
đối tác lập hợp đồng sau đó gửi sang bằng fax. Trong trường hợp này, Phòng
Kinh doanh phải xem xét kỹ lưỡng từng điều khoản ghi trong hợp đồng có
phù hợp với thoả thuận đã đạt được khi đàm phán hay không. Nếu không thấy
có sai sót thì Phòng Kinh doanh sẽ trình cho Giám đốc ký và fax lại cho bên
bán. Hợp đồng này được coi là hợp đồng chính thức giữa hai bên, chữ ký và
con dấu qua fax có giá trị pháp lý như khi ký kết trực tiếp đối với những
khách hàng có mối quan hệ làm ăn với Công ty như Thái Lan, Hàn Quốc, Đài
Loan hoặc đối với những khách hàng quen thuộc như Hàn Quốc nhưng hợp
49
đồng nhập có khối lượng lớn, phức tạp cần có sự thoả thuận kỹ lưỡng thì
Công ty sử dụng hình thức trực tiếp ký kết hợp đồng.
* Ký kết hợp đồng:
Việc ký kết hợp đồng thường do Giám đốc trực tiếp đảm nhiệm hoặc
trưởng Phòng Kinh doanh được Giám đốc uỷ quyền. Sau khi tiến hành đàm
phán trong một khoảng thời gian ngắn (thường là 7 ngày) Công ty và đối tác
sẽ gửi hợp đồng cho nhau hoặc trực tiếp ký với nhau, mở L/C. Nếu hợp đồng
không thoả mãn đối với một trong hai bên thì hai bên sẽ tiến hành trao đổi lại
cho đến khi cả hai bên cùng chấp nhận. Hợp đồng của Công ty bao giờ cũng
được ký kết dưới hình thức văn bản để tránh những tranh chấp có thể xảy ra
sau này.
Ngoài ra, do Công ty có khách hàng và có thị trường nước ngoài nên
Công ty thường ký uỷ thác để hưởng hoa hồng.
4. Thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Sau khi thống nhất quyền lợi và nghĩa vụ giữa các bên bằng việc ký kết
hợp đồng, Công ty Dịch vụ Du lịch và Thương mại TST với tư cách là nhà
nhập khẩu sẽ tiến hành thực hiện các điều khoản trong hợp đồng. Cụ thể:
* Mở L/C: Khi hợp đồng nhập khẩu quy định tiến hành thanh toán bằng
L/C thì cũng sẽ tiến hành làm đơn xin mở L/C theo mẫu in sẵn và gửi cho
Ngân hàng đại lý của mình (thường là Ngân hàng Công thương Việt Nam
hoặc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam). Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp
ngân hàng mở L/C do bên bán yêu cầu. Nội dung của L/C phải phù hợp, ăn
khớp với nội dung của hợp đồng đã ký. Ngân hàng căn cứ vào đơn xin mở
L/C của Công ty, mở L/C và gửi bản gốc cho người bán (thường là gửi cho
ngân hàng người bán).
Thông thường, một thời gian sau khi ký hợp đồng có hiệu lực nhưng
trước khi giao hàng, Công ty phải tiến hành thanh toán một phần trị giá hợp
đồng (thường nằm trong khoảng 5 - 10% trị giá hợp đồng) và sẽ được chuyển
50
vào tài khoản của người bán. Đối với đồng tiền thanh toán thì mỗi hợp đồng
quy định một đồng tiền khác nhau, tuỳ theo tập quán buôn bán và sự lựa chọn
của các bên.
* Hiện nay, Công ty TST thường nhập khẩu theo điều kiện CIF (như
CIF Hải Phòng, CIF Đà Nẵng) và C & F nên hầu như không phải thuê tàu.
* Khi nhận được bộ chứng từ hàng hoá và vận đơn BL do bên bán gửi
đến Công ty sẽ kiểm tra kỹ nội dung của bộ chứng từ với nội dung của L/C đã
lập. Nếu thấy có sự sai sót thì lập tức thông báo lại cho bên bán và ngân hàng
mở L/C để kịp thời điều chỉnh xử lý. Bộ chứng từ hoàn chỉnh bao gồm:
+ Chứng từ giao hàng.
+ Hợp đồng.
+ Giấy mở L/C của ngân hàng.
+ Phiếu hạn ngạch (nếu có).
Tuỳ từng chủng loại hàng mà Công ty gửi bộ chứng từ đến phòng cấp
giấy phép xuất nhập khẩu của Bộ Thương mại để xin giấy phép nhập khẩu
hoặc đối với những mặt hàng nhập khẩu theo mặt hàng kinh doanh của Công
ty thì làm thủ tục nhận hàng trực tiếp tại cơ quan hải quan.
* Làm các thủ tục hải quan:
Khi tàu nhập cảng Công ty tiến hành làm các thủ tục hải quan để trong
khoảng thời gian ngắn nhất có thể đưa hàng về kho. Tờ khai hải quan có dấu
của Công ty gửi cùng bộ chứng từ gồm có giấy phép nhập khẩu, hợp đồng
ngoại, hoá đơn, vận đơn giao hàng của hãng vận tải, phiếu hạn ngạch (nếu
có), phiếu đóng gói, bảng kê chi tiết để làm thủ tục nhận hàng.
Có 2 hình thức thông quan nhập khẩu:
+ Mở trực tiếp tại cửa khẩu cho hải quan kiểm tra.
+ Mở chuyển tiếp (hàng về Hải Phòng, mở tờ khai ở Hà Nội sau đó
chuyển tiếp xuống Hải Phòng và đưa hàng về Hà Nội để kiểm hoá). Nếu hàng
hoá có tổn thất, mất mát, hư hỏng không đúng với yêu cầu trong hợp đồng đã
51
đặt ra thì Công ty sẽ khiếu nại tuỳ theo mức bảo hiểm mà Công ty mùa
thường là 110% trị giá hoá đơn thương mại với điều kiện mọi rủi ro.
* Sau khi hoàn thành thủ tục hải quan Công ty sẽ nhận được thông báo
đóng thuế. Công ty luôn cố gắng đóng thuế đúng thời hạn để tránh tình trạng
bị phạt do chậm nộp thuế.
* Sau khi hoàn tất thủ tục hải quan và nhận được hàng Công ty vận
chuyển hàng về kho chờ tiêu thụ - đối với nhập trực tiếp. Còn đối với nhập
khẩu uỷ thác, có thể Công ty sẽ giao hàng ngay tại cảng cho bên uỷ thác.
52
III. MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU
CỦA CÔNG TY DỊCH VỤ DU LỊCH VÀ THƯƠNG MẠI TST.
1. Thành công.
Với TST, tuy mới được thành lập trong điều kiện cạnh tranh gay gắt lại
gặp phải không ít những khó khăn, biến động về tổ chức và sự thay đổi của
chính sách của Nhà nước, xong hoạt động nhập khẩu của Công ty vẫn không
ngừng phát triển cả về số lượng và mặt hàng, từ đó chiếm được một dung
lượng thị trường không những trong nước và cả nước ngoài. Doanh số từ hoạt
động kinh doanh không ngừng tăng lên theo từng năm, kéo theo đó là sự mở
rộng quy mô kinh doanh, nâng cao không ngừng đời sống cũng như thu nhập
của cán bộ công nhân viên trong Công ty.
Để có được kết quả như vậy, ta nhìn nhận Công ty trên các mặt nỗ lực sau:
- Ngay từ khi được Bộ Thương mại cấp giấy phép kinh doanh xuất
nhập khẩu trực tiếp, Công ty TST đã xác định hoạt động này là một hoạt động
kinh doanh mũi nhọn của mình. Ban Giám đốc Công ty đã tạo mối quan hệ
kinh doanh với nhiều bạn hàng trên Thế giới, với nhiều tổ chức kinh doanh
của Thái Lan, Hàn Quốc, Đài Loan, Sinhgapore... Công ty TST đã tập trung
nguồn lực của mình vào lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu đặc biệt là hoạt
động nhập khẩu bởi Ban lãnh đạo Công ty đã nhanh chóng nhận ra có một
lượng nhu cầu trong nước chưa được đáp ứng. Đồng thời bằng phương châm
kinh doanh: đối với mặt hàng chính thì đầu tư lâu dài, tạo lợi nhuận về sau,
đối với các mặt hàng khác thì tiến hành kinh doanh theo phương pháp "đánh
nhanh thắng nhanh" để tăng vòng quay vốn, đã tỏ ra phù hợp với tình hình
kinh doanh trong giai đoạn hiện nay. Vì một mặt nó đã tạo ra hiệu quả cao đối
với một số mặt hàng có ưu thế cạnh tranh (lợi nhuận siêu ngạch), mặt khác
không ngừng mở rộng mặt hàng kinh doanh sang những lĩnh vực mới. Điển
hình thành công của phương châm này là trong năm 1997, trên cơ sở sự nới
lỏng của các chính sách nhà nước kết hợp với nhu cầu đang tăng lên ở trong
53
nước, Công ty đã huy động mọi nguồn lực, đẩy nhanh tốc độ và kim ngạch
nhập khẩu những mặt hàng có sức tiêu thụ nhanh như: xe máy, linh kiện điện
tử sau đó bán buôn ngay cho các nhà kinh doanh trong nước với mục đích lấy
doanh số cao để làm tăng lợi nhuận và thu hồi vốn kinh doanh sớm.
Điểm thứ hai cần phải nhắc tới là Công ty Dịch vụ Du lịch và Thương
mại TST đã tận dụng tối đa uy tín, điều kiện và các mối quan hệ của mình để
vay vốn, xin quota xuất nhập khẩu. Chẳng hạn như việc xin quota nhập khẩu,
bao giờ Công ty cũng được duyệt cao hơn đơn vị khác nếu so với tiềm năng và
kinh nghiệm của các đơn vị này, để có được đủ số hàng hoá cung cấp cho thị
trường.
- Việc nghiên cứu của thị trường trong nước, Công ty đã thực hiện
tương đối tốt. Hàng của Công ty nhập về luôn bắt kịp và đáp ứng đúng yêu
cầu tiêu dùng về chất lượng, chủng loại và thời gian nên hàng bán được nhiều,
và đem lại lợi nhuận cao.
- Khi giao dịch với các đối tác kinh doanh nước ngoài, ngân hàng,
Công ty đã tạo được những mối quan hệ tốt, có độ tin cậy cao, uy tín do thực
hiện hợp đồng nhập khẩu một cách nhanh gọn, đúng thủ tục, không để xảy ra
sai sót dẫn đến khiếu nại hoặc phải bồi thường.
- Trong tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu, Công ty lên kế hoạch
và phân công giao trách nhiệm cho từng khâu nghiệp vụ, từng phòng ban và
cá nhân, từ đó làm cho việc điều hành và giám sát được chặt chẽ, kịp thời. Do
vậy, các mặt hàng nhập khẩu của Công ty không những đủ tiêu chuẩn chất
lượng theo hợp đồng mà còn không vi phạm những quy định của Bộ Thương
mại hay luật pháp quốc tế về ngoại thương. Khi nói đến kết quả kinh doanh
đạt được như hiện nay, không thể không nói đến những nỗ lực của tất cả
những thành viên trong Công ty Dịch vụ Du lịch và Thương mại từ các khối
văn phòng, các cửa hàng đến các đơn vị trực thuộc đã thực hiện tốt nhiệm vụ
của mình. Trong đó, bộ phận hoạt động nhập khẩu mà cụ thể là Phòng Kinh
54
doanh xuất nhập khẩu dưới sự chỉ đạo của đồng chí Trưởng phòng đã thực
hiện tốt các nghiệp vụ từ đơn giản đến phức tạp trong quan hệ với bạn hàng,
không để xảy ra sai sót hoặc rủi ro khi nhập khẩu, kịp thời tạo ra những nguồn
hàng phục vụ cho hoạt động kinh doanh của Công ty.
Kết quả mà Công ty Dịch vụ Du lịch và Thương mại đạt được trong
những năm qua còn là nhờ vào một lợi thế không nhỏ của Công ty: Công ty là
một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Trung tâm Khoa học tự nhiên và
Công nghệ được Bộ thương mại có nhiều ưu đãi. Nhưng trong cơ chế thị
trường thì những ưu thế đó sẽ dần dần mất đi do các thành phần kinh tế được
tham gia một cách bình đẳng trong các quan hệ kinh tế nhất là trong quan hệ
nhập khẩu hàng hoá.
Vì vậy muốn thắng lợi trong cạnh tranh và đạt kết quả cao hơn, Công ty
phải nhanh chóng khắc phục những mặt hạn chế trong thời gian qua.
2. Hạn chế.
- Hoạt động nhập khẩu là một hoạt động đòi hỏi nghiệp vụ cao, phức
tạp vì vậy Công ty cần thiết phải có một đội ngũ cán bộ nhân viên có chuyên
môn, trình độ cao. Nhưng trong hoàn cảnh hiện nay, tình trạng lao động trong
Công ty vẫn còn thiếu một lượng lớn các cán bộ giỏi, nhân viên có trình độ cao.
- Thực tế đội ngũ cán bộ nghiên cứu thị trường trong nước hoạt động
với tính ổn định chưa cao. Công ty cũng chưa chú trọng nhiều đến tiêu thụ do
vậy mà tiêu thụ chậm dẫn đến ứ đọng vốn. Về giá cả thị trường, Công ty cần
dự đoán chính xác những biến động của nó để có quyết định nhập khẩu hạn chế
hay ngừng nhập khẩu kịp thời với tình hình biến động của nhu cầu trong nước.
- Trong quá trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu, Công ty vẫn còn bị
động về thời gian nhận hàng do nhiều yếu tố khách quan là phải qua những
bước thủ tục hay vận chuyển trong thời gian dài (15 - 20 ngày với thị trường
gần) nên nhiều khi ảnh hưởng đến kết quả cũng như hiệu quả kinh doanh.
55
- Bạn hàng mà Công ty quan hệ để mua hàng nhập khẩu phần lớn chỉ là
những hãng trung gian hoặc các trung tâm giao dịch chứ không phải là các đại
lý của các hãng sản xuất trực tiếp nên giá hàng nhập thường cao hơn, dẫn đến
lợi nhuận cũng bị giảm đáng kể đối với những lô hàng lớn. Ví dụ, xe Honda
Dream II, Công ty thường phải mua của hãng trung gian Vewchipxeng với giá
1500 USD (CIF) / 1 chiếc. Trong khi đó, nếu mua của hàng trực tiếp sản xuất
- Thái Honda chỉ là 1400 - 1450 USD.
- Chính sách của Nhà nước và Bộ Thương mại một mặt tạo điều kiện
cho Công ty. Mặt khác có lúc gây khó khăn không ít cho hoạt động nhập
khẩu. Nhiều khi việc cấp hạn ngạch không đáp ứng đủ so với năng lực của
Công ty, sự thay đổi quá nhiều và liên tục trong khoảng thời gian ngắn làm
cho định hướng kinh doanh của Công ty gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó,
việc xin giấy phép cũng còn nhiều phiền hà, rắc rối; cơ quan Hải quan còn
gây nhiều khó khăn trong việc giải quyết thủ tục nhận hàng... Công ty phải
chủ động hơn nữa trong việc khắc phục những khó khăn chung này.
56
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP KỸ THUẬT NGHIỆP VỤ
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU
TẠI CÔNG TY DỊCH VỤ DU LỊCH VÀ THƯƠNG MẠI TST
I. PHƯƠNG HƯỚNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY TRONG THỜI GIAN
TỚI.
Tiếp tục đầu tư có hiệu quả hơn nữa cho sản xuất với lưu thông hàng
hoá theo hướng hợp tác phát triển liên doanh, liên kết. Mở rộng quy mô kinh
doanh, quy mô ngành hàng theo hướng đa dạng hoá kinh doanh, đa dạng hoá
ngành hàng. Các mặt hàng xuất nhập khẩu phải hỗ trợ nhau theo hướng đồng
bộ nhu cầu sản xuất, tiêu dùng, kết hợp giữa kinh doanh xuất nhập khẩu vật
tư, nguyên liệu, thiết bị máy móc với hàng tiêu dùng, vừa tận dụng được
nguồn lực vừa phân tán rủi ro.
Bằng tất cả những biện pháp nghiệp vụ nghiên cứu thị trường, mở rộng
đầu mối tiêu thụ, để mở rộng thị trường cả trong nước và ngoài nước, tăng
nhanh kim ngạch xuất khẩu, đẩy mạnh các dịch vụ xuất nhập khẩu uỷ thác.
Nhập khẩu phải đảm bảo yêu cầu phục vụ sản xuất trong nước, đi sâu vào
mục đích cung cấp vật tư thiết bị, nguyên vật liệu cho nhu cầu trong nước,
từng bước phải tiến tới cân bằng kim ngạch xuất khẩu với kim ngạch nhập
khẩu.
Tiếp tục khai thác mạnh hơn nữa nguồn hàng nhập khẩu từ Nhật Bản
và các nước ASEAN, đồng thời thâm nhập và mở rộng thị trường EU, tìm
cách khôi phục thị trường Đông Âu. Đẩy mạnh liên doanh, liên kết sản xuất,
vừa mở rộng phương thức kinh doanh, vừa tạo được đầu mối tiêu thụ lâu dài
hàng hoá nhập khẩu của Công ty. Tiếp tục liên kết nhập khẩu nguyên liệu làm
hàng xuất khẩu và đẩy mạnh xuất nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ dệt may.
57
Thay đổi cơ cấu mặt hàng hợp lý: Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ trước
đến nay là ôtô, xe máy nhưng đây chỉ là những mặt hàng có tính chất tạm tời
khi Công ty mới đi vào hoạt động và trong thời gian tới, sản xuất trong nước
sẽ thay thế nhập khẩu. Vì vậy, chiến lược kinh doanh của Công ty trong tương
lai là trước mắt vẫn khai thác hai mặt hàng này nhưng phải chuyển đổi dần
dần sang nhập khẩu vật tư, nguyên liệu, máy móc thiết bị. Nhập khẩu hàng
tiêu dùng cũng phải giảm xuống hơn nữa, chỉ nhập những mặt hàng thiết bị
văn phòng cao cấp do vẫn có nhu cầu lớn. Bên cạnh đó, tìm kiếm, phát hiện
những nhu cầu mới về hàng hoá nảy sinh mà sản xuất trong nước chưa đáp
ứng được để có sự bổ sung kịp thời, nắm bắt một cách nhanh chóng thời cơ
nhằm thu lợi nhuận cao.
Bố trí sắp xếp mạng lưới tiêu thụ nhập khẩu, tăng thêm những điểm bán
lẻ đi sâu vào thị trường trọng điểm từng vùng, từng ngành, vừa đẩy mạnh tiêu
thụ hàng nhập khẩu vừa cung cấp được thông tin cơ bản về thị trường. Để từ
đó, Công ty có thể nghiên cứu, phân tích lập kế hoạch chính xác, phù hợp.
Đây là cơ sở vững chắc để chiếm lĩnh và mở rộng thị trường.
Tạo điều kiện cho các cán bộ công nhân viên trong Công ty nâng cao
trình độ nghiệp vụ và ngoại ngữ. Tổ chức các cuộc nghiên cứu, khảo sát thị
trường trong nước và ngoài nước để tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty trong
công tác quản lý và điều hành kinh doanh. Thông qua đòn bẩy kinh tế, khoán
cụ thể để khuyến khích cán bộ công nhân viên chủ động hoàn thành nhiệm vụ,
các đơn vị trực thuộc, cửa hàng, trạm sửa chữa bảo hành... thực hiện các biện
pháp thưởng phạt vật chất cụ thể để nâng cao trách nhiệm và khuyến khích
người lao động.
Mục tiêu lâu dài của Công ty là mở rộng quy mô kinh doanh với chiến
lược cụ thể là đa dạng hoá kinh doanh, đa dạng hoá mặt hàng, xác định rõ mặt
hàng chủ lực trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cho phù hợp với nhu cầu hiện
thời của thị trường, không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh trên cơ sở coi
58
trọng hoạt động xuất nhập khẩu, luôn luôn đảm bảo kết hợp chặt chẽ giữa nhu
cầu thị trường với tiềm năng của Công ty để có những điều chỉnh kế hoạch
cho phù hợp, từ đó, góp phần vào nội dung yêu cầu tăng trưởng chung của các
ngành kinh tế. Tình hình trong nước, tuy mức lạm phát không cao nhưng giá
cả hàng hoá không ổn định, quản lý thị trường còn lỏng lẻo, nhu cầu hàng hoá
cũng không ổn định. Chính vì vậy, để hoàn thành nhiệm vụ kinh doanh của
Công ty trong thời gian tới, Công ty Dịch vụ Du lịch và thương mại TST cần
phải có những biện pháp khắc phục khó khăn, đẩy mạnh hoạt động kinh
doanh một cách có hiệu quả, cụ thể và thiết thực.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY TST.
1. Một số giải pháp kỹ thuật nghiệp vụ:
1.1. Giải pháp mở rộng thị trường.
Thị trường tiêu thụ có ý nghĩa quyết định sự tồn tại và phát triển của
Công ty, nó quyết định hàng hoá nhập khẩu của Công ty có tiêu thụ được hay
không. Để tăng kim ngạch nhập khẩu ngoài việc thay đổi cơ cấu hàng hoá
nhập khẩu cho phù hợp với nhu cầu sản xuất, tiêu dùng, Công ty phải tìm các
biện pháp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, khai thác tối đa các nhu cầu
hàng hoá. Có như vậy, Công ty mới có thể tồn tại và phát triển trong tình hình
cạnh tranh quyết liệt hiện nay.
Muốn mở rộng thị trường tiêu thụ hàng nhập khẩu, Công ty phải thực
hiện các bước cơ bản sau:
Nắm bắ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài Một số giải pháp kỹ thuật nghiệp vụ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu tại công ty dịch vụ du lịch và thương mại TST.pdf