Tài liệu Luận văn Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty in tài chính: LUẬN VĂN:
Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn cố định tại Công ty in tài chính
Lời nói đầu
1. Mục đích và ý nghĩa của đề tài nghiên cứu.
Vốn là chìa khoá, là điều kiện hàng đầu của mọi quá trình phát triển. Do vậy, muốn
sản xuất kinh doanh phải có vốn. Để quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành một
cách bình thường thì vấn đề đặt ra với các doanh nghiệp hiện nay là phải tổ chức tốt công
tác huy động và sử dụng vốn một cách có hiệu quả, nói một cách khác là doanh nghiệp
phải luôn luôn bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đây là một vấn đề có ý nghĩa
rất quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp giữ vững được sức mua của đồng vốn trong điều
kiện nền kinh tế có lạm phát và nhiều rủi ro, nâng cao được năng lực hoạt động của đồng
vốn đồng thời đánh giá được chất lượng quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp, giúp
cho doanh nghiệp ngày càng vững mạnh trong nền...
73 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1051 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty in tài chính, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn cố định tại Công ty in tài chính
Lời nói đầu
1. Mục đích và ý nghĩa của đề tài nghiên cứu.
Vốn là chìa khoá, là điều kiện hàng đầu của mọi quá trình phát triển. Do vậy, muốn
sản xuất kinh doanh phải có vốn. Để quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành một
cách bình thường thì vấn đề đặt ra với các doanh nghiệp hiện nay là phải tổ chức tốt công
tác huy động và sử dụng vốn một cách có hiệu quả, nói một cách khác là doanh nghiệp
phải luôn luôn bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đây là một vấn đề có ý nghĩa
rất quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp giữ vững được sức mua của đồng vốn trong điều
kiện nền kinh tế có lạm phát và nhiều rủi ro, nâng cao được năng lực hoạt động của đồng
vốn đồng thời đánh giá được chất lượng quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp, giúp
cho doanh nghiệp ngày càng vững mạnh trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy các doanh
nghiệp không thể không bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đó là một nguyên tắc
bất di bất dịch trong nền kinh tế thị trường.
Trong những năm cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp ở nước ta, các doanh
nghiệp quốc doanh được Nhà nước giao chỉ tiêu, doanh nghiệp lấy việc hoàn thành kế
hoạch cấp trên giao làm mục đích sản xuất kinh doanh. Nhà nước bao cấp về mọi mặt như:
vốn, giá, thị trường tiêu thụ, lỗ Nhà nước bù... nên các doanh nghiệp quốc doanh không coi
việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là trách nhiệm của bản thân mình, mà là của Nhà
nước. Doanh nghiệp chỉ chạy đua với thành tích, với chỉ tiêu.
Từ khi Nhà nước ta chuyển đổi cơ chế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp
sang nền kinh tế thị trường lấy doanh lợi làm mục đích sản xuất kinh doanh, nhiều thành
phần kinh tế cùng song song tồn tại và cạnh tranh với nhau. Những doanh nghiệp làm ăn
có hiệu quả thì ngày càng đứng vững và phát triển, ngược lại những doanh nghiệp làm ăn
thua lỗ, vốn kinh doanh bị mất dần sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh, doanh thu không
bù đắp đủ chi phí, không thể lập lại được quá trình tái sản xuất dẫn đến nguy cơ bên bờ
vực phá sản mà nguyên nhân chủ yếu là do việc tổ chức sử dụng vốn còn nhiều hạn chế.
Vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn được nhiều doanh nghiệp quan tâm chú ý.
Xuất phát từ vai quan trọng của vốn cố định nói riêng và vốn kinh doanh nói chung,
kết hợp với thời gian thực tập tại Công ty In tài chính mà mục đích nghiên cứu của đề tài là
đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đề tài lấy vốn cố định làm đối tượng nghiên cứu, lấy tình hình hoạt động thực tế
của Công ty In tài chính để làm cơ sở nghiên cứu phân tích. Thời điểm nghiên cứu số liệu
lấy thực tế qua 5 năm 1997 - 1998 - 1999 - 2000 - 2001.
3. Kết cấu của chuyên đề.
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục và nhận xét của cơ
sở thực tập, nội dung của chuyên đề được trình bày qua 3 chương:
Chương 1: Vốn cố định và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của
các doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường.
Chương 2: Thực trạng Hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty in tài chính
Chương 3: Những phương hướng và biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định ở
Công ty In tài chính
Chương 1
Vốn cố định và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của các doanh
nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường
1. Vốn cố định trong các doanh nghiệp
1.1. Khái niệm, đặc điểm của tài sản cố định trong doanh nghiệp
Những năm gần đây nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp sang cơ chế thị trường. Trong điều kiện đó, các mối quan hệ hàng hoá, tiền tệ ngày
càng được mở rộng và phát triển, xuất hiện các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh
tế khác nhau cùng song song tồn tại, cạnh tranh lẫn nhau và bình đẳng trước pháp luật.
Trong nền kinh tế quốc dân thì mỗi doanh nghiệp là một tế bào kinh tế. Doanh nghiệp là
một tổ chức được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động sản xuất
kinh doanh. Doanh nghiệp có thể thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá
trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, lao vụ, dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lợi.
Để tiến hành sản xuất sản phẩm, mọi doanh nghiệp đều cần phải có hai yếu tố cơ
bản, đó là sức lao động và tư liệu sản xuất. Căn cứ vào tính chất và tác dụng khi tham gia
vào quá trình sản xuất, tư liệu sản xuất lại chia ra làm hai bộ phận là đối tượng lao động và
tư liệu lao động.
Tài sản cố định (TSCĐ) là những tư liệu lao động chủ. Căn cứ vào tính chất và tác
dụng khi tham gia vào quá trình sản xuất, tư liệu sản xuất lại chia ra làm hai bộ phận là đối
tượng lao động và tư liệu lao động.
Tài sản cố định (TSCĐ) là những tư liệu lao động chủ yếu được tham gia một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như máy móc
thiết bị, phương tiện vận tải, các công trình kiến trúc... Đặc điểm chung của các TSCĐ
trong doanh nghiệp là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm với vai trò là các công
cụ lao động. Trong quá trình đó hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu của TSCĐ
là không thay đổi, song giá trị của nó lại được chuyển dịch dần từng phần vào giá trị sản
phẩm sản xuất ra. Bộ phận giá trị chuyển dịch này cấu thành một yếu tố chi phí sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp và được bù đắp mỗi khi sản phẩm được tiêu thụ.
Trong thực tế, tuỳ theo điều kiện kinh tế, yêu cầu và trình độ quản lý ở từng thời kỳ
nhất định mà người ta có những quy định thống nhất và tiêu chuẩn giới hạn của một
TSCĐ. Theo chế độ tài chính mới nhất qui định những tư liệu lao động được coi là TSCĐ
phải có đủ hai điều kiện sau:
- Có thời hạn sử dụng trên một năm.
- Có giá trị từ 5 triệu đồng Việt Nam trở lên.
Những tư liệu lao động nào không đủ một trong hai điều kiện trên sẽ được coi là
công cụ, dụng cụ thuộc tài sản lưu động và do nguồn vốn lưu động tài trợ. Tuy nhiên do
yêu cầu của công tác quản lý, trong một số trường hợp có những tư liệu lao động dù giá trị
và thời hạn sử dụng không đủ tiêu chuẩn quy định nhưng vấn được coi là TSCĐ của doanh
nghiệp như tổ hợp các đồ dùng trong một phòng làm việc một khách sạn... Mặt khác, trong
doanh nghiệp có một số khoản chi đầu tư cho sản xuất kinh doanh về tính chất luân chuyển
cũng tương tự như TSCĐ vì vậy được coi là các TSCĐ không có hình thái vật chất (TSCĐ
vô hình). Ví dụ như các khoản chi đầu tư mua các bằng phát minh sáng chế, các chi phí
cho việc nghiên cứu phát triển, nghiên cứu ứng dụng, phát hiện, thăm dò...
Từ những nội dung trình bày trên, có thể rút ra định nghĩa về TSCĐ trong doanh
nghiệp như sau:
Tài sản cố định trong các doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu có giá trị
lớn tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó, giá trị của tài sản cố định
không bị tiêu hao hoàn toàn trong lần sử dụng đầu tiên mà nó được chuyển dịch dần dần
từng phần vào giá thành sản phẩm trong các chu kỳ sản xuất tiếp theo.
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá, những TSCĐ đó không chỉ được biểu hiện
dưới hình thái vật chất mà còn dưới hình thái giá trị. Để đầu tư mua sắm TSCĐ, doanh
nghiệp cần phải bỏ ra một số vốn nhất định. Vì vậy, số vốn ứng trước xây dựng, mua sắm
TSCĐ được gọi là vốn cố định của doanh nghiệp.
Trong các doanh nghiệp sản xuất, TSCĐ có nhiều loại khác nhau, mỗi loại lại có
những đặc điểm về tính chất kỹ thuật công dụng khác nhau, được sử dụng trong những lĩnh
vực hoạt động khác nhau của quá trình sản xuất kinh doanh. Do vậy cần phân loại TSCĐ
để có những biện pháp quản lý, sử dụng có hiệu quả hơn.
Phân loại TSCĐ là việc phân chia toàn bộ TSCĐ hiện có của doanh nghiệp theo
những tiêu thức nhất định nhằm phục vụ cho những yêu cầu quản lý của doanh nghiệp.
Thông thường có những cách phân loại TSCĐ chủ yếu sau:
1.1.1. Phân loại TSCĐ theo hình thái biểu hiện
Theo phương pháp này TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành hai loại: TSCĐ có
hình thái vật chất (TSCĐ hữu hình) và TSCĐ không có hình thái vật chất (TSCĐ vô hình)
* TSCĐ hữu hình là những TSCĐ có hình thái vật chất cụ thể như nhà xưởng, máy
móc thiết bị, phương tiện vận tải, các vật kiến trúc... Những TSCĐ này có thể là từng đơn
vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản liên kết với
nhau để thực hiện một hay một số chức năng nhất định trong quá trình sản xuất kinh
doanh.
* TSCĐ vô hình là những TSCĐ không có hình thái vật chất cụ thể, thể hiện một
lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh
nghiệp như chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí mua bằng phát minh sáng chế hay nhãn
hiệu thương mại...
Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu đầu tư vào TSCĐ hữu
hình và vô hình. Đây là căn cứ quan trọng để xây dựng các quyết định đầu tư hoặc điều
chỉnh phương hướng đầu tư cho phù hợp với tình hình thực tế và cũng là căn cứ để đưa ra
các biện pháp quản lý tài sản, quản lý vốn, tính toán khấu hao hợp lý.
1.1.2. Phân loại TSCĐ theo mục đích sử dụng
Theo tiêu thức này, toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành 3 loại:
* TSCĐ dùng cho mục đích kinh doanh: là những TSCĐ dùng trong hoạt động sản
xuất kinh doanh cơ bản và hoạt động sản xuất kinh doanh phụ của doanh nghiệp.
* TSCĐ dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh quốc phòng: là những
TSCĐ do doanh nghiệp quản lý và sử dụng cho các hoạt động phúc lợi, sự nghiệp (như các
công trình phúc lợi), các TSCĐ sử dụng cho hoạt động đảm bảo an ninh, quốc phòng của
doanh nghiệp.
* Các TSCĐ bảo quản hộ, gửi hộ, cất giữ hộ Nhà nước: là những TSCĐ doanh
nghiệp bảo quản hộ, giữ hộ cho đơn vị khác hoặc cho Nhà nước theo quyết định của cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền.
Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu TSCĐ của mình theo
mục đích sử dụng của nó. Từ đó có biện pháp quản lý TSCĐ theo mục đích sử dụng sao
cho có hiệu quả nhất.
1.1.3. Phân loại TSCĐ theo công dụng kinh tế
Căn cứ vào công dụng kinh tế của TSCĐ, toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp có thể
chia thành các loại sau:
* Nhà cửa, vật kiến trúc: là những TSCĐ của doanh nghiệp được hình thành sau
quá trình thi công xây dựng như: nhà xưởng, trụ sở làm việc, nhà kho, cầu cảng...
* Máy móc thiết bị: là toàn bộ các loại máy móc thiết bị dùng trong hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp như: máy móc thiết bị động lực, máy móc công tác, thiết bị
chuyên dùng, những máy móc đơn lẻ.
* Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn: là các loại phương tiện vận tải như:
phương tiện đường sắt, đường thuỷ, đường bộ, đường không, đường ống và các thiết bị
truyền dẫn như hệ thống điện, hệ thống thông tin, đường ống dẫn nước...
* Thiết bị, dụng cụ quản lý: là những thiết bị, dụng cụ dùng trong công tác quản lý
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như máy vi tính, thiết bị điện tử, dụng cụ
đo lường, máy hút bụi...
* Các loại TSCĐ khác: là toàn bộ các loại TSCĐ khác chưa liệt kê vào 5 loại trên
như tác phẩm nghệ thuật tranh ảnh...
Cách phân loại này cho thấy công dụng cụ thể của từng loại TSCĐ trong doanh
nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý, sử dụng TSCĐ, tính toán khấu hao TSCĐ
chính xác.
1.1.4. Phân loại TSCĐ theo tình hình sử dụng
Căn cứ vào tình hình sử dụng TSCĐ, người ta chia TSCĐ của doanh nghiệp thành
các loại:
* TSCĐ đang sử dụng: là những TSCĐ của doanh nghiệp đang sử dụng cho các
hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc các hoạt động phúc lợi, sự nghiệp, an ninh, quốc
phòng của doanh nghiệp.
* TSCĐ chưa cần dùng: là những TSCĐ cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh
doanh hay các hoạt động khác của doanh nghiệp song hiện tại chưa cần dùng, đang được
dự trữ để sử dụng sau này.
* TSCĐ không cần dùng chờ thanh lý: là những TSCĐ không cần thiết hoặc không
phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cần được thanh lý, nhượng bán
để thu hồi vốn đầu tư đã bỏ ra ban đầu.
Cách phân loại này cho thấy mức độ sử dụng có hiệu quả của TSCĐ của doanh nghiệp
như thế nào, đồng thời tạo điều kiện cho việc phân tích, kiểm tra, đánh giá tiềm lực sản xuất
cần được khai thác, từ đó có biện pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng TSCĐ.
1.1.5. Phân loại TSCĐ theo quan hệ sở hữu
Theo phương pháp này, TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành hai loại: TSCĐ
chủ sở hữu (tự có) và TSCĐ thuê ngoài.
* TSCĐ chủ sở hữu (tự có) là các TSCĐ được xây dựng, mua sắm và hình thành từ
nguồn vốn ngân sách cấp hoặc cấp trên cấp, nguồn vốn vay, nguồn vốn liên doanh, các
quỹ của doanh nghiệp và các TSCĐ được tặng, biếu... Đây là những tài sản mà doanh
nghiệp có quyền sử dụng lâu dài và được phản ánh trên bảng cân đối kế toán của doanh
nghiệp.
* TSCĐ thuê ngoài là TSCĐ đi thuê để sử dụng trong một thời gian nhất định theo
hợp đồng đã ký kết gồm: TSCĐ thuê tài chính và TSCĐ thuê hoạt động. Trong đó TSCĐ
thuê tài chính cũng được coi như TSCĐ của doanh nghiệp được phản ánh trên bảng cân đối
kế toán. Doanh nghiệp có trách nhiệm quản lý, sử dụng và trích khấu hao như các TSCĐ tự có
của doanh nghiệp. Còn đối với TSCĐ thuê hoạt động, doanh nghiệp chỉ được quản lý, sử dụng
trong thời hạn hợp đồng và phải hoàn trả khi kết thúc hợp đồng.
Cách phân loại này giúp cho người quản lý biết được nguồn gốc hình thành các loại
TSCĐ để có hướng sử dụng và trích khấu hao đúng, từ đó tổ chức hạch toán TSCĐ được
chặt chẽ, chính xác, thúc đẩy việc sử dụng TSCĐ có hiệu quả cao.
Trên đây là những đặc điểm và thuộc tính của TSCĐ. Những đặc điểm này sẽ chi
phối đặc điểm tuần hoàn của vốn cố định. Từ đó có thể thấy được bản chất vốn cố định và
những đặc điểm tuần hoàn của nó.
1.2. Khái niệm, đặc điểm chu chuyển của vốn cố định.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, việc mua sắm xây dựng hay lắp đặt các
TSCĐ của doanh nghiệp đều phải thanh toán, chi trả bằng tiền. Số vốn đầu tư ứng trước để
mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các TSCĐ của doanh nghiệp đều phải thanh toán, chi trả
bằng tiền. Số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các TSCĐ hữu hình
và vô hình được gọi là vốn cố định của doanh nghiệp. Số vốn này nếu được sử dụng có
hiệu quả sẽ không mất đi, doanh nghiệp sẽ thu hồi lại được sau khi tiêu thụ các sản phẩm
hàng hoá hay dịch vụ của mình.
Là số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng các TSCĐ nên quy mô của vốn
cố định (VCĐ) nhiều hay ít sẽ quyết định quy mô của TSCĐ, ảnh hưởng rất lớn đến trình
độ trang bị kỹ thuật và công nghệ, năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Song
ngược lại những đặc điểm kinh tế của TSCĐ trong quá trình sử dụng lại có ảnh hưởng
quyết định chi phối đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của VCĐ. Trên ý nghĩa của mối
liên hệ đó, có thể khái quát những nét đặc thù về sự vận động của VCĐ trong quá trình sản
xuất kinh doanh như sau:
- VCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm có đặc điểm này là do TSCĐ
được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất. Vì thế mà VCĐ - hình thái biểu hiện
bằng tiền của nó cũng tham gia vào các chu kỳ sản xuất tương ứng.
- VCĐ được luân chuyển dần dần từng phần trong các chu kỳ sản xuất.
Khi tham gia vào quá trình sản xuất, một bộ phận VCĐ được luân chuyển và cấu
thành chi phí sản xuất sản phẩm (dưới hình thức chi phí khấu hao) tương ứng với phần giá
trị hao mòn của TSCĐ.
- VCĐ sau nhiều chu kỳ sản xuất mới hoàn thành một vòng luân chuyển.
Sau mỗi chu kỳ sản xuất, phần vốn được luân chuyển vào giá trị sản phẩm dần dần
tăng lên. Song phần vốn đầu tư ban đầu vào TSCĐ lại giảm dần xuống cho đến khi TSCĐ
hết thời gian sử dụng, giá trị của nó được chuyển dịch hết vào giá trị sản phẩm đã sản xuất
thì VCĐ mới hoàn thành một vòng luân chuyển.
Những đặc điểm luân chuyển trên đây của VCĐ đòi hỏi việc quản lý VCĐ phải
luôn gắn liền với việc quản lý hình thái hiện vật của nó là các TSCĐ của doanh nghiệp.
Từ những nội dung phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về VCĐ như sau:
Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư, ứng trước về TSCĐ
mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn
thành một vòng tuần hoàn khi TSCĐ hết thời gian sử dụng.
TSCĐ và VCĐ có vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh
của mỗi doanh nghiệp. Một cách chung nhất nó quyết định đến trình độ sản xuất của doanh
nghiệp, giúp doanh nghiệp ấy có khả năng thực hiện được các mục tiêu của mình trong
hoạt động sản xuất kinh doanh. Quy mô VCĐ càng lớn, trình độ trang bị kỹ thuật TSCĐ
của doanh nghiệp càng hiện đại chứng tỏ trình độ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
càng cao. Chính vì vậy vấn đề đổi mới TSCĐ luôn là một yêu cầu cấp thiết đối với các
doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay. Để đổi mới TSCĐ, quan trọng nhất là cần phải
nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ, có sử dụng tốt VCĐ thì mới có điều kiện để đổi mới
TSCĐ.
1.3. Khấu hao tài sản cố định.
1.3.1. Hao mòn tài sản cố định.
Trong quá trình sử dụng, do chịu ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân khác nhau,
TSCĐ của doanh nghiệp bị hao mòn dưới hai hình thức: Hao mòn hữu hình và hao mòn vô
hình.
a. Hao mòn hữu hình.
Hao mòn hữu hình của TSCĐ là sự hao mòn về vật chất và giá trị của TSCĐ trong
quá trình sử dụng. Về mặt vật chất đó là sự hao mòn có thể nhận thấy được từ sự thay đổi
trạng thái vật lý ban đầu ở các bộ phận, chi tiết TSCĐ dưới sự tác động của ma sát, tải
trọng, nhiệt độ, hoá chất ...; sự giảm sút về chất lượng, tính năng kỹ thuật ban đầu trong
quá trình sử dụng và cuối cùng không còn sử dụng được nữa. Muốn khôi phục lại giá trị sử
dụng của nó phải tiến hành sửa chữa, thay thế. Về mặt giá trị, đó là sự giảm dần giá trị của
TSCĐ cùng với quá trình chuyển dịch dần từng phần giá trị hao mòn vào giá trị sản phẩm
sản xuất.
Nguyên nhân và mức độ hao mòn hữu hình trước hết phụ thuộc vào các nhân tố
trong quá trình sử dụng TSCĐ như thời gian và cường độ sử dụng, việc chấp hành các quy
phạm pháp luật trong sử dụng và bảo dưỡng TSCĐ. Tiếp đến là các nhân tố về tự nhiên và
môi trường sử dụng TSCĐ như nhiệt độ, độ ẩm, tác động của các hoá chất... Ngoài ra mức
độ hao mòn hữu hình còn phụ thuộc vào chất lượng chế tạo TSCĐ, ví dụ như chất lượng
nguyên vật liệu được sử dụng, công nghệ chế tạo...
Việc nhận thức rõ các nguyên nhân ảnh hưởng đến mức hao mòn hữu hình TSCĐ
sẽ giúp các doanh nghiệp có biện pháp cần thiết, hữu hiệu để hạn chế nó.
b. Hao mòn vô hình.
Hao mòn vô hình của TSCĐ là sự giảm thuần tuý về mặt giá trị của tài sản do có
những TSCĐ cùng loại nhưng được sản xuất ra với giá rẻ hơn hoặc hiện đại hơn.
Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hao mòn vô hình của TSCĐ, không phải do chúng
được sử dụng nhiều hay ít trong sản xuất mà là do tiến bộ khoa học kỹ thuật. Trong điều
kiện tăng trưởng mạnh mẽ về khoa học công nghệ hiện nay, người ta có thể sản xuất ra
được những loại máy móc có tính năng tác dụng như máy cũ nhưng với giá hạ hơn hoặc
sản xuất ra những loại máy có cùng giá trị nhưng công suất lớn hơn, chất lượng tốt hơn.
Do vậy, những máy móc được sản xuất ở thời gian trước đây sẽ bị “mất giá” so với hiện
tại, sự “mất giá” đó chính là hao mòn vô hình. Hao mòn vô hình còn xuất hiện cả khi chu
kỳ sống của sản phẩm nào đó bị chấm dứt làm cho những máy móc để chế tạo ra sản phẩm
đó cũng bị lạc hậu, mất tác dụng.
Để khắc phục hao mòn vô hình, các doanh nghiệp phải coi trọng đổi mới kỹ thuật,
công nghệ sản xuất, ứng dụng kịp thời các thành tựu tiến bộ khoa học. Điều đó có ý nghĩa
rất quyết định trong việc tạo ra lợi thế cho doanh nghiệp trong cạnh tranh trên thị trường.
1.3.2. Khấu hao TSCĐ và các phương pháp tính khấu hao TSCĐ
a. Khấu hao TSCĐ.
Để bù đắp giá trị TSCĐ bị hao mòn trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh
nghiệp phải chuyển dịch dần dần phần giá trị hao mòn đó vào giá trị sản phẩm sản xuất
trong kỳ gọi là khấu hao TSCĐ.
Vậy khấu hao TSCĐ là việc chuyển dịch phần giá trị hao mòn của TSCĐ trong quá
trình sử dụng vào giá trị sản phẩm sản xuất ra theo các phương pháp tính toán thích hợp.
Mục đích của khấu hao TSCĐ là nhằm tích luỹ vốn để tái sản xuất giản đơn hoặc tái
sản xuất mở rộng TSCĐ. Bộ phận giá trị hao mòn được chuyển dịch vào giá trị sản phẩm
được coi là một yếu tố chi phí sản xuất sản phẩm biêủ hiện dưới hình thức tiền tệ gọi là
tiền khấu hao TSCĐ. Sau khi sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ, số tiền khấu hao được tích
luỹ lại hình thành quỹ khấu hao TSCĐ của doanh nghiệp, quỹ khấu hao dùng để tái sản
xuất giản đơn TSCĐ. Song trên thực tế, trong điều kiện tiến bộ về khoa học kỹ thuật, quỹ
khấu hao có khả năng tái sản xuất mở rộng TSCĐ. Khả năng này có thể thực hiện bằng
cách: Các doanh nghiệp sẽ sử dụng linh hoạt quỹ khấu hao được tích luỹ hàng năm như
một nguồn tài chính bổ sung cho các mục đích đầu tư phục vụ sản xuất kinh doanh để có
doanh lợi (trên nguyên tắc được hoàn quỹ). Hoặc nhờ nguồn này, đơn vị có thể đầu tư đổi
mới TSCĐ ở những năm sau trên một quy mô lớn hơn hoặc trang bị máy móc hiện đại
hơn. Trên ý nghĩa đó, quỹ khấu hao còn được coi là một nguồn tài chính quan trọng để tái
sản xuất mở rộng TSCĐ trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
b. Các phương pháp tính khấu hao TSCĐ
Việc tính khấu hao TSCĐ trong các doanh nghiệp có thể được thực hiện theo nhiều
phương pháp khác nhau. Thông thường có các phương pháp cơ bản sau:
* Phương pháp khấu hao bình quân (hay còn gọi là phương pháp tuyến tính cố
định).
Đây là phương pháp khấu hao đơn giản nhất, được sử dụng khá phổ biến để tính
khấu hao các loại TSCĐ. Theo phương pháp này tỷ lệ khấu hao và mức khấu hao hàng
năm được xác định theo mức không đổi trong suốt thời gian sử dụng TSCĐ. Mức khấu hao
và tỷ lệ khấu hao hàng năm được xác định theo công thức:
MKH =
Gđ
T
TKH =
MKH
T
Trong đó:
MKH: Mức khấu hao trung bình hàng năm.
TKH: Tỷ lệ khấu hao trung bình hàng năm.
Gđ: Nguyên giá TSCĐ.
T: Thời gian sử dụng của TSCĐ (năm)
Nếu doanh nghiệp trích khấu hao hàng tháng thì lấy mức khấu hao hàng năm chia
cho 12 tháng.
Ưu điểm của phương pháp khấu hao bình quân là tính toán đơn giản, dễ hiểu. Mức
khấu hao tính vào giá thành đều đặn làm cho giá thành ổn định. Tuy nhiên, phương pháp
này có nhược điểm là không phản ánh chính xác mức độ hao mòn thực tế của TSCĐ vào
giá thành sản phẩm trong các thời kỳ sử dụng khác nhau; khả năng thu hồi vốn chậm làm
TSCĐ chịu ảnh hưởng bất lợi của hao mòn vô hình.
* Phương pháp khấu hao giảm dần.
Phương pháp khấu hao này gồm hai phương pháp: Khấu hao theo số dư giảm dần
và khấu hao theo tổng số thứ tự năm sử dụng.
- Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần
Thực chất của phương pháp này là số tiền khấu hao hàng năm được tính bằng cách:
lấy giá trị còn lại của TSCĐ theo thời hạn sử dụng nhân với tỷ lệ khấu hao không đổi. Như
vậy mức khấu hao và tỷ lệ khấu hao theo thời hạn sử dụng TSCĐ sẽ giảm dần. Công thức
tính tỷ lệ khấu hao hàng năm theo thời hạn sử dụng như sau:
TKH = 1 -
Gđ. t
GC
Trong đó:
TKH: Tỷ lệ khấu hao hàng năm
GC: Giá trị còn lại của TSCĐ ở cuối năm tính toán
Gđ: nguyên giá của TSCĐ
t: Thời điểm của năm cần tính khấu hao
- Phương pháp khấu hao theo tổng số thứ tự năm sử dụng.
Theo phương pháp này, số tiền khấu hao hàng năm được tính bằng cách nhân giá trị
ban đầu của TSCĐ với tỷ lệ khấu hao giảm dần qua các năm. Tỷ lệ khấu hao này được xác
định bằng cách lấy số năm sử dụng còn lại chia cho tổng số thứ tự năm sử dụng.
Công thức tính như sau:
TKH =
t
T
Trong đó:
TKH: Tỷ lệ khấu hao theo năm sử dụng
T: Thời gian dự kiến sử dụng TSCĐ
t: Thứ tự năm cần tính tỷ lệ khấu hao.
Phương pháp khấu hao giảm dần có ưu điểm là phản ánh chính xác hơn mức hao
mòn TSCĐ vào giá trị sản phẩm, thu hồi vốn nhanh nên hạn chế được ảnh hưởng của hao
mòn vô hình. Tuy nhiên nhược điểm của phương pháp này là việc tính toán mức khấu hao
và tỷ lệ khấu hao hàng năm sẽ phức tạp, số tiền trích khấu hao luỹ kế đến năm cuối cùng
cũng chưa đủ bù đắp toàn bộ giá trị đầu tư ban đầu vào TSCĐ.
Trên thực tế người ta có thể sử dụng kết hợp phương pháp khấu hao bình quân với
phương pháp khấu hao giảm dần bằng cách: trong những năm đầu sử dụng TSCĐ thì áp
dụng phương pháp khấu hao giảm dần, còn những năm cuối thì thực hiện phương pháp
khấu hao bình quân. Bằng cách này có thể hạn chế được hao mòn vô hình và số khấu hao
luỹ kế đến năm cuối cùng sẽ bù đắp được giá trị ban đầu của TSCĐ.
Việc nghiên cứu các phương pháp khấu hao TSCĐ là một căn cứ quan trọng giúp
cho các doanh nghiệp lựa chọn phương pháp khấu hao phù hợp với chiến lược kinh doanh
của doanh nghiệp mình, đảm bảo cho việc thu hồi, bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng
VCĐ. Đồng thời cũng là căn cứ cho việc lập kế hoạch khấu hao TSCĐ của các doanh
nghiệp.
2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp.
2.1. Hiệu quả sử dụng vốn cố định (VCĐ).
Trong các doanh nghiệp, VCĐ là một bộ phận quan trọng của vốn đầu tư nói riêng
và của vốn sản xuất nói chung. Quy mô của VCĐ và trình độ quản lý, sử dụng nó là nhân
tố ảnh hưởng quyết định đến tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp.
Do ở một vị trí then chốt và đặc điểm vận động của nó lại tuân theo tính quy luật riêng nên
việc quản lý VCĐ được coi là một trọng điểm của công tác tài chính doanh nghiệp.
Như đã trình bày ở trên, phải trải qua một thời gian dài VCĐ mới hoàn thành được
một vòng luân chuyển. Vấn đề đặt ra thu hút sự quan tâm của các nhà quản lý doanh
nghiệp ở đây là làm thế nào để VCĐ trong suốt thời gian dài tham gia vào quá trình sản
xuất tạo ra được nhiều sản phẩm mang lại nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp. Hay nói cách
khác là làm thế nào để sử dụng VCĐ một cách có hiệu quả nhằm thực hiện được mục đích
kinh doanh của doanh nghiệp. Vậy hiệu quả sử dụng VCĐ là gì ? Trong các doanh nghiệp
nó được đánh giá thông qua các chỉ tiêu nào ?
Trước hết nói về hiệu quả sử dụng VCĐ trong doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế của
sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng VCĐ nói riêng được biểu thị qua mối
quan hệ giữa kết quả đạt được trong quá trình sản xuất với chi phí về lao động sống và lao
động vật hoá bỏ ra để đạt được kết quả trên.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh phải bao gồm cả hai mặt: Hiệu quả kinh tế và hiệu
quả xã hội. Hai mặt này liên quan chặt chẽ với nhau và thể hiện nội dung cơ bản của hiệu
quả sản xuất. Trong đó hiệu quả kinh tế là cơ sở vật chất của hiệu quả xã hội, hiệu quả xã
hội tạo điều kiện tốt hơn để thu được hiệu quả kinh tế cao hơn.
Như vậy, ta có thể thấy rằng: Hiệu quả sử dụng VCĐ là mối quan hệ giữa kết quả
đạt được trong quá trình khai thác sử dụng VCĐ vào sản xuất với số VCĐ đã sử dụng để
đạt được kết quả đó.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, bất kỳ một doanh nghiệp nào khi sử dụng
vốn vào sản xuất nói chung và VCĐ nói riêng đều phải quan tâm đến hiệu quả nó mang
lại. Để đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ trong các doanh nghiệp, người ta thường dùng một
hệ thống các chỉ tiêu bao gồm các chỉ tiêu tổng hợp và các chỉ tiêu phân tích.
Các chỉ tiêu tổng hợp nhằm phản ánh về mặt chất của việc sử dụng VCĐ doanh
nghiệp. Thông qua các chỉ tiêu này, người quản lý có thể so sánh kết quả quản lý giữa kỳ
này với kỳ trước, giữa doanh nghiệp mình với các doanh nghiệp khác có quy mô tương tự
để rút ra những trọng điểm cần quản lý. Thuộc loại này bao gồm các chỉ tiêu sau:
- Hiệu suất sử dụng vốn cố định: Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định có
thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần trong kỳ.
Hiệu suất sử dụng vốn cố
định
=
Doanh thu ( hoặc doanh thu thuần) trong kỳ
Số vốn cố định bình quân trong kỳ
Số vốn cố định bình quân trong kỳ được tính theo phương pháp bình quân số học
giữa số vốn cố định ở đầu kỳ và cuối kỳ.
Số vốn cố định bình
quân trong kỳ
=
Số vốn cố định đầu kỳ + Số vốn cố định cuối kỳ
2
Trong đó:
Số vốn cố định đầu kỳ = Nguyên giá TSCĐ đầu kỳ - Số khấu hao luỹ kế đầu kỳ
Số vốn cố định cuối kỳ = Nguyên giá TSCĐ cuối kỳ - Số khấu hao luỹ kế cuối kỳ
- Hàm lượng vốn cố định: Chỉ tiêu này là đại lượng nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu
suất sử dụng vốn cố định. Nó phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần
cần bao nhiều đồng vốn cố định.
Hàm lượng vốn cố định =
Số vốn cố định bình quân trong kỳ
Doanh thu ( hoặc doanh thu thuần) trong kỳ
- Hiệu quả sử dụng vốn cố định (tỷ suất lợi nhuận vốn cố định): Chỉ tiêu này phản
ánh một đồng vốn cố định trong kỳ có thể tạo ra bao nhiều đồng lợi nhuận trước thuế (hoặc
sau thuế). Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá chất lượng và hiệu quả đầu tư cũng
như chất lượng sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp.
Tỷ suất lợi nhuận vốn
cố định
=
Lợi nhuận trước thuế ( hoặc sau thuế) trong kỳ
Số vốn cố định bình quân trong kỳ
Bên cạnh những chỉ tiêu tổng hợp nêu trên, người ta còn sử dụng một số chỉ tiêu
phân tích để phản ánh từng mặt của việc sử dụng vốn cố định trong kỳ. Thuộc các chỉ tiêu
phân tích bao gồm các chỉ tiêu sau:
- Hệ số hao mòn TSCĐ: Chỉ tiêu này phản ánh mức độ hao mòn của TSCĐ trong
doanh nghiệp so với thời điểm đầu tư ban đầu.
Hệ số hao mòn
TSCĐ
=
Số tiền khấu hao kuỹ kế
Nguyên giá TSCĐ ở thời điểm đánh giá
- Hiệu suất sử dụng TSCĐ: Chỉ tiêu này phản ánh một đồng TSCĐ trong kỳ tạo ra
được bao nhiêu đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần.
Hiệu suất sử
dụng TSCĐ
=
DT ( hoặc DT thuần ) trong kỳ
Nguyên giá TSCĐ bình quân trong kỳ
- Kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp: Chỉ tiêu này phản ánh quan hệ tỷ lệ giữa giá trị
từng nhóm, loại TSCĐ trong tổng số giá trị TSCĐ của doanh nghiệp ở thời điểm đánh giá.
Chỉ tiêu này giúp cho doanh nghiệp đánh giá mức độ hợp lý trong cơ cấu TSCĐ được
trang bị ở doanh nghiệp, từ đó có biện pháp đầu tư, điều chỉnh lại cơ cấu TSCĐ nhằm nâng
cao hiệu suất sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Trên đây là những chỉ tiêu tổng hợp và chỉ tiêu phân tích chủ yếu nhằm phục vụ cho
việc kiểm tra tài chính đối voíư việc sử dụng VCĐ của mỗi doanh nghiệp. Khi đánh giá
hiệu quả sử dụng VCĐ cần phải kết hợp các hai loại chỉ tiêu trên để rút ra được những kết
luận đúng đắn. Ngoài ra, vì TSCĐ gồm nhiều loại nên phải kết hợp xem xét các chỉ tiêu
kinh tế kỹ thuật của từng loại cụ thể về mặt hiện vật để đánh giá được toàn diện và chính
xác hiệu quả sử dụng VCĐ.
Qua phương pháp xác định hiệu quả sử dụng VCĐ trên đây chúng ta thấy rằng:
Nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ có nghĩa là khai thác một cách triệt để khả năng hiện có
của doanh nghiệp, phát huy hết công suất thiết kế của máy móc, thiết bị, tận dụng một cách
tối đa giờ máy... để từ đó tạo ra nhiều sản phẩm, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp làm cho
kết quả thu được trên một đồng chi phí về TSCĐ (VCĐ) ngày một tăng. Điều đó có nghĩa
là khi hiệu quả sử dụng VCĐ được nâng lên thì với một đồng vốn bỏ ra sẽ cho kết quả
nhiều hơn, tốt hơn cho doanh nghiệp.
Như vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ là một trong những phương pháp nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp. Do đó các doanh nghiệp phải
thường xuyên nắm vững tình hình sử dụng VCĐ để đề ra những biện pháp tích cực nhằm
nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ trong doanh nghiệp.
2.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định trong hoạt động
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp sản xuất là vấn đề cần thiết cấp bách, có ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp, điều đó xuất phát từ các lý do chủ yếu sau:
- Xuất phát từ mục đích kinh doanh của doanh nghiệp với bất kỳ một doanh nghiệp
nào khi tiến hành sản xuất kinh doanh đều hướng tới mục tiêu lợi nhuận. Từ góc độ của
doanh nghiệp có thể thấy rằng: Lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản tiền chênh lệch giữa
thu nhập và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt được thu nhập từ các hoạt động sản xuất
kinh doanh mang lại.
Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp nói lên kết quả của toàn bộ hoạt động sản
xuất kinh doanh và là nguồn tích luỹ cơ bản để tái sản xuất mở rộng. Đặc biệt trong điều
kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, doanh nghiệp có tồn tại và phát triển
được hay không thì điều quyết định là doanh nghiệp tạo ra được lợi nhuận hay không. Vì
thế lợi nhuận được coi là một trong những đòn bẩy quan trọng, đồng thời là một chỉ tiêu cơ
bản để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận tác động đến tất cả các mặt hoạt
động của doanh nghiệp. Việc thực hiện được chỉ tiêu lợi nhuận là một điều quan trọng đảm
bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp được vững chắc. Chính vì vậy, sản xuất kinh
doanh như thế nào để có lợi nhuận là mục tiêu phấn đấu của tất cả các doanh nghiệp.
Để đạt được điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải tăng cường công tác tổ chức và
quản lý sản xuất, trong đó có vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ, có như vậy mới đem
lại được lợi nhuận cao, góp phần thúc đẩy doanh nghiệp ngày càng phát triển.
- Xuất phát từ vị trí, vai trò của VCĐ trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. VCĐ của doanh nghiệp là thành phần cơ bản của vốn sản xuất kinh doanh. Nó gắn
liền với quy mô hoạt động và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp đồng thời thể hiện
một cách chính xác nhất trình độ trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật của mỗi doanh nghiệp.
Do vậy nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ sẽ làm cho hiệu quả sử dụng vốn sản xuất tăng
lên. Đó cũng chính là mục tiêu cần đạt tới của việc sử dụng vốn trong quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
- Xuất phát từ ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ. Hiệu quả sử dụng
VCĐ là chỉ tiêu chất lượng phản ánh tổng hợp những cố gắng, những biện pháp hữu hiệu
về kỹ thuật, về tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý doanh nghiệp nhằm thúc đẩy sản xuất
phát triển. Chất lượng sản xuất cao sẽ thu được nhiều lãi, hoàn vốn nhanh. Đây cũng là
mục tiêu phấn đấu của mọi doanh nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
Như vậy nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ là đảm bảo với số vốn hiện có, bằng các
biện pháp quản lý và sử dụng tổng hợp nhằm khai thác triệt để mọi khả năng để có thể
mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ phải được biểu hiện trên hai khía cạnh:
Một là, với số vốn hiện có có thể sản xuất ra được một số lượng sản phẩm lớn hơn
trước với chất lượng tốt hơn, giá thành hạ để tăng được lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Hai là, đầu tư thêm VCĐ một cách hợp lý nhằm mở rộng quy mô sản xuất để tăng
doanh số tiêu thụ với yêu cầu đảm bảo tốc độ tăng lợi nhuận phải lớn hơn tốc độ tăng của
vốn.
Trong điều kiện của cơ chế thị trường, mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp là
phải hướng tới lợi nhuận tối đa. Việc hoàn thành kế hoạch sản xuất phải được đặt trên cơ
sở hoàn thành kế hoạch lợi nhuận. Vì thế trong điều kiện cơ chế thị trường, chỉ tiêu quan
trọng nhất để đánh giá chất lượng và hiệu quả đầu tư cũng như chất lượng sử dụng VCĐ
của doanh nghiệp là lợi nhuận.
Do đó, nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ là một vấn đề cần thiết và là điểm đầu tiên
quyết định sự tồn tại, phát triển của một tổ chức kinh tế trong điều kiện nền kinh tế mới.
Đối với nước ta hiện nay, đang trong chặng đường đầu của công cuộc công nghiệp
hoá - hiện đại hoá theo con đường chủ nghĩa xã hội, cơ sở vật chất kỹ thuật được xây dựng
và phát triển với tốc độ cao, TSCĐ được huy động vào sản xuất ngày càng nhiều. Vì vậy,
việc nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ được coi là một trong những nội dung cơ bản của
công tác quản lý sản xuất nói chung và kế hoạch sử dụng VCĐ nói riêng. Điều đó xuất
phát từ ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ.
Để thực hiện nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ, doanh nghiệp cần phải khai thác triệt
để khả năng tiềm tàng của TSCĐ, phát huy hết công suất của nó, tận dụng tối đa giờ máy,
tăng cường độ làm việc, lựa chọn đầu tư hợp lý... Như vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng
VCĐ có tác dụng thúc đẩy năng suất lao động tăng lên, nâng cao trình độ công nghệ sản
xuất. Từ đó làm tăng số lượng sản phẩm sản xuất ra trên một đơn vị TSCĐ, giảm lao động
vật hoá tiêu hao trong một đơn vị sản phẩm và tiết kiệm lao động sống trong quá trình sản
xuất kinh doanh, làm cho giá thành hạ, chất lượng sản phẩm được đảm bảo, công tác tiêu
thụ được đẩy mạnh... làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ còn có ý nghĩa thúc đẩy vòng chu chuyển của
VCĐ tăng nhanh, tạo điều kiện rút ngắn thời gian hao mòn vô hình và hữu hình, từ đó thúc
đẩy nhanh nhịp độ đổi mới TSCĐ theo kịp với tốc độ phát triển của tiến bộ khoa học kỹ
thuật. Nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ còn đồng nghĩa với việc mở rộng sản xuất mà
không cần bỏ thêm vốn đầu tư xây dựng cơ bản để xây dựng mới TSCĐ. Do đó tiết kiệm
được vốn mà vẫn tăng doanh lợi cho doanh nghiệp, làm cho quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp thực sự mang lại hiệu quả kinh tế cao và ngày một phát triển.
Qua đây chúng ta thấy được việc nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ có ý nghĩa vô
cùng to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của nền sản xuất nói chung và mỗi doanh
nghiệp nói riêng. Đặc biệt trong cơ chế thị trường hiện nay, vấn đề nâng cao hiệu quả sử
dụng VCĐ là rất cần thiết và cấp bách, nhất là đối với các doanh nghiệp Nhà nước bởi các
lý do sau:
* Thứ nhất: Do tác động của cơ chế mới. Hiện nay các doanh nghiệp hoạt động
theo cơ chế thị trường có nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại phát triển và cạnh tranh với
nhau. Khi đó các doanh nghiệp Nhà nước muốn đứng vững trên thị trường thì nhất thiết
phải sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, đảm bảo không những duy trì bảo toàn được
đồng vốn hiện có mà phải làm cho đồng vốn đó ngày càng tăng lên tức là kinh doanh phải
có lãi. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải thực hiện tốt việc nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn nói chung và VCĐ nói riêng. Mặt khác trong điều kiện đổi mới cơ chế quản lý hiện
nay các doanh nghiệp thực sự là một đơn vị kinh tế tự chủ, tự tổ chức quá trình sản xuất
kinh doanh, tự tìm hiểu thị trường, tự chủ trong việc tìm đầu vào và đầu ra của sản xuất, tự
chịu trách nhiệm trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Do vậy vấn đề nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn nói chung và VCĐ nói riêng ngày càng trở nên thiết thực và cấp
bách hơn.
* Thứ hai: Trong thời gian qua, tình trạng quản lý và sử dụng VCĐ của các doanh
nghiệp ở nước ta còn rất thấp, gây ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả sản xuất kinh doanh.
Như chúng ta đã biết, để tiến hành sản xuất kinh doanh thì bất kỳ một doanh nghiệp
nào cũng cần phải có vốn. Trong các doanh nghiệp, vốn được hình thành từ nhiều nguồn
khác nhau. Đối với nguồn vốn dùng để đầu tư mua sắm TSCĐ bao gồm:
- Nguồn vốn pháp định: gồm VCĐ do ngân sách cấp, do cấp trên cấp phát cho
doanh nghiệp (đối với các doanh nghiệp Nhà nước).
- Nguồn vốn tự bổ sung: được bổ sung từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
theo quy định của cơ chế tài chính hoặc quyết định của chủ sở hữu vốn ... dùng để mua
sắm, đổi mới máy móc thiết bị.
- Nguồn vốn liên doanh: gồm các khoản do các đơn vị tham gia liên doanh góp vốn
bằng TSCĐ và góp bằng vốn đầu tư xây dựng cơ bản đã hoàn thành.
- Nguồn vốn vay: gồm các khoản vay Ngân hàng, vay các tổ chức kinh tế khác để
đầu tư vào TSCĐ, hoặc các khoản huy động được từ phát hành cổ phiếu, trái phiếu...
Thực tế trong điều kiện sản xuất chưa phát triển, hiệu quả kinh tế đạt được nhìn
chung còn thấp, trình độ quản lý còn non kém, quá trình sản xuất kinh doanh còn gặp
nhiều khó khăn thì việc bổ sung VCĐ bằng các quỹ của doanh nghiệp còn rất hạn chế. Mặt
khác, các doanh nghiệp làm ăn còn kém hiệu quả nên việc liên doanh liên kết và huy động
vốn liên doanh của các đơn vị khác sẽ rất khó khăn. Bởi vì khi đem đồng vốn đi góp vốn
liên doanh các nhà kinh tế phải phân tích hiệu quả kinh tế của đồng vốn đem đi góp, phân
tích tình hình sản xuất của doanh nghiệp định liên doanh làm ăn có hiệu quả hay không?
Chính vì vậy mà nguồn VCĐ huy động từ liên doanh hay các nguồn khai thác từ bên ngoài
cũng chỉ đạt được ở một mức độ nhất định. Vì vậy nguồn VCĐ của doanh nghiệp chủ yếu
là do nguồn vốn Ngân sách cấp. Theo quy định hiện hành thì doanh nghiệp Nhà nước được
cấp không VCĐ. VCĐ có vòng luân chuyển chậm (đối với máy móc thiết bị trung bình từ
15 đến 20 năm) do đó làm cho doanh nghiệp không thấy căng thẳng về tài chính dẫn đến
tình trạng ít quan tâm đến việc tính toán hiệu quả đầu tư VCĐ đưa đến tình trạng TSCĐ
được trang bị một cách chắp vá, không đồng bộ theo một cơ cấu bất hợp lý. Việc lắp đặt,
sử dụng, bảo dưỡng và sửa chữa kém nên TSCĐ không phát huy hết năng lực nên hiệu quả
sử dụng TSCĐ thấp, làm thất thoát VCĐ.
Việc quản lý TSCĐ còn nhiều thiếu sót, việc phân loại TSCĐ, tính toán từng loại
TSCĐ trong tổng số chưa hợp lý. Có những doanh nghiệp mà loại TSCĐ chưa dùng và
không dùng chờ thanh lý vẫn còn có tiềm lực tận dụng phục vụ sản xuất nhưng chưa được
sử dụng hợp lý. Không ít doanh nghiệp chỉ quan tâm đầu tư TSCĐ có tính chất phục vụ
sản xuất, phục vụ quản lý và làm việc mà không chú ý đầu tư tăng TSCĐ trực tiếp sản xuất
ra sản phẩm. Việc trang bị thiết bị máy móc thiếu đồng bộ, trình độ tổ chức quản lý của
các doanh nghiệp còn thấp, công tác quản lý và sử dụng TSCĐ còn nhiều tồn tại. Cụ thể là:
+ Trong các doanh nghiệp Nhà nước cơ cấu TSCĐ thường không hợp lý. Tỷ trọng
giá trị máy móc thiết bị sản xuất trong tổng giá trị TSCĐ còn thấp. Phần lớn các TSCĐ
thuộc thế hệ cũ, năng lực sản xuất hạn chế, mức huy động vào sản xuất chưa cao. Máy
móc thiết bị dây chuyền công nghệ trong các doanh nghiệp Nhà nước còn lạc hậu, năng
suất thấp, tiêu hao năng lượng nhiên liệu nhiều, mức huy động vào sản xuất mới chỉ đạt 25
- 30% công suất máy móc thiết bị. Trong công tác đầu tư doanh nghiệp chưa chú trọng
quan tâm đến yếu tố tiến bộ khoa học kỹ thuật. Vì vậy mà phần lớn máy móc thiết bị được
trang bị chưa đạt được trình độ công nghệ hiện đại, công suất thấp... nên việc sử dụng
TSCĐ còn kém hiệu quả.
+ Trong doanh nghiệp chưa thực hiện tốt việc phân loại cũng như phân cấp quản lý
TSCĐ. Việc giao TSCĐ cho từng bộ phận, từng cá nhân chưa chặt chẽ rõ ràng, việc sử
dụng TSCĐ chưa đúng quy chế, chế độ bảo dưỡng sửa chữa, mua sắm không đúng chế độ
làm cho TSCĐ bị hư hỏng trước thời hạn, năng lực sản xuất bị giảm sút. Bên cạnh đó còn
có một số nguyên nhân khác tác động dẫn đến tình trạng máy móc thiết bị phải ngừng hoạt
động làm gián đoạn quá trình sản xuất, ảnh hưởng đến nhịp điệu sản xuất chung gây lãng
phí vốn bỏ ra.
+ Việc lập kế hoạch trích khấu hao không phù hợp với sự biến động của giá cả nên
không tránh khỏi hao mòn hữu hình và vô hình. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể tái
sản xuất lại được các tài sản đó. Đặc biệt trong điều kiện khoa học kỹ thuật ngày càng phát
triển, việc khấu hao TSCĐ phải có một phương thức thích hợp để tránh được hao mòn vô
hình. Những năm qua việc trích khấu hao thấp hơn hao mòn rất phổ biến, việc sử dụng quỹ
khấu hao trong các doanh nghiệp chưa đúng mục đích. Nhiều doanh nghiệp vẫn còn tồn tại
tình trạng thiếu trách nhiệm, thiếu sự quan tâm đúng mức trước hiệu quả đầu tư và sử dụng
máy móc thiết bị, làm hạn chế rất lớn đến việc bảo toàn vốn trong các doanh nghiệp Nhà
nước.
+ ý thức lao động của con người còn ở mức độ thấp chưa có tính tự giác. Bên cạnh
đó việc quản lý lại còn nhiều thiếu sót chưa có chế độ thưởng phạt nghiêm minh trong
trách nhiệm bảo quản TSCĐ của cán bộ công nhân viên. Các cơ quản chủ quản cấp trên
còn chậm trễ trong việc xây dựng, đổi mới cơ chế tài chính về quản lý vốn đầu tư vào
TSCĐ, thiếu các chế độ quy định về nguyên tắc và phương pháp đánh giá TSCĐ. Chính vì
vậy mà hiệu quả sử dụng VCĐ trong các doanh nghiệp còn rất thấp.
Từ việc sử dụng kém hiệu quả VCĐ nêu trên đã dẫn đến tình trạng sản phẩm làm ra
bị hạn chế về chủng loại, mẫu mã không hợp lý ít được cải thiện để phù hợp với thị hiếu
của người tiêu dùng, chất lượng sản phẩm thấp không đủ điều kiện để cạnh tranh ngay cả ở
thị trường trong nước. Do đó nếu không có sự thay đổi lớn thì triển vọng và khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp Nhà nước rất khó khăn, dẫn đến nhiều cơ sở sản xuất kinh
doanh làm ăn thua lỗ có nguy cơ bị phá sản.
Qua những nội dung phân tích trên đây, chúng ta thấy rằng việc nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn nói chung và VCĐ nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác
quản lý tài chính doanh nghiệp, quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển của mỗi doanh
nghiệp trong cơ chế thị trường. Chính sự cần thiết và cấp bách của vấn đề này đòi hỏi
doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ.
3. Các nhân tố ảnh hưởng và các biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố
định.
3.1. Các nhân tố ảnh hưởng tới việc nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ.
Để có được các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ, trước hết chúng ta cần
phải xem xét hiệu quả sử dụng VCĐ chịu ảnh hưởng của những nhân tố nào. Từ đó có
những biện pháp tác động tích cực để nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ.
Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng VCĐ đó là:
* Công tác đầu tư, mua sắm máy móc thiết bị của doanh nghiệp. Nếu việc đầu tư
mua sắm máy móc thiết bị được tổ chức tốt trên cơ sở nghiên cứu kỹ lưỡng nhu cầu của thị
trường về khả năng tiêu thụ sản phẩm, khả năng tận dụng thời gian làm việc và công suất
của TSCĐ từ đó lựa chọn, mua sắm những máy móc thiết bị phù hợp với yêu cầu về quy
mô và chất lượng sản phẩm tiêu thụ của doanh nghiệp. Sản phẩm có chất lượng cao với số
lượng hợp lý để đáp ứng nhu cầu thị trường sẽ làm tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm.
Đồng thời doanh nghiệp có khả năng để tận dụng thời gian và công suất máy móc thiết bị.
Như vậy hiệu quả sử dụng VCĐ sẽ được nâng cao.
Công tác đầu tư, mua sắm TSCĐ được tổ chức tốt, còn được thể hiện ở việc nghiên
cứu, lựa chọn người bán, phương thức thanh toán và nguồn vốn đầu tư phù hợp để mua
sắm những TSCĐ hiện đại, đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp với chi phí đầu tư hợp
lý.
Ngược lại, nếu việc đầu tư, mua sắm TSCĐ không tốt các máy móc thiết bị, dây
chuyền công nghệ mua về không phù hợp với đặc điểm sản xuất của doanh nghiệp, không
sử dụng hoặc sử dụng không đủ đáp ứng yêu cầu về số lượng sản phẩm sẽ làm giảm doanh
thu tiêu thụ. Hoặc việc mua thêm những máy móc mới có giá trị lớn nhưng doanh nghiệp
lại không tận dụng hết thời gian làm việc và công suất của máy sẽ gây lãng phí hoặc làm
tăng chi phí sử dụng TSCĐ. Như vậy, hiệu quả sử dụng VCĐ sẽ thấp.
* Công tác tổ chức sản xuất cũng là nhân tố ảnh hưởng lớn tới hiệu quả sử dụng
VCĐ của doanh nghiệp.
Nếu công tác tổ chức sản xuất hợp lý, máy móc thiết bị được huy động vào sản xuất
cao, đẩy vòng luân chuyển của VCĐ tăng nhanh, giảm ứ đọng về vốn sẽ tạo điều kiện rút
ngắn thời gian hao mòn vô hình và hữu hình.
Ngược lại, tổ chức sản xuất không hợp lý, máy móc thiết bị huy động vào sản xuất
thấp, máy móc thiết bị chưa cần dùng hoặc không cần dùng nhiều sẽ gây ứ đọng về vốn,
đồng thời hao mòn vô hình và hữu hình tăng (do nhiều nguyên nhân khác nhau) trong khi
không có doanh thu tiêu thụ những sản phẩm do những TSCĐ này tạo ra. Vì vậy, hiệu quả
sử dụng VCĐ của doanh nghiệp sẽ thấp.
* Việc tổ chức lao động một cách khoa học, bố trí sắp xếp công nhân có trình độ và
tay nghề phù hợp với máy móc thiết bị sẽ phát huy được công suất của máy, tiết kiệm được
chi phí, đồng thời năng suất lao động cũng tăng nhanh, số lượng sản phẩm làm ra đạt yêu
cầu chất lượng sẽ nhiều hơn, tức là kết quả thu được từ việc sử dụng VCĐ sẽ cao hơn.
Và ngược lại nếu tổ chức lao động không hợp lý, sắp xếp công nhân có trình độ và
tay nghề không phù hợp với máy móc thiết bị sẽ gây lãng phí do không tận dụng được khả
năng của máy, sản lượng sản phẩm làm ra bị hạn chế dẫn đến kết quả thấp.
* Trách nhiệm và ý thức của người lao động cũng là một nhân tố ảnh hưởng không
nhỏ tới hiệu quả sử dụng VCĐ. Nếu người lao động có ý thức tự giác, có trách nhiệm cao
đối với công việc và TSCĐ mà mình sử dụng cũng như những tài sản của doanh nghiệp
mình, chú ý bảo quản TSCĐ sẽ hạn chế được hư hỏng, mất mát TSCĐ, nâng cao hiệu quả
sử dụng TSCĐ.
* Công tác quản lý TSCĐ là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới hiệu quả sử
dụng VCĐ. Việc quản lý TSCĐ một cách chặt chẽ rõ ràng sẽ là cơ sở cho việc thực hiện
kế hoạch đầu tư, kế hoạch tổ chức sản xuất, công tác sửa chữa, bảo dưỡng, nhượng bán,
thanh lý..., đồng thời sẽ hạn chế việc hư hỏng, thất thoát TSCĐ.
* Nhân tố tiếp theo là công tác sửa chữa, bảo dưỡng TSCĐ của doanh nghiệp. Nếu
công tác này được thực hiện tốt, việc bảo dưỡng sửa chữa TSCĐ được tiến hành một cách
kịp thời và có hiệu quả sẽ góp phần khôi phục duy trì và nâng cao thêm năng lực sản xuất
của TSCĐ, đảm bảo cho TSCĐ không bị hư hỏng trước thời hạn, như vậy sẽ tiết kiệm
được chi phí sử dụng TSCĐ.
Ngược lại, khi công tác sửa chữa, bảo dưỡng không được thực hiện tốt và kịp thời
sẽ làm cho TSCĐ nhanh bị hỏng, có thể bị hư hỏng trước thời hạn, gây lãng phí vốn. Khi
đó thì VCĐ được sử dụng không có hiệu quả mà thậm chí còn không bảo toàn được VCĐ.
* Việc trích khấu hao và sử dụng quỹ khấu hao có ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu
quả sử dụng VCĐ. Nếu trích khấu hao và sử dụng quỹ khấu hao hợp lý, theo đúng chế độ
và phù hợp với đặc điểm riêng của từng TSCĐ hoặc từng nhóm TSCĐ sẽ đảm bảo thu hồi
đủ vốn để tái sản xuất giản đơn TSCĐ. Bên cạnh đó, nếu quỹ khấu hao được sử dụng linh
hoạt sẽ có khả năng tái sản xuất mở rộng TSCĐ. Doanh nghiệp có thể dùng quỹ khấu hao
để đầu tư vào các hoạt động kinh doanh khác mà được xác định là có hiệu quả sẽ làm tăng
thêm thu nhập cho doanh nghiệp. Tất nhiên là việc sử dụng quỹ khấu hao đó phải hợp lý
và phải đảm bảo hoàn nhập quỹ để tái sản xuất TSCĐ khi đến thời hạn sử dụng quỹ khấu
hao.
* Môi trường sử dụng TSCĐ cũng ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng TSCĐ. Trong
điều kiện môi trường không phù hợp về nhiệt độ, độ ẩm, không khí... sẽ là các yếu tố tự nhiên
gây nên hao mòn hữu hình của TSCĐ, làm chúng bị hư hỏng, làm tăng chi phí sử dụng TSCĐ
do phải sửa chữa hoặc thanh lý trước thời hạn. Từ đó sẽ làm cho hiệu quả sử dụng VCĐ giảm
đi.
* Một nhân tố nữa ảnh hưởng lớn tới việc nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ đó là cơ
chế, chính sách của Nhà nước. Các quy định của Nhà nước trong việc quản lý sử dụng
VCĐ ở các doanh nghiệp có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả sử dụng VCĐ của các doanh
nghiệp này như: các quy định về đánh giá và đánh giá lại TSCĐ, cách tính khấu hao và tỷ
lệ khấu hao TSCĐ hay việc quản lý quỹ khấu hao... Nếu các quy định của Nhà nước hợp
lý, đúng đắn, được ban hành kịp thời sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thực
hiện tốt hơn việc quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ.
Trên đây là những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới công tác nâng cao hiệu quả sử
dụng VCĐ ở các doanh nghiệp. Người quản lý doanh nghiệp nhất thiết phải nắm bắt được
mức độ tác động của chúng để phát huy những nhân tố tích cực, hạn chế những nhân tố
tiêu cực, từ đó đề ra các biện pháp đúng đắn để nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ của
doanh nghiệp mình.
3.2. Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định trong các doanh
nghiệp.
3.2.1. Làm tốt công tác đầu tư xây dựng, mua sắm TSCĐ.
Hiệu quả sử dụng VCĐ trước hết phụ thuộc vào chất lượng của công tác đầu tư mua
sắm xây dựng TSCĐ.
Mục đích trực tiếp của việc đầu tư, mua sắm TSCĐ là làm tăng năng lực kinh doanh
của doanh nghiệp. Mặt khác đây cũng là quá trình phức tạp đòi hỏi khối lượng vốn rất lớn.
Do vậy mà trước khi đầu tư doanh nghiệp cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng, kiểm tra về điều
kiện khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp mình cũng như điều kiện cung cấp vật
tư, khả năng tận dụng thời gian làm việc và tận dụng công suất của TSCĐ. Dựa trên cơ sở
phân tích đó đi đến quyết định đầu tư vào loại TSCĐ nào là hợp lý, sau đó tiến hành lựa
chọn các đối tác đầu tư, xác định cơ cấu đầu tư đúng đắn.
Muốn nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ thì phải xác định được những khâu chủ yếu
để đầu tư. Nếu khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường là lớn thì đầu
tư phải chú ý ưu tiên cho những TSCĐ có tính chất trực tiếp sản xuất hơn là những TSCĐ
có tính chất phục vụ sản xuất thì quá trình hoạt động sản xuất mới nhịp nhàng đồng bộ
mang lại hiệu quả kinh doanh cao.
Chỉ tiến hành đầu tư mua sắm máy móc thiết bị khi thực sự cần thiết, giảm bớt
lượng thiết bị dự trữ tránh tình trạng ứ đọng vốn. Mặt khác phải lựa chọn được phương án
đầu tư thích hợp mang lại hiệu quả cao nhất. Đồng thời phải chú trọng, quan tâm đến yếu
tố tiến bộ khoa học kỹ thuật: TSCĐ được đầu tư, mua sắm phải hiện đại, phải phù hợp với
trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật nhằm hạn chế hao mòn vô hình và phải phù hợp
với yêu cầu về công nghệ sản xuất của doanh nghiệp.
Trước khi đầu tư xây dựng cơ bản mua sắm TSCĐ cần phải điều tra nghiên cứu thị
trường cẩn thận, phải xem xét phân tích và nắm bắt khả năng tiêu thụ của sản phẩm trên thị
trường, xu thế nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng, điều kiện cung cấp vật tư, khả năng tận
dụng thời gian làm việc và công suất TSCĐ.
Việc đầu tư mua sắm phải theo xu hướng ngày càng tăng tỷ trọng những loại TSCĐ
có ý nghĩa tích cực trong sản xuất kinh doanh, còn các loại TSCĐ không phát huy hiệu quả
trong sản xuất kinh doanh và TSCĐ dùng ngoài sản xuất kinh doanh ngày càng giảm. Căn
cứ vào việc xác định tỷ lệ hợp lý giữa các máy móc thiết bị, giữa các khâu của quy trình
công nghệ và trong tổng số TSCĐ hiện có để lập kế hoạch đầu tư theo hướng đồng bộ hoá
thiết bị sẵn có, cải tạo thiết bị cũ, thải loại những thiết bị mà chi phí sửa chữa phục hồi lớn
hơn giá trị còn lại, đồng thời phải có kế hoạch đầu tư mua sắm thay thế từng phần hoặc
toàn bộ TSCĐ. Xác định đúng các TSCĐ không cần dùng để thanh lý và nhượng bán. Đầu
tư phải theo chiều sâu, quán triệt phương châm đề ra trong nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ VIII: “Trong quá trình xây dựng và quản lý kinh tế, mở rộng cơ sở vật chất kỹ thuật,
phát triển sản xuất phải luôn luôn chú ý phát triển chiều sâu, tìm cách khai thác bằng mọi
biện pháp thích hợp và đồng bộ hoá cải tạo mở rộng...”
3.2.2. Tổ chức sản xuất hợp lý, quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả TSCĐ.
Như trên đã nghiên cứu, việc tổ chức sản xuất có ảnh hưởng lớn tới hiệu quả sử
dụng VCĐ. Cần tổ chức sản xuất một cách hợp lý sao cho số máy móc thiết bị hiện có,
được huy động vào sản xuất cao, số máy chưa cần dùng ở mức cần thiết và số máy không
cần dùng là tối thiểu.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ cần phải tăng cường công tác quản lý chặt chẽ
TSCĐ từ khâu mua sắm đến khâu sử dụng.
Thực hiện việc phân loại cũng như phân cấp quản lý TSCĐ tiến hành giao TSCĐ
cho từng bộ phận từng cá nhân một cách rõ ràng nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm của
người lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó việc thực hiện chế độ
khuyến khích vật chất, nhằm không ngừng nâng cao chất lượng cường độ sử dụng máy
móc thiết bị, đưa thời gian hoạt động của máy móc thiết bị vào sản xuất là lớn nhất, khai
thác một cách triệt để công suất thiết kế của TSCĐ, hạn chế bớt việc hỏng hóc, mất mát
TSCĐ nhằm từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ theo cả chiều rộng và chiều sâu,
tiết kiệm đến mức tối đa VCĐ, tăng nhanh vòng quay của vốn.
Nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ theo chiều rộng được thực hiện bằng việc tăng
thời gian làm việc có ích của TSCĐ hoặc tăng số lượng và tỷ trọng TSCĐ đang hoạt động
trong cơ cấu TSCĐ hiện có ở doanh nghiệp. Khả năng tăng thời gian làm việc có ích của
TSCĐ nói chung mang tính chất dài hạn. Để làm được điều đó phải đảm bảo tính thường
xuyên liên tục cân đối công suất sản xuất tăng cường việc kiểm tra giám sát, thực hiện
nghiêm chỉnh quy trình công nghệ, nâng cao thời gian gia công chính, nâng cao hệ số công
tác.
Nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ theo chiều sâu được tiến hành chủ yếu bằng việc
hoàn chỉnh kỹ thuật sản xuất và hiện đại hoá TSCĐ. Việc nâng cao trình độ sử dụng TSCĐ
theo chiều sâu có thể là tăng công suất máy móc thiết bị, nâng cao những thông số kỹ thuật
cơ bản của máy móc thiết bị như tốc độ, áp suất, cơ giới hoá, tự động hoá quy trình sản
xuất ... hoàn thiện quy trình công nghệ, tổ chức sản xuất dây chuyền trên cơ sở tập trung
tối ưu sản xuất những sản phẩm đồng loại, chọn lọc nguyên vật liệu phù hợp theo yêu cầu
đòi hỏi của công nghệ và chất lượng sản phẩm, có kế hoạch sửa chữa, bảo dưỡng, nâng cấp
TSCĐ... mặt khác doanh nghiệp phải xác định rõ trách nhiệm của từng bộ phận, từng
người lao động trong quá trình sử dụng TSCĐ, đồng thời phải có chế độ thưởng phạt hợp
lý để khuyến khích người lao động giữ gìn tốt máy móc thiết bị, từ đó nâng cao hiệu quả
sử dụng VCĐ trong doanh nghiệp.
3.2.3. Tổ chức thực hiện tốt việc trích khấu hao và sử dụng quỹ khấu hao có
hiệu quả.
Khấu hao TSCĐ là việc chuyển dịch phần giá trị hao mòn của TSCĐ, trong quá
trình sử dụng vào giá trị sản phẩm sản xuất ra theo các phương pháp tính toán thích hợp.
Trích khấu hao cơ bản thực chất là hình thức thu hồi VCĐ, phục vụ cho tái sản xuất
TSCĐ nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn bỏ ra,
trên nguyên tắc khấu hao là mức khấu hao phải phù hợp với mức hao mòn của TSCĐ.
Điều này không chỉ đảm bảo tính chính xác của giá thành sản phẩm hạn chế ảnh hưởng
của hao mòn vô hình mà còn góp phần bảo toàn được VCĐ. Trong thực tiễn sản xuất kinh
doanh các doanh nghiệp phải xử lý một cách linh hoạt mối quan hệ giữa yêu cầu tính đúng,
tính đủ chi phí khấu hao ở đầu vào và giá bán sản phẩm ở đầu ra phù hợp với yêu cầu hạch
toán kinh doanh theo cơ chế thị trường.
Doanh nghiệp phải lập kế hoạch khấu hao trên cơ sở xác định phạm vi TSCĐ phải tính
khấu hao và tổng giá trị TSCĐ phải tính khấu hao ở đầu kỳ, xác định giá trị TSCĐ tăng giảm
bình quân trong kỳ để xác định nguyên giá bình quân TSCĐ phải tính khấu hao, từ đó xác
định mức khấu hao hàng năm.
Việc lập kế hoạch khấu hao sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể dự kiến ở mức khấu hao
thu hồi trong năm là căn cứ quan trọng để doanh nghiệp xem xét, lựa chọn các quyết định đầu
tư đổi mới TSCĐ trong tương lai, từ đó có biện pháp tổ chức, sử dụng có hiệu quả hơn TSCĐ
của doanh nghiệp.
Cần phải tính khấu hao một cách đúng đắn, chính xác trong khung thời gian nhất định
mà Nhà nước đã quy định đối với từng loại hoặc từng nhóm TSCĐ. Tuỳ thuộc vào đặc
điểm của từng loại, từng nhóm TSCĐ cũng như yêu cầu về công nghệ sản xuất của doanh
nghiệp để lựa chọn thời hạn trích khấu hao tối đa, tối thiểu hay trung bình trong khung quy
định cho phù hợp, nhằm hạn chế được hao mòn vô hình.
Vấn đề đặt ra là phải làm tốt công tác trích khấu hao hợp lý có căn cứ khoa học
song phải phù hợp với chi phí giá thành, với quy định của Nhà nước nhằm kích thích phát
triển sản xuất, tránh tình trạng khấu hao quá thấp gây hao mòn vô hình hay khấu hao quá
cao làm đổi giá thành, giá thành cao sản phẩm không tiêu thụ được ảnh hưởng đến sản
xuất.
Theo quy định mới nhất của Bộ Tài Chính thì các doanh nghiệp được sử dụng hoàn
toàn số khấu hao luỹ kế của TSCĐ thuộc vốn đầu tư ngân sách Nhà nước để tái sản xuất
đổi mới TSCĐ. Song khi chưa có nhu cầu đầu tư tái tạo lại TSCĐ thì doanh nghiệp có thể
dùng vào đầu tư tạm thời cho các hoạt động sản xuất hoặc hoạt động khác nhưng phải đảm
bảo nguyên tắc hoàn trả. Sử dụng linh hoạt quỹ khấu hao làm cho nó không ngừng lớn
mạnh, đến khi cần đầu tư đổi mới TSCĐ thì thu hồi về một cách nhanh nhất để tái tạo
TSCĐ phục vụ yêu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
3.2.4. Tiến hành bảo dưỡng, sửa chữa thường xuyên và sửa chữa lớn TSCĐ.
Trên cơ sở của việc quản lý chặt chẽ, kiểm tra thường xuyên, nắm bắt được tình
trạng của từng loại TSCĐ, doanh nghiệp cần tiến hành bảo dưỡng, sửa chữa một cách kịp
thời TSCĐ. Mục đích của việc bảo dưỡng, sửa chữa là nhằm duy trì năng lực hoạt động
kinh doanh của TSCĐ trong cả thời kỳ hoạt động của nó, làm giảm hao mòn, làm tăng thời
gian sử dụng TSCĐ, tránh việc TSCĐ bị hư hỏng, phải sa thải trước thời hạn phục vụ của
nó gây lãng phí vốn, làm giảm hiệu quả sử dụng VCĐ. Đồng thời còn đảm bảo tính liên
tục, nhịp nhàng, cân đối của quá trình sản xuất, đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm.
Dễ thấy một điều là máy móc thiết bị trong các doanh nghiệp hiện nay ở nước ta hết sức đa
dạng về chủng loại và thuộc nhiều thế hệ khác nhau, vì vậy lựa chọn chế độ bảo dưỡng và
sửa chữa thích hợp là hết sức quan trọng. Hiện nay thường áp dụng chế độ sửa chữa dự
phòng theo kế hoạch mà thực chất của nó là tổng hợp các biện pháp tổ chức kỹ thuật phục
vụ việc bảo dưỡng, kiểm tra và sửa chữa.
Để đảm bảo hiệu quả của công tác sửa chữa, bảo dưỡng TSCĐ, việc sửa chữa phải
được đặt trên các yêu cầu sau:
+ Đảm bảo duy trì năng lực hoạt động bình thường của máy móc thiết bị trong đời
hoạt động của nó.
+ Phải cân nhắc giữa chi phí bỏ ra với việc thu hồi hết giá trị còn lại của TSCĐ để
quyết định sửa chữa hay chấm dứt đời hoạt động của TSCĐ.
3.2.5. Xây dựng và hoàn thiện quyền tự chủ của doanh nghiệp trong quản lý và
sử dụng TSCĐ.
Trong các doanh nghiệp Nhà nước thì chính Nhà nước là người chủ sở hữu TSCĐ
còn doanh nghiệp là người trực tiếp quản lý và sử dụng TSCĐ. Trong cơ chế cũ do không
phân định rõ quyền sở hữu và quyền sử dụng nên đã dẫn đến tình trạng vô chủ trong các
doanh nghiệp Nhà nước, không ai quan tâm đến hiệu quả sử dụng TSCĐ. Vì vậy cần phải
xác định và hoàn thiện quyền tự chủ của doanh nghiệp trong quản lý và sử dụng tài sản
cũng như xây dựng và hoàn thiện cơ chế phân phối lợi ích cho người lao động và tập thể
doanh nghiệp nếu họ quản lý và sử dụng tốt TSCĐ.
Mặt khác cũng cần tránh việc nhận thức quyền sở hữu và quyền sử dụng một cách
máy móc giản đơn dẫn đến tình trạng Nhà nước giao phó hết cho doanh nghiệp, không tìm
cách hướng doanh nghiệp sử dụng và quản lý TSCĐ tốt hơn; còn doanh nghiệp chỉ tìm
cách sử dụng hết công suất; khai thác triệt để TSCĐ mà không lo bảo toàn, mở rộng tài sản
của doanh nghiệp. Vì vậy để nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ cần xác định chức năng của
Nhà nước là kiểm tra, kiểm soát, hướng dẫn, giúp doanh nghiệp trong việc cung cấp, thông
tin, dự báo, tìm thị trường, tạo điều kiện để doanh nghiệp quản lý và sử dụng tốt TSCĐ mà
không can thiệp vào các hoạt động đó. Doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất hàng hoá, có
quyền quyết định độc lập các hoạt động sản xuất kinh doanh có tài sản riêng và chịu trách
nhiệm độc lập về tài sản đó. Doanh nghiệp cần đặt ra những yêu cầu để tập thể bao gồm
các mặt hoạt động như tổ chức, kế hoạch hoá và thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh.
Đồng thời phải xác định được hiệu quả kinh tế của từng biện pháp để nâng cao trình độ sử
dụng TSCĐ.
3.2.6. Tổ chức tốt hạch toán nội bộ trong doanh nghiệp
Hiệu quả sử dụng TSCĐ phải được tính toán từ khi lập kế hoạch sản xuất, sử dụng
vốn đến quá trình tổ chức thực hiện. Trong quá trình sản xuất, việc sử dụng VCĐ (TSCĐ)
luôn luôn gắn với mục đích cụ thể, do đó thực hiện hạch toán kinh tế nội bộ là một biện pháp
nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ.
Việc hạch toán kinh tế nội bộ có thể thực hiện từ phân xưởng, tổ, đội sản xuất được
giao một số chỉ tiêu và quyền hạn nhất định trong việc quản lý và sử dụng nhằm phát huy tính
chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của người lao động và quản lý sản xuất. Các chỉ tiêu giao
cho phân xưởng, tổ, đội phải xoay quanh chỉ tiêu chung toàn doanh nghiệp. Lợi nhuận, hiệu
suất sử dụng TSCĐ, VCĐ... phải lựa chọn chỉ tiêu thích hợp nhất để đạt được mục tiêu: hệ số
sử dụng máy, hệ số ca máy, hiệu suất sử dụng theo thời gian...
3.2.7. Đổi mới cơ chế quản lý vĩ mô của Nhà nước và quản lý VCĐ trong các
doanh nghiệp
Việc quản lý VCĐ (TSCĐ) ở các doanh nghiệp luôn có sự biến đổi không ngừng
theo sự phát triển và thay đổi của nền kinh tế . Các cơ quan Nhà nước quản lý doanh
nghiệp phải luôn theo sát tình hình để nhận biết những thay đổi đó, kịp thời đưa ra những
chính sách mới phù hợp với điều kiện thực tế nhằm thúc đẩy sự phát triển của các doanh
nghiệp nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng.
Nhà nước phải có chính sách nhập khẩu máy móc thiết bị hợp lý. Chính sách thuế
nhập khẩu cần được quan tâm xem xét kỹ lưỡng sao cho mức thuế phù hợp với mỗi chủng
hoại, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được tự do lựa chọn mặt hàng. Bên cạnh đó Nhà
nước phải có chính sách, khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài theo hướng tiến
bộ khoa học kỹ thuật đi nghiên cứu phân tích giúp các doanh nghiệp nên đầu tư mua sắm
thiết bị nào cho phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của đơn vị mình bằng cách
không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật. Có như vậy
mới nắm bắt được kịp thời những thành tựu khoa học công nghệ của thế giới ngày một đổi
mới và hiện đại.
Đồng thời Nhà nước phải kịp thời đưa ra các chính sách chế độ quản lý VCĐ, hoàn
thiện việc giao vốn, giao quyền cho các doanh nghiệp và đề ra các biện pháp cụ thể để
thực hiện nghiêm chỉnh việc nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ. Có biện pháp thưởng phạt
thích đáng và quy chế chặt chẽ trong vấn đề sử dụng TSCĐ để tránh tình trạng sử dụng
vốn và TSCĐ không đúng mục đích, gây thất thoát vốn và thua lỗ trong sản xuất kinh
doanh.
Những đổi mới về chính sách quản lý tài chính doanh nghiệp của Nhà nước bước
đầu tạo điều kiện cho sự phát triển sản xuất trong doanh nghiệp, từng bước khuyến khích
tính chủ động sáng tạo của doanh nghiệp, khai thác triệt để tiềm năng về cơ sở vật chất kỹ
thuật sẵn có phục vụ sản xuất.
Theo chế độ mới về quản lý và sử dụng tài sản quy định thì doanh nghiệp được
phép sử dụng vấn đề phục vụ hiện đại hoá TSCĐ trên cơ sở có nguồn vốn bù đắp trở lại và
doanh nghiệp được phép thay đổi cơ cấu TSCĐ để các nguồn vốn được sử dụng hoàn toàn
sổ khấu hao luỹ kế sản xuất TSCĐ, nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng VCĐ của doanh
nghiệp mình.
Như vậy, Nhà nước đã tạo điều kiện, tiền đề cho các doanh nghiệp trong việc quản
lý, sử dụng TSCĐ, song để nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn trong
mỗi doanh nghiệp. Không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ là việc làm cần thiết
thường xuyên của mỗi doanh nghiệp để có thể đứng vững và phát triển trong sự cạnh tranh
gay gắt của nền kinh tế thị trường.
Chương 2
Thực trạng Hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty in tài chính
1. quá trình hình thành và phát triển công ty in Tài Chính
Công ty in Tài Chính là một doanh nghiệp trực thuộc Bộ Tài Chính. Trụ sở chính
của công ty đóng tại phường Nghĩa Tân, Quận Cầu Giấy – Hà Nội. Công ty có một chi
nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Trước đây công ty in Tài Chính là nhà in Tài Chính được thành lập theo quyết định
số 41 – TC/QĐ/TCCB ngày 5/3/1985 của Bộ Tài Chính, hoàn toàn phụ thuộc vào Bộ Tài
Chính.
Từ khi Đảng và Nhà nước ta chuyển đổi cơ chế từ cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập
trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, chính sách tài chính, công tác tài chính
được phát triển và mở rộng. Nhu cầu in ấn trong ngành Tài Chính và toàn xã hội tăng
nhanh. Cùng với sự phát triển của cơ chế thị trường, theo đó nhà in Tài Chính đã có sự
biến đổi nhanh chóng về nhiều mặt.
Với tình hình như vậy, nhà in Tài Chính đã mạnh dạn đề nghị Bộ Tài Chính cho
phép được quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Đề nghị đó được chấp thuận nên ngày
17/8/1995 Bộ Tài Chính cấp quyết định thành lập số 925 TC/QĐ/TCCB Nhà in Tài Chính
đã chính thức đổi tên thành công ty in Tài Chính. Giấy đăng ký kinh doanh số 11036 ngày
7/9/1995 do UBKH Hà Nội cấp.
Từ đó cho đến nay công ty in Tài Chính trở thành đơn vị hạch toán độc lập, chủ
động hoàn toàn trong sản xuất kinh doanh. Sản xuất phát triển, kinh doanh có lãi, phát huy
được nguồn vốn, thu hút được lao động, thu nhập của cán bộ công nhân viên ổn định và có
mức thu nhập bình quân cao, thu hút được lao động (hiện nay toàn công ty có 300
CBCNV, trong đó cán bộ quản lý là 24). Công ty đã đứng vững và khẳng định được vị trí
của mình trong nền kinh tế thị trường. Có được như ngày nay là nhờ sự nỗ lực phấn đấu
vươn lên không mệt mỏi của toàn CBCNV trong công ty.
2. Đặc điểm tổ chức sản xuất, bộ máy quản lý của công ty in Tài Chính
2.1. Sản phẩm và thị trường của công ty :
Công ty sản xuất chủ yếu theo đơn đặt hàng, sản xuất mang tính chất đặc trưng. Sản phẩm
chủ yếu là các hoá đơn, chứng từ, ấn chỉ,...Đây là những mặt hàng có ý nghĩa quốc gia, có những
loại hoá đơn, chứng từ có giá trị như tiền nên không thể sản xuất và tiêu thụ một cách tuỳ tiện,
phải có quy định cụ thể về mẫu mã, số lượng, chất lượng của Bộ Tài Chính. Do đó yêu cầu đặt ra
là phải quản lý in ấn, phát hành rất chặt chẽ.
Ngoài ra công ty còn nhận in các loại sách báo, tạp chí,...của các đợn vị bạn hàng truyền
thống ( Tổng Cục Thuế, Cục thuế các tỉnh, Bộ Tài Chính,....). Những năm gần đây công ty còn
nhận được các đơn đặt hàng mới, ổn định: tem thuốc lá, hoá đơn GTGT do Tổng Cục Thuế phát
hành,...
Nhìn chung thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty là tương đối ổn định và không có
nhiều biến động.
2.2. Đặc điểm tổ chức sản xuất:
Công ty sản xuất chủ yếu theo đơn đặt hàng, sản xuất mang tính chất đặc trưng. Sản
xuất chủ yếu là các hoá đơn, chứng từ, ấn chỉ,...Đây là những mặt hàng có ý nghĩa quốc
gia, có những loại hoá đơn, chứng từ có giá như tiền cho nên không thể sản xuất và tiêu
thụ một cách tuỳ tiện, phải có qui định cụ thể về mẫu mã, số lượng, chất lượng của Bộ Tài
Chính. Do đó yêu cầu đặt ra là phải quản lý in ấn, phát hành rất chặt chẽ.
Đề sản xuất ra những sản phẩm đó và những mặt hàng in ấn khác hiện nay công ty
sử dụng 2 loại công nghệ in là: in OFFSET và in TYPÔ.
- Công nghệ in OFFSET: dùng để in những sản phẩm có đặc tính phức tạp, mẫu mã
đẹp như các tạp chí, lịch, biểu mẫu kế toán,...Và sản phẩm loại này chiếm 70% - 80% sản
lượng in của công ty.
- Công nghệ in TYPÔ: dùng để in những sản phẩm có mầu đơn nhất, sản phẩm chủ
yếu là các ấn chỉ, biên lai, phiếu thu, phiếu chi...và in số nhảy các sản phẩm in từ công
nghệ in OFFSET chuyển sang.
2.3. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý:
Từ đặc điểm tổ chức sản xuất của mình công ty đã tổ chức bộ máy quản lý sản xuất
kinh doanh cho phù hợp với đặc điểm đó. Công ty tổ chức bộ máy quản lý theo hình thức
tập trung, bộ máy quản lý gọn nhẹ, quản lý theo chế độ một thủ trưởng. Đứng đầu công ty
là giám đốc, người có quyền cao nhất và chịu trách nhiệm với các cơ quan chức năng,
khách hàng và CBCNV trong công ty. Giúp việc cho giám đốc là một phó giám đốc kinh
doanh và một phó giám đốc phụ trách kỹ thuật. Bên dưới là một hệ thống các phòng ban,
bộ phận chức năng. Bộ máy quản lý sản xuất kinh doanh của công ty được thể hiện qua sơ
đồ 1:
Chức năng và nhiệm vụ của từng bộ phận
Sơ đồ 1: Sơ đồ bộ máy quản lý sản xuất kinh doanh của Công ty
in tài chính
Giám đốc
Phó giám đốc kỹ
thuật
Phòng kế Phòn Phòng Phòn
Phó giám đốc kinh
doanh
- Giám đốc: là người phụ trách chung và chịu trách nhiệm về tình hình hoạt động
sản xuất kinh doanh của công ty.
- Phó giám đốc kỹ thuật: được uỷ quyền khi giám đốc đi vắng, chỉ đạo phòng kế
hoạch sản xuất vật tư và phòng kỹ thuật.
- Phó giám đốc kinh doanh: là người được giám đốc uỷ quyền khi vắng mặt, chỉ đạo
trực tiếp phòng kinh doanh và phòng tổ chức hành chính.
- Phòng kế hoạch sản xuất vật tư: tham mưu cho giám đốc trong công tác kế hoạch
sản xuất, cung ứng nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho sản xuất.
- Phòng kỹ thuật: tham mưu cho giám đốc trong công tác quản lý kỹ thuật, qui trình
công nghệ sản xuất, kiểm tra chất lượng sản phẩm.
- Phòng kế toán tài vụ: tham mưu cho giám đốc và giúp giám đốc quản lý về các
mặt kế toán thống kê tài chính toàn công ty.
- Phòng kinh doanh: làm nhiệm vụ tiếp thị, tiếp nhận các hợp đồng sản xuất, định
các kế hoạch về vốn và tiêu thụ sản phẩm.
- Phòng tổ chức hành chính: tham mưu cho giám đốc về các mặt công tác tổ chức
cán bộ và nhân sự.
2.4. Tình hình lao động:
Hiện nay toàn công ty có 300 CBCNV trong đó nhân viên quản lý là 24 người.
Trong đó trình độ tay nghề công nhân của công ty tưong đối cao, chủ yếu là thợ bậc 6/7
chiếm 60%, số có trình độ tay nghề thấp, bậc 3/7 chiếm 12%, còn lại là những nhân viên
phục vụ, như: lao công, nhà bếp, bảo vệ,...
Đây là một trong những thuận lợi để công ty tăng cường mua sắm, trang bị những
TSCĐ, máy móc hiện đại phục vụ cho quá trình sản xuất - kinh doanh của công ty.
2.5. Nguồn vốn hình thành TSCĐ của công ty
Biểu 1: Nguồn vốn hình thành TSCĐ của Công ty
Đơn vị tính: 1000 đồng
Vốn chủ sở hữu
Vốn huy
động
Tổng cộng
Vốn ngân sách Vốn tự bổ
sung
Cộng ( Vốn vay)
718.919 2.032.505 2.751.424 53.065.532 55.816.956
4,92% 95,08% 100%
Nguồn vốn hình thành nên TSCĐ của công ty chủ yếu là bằng vốn vay với số vốn là
53.065.532 nghìn đồng chiếm tới 95,08% tổng số vốn. Còn vốn chủ sở hữu là 2.751.424
nghìn đồng, chiếm 4,92% tổng số vốn (rất nhỏ) ( xem biểu 1 ). Như vậy, muốn tiếp tục
tăng vốn cố định công ty khó có thể lựa chọn tài trợ bằng con đường đi vay. Nếu số đi vay
quá lớn sẽ làm cho chi phí về lãi vay phải trả trong giá thành sản phẩm tăng cao.
2.6. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của công ty In tài chính:
Để quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả TSCĐ trong quá trình sản xuất kinh
doanh, công ty đã tiến hành phân cấp quản lý TSCĐ: giao trách nhiệm quản lý TSCĐ đến
từng bộ phận nhằm nâng cao trách nhiệm của người lao động trong việc bảo quản sử dụng
TSCĐ. Đối với mỗi loại máy móc thiết bị đều có sổ sách theo dõi một cách cụ thể về tình
trạng kỹ thuật cũng như tình hình hoạt động của máy móc. Bên cạnh đó bộ phận kế toán
còn theo dõi cả về nguồn hình thành TSCĐ để có biện pháp trích khấu hao thích hợp và
thu hồi vốn nhanh chóng. Để cuối mỗi năm, Công ty để tiến hành kiểm kê tài sản (thường
vào 31/12 hàng năm) số lượng TSCĐ hiện có, số lượng máy móc tăng thêm và giảm đi đều
được phản ánh một cách đầy đủ và kịp thời trên sổ sách kế toán của Công ty.
Trang bị TSCĐ phục vụ cho sản xuất kinh doanh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
quyết định đến chất lượng sản phẩm, giá thành sản phẩm, khả năng cạnh tranh...của doanh
nghiệp. Nhận thức được vấn đề này trong những năm qua công ty đã tiến hành đầu tư
chiều sâu đổi mới TSCĐ, tiến hành thanh lý các TSCĐ cũ, lạc hậu, không phù hợp với sản
xuất kinh doanh. Đồng thời để tiến hành phân loại đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn cố
định của công ty ta phải biết được tình hình biến động TSCĐ. Muốn biết được tình hình
đầu tư đổi mới TSCĐ của công ty ta nghiên cứu biểu 2 “Tình hình trang bị TSCĐ của công
ty in Tài Chính tới năm 2001”
Trong năm 2001 TSCĐ của công ty tăng nhanh, trong khi đó số giảm rất ít ( xem
biểu 2 ). Chứng tỏ công ty đã chú trọng đến công tác trang bị thêm TSCĐ để nâng cao
năng lực sản xuất.
Tình hình tăng giảm TSCĐ trong năm 2001 cụ thể như sau:
- Máy móc thiết bị: đầu năm 2001 nguyên giá là 33.111.727.356 đồng chiếm trong
89,79% tổng nguyên giá TSCĐ, đến cuối năm 2001 là 50.030.976.857 đồng, chiếm
76,06% trong tổng nguyên giá TSCĐ. Như vậy, máy móc thiết bị đã tăng là
17.670.229.358 đồng và giảm 750.979.857 đồng.
- Phương tiện vận tải: đầu năm 2001 nguyên giá là 210.698.500 đồng, chiếm
0,57% trong tổng nguyên giá TSCĐ, đến cuối năm 2001 là 597.196.000 đồng, chiếm
0,91% trong tổng nguyên giá TSCĐ. Như vậy số tăng trong năm là 470.976.000 đồng và
giảm là 84.478.500 đồng.
- Thiết bị dụng cụ quản lý: đầu năm 2001 nguyên giá là 2.095.703.750 đồng,
chiếm 5,68% trong tổng nguyên giá TSCĐ, đến cuối năm 2001 là 2.202.206.343 đồng,
chiếm 3,35% trong tổng nguyên giá TSCĐ. Như vậy trong năm thiết bị dụng cụ quản lý
tăng là 115.241.938 đồng, số giảm là 8.739.345 đồng. Công ty tiến hành thanh lý một số
thiết bị dụng cụ quản lý đã cũ.
- Nhà cửa, vật kiến trúc: đầu năm 2001 nguyên giá là 1.459.916.711 đồng, chiếm
3,96% trong tổng nguyên giá TSCĐ, đến cuối năm 2001 nguyên giá là 12.949.096.711
đồng, chiếm 19,69% tổng nguyên giá TSCĐ với số tăng là 11.489.180.000 đồng.
Có thể nói rằng việc tăng giảm TSCĐ của công ty trong năm 2001 là tương đối hợp
lý. Máy móc thiết bị tăng là chủ yếu, đây là biểu hiện tốt có lợi cho công tác sản xuất kinh
doanh của công ty. Tuy có sự tăng, giảm, biến động, nhưng nhìn chung thì kết cấu TSCĐ
của công ty như vậy là hợp lý. Công ty đã chú trọng đến đầu tư đổi mới TSCĐ, nâng cao
năng lực sản xuất, đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh doanh từ đó nâng cao được khả
năng cạnh tranh đứng vững trên thị trường.
Phân tích cơ cấu TSCĐ và sự biến động của TSCĐ suy cho cùng mới chỉ nói đến
mặt lượng của TSCĐ. Trên thực tế TSCĐ cũ hay mới có ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất.Vì
vậy vấn đề đặt ra là ta phải tiếp tục nghiên cứu tình trạng kỹ thuật TSCĐ của công ty.
2.7. Tình trạng kỹ thuật của TSCĐ ở công ty in tài chính năm 2001:
Việc tính khấu hao đúng đắn làm cho việc xác định giá thành chính xác, hợp lý góp
phần thúc đẩy thu hồi vốn và bảo toàn VCĐ, mở rộng tái đầu tư, tái sản xuất. Nó cũng thúc
đẩy chế độ hạch toán của các doanh nghiệp nói chung và ở Công ty nói riêng được tiến
hành thông suốt theo quyết định số 1062 - TC/QĐ/CSTC ngày 14 - 11 - 1996 của Bộ
trưởng Bộ Tài chính về chế độ quản lý sử dụng và tính khấu hao TSCĐ.
TSCĐ của Công ty được tiến hành trích khấu hao theo phương pháp đường thẳng.
Mức trích khấu hao trung bình hàng năm của TSCĐ tính bằng cách lấy nguyên giá chia
cho thời gian sử dụng của TSCĐ tính theo năm. Sau đó trích khấu hao theo tháng bằng số
khấu hao trích hàng năm chia cho 12 tháng.
Việc phân bổ khấu hao của Công ty dựa trên việc xác định các đối tượng sử dụng
một cách cụ thể như TSCĐ dùng cho các hoạt động. Điều đó cho thấy tính đúng đắn của
việc phân bổ khấu hao cũng như xác định chính xác hơn giá thành toàn bộ sản phẩm hàng
hoá.
Trước đây, TSCĐ của Công ty được đầu tư mua sắm từ nguồn vốn vay, nguồn vốn
Ngân sách cấp và nguồn vốn tự có. Số khấu hao của TSCĐ hình thành từ nguồn vốn Ngân
sách cấp và nguồn vốn tự có được sử dụng để tái đầu tư mua sắm TSCĐ, số khấu hao trích
của TSCĐ hình thành từ nguồn vốn vay dùng để trả nợ vay.
Để thấy rõ tình trạng kỹ thuật của TSCĐ mới hay cũ ta thường sử dụng chỉ tiêu hệ
số hao mòn TSCĐ. Chỉ tiêu này có thể tính riêng cho từng loại TSCĐ cũgn có thể tính
chung cho toàn bộ TSCĐ. Nó được xác định bằng cách so sánh số tiền khấu hao đã trích
với nguyên gía TSCĐ ở thời điểm đánh giá.
Hệ số hao mòn TSCĐ =
Số tiền khấu hao luỹ kế đã trích
Nguyên giá TSCĐ ở thời điểm đánh giá
Tình trạng kỹ thuật của TSCĐ được trình bày ở biểu 3 “Tình trạng kỹ thuật của
TSCĐ ở công ty in Tài Chính tới năm 2001”.
Hệ số hao mòn TSCĐ năm 2001 là 0,46 tăng so với năm 2000 là 0,003, điều này
cho thấy trong năm công ty có quan tâm tới đổi mới TSCĐ.
Hệ số hao mòn TSCĐ dùng cho sản xuất kinh doanh năm 2000 là 0,458; năm 2001
là 0,461. Trong đó:
- Máy móc thiết bị hệ số hao mòn đầu năm 2001 là 0,4647, cuối năm 2001 là
0,538 .
- Phương tiện vận tải đầu năm 2001 hệ số hao mòn là 0,947; cuối năm 2001 là
0,2848. Tuy đã được trang bị thêm nhưng TSCĐ thuộc loại này cũng đã đủ đến cuối năm
2001 khấu hao hết so với nguyên giá.
- Thiết bị dụng cụ quản lý đầu năm 2001 hệ số hao mòn là 0,4618; cuối năm 2001
là 0,7533 tình trạng kỹ thuật của TSCĐ giảm nguyên nhân là do công ty thanh lý một số
TSCĐ thuộc loại này và tiếp tục khai thác khả năng hoạt động của chúng nhằm mục đích
phục vụ sản xuát kinh doanh. Tài sản thuộc loại này đã khấu hao hết.
- Nhà cửa, vật kiến trúc: hệ số hao mòn đầu năm là 0,235; cuối năm là 0,1196. Tuy
nhiên TSCĐ loại này mới khấu hao nên mức trích khấu hao còn thấp, TSCĐ phúc lợi công
cộng nằm trong nhà cửa vật kiến trúc lại không trích khấu hao nên hạn chế khả năng thu
hồi vốn cố định và đổi mới TSCĐ của công ty.
-Trong năm công ty đã huy động hết TSCĐ vào sản xuất kinh doanh, không có
TSCĐ không cần dùng chờ thanh lý và TSCĐ chưa cần dùng, tránh được hiện tượng ứ
đọng vốn làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty. Nhìn chung TSCĐ
của công ty còn tương đổi mới, chỉ có phương tiện vận tải là khấu hao gần hết công ty phải
nhanh chóng thu hồi vốn để đầu tư đổi mới TSCĐ loại này.
Sau khi xem xét, đánh giá và phân tích cơ cấu TSCĐ, sự biến động của TSCĐ và
tình trạng kỹ thuật của TSCĐ. Những đánh giá có trở nên thực tế, chính xác, khi ta xem
xét sự tác động của TSCĐ tới kết quả sản xuất - kinh doanh của công ty.
3. thực trạng sử dụng vcđ của công ty in tài chính.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp được quyền tự chủ trong hoạt động
sản xuất kinh doanh, tự sắp xếp tổ chức sử dụng vốn đáp ứng cho yêu cầu hoạt động của
mình. Để đảm bảo sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả thì doanh nghiệp phải tìm mọi biện
pháp để sử dụng vốn sản xuất kinh doanh nói chung và VCĐ nói riêng, đạt hiểu quả tối đa.
Đối với công ty, để khắc phục và vượt qua những khó khăn hiện nay Công ty đã lập
kế hoạch trong chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh lâu dài về nâng cao hiệu quả sử
dụng VCĐ, trong đó có những biện pháp chủ yếu sau:
3.1. Thực hiện công tác phân công, phân nhiệm trong quản lý và sử dụng
TSCĐ.
Trong việc quản lý sử dụng TSCĐ các biện pháp phân công, phân nhiệm một cách
cụ thể cho từng khâu, từng bộ phận có tác dụng nâng cao ý thức trách nhiệm của bộ phận
đó đối với TSCĐ được giao. Để quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả TSCĐ của Công
ty trong quá trình sản xuất kinh doanh, ban lãnh đạo Công ty đã quy định trách nhiệm quản
lý TSCĐ cho từng phòng ban, tổ đội, phân xưởng sản xuất. Cụ thể là:
Đối với máy móc thiết bị sản xuất, công ty bàn giao cho phân xưởng sản xuất, bộ
phận cơ khí và tự chịu trách nhiệm về tài sản đó. Các bộ phận này theo đặc điểm của từng
loại máy móc thiết bị phải tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh theo đúng quy trình công
nghệ và tuân thủ đúng yếu tố kỹ thuật của máy móc thiết bị. Ví dụ như đối với máy in ,
máy nào còn mới thì có thể sử dụng hết công suất thiết kế của máy, nhưng khi đã khấu hao
qua 50% thì không được cho máy chạy hết công suất thiết kế mà chỉ có thể cho máy chạy
theo khả năng có thể đảm bảo sản xuất ra những sản phẩm tốt mà không ảnh hưởng đến
chất lượng của máy.
Đối với thiết bị dụng cụ quản lý, Công ty giao trực tiếp cho các phòng ban quản lý
và sử dụng. Các phòng ban có trách nhiệm lên kế hoạch cụ thể để quản lý và sử dụng đúng
mục đích, tránh sử dụng lãng phí dẫn đến hư hỏng dụng cụ quản lý, lên kế hoạch sửa chữa
và bảo dưỡng thích hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng thiết bị dụng cụ quản lý.
Đối với phương tiện vận tải, Công ty giao trực tiếp cho lái xe quản lý sử dụng và tự
chịu trách nhiệm về phương tiện đã được giao. Định kỳ, hoặc thường xuyên hoạt động an
toàn của xe để có thể phục vụ được yêu cầu sản xuất kinh doanh của Công ty.
Đối với nhà cửa vật kiến trúc đã giao cho các bộ phận có trách nhiệm quản lý và sử
dụng. Tuy nhiên, TSCĐ loại này của Công ty đã được sử dụng quá lâu nên đã cũ và lạc
hậu, do đó mà sửa chữa nhỏ hiệu quả chưa cao. Trong những năm tới cần phải cải tạo và
nâng cấp nhà xưởng đạt hiệu quả sử dụng cao hơn.
Ngoài ra, để nâng cao trách nhiệm của tập thể cũng như cá nhân trong quá trình
quản lý và sử dụng TSCĐ, công ty cũng đã áp dụng chế độ thưởng, phạt một cách thích
hợp, bộ phận nào làm tốt công tác quản lý TSCĐ được khen thưởng kịp thời và ngược lại,
nếu không làm tốt công tác quản lý TSCĐ, gây hỏng hóc mất mát tài sản sẽ bị xử lý
nghiêm khắc.
Nhờ việc phân công, phân nhiệm và quản lý khá chặt chẽ, Công ty đã hạn chế được
những hư hỏng của TSCĐ và hầu như không có việc mất mát các bộ phận máy móc, đồng
thời nắm được hiện trạng TSCĐ để có những biện pháp tác động kịp thời như sửa chữa, bảo
dưỡng hay thanh lý để đầu tư mới.
3.2. Thực hiện công tác sửa chữa TSCĐ, thường xuyên bảo dưỡng, nâng cấp
máy móc thiết bị chuyên dùng.
Trong điều kiện hiện nay, để duy trì và nâng cao năng lực sản xuất của máy móc
thiết bị đảm bảo cho sản xuất được liên tục để góp phần cung ứng đủ sản phẩm cho khách
hàng cả về mặt số lượng và chất lượng thì việc sửa chữa thường xuyên máy móc thiết bị là
điều không thể thiếu nhằm kéo dài tuổi thọ của máy nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ.
Thực hiện tốt công tác bảo dưỡng, nâng cấp TSCĐ, lập kế hoạch sửa chữa định kỳ
TSCĐ trên cơ sở tôn trọng các quy phạm kỹ thuật của chúng là biện pháp tích cực và chủ
động nhất để TSCĐ hoạt động một cách liên tục theo đúng kế hoạch sản xuất.
Nhận thức được điều đó trong năm qua Công ty đã tổ chức tốt công tác sửa chữa
bảo dưỡng TSCĐ. Trong Công ty đã có một cơ khí chuyên phục vụ sửa chữa, có trách
nhiệm hoàn thành kế hoạch bảo dưỡng sửa chữa TSCĐ Công ty giao, đầu tư chiều sâu lao
động cho máy móc. Các phòng ban, phân xưởng, cơ sở sản xuất luôn có trách nhiệm theo
dõi tình hình hoạt động của máy móc thiết bị để kịp thời đưa máy móc vào sửa chữa, tránh
tình trạng máy móc hư hỏng quá nặng mới đem đi sửa vừa làm tăng chi phí vừa làm gián
đoạn sản xuất. Cộng với việc sửa chữa bảo dưỡng, xưởng cũng tiến hành nâng cấp thay thế
một số bộ phận của máy móc thiết bị đã cũ nhằm tăng năng lực sản xuất của chúng.
Công tác sửa chữa, bảo dưỡng của Công ty được tiến hành trên cơ sở nắm được đặc
tính kỹ thuật của từng loại TSCĐ, tiến hành bảo dưỡng duy tu đối với từng TSCĐ theo
định kỳ (định kỳ chạy bao nhiêu giờ sẽ được bảo dưỡng).
Do thực hiện công tác sửa chữa TSCĐ một cách kịp thời, năng lực sản xuất của
máy móc thiết bị của Công ty được khôi phục và nâng cao, đảm bảo cho quá trình sản xuất
được tiến hành liên tục, hạn chế tới mức thấp nhất việc ngừng sản xuất do hỏng hóc máy
móc thiết bị, đảm bảo chất lượng sản xuất, hạn chế tình trạng xuống cấp hoặc không thể sử
dụng được do hư hỏng trước thời hạn quy định.
3.3. Phát huy tối đa công suất TSCĐ bằng biện pháp khoán trong quản lý sản
xuất.
Để phát huy hết công suất TSCĐ trong sản xuất kinh doanh và để gắn liền lợi ích
trách nhiệm của người lao động với tư liệu sản xuất do mình quản lý và sử dụng, Công ty
đã áp dụng hình thức khoán trong lĩnh vực sản xuất. Các công nhân trong Công ty được
giao quyền sử dụng máy móc thiết bị được giao trách nhiệm bảo dưỡng TSCĐ để đáp ứng
được tính liên tục của quá trình sản xuất. Với hình thức khoán lương theo sản phẩm, muốn
có thu nhập cao thì người công nhân phải sản xuất được nhiều sản phẩm có chất lượng cao.
Để đạt được điều đó thì đòi hỏi người công nhân phải không ngừng nâng cao năng suất lao
động và phải tận dụng tối đa công suất mà máy móc thiết bị có thể đạt được. Mặt khác để
tránh tình trạng máy móc hỏng hóc làm gián đoạn quá trình sản xuất, giảm khối lượng sản
phẩm thì người công nhân phải nâng cao tay nghề, trình độ sử dụng máy và phải luôn có ý
thức trách nhiệm bảo quản máy móc thiết bị. Chính vì vậy mà công tác khoán sản phẩm
trong năm qua đã có tác dụng rất lớn trong việc đẩy mạnh sản xuất và nâng cao hiệu quả
sử dụng TSCĐ của Công ty.
Bên cạnh đó, trong hoạt động sản xuất kinh doanh, Công ty luôn tìm tòi ra những
biện pháp để đảm bảo hợp lý đầu vào và đầu ra của sản xuất như thực hiện công tác quảng
cáo, Marketing để thu hút khách hàng, tăng chất lượng sản phẩm, tích cực tìm bạn hàng để
thực hiện những hợp đồng mới ... góp phần làm quá trình sản xuất được thông suốt, đảm
bảo việc làm cho người lao động. Do đó mà người công nhân yên tâm lao động sản xuất,
không ngừng nâng cao trình độ tay nghề và làm việc với tinh thần trách nhiệm cao hơn.
Hiện nay Công ty đã bố trí sản xuất 3 ca/ngày khi cần thiết để đảm bảo tận dụng công suất
máy móc thiết bị, nhờ vậy mà TSCĐ đang dùng trong sản xuất của Công ty được khai thác
triệt để làm năng lực sản xuất của Công ty không ngừng tăng lên. Kết quả đó được phản
ánh ngay trong tổng thu nhập của Công ty năm 2001 là 5.302.205 nghìn đồng tăng 84,39%
so với năm 2000, đời sống cán bộ công nhân viên ngày càng được nâng cao. Đây là một cố
gắng lớn thể hiện sự nỗ lực phấn đấu của toàn Công ty trong thời gian qua.
Tuy nhiên, trong công tác khoán sản phẩm, công ty cũng cần chú ý tới việc đề ra
định mức chi phí một cách cụ thể, phải gắn việc tận dụng công suất máy móc thiết bị với
đặc điểm kỹ thuật của chính máy móc đó, đảm bảo chất lượng và số lượng sản phẩm sản
xuất ra nhưng cũng phải đảm bảo chất lượng máy móc thiết bị về lâu dài.
3.4. Tăng mức trích khấu hao để đẩy nhanh tốc độ thu hồi vốn và chống hao
mòn vô hình.
Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển như ngày nay thì tăng tỷ lệ trích khấu
hao TSCĐ là một cách thức để tiếp cận với những tiến bộ công nghệ. Mà một trong những
điều kiện để đầu tư vào máy móc hiện đại là vốn và có vốn một cách nhanh chóng để theo
kịp với sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Để đạt được điều đó thì không còn cách nào
khác là phải đẩy nhanh mức trích khấu hao vì một trong những nguồn vốn để đầu tư vào
TSCĐ là quỹ khấu hao. Tăng khấu hao là một biện pháp bảo vệ tài sản, tài sản đã trích
khấu hao gần hết nhưng tuổi thọ vẫn còn cao nên vẫn đảm bảo khả năng hoạt động.
Xuất phát từ nhận thức trên, từ năm 1996 tới nay, Công ty In tài chính đã thực hiện khấu
hao nhanh TSCĐ nhằm bảo toàn vốn và tránh hao mòn vô hình. Cụ thể là đối với những
máy móc thiết bị có mức độ hao mòn, đặc biệt là hao mòn vô hình nhanh như các loại máy
vi tính và hầu hết các máy móc thiết bị công tác, Công ty đều áp dụng thời hạn khấu hao
tối thiểu trong khung thời gian sử dụng các loại TSCĐ theo quy định của Bộ Tài chính
hoặc áp dụng mức thời gian sử dụng thấp hơn khung quy định để đảm bảo yếu tố tiến bộ
khoa học kỹ thuật. Còn các TSCĐ hao mòn chậm, ít phải đổi mới như nhà cửa vật kiến
trúc Công ty cũng đều khấu hao trước thời hạn tối đa. Đây là việc làm đúng đắn, hợp lý có
tác dụng tốt cho việc thu hồi VCĐ của Công ty. Tuy thực hiện khấu hao nhanh nhưng
Công ty vẫn đủ bù đắp chi phí, đảm bảo mức độ hợp lý của giá thành, không ảnh hưởng
đến việc tiêu thụ sản phẩm
4. kết quả sản xuất kinh doanh ở công ty in Tài Chính trong những năm gần đây.
4.1. Những thuận lợi và khó khăn của công ty in Tài Chính trong hoạt động sản
xuất kinh doanh một số năm gần đây
4.1.1. Thuận lợi
Thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty là ổn định dựa trên cơ sở các đơn đặt hàng
như: hoá đơn, biên lai, sách báo, tạp chí,...của các đơn vị, bạn hàng truyền thống (cục thuế
các tỉnh, Bộ Tài Chính,...) Ngoài ra công ty còn nhận được các đơn đặt hàng mới, ổn định
như: tem thuốc lá, hoá đơn GTGT do tổng cục thuế phát hành,...
Máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất kinh doanh được trang bị thêm. Cụ thể là:
năm 2001 công ty đã đầu tư mua sắm và lắp đặt mới một máy in OFFSET 4 mầu
Heidelberg trị giá 10.432.013.196 đồng, một máy in OFFSET 1 mầu Heidelberg trị giá
3.114.850.704 đồng và một máy in Komori excel – L32 trị giá 3.133.880.764 đồng để đưa
vào phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra công ty còn xây dựng mới một nhà kho khung thép mới trị giá gần 300
triệu đồng và mua mơí một nhà xưởng ở chi nhánh trị giá hơn 11 tỷ đồng.
Giá cả nguyên vật liệu chủ yếu là giấy, kẽm , mực in...nhìn chung là ổn định.
Công ty đã ứng dụng tin học vào quản lý, hạch toán kế toán, xác định kết quả kinh
doanh, quản lý sản xuất, quản lý vật tư, quản lý nhân sự...đảm bảo nhanh, chính xác, hiệu
quả.
4.1.2. Khó khăn
Tuy một số năm qua có đầu tư về TSCĐ, TSCĐ tăng nhanh nhưng vẫn còn nhiều
TSCĐ ở công ty đã cũ, năng lực sản xuất thấp cần được thay thế, đổi mới ngay để đáp ứng
yêu cầu sản xuât kinh doanh. Khó khăn này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình sử
dụng vốn cố định của công ty.
Từ những khó khăn và thuận lợi trên công ty in Tài Chính cần phải phát huy, khai
thác tận dụng tối đa các lợi thế sẵn có đồng thời tìm các biện pháp hạn chế, khắc phục
những khó khăn để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh bảo toàn được vốn cố định và nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn cố định.
4.2. Kết quả sản xuất kinh doanh của công ty in Tài Chính trong những năm
gần đây
Trong những năm gần đây, với những thuận lợi và khó khăn công ty đã có nhiều cố
gắng trong sản xuất kinh doanh, chú trọng đổi mới máy móc thiết bị sản xuất, nâng cao
năng lực sản xuất, sản phẩm sản xuất ra đạt chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu của
khách hàng nhờ đó công ty luôn đạt được những kết quả đáng khích lệ. Kết quả sản xuất
kinh doanh của công ty được trình bày ở biểu 4: "Tình hình chủ yếu về sản xuất kinh
doanh của công ty in tài chính qua các năm 1997 - 2001".
Tổng doanh thu của công ty có tốc độ tăng trưởng cao qua các năm. Để đạt được
điều này là do có sự phấn đấu không mệt mỏi của toàn bộ CBCNV toàn công ty ( xem biểu
4 ). Trong đó có sự đầu tư đúng đắn TSCĐ hiện đại một cách kịp thời vào trong quá trình
sản xuất - kinh doanh cuả công ty, tích cực tìm kiếm được nhiều thị trường mới, đẩy mạnh
sản xuất, tận dụng tối đa công suất máy móc, thiết bị. Điều này đã góp phần vào việc nâng
cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm và đáp ứng ngày càng tốt hơn các yêu cầu của
khách hàng.
Điều này được thể hiện qua các số liệu cụ thể sau:
-Tổng doanh thu năm 1998 tăng lên so với năm 1997 là 3.864.587 nghìn đồng, với
số tương đối là 15,28%. Trong đó:
+ Doanh thu hoạt động sản xuất kinh doanh năm 1998 tăng lên so với năm 1997 là
3.909.812 nghìn đồng, với số tương đối là 15,62%.
+ Doanh thu hoạt động khác năm 1998 giảm so với năm 1997 là 45.225 nghìn đồng,
với số tương đối là 18,31%.
-Tổng doanh thu năm 1999 tăng lên so với năm 1998 là 7.535.163 nghìn đồng, với
số tương đối là 29,80%. Trong đó:
+ Doanh thu hoạt động sản xuất kinh doanh năm 1999 tăng lên so với năm 1998 là
7.453.963 nghìn đồng, với số tương đối là 29,77%.
+ Doanh thu hoạt động khác năm 1999 tăng lên so với năm 1998 là 81.200 nghìn
đồng, với số tương đối là 32,87%.
-Tổng doanh thu năm 2000 tăng lên so với năm 1999 là 25.890.425 nghìn đồng,
với số tương đối là 78,89%. Trong đó:
+ Doanh thu hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2000 tăng lên so với năm 1999 là
24.037.795 nghìn đồng, với số tương đối là 73,98%.
+ Doanh thu hoạt động khác năm 2000 tăng lên so với năm 1999 là 1.852.630 nghìn
đồng, với số tương đối là 564,48%.
-Tổng doanh thu năm 2001 tăng lên so với năm 2000 là 26.550.449 nghìn đồng,
với số tương đối là 45,22%. Trong đó:
+ Doanh thu hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2001 tăng lên so với năm 2000 là
18.325.626 nghìn đồng, với số tương đối là 32,42%.
+ Doanh thu hoạt động khác năm 2001 tăng lên so với năm 2000 là 8.224.823 nghìn
đồng, với số tương đối là 377,14%.
Tuy vậy để đánh giá và xem xét một cách toàn diện về tình hình sản xuất - kinh
doanh của công ty, không chỉ dựa vào tốc độ tăng trưởng của doanh thu mà ta còn phải
xem xét, đánh giá các chỉ tiêu quan trọng khác như: tốc độ tăng trưởng của lợi nhuận, giá
thành toàn bộ, vốn kinh doanh bình quân,...
Tổng lợi nhận của công ty có tốc độ tăng trưởng cũng tương đối cao đặc biệt là 3
năm trở lại đây ( xem biểu 4 ). Tốc độ tăng trưởng của lợi nhuận, tốc độ tăng trưởng của
doanh thu và tốc độ tăng trưởng của vốn kinh doanh bình quân là tương đối giống nhau,
điều này là rất tốt và hợp lý. Đạt được kết quả này là do trong những năm qua công ty đã
thực hiện tốt công tác tài chính, tiến hành công tác khấu hao TSCĐ nhanh chóng, hợp lý,
đẩy nhanh tốc độ thu hồi vốn. Điều này được thể hiện qua số liệu sau:
-Tổng lợi nhuận năm 1998 tăng lên so với năm 1997 là 201.377 nghìn đồng, với số
tương đối là 13,98 %. Trong đó:
+ Lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh năm 1998 tăng lên so với năm 1997 là
158.629 nghìn đồng, với số tương đối là 12,94%.
+ Lợi nhuận hoạt động khác năm 1998 tăng lên so với năm 1997 là 42.748 nghìn
đồng, với số tương đối là 19,92%.
-Tổng lợi nhuận năm 1999 tăng lên so với năm 1998 là 237.024 nghìn đồng, với số
tương đối là 16,45 %. Trong đó:
+ Lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh năm 1999 tăng lên so với năm 1998 là
322.449 nghìn đồng, với số tương đối là 26,30%.
+ Lợi nhuận hoạt động khác năm 1999 giảm so với năm 1998 là 85.425 nghìn
đồng, với số tương đối là 39,80%. Đây là một nguyên nhân làm cho tổng lợi nhuận của
công ty trong năm 1999 tăng với tốc độ thấp.
-Tổng lợi nhuận năm 2000 tăng lên so với năm 1999 là 1.197.844 nghìn đồng, với
số tương đối là 71,40 %. Trong đó:
+ Lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2000 tăng lên so với năm 1999 là
1.107.890 nghìn đồng, với số tương đối là 71,55%.
+ Lợi nhuận hoạt động khác năm 2000 tăng lên so với năm 1999 là 89.954 nghìn
đồng, với số tương đối là 69,63%.
-Tổng lợi nhuận năm 2001 tăng lên so với năm 2000 là 2.426.705 nghìn đồng, với
số tương đối là 84,39 %. Trong đó:
+ Lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2001 tăng lên so với năm 2000 là
2.108.018 nghìn đồng, với số tương đối là 79,36%.
+ Lợi nhuận hoạt động khác năm 2001 tăng lên so với năm 2000 là 318.687 nghìn
đồng, với số tương đối là 145,42%.
Vốn kinh doanh bình quân của công ty được bố sung hàng năm cho nên tốc độ tăng
trưởng của vốn kinh doanh bình quân tương đối cao, nhưng ta thấy vốn kinh doanh bình
quân tăng lại chủ yếu là do vốn lưu động bình quân tăng ( mà nguồn vốn lưu động bình
quân được hình thành chủ yếu là bằng con đường đi vay). Do vậy đây cũng không phải là
một biểu hiện tốt.
- Vốn kinh doanh bình quân năm 1998 tăng so với năm 1997 là 4.552.911 nghìn
đồng, với số tương đối là 31,60% ( xem biểu 4 ). Trong đó:
+ Vốn lưu động năm 1998 tăng so với năm 1997 là: 4.570.546 nghìn đồng, với số
tương đối là: 38,60%
+ Vốn cố định năm 1998 giảm so với năm 1997 là: 17.635 nghìn đồng; với số tương
đối là: 0,69%
- Vốn kinh doanh bình quân năm 1999 tăng so với năm 1998 là 5.868.827 nghìn
đồng, với số tương đối là 40,73%. Trong đó:
+ Vốn lưu động năm 1999 tăng so với năm 1998 là: 1.222.154 nghìn đồng, với số
tương đối là: 10,32%
+ Vốn cố định năm 1999 tăng lên so với năm 1998 là: 4.646.673 nghìn đồng; với số
tương đối là: 181,05%
- Vốn kinh doanh bình quân năm 2000 tăng so với năm 1999 là 12.102.411 nghìn
đồng, với số tương đối là 59,69%. Trong đó:
+ Vốn lưu động năm 2000 tăng so với năm 1999 là: 10.840.208 nghìn đồng, với số
tương đối là: 82,98%
+ Vốn cố định năm 2000 tăng lên so với năm 1999 là: 1.262.203 nghìn đồng; với số
tương đối là: 17,50%
- Vốn kinh doanh bình quân năm 2001 tăng so với năm 2000 là 17.697.391 nghìn
đồng, với số tương đối là 54,66%. Trong đó:
+ Vốn lưu động năm 2001 tăng so với năm 2000 là: 13.522.187 nghìn đồng, với số
tương đối là: 56,57%
+ Vốn cố định năm 2001 tăng lên so với năm 2000 là: 4.175.204 nghìn đồng; với số
tương đối là: 49,26%
Qua đó ta thấy rằng qua các năm 1997,1998, 1999, 2000, 2001 vốn cố định của
Công ty tăng nhanh cả về tốc độ và quy mô. Điều đó chứng tỏ Công ty đã và đang chú
trọng đầu tư vào TSCĐ.
Giá thành toàn bộ năm 1997, 1998, 1999, 2000, 2001 lần lượt là19.326.397 nghìn
đồng, 22.889.945 nghìn đồng, 30.837.251 nghìn đồng, 50.578.219 nghìn đồng, 63.963.508
nghìn đồng. Như vậy, giá thành toàn bộ năm 1998 tăng lên so với năm 1997 là 3.563.548
nghìn đồng, với số tương đối là: 15,57%. Năm 1999 tăng lên so với năm 1998 là:
7.947.306 nghìn đồng, với số tương đối là: 34,72%. Năm 2000 tăng lên so với năm 1999
là: 19.740.968 nghìn đồng, với số tương đối là: 64,02%. Năm 2001 tăng lên so với năm
2000 là: 13.385.289 nghìn đồng, với số tương đối là: 26,46%.
Ta thấy tốc độ tăng giá thành toàn bộ của công ty tăng cùng với tốc độ tăng doanh
thu. Vậy tốc độ tăng như vậy là rất hợp lý.
Tỷ suất lợi nhuận giá thành toàn bộ năm 1997, 1998, 1
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty in tài chính.pdf