Luận văn Một số giải pháp để đạt được các mục tiêu cho thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp nông thôn

Tài liệu Luận văn Một số giải pháp để đạt được các mục tiêu cho thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp nông thôn: LUẬN VĂN: Một số giải pháp để đạt được các mục tiêu cho thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp nông thôn lời nói đầu Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá là con đường tất yếu phải tiến hành đối với bất cứ nước nào, nhất là những nước có xuất phát điểm từ nền kinh tế nông nghiệp kém phát triển muốn xây dựng nền kinh tế phát triển hiện đại. Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn, công nghiệp nông thôn đóng một vai trò cực kỳ quan trọng, có quan hệ mật thiết với sự phát triển kinh tế xã hội nông thôn, khái niệm công nghiệp nông thôn mức chỉ nêu ra từ những năm 70 thập kỷ này nhưng thực tế công nghiệp nông thôn đã được hình thành như một thực thể kinh tế độc lập với các trình độ phát triển khác nhau, gắn liền với sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn từ rất lâu. Hiện nay ở nhiều nước, nhất là các nước đang phát triển, phát triển công nghiệp nông thôn được coi là vấn đề tất yếu có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Đối với Việt Nam một quố...

pdf74 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1108 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Một số giải pháp để đạt được các mục tiêu cho thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp nông thôn, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Một số giải pháp để đạt được các mục tiêu cho thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp nông thôn lời nói đầu Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá là con đường tất yếu phải tiến hành đối với bất cứ nước nào, nhất là những nước có xuất phát điểm từ nền kinh tế nông nghiệp kém phát triển muốn xây dựng nền kinh tế phát triển hiện đại. Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn, công nghiệp nông thôn đóng một vai trò cực kỳ quan trọng, có quan hệ mật thiết với sự phát triển kinh tế xã hội nông thôn, khái niệm công nghiệp nông thôn mức chỉ nêu ra từ những năm 70 thập kỷ này nhưng thực tế công nghiệp nông thôn đã được hình thành như một thực thể kinh tế độc lập với các trình độ phát triển khác nhau, gắn liền với sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn từ rất lâu. Hiện nay ở nhiều nước, nhất là các nước đang phát triển, phát triển công nghiệp nông thôn được coi là vấn đề tất yếu có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Đối với Việt Nam một quốc gia lạc hậu, 80% dân số sống ở khu vực nông thôn với một cơ cấu kinh tế độc canh thuần nông, năng suất lao động thấp, nhu cầu việc làm rất bức bách. Đại hội lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định tính đúng đắn đường lối công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta, trong đó đặc biệt coi trọng phát triển công nghiệp nông thôn, từ đó làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Từ thực tiễn và trên cơ sở tham khảo ý kiến của giáo viên hướng dẫn, em đã chọn đề tài nghiên cứu sau: “Một số giải pháp để đạt được các mục tiêu cho thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp nông thôn”. Ngoài phần mở đầu, kết luận, đề tài gồm 4 phần: Chương I - Vai trò của thị trường đối với phát triển công nghiệp nông thôn. Chương II - Thực trạng thị trường tiêu thụ sản phẩm cho công nghiệp nông thôn nước ta. Chương III - Giải pháp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm cho công nghiệp nông thôn. chương I vai trò của thị trường đối với phát triển công nghiệp nông thôn I. Định nghĩa công nghiệp nông thôn 1.1. Định nghĩa: Một quan niệm coi công nghiệp nông thôn (CNNT) là công nghiệp đóng trên địa bàn nông thôn, sử dụng chủ yếu các nguồn lực tại chỗ (vốn, nguyên liệu, lao động,...) phục vụ trực tiếp cho phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn. Không loại trừ các trường hợp: một phần vốn hoặc nguyên liệu hay thậm chí cả lao động được mang từ nơi khác tới và quá trình sản xuất được thực hiện ngay trên địa bàn nông thôn. Chúng tôi đồng tình với quan niệm này. Và như vậy, có thể coi CNNT là công nghiệp ngoài quốc doanh, trừ công nghiệp ngoài quốc doanh ở một số đô thi lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng. 1.2. Các loại hình tổ chức của CNNT Việt Nam Qua khảo sát ở một số địa phương cho thấy CNNT Việt Nam được tổ chức dưới 3 dạng là hợp tác xã, công ty (công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân) và các hộ cá thể. Trong đó, tới khoảng 95-97% số cơ sở sản xuất được tổ chức dưới dạng hộ cá thể (bao gồm cả hộ chuyên và hộ kiêm). Hiện tại, ở nhiều địa phương CNNT đang có xu hướng chuyển hoá về loại hình tổ chức. Cụ thể là: - Các hợp tác xã, do sản xuất kém hiệu quả, trong quá trình chuyển đổi thành HTX cổ phần (theo luật HTX) nhưng chưa tìm được hướng đi thích hợp nên không phát triển được. Trừ một số HTX chuyển đổi thành công, chỉ khoảng 50%, số còn lại hoạt động cầm chừng, hoặc không hoạt động, thậm chí phân rã và chuyển hoá thành các cơ sở sản xuất tư nhân mà hình thức vẫn mang danh HTX (vì nhiều lý do không giải thể được). - Kể từ khi luật thuế giá trị gia tăng được thi hành, một số công ty tư nhân (bao gồm cả công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân) do không trang trải được mức thuế do Nhà nước qui định, đã xin ngừng sản xuất hoặc giải thể để trở về hình thức tổ chức hộ cá thể, lý do là với loại hình tổ chức này, sẽ được nộp thuế theo hình thức khoán (thường thấp hơn so với mức thuế được áp dụng cho các doanh nghiệp cùng ngành nghề). Tình trạng này khiến cho, nếu chỉ nhìn vào các con số thống kê đơn thuần, dễ đi đến những nhận định sai lầm, không phản ánh được bức tranh thật của CNNT Việt Nam. 1.3. Cơ cấu ngành nghề của CNNT Việt Nam Kết quả khảo sát ở các địa phương, sau khi xử lý được trình bày bằng bảng dưới đây: Bảng 1: Cơ cấu ngành nghề STT Các ngành nghề chính Tỷ lệ về số lượng (%) Tỷ lệ về giá trị (%) Cơ sở có đăng ký Hộ phi Nhà nước Hộ kiêm 1 Chế biến lương thực, thực phẩm 28 35 37 36 2 Chế biến lâm sản 21 16 11 15 3 Chế biến nông sản khác 10 8 22 16 4 Cơ khí sửa chữa 6 17 4 8 5 Sản xuất Dệt - May 4 12 16 13 6 Sản xuất VLXD 21 8 6 10 7 Các ngành thủ công khác 4 3 1 3 Tổng cộng 100 100 100 100 1.4. Một số chỉ tiêu chủ yếu đánh giá hiệu quả của CNNT Việt Nam Qua thống kê ở nhiều tỉnh (ở nhiều vùng kinh tế trong cả nước) một số năm gần đây, giá trị sản xuất của CNNT thường chiếm từ 22-25% giá trị sản xuất của công nghiệp toàn quốc. Năm 1998 đạt khoảng 20.000 tỷ. - Giá trị gia tăng tính cho mỗi lao động trong các doanh nghiệp đạt khoảng trên 7 triệu đồng. Còn ở các hộ gia đình phi nông nghiệp và các hộ kiêm, con số này lần lượt là 6,5 triệu đồng và 4,5 triệu đồng. Con số này là nhỏ so với giá trị khoảng trên 10 triệu đồng giá trị gia tăng tính cho mỗi lao động mà các DNNN tạo ra. Nhưng thực tế, nó lại hiệu quả hơn nếu xét ở góc độ vốn đầu tư, vì ở các DNNN, vốn đầu tư cho mỗi lao động thường gấp khoảng 2 lần so với các DNNQD (14,5 triệu đồng) gấp 2,5 lần so với các hộ phi nông nghiệp (8 triệu đồng) và gấp 7 lần so với các hộ kiêm (4 triệu đồng). Trong khu vực chế biến nông sản, trong khi các DNNN ở nông thôn phía Bắc chịu mức lỗ trung bình tương đương 13,8% doanh thu, hay mức lãi âm (lỗ) tính trên vốn cố định trước thuế là 23%, thì các DNNQD có mức lãi trung bình trước thuế là 5,1% và mức lãi tính trên vốn cố định trước thuế là 27%. Tương tự như vậy, trong khu vực công nghiệp và xây dựng (trừ ngành chế biến nông sản), trong khi các DNNN (cùng hoạt động ở khu vực nông thôn) có mức lỗ trung bình tương đương với 8,6% doanh thu, hay mức lãi âm (lỗ) tính trên vốn cố định trước thuế là 15% thì các DNNQD trong cùng lĩnh vực có mức lãi trung bình trước thuế là 1,2% doanh thu hay mức lãi tính trên vốn cố định trước thuế là 4,3%. Một hiệu quả rất lớn nữa về mặt xã hội là thu hút lao động. Thường xuyen có khoảng 2,2 triệu người và nguồn thu nhập chủ yếu từ các hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng (ở khu vực CNNT), chiếm 55% tổng số lao động trong ngành công nghiệp và xây dựng toàn quốc. Không có sự khác biệt về thu nhập trung bình của người lao động trong các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh đang hoạt động ở khu vực nông thôn. Mức thu nhập thay đổi trong khoảng từ 160.000đ-260.000/đ/người/tháng. Con số này cao hơn mức lương trung bình của cả nước là khoảng 230.000đ/người/tháng (số liệu 1996). Trong khi đó, mức thu nhập ở cách phi nông nghiệp và hộ kiêm còn cao hơn nữa. Các con số tương ứng là 350.000đ và 300.000đ/người/tháng. II. Vai trò của công nghiệp nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn Việt Nam 1. Công nghiệp nông thôn trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển nông thôn. 1.1. Cơ cấu kinh tế nông thôn và công nghiệp nông thôn. Trong lịch sử và cho đến nay, cơ cấu kinh tế Việt Nam được tổ chức gắn liền với các ngành nghề và lãnh thổ như sau: (1) Làng xã thuần nông nghiệp. (2) Làng nông nghiệp, kiêm thêm nghề phụ. (3) Làng chuyên các ngành nghề truyền thống, thí dụ như làng gốm sứ, làng dệt, làng thêu ren, làng sơn mài, làng nghề chạm khắc bạc và gỗ, làng luyện đúc kim loại. (4) Làng nghề mới hình thành (ven đô thị, ven các trục đường giao thông) thí dụ như các làng vận tải, làng xây dựng, làng may mặc, làng làm đồ da dụng cao cấp, làng vật liệu xây dựng, làng chế biến và cung cấp thực phẩm cho các thành phố. (5) Các cơ sở và doanh nghiệp phi nông nghiệp (trang trại, xí nghiệp phi nông nghiệp ở các thị trấn, thị tứ) thường là quy mô nhỏ, thí dụ như các trạm giấy, trạm sửa chữa cơ khí, ngân hàng huyện, chi nhánh điện, hạt giao thông, bưu điện, trường học, y tế... (6) Các xí nghiệp công thương nghiệp dịch vụ của tỉnh (thường là quy mô nhỏ). (7) Các xí nghiệp công thương nghiệp dịch vụ của trung ương đặt tại địa bàn tỉnh và các thành phố (quy mô lớn). Trong cơ cấu kinh tế hiện tại ở Việt Nam, có một thực thể bao gồm các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn với phạm vi trải rộng từ các dạng hình tổ chức hoạt động kinh tế từ (2) đến (5) được quy ước là các dạng hoạt động công nghiệp nông thôn. 1.2. Vai trò của công nghiệp nông thôn trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá. - Công nghiệp nông thôn là một bộ phận của công nghiệp với các trình độ khác nhau, phân bổ ở nông thôn, gắn liền với sự phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn, bao gồm nhiều ngành nghề, đan xen chặt chẽ với kinh tế nông thôn, nhất là sản xuất nông nghiệp. Công nghiệp nông thôn không phải là toàn bộ các hoạt động phi nông nghiệp hoặc bó hẹp trong các hoạt động tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn mà bao gồm bộ phận sản xuất công nghiệp và các dịch vụ có tính chất công nghiệp ở nông thôn của thợ thủ công chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp; các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, các hợp tác xã và các tổ hợp, tổ sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp; các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh chế biến lương thực thực phẩm hoặc các xí nghiệp công nghiệp khác, quy mô vừa và nhỏ mà hoạt động của nó trực tiếp gắn với kinh tế địa phương (nông thôn). - Công nghiệp nông thôn có vai trò ngày càng to lớn, hiện đang thu hút 60% tổng số lao động và tạo ra khoảng 40% giá trị tổng sản lượng của tiểu thủ công nghiệp trong cả nước. Công nghiệp nông thôn thúc đẩy sự hình thành hoàn thiện và mở rộng thị trường, góp phần nâng cao trình độ kỹ thuật, mở rộng quy mô của quá trình sản xuất và tái sản xuất kinh tế nông thôn. Công nghiệp nông thôn gắn chặt với sự phát triển kinh tế xã hội nông thôn, nó có tác động đến sản xuất nông nghiệp ở cả đầu vào lẫn đầu ra trong sản xuất nông nghiệp. + Tác động ở đầu vào: tại vị trí đầu vào, công nghiệp nông thôn cung cấp cho sản xuất nông nghiệp điện để mở rộng hoạt động hệ thống tưới tiêu, mở rộng diện tích canh tác thúc đẩy áp dụng các loại máy động lực phục vụ công tác chế biến nông sản phân hoá học là yếu tố đầu vào quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp, nhất là đối với các loại giống lúa mới, các loại máy nông nghiệp phục vụ công tác làm đất, chăm sóc cây trồng, bơm nước, chống úng. + Tác động ở đầu ra: Công nghiệp nông thôn cung cấp máy và công cụ phục vụ thu hoạch phơi sấy, bảo quản, sơ chế, chế biến và vận chuyển nông sản trước khi tới tay người tiêu dùng. Công nghệ sau thu hoạch bao gồm nhiều công đoạn từ thu hoạch phân loại, chế biến, bảo quản nông sản phẩm. * Những thách thức đối với nông nghiệp Việt Nam trong quá trình phát triển. - Hiện nay khu vực nông thôn vẫn đang ở trong tình trạng xuất phát thấp khi chuyển sang giai đoạn mới: GDP từ nông nghiệp chỉ chiếm 30% tổng sản phẩm quốc nội, thu nhập bình quân một lao động/tháng chỉ khoảng 100.000đ thấp hơn rất nhiều so với thành thị. Thêm vào đó tình trạng phân hoá lớn giữa khu vực thuần nông và phi thuần nông. - Khu vực nông thôn tỷ lệ người nghèo còn quá lớn: thành thị số hộ nghèo đói khoảng 2,4%, còn nông thôn 35 - 40%, đặc biệt vùng cao, vùng xa. - Sự phát triển không đồng đều giữa các khu vực nông thôn: Đồng bằng sông Cửu Long, miền đông Nam Bộ, đồng bằng sông Hồng là ba khu vực tương đối phát triển, còn lại là khu vực chậm phát triển. - Sự bùng nổ ngành nghề ở nông thôn với vấn đề môi trường sinh thái. - Vấn đề tỷ lệ thất nghiệp cao ở nông thôn trên 15%. Từ việc phân tích những thách thức này để xác định được những đòi hỏi của thị trường, đi tìm khu vực thuận lợi để sản xuất các mặt hàng, sau đó mới triển khai phát triển các công nghiệp nông thôn. * Những điều kiện tiền đề cho công nghiệp hoá nông thôn. - Quá trình phân công lao động trong nông thôn phải thực sự chuyển đổi mạnh mẽ theo hướng giỏi nghề nào làm nghề đó, không nên quá phụ thuộc vào nghề nghiệp thuần nông. Sau cải cách ruộng đất, việc chia đều ruộng đất cho mọi người dân, sẽ diễn ra quá trình tập trung ruộng đất vào trong tay một số trung nông làm ăn giỏi phát triển thành nhà quản lý trang trại, còn bộ phận nông dân vốn có ruộng đất nhưng không có khả năng canh tác buộc phải chuyển nhượng ruộng đất để sẵn sàng chuyển sang hoạt động phi nông nghiệp. Muốn vậy cần có thể chế cho tồn tại thị trường, trao đổi, chuyển nhượng ruộng đất và thị trường lao động ở nông thôn. - Năng suất lao động trong nông nghiệp phải đủ cao để nuôi sống số người không có việc làm nông nghiệp, nhưng chưa tìm được việc làm phi nông nghiệp mà vẫn không phải quay về làm nghề nông. Điều kiện này giúp duy trì một đội ngũ những người lao động nông nghiệp bị bứt ra khỏi hoạt động nông nghiệp làm tăng sức ép tạo ra các việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn. - Phải có các trung tâm ngành nghề mới (phi nông nghiệp), thương mại dịch vụ được mở ra với thu nhập cao hơn sản xuất nông nghiệp để thu hút lao động nông nghiệp. - Văn hoá, tâm lý, tập quán của nông dân địa phương phải phù hợp và thuận lợi cho việc di chuyển ngành nghề chuyển đổi lao động, yếu tố này cũng hình thành nên nhu cầu chi phối sự phát triển của các hoạt động nông nghiệp hay phi nông nghiệp. 2. Công nghiệp nông thôn một số nước và lãnh thổ trên thế giới. 2.1. Trung Quốc. Công nghiệp nông thôn Trung Quốc hình thành và phát triển theo phương châm “ly nông bất ly hương, nhập xưởng bất nhập thành” được biểu hiện ở sự phát triển của các xí nghiệp hương trấn. Xí nghiệp hương trấn là một hình thức mới của công nghiệp hoà nông thôn mang màu sắc Trung Quốc đã góp phần đẩy mạnh tốc độ, công nghiệp hoá đất nước, làm giảm sự chênh lệch giữa thành thị nông thôn, đời sống công nhân nông dân. Xí nghiệp hương trấn từ sản xuất thủ công và chế biến sản phẩm phụ nông nghiệp đã phát triển thành 5 ngành: công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp kiến trúc, giao thông vận tải và các ngành dịch vụ thương nghiệp, có quy mô tương đối lớn. - Đặc điểm: - Xí nghiệp có quyền tự chủ kinh doanh. - Thực hiện chế độ phân phối làm nhiều hưởng nhiều. - Thực hiện chế độ trách nhiệm đối với cán bộ, chế độ hợp đồng đối với công nhân. - Quan điểm về kinh tế hàng hoá mạnh. - Khả năng ứng biến thích nghi với thị trường. - Chú trọng sản phẩm mới và ứng dụng công nghệ mới. - Vấn đề tồn tại: - Xí nghiệp hương trấn phân bố không đồng đều ở các vùng. - Lãng phí vốn xây dựng thừa năng lực sản xuất, khó tiêu thụ sản phẩm. - Chất lượng sản phẩm xí nghiệp kém, mất uy tín. - Trang bị kỹ thuật lạc hậu, chắp vá. - Gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái của nông nghiệp. - Vai trò: - Lợi nhuận các xí nghiệp hương trấn hỗ trợ cho công việc nông nghiệp dưới hình thức lấy công bù nông, lấy công dựng nông. - Tăng thu nhập cho nông dân, tăng đầu tư của nông dân cho nông nghiệp. - Thu hút số lượng lao động dôi thừa của nông nghiệp. 2.2. ấn độ. - ấn Độ phát triển công nghiệp nông thôn trên cơ sở tư nhân và hợp tác ở vùng nông thôn và đã đề cập đến các lợi thế của khu vực công nghiệp nhỏ trong nền kinh tế như đảm bảo việc làm tối đa ở quy mô lớn, tạo ra một phương thức bảo đảm phân chia hợp lý hơn thu nhập quốc gia và huy động có hiệu quả các nguồn lực, vốn và tay nghề còn chưa được sử dụng hết. - ở ấn Độ, công nghiệp nông thôn được hiểu là những xí nghiệp mà nhu cầu vốn tín dụng không quá 25.000 rupi, bao gồm thủ công nghiệp và các xí nghiệp nhỏ mà hoạt động của chúng là chế tạo, chế biến và bảo quản và các hoạt động dịch vụ ở các làng và thị trấn nhỏ. - Các xí nghiệp này sử dụng các tài nguyên thiên nhiên và tay nghề sẵn có của địa phương. - Các hoạt động công nghiệp nông thôn bao gồm một loạt các ngành chế biến sản phẩm sơ cấp (lương thực, thực phẩm, các hoạt động gắn với nông nghiệp và khai thác mỏ...), các xưởng chế tạo cho nông nghiệp và sản xuất hàng tiêu dùng tiêu thụ ở nông thôn chính với những ngành công nghiệp mà người nghèo có thể tham gia dễ dàng hơn. - Khuyến khích phát triển ngành thủ công nghiệp độc lập và mỹ nghệ dân gian mà ấn Độ có truyền thống rất phong phú. - Thành lập các trung tâm công nghiệp huyện cung cấp mọi sự giúp đỡ cần thiết cho xí nghiệp nông thôn: tiềm năng khu vực, máy móc thiết bị, tín dụng, đào tạo... 2.3. Đài Loan. Đài Loan rất chú trọng vào phát triển nông thôn với phương châm “công nghiệp hỗ trợ nông nghiệp phát triển. Nhà nước đã ra các chính sách phát triển công nghiệp để hỗ trợ cho nông nghiệp. - Bãi bỏ việc dùng lúa đổi lấy phân bón hoá học. - Hủy bỏ các khoản phụ thu thuế ruộng. - Giảm nhẹ lãi suất tín dụng nông nghiệp. - Cải thiện điều kiện giao thông chuyển chở nông sản. Đài Loan đã biết kết hợp nhuần nhuyễn cả hai quan niệm đặt sự phát triển của công nghiệp nông thôn trên nền tảng và trong quan hệ khăng khít với công nghiệp ngay từ đầu của quá trình công nghiệp hoá. Chương II Thực trạng tiêu thụ sản phẩm cho CNNT ở nước ta I. Thực trạng ttsp ở thị trường nước ngoài. Theo báo cáo tổng cục hải quan tính đến ngày 20/11/99 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của việt nam là 19,945 tr USD nhập siêu 1,4% tổng tiêu ngạch. Trong đó xuất khẩu 9,903tr USD, nhập khẩu 10,042 tr USD Biểu 2: Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam - 1999 STT Mặt hàng XK Khối lượng (triệu tấn) Trị giá (triệu USD) 1 2 3 4 Gạo Cà phê Cao su Dệt may 4,23 0,3787 0,210 965 477 114,9 1.489 Trên cơ sở tổng hợp và phân tich tình hình dự báo, các chuyên gia bộ thương mại báo cáo tổng kim ngạch xuất khẩu 1999 ước11ty USD, tăng 17,5% so với 1998, vượt 10,5% so với kế hoạch. Trong đó DNVN 8,55 ty USD, chiếm 77,7%, tăng 15,8%, dn có vốn đầu tư nước ngoài là 2,45 ty USD chiếm 22,3%, tăng 23,6%. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: gạo, dệt may, cà phê. Tính đến tháng 11/99 4 mặt hàng công nghiệp đạt giá trị KNXK trên 1ty USD là: dầu thô,dệt may,da giầy, gạo. Một số mặt hàng tuy KN chưa lớn nhưng có mức tăng cao: máy động lực, máy công nghiệp, sữa bột,dầu thực vật. Cơ cấu xuất khẩu chuyển dịch theo hướng tích cực hơn: tỷ trọng nguyên liệu thô và sơ chế giảm. Biểu 3: Tỷ trọng ngành hàng xuất khẩu STT Ngành Tỷ lệ % Giá trị (triệu USD) 1 2 3 4 5 Nông lâm sản Hải sản Dệt may+Da giầy Thủ công mỹ nghệ Lĩnh vực khác 18,2 8,6 28 1,5 19,4 2000 950 3100 180 2130 1. Ngành cà phê Theo thống kê của hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam (VICOFA) niên vụ cà phê 1998-1999 Việt Nam XK 404.206 tấn cà phê nhân, tăng so với 97/98 khoảng 10.000 tấn. Biểu 4: Danh sách 10 công ty XK cà phê lớn nhất Việt Nam STT Doanh nghiệp Khối lượng (tấn) Giá trị (triệu USD) 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. VINA cà phê Công ty 2/9 Enxim Đắc Lắc Công ty TM du lịch Hiệp Phước Công ty XNK Gia Lai Công ty Tín Nghĩa Công ty cà phê Phước An Công ty PETEC Công ty Thắng Lợi Công ty TM XNK Gia Lai 52.300 51.789 46.184 28.740 26.044 20.268 17.131 13.027 9.880 9.803 72,277 70,509 64,174 40,7 34,2 27,1 24,036 17,853 14,194 13,18 Những cây cà phê đầu tiên được trồng trên đất Việt Nam là do các giáo sỹ truyền giáo đưa vào trồng từ năm 1857 ở khu vực các nhà thờ tu viện thiên chúa giáo thuộc 2 tỉnh Quảng Bình,Quảng Trị. Đến cuối thế kỷ 19 các đồn điền trồng cà phê đầu tiên là ở các tỉnh miền bắc: Hà Nam,Sơn Tây, Hoà Bình, Tuyên Quang, Phú Thọ, Phủ Quỳ. Vào những năm 1920-1925 khi phát hiện ra vùng cao nguyên Bazan ở miền trung.Người ta mới mở ra các đồn điền cà phê ở Tây Nguyên. Nhưng cả một thời gian dài diện tích trồng cà phê chưa được mở rộng,đến trước năm 1995 miền bắc có 14000 ha miền nam có 14.420 ha,cả nước25.420ha Sau ngày đất nươc thống nhất 1975, ngang cà phê Việt Nam đi vào thơi kì phát triển,sản lượng sản xuất ra chủ yếu để XK thu ngoại tệ.theo số liệu tổng cục thống kê và ngành Cà phê thì sản xuất Cà phê của ta mỗi năm một tăng. Biểu 5: Tình hình sản xuất, XK cà phê qua các năm Năm Diện tích (ha) Sản lượng sản suất Khối lượng XK theo niên vụ (tấn) Kim ngạch (Triệu USD) 1995 1996 1997 1998 1999 175.000 230.000 250.000 320.000 240.000 350.000 360.000 410.530 233.000 246.000 350.000 390.000 360.000 520 420 400 600 540 Sản xuât Cà phê Việt Nam có những điều kiện thuận lợi về khí hậu, đất đai, tập chung ở Tây Nguyên, Dông Nam Bộ, các tỉnh miền trung và miền núi phía bắc (Sơn La, Lai châu, Yên Bái, Hà Giang),điều kiện thổ nhưỡng khí hậu ở vùng này thích hợp với loại Cà phê Arabica nên năng xuất khá cao. Tây nguyên với bốn tỉnh: Đắc Lắc, Lâm Đồng, Gia Lai, Kom Tum là khu vực chủ lực của ngành Cà phê Việt Nam. Diện tích Cà phê của khu vực này lên tới 180.000 ha chiếm hơn 78% tổng diện tích trồng Cà phê cả nước trong đó Đắc Lắc với diện tích và sản lượng Cà phê là lớn nhất, chiếm 60% của cả khu Tây Nguyên. sự mở rộng của chính sách XNK theo nghị định số 57/1998/ND – CP của chính phủ đã tạo nhiều thuận lợi cho các DN có thể tham gia xuất khẩu Cà phê. Từ 30 DN XK Cà phê vụt tăng lên 100 DN. Riêng Đắc Lắc từ 16 DN tăng lên 26 DN. Hiẹn nay sản lượng sản xuất Cà phê của Đắc Lắc chiếm 60% tổng sản lượng Cà phê cả nước. Theo thống kê của sở thương mại Đắc Lắc. Sản lượng Cà phê xuất khẩu niên vụ 98 / 99 (1/10/98 – 30/9/99) đạt 218.596 tấn, tăng 3,5% so với niên vụ 97/98, kim ngạch khoảng 300 triệu USD, giảm 7,2%. Sản lượng tăng, kim ngạch giảm là do giá giảm, giá XK bình quân khoảng 1.372 USD/tấn, giảm 10% so với 97/98 đây là lần đầu tiên sau nhiều năm KNXK Cà phê Đắc Lắc giảm do giá thế giới giảm. tỷ lệ Cà phê R1 của Đắc Lắc vùa qua đạt thấp, khoảng 18000 tấn, chiếm 8% tổng lượng xuất khẩu thấp hơn tỷ lệ R1 chung của cả nước 11% làm giảm KNXK. (Chỉ riêng hai loại Cà phê chất lượng R1,R2 chênh lệch 100 USD/tấn, giữa R2 –5% và R2 -8% chênh lệch 40 đến 60 USD/tấn). Điều đáng mừng là chất lượng Cà phê xuất khẩu của Việt Nam ngày càng có uy tín trên thị trường Thế giới: Biểu 6: Chất lượng xuất khẩu tăng hàng năm(đơn vị:%). Cấp hạng chất lượng 94/95 95/96 96/97 97/98 Loại I Loại II A Loại II B Tiêu thụ nội bộ 2 15 80 3 6 45 44 5 7 60 27 6 16 72 5 7 Thị trường XK ngày nay càng được mở rộng. Trước năm 90 khoảng 50% khối lượng cà phê XK của Việt Nam là sang thị trường Liên Xô và Đông Âu,50% còn lại là sang thị trường Singapore thực chất là một thị trường trung chuyển. Đến năm 1996 XK cà phê Việt Nam đã sang tới 30 quốc gia, chủ yếu là XK trực tiếp. Đặc biệt cà phê Việt Nam đã được XKtrực tiếp sang các thị trường khó tính như Đức, Anh,ý. Đáng lưu ý là Mỹ thị trường nổi tiếng là khó xâm nhập nhưng năm 1996 đã tiêu thụ khoảng 1/3 khối lượng cà phê XK của Việt Nam.Hiên nay Đức đă trở thành nhà nhập khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam.Trong 11 tháng năm 99 vừa qua tổng lượng xuất khẩu : 362000 tấn kim ngạch khoảng 500 triệu USD Biểu 7: Thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam Thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam Tỷ lệ % Đức Mỹ Italia Tây Ban Nha Anh Bỉ 16,5 15,5 10,6 8,8 7,7 6,3 Cà phê đặc sản (Gounmet coffee) được quảng cáo bằng tên hấp dẫn: Cà phê trăng rằm (full moon coffee) hay cà phê gã chăn bò thứ thiệt (real Cowboy coffee)... tiêu thụ đang tăng nhanh chóng trên thế giới, các cửa hiệu chuyên bán cà phê đặc sản đang mọc lên như nấm tại Mỹ,các thành phố lớn ở Châu Âu và Nhật Bản nhưng mức tiêu thụ của Mỹ giảm từ 10kg/người/năm nay chỉ ở mức 4kg. Nguyên nhân của tình trạng này là phần lớn cà phê tiêu thụ ở Mỹ không phải là loại có phẩm chất cao nhất nên hiện nay Mỹ đang tích cực quảng cáo, khuyến trương cho loại cà phê này người tiêu dùng Mỹ thích loại cà phê này và thị trường tăng tốc độ 30%/năm. đây là một thị trường đầy hứa hẹn cho xuất khẩu cà phê Việt Nam sang Mỹ, nếu chất lượng cà phê của Việt Nam đạt được tiêu chuẩn quốc tế về độ axit, mùi quả và các mùi vị khác Theo dự đoán mới nhất của Bộ nông nghiệp Mỹ sản lượng cà phê thế giới 99/2000 giảm 20%(2,13tr bao)so vụ trước còn 104,5 tr bao: Biểu 8: Sản lượng cà phê thế giới Niên Vụ 97/98 98/99 99/2000 Sản Lượng (tr bao) 97,67 106,63 104,50 Brazin Côlômbia Indônêxia Việt Nam Mêxicô 23,5 12,03 7,2 6,67 4,97 34,7 11 6,85 6,33 4,95 26,5 12,7 7,2 6,45 5,3 Tiêu thụ 101,86 103,2 104,30 Sau niên vụ cà phê 97/98 bội thu,KNXK đạt khoảng 600 tr USD,thì niên vụ 98/99 lại chịu nhều biến đọng.Sản lượng cà phê quả năm nay giảm không nhiều,nhưng sản lượng cà phê hạt đạt thấp 394.000 tấn cà phê nhân,bằng 90-98% so vụ trước.Chất lượng cà phê không được cải thiện: cỡ hạt nhỏ, tỉ lệ hạt đen,vỡ nhiều do thời tiết khô hạn,ở giữa năm rồi mưa kéo dài cuối năm 98,mưa cuối vụ ở Tây Nguyên gây ảnh hưởng đến quá trình chăm sóc,thu hoạch,bảo quản,phơi sây.Trong khi đó cà phê thế giới lại được mùa lớn ước đạt 106,8tr bao(1 bao=60kg) tăng khoảng 9,1tr bao so vụ trước,riêng Brazin đạt trên 3tr bao.Mặt khác nhu cầu tiêu thụ càphê trên thế giới có phần giảm sút do khủng hoảng tài chính khu vực Tình hình đó làm giá càphê giảm nhanh chóng ở mức 1305USD/tấn,giảm khảng 250USD/tấn so với cùng kì năm ngoái,giảm 200USd/tânso với đầu năm nay.Giá cà phê Rôbusta loạI 2 có 5% hạt đen vỡ đã xuống ở mức 1280- 1290USD/tấn,giảm 18% so với tháng 1 năm 99(1567USD/tấn).Sáu tháng đầu năm 99, khó khăn đang chồng chất thì các DNXK cà phê lại phải chịu thêm giá cước vận chuyển tăng.Từ ngày 1/4/99 giá cước tăng thêm 150USD đi các nước Châu Âu và 750USD đi các nước Băc Mỹ trên mỗi container 20 feet.Năm 1998 Việt Nam xuất khẩu cà phê vào 36 thị trường nước ngoài,nhưng riêng 4 tháng đầu năm 99,12 thị trường giảm tỉ trọng nhâp khẩu.Các thị trường có tỉ trọng giảm mạnh đáng lưu ý là Mỹ giảm 9,5% Thái Lan giảm 2,5%, Pháp – 1,6%, Iran năm 98 nhập khẩu 2% thì bốn tháng đầu năm chưa nhập nhưng cũng có một số thị trường tăng tỉ trọng nhập khẩu cà phê Việt Nam. Trong 4 tháng đầu năm 99 Thuỵ Sĩ tăng 5% Italia tăng 2,1% so cùng kỳ. Điều đáng quan tâm là năm nay do nắm được thông tin giá cả cho nên người trồng cà phê đã không bán ồ ạt, khống chế số lượng nhằm giữ giá cà phê. Hiện nay lượng lưu kho trong DN và trong dân còn khá lớn khỏng 65 đến 60000 tấn riêng các DN của VINACOFFE còn năm nghìn tấn. 2. Ngành dệt 2.1. Tình hình sản xuất. Trong những năm của thập kỷ 90, ngành dệt có tốc độ phát triển không ổn định, tốc độ tăng trưởng đạt 13% năm 1994, sau giảm xuống dưới 1% vào năm 1995, và lại tăng lên 14% vào năm 1997. Tốc độ phát triển không đều nói trên một phần là do sự yếu kém của ngành dệt trong việc chiếm lĩnh thị trường trong nước của các sản phẩm dệt Việt Nam so với sản phẩm dệt ngoại, phần khác là do thiếu nguồn vốn nhập trang thiết bị và nguyên liệu cho sản xuất vào những năm 1995 và 1996 (Xem Vietnam Investment Review ngày 18/2/1996). Bảng 9: Những chỉ tiêu cơ bản của ngành dệt trong những năm 1990 Đơn vị: Tỷ đồng 1993 1994 1995 1996 1997 1998 (*) GDP 36735 39982 195567 213833 231264 244676 Tốc độ tăng trưởng GDP (%) 8,07 8,84 9,54 9,34 8,15 5,80 Giá trị tổng sản lượng của ngành dệt 1438,3 1624,0 6176,2 6373,6 7261,2 7696,9 Tỷ trọng giá trị tổng sản lượng ngành dệt trong GDP (%) 3,92 4,06 3,16 2,98 1,87 1,87 Giá trị tổng sản lượng của ngành dệt - may 1806 2180 9126 9774 11587 12282 Tỷ trọng giá trị tổng sản lượng dệt trong giá trị tổng sản lượng ngành dệt - may 79,6 74,5 67,7 64,2 62,7 62,7 Tốc độ tăng trưởng giá trị tổng sản lượng của ngành dệt (%) 1,1 12,9 0,6 3,2 13,9 6,0 Nguồn: Niên giám thống kê Ghi chú: số liệu của năm 1993 và 1994 tính theo giá cố định năm 1989, số liệu của các năm khác tính theo giá cố định năm 1994. * Số liệu năm 1998 là ước tính Tỷ trọng giá trị tổng sản lượng ngành dệt trong GDP có xu hướng giảm dần, chiếm gần 4% GDP năm 1993 xuống còn gần 2% GDP năm 1998. Và ngay trong ngành dệt - may cũng phản ánh xu hướng này. Mặc dù dệt vẫn chiếm tỷ trọng cao trong ngành dệt - may, nhưng tỷ trọng của ngành dệt đã giảm đi rất nhiều, từ gần 80% năm 1993, xuống còn hơn 6% năm 1998. Bảng 10: Tốc độ tăng trưởng hàng năm của một số mặt hàng dệt quan trọng trong những năm 1994-1998 (tính theo hiện vật) Đơn vị: % 1994 1995 1996 1997 1998 (*) Sợi dệt 16 34 11 3 5 Vải lụa 6 15 8 5 6 Len dạ 50 7 36 7 -6 Hàng dệt kim -13 12 -16 -1 16 Nguồn: - Niên giám thống kê 1998 - Bộ công nghiệp. Ghi chú: * số liệu năm 1998 là ước tính 2.2. Thực trạng công nghệ, trang thiết bị. Thực trạng công nghệ, trang thiết bị của ngành dệt rất khác nhau tuỳ thuộc vào các lĩnh vực khác nhau của ngành như kéo sợi, dệt thoi, dệt kim, nhuộm, in và hoàn tất. Mặc dù ngành đã có nỗ lực đầu tư đổi mới trang thiếtbị, xong nhìn chung toàn ngành, công nghệ, trang thiết bị vẫn ở trong tình trạng lạc hậu so với các nước trong khu vực. Đối với lĩnh vực kéo sợi: đến năm 1996 ngành có 800.124 suốt kéo sợi và 3.520 rô tơ kéo sợi. Trong số đó có 90.600 là suốt mới mua (chiếm 11,32%), với 55.960 suốt mua cũ của các nước Tây Âu; 107.000 suốt được cải tiến (chiếm 13,4%). Công suất kéo sợi hàng năm tăng lên 70.000 tấn, với chỉ số Nm là 61 (Báo cáo của VINATEX). Đối với lĩnh vực dệt thoi: năm 1996 ngành có 10.500 máy dệt thoi. Máy nhập mới chỉ chiếm 15%. Khoảng 50% máy dệt thoi là quá cũ và không còn khả năng sản xuất. Đối với lĩnh vực dệt kim: công nghệ dệt kim của ngành khá hiện đại so với các công nghệ khác. Phần lớn các máy dệt kim nhập của Trung Quốc, Tiệp và Đông Đức từ trước năm 1986 đều đã thanh lý và chuyển nhượng cho địa phương. Hiện nay các doanh nghiệp dệt lớn của Nhà nước đều sử dụng máy dệt kim nhập của các nước như Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan và Đức từ sau năm 1996; 30% số máy này thuộc thế hệ mới, một số máy đã được vi tính hoá. Vì chất lượng sợi bông kém nên hầu hết các doanh nghiệp chọn phương án sản xuất sử dụng sợi Pe/Co để sản xuất những sản phẩm dệt đơn giản như vải màn, vải valise, chưa quan tâm đến sản xuất các loại vải cao cấp như vải trang trí, vải thảm, vải dùng trong xây dựng,... Đối với lĩnh vực nhuộm, in và hoàn tất: Tất cả các thiết bị in, nhuộm và hoàn tất là nhập từ nước ngoài. Hiện nay 35% thiết bị in và nhuộm trong ngành nhập từ năm 1986 trở lại đây (khoảng 300 máy). Tất cả các thiết bị này đều thuộc thế hệ A2, A3 và vẫn hoạt động tốt. Số còn lại nhập từ trước năm 1985, thậm chí có những máy nhập từ những năm 60. Theo chủ trương của VINATEX những máy này cần phải giải quyết dần. Năm 1997, công suất sử dụng máy móc, thiết bị của ngành là 75%. Năm 1998, tình hình còn xấu đi nhiều do tác động của khủng hoảng tài chính khu vực. Nhìn chung, tình trạng công nghệ lạc hậu đã làm cho ngành dệt không có khả năng đáp ứng yêu cầu về chất lượng của nguyên liệu đầu vào cho ngành may, ngành may phải phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu, và như vậy đất nước mất đi nhiều cơ hội cho sản xuất thay thế nhập khẩu trong các khâu sử dụng khá nhiều lao động của ngành dệt. 2.3. Thị trường các sản phẩm. a. Thị trường trong nước: Trên thị trường trong nước, các nhà sản xuất của ngành dệt phải cạnh tranh với các đối thủ mạnh hơn trong khu vực. Là thành viên của ASEAN và đang trong quá trình thực hiện AFTA, thị trường Việt Nam là sân chơi của các nước trong khu vực. Do vậy chiếm lĩnh thị trường nội địa là một thách thức rất lớn đối với các nhà sản xuất dệt Việt Nam. Theo thống kê của VINATEX, trong những năm vừa qua tỷ trọng tiêu thụ nội địa trong tổng số hàng dệt sản xuất trong nước chỉ chiếm khoảng 55%. Điều này chứng tỏ hàng dệt Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu trong nước cả về chất lượng và số lượng. b. Thị trường xuất nhập khẩu Từ khi Việt Nam thực hiện quá trình đổi mới (từ năm 1989), giá trị xuất khẩu hàng dệt có tăng lên, tuy là mức tăng không bằng ngành may. Cũng như ngành may, ngành dệt đã chuyển từ thị trường Liên Xô cũ và Đông Âu sang thị trường phương Tây và Châu á. Thị trường xuất khẩu hàng dệt hiện nay của Việt Nam bao gồm thị trường có quota và phi quota. Thị trường Eu là thị trường xuất khẩu có quota. Dệt Việt Nam bắt đầu xâm nhập thị trường này từ năm 1993 khi Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU được ký kết và có hiệu lực. Cho đến nay kim ngạch xuất khẩu hàng dệt vào thị trường EU tăng lên hàng năm. Canada và NaUy cũng là thị trường có quota, nhưng giá trị xuất khẩu sang hai thị trường này rất không đáng kể. Thị trường xuất khẩu phi quota được mở rộng mạnh trong những năm gần đây. Nhật Bản là thị trường phi quota lớn nhất về mặt hàng dệt. Hồng Công, Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc là những nước nhập khẩu khá nhiều hàng dệt của Việt Nam. Hiện nay Việt Nam vẫn tiếp tục xuất khẩu hàng dệt sang Nga và các nước Đông Âu, nhưng chủ yếu dưới hình thức đổi hàng và thanh toán nợ. Bảng 11: Trị giá xuất khẩu của ngành dệt - may Việt Nam Đơn vị: (Triệu USD) Năm Ngành dệt Ngày may Ngành dệt - may 1985 6,5 21,1 27,5 1986 11,1 36,0 47,1 1987 13,3 27,4 40,6 1988 15,8 27,0 42,8 1989 25,1 68,1 93,1 1990 27,8 90,7 118,5 1991 29,4 142,9 172,3 1992 39,6 357,2 396,8 1993 61,7 521,0 582,7 1994 107,8 691,6 799,4 1995 147,8 878,8 1.026,6 1996 175,5 1.162,7 1.338,2 1997 - - 1.349 1998 - - 1.351 Nguồn: UNIDO, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục Thống kê, Vietnam Economic News số 6/1998, số 4/1999. Việt Nam là một nước nhập khẩu ròng lớn về hàng dệt. Tỷ lệ thương mại ròng âm ở mức cao trong suốt 10 năm vừa qua (UNIDO and DSI/MPI, 1998). Trong khi đó các nước Trung Quốc, Inđônêxia, Thái Lan đều có một ngành công nghiệp dệt xuất khẩu khá lớn. Điều này cho thấy là trong một môi trường chính sách thích hợp, Việt Nam có thể đi theo hướng của các nước kể trên. Việt Nam thực thi chính sách bảo hộ đối với một số mặt hàng dệt sản xuất được trong nước. Thuế xuất nhập khẩu đối với các sản phẩm này tương đối cao (40- 50%). Tuy vậy ngành dệt Việt Nam vẫn chịu sự cạnh tranh rất mạnh từ phía hàng ngoại. Hàng năm nhập khẩu các mặt hàng dệt (kể cả nguyên liệu cho ngành dệt và sản phẩm dệt) chiếm 6-7% tổng giá trị nhập khẩu của cả nước. Nhập khẩu hàng dệt cho mục đích tiêu dùng chiếm phần lớn số hàng dệt nhập (4-5% tổng giá trị nhập khẩu của cả nước). Tóm lại, từ những trình bày trên cho thấy là ngành dệt Việt Nam trong những năm 90 là ngành công nghiệp thực hiện chiến lược thay thế nhập khẩu, đã phấn đấu vươn lên xuất khẩu. Và ngành đã thu được những thành công nhất định. Nhưng nhìn chung khả năng cạnh tranh còn yếu, chưa đủ mạnh để chiếm lĩnh thị trường trong nước và tăng cường xuất khẩu, tốc độ tăng trưởng của ngành không cao và không ổn định. Thực trạng này của ngành là do nhiều yếu tố tác động. Có những yếu tố là khách quan, nhưng cũng có những yếu tố chủ quan. II. Thực trạng tiêu thụ sản phẩm ở thị trường nội địa. Thị trường trong nước số cung ngày càng vượt quá số cầu cạnh tranh ngày càng gay gắt: Số cung: thêm nhiều DN ra nhập thị trường, năng lực sản xuất của các DN ngày càng ra tăng- sự hiện diện của các DN có vốn nước ngoài – hàng ngoại nhập đặc biệt là hàng nhập lậu không ngừng tấn công vào thị trường nội địa. Số cầu: gia tăng chậm hơn so với số cung – sức mua có khả năng thanh toán còn hạn chế – nhu cầu ngày càng đa dạng và ngày càng trở nên khó tính. Nền kinh tế nước ta đang ở trong giai đoạn cuối cùng của thế kỷ XX, sau nhiều năm hoạt động mức tăng trưởng cao thì hiện nay tốc độ tăng trưởng đã chậm lại và giảm sút. 6 tháng đầu năm 1999 GDP tăng 4,3% mức thấp nhất so cùng kỳ 3 năm trước, cụ thể: Biểu 12: Mức tăng trưởng GDP 6th/96 6th/97 6th/98 6th/99 GDP Trong đó Sản xuất CN Sản xuất NN +9,3 +13,2 +4,8 +9,1 +13,7 +2,0 +6,7 +12,6 +2,0 +4,3 +10,4 Chỉ số giá tám tháng đầu năm tăng 0,8% so tháng 12/98 là mức thấp nhất so cùng kỳ 5 năm trở lại đây. Chỉ số giá giảm liên tục trong 6 tháng liền từ tháng 3dến tháng 8. Biểu 13: Chỉ số giá tiêu dùng 8 tháng đầu năm 1999 Tháng T3 T4 T5 T6 T7 T8 Chỉ số giá giảm 0,7% 0,6% 0,4% 0,3% 0,4% 0,5% Tổng cầu xã hội giảm sút, lượng lượng hàng tồn kho của một số ngành như sau (tính đến tháng 6 năm 1999) Biểu 14: Lượng tồn kho tính đến tháng 6/1999 Ngành Lượng tồn kho (triệu tấn) Trị giá(tỷ đồng) Ximăng Đường Cà phê Giấy Cao su Dệt may 1,32 0,33 0,08 0,022 0,018 200 1700 160 220 150 100 Tỷ lệ lao động không có việc làm tăng lên. Mỗi năm nước ta có từ 1,8 đến 2,0tr người đến tuổi lao động cần phải được thu hút vào khu vực sản xuất. Tuy nhiên do kinh tế 6 tháng đầu năm gặp khó khăn nên số người đến tuổi lao động không được thu hút vào khu vực sản xuất, đồng thời có hiện tượng “chảy ngược “lao động từ một số ngành sản xuất gặp khó khăn ra thị trường lao động tự do, làm tăng áp lực lao động dư thừa, tạo sức ép giảm giá trị ngày công. Tóm lại, giá cả thị trường liên tục giảm xảy ra đồng thời với sự suy giảm tốc độ tăng trưởng GDP tăng tỷ lệ lao động khong có việc làm là những đặc trưng cơ bản tạo ra hiện tượng thiểu phát của nền kinh tế trong 7 tháng đầu năm 1999. Tuy nhiên cho đến nay các giải pháp kích cầu của nhà nước đã bắt đầu phát huy tác dụng, chỉ số giá tiêu dùng bắt đầu nhích lên.Tháng 11 giá tiêu dùng tăng 0,4% so với tháng10.Trong 11 nhóm hàng hoá dịch vụ có 5 nhóm gia tăng (lương thực,thực phẩm,thiết bị đồ dùng gia đình văn hoá thể thao giải trí ) đáng chú ý là lương thực tăng cao nhất 1,7%.theo dự đoán tháng 12 chỉ số giá tiêu dùng có xu hướng tăng thậm chí còn cao hơn tháng 11. * Ngành dệt. Từ những phân tích về thực trạng của ngành dệt và những yếu tố ảnh hưởng đến năng lực của ngành, chúng ta thấy rằng khả năng cạnh tranh của ngành còn khá khiêm tốn, ngành dệt mới chỉ đang ở giai đoạn đầu của quá trình thực hiện chiến lược thay thế nhập khẩu, phấn đấu vươn lên xuất khẩu. Trong chiến lược phát triển các ngành thì ngành dệt may thuộc nhóm ngành có tính cạnh tranh cao và được ưu tiễn hỗ trợ phát triển từ phía Nhà nước. Nhà nước đã thi hành một số chính sách hỗ trợ cho ngành. Nhưng từ thực tế ngành dệt đang gặp rất nhiều khó khăn và có xu hướng giảm sút, nên một câu hỏi được đặt ra ở đây là ngành dệt có khả năng phát triển thực sự hay không trong điều kiện môi trường chính sách phù hợp hơn. Câu trả lời là có, bởi vì so với may ngành dệt có sức cạnh tranh kém hơn, xong dệt vẫn là ngành sử dụng khá nhiều lao động so với nhiều ngành khác và sự yếu kém của ngành dệt hôm nay hoàn toàn có thể được cải thiện bằng những thay đổi về điều kiện sản xuất, năng lực quản lý, về thể chế,... Phần này xin tập trung vào phân tích một số chính sách của Nhà nước có tác động tới ngành dệt, đó là: - Chính sách tài chính và đầu tư: Nhà nước có chính sách ưu tiên đầu tư từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước cho các doanh nghiệp của ngành dệt với lãi suất ưu đãi và có sự bảo lãnh của Chính phủ. Trên thực tế chỉ các doanh nghiệp dệt quốc doanh được hưởng sự ưu đãi này. Ví dụ, nếu như doanh nghiệp nào được hưởng chính sách ưu tiên đầu tư của Nhà nước, doanh nghiệp đó chỉ phải chịu lãi suất là 0,3%/tháng, thấp hơn nhiều so với vốn vay đầu tư thông thường khác là 0,7%/tháng (theo kết quả điều tra các doanh nghiệp dệt do Viện kinh tế tiến hành năm 1998-1999). Tuy nhiên sự hỗ trợ này của Nhà nước rất không đáng kể. Kết quả điều tra kể trên cho thấy là chỉ có 6 trong số 24 doanh nghiệp dệt quốc doanh được hưởng chính sách này. Và trong số đó thì 3 doanh nghiệp được hỗ trợ 80-100% vốn đầu tư, còn 3 doanh nghiệp chỉ được hỗ trợ không quá 50% vốn đầu tư. Nguồn vốn cho vay đầu tư lớn nhất chỉ khoảng 50 triệu đồng. Doanh nghiệp dệt tư nhân rất khó khăn trong việc tiếp cận với nguồn tài chính cho cả vốn đầu tư và vốn lưu động. Thứ nhất, các doanh nghiệp dệt tư nhân thường là mới thành lập, có quy mô nhỏ. Các ngân hàng Nhà nước rất ngại cho doanh nghiệp tư nhân vay vì các doanh nghiệp này không có sự bảo lãnh và không có độ tin cậy (kinh doanh tư nhân ở Việt Nam vẫn chưa gây được lòng tin trong dân chúng). Thứ hai, các doanh nghiệp tư nhân thường không đáp ứng được yêu cầu thế chấp theo thủ tục cho vay của ngân hàng. Rõ ràng là khu vực dệt tư nhân phát triển mà không có sự giúp đỡ từ khu vực tài chính chính thức. Chi phí vay vốn để hoạt động từ các nguồn tài chính không chính thức cao hơn khá nhiều là từ các nguồn tài chính chính thức. Điều này làm tổn hại đến khu vực dệt tư nhân nói riêng và đến khả năng cạnh tranh của ngành nói chung. Mặc dù các doanh nghiệp dệt quốc doanh có thuận lợi hơn trong việc vay vốn từ khu vực tài chính chính thức, xong trên thực tế không hoàn toàn như vậy. Theo kết quả điều tra các doanh nghiệp dệt may của Viện kinh tế học thì mức lãi suất trung bình cho vốn vay lưu động mà các doanh nghiệp quốc doanh phải trả cao hơn là mức lãi suất trần do Ngân hàng Nhà nước ấn định. Điều đó cho thấy là cả các doanh nghiệp quốc doanh đôi khi cũng phải đi vay từ các nguồn tài chính không chính thức. Bảng 15: Mức lãi suất trần cho vốn lưu động Năm Tiền Mức lãi suất Quy định bởi 1997 Đồng 1,00%/tháng Quyết định 197-NH1 ngày 28/6/1997 Đôla 8,50%/năm Quyết định 197-NH1 ngày 28/6/1997 1998 Đồng 1,20%/tháng Quyết định 39/1998 - QĐ-NHNN1 ngày 28/6/1997 Đôla 7,5%/năm Quyết định 309/1998 - QĐ-NHNN1 ngày 10/9/1997 1999 Đồng 0,85%/tháng Quyết định 338/1999 - QĐ-NHNN1 ngày 22/10/1997 Tóm lại, chính sách tài chính có sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp tư nhân phải phụ thuộc vào thị trường tài chính không chính thức với mức lãi suất cao hơn nhiều. Do vậy Nhà nước cần phải có một chính sách tài chính không có sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp trong ngành. - Chính sách thương mại: Cơ cấu thuế nhập khẩu hiện nay đối với các mặt hàng dệt được thể hiện ở mức thuế suất cao đối với các sản phẩm sản xuất được trong nước và thấp đối với nguyên vật liệu, trang thiết bị phải nhập. Thuế nhập khẩu có cấu trúc như sau: 0% : Bông, sợi tổng hợp, chỉ, thuốc nhuộm, máy móc; 10-20%: sợi bông, tổng hợp thành phẩm; 40% : sợi đan; 50% : vải. Thuế suất trung bình giản đơn của các sản phẩm dệt là 26,7% thuế suất trung bình theo tỷ lệ nhập khẩu là 31%: tỷ lệ bảo hộ hữu hiệu tương ứng là 47,5% và 58,1%. Đối với toàn bộ nền kinh tế thì những con số tương ứng là 19,0%; 18,3%; 47,6% và 47,1% (theo tính toán của dự án “Thương mại và khả năng cạnh tranh” do IDRC - Canada tài trợ và thực hiện bởi Viện Kinh tế học). Như vậy nhìn chung mức độ bảo hộ của Nhà nước đối với ngành là không cao so với các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân. Một chính sách khác có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của ngành là chính sách phân bổ quota xuất khẩu. Quata xuất khẩu hàng dệt - may của Việt Nam là do EU, Na Uy, Canada quy định thông qua các Hiệp định song phương với mục đích giúp các nước đang phát triển đẩy mạnh xuất khẩu. Việt Nam đã có sự tăng trưởng khá về quota trong những năm qua. Xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường quota chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Do vậy cơ chế phân bổ quota cho các doanh nghiệp có tác động tích cực đến sự tăng trưởng của ngành. Nhà nước đã thường xuyên cải tiến cơ chế này nhằm bảo đảm sử dụng triệt để quota. Cơ chế phân bổ quota hiện hành được quy định trong Thông tư liên bộ số 20/1998/TTLT/BTM/BKHDT/BCN ngày 10/12/1998. Hiện nay Bộ Thương mại đang áp dụng thí điểm đấu thầu phân bổ quota. Có một số điểm không hợp lý trong chính sách thương mại đối với ngành dệt cần phải được cải tiến là: Thứ nhất, mục tiêu bảo hộ ngành thể hiện trong cơ cấu thuế nhập khẩu trở nên không có ý nghĩa do tình trạng buôn lậu diễn ra phổ biến. Điều đó chứng tỏ cơ cấu thuế nhập khẩu hàng dệt là hợp lý, không có tác dụng bảo hộ các nhà sản xuất dệt như mục tiêu đề ra. Thứ hai, có sự khác biệt rất lớn về thuế suất cho các sản phẩm giống nhau với mục đích sử dụng khác nhau, gây ra sự tuỳ tiện cho các bộ hải quan. Thứ ba, quy chế phân bổ quota vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng và thể hiện sự ưu đãi đối với doanh nghiệp Nhà nước hơn là các doanh nghiệp tư nhân và nước ngoài. Thứ tư, thủ tục xuất - nhập khẩu rất phức tạo và mất thời gian. Đây là hạn chế lớn cho ngành dệt vốn phải tham gia nhiều vào hoạt động này. Ngành dệt trong mấy năm gần đây tuy đạt được một số thành công nhất định, nhưng chưa ổn định và còn nhiều bất cập. Tiếp tục phát triển ngành dệt đòi hỏi phải có nỗ lực rất lớn của ngành và quyết tâm của Chính phủ. Bên cạnh đó, nỗ lực của chính cách doanh nghiệp dệt đóng vai trò rất quan trọng. Sự phát triển của công ty dệt Thái Tuấn là một điển hình minh chứng cho tiềm năng hứa hẹn của ngành. III. Nguyên nhân 1. Nguyên nhân về phía nhà nước. 1.1. Quy hoạch, kế hoạch và đầu tư của nhà nước mất cân đối. Khi mà nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý và mỏ cửa hội nhập thị trường trong nước và thế giới có diễn biến phức tạp, thì việc định hướng, dự báo, quy hoạch, kế hoạch, xác định chính sách, đầu tư phải tính đến một cách kỹ lưỡng, khoa học, những quan hệ cân đối lớn như cung _ cầu, xuất nhập, cán cân thanh toán.. để tránh phải thay đổi lớn hoặc phà vỡ quy hoạch, kế hoạch. Kéo theo nhiều sự thay đổi khác. Việc xây dựng các nhà máy đường đã tiến hành không đồng bộ gắn với vùng nhiên liệu. ở phía Nam ngoài 4 nhà máy ép của tổng công ty mía đường, 2 nhà máy của các địa phương và 13 nhà máy 100% vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động với tổng công suất 20.250 tấn /ngày. hiện có thêm 8 nhà máy đưa tổng số lên 25 nhà máy với tổng công suất 367500 tấn/ngày tiêu thụ 5,5 tấn mía cây. Trữ lượng mía dùng để ăn tươi, làm giống là giành cho khu vực chế biến đường thủ công, sản lượng trên khó được đáp ứng đủ. Việc đầu tư xây dựng tràn lan các nhà máy đường, mía không có quy hoạch cho các vùng nguyên liệu nên ngành mía đường có sự điều chế. 1.2. Nhà nước chưa thông tin kịp thời đầy đủ, cụ thể, về thị trường nước ngoài cho DN. Sáu tháng đầu năm 99 ngành than xuất khẩu có tăng, đạt 1,52 triệu tấn, tăng 16% nhưng do giá than giảm khoảng 13% so với giá bán bình quân năm 1998 nên KNXK đạt 45,06 tr USD chỉ tăng 15%. đây là một ngịch lý và là mối quan tâm của nhiều bộ, ngành hữu quan. Nguyên nhân có nhiều nhưng tình trạng thiếu thông tin về thị trường xuất khẩu của các DN là đáng báo động hơn cả. các DN có hàng trong tay nhưng không biết xuất khẩu sang thị trường nào họ không biết thị trường các nước cần hàng gì để xuất khẩu, hoàn toàn thiếu thông tin về thị trường nước ngoài nhu cầu khách hàng, đối thủ cạnh tranh, các quy định, tiêu chuẩn hàng hoá, luật phấp nước sở tại. Đây là nhữngyếu tố cơ bản hết sức quan trọng giúp DN ra các quyết định cho chính xác: sản xuất hàng gì cho xuất khẩu, sản xuất trên công nghệ nào theo tiêu chuẩn nào, xuất khẩu cho ai, số lượng bao nhiêu và khi nào xuất. Hiện nay, các DNXK hàng công nghiệp chỉ khai thác thông tin về thị trường nước ngoài chủ yếu theo “kênh” gián tiếp là dựa vào Bộ Thương Mại, phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam, ban vật giá Chính Phủ, các phái đoàn ngoại giao của Việt Nam cung cấp nhưng những thông tin đó mang tính chất tổng hợp, không đầy đủ nên không đáp ứng đầy đủ những đòi hỏi của từng DN. Mặt khác việc thu thập thông tin về thị trường của DN từ “kênh này” cũng không dễ dàng và thuận tiện do trở ngại của thủ tục hành chính đối với DN có văn phòng đại diện hay trụ sở đóng tại thành phố lớn thì còn có điều kiện tiếp xúc với nhiều nguồn thông tin khác nhau, nhưng đối với DN vừa và nhỏ và ở xa trung tâm lớn thì việc thu thập thông tin cực kỳ khó khăn, nếu họ có thông tin thì cơ hội kinh doanh cũng qua rồi. Còn “kênh” thông tin trực tiếp giữa DN và thị trường nước ngoài thì vượt xa khả năng của DN do “tài chính eo hẹp”. 1.3. Do sự mất cân đối cơ cấu kinh tế giữa các khu vực, vùng trong cả nước. Cơ cấu tăng trưởng giữa các khu vực của nền kinh tế không hợp lý làm cho thu nhập và theo đó là nhu câu của một bộ phận dân cư lớn nhất nước ta (khu vực nông thôn chiếm 76,5% dân số cả nước) không tăng lên được. Theo số liệu của tổng cục thống kê, tương quan thu nhập của một lao động nông nghiệp với một lao động cong nghiệp như sau: năm 1996 – 65,95%, năm 1997 – 62,91%, năm 1998 – 56,69% mặc dù tương quan già giữa sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm công nghiệp trong những năm gần đây có lợi cho nông nghiệp, tốc độ tăng trưởng của khu vực này thấp (đến cuối năm 1998 so với 1990 công nghiệp tăng 2,7 lần trong khi nông nghiệp tăng 1,4 lần), sự suy giảm về thu nhập đẫn đến sức mua ở khu vực nông thôn luôn duy trì ở mức thấp. Tiền lương thực tế cúa cong nhân viên khu vực hành chính – sự nghiệp giảm do lạm phát. Tiền lương danh nghĩa kể từ năm 1993 đến nay về cơ bản không thay đổi, trong khi tỷ lệ lạm phát của 6 năm 1993 – 1999 gần 50%. Nhà nước mới bù trượt giá khoảng 20% ( năm 1995). Như vậy thu nhập thực tế của công nhân viên khu vực hành chính sự nghiệp hiện nay chỉ còn 30% thu nhập danh nghĩa, ảnh hưởng đến sức mua của một bộ phận dân cư. 1.4. Sự phối hợp không đồng bộ của các cơ quản chức năng, hệ thống các văn bản của cơ quan nhà nước bị chồng chéo. Tình hình sản xuất buôn bán hàng giả 6 tháng đầu năm 1999 có xu hướng ngày càng tăng. Hàng giả phổ biến là sử dụng nhãn mác bao bì của hang thật nhái theo kiểu dáng của hàng thật, cả hàng thật trong nước và ngoài nước hàng giả bao gồm hầu hết các chủng loại từ mặt hàng đơn giản rẻ tiền như nước giải khát,bánh kựo, đá quý ...hàng giả trực tiếp gây ảnh hưởng đến sức khoẻ, tính mạng của con người và nguy hại hơn là làm cho uy tín của nhà sản xuất kinh doanh,hàng không bán được tồn kho.Sáu tháng đàu năm 1999bột ngọt AJINOMOTO giả chiếm 90%thị phàn.hàng rau câu của công ty đồ hộp Hạ Long bị nhái nhãn mác có thời diểm lên tới 90% thị phần khu vực mièn Tay Nam Bộ.Trong khi tệ nạn làm hàng giả ngày càng gia tăng thì việc phân công, phân cấp quản lý của các cơ quan quản lý Nhà Nước về chất lượng hàng hoá còn thiếu nhất quán, thhậm chí còn phủ định lẫn nhau.Điều 6 Nghị định 140HĐBT ban hành ngày 25/4/1991 quy định 7 cơ quan có thẩm quyền kiếm tra, xử lý việc sản xuât buôn bán hàng giả: Hệ thống cơ quan quản lý thị trường thuọc Bộ Thương Mại ;cơ quan Tiêu chuẩn đo lương chất lượng sở hữu công nghiệp,y tế,Thanh tra nhà nước, Công an hải quan.khi có nhiều người cùng chịu trách nhiệm làm một việc thì dễ dẫn đến mạnh ai nấy làm,dễ làm khó bỏ chồng chéo ‘lấn sân” nhau. Hiện nay, nhản hiệu sản phẩm hàng hoá lưu thông trên thị trường có nhiều văn bản điều tiết.Bộ Thương Mại có quyết định 636/TMQLCL ngày 26/7/1996 ban hành “quy chế nhãn sản phẩm đối vởi hàng hoá lưu thông trên thị trường”.Ba tháng sau, ngày27/2/1996 Bộ khoa học công nghệ và môi trường có quyết định 2576/QD-TDC cvề đăng ký chất lượng hàng hoá ... quy định về nhãn sản phẩm hàng hoá. Vậy cơ sở sản xuất, lực lượng kiểm tra kiểm soát phải tuân theo văn bản nào. Trong xử lý vi phạm có tới bốn nghị định 92/CP và 93/CP ngày 27/11/93; 46/CP ngày6/8/96 và 57/CP ngày 31/5/97. Cùng điều chỉnh xử lý đối với hành vi giả mạo nhãn sản phẩm theo tiết b, khoản 3, điều 15 nghị định 57/CP bị phạt từ 1—5 tr đồng. Nhưng đi vào cụ thể từng loại hàng hoá thì số tiền phạt cao nhất còn thấp hơn mức trần thấp nhất ở nghị định trên (VD:giả nhãn thuốc thú y đang lưu hành đã được đăng ký phạt 100.000-500.000đ theo tiết c, khoản 1 điều 5 nghị định 93/CP; giả mạo nhãn thuốc bảo vệ thực vật phạt 100.000-500.000đ theo tiết c, khoản 3 điều 5 nghị định 92/CP..). áp dụng văn bản nào trong 4 nghị định trên cho một hành vi vi phạm là điều băn khoăn của những người thực thi nhiệm vụ. Sự chồng chéo mà người sản xuất kinh doanh rất e ngại là chòng chéo trong hoạt động thanh tra kiểm tra hàng giả. Mặc dù điều 7 nghị định 140/HDBT nêu rất rõ ràng, một trong 7 cơ quan có chức năng chống hàng giả khi nhận được nguồn tin tố cáo thì phải phối hợp với cơ quan khác tiến hành kiểm tra xử lý.. song trên thực tế sự phối hợp ấy chẳng những hãn hữu mà nhiều khi còn hoàn toàn mâu thuẫn với nhau. Tháng 3/1997 đội quản lý thị trường quận Bình Thạnh TP Hồ Chí Minh đã kiểm tra phát hiện và lập biên bản đối với chi nhánh công ty đồ hộp Hạ Long tại TP Hồ Chí Minh vì vi phạm quy chế nhãn sản phẩm,cho công nhân bóc nhãn cũ có thời gian sử dung đến 1996, thay nhãn mới có thời hạn sử dụng đến năm 2000. Sau đó chi cục thú yTP Hồ Chí Minh tiến hành kiểm tra, láy mẫu đồ hộp để kiểm nghiệm.Tiếp đến Bộ Y tế, Bộ Thuỷ Sản, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường lại phối hợp kiểm tra và đưa ra kết quả trái nghược với Chi cục thú y.Ai cũng nói mình có quyền, ngành thú y bảo đấy là sản phẩm động vật nên là đối tượng thanh tra của mình, ngành Thuỷ Sản bảo là sản phẩm thuỷ sản, ngành y tế cho rằng đây thuộc chức năng quản lý nhà nước về hàng thực phẩm, bộ KH-CN-MT bảo là thống nhất quản lý nhà nước về chất lượng hàng hoá.. sự việc gây xôn xao dư luận và tốn không biết bao mực của các nhà bào và cuối cùng đi đên kết luận là “ chi nhánh Đồ hộp Hạ Long không vi phạm. 1.5. Nhà nước khống chế quảng cáo khuyến mại. Trong sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường, quảng cáo là một công cụ hữu hiệu góp phần TTSP của DN. Nhưng theo luật thuế thu nhập DN “chi phí quảng caó khuyến mại liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ vàg các khoản chi phí khác được khống chế tối đa không quá 7% tổng số chi phí”. Việc khống chế quảng cáo khuyến mại chỉ ở mức 7% chi phí đã làm sản xuất kinh doanh của ngành bia chững lại. Nếu như năm 1997 doanh thu của tổng công ty Rượi - bia- nước giải khát đạt 2.385,574 tỷ đ nộp ngân sách 1.232,714 tỷ đ. Năm 1998 doanh thu đạt 2.529,594 tỷ đồng nộp ngân sách 1.295,151 tỷ đồng. Nhưng bắt đầu từ cuối năm 1998 ngành bia đã gặp rất nhiều khó khăn trong khâu TTSP. Lượng bia tồn kho của 2 công ty bia Sài Gòn và bia Hà Nọi tính đến cuối tháng 5 năm 99 là khoảng 9 tr lít. Trong đó công ty bia Sài Gòn tồn 8tr lít, bia Hà Nội tồn 1tr lít. Theo báo cáo của Tổng công ty, tính đến tháng 6/1999, giá trị tổng sản lượng của tổng công ty ước đạt 1.055,876 tỷ đ bằng 93,5% so với cùng kỳ năm 1998 và bằng 45,31% so với kế hoạch. Do sản phẩm tiêu thụ chậm thị trường tiêu thụ khó khăn và ngày càng bị thu hẹp Tổng công ty đãc tăng cường công tác khuyến mại để hỗ trợ khách hàng tiêu thụ sản phẩm. Nhưng chi phí cho quảng cáo khuyến mại bị khống chế ở mức 7% giá thành. Với các ngành hàng sản xuất kinh doanh khác, tổng chi phí chiếm tới 80-90% doanh thu thì 7% chi phí là con số không nhỏ nhưng ngành bia thì do phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt chiếm tới 60-70% doanh thu ( bia hơi chịu thuế TTĐB 50%, bia lon 65%, bia chai 75%), nên phần chi phí ngoài thuế thấp, 7% chi phí này là không đáng kể. Dự kiến nhu cầu chi phí riêng cho khuyến mại để hỗ trợ khach hàng của công ty bia Sài Gòn là 80 tỷ đ (khoảng 10% tổng chi phí) trong khi chi phí cho phép dùng trong khuyến mại là 22 tỷ đ, số còn lại của7% được dùng cho các chi phí hội họp, tiếp khách, quảng cáo. mặc dù rất nỗ lực giúp đỡ khách hàng nhưng do chi phí hạn hẹp, sự hỗ trợ không được bao nhiêu trong khi các hãng bia nước ngoài không bị hạn chế về quảng cáo, khuyến mại đã có đủ các biện pháp hỗ trợ cho khách hàng với những quà tặng phần thưởng hấp dẫn.. khách hàng quen bắt đầu bỏ sản phẩm của tổng công ty để bán những sản phẩm nước ngoài thu lợi nhuận cao. 2. Nguyên nhân từ phía DN. 2.1. Công nghệ lạc hậu nên chất lượng hàng hoá, hiệu quả sản xuất, năng xuất thấp. Ngành cà phê: chất lượng sản phẩm phụ thuộc rất nhiều vào thu hoạch và công nghệ chế biến, bảo quản sản phẩm. Thu hoạch quả chín tươi, chế biến kịp thời và đúng quy trình công nghệ là yếu tố quan trọng giữ được phẩm chất, vốn có của hạt cà phê. Mặc dù trong thời gian qua, cà phê Việt Nam được các nhà cung ứng Mỹ và Châu Âu đánh giá cao về chất lượng cà phê xuất khẩu mới chỉ là bước đầu, còn chưa ổn định điển hình là số lượng hạt lỗi, vỡ, đen còn khà lớn làm cho chất lượng nước uống bị ảnh hưởng. Hiên nay Việt Nam đang sử dụng hai phương pháp chế biến: phương pháp chế biến kho và phương pháp chế biến ướt nên mặc dù ngành cà phê đã nỗ lực đầu tư vaò thiết bị chế biến để hạn chế tối đa sự mất cân đối giữa sản lương thu hoạch và khả năng chế biến nhưng nhìn lại hệ thống thiết bị hiện có từ máy móc có công suất lớn đến bán cơ khí và thủ công phần lớn còn lạc hậu, chắp vá, không đồng bộ, chất lượng kém. Trên thực tế trừ một số công ty, nông trường lớn là có sân phơi, còn phần lớn nông dân phơi trên đất, khá lắm là phơi trên bạt. phơi gặp mưa cũng không thềm chạy, họ không biết “mùi đất” thấm vào hạt cà phê vị chát là do thu hái cả trái xanh, có nơi cà phê xanh chiếm 15-20% lượng thu hoạch trong khi sản phẩmcà phê của hội nông đân chiếm 85% sản lượng cả nước. 2.2. Trình độ quản lý yếu kém, lạc hậu, chất lượng lao động thấp. Theo nghiên cứu tổ chức BFRI về khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Việt Nam đứng thứ 48/59 Quốc gia được kiểm sát. lao động Việt Nam đạt 32điểm/100, thuộc vào nhóm yếu kém trong khi Singapore và các quốc gia được kiểm sát đạt 84 điểm. Biểu 16: Bảng đánh giá chất lượng lao động một số nước. Ghi chú: số ngoài dấu ( )- số điểm trên thang 100. Quốc gia Năng suất Lao dộng Trình độ Lao động Kỹ năng Nghề nghiệp Đánh giá Chất lượng LĐ Singapore Thuỵ sỹ Nhật Bản Bỉ Mỹ Việt Nam 85(1) 64(4) 68(3) 72(2) 20 83(3) 92(2) 97(1) 40 95(8) 100(1) 100(1) 100(1) 16 84(1) 75(1) 73(3) 73(3) 70(5) 32(48) số trong dấu ( )- thứ hạng về khả năng cạnh tranh trên 59 Quốc gia được kiểm sát. Qua đó ta thấy chất lượng lao động của Việt Nam quá kém dẫn đến mất khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Về trình độ quản lý king tế, sản xuất kinh doanh tuy đã được tăng lên một bước thaeo quy chế mới, song nói chung còn yếu kém tư duy và hành dộng chưa bắt kịp với tốc độ thay đổi của tình hình đâts nước nhiều mặt quản lý nhất là quản lý tài chính còn lỏng lẻo, sơ hở gây lãng phí và thất thoát, có những cơ hội có thể phát triển lại rụt rè, có những lúc mạnh dạn đầu tư lại không gặp vận may do đánh giá tình hình biến động trên thị trường không chính xác, đôi lúc chưa quán triệt sâu sắc mục tiêu hàng đầu của sản xuất kinh doanh là hiệu quả kinh doanh. 2.3. DN chưa xây dựng chiến lược kinh doanh(CLKD) Hiện nay, ở hầu hết các DN chưa xây dựng cho mình một CLKD, mà làm ăn theo từng “ thương vụ” kiểu làm ăn “chụp giựt”. Phải chăng tư tương “ mì ăn liền này” cần phải bổ sung tư tương CLKD tính đến con đường làm ăn lâu dài.Cái lối làm ăn dựa vào các “lợi thế” nhất thời, các thủ thuật “mánh vặt” khai thác kẽ hở của pháp luật, của cô quan Nhà nước ..cần phải được thay thế bằng cung cách kinh doanh chân chính, có “ bài bản”và hiện đại. Điều này một phần do việc nghiên cứu, hướng dẫn, triển khai thực hiện kế hoạch chiến lược trong hoạt động kinh doanh của các DN chưa có được sự hỗ trợ tích cực từ phía Nhà nước và các cơ quan nghiên cứu. Nền kinh tếViệt Nam chưa hội đủ các yếu tố, các điều kiện cần thiết để các DN có thể xây dựng và thực hiện quản lý theo chiến lược. Việc ban hành các chính sách quản lý vĩ mô chưa ổn định và chưa đáp ứng kịp thời sự chuyển biến của nền kinh tế -xã hội mà nhất là trong lĩnh vực kinh doanh XNK. Nhưng nhuyên nhân chủ quan là do sự nhận thức lý luận và thực tiễn về vai trò của công tác Kế hoạch hoá và quản lý chiến lược trong cơ chế thị trường của các DN chưa được nhất quán, nên việc xây dựng và thực hiện CLKD còn là một công việc khá mới mẻ đối vối các DN, điều này làm hạn chế việc sử dụng những phương pháp công cụ xây dựng CLKD mang tính khoa học và làm cho quá trình xây dựng CLKD của các DN chưa tuân theo một quy trình hợp lý 2.4 Quảng cáo chưa được chú trọng, nhiều DNNN còn có quan niệm sai lầm về quảng cáo. Hiện nay, đa số các DN Việt Nam chỉ dành một số vốn rất hạn hẹp cho quảng cáo (một phần do quy định của Nhà nước: chi phí cho quảng cáo không quá 7% tốngố chi phí –theo luật thuế thu nhập DN) vá DN chưa hiểu biết cách sử dụng ngân sách cho quảng cáo. Theo thống kê của IAA (Hiệp hội quảng cáo Quốc tế ) đưa ra trong hội thảo sáng ngày 24/11/99 tại TP Hồ Chí Minh thì doanh số quảng cáo ở Việt Nam năm 1998là 110 tr USD. Bình quân 1,4USD / người trong khi ở Đài Loan là 10,6 USD/ người, ở Châu mĩ là 6-7 USD/ người. Hiện nay, trên các mặt báo chúng ta dễ dàng thấy tràn ngạp kiểu quảng cáo giới thiệu tên trụ sở công ty, lĩnh vực hoạt động và ảnh giám giám đốc.. một kiểu quảng cáo đơn điệu kém hiệu quảvà người đọc thường quyên ngay sau khi rời mắt khỏi trang quảng cáo bởi vì mục tiêu của quảng cáo là để khách hàng biết đến các thông tin về sản phẩm, dịch vụ là chính:chất lượng bao bì, thông số kỹ thuật, công dụng sản phẩm..từ đó có quyết định mua hàng ?Vậy thì sản phẩm ở đây là gì ? là ông giám đốc hay là những ngô nhà cao tầng không có một điểm gì nổi bật, ấn tượng. Còn quảng cáo trên ti vi của các công ty Việt Nam thì sao? Sau một cơn sốt “Phim thương mại” mà đi cùng với nó là điểm quảng cáo của các “ngôi sao” và “người đẹp” không biết họ định giới thiệu sản phẩm là các “ngôi sao” “người đẹp” hay là sản phẩm vì người xem đã bị cuốn vào “ngôi sao”và “người đẹp mất rồi”. Hiện nay công ty Việt Nam đã nhận thức được kiểu quảng cáo không hiệu quả đó thì vẫn rơi vào tình trạng quảng cáo dài,không ấn tượng, không có tính sáng tạo,thông điệp quảng cáo thì ghi hết huy chương này đến huy chương khácmà không đề cập đến “cái cần bán”và quảng cáo được xem như là một phương tiện để khoe trương. Các DN không thể đổ lỗi cho khách hàng là không hiểu được thông điệp quảng cáo bởi một chương trình quảng cáo hấp dẫn gợi được trí tò mò,khám phá của khách hàng của DNVN quá hiếm hoi. 2.5. Thiếu thông tin thị trường đặc biệt là thị trường XK và DNVN chưa có kinh nghiệm kinh doanh trên trường Quốc tế. Trước đây khi nghị định 33/CP của Chính Phủ ngày 19/4/1994 về quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu (XNK) còn hiệu lực, đa số các DN thường phàn nàn rằng có quá nhiều thủ tục hành chính, những điều kiện gây khó khăn, hạn chế khả năng kinh doanh XNK của DN. Nhưng đến khi Nghị định 57/NĐ-CP của Chính Phủ ra đời ngày 31/7/1998 quy định chi tiết thi hành luật thương mại về hoạt động XNK đã tháo gỡ rất nhiều khó khăn taọ điều kiện thông thoáng về thủ tục pháp lý cho các DN chủ động trong kinh doanh XNK nhưng đến cuôí năm 1998 theo ông Đỗ Xuân Thuỷ - Giám đốc công ty XNK SIMEX- cho biết: có nhiều mặt hàng xuất khẩu vẫn không tăng, nhiều DN có hàng trong tay nhưng không biết XK sang thị trường nào. các DN hoàn toàn thiếu thông tin về thị trường, đối thủ cạnh tranh, tập quán, sở thích, thị hiếu, thông lệ buôn bán ở nước sở tại. Chính vì sự eo hẹp về tài chính mà không thể lúc nào DN cũng cử cán bộ đi khảo sát và đặt văn phòng đại diện ở thi trường nước ngoài, thậm chí việc tham gia các cuộc triển lãm, hội chợ tổ chức tại nước ngoài giới thiệu sản phẩm là điều xa xỉ với nhiều DN còn khả năng DN tự nối mạng Internet nhằm khai thác thông tin cũng như quảng cáo sản phẩm lại càng xa vời. Hiện nay, ở nước ta có hãng kinh doanh thông tin REUTER LTD VIET NAM, nếu DN truy nhập 5 giờ /tháng với giá 250 USD, truy nhập 10 giờ /tháng giá là 400 USD, còn 20 giờ /tháng là 600 USD phương tiện truy nhập đơn giản chỉ cần một chiếc máy tính, một môden và một đường dây địên thoại. Mỗi lần truy nhập DN có thể thu thập rất nhiều thông tin cập nhật hoặc bất kỳ một sự quan tâm về thị trường giá cả, mặt hàng nào đó. Tuy nhiên hiện nay khách hàng của công ty chủ yếu là các công ty liên doanh và các công ty 100% vốn nước ngoài còn các DN Việt Nam thì rất hiếm. Chính vì sự thiếu thông tin thị trường này mà ngành dệt may và giầy da tuy KNXK đạt trên 1tỷ USD nhưng chủ yếu là làm gia công theo đơn đặt hàng của nước ngoài nên giá trị thực thu ngoại tệ mới chiếm 20% KNXK. 2.6 Thiếu vốn. Vốn luôn là vấn đề nóng bỏng của các DNVN tình trạng thiếu vốn là vấn đề nan giải của hầu hết các công ty Việt Nam vì thiếu vốn mà VINACAFE không thể duy trì tồn kho, chờ giá cao để xuất khẩu. Theo VINACAFE, để VINACAFE xuất khẩu đươc 70.000 tấn cà phê, cần tới trên 1000 tỷ đồng vốn. Trong khi đó vốn của VINACAFE chỉ có hơn 10 tỷ đồng còn lại phải vay ngân hàng 150 tỷ đồng, quay vòng 9 tháng,lãi xuất phải trả hơn 1,1 tỷ/tháng. Thiếu vốn, lãi xuất trả ngân hàng lớn đã buộc VINACAFE không thể tăng mua cà phê vào mùa thu hoạch rộ, không thể gom hàng chờ giá cao mới xuất khẩu. Ngược lại phải nhanh chóng bán hàng ra, quay vòng vốn nhanh, nên thua thiệt trong xuất khẩu là điều khó tránh khỏi đây cũng là nguyên nhân chủ yếu làm gía cà phê trong nước xuống thấp trong mùa thu hoạch gây thua thiệt cho người trồng. Theo một quan chức của hiệp hội cà phê-ca cao Việt Nam (VICOFA) đã tính Việt Nam có thể thu hoạch thêm 40 tr USD trong xuất khẩu hơn 404.000 tấn cà phê 98/99. Nếu bán được giá như Inđônêxia (90 USD/tấn) cũng do thiếu vốn mà cho đến nay Việt Nam chưa thể tham gia hiệp hội các nước sản xuất cà phê (ACPC). Vì Việt Nam khó có thể thực hiện được nguyên tắc cơ bản của (ACPC) là:khi giá cà phê thế giới xuống thấp ACPC sẽ hạn chế xuất khẩu, tăng dự trữ chờ tăng giá đảm bảo quyền lợi chung cho cả người sản xuất và xuất khẩu. IV. Thực trạng công nghiệp nông thôn Việt Nam. 1. Thực trạng kinh tế nông thôn. - Nông nghiệp Việt Nam tăng trưởng bình quân hàng năm 4,7%, đây là tốc độ cao và tương đối liên tục nhưng do khởi điểm thấp nên giá trị tuyệt đối tăng chưa cao. - Năng suất đất đai, năng suất lao động còn thấp do dân số vẫn giữ tỷ lệ cao trong nông thôn. - Sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp trong nền kinh tế còn chậm: trồng trọt chiếm 75 giá trị nông nghiệp, lương thực chiếm 75% giá trị trồng trọt, chăn nuôn chưa là ngành sản xuất chính, nghề rừng và nuôi trồng thuỷ sản tỷ trọng nhỏ bé. - Phát triển ngành nghề công nghiệp và dịch vụ nông thôn gặp nhiều khó khăn: nghề cổ truyền trong kinh tế nông thôn với số lượng nhỏ bé, hàng hoá nông thôn còn thấp chưa có các nhân tố kích thích. - Kinh tế nông thôn phát triển dựa nhiều vàotài nguyên và sức lao động chưa có sự chiếm lĩnh của khoa học công nghệ. - Lực lượng lao động nông thôn dồi dào, sẵn sàng cung cấp cho công nghiệp nông thôn. 2. Thực trạng công nghiệp nông thôn Việt Nam - đánh giá tổng quát - Công nghiệp nông thôn đã có sự chuyển biến tích cực thực sự, sự quản lý xơ cứng gò bó trước đây đã được xoá bỏ về cơ bản những chủ trương, chính sách hoá đời sống kinh tế đã dần dần thấm vào mỗi người dân, cơ cấu vốn đầu tư ở nông thôn đã chuyển theo hướng giành cho sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp nhiều hơn. - Cơ cấu công nghiệp nông thôn đã thay đổi theo hướng thích ứng với cơ chế kinh tế mới trong những điều kiện mới. Sự thay đổi rõ nhất là trong cơ cấu thành phần kinh tế. Kinh tế hộ và các doanh nghiệp tư nhân, trách nhiệm hữu hạn tăng lên một cách nhanh chóng trong khi các hợp tác xã và kinh tế Nhà nước, giảm đi rõ rệt. Ngành nghề, sản phẩm công nghiệp nông thôn phát triển nhanh chủ yếu phục vụ trực tiếp đời sống tại chỗ, khai thác nguồn lực tại chỗ (kể cả truyền thống sản xuất, tay nghề và kỹ năng kinh doanh của người lao động) hoặc có quan hệ liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn, có thị trường tương đối ổn định, như chế biến lương thực thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng thông thường, chế biến gỗ và lâm sản, dệt may... - Nhiều ngành nghề, sản phẩm truyền thống từng bị mai một đã dần dần được khôi phục lại do yêu cầu khách quan của nền kinh tế, của thị trường trong nước và quốc tế. * Tuy nhiên, hiện nay công nghiệp nông thôn đang đứng trước những khó khăn: - Kinh tế nông thôn thu nhập thấp, kém phát triển, cây lúa chiếm tỷ lệ tuyệt đối, sức mua còn yếu. - Công nghiệp nông thôn rất nhỏ bé, chiếm 2% lao động ở nông thôn, giá trị xấp xỉ 7% giá trị sản lượng nông nghiệp và thủ công nghiệp. - Trình độ kỹ thuật của công nghiệp nông thôn còn thấp cả về sản phẩm, thiết bị lẫn công nghệ. - Công nghiệp nông thôn phát triển không đồng đều. - Thị trường nông thôn chậm phát triển với cơ cấu manh mun, phân tán, tỷ lệ sản phẩm hàng hoá thấp. - Kinh nghiệm người nông dân trong lĩnh vực phi nông nghiệp còn hạn chế, chưa dám chấp nhận rủi ro và mạnh dạn kinh doanh, đầu tư. - Điều kiện cơ sở vật chất xã hội cho kinh doanh chưa được chú trọng. - Cơ chế quản lý tập trung bao cấp vẫn tồn tại ở nông thôn. - Trình độ sản xuất không đồng đều, có sự khác nhau giữa các vùng, các ngành. 3. Khía cạnh công nghệ - công nghiệp trong công nghiệp nông thôn Việt Nam. * Công nghiệp nông thôn Việt Nam còn quá nhỏ bé, trang thiết bị đơn giản, công nghệ lạc hậu, lãng phí nguyên liệu, chất lượng sản phẩm kém, giá thành cao công nghệ của công nghiệp nông thôn được thể hiện ở ba mặt chính. - Trình độ kỹ thuật và công nghệ của công nghiệp nông thôn đang ở mức thấp: các thiết bị chuyển giao bị thải loại của công nghiệp quốc doanh, công nghiệp đô thị. - Yếu tố an toàn lao động, bảo vệ môi trường thường ít chú ý trong công nghệ và thiết bị chuyển giao cho khu vực nông thôn: chất thải công nghiệp, ô nhiễm ồn, nóng, bụi. - Hiệu quả và trình độ sử dụng thiết bị của công nghiệp nông thôn còn thấp. * Bên cạnh đó, việc đổi mới và chuyển giao công nghệ và thiết bị trong công nghiệp nông thôn gặp phải một số hạn chế: - Đội ngũ thanh niên nông thôn kém về tay nghề, thiếu năng lực quản lý, vận hành doanh nghiệp theo tình hình mới. - Yếu kém công nghệ ở nông thôn vừa là nguyên nhân, vừa là hậu quả của tình trạng nghèo nàn ở nông thôn. - Thiếu vốn dẫn đến khó đầu tư, cải tiến công nghệ, tăng năng suất lao động. - Cơ sở hạ tầng ở nông thôn kém phát triển, đồng bộ, không thích hợp với trang bị các công nghệ hiện đại, đắt tiền. 4. Doanh nghiệp - dịch vụ trong công nghiệp nông thôn Việt Nam * Doanh nghiệp trong công nghiệp nông thôn. - Quy mô sản xuất. - Trình độ cơ khí hoá. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh. * Dịch vụ trong công nghiệp nông thôn được hình thành bởi các loại sau: - Dịch vụ về vốn ở nông thôn. - Dịch vụ cơ khí. - Dịch vụ thương nghiệp. Trong ba loại dịch vụ trên thì dịch vụ về vốn đối với công nghiệp nông thôn là quan trọng nhất nhưng lại gặp không ít khó khăn: thiếu vốn, mạng lưới tín dụng nông thôn chưa phát triển, tín dụng ngoài quốc doanh nông thôn chưa nhiều, cơ sở vật chất hệ thống tín dụng nông thôn thô sơ, nghèo nàn, trình độ cán bộ thấp... 5. Kết cấu hạ tầng trong công nghiệp hoá nông thôn Việt Nam. * Xây dựng và phát triển mạng lưới giao thông nông thôn. - Kết quả của xây dựng và phát triển mạng lưới giao thông nông thôn. - Mật độ đường thấp kém chất lượng. - Công nghệ làm mặt đường thô sơ đơn giản, chủ yếu là dân tự làm. * Xây dựng mạng lưới điện: - Kết quả của xây dựng mạng lưới điện. - Sự phát triển chưa đồng bộ của các ngành hạ tầng cơ sở nông thôn. * Phát triển mạng lưới giáo dục y tế nông thôn. Chương III Giải pháp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm cho CNNT I. Định hướng chung 1. Thị trường nội địa: Tập chung tổ chức tốt thị trường và các kênh lưu thông hợp lý, hướng mọi hoạt động thương mại theo Luật Thương Mại phối hợp giữa quản lý ngành và lãnh thổ thông qua hệ thống chính sách đồng bộ của nhà nước để khuyến khích sản xuất và tiêu thụ hàng cho dân. Có chính sách, cơ chế mạnh dạn để bảo hộ có điều kiện cho sản xuất trong nước. Đối với sản xuất công nghiệp được bảo hộ một phần đầu vào trên cơ sở chất lượng và giá cả Quốc tế, bảo hộ giá TTSP hàng hoá cho nông dân và kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, ngăn chặn triệt để nhập lậu. Tổ chức tốt thu mua sản phẩm hàng hoá của các ngành công, nông, lâm, ngư nghiệp đặc biệt là hàng nông sản, đáp ứng nhu cầu nội tiêu và XK, trực tiếp góp phần kích cầu thông qua tăng quỹ mua và mua cho dân cư. Kích thích nông nghiệp và thị trường nông thôn phát triển kể cả nghề phụ. Đề nghị nhà nước có chính sách bán hàng trả góp trả chậm chủ yếu và trước hết đối với các máy móc thiết bị, vật tư hàng hoá sản xuất trong nước và phục vụ sản xuất nông nghiệp. Kết hợp chặt chẽ với các ngành thu nợ để nông dân bán được nông sản vào thời điểm và giá cả thích hợp, không để tư thương ép giá. Khuyến khích các cơ sở chế biến công ty kinh doanh cùng với người sản xuất lập quỹ bảo hiểm thiên tai đối với những cây chủ lực. Kết hợp chặt chẽ với các ngành công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải...trên nguyên tắc gắn kế hoạch với thị trường chủ động điều hành các kế hoạch sản xuất Lưu thông đảm bảo hoạt động có hiệu quả ngay từ đầu năm kế hoạch.Cải tiến nội dung và tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về hoạt động thương mại. Tăng cường chỉ đạo tổ chức tốt hoạt động thương mại trên thị trường nông thôn, miền núi, hải đảo, nhất là trong các khâu thu mua sản phẩm và cung ứng vật tư tại chỗ cho nông dân nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất và kinh tế hàng hoá nông thôn miền núi phát triển nhanh. Tiếp tục sắp xếp lại DNNN và thực hiện cổ phần hoá trong toàn ngành và trực thuộc bộ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN. Hướng mạnh vào việc đẩy mạnh đầu tư phát triển sản xuất hang hoá,nhất là trong lĩnh vực chế biến, nâng cao chất lượng sản phẩm với cơ cấu chủng loại phong phú, đáp ứng yêu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu. Lấy biện pháp kinh tế là chủ yếu có kết hợp với biện pháp hành chính để thực hiện tốt công tác chống buôn lậu, sản xuất và kinh doanh hàng giả và những hành vi vi phạm Luật Thương Mại. Tiếp tục nghiên cứu, áp dụng việc dán tem hàng nhập khẩu để tạo thêm điều kiện thúc đẩy sản xuất kinh doanh trong nước phát triển thuận lợi Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về thương mại thông qua việc tiếp tục hoàn thiện các văn bản về cơ chế quản lý, chính sách biện pháp điều hành hoạt động thương mại, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hướng dẫn các cơ sở sản xuất kinh doanh làm ăn theo đúng pháp luật, nâng cao vai trò quản lý Nhà nước của các cơ sở thương mại 2. Đối với kinh doanh xuất nhập khẩu. Tạo diều kiện kinh doanh xuất nhập khẩu, căn cứ nghị định 57/1998 NĐ- CP của Chính Phủ và thông tư 18/1998 TT-BTM ngày 2/8/1998 của bộ thương mại thì mọi thương nhân đều được trực tiếp kinh doanh XNK. Có thể xem xét lại quyền kinh doanh xuất khẩu của khối DN có vốn đầu tư nước ngoài quy định tại quýêt định số 0321/1998/QD-BTM của Bộ thương mại để mở rộng thêm phạm vi kinh doanh cho họ, đặc biệt là cao su, sản phẩm gỗ, kể cả cà phê và thuỷ hải sản. Về tài chính tín dụng: theo dõi sát việc thi hành thuế thu nhập DN để bảo đảm những biện pháp khuyến khích về thuế lợi tức như miễn thu thuế bổ sung sẽ được tiếp tục duy trì khi áp dụng thuế thu nhập DN. Theo dõi sát việc thi hành thuế VAT để kịp thời đề xuất biện pháp giải quyết những vướng mắc phát sinh. Giải quyết vướng mắc trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng Việt Nam của các DN có vốn đầu tư nước ngoài, nhất là những DN có tham gia xuất khẩu. Cụ thể hoá những biện pháp về chế độ thuế và tín dụng cho từng mặt hàng cụ thể. Về hỗ trợ tài chính đối với một số mặt hàng xuất khẩu khó khăn bộ đã đề nghị Chính Phủ chỉ đạo ngành tài chính và ngân hàng cho hưởng chế độ vay với lãi xuất tiền lãi. Để mở rộng thị trường hàng của Việt Nam đã xuất sang rất nhiều thị trường trên thế giới: ASEAN, EU, Mỹ, SNG, Đông âu, và một số nước Châu Phi. Hiện nay Việt Nam đang cố gắng đàm phán với Mỹ để ký hiệp định thương mại song phương Việt- Mỹ và Mỹ dành cho Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc. Khi đó hàng Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ chỉ phải chịu thuế suất như hàng của các nước khác xuất khẩu vào Mỹ. Thị trường Mỹ tương lai sẽ là thị trường đầy hứa hẹn của các DN Việt Nam. II. Giải pháp về phía nhà nước. 1. Biện pháp kích cầu của nhà nước Năm 1999 tình hình hàng hoá ứ đọng, chậm tiêu thụ, hơn nữa DNVN lại chịu ảnh hưởng của cuộc khủng khoảng kinh tế khu vực thị trường xuất khẩu của Việt Nam ở khu vực Đông Nam á giảm do sự giảm giá của một số đồng tiền của các nước Đông Nam á nên hàng hoá của các nước đó rất rẻ, tràn sang thị trường Việt Nam thông qua con đường nhập lậu làm hàng hoá trong nước ứ đọng, còn xuất khẩu thì hàng Việt Nam thiếu tính cạnh tranh. Trong thời gian qua Việt Nam đã thực hiện các biện pháp kích cầu (xây dựng các công trình nhà ở, khu giải trí..) để tăng tiêu thụ ở thị trường trong nước. Trong năm qua Ngân Hàng cũng xem xét điều chỉnh tỷ giá hối đoái 3 lần, lần cuối cùng đã hạ lãi suất từ 1,15% xuống còn 1,05% để kích thích mạnh việc vay vốn đầu tư sản xuất nhất là khu vực nông thôn. nhưng xem ra mãi đến cuối năm 1999 chỉ số giá tiêu dùng tháng 11 mới nhích lên sau thời kỳ giảm phát liên tục, như vậy chính sách kích cầu của nhà nước đã bắt đầu phát huy tác dụng. Tuy nhiên chủ trương kích cầu của Chính Phủ chỉ là biện pháp tình thế. Trong tình hình hiện tại: cần kích cầu để làm suy giảm triệu chứng trì trệ của nền kinh tế nhưng phải có giải pháp đồng bộ để đảm bảo duy trì một áp lực đủ lớn buộc sản xuất kinh doanh nâng cao chất lượng hoạt động của mình, đặc biệt là khu vực DNNN, vì chỉ kích cầu hiện tại, chỉ giải toả hàng hoá ứ đọng, tăng quy mô sản xuất chứ không mang lại kết quả tích cực đối với việc thúc đẩy nền kinh tế thay đổi về chất. Về cơ bản và lâu dài cần phải cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng hiệu quả tránh tình trạng đầu tư tràn lan, kém hiệu quả như hiện nay. 2. Xúc tiến thương mại Môi trường thương mại quốc tế ngày nay đã có những thay đổi căn bản so với thời gian trước. Quy mô và mức độ toàn cầu hoá ngày càng mạnh mẽ và sâu sắc. những điều kiện mới nổi nên ảnh hưởng lớn đến hoạt động xúc tiến thương mại nói chung và xúc tiến xuất khẩu nói riêng. Để các DNVN có thể khai thác tốt các cơ hội thị trường mới, nâng cao thị phần xuất khẩu ra thị trường thế giới, cần thiết phải có một chiến lược xúc tiến xuất khẩu. Hiện nay ở hầu hết các nước đang phát triển, Việt Nam không phải là ngoại lệ, các DN vừa và nhỏ (DNVVN) là lực lượng chủ yếu tham gia xuất khẩu: chiếm 40% thu nhập xuất khẩu và thị phần này có xu hướng ra tăng mạnh mẽ dưới tác động thuận chiều của hiệp định của WTO đã tạo ra khuôn khổ pháp lý mới tự do hơn cho thương mại thế giới, sự phát triển của công nghệ thông tin viễn thông, toàn cầu hoá về thương mại đầu tư và sản xuất tạo ra những thay đổi lớn về lợi thế so sánh giữa DN lớn và DNVVN các DNVVN phần lớn đều ở trong tình trạng lạc hậu về công nghệ, yếu kém về trình độ quản lý trong khi cơ sở hạ tầng của các nước đang phát triển lại rất thiếu và đắt đỏ. Các ĐN lớn với danh tiếng của mình cùng với kinh nghiệm và hiệu quả hoạt động trên thương trường quốc tế thường dễ ràng có nguồn tài trợ cần thiết. Các DN lớn thường tự chịu trách nhiệm về vấn đề xúc tiến thương mại, hầu hết các DN này đều thiết lập các kênh marketing, hệ thống thông tin thương mại và các văn phòng đại diện của riêng họ. Trong khi các DNVVN khó có khả năng tự tìm nguồn tài trợ cần thiết, nếu không có một tổ chức cung cấp dịch vụ hỗ trợ vì đối với các thể chế tài chính, những khoản tài trợ cho các DNVVN có mức độ rủi do rất cao khó mà lường trước được. Các DNVVN thường thiếu kiến thức về Marketing hoặc khônh thể xâm nhập được vào các thị trường đã được an bài. Tất cả các yếu tố này đều ảnh hưởng tiêu cực tới khả năng cạch tranh về giá của hàng xuất khẩu của các DNVVN. Một chiến lược xúc tiến xuất khẩu (ở đây hiểu xúc tiến theo nghĩa rông: là toàn bộ các hoạt động của các thể chế hỗ trợ, đặc biệt là của tổ chức xúc tiến xuất khẩu quốc gia nhằm đẩy mạnh xuất khẩu) cần thiết phải xác định được phương thức tối ưu để giúp đỡ các DN đặc biệt là DNVVN khai thác tốt nhất mọi cơ hội và vượt qua những thách thức. Thực tiễn Việt Nam trong những năm qua chi thấy xuất khẩu là động lực để phát triển kinh tế. Nhà nước đã tập trung nhiều nỗ lực để đẩy mạnh xuất khẩu. Những hoạt động xúc tiến xuất khẩu dồn dập của Chính Phủ đặc biệt là Bộ Thương Mại phải kể tới các cố gắng trong đàm phán với liên minh Châu Âu về việc chuyển Việt Nam sang nhóm nước thứ nhất được quyền xuất khẩu thuỷ sản vào EU..đặc biệt là đàm phán ký tắt và tiến tới ký kết chính thức hiệp định thương mại Mỹ- Việt. Thực tiễn trên chứng minh rằng hoạt động xúc tiến xuất khẩu hỗ trợ đẩy mạnh xuất khẩu của Chính Phủ Việt Nam đối với các doanh nghiệp rất quan trọng và hoạt động này cần đựoc tăng cường hơn nữa trong thời gian tới để đẩy mạnh sản xuất của nước nhà. Chính Phủ nên xem xét thành lập (quỹ bảo hiểm xuất khẩu hay các ngân hàng xuất nhập khẩu...) để cải thiện điều kiện tiếp cận nguồn tài trợ xuất khẩu, đặc biệt vấn đề củng cố hệ thống Marketing thông qua thành lập hay kiện toàn các thể chế xúc tiến cung cấp thông tin thương mại và thị trường cho các DNVVN khảo sát thị trường nước ngoài hay tham gia hội chợ triển lãm ở nước ngoài. Khuyến khích các DN lớn ký hợp đồng phụ và bao tiêu sản phẩm cho các DNVVN, thành lập hay có biện pháp khuyến khích các công ty thương mại đảm nhận việc đóng gói bao bì, giao nhận, vận chuyển, cung cấp dịch vụ tài chính, bảo hiểm, quản lý chất lượng, quảng cáo... sẽ là các hoạt động yểm trợ có tác động rất lớn để các DN có thể tham gia XK đặc biệt là các DNVN. 3. Chính sách bảo hộ hợp lý để thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, khuyến khích người tiêu dùng dùng hàng nội địa. Toàn cầu hoá, khu vực hoá và tự do hoá kinh tế Thương mại tuy mâu thuẫn với bảo hộ sản xuất trong nước nhưng đây chính là tồn tại thực tế mà hầu hết các nước đã, đang và sẽ tiếp tục thực hiện. ở Việt Nam, trước những đòi hỏi bức bách của tiến trình hội nhập nhưng ý thức vươn lên trong cạnh tranh còn yếu, khuynh hướng phổ biến của các ngành, các cấp và các DN còn nặng về ỷ lại hàng rào bảo hộ để tránh sức ép cạnh tranh. Hàng rào bảo hộ cao không những làm mất đi động cơ nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam mà còn làm cho tiêu dùng bị thiệt hại do phải mua với giá cao trong khi thu nhập của dân cư ở nước ta còn thấp Theo ông Trần Đình Thọ- PGĐ Sở Thương Mại Thành phố Hồ Chí Minh: "Bảo hộ phải tuỳ theo từng ngành nghề cụ thể, tuỳ theo mặt hàng chứ không phải mạnh ai tự đề xuất tràn lan, không có tính quốc gia. Khi bảo hộ, các công ty sản xuất theo chủ trương Nhà nước thì mới bảo hộ. Ngược lại việc bảo hộ sẽ làm lá chắn khiến cho những ngành nghề được bảo hộ liên kết thành một khu vực lợi ích cản trở chính sách hội nhập của Nhà Nước, Chẳng hạn như bảo hộ ngành đường trong nước, bảo hộ nông dân trồng mía, các nhà máy đường có thể sống được nhưng còn 80 triệu người tiêu dùng thì sao? Vì vậy Đảng và Chính phủ cần phải có chủ trương điều chỉnh chính sách bảo hộ sản xuất trong nước theo hướng có lựa chọn, có thời hạn và có điều kiện. Về bảo hộ có sự lựa chọn:Bảo hộ sản xuất trong nước bao gồm xây dựng và củng cố các hàng rào thuế và phi thúê để ngăn cản sự tấn công của hàng hoá ngoại nhập và các biện pháp hỗ trợ, điều chỉnh và nâng đỡ sản xuất trong nước. ở Việt Nam, chỉ nên bảo hộ sản xuất trong nước đối với các ngành và lĩnh vực sau: +Các ngành công nghiệp non trẻ mũi nhọn thuộc hướng ưu tiên trong chiến lược phát triển của đất nước như: công nghiệp điện tử- tin học, công nghệ sinh học và công nghệ sản xuất vật liệu mới...vì vào thời kỳ đầu, sản xuất đang ở mức chi phí cao hơn so với giá cả các sản phẩm cùng loại nhập khẩu. +Các ngành nghề truyền thống ở các làng nghề như đồ gốm, thảm, đồ gỗ chạm khảm, sơn màu...để bảo vệ giá trị văn hoá Quốc gia, bảo vệ truyền thống dân tộc. +Các ngành nghề sử dụng lực lượng lao động lớn và mật độ tập trung quá cao như: dệt may, mía đường, chế biến thực phẩm... để tránh hậu quả nghiêm trọng do tỷ lệ thất nghiệp cao. +Các mặt hàng thuộc nhu cầu quốc tế dân sinh như an toàn về lương thực, về nguyên liệu cho các ngành sản xuất quan trọng, về an ninh quốc gia. +Các mặt hàng có sự chênh lệch lớn giữa sản xuất và tiêu dùng mà nhà sản xuất và kinh doanh không đủ khả năng dự trữ hoặc dự trữ phải chi phí quá cao sẽ gây ra các đột biến lớn về giá cả trên thị trường. Về mức độ và thời hạn áp dụng chính sách bảo hộ: Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN, tham gia AFTA, APEC và đang chuẩn bị để gia nhập vào VVTO, do vậy trước hết chúng ta phải thực hiện các cam kết trong các quy định của chương trình CEPT về cắt giảm thuế, hạn chế định lượng và các hàng rào phi thuế quan. Đồng thời, phải thiết lập công khai hoá và từng bước thực hiện lộ trình cắt giỏam thuế và phi thuế của VVTO. Để khuyến khích đẩy mạnh chương trình "Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam" Nhà nước nên có chương trình thưởng cho người tiêu dùng trong trường hợp người tiêu dùng phát hiện hàng giả, hàng lậu để đảm bảo uy tín, chất lượng cho hàng hoá của doanh nghiệp trong nước. Đồng thời các cơ quan quản lý phải phối hợp đồng bộ để hướng dẫn thực hiện nghiêm chỉnh " Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng ". Có như vậy người tiêu dùng mới tin tưởng vào chất lượng, uy tín của hàng nội địa". 4. Biện pháp tài chính, giá cả Trong khi hàng hoá còn ứ đọng quá nhiều thì việc kích thích tiêu thụ quả là khó khăn. Doanh nghiệp cần phải hạ giá bán hàng hoá đang ứ đọng (hạ đến mức có thể bán được) để kích thích tiêu dùng, nhất là kích cầu đầu tư cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Nhà nước phải có biện pháp xử lý tài chính về thua lỗ do hạ giá bán gây ra đối với doanh nghiệp nhà nước và có những biện pháp phòng, ngăn chặn sự lợi dụng việc cho phép hạ giá để cho phép chuyển lỗ sang Nhà nước (Ngân sách) một mặt làm thiệt hại ngân sách, mặt khác làm mất đi áp lực buộc các DN phải tự xem xét lại chính mình. Tỷ giá hối đoái: cần phải điều chỉnh ở mức độ cần thiết để tăng cầu với nước ngoài nhưng có bước đi thận trọng nhằm bảo đảm an toàn cho hệ thống ngân hàng và các thể chế tài chính khác, đồng thời kiểm soát được sự ổn định của kinh tế vĩ mô phù hợp với sự biến động của giá cả trong nước và thế giới. Hiện nay, giá cả đang có xu hướng giảm, đây là thời cơ thuận lợi cho việc giữ ổn định giá cả khi điều chỉnh tỷ giá góp phần kích cầu, điều này cũng phù hợp với tinh thần NĐ.08 của Chính phủ "Theo dõi chặt chẽ diễn biến thị trường trong và ngoài nước để điều chỉnh tỷ giá linh hoạt, bảo đảm khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, tăng giao dịch kiều hối qua ngân hàng, tăng dự trữ ngoại tệ". Hạ lãi xuất đối với vay đầu tư ở nông thôn và vay đầu tư chiều sâu, đồng thời kiểm soát ngặt nghèo vay đầu tư mới. Vừa qua ngân hàng đã hạ lãi xuất từ 1,15% xuống 1,05% nhưng xem ra vẫn chưa "đủ độ" so với chỉ số lạm phát và so với tỷ xuất lợi nhuận mang lại của nền kinh tế và vì vậy chưa có khả năng kích thích mạnh việc vay vốn để đầu tư nhất là khu vực nông thôn. Để động viên kịp thời tinh thần, vật chất cho những đóng góp về trí tuệ sáng tạo, về hiệu quả của doanh nghiệp vào sự nghiệp đẩy mạnh XK, Bộ Thương Mại đã dùng đòn bẩy kinh tế "Thưởng xuất khẩu ". Nếu đợt I mới có 10 DN được thưởng theo 2 tiêu chuẩn và 90% nằm ở tiêu chuẩn 5.1(Xuất khẩu mặt hàng mới, mở thị trường xuất khẩu mới ) thì thưởng đợt II có 62 DN đặc biệt đã "phủ sóng" toàn bộ 5 tiêu chuẩn khen thưởng đó là một tín hiệu đáng mừng cho thấy "Thưởng xuất khẩu " tuy là một công cụ mới mẻ nhưng cũng đã phát huy tác dụng và có hiệu quả cao. Njững phần thưởng khuyến khích xuất khẩu đã hướng DN sáng tạo mặt hành mới, mở thêm thị trường xuất khẩu, ssản xuất mặt hàng xuất khẩu có chất lượng cao, ưu tiên hàng hoá gia công chế, biến chủ yếu bằng nguyên liệu trong nước, có kim ngạch xuất khẩu cao và những mặt hàng ngoài hạn ngạch hoặc ngoài chỉ tiêu được phân giao. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhận thức được rằng thưởng xuất khẩu là một hình thức trong cả một hệ thống cơ chế, chính sách nhằm thực hiện chiến lược hướng mạnh nền kinh tế vào XK được thể hiện qua các văn bản như luật khuyến khích đầu tư trong nước, luật đầu tư nước ngoài tại VN, luật thuế XNK, thuế VAT, thúe thu nhập, NĐ 57/CP...Trong thời gian tới, Bộ Thương mại tiếp tục đưa ra những giải pháp nhằm giải phóng năng lực của các DNXK. Chính Phủ cũng cần phải xem xét thành lập ngân hàng XNK để hỗ trợ, bảo lãnh tín dụng góp phần thúc đẩy hoạt động XK cho các DN. 5. Xây dựng hệ thống cơ sở chế biến nhỏ ở nông thôn Cho đến những năm cuối cùng của thế kỷ XX, nền nông nghiệp (NN) ở nước ta còn đang bị phân tán, manh mún, bị chia cắt, xé nhỏ, chưa hình thành đồng bộ các vùng chuyên canh tập trung với khối lượng hàng hoá, nguyên liệu lớn, nước ta hiện nay chưa tạo đủ các cơ sở công nghiệp để chế biến các sản phẩm có giá trị cao phục vụ thị trường trong và ngoài nước. Nên mặc dù sản phẩm nông sản hàng năm kim ngạch XK tăng 16-17% đạt 2,8-3,1 tỷ USD chiếm 30-32% giá trị xuất khẩu cả nước, nhưng nông sản phẩm đã qua chế biến, nhất là chế biến tinh, chiếm tỷ trọng nhỏ có loại chỉ chiếm 20-25%, còn lại hầu hết là xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu thô hoặc sơ chế. Vì thế các cơ sở chế biến nhỏ sẽ tận dụng được tối đa nguyên liệu tại chỗ, không phải vận chuyển đi xa trong điều kiện cở hạ tầng nônh thôn yếu kém, có thể làm tăng tỷ lệ hư hỏng, thất thoát, làm tăng giá thành sản phẩm, giảm lợi thế cạnh tranh trên các loại thị trường, làm tăng kim ngạch xuất khẩu. Về quy mô: Tuỳ theo năng lực sản xuất thực tế khối lượng nông sản hàng hoá vốn có, tuy nhiên không manh mún, tản mát dễ dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh và "chết yểu" mà có các hình thức khác nhau. Về công nghệ: các cơ sở chế biến nhỏ phải dùng loại công nghệ thích hợp, nhỏ không đồng nghĩa với thô sơ, thủ công và chắp vá, tuỳ năng lực tài chính, có thể sử dụng công nghệ từ thô sơ đến hiện đại. Cùng với các cơ sở chế biến nhỏ này, phải xây dựng cho bằng được các trungg tâm chế biến nông sản hàng hoá hiện đại, sử dụng nguyên liệu đã qua sơ chế từ cơ sở sản xuất nhỏ, để cho ra đời sản phẩm tinh, có khả năng cạnh tranh, đáp ứng tiêu chuẩn và đúng thị hiếu của người tiêu dùng. III. Biện pháp từ phía DN. Hiện nay các DNVN đang phải đối diện với môi trường kinh doanh biến động không ngừng, diễn biến phức tạp và có nhiều rủi do. Việt Nam đã gia nhập AFTA và sẽ phải thực hiện lộ trình giảm thuế CEPT (đối với việt nam: đến năm 2006 thuế nhập các loại hàng hoá vào việt nam chỉ còn 0%- 5%) nên áp lực cạnh tranh ngày càng ra tăng và con đường đi lên phía trước của các DN có nhiều chướng ngại và nhạy bén là xuống vực phá sản. Ngoài ra đối với một đất nước đang phất triển như Việt Nam, nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu cơ sở vật chất yếu kém, trình độ khoa học công nghệ và trình độ lao động, trình độ quản lý còn chịu ảnh hưởng của nếp sống “cũ” của thời kinh tế kế hoạch hoá tập trung thì việc mắc sai lầm trong chỉ đạo, điều hành của Chính Phủ là khó tránh khỏi. Tuy nhiên chúng ta cũng không thể phủ nhận những nỗ lực cố gắng vượt bậc của Đảng và Nhà Nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các DN. Một đất nước phát triển phải cần sự nỗ lực vượt bậc, sự đóng góp của toàn dân toàn xã hội mà các DN là thành phần trọng yếu. Vì vậy các DN phải tự xem xét mình đã chủ động tự vươn lên đỉnh cao trong thương trường chưa? ở nhiều cônh ty thay vì tìm lối thoát ra khỏi khó khăn bằng chính sự nỗ lực của bản thân, bằng việc động viên tối đa nội lực thì lại đi theo con đường mòn là “xin” Nhà Nước cấp vốn mặc dù biết rõ Nhà nước không có vốn để cho. Vì vậy TTSP của DN sẽ ngày càng khó khăn nếu như DN không đề ra những chính sách, chiến lược cạnh tranh hợp lý thì hàng hoá ứ đọng, chậm tiêu thụ là điều khó tránh khỏi mà hàng hoá ứ đọng đồng nghĩa với việc không thực hiện được mục tiêu của DN đặc biệt là lợi nhuận, không có hoặc ít lợi nhuận DN không đủ trang trải chi phí, bị lỗ và phá sản DN là khó tránh được. Vậy để tăng tính cạnh tranh của sản phẩm trong tiêu thụ sản phẩm thì DN cần thực hiện các biện pháp sau: 1. Nâng cao chất lượng sản phẩm. Hiện nay người Việt Nam có thú “xính đồ ngoại” đây là kiểu “chơi sang” tầng lớp thượng lưu nhưng không ít khách hàng phàn nàn về chất lượng sản phẩm của DN đặc biệt là đồ tươi sống, thuốc..nó ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ thậm chí cả tính mạng của người tiêu dùng vậy các DNVN nghĩ gì? Việc nâng cao chất lượng sản phẩm không có nghĩa là hướng mọi nỗ lực của mình vào việc sản xuất ra sản phẩm thật tốt. Nừu vậy DN đã quên đi một yếu tố vô cùng quan trọng là “nhu cầu có khả năng thanh toán và khách hàng không mua sản phẩm mà họ không có nhu cầu. Một sản phẩm có chất lượng tốt khách hàng rất hài lòng về nó nhưng liệu họ có mua không? Rất có thể là không vì sản phẩm chất lượng tốt thì giá phải đắt tuy nhiên không phải khách hàng nào cũng đủ tiền để mua sản phẩm đó. “khả năng thanh toán” liên quan tới thu nhập và phân bổ thu nhập cho các nhu cầu khác nhau của người tiêu dùng. Vậy thì thế nào là một sản phẩm có chất lượng tốt? Một sản phẩm có chất lượng tốt là sản phẩm có “chất lượng vừa đủ”. Nghĩa là với tiềm lực của mình DN sản xuất ra sản phẩm phù hợp với nhu cầu, thị hiếu, sở thích người tiêu dùng với giá cả hợp lý. Nâng cao chất lượng sản phẩm liên quan đến rất nhiều vấn đề: công nghệ,vốn, con người... Trước hết về vốn, công nghệ: hiện nay hầu hết các DNVN sản xuất với công nghệ được hình thành trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp đã sử dụng hàng chục năm, không thích hợp với cơ chế thị trường. Các xí nghiệp kho tàng, bến bãi, nhà kho, thiết bị...thường quá lớn,cồng kềnh đồ sộ nhưng công suất thấp nên hoạt đông kém hiệu quả vì phải chịu khấu hao lớn, định mức tiêu hao nguyên nhiên vật liệu thường rất cao mà sản phẩm sản xuất ra chất lượng lại thấp không cạnh tranh được với sản phẩm ngoại nhập khó có khả năng xuất khẩu. Trong mấy năm gần đây tuy một số DN đã tích cực đổi mới công nghệ hiện đại nhưng thường là đầu tư chắp vá, không đồng bộ do thiếu vốn. Công suất vẫn chưa cao nên hiệu quả hoạt động kinh doanh của DN còn thấp. Vẫn biết thiếu vốn là vấn đề nan giải của các DN Việt Nam hiện nay nhưng trong sự cạnh tranh gay gắt thì hoặc là DN tồn tại và phát triển hoặc là phá sản.Tất nhiên không DN nào muốn phá sản, vậy thì DN phải tự cứu lấy mình trước khi chờ đợi vào các chính sách ưu đãi củaNhà nước. Việc đổi mới công nghệ là rất cần thiết. Nó cho phép DN sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao phù hợp với khách hàng. Đáp ứng với nhu cầu thị trường, tiết kiệm nguyên vật liệu, làm giảm giá thành sản xuất. DN hạ được giá bán, góp phần tăng tính cạnh tranh của sản phẩm DN. Vậy thì đổi mới công nghiệp bằng cách nào trong khi đa phần các DN Việt Nam đang thiếu vốn? Thiếu vón, các DN có thể huy động bằng nhiều cách:Vón vay ngân hàng, ODA, phát hành cổ phiếu (công ty cổ phiếu )...Đặc biệt là Nhà nước huy động vốn từ dân chúng trong nước cho DN vay. Hiện nay, lượng tiền vốn tồn tại trong dân chúng khá lớn, khoảng 4-6 tỷ USD sã hầu như là sự lãng phí 100% nếu số vốn đó tồn tại dưới hình thức xe máy, đất, vàng...mà không đưa vào sản xuất bởi bản thân các hình thức đó không tạo ra của cải cho xã hội, mà chỉ có sản xuất mới tạo ra của cải vật chất cho xã hội. “Cái gốc của sự giầu có là sản xuất”.Người dân không hề có lỗi, bởi vì bất kỳ ai cũng muốn đem những đồng vốn chắt chiu của mình vào hoạt động có thể sinh lãi đem lại thu nhập cho bản thân. Về thực chất Việt Nam thiếu cơ hội đầu tư. Trong 3 đợt đIều chỉnh lãi xuất ngân hàng của nhà nước vừa qua nhưng xêm ra các DN vẫn chưa mạnh dạng đầu tư vào sản xuất. Việc huy động vốn từ dân cư phải thông qua hệ thống ngân hàng, mặt khác DN cũng có thể tự huy động vốn trong dân bằng cách bán cổ phiếu công ty (công ty cổ phân) cho dân chúng nhưng một khó khăn không phảu nhỏ là hình thức đầu tư hoàn toàn mới mẻ ở Việt Nam vì vẫn đề cổ phần hoá DN còn gặp nhiều rắc rối về xác định giá trị tài sản DN..trong khi trình độ hiểu biết của dân cư còn thấp nên họ chưa giám mạnh dạn mua cổ phiếu. Vậy muốn bán được cổ phiếu công ty phải có chính sách quản cáo, giới thiệu công ty, giới thiệu sản phẩm, giới thiệu quy định, lợi ích của việc mua cổ phiếu công ty cho đại bộ phận dân chúng để tạo lập ra uy tín cho công ty. Tuy nhiên uy tín này phải được minh chứng bằng số lượng sản phẩm bán ra trong nước và quốc tế. Và một khi DN đã có uy tín trên thương trường, được nhiều người biết đến thì việc bán cổ phiếu để thu hút vốn đổi mới công nghệ cũng rễ ràng hơn. khi đã có vốn thì việc nhập công nghệ cũng phải thận trọng. DN cần phải xem xét xem nhập công nghệ nào phù hợp với DN, trong những trường hợp chưa đủ vốn để đổi mới đồng bộ thì xem xét ưu tiên đổi mới công nghệ ở bộ phận sản xuất nào là vô cùng quan trọng. Sau đó DN phảichọn đối tác để nhập công nghệ. Một thực trạng là trong những năm vừa qua các DN (đặc biệt là DNNN) đã đầu tư đổi mới công nghệ hiện đại đắt tiền nhưng khi đưa vào vận hành sản xuất mới thấy là các công ty của chúng ta đã bị lừa vì công nghệ đó không phải là mới, hiện đại, mà là hàng “second- hand” mà chúng ta không biết. Điều này do trình độ của cán bộ công ty còn yếu kém, chưa đủ trình độ để kiểm tra được chất lượng của công nghệ nhập, không phát hiện được những khiếm khuyết của công nghệ. Chỉ khi nhập xong đưa vào sản xuất mới rõ, lúc đó thì “việc cũng đã rồi” và Việt Nam trở thành “bãi thải công nghiệp” cho các nước trên thế giới. Do vậy để cẩn thận hơn thì DN nên nhập khẩu qua việc thuê trung gian nước ngoài có uy tín, trình độ kiểm tra công nghệ. Chính vì vậy mà DN cần phải đầu tư đào tạo lại cán bộ để nâng cao trình độ hiểu biết, bắt kịp với sự phát triển của thế giới. Và một điều vô cùng quan trọng là việc ký kết hợp đồng nhập khẩu. Chúng ta lại mắc sai lầm trong việc kiểm tra các điều khoản trong hợp đồng đã chặt chẽ, phù hợp chưa? tránh tình trạng khi nhập khẩu về nhưng lại thiếu một chi tiết nào đó. Khi đó buộc chúng ta phải nhập khẩu chi tiết đó của nước xuất khẩu với giá “cắt cổ” do yêu cầu của tính đồng bộ của công nghệ. Nếu như việc nhập khẩu công nghệ là quá đắt thì DNVN có thể thuê thiết bị toàn bộ của nước ngoài (vừa tiết kiệm vốn lại không bị lạc hậu về công nghệ, chống phải nộp thuế nhập khẩu) mà hiện nay dịch vụ thuê và cho thuê thiế bị toàn bộ là rất phát triển trên thế giới (thiết bị toàn bộ là một hệ thống máy móc gắn với quy trình công nghệ để sản xuất ra một sản phẩm hay thực hiện một dịch vụ nào đó). Đặc biệt đối với DN thiếu vốn nhưng lại chỉ cần sử dụng thiết bị toàn bộ trong một thời gian ngắn thì DN nên đi thuê. Vừa tiết kiệm vốn, không lãng phí, tránh tình trạng sau khi hoàn thành một hợp đồng sản xuất cung ứng hàng hoá rồi thì hệ thông máy móc lại “thất nghiệp”. Việc thuê thiết bị toàn bộ có thể thuê dài hạn (Leasing), thuê ngắn hạn (Renting/Hiring) hoặc thuê mua(Leas purchase) việc lựa chọn hình thức thuê mua là do điều kiện sản xuất khả năng tài chính của DN. Nhưng nếu trong trường hợp thiếu vốn mà DN cần sử dụng thiết bị toàn bộ lâu dài thì DN có thể thuê theo hình thức thuê mua. Vì sau khi hết thời hạn thuê, DN có khả năng tích luỹ đủ vốn có thể mua lại thiết bị toàn bộ đó với giá phải chăng. Tóm lại cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước, DN cũng cần phải có chiến lược đầu tư đổi mới công nghệ thích hợp để tăng tính cạnh tranh của sanr phẩm DN. Về con người: Nếu như giải pháp cải tiến, đổi mới công nghệ quyyết định trực tiếp đến chất lượng sản phẩm thì DN không thể thiếu chiến lược con người. Bởi nếu công nghiệp dù có hi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Một số giải pháp để đạt được các mục tiêu cho thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp nông thôn.pdf
Tài liệu liên quan