Tài liệu Luận văn Một số biện pháp hoàn thiện hoạt động tạo nguồn mua hàng tại Trung tâm Thương mại INTIMEX - Công ty xuất nhập khẩu INTIMEX: 1
Luận văn
Một số biện pháp hoàn thiện hoạt động
tạo nguồn mua hàng tại Trung tâm
Thương mại INTIMEX - Công ty xuất
nhập khẩu INTIMEX
2
Lời nói đầu
Ngày nay, với sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật, phân công
lao động của từng nước cũng như trên phạm vi quốc tế ngày càng cao và gắn
bó với nhau. Xu thế toàn cầu hoá trong sản xuất và lưu thông hàng hoá đòi hỏi
mọi quốc gia, mọi tập đoàn cũng như mọi cá nhân không thể đứng ngoài.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay, một nền kinh tế đóng cửa không thể
phát triển được. Cách đó chỉ kéo dài sự nghèo đói và bần cùng hoá. Nhận thức
được vấn đề đó, tại đại hội Đảng VI (1986) Đảng ta đã chủ trương chuyển nền
kinh tế từ cơ chế xã hội hoá tập trung sang xây dựng nền kinh tế vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Việc chuyển đổi nền kinh tế tạo
ra cho các doanh nghiệp nhiều cơ hội làm ăn mới nhưng cũng nhiều thách thức
mới. Các doanh nghiệp phải hoạt động trong môi trường cạnh tr...
89 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 996 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Một số biện pháp hoàn thiện hoạt động tạo nguồn mua hàng tại Trung tâm Thương mại INTIMEX - Công ty xuất nhập khẩu INTIMEX, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
Một số biện pháp hoàn thiện hoạt động
tạo nguồn mua hàng tại Trung tâm
Thương mại INTIMEX - Công ty xuất
nhập khẩu INTIMEX
2
Lời nói đầu
Ngày nay, với sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật, phân công
lao động của từng nước cũng như trên phạm vi quốc tế ngày càng cao và gắn
bó với nhau. Xu thế toàn cầu hoá trong sản xuất và lưu thông hàng hoá đòi hỏi
mọi quốc gia, mọi tập đoàn cũng như mọi cá nhân không thể đứng ngoài.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay, một nền kinh tế đóng cửa không thể
phát triển được. Cách đó chỉ kéo dài sự nghèo đói và bần cùng hoá. Nhận thức
được vấn đề đó, tại đại hội Đảng VI (1986) Đảng ta đã chủ trương chuyển nền
kinh tế từ cơ chế xã hội hoá tập trung sang xây dựng nền kinh tế vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Việc chuyển đổi nền kinh tế tạo
ra cho các doanh nghiệp nhiều cơ hội làm ăn mới nhưng cũng nhiều thách thức
mới. Các doanh nghiệp phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt.
Việc mua hàng và bán hàng không còn theo kế hoạch của nhà nước. Doanh
nghiệp phải tự lo tất cả các vấn đề từ hoạt động nghiên cứu thị trường cho đến
hoạt động tạo nguồn, mua hàng, bán hàng... Nhiệm vụ chủ yếu của các DNTM
là đảm bảo cung ứng cho sản xuất và tiêu dùng những hàng hoá đủ về số
lượng, tốt về chất lượng, kịp thời gian yêu cầu và thuận lợi cho khách hàng.
Chỉ có thực hiện tốt nhiệm vụ này DNTM mới có thể thu hút được khách hàng
và đứng vững trên thị trường. Nhưng để làm được điều này các DNTM phải
thực hiện tốt công tác tạo nguồn hàng của doanh nghiệp. Công tác mua hàng
ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động bán hàng của doanh nghiệp. Nếu không có
nguồn hàng doanh nghiệp không thể kinh doanh được. Mặt khác, nguồn hàng
và tạo nguồn hàng phù hợp với yêu cầu của khách hàng giúp cho hoạt động
kinh doanh tiến hành thuận lợi, kịp thời, đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển hàng
hoá, đồng thời đảm bảo uy tín với khách hàng, làm cho việc cung ứng hàng
diễn ra một cách liên tục, ổn định và tránh đứt đoạn. Không những thế, công
tác tạo nguồn hàng tốt còn giúp doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh, có tiền bù
đắp chi phí, có lợi nhuận để phát triển và mở rộng hoạt động kinh doanh, tăng
thu nhập cho người lao động và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước.
3
Làm thế nào để hoạt động tạo nguồn mua hàng có hiệu quả và phát huy
được vai trò quan trọng của nó? Qua thời gian thực tập tại Trung tâm Thương
mại INTIMEX, tôi đã quan tâm và nhận thấy nhiều vấn đề tích cực và hạn chế
trong hoạt động kinh doanh của Trung tâm, đặc biệt là hoạt động tạo nguồn và
mua hàng vì đây là hoạt động quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp tới các hoạt
động khác. Đề tài: "Một số biện pháp hoàn thiện hoạt động tạo nguồn mua
hàng tại Trung tâm Thương mại INTIMEX - Công ty xuất nhập khẩu
INTIMEX" được nêu ra với mong muốn giải quyết vấn đề trên.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công tác đảm bảo nguồn hàng cho
hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp và phạm vi nghiên cứu của đề tài
được giới hạn trong việc phân tích hoạt động tạo nguồn mua hàng cho hoạt
động kinh doanh nội địa của Trung tâm Thương mại INTIMEX trong thời gian
qua (từ 1999-2000).
Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở lý luận về hoạt động tạo
nguồn mua hàng để tiến hành phân tích hoạt động tạo nguồn mua hàng của
Trung tâm trong thời gian qua và đưa ra những nhận xét đánh giá về hoạt động
này. Trên cơ sở lý luận và những phân tích đánh giá đó, tiến hành xây dựng
các giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động tạo nguồn, mua hàng, tạo ra nguồn
hàng ổn định, phong phú, có chất lượng, với giá cả thấp nhất cho Trung tâm
Thương mại INTIMEX trong thời gian tới.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài: Thông qua việc thống kê, tổng hợp
số liệu để tiển hành phân tích, so sánh, dự báo từ đó đưa ra những đánh giá và
hệ thống các giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động tạo nguồn, mua hàng tại
Trung tâm Thương mại INTIMEX.
4
Chương I: Nguồn hàng và nội dung hoạt động tạo nguồn, mua hàng của các
doanh nghiệp thương mại.
I.Vai trò của công tác tạo nguồn và mua hàng ở các DNTM.
I.1. Nguồn hàng của các DNTM.
I.1.1.Quan niệm về nguồn hàng.
Nguồn hàng của các doanh nghiệp là toàn bộ khối lượng và cơ cấu hàng
hoá thích hợp với nhu cầu của khách hàng đã và có khả năng mua được trong
kỳ kế hoạch.
Như vậy, nguồn hàng của doanh nghiệp không bao gồm tất cả những
hàng hoá trên thị trường mà nó chỉ giới hạn ở những hàng hoá phù hợp với nhu
cầu của khách hàng trong kỳ kế hoạch về khối lượng, cơ cấu mặt hàng và
chủng loại quy cách cụ thể. Và những hàng hoá này phải nằm trong cân đối kế
hoạch kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời đã hoặc chắc chắn có trong kỳ
kế hoạch.
I.1.2. Phân loại nguồn hàng.
Người ta có thể đứng từ nhiều giác độ khác nhau để phân tích và phân
loại nguồn hàng. Về cơ bản có thể phân loại nguồn hàng theo những cách sau:
I.1.2.1. Theo mức độ quen thuộc của nguồn hàng.
Phân loại theo tiêu thức này người ta có thể chia nguồn hàng thành các
nguồn hàng truyền thống và nguồn hàng mới.
Nguồn hàng truyền thống là những hàng hoá mà doanh nghiệp đã kinh
doanh nhiều năm và có nhà cung cấp ổn định về những hàng hoá đó. Nguồn
hàng này có ưu điểm là doanh nghiệp có nhiều hiểu biết về hàng hoá, về mức
độ tiêu thụ hàng hoá trên thị trường và có quan hệ thân thiết với nhà cung cấp.
Do đó doanh nghiệp có thể tạo ra sự ổn định lâu dài cho nguồn hàng, cũng như
sẽ có khả năng được hưởng nhiều dịch vụ hơn từ phía nhà cung cấp. Với các
nhà cung cấp truyền thống doanh nghiệp có thể được hưởng nhiều ưu đãi hơn
về chiết khấu, được ưu tiên mua hàng trong trường hợp hàng hoá khan hiếm.
5
Chính vì những lý do đó mà các doanh nghiệp luôn cố gắng giữ mối quan hệ
tốt với các nhà cung cấp truyền thống và biến các nguồn cung cấp mới thành
nguồn cung cấp truyền thống.
Nguồn hàng mới bao gồm những hàng hoá mà doanh nghiệp khai thác
từ những nhà cung cấp mới. Nguồn hàng này chưa ổn định nhiều khi mang
tính chất tình huống. Nhưng trong một số trường hợp thì đây là nguồn hàng ổn
định trong tương lai nếu như doanh nghiệp biết cách khai thác.
I.1.2.2. Theo suất xứ của hàng hoá.
Phân loại theo tiêu thức này, nguồn hàng gồm có nguồn hàng được sản
xuất trong nước và nguồn hàng nhập khẩu.
Nguồn hàng sản xuất trong nước bao gồm những hàng hoá do các đơn vị
sản xuất trong nước sản xuất ra. Ưu điểm của nguồn hàng này là DNTM có thể
chủ động tìm hiểu khả năng sản xuất về chất lượng, quy cách, mẫu mã, kiểu
dáng sản phẩm cũng như tiến độ giao hàng, các điều kiện tiếp nhận vận chuyển
đơn giản. Tuy nhiên nguồn hàng trong nước chất lượng chưa cao, mẫu mã
thiếu sự da dạng và chưa thật phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, giá cả còn
cao so với sản phẩm cùng loại trên thế giới.
Nguồn hàng nhập khẩu: những hàng hoá trong nước chưa sản xuất được
hoặc sản xuất không đủ đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng được nhập khẩu
từ nước ngoài. Những hàng hoá này thường có chất lượng tốt, mẫu mã kiểu
dáng đẹp, phong phú, hấp dẫn người tiêu dùng. Nhưng để có được nguồn hàng
này DNTM phải thực hiện nhiều nghiệp vụ phức tạp và gặp nhiều khó khăn
trong công tác nghiên cứu thị trường nước ngoài cũng như tìm hiểu về khả
năng cung cấp hàng hoá của thị trường nước ngoài. Khi quan hệ với các
thương nhân nước ngoài doanh nghiệp phải chú ý tới các vấn đề mang tính văn
hoá dân tộc, các phong tục tập quán, tâm lý của bạn hàng nước ngoài... Việc
đàm phán, ký kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng cũng phức tạp hơn so với
những quan hệ mua - bán trong nước.
I.1.2.3. Theo mức độ ổn định của nguồn hàng.
6
Theo tiêu thức này, người ta có thể phân nguồn hàng thành hai loại:
nguồn hàng hoá được cung cấp theo hợp đồng dài hạn và nguồn hàng hoá
mang tính chất tình huống.
Nguồn hàng được cung cấp theo hợp đồng dài hạn: tất cả những hàng
hoá mà doanh nghiệp có thể ký kết hợp đồng mua - bán dài hạn từ một năm trở
lên đều được xếp vào loại này. Đây là nguồn hàng rất quan trọng và có ảnh
hưởng lớn tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vì nó thể hiện sự ổn
định của nguồn cung cấp. Trong chiến lược phát triển nguồn hàng của DNTM,
việc tạo ra nguồn hàng ổn định thông qua các hợp đồng dài hạn là một nội
dung rất quan trọng và là trọng tâm của chiến lược phát triển nguồn hàng.
Nguồn hàng mang tính chất tính huống: thực chất đây là nguồn hàng
được khai thác thông qua các hợp đồng mua bán chỉ mang tính chất tình
huống. Doanh nghiệp thiết lập mối quan hệ mua - bán một lần và sau đó thì
không còn quan hệ trở lại trong một thời gian dài. Nguồn hàng này thường chỉ
có trong những trường hợp đặc biệt và chiếm một tỷ lệ nhỏ trong nguồn hàng
của DNTM.
I.1.2.4. Phân loại nguồn hàng theo tiêu thức nhà cung cấp.
Theo tiêu thức này DNTM có thể chia nguồn hàng theo từng nhà cung
cấp: nhà cung cấp lớn, nhỏ, nhà cung cấp truyền thống, nhà cung cấp mới. Khi
phân loại theo tiêu thưac này, doanh nghiệp sẽ biết được khả năng khai thác
hàng hoá từ từng nhà cung cấp là bao nhiêu, cũng như thấy được sự ảnh hưởng
của từng nhà cung cấp tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó
doanh nghiệp sẽ có thể đưa ra các chính sách phù hợp để duy trì mối quan hệ
với các nhà cung cấp
Ngoài những cách phân loại trên người ta có thể phân loại nguồn hàng
theo những tiêu thức sản phẩm, mối quan hệ với nguồn hàng, ...
I.2. Vai trò của nguồn hàng và công tác tạo nguồn mua hàng ở DNTM.
I.2.1. Quan niệm về hoạt động tạo nguồn và mua hàng.
7
Hoạt động tạo nguồn mua hàng là toàn bộ những nghiệp vụ nhằm tạo ra
nguồn hàng phù hợp về cơ cấu, tốt về chất lượng, đồng bộ và kịp thời theo
theo đúng nhu cầu của khách hàng.
I.2.2. Vai trò của nguồn hàng và công tác tạo nguồn, mua hàng ở DNTM.
Trong kinh doanh thương mại, tạo nguồn mua hàng là hai hoạt động
nghiệp vụ đầu tiên, mở đầu cho hoạt động lưu thông hàng hoá. Nó có ảnh
hưởng trực tiếp tới hoạt động bán hàng và kế hoạch kinh doanh của doanh
nghiệp. Một sự thay đôỉ quá mức của "đầu vào" sẽ ảnh hưởng đến "giá đầu
vào", "chi phí", "thời điểm cung cấp hàng hoá ", "khối lượng cung cấp" đã
được tính đến ở "đầu ra". Việc không kiểm soát được sự ổn định về nguồn
cung cấp có thể phá vỡ toàn bộ chương trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Như vậy sự ổn định của nguồn cung cấp hàng hoá là một tiềm lực quan trọng
của doanh nghiệp. Tầm quan trọng của nguồn hàng và công tác tạo nguồn
hàng còn được thể hiện ở các vai trò cụ thể sau:
Thứ nhất, nguồn hàng là điều kiện không thể thiếu của hoạt động kinh
doanh. Nếu không có nguồn hàng thì hoạt động kinh doanh không thể tiến
hành được. Nhưng để hoạt động kinh doanh tiến hành tốt thì nguồn hàng phải
tốt. Nghĩa là nguồn hàng phải đảm bảo được các yêu cầu về số lượng, chất
lượng, cơ cấu, tính đồng bộ so với nhu cầu của khách hàng.
Thứ hai, nguồn hàng và tạo nguồn hàng phù hợp với yêu cầu của khách
hàng giúp cho hoạt động kinh doanh tiến hành thuận lợi, kịp thời gian, đẩy
nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hoá, vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp bán
hàng nhanh chóng, đồng thời đảm bảo uy tín với khách hàng, làm cho việc
cung ứng hàng hoá diễn ra liên tục, ổn định tránh đứt đoạn.
Thứ ba, nguồn hàng và tạo nguồn hàng tốt sẽ đảm bảo cho hoạt động
kinh doanh có hiệu quả: giảm chi phí đầu vào, thu hồi vốn nhanh, có tiền để bù
đắp chi phí cho kinh doanh, có lợi nhuận để phát triển và mở rộng kinh doanh.
Thứ tư, nguồn hàng và tạo nguồn hàng tốt giúp cho doanh nghiệp cân
đối được cung - cầu về mặt hàng mà doanh nghiệp đang kinh doanh.
8
Thứ năm, nguồn hàng là phương tiện để các doanh nghiệp cạnh tranh
với nhau. Các doanh nghiệp có thể cạnh tranh với nhau trên nhiều phương diện
khác nhau như giá cả, sản phẩm, dịch vụ,... Một nguồn hàng tốt và ổn định
không những giúp doanh nghiệp có thể cạnh tranh với những đối thủ khác trên
phương diện giá cả mà còn trên phương diện sản phẩm. Đó chính là sự độc
đáo, đa dạng của sản phẩm cũng như sự ổn định về việc cung cấp hàng hoá
cho người tiêu dùng của nhà thương mại. Đây là phương tiện quan trọng để thu
hút sự chú ý của khách hàng tới các sản phẩm của doanh nghiệp.
Như vậy, đối với các DNTM muốn phát triển và mở rộng kinh doanh,
việc bảo đảm nguồn hàng chất lượng tốt, nguồn hàng cung ứng ổn định lâu
dài, giá cả phải chăng là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển của doanh
nghiệp.
II. Nội dung của hoạt động tạo nguồn và mua hàng.
Kinh doanh thương mại là đầu tư tiền của công sức vào hoạt động mua,
bán hàng hoá dịch vụ để kiếm lời. Nghĩa là kinh doanh thương mại phải thực
hiện hoạt động mua để bán, mua hàng không phải để tiêu dùng mà để bán lại
cho người tiêu dùng trên thị trường. Cũng giống như các đơn vị sản xuất, các
DNTM hoạt động trên thị trường "đầu vào" nhằm chuẩn bị đầy đủ các yếu tố
đầu vào cho kinh doanh như vốn kinh doanh, sức lao động và quan trọng nhất
là hàng hoá, dịch vụ để thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Xét về chức năng
và mục đích của hoạt động kinh doanh, bán hàng là điểm xuất phát, là hoạt
động kinh doanh cơ bản, chi phối các hoạt động khác như tạo nguồn, mua
hàng, nghiên cứu thị trường, vận dụng marketing... Còn tạo nguồn, mua hàng
thực chất là hoạt động nhằm đảm bảo nguồn hàng đầu vào cho kinh doanh.
Tạo nguồn, mua hàng là hai hoạt động khác nhau nhưng có mối liên kết chặt
chẽ với nhau trong ''chuỗi xích" của hoạt động đảm bảo nguồn hàng cho kinh
doanh.
Tạo nguồn là đi xác định người cung cấp hàng hoá và các điều kiện để
đảm bảo có hàng.Yêu cầu và cũng chính là mục tiêu của hoạt động tạo nguồn
9
là tạo ra nguồn hàng phong phú, ổn định, giá hợp lý, chất lượng tốt, phù hợp
với thị hiếu người tiêu dùng.
Mua hàng là hành vi thương mại nhằm chuyển đổi hình thái giá trị từ
tiền sang hàng. Nhưng trong KDTM việc mua hàng là để bán, hàng hoá mua
về sẽ được chuyển đổi thêm một lần nữa từ hàng sang tiền và lượng tiền thu
được phải lớn hơn so với lượng tiền bỏ ra để mua hàng. Để thực hiện được
điều đó DNTM phải mua được hàng hoá tốt nhất với chi phí thấp nhất.
II.1. Nội dung công tác tạo nguồn của DNTM.
II.1.1. Nghiên cứu thị trường.
II.1.1.1. Phương pháp nghiên cứu thị trường.
Để nghiên cứu thị trường, DNTM thường sử dụng hai phương pháp:
nghiên cứu tại bàn và nghiên cứu tại hiện trường.
Phương pháp nghiên cứu tại bàn hay còn gọi là phương pháp nghiên cứu
văn phòng là cách nghiên cứu, thu thập thông tin qua các tài liệu như sách báo,
tạp chí, đài phát thanh truyền hình, niên giám thống kê, các tài liệu sẵn có của
doanh nghiệp (báo cáo tổng kết định kỳ và cuối năm về tình hình kinh doanh
của doanh nghiệp) và một số nguồn tài liệu khác. Qua nguồn tài liệu trên
doanh nghiệp có thể tìm hiểu được tình hình hàng hoá trên thị trường, khả
năng cung ứng hàng hoá, khả năng nhập khẩu, tình hình dự trữ .... Nghiên cứu
tại bàn giúp doanh nghiệp nhìn khái quát về tình hình cung - cầu hàng hoá cần
nghiên cứu trên thị trường. Đây là phương pháp tương đối dễ làm, thời gian
tiến hành nhanh, chí phí thấp, nhưng đòi hỏi người nghiên cứu phải có chuyên
môn vững, biết cách thu thập, đánh giá và phân tích thông tin. Tuy nhiên
phương pháp này có hạn chế là dựa vào tài liệu đã được xuất bản nên có độ trễ
so với thực tế.
Phương pháp nghiên cứu tại hiện trường là việc trực tiếp cử nhân viên
xuống tận nơi nghiên cứu. Cán bộ nghiên cứu trực tiếp thu thập thông tin và số
liệu ở các đơn vị tiêu dùng lớn, ở khách hàng, ở các nhà cung cấp hàng hoá
10
bằng cách điều tra trọng điểm, điều tra chọn mẫu, điều tra điển hình hay điều
tra toàn bộ. Việc thu thập thông tin có thể thông qua các cuộc phỏng vấn, gửi
phiếu điều tra, hội nghị khách hàng... Nghiên cứu tại hiện trường có thể thu
thập được những thông tin sinh động, thực tế, hiện tại, độ chính xác cao hơn so
với phương pháp nghiên cứu tại bàn. Tuy nhiên phương pháp này đòi hỏi chi
phí lớn, cán bộ đi thu thập thông tin phải vững chuyên môn và có đầu óc thực
tế.
Mỗi phương pháp nghiên cứu thị trường có những ưu điểm và hạn chế
riêng. Việc kết hợp cả hai phương pháp nghiên cứu sẽ hạn chế được những
thiếu sót và phát huy được những điểm mạnh của từng phương pháp.
II.1.1.2. Nội dung nghiên cứu.
Khi xây dựng kế hoạch kinh doanh, DNTM đã phải tiến hành nghiên
cứu thị trường để xác định nhu cầu của khách hàng và các nhân tố ảnh hưởng
khác. Khi tiến hành công tác tạo nguồn mua hàng để thực hiện kế hoạch kinh
doanh, DNTM lại nghiên cứu thị trường một lần nữa. Việc nghiên cứu này dựa
trên kết quả nghiên cứu thị trường ở mức độ tổng quát khi lập kế hoạch kinh
doanh. Trên cơ sở nhu cầu chung đã được xác định, doanh nghiệp tiến hành
nghiên cứu để xác định nhu cầu cụ thể, nhãn hiệu hàng hóa và các nhà cung
cấp cụ thể. Nội dung nghiên cứu bao gồm:
* Xác định nhóm sản phẩm cụ thể và xuất sứ của hàng hoá.
Để thoả mãn nhu cầu của khách hàng có rất nhiều sản phẩm khác nhau
trong cùng một dòng sản phẩm. Mỗi loại có chất lượng khác nhau, thoả mãn
nhu cầu của khách hàng ở các mức độ khác nhau đồng thời thu hút khách hàng
ở những mức độ khác nhau. Chính vì vậy, DNTM cần nghiên cứu để xác định
và chọn ra một số sản phẩm thoã mãn tốt nhất nhu cầu của nhóm khách hàng
trọng điểm. Việc lựa chọn sản phẩm dựa trên mức độ thoả mãn nhu cầu khách
hàng. Sau khi xác định được nhóm sản phẩm doanh nghiệp cần đi xác định
xuất sứ của nhóm sản phẩm đó ( nước nào sản xuất ra sản phẩm? và cụ thể hơn
sản phẩm được sản xuất bởi hãng nào?). Trên thị trường một loại sản phẩm có
11
nhiều nhãn hiệu sản xuất khác nhau và có chất lượng khác nhau. Vì vậy trong
quá trình xem xét, đánh giá và lựa chọn sản phẩm thu mua doanh nghiệp cần
đưa ra một số căn cứ lựa chọn. Có thể dựa trên một số căn cứ sau:
- Chu kỳ sống của sản phẩm: cần xác định sản phẩm đang ở giai đoạn
nào của chu kỳ ( giới thiệu sản phẩm/ thị trường phát triển/ thị trường bão hoà/
thị trường suy giảm).
- Mức độ quen thuộc của nhãn hiệu hàng hoá. ( Nhãn hiệu bị loại bỏ/
nhãn hiệu không được công nhận/ nhãn hiệu được công nhận/ nhãn hiệu được
ưa thích/ nhãn hiệu được tín nhiệm).
Mỗi một sản phẩm khi tung ra thị trường đều phải trải qua các giai đoạn
khác nhau của chu kỳ sống. Do đó việc xác định chính xác sản phẩm đang ở
giai đoạn nào rất quan trọng. Phân kỳ sống của sản phẩm ảnh hưởng trực tiếp
tới doanh thu của doanh nghiệp.
Cũng như chu kỳ sống của sản phẩm, nhãn hiệu của sản phẩm có ảnh
hưởng lớn tới quyết định lựa chọn hàng hoá đầu vào của DNTM. Khách hàng
thường mua hàng thông qua nhãn hiệu sản phẩm. Đối với họ một sản phẩm tốt
đồng nghĩa với việc một nhãn hiệu tốt và ngược lại. Họ thường đánh giá sản
phẩm thông qua mức độ quen thuộc của nhãn hiệu trên thị trường. Chính vì
điều này mà DNTM cần tìm hiểu và xác định rõ mức độ quen thuộc của nhãn
hiệu hàng hoá trên thị trường để từ đó có những quyết định đúng đắn khi lựa
chọn hàng hoá đầu vào.
* Xác định người cung cấp hàng hoá.
Sau khi đã xác định được sản phẩm cũng như nhãn hiệu của chúng,
DNTM cần tìm hiểu ai là người cung ứng hàng hoá đó trên thị trường. Một
loại sản phẩm thường có nhiều nhà phân phối trên thị trường, trừ một số ít
trường hợp kinh doanh độc quyền, giá cả các nhà phân phối đưa ra có thể
ngang bằng hoặc khác nhau nhưng một điều chắc chắn rằng các điều kiện cung
cấp hàng hoá là khác nhau. Chính vì vậy DNTM cần phân tích và xác định
cho mình nhà phân phối.
12
Một nhà phân phối tin cậy và ổn định là tài sản đối với doanh nghiệp.
Do vậy khi tiếp cận các nhà cung cấp doanh nghiệp cần tìm hiểu về:
- Uy tín cuả nhà cung cấp trên thị trường.
- Khả năng tài chính của nhà cung cấp.
- Khả năng cung cấp các dịch vụ kèm theo.
Sau khi tìm hiểu các nhà cung cấp theo các yếu tố trên, DNTM có thể
sàng lọc và giới hạn được số lượng các nhà cung cấp. Mỗi một nhà cung cấp
đều kèm theo những điều kiện cung cấp khác nhau. để đi đến quyết định lựa
chọn các nhà thương mại cần tìm hiểu về điều kiện cung cấp của mỗi nhà
cung cấp:
- Khối lượng hàng hoá nhà cung cấp có thể cung cấp cho doanh nghiệp.
- Chất lượng hàng hoá.
- Thời gian giao hàng.
- Phương thức thanh toán.
- Phương thức giao nhận.
- Các dịch vụ kèm theo (bao gồm dịch vụ trước, trong và sau khi mua
hàng).
Sau khi tìm hiểu, phân tích các nhà phân phối, DNTM có thể đi đến các
quyết định cuối cùng. DNTM cần ưu tiên cho những nhà phân phối:
- Có thể cung cấp hàng hoá theo chất lượng, kiểu dáng hay mẫu mã yêu
cầu.
- Có sẵn hàng với mức giá cả và những điều khoản mong muốn với số
lượng cần thiết.
- Tin cậy được - có nghĩa là hàng liên tục sẵn có.
- Có sự bảo vệ hợp lý và hợp lệ cho những lợi ích của người mua hàng,
như bảo đảm về chất lượng, về quyền được hưởng lãi hợp pháp, và quyền làm
đại lý có trách nhiệm hữu hạn hay quyền được tham gia kinh doanh độc quyền.
- Cung cấp dịch vụ tốt, không chỉ trong việc giao hàng mà còn trong
việc xử lý các vụ giao dịch và thực hiện điều chỉnh.
13
- Tạo ra các điều kiện thích hợp cho sự hỗ trợ về quản lý hay kinh doanh
hàng hoá và sự trợ giúp về mặt kỹ thuật khi cần thiết.
- Có những đại diện cung cấp, là những người mà chủ doanh nghiệp có
thể làm việc và hợp tác một cách thành công với họ.
Trong việc lựa chọn nhà cung ứng, DNTM cũng cần phải xem xét và
quyết định nên mua hàng một mối hay nhiều mối. Các tiêu chuẩn trên được
xem như là quan trọng khi cân nhắc. Mua hàng một mối hay nhiều mối đều có
những ưu, nhược điểm. Điều quan trọng là DNTM phải biết cân nhắc giữa
những cái được và cái mất đồng thời gắn với khả năng của doanh nghiệp để đi
đến quyết định cuối cùng. Trong trường hợp DNTM đang có những lợi thế
trong những thay đổi nào đó về các mặt hàng, giá cả hay các dịch vụ mà các
nhà phân phối khác nhau có thể đưa ra và muốn cho các nhà phân phối cạnh
tranh với nhau để bán cho mình thì việc đa dạng hoá nguồn hàng (mua hàng
nhiều mối ) là một chính sách hợp lý để tuân theo. Sự đa dạng hoá này tạo khả
năng cho doanh nghiệp đối ứng lại được những mặt hàng phổ biến do các
doanh nghiệp cạnh tranh buôn bán, không kể những mặt hàng duy nhất được
độc quyền kinh doanh hay các mặt hàng bị hạn chế. Hơn nữa, việc mua hàng
nhiều mối còn bảo vệ doanh nghiệp trong trường hợp một hãng cung ứng
ngừng hoạt động kinh doanh, thay đổi mặt hàng buôn bán, hoặc thay đổi các
chính sách kinh doanh của nó. Tuy nhiên, DNTM cũng cần phải cân nhắc
những ưu điểm của việc mua hàng từ một nguồn duy nhất hay từ một số lượng
có hạn những nhà cung ứng. Bằng cách kinh doanh liên tục những mặt hàng ổn
định, những khách hàng của doanh nghiệp không phải chuyển từ loại nhãn
hiệu này sang nhãn hiệu khác, và việc quản lý mua hàng của nhân viên cũng
đơn giản hơn. Với tư cách là khách hàng thường xuyên của một nhà cung ứng,
doanh nghiệp có thể nhận được những ưu ái đặc biệt hay khoản giảm giá theo
số lượng lũy tích, sự trợ giúp và cố vấn quý giá khi kinh doanh sản phẩm,
mách nước về những thay đổi trên thị trường, và sự suy xét đặc biệt trong
những lúc khó khăn. Đó là những ưu điểm của hai cách mua hàng. Tuy nhiên,
14
mỗi cách đều còn có những điểm bất lợi. Những nguy cơ có thể xảy ra khi đa
dạng hoá nguồn hàng bao gồm việc dự trữ quá nhiều mặt hàng, có thể kèm
theo sự khó khăn cho việc duy trì dự trữ hoàn chỉnh, không thể chú trọng vào
chương trình quảng cáo bất kỳ một nhãn hiệu nào. Việc mua hàng từ một
nguồn duy nhất cũng có những hạn chế: không có khả năng để nắm lấy lợi thế
của những lời chào hàng khác- thường cho những mặt hàng khác; bị thiệt hại
nếu người cung ứng thay đổi chính sách hay trở nên yếu kém trong quản lý;
chịu rủi ro nếu sự cố vấn, trợ giúp, và hướng dẫn kinh doanh hàng hoá có thể
kém giá trị hay không sử dụng được nữa. Trong thời kỳ khan hiếm nhà cung
ứng có thể lấy số hàng dự trữ của họ bán cho một công ty khác thay vì phục
vụ khách hàng thường xuyên của họ.
* Lựa chọn và xác định các phương án / hình thức tạo nguồn.
Căn cứ vào điều kiện hiện có của doanh nghiệp, căn cứ vào khả năng và
điều kiện cung ứng của nhà cung cấp, DNTM lựa chọn các phương án tạo
nguồn. Có nhiều hình thức tạo nguồn khác nhau. Tuỳ thuộc vào điều kiện của
mình mà doanh nghiệp có thể lựa chọn một / một vài hình thức trong số các
hình thức sau:
- Hợp đồng mua hàng: Khi ký kết hợp đồng mua hàng là doanh nghiệp
đang tiến hành công tác mua hàng, nhưng đứng trên giác độ công tác tạo
nguồn thì hợp đồng cũng được xem như một hình thức tạo nguồn. Điều này
đặc biệt đúng trong trường hợp hợp đồng dài hạn. Một hợp đồng mua hàng dài
hạn tạo ra cho doanh nghiệp một nguồn hàng ổn định, lâu dài, mà đây lại chính
là mục tiêu của công tác tạo nguồn. Chính vì vậy, có thể nói hợp đồng cũng
chính là một hình thức tạo nguồn.
- Đặt hàng: DNTM cũng có thể chọn hình thức đặt hàng để tạo nguồn
hàng cho mình. Doanh nghiệp thường dùng hình thức này khi hàng hoá không
có sẵn trên thị trường. Việc đặt mua những hàng hoá đó nhằm tạo ra nguồn
hàng cho doanh nghiệp. DNTM chỉ quyết định mua khi hàng hoá đáp ứng
được các yêu cầu đặt hàng. Khi sử dụng hình thức này doanh nghiệp cần xác
15
định lượng hàng cần đặt cho mỗi đơn hàng. Lượng đặt hàng sẽ được căn cứ
vào lượng hàng tồn kho, khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường. Tất cả
những công tác trên nhằm mục đích chuẩn bị cho hoạt động mua hàng bằng
các đơn hàng.
- Liên doanh, liên kết: Đây là hình thức DNTM kết hợp cùng các đơn vị
sản xuất để sản xuất ra hàng hoá. Khi sử dụng hình thức này doanh nghiệp có
thể tận dụng được lượng vốn dư thừa và tạo ra được nguồn hàng phù hợp với
yêu cầu của khách hàng.
- Dự trữ: Dự trữ là một tất yếu của nền kinh tế cũng như của mỗi doanh
nghiệp. DNTM có thể tạo ra nguồn hàng cho mình từ nguồn hàng hoá dự trữ
của doanh nghiệp, của các đơn vị bạn, của nhà nước, và của người tiêu dùng.
- Các hình thức khác.
II.1.2. Lập kế hoạch tạo nguồn.
Sau khi lựa chọn được các nhà phân phối và các hình thức tạo nguồn
thích hợp, DNTM tiến hành lập kế hoạch tạo nguồn hàng. Thực chất kế hoạch
là chương trình hoạt động của doanh nghiệp trong một khoảng thời gian nhất
định. Người ta có thể lập kế hoạch tháng, kế hoạch quý hoặc kế hoạch năm. Kế
hoạch tạo nguồn là một bảng tổng hợp về nhu cầu hàng hoá theo từng nguồn
cung cấp, là hệ thống các bảng biểu cân đối về hàng hoá kinh doanh. Mục tiêu
của việc lập kế hoạch tạo nguồn là tạo ra sự cân đối và ổn định về nguồn hàng.
Lập kế hoạch tạo nguồn nhằm xác định khối lượng hàng hoá của từng nhà
cung cấp với thời gian và các hình thức cung cấp tương ứng. Khi lập kế hoạch
tạo nguồn DNTM cần căn cứ vào nhu cầu hàng hoá để bán, nhu cầu hàng hoá
cho dự trữ, và khả năng cung cấp của từng nguồn. Các chỉ tiêu của kế hoạch
tạo nguồn bao gồm: khối lượng, thời gian cung ứng, hình thức cung cấp, ngân
sách. Những chỉ tiêu này được xác định cho từng loại hàng hoá và cho từng
nguồn cung cấp hàng hoá. Dưới đây xin được đưa ra một ví dụ về biểu kế
hoạch tạo nguồn theo năm:
16
Kế hoạch tạo nguồn hàng năm ........
Tên
hàng
hoá
Đơn vị
tính
Khối lượng
Ngân
sách
Thời gian
Hình
thức
Nhà
cung
cấp
Cho
bán
hàng
Cho dự
trữ
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8)
Kế hoạch tạo nguồn chỉ xác định các nguồn cung ứng hàng hoá và lượng hàng
hoá có thể có từ mỗi nguồn trong một thời gian dự kiến và theo hình thức dự
kiến. Nó chưa khẳng định chắc chắn doanh nghiệp có thiết lập quan hệ bạn
hàng với những hãng cung ứng đó hay không đồng thời cũng chưa xác định
tổng giá trị sẽ mua với từng loại hàng hóa. Những yếu tố này sẽ được xác định
trong kế hoạch mua hàng.
II.1.3. Thực hiện kế hoạch tạo nguồn.
Để thực hiện kế hoạch tạo nguồn, DNTM cần tiếp cận với từng nhà cung
cấp và tiến hành thương lượng các điều kiện cung cấp hàng hoá của họ.
DNTM có thể lựa chọn các cách thức tiếp cận khác nhau: trực tiếp liên hệ với
nhà cung cấp hoặc thông qua các nhà môi giới. Trước khi tiến hành thương
lượng, doanh nghiệp đã có những hiểu biết nhất định về điều kiện cung cấp
hàng hoá cũng như khả năng của từng nhà cung cấp thông qua hoạt động
nghiên cứu thị trường. Thương lượng nhằm đi đến những thống nhất về việc
cung cấp hàng hoá. Nội dung thương lượng bao gồm khối lượng hàng hoá,
chất lượng hàng hoá, xác định hình thức cung cấp, giá cả, phương thức thanh
toán, phương thức giao nhận, vận chuyển bốc dỡ, .... Việc thương lượng mới
chỉ ở mức độ khái quát những vấn đề cụ thể sẽ được thương lượng khi thực
hiện kế hoạch mua hàng.
17
* Ký kết các hợp đồng liên doanh, liên kết.
Trong quá trình thương lượng và xác định hình thức tạo nguồn nếu
doanh nghiệp nhận thấy đối tác của mình đang thiếu vốn sản xuất và có nhu
cầu liên doanh để sản xuất hàng hoá, và tiềm lực tài chính cho phép thì doanh
nghiệp thương mại có thể ký kết các hợp đồng liên doanh, liên kết để tạo ra
nguồn hàng cho mình. Việc ký kết hợp đồng liên doanh, liên kết sản xuất
hàng hoá không có nghĩa là doanh nghiệp đã đồng ý mua hàng của đối tác.
Việc mua hàng còn tuỳ thuộc vào mức độ phù hợp của hàng hoá so với nhu
cầu hiện tại của doanh nghiệp.
II.2. Nội dung công tác mua hàng.
II.2.1. Lập kế hoạch mua hàng.
Kế hoạch mua hàng được lập trên cơ sở kế hoạch tạo nguồn. Nó là sự cụ
thể hoá của kế hoạch tạo nguồn. Kế hoạch mua hàng là bộ phận quan trọng của
kế hoạch kinh doanh. Nó không chỉ có quan hệ mật thiết với kế hoạch tạo
nguồn mà còn có mối quan hệ với các kế hoạch khác như kế hoạch bán hàng,
kế hoạch tài chính... Kế hoạch mua hàng có độ phức tạp cao, đặc biệt trong
kinh doanh đa dạng hoá mặt hàng. Khi lập kế hoạch mua, DNTM phải quan
tâm đến từng chủng loại, quy cách cụ thể cho những thời gian cụ thể.
* Nội dung kế hoạch mua hàng.
Nếu như kế hoạch tạo nguồn mới chỉ xác định được lượng hàng của mỗi
nhà cung cấp và các hình thức tạo nguồn hàng thì kế hoạch mua hàng xác định
khối lượng, chất lượng của từng quy cách, chủng loại hàng hoá cụ thể; xác
định tổng giá trị thu mua từng loại. Để lập kế hoạch mua cần xác định các chỉ
tiêu: Khối lượng, chủng loại, thời gian, tổng giá trị theo danh mục mặt hàng.
Dưới đây là một ví dụ tham khảo về biểu kế hoạch mua hàng cho năm:
18
Kế hoạch mua hàng năm .............
Tên và
quy cách
hàng hoá
Đơn
vị
tính
Khối lượng
Trị giá hàng mua theo quý
Trị giá
hàng
mua cả
năm
Quý I Quý II Quý III Quý IV
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8)
Với những doanh nghiệp đa dạng hoá kinh doanh và có nhiều mặt hàng
thường xuyên biến động về nhu cầu thì doanh nghiệp không chỉ lập kế hoạch
năm mà còn phải lập kế hoạch mua cho từng quý, từng tháng. Kế hoạch mua
hàng sẽ là căn cứ để doanh nghiệp lập các đơn hàng gửi cho các nhà cung cấp.
đơn hàng là bản kê khai các chủng loại, quy cách hàng hoá, lượng đặt mua đối
với từng tên hàng, thời gian nhận hàng cụ thể. Khi gửi đơn hàng cho nhà cung
cấp DNTM đã thực hiện hành vi mua hàng. Vấn đề này sẽ được làm rõ ở dưới
đây.
II.2.2. Thực hiện kế hoạch mua.
II.2.2.1. Tổ chức giao dịch, đàm phán để ký kết hợp đồng mua hàng.
Đàm phán được tiến hành nhằm thoả thuận các điều khoản về hàng hoá,
giá cả và điều kiện thanh toán. Nói một cách đơn giản, đàm phán là sự trao
đổi, mặc cả, tranh luận với cùng một mục đích là đi đến thoả thuận giữa các
bên. Đàm phán là một khâu rất cần thiết, kết quả của nó là cơ sở để ký kết một
hợp đồng.
Khi đàm phán/ thương lượng về giá cả và các điều kiện khác doanh
nghiệp nên/cần cố gắng thu thập và lưu trữ càng nhiều thông tin càng tốt về giá
cả hiện hành trên thị trường. Trong quá trình đàm phán, người phụ trách mua
19
hàng nên quan tâm tới các khoản giảm giá: giảm giá khi trả sớm và thời hạn
/mốc thanh toán - độ dài thời gian tín dụng được hưởng. Với một doanh nghiệp
đang trong tình trạng khó khăn về tài chính thì việc quan tâm tới các mốc
thanh toán là một điều đương nhiên vì nó đem lại cho họ một nguồn vốn lưu
động. Còn đối với một doanh nghiệp có tiềm lực tài chính dồi dào thì việc
giảm giá khi trả sớm thường quan trọng hơn so với thời hạn hưởng tín dụng, vì
nó sẽ đem lại cho doanh nghiệp một khoản tiết kiệm.
* Các hình thức đàm phán.
Khi tiến hành hoạt động mua hàng doanh nghiệp có thể mua từ nguồn
trong nước hoặc nhập khẩu. Đối tượng của cuộc đàm phán là khác nhau vì nó
liên quan đên các yếu tố về quốc tịch, văn hoá, tập quán... Nhưng các hình
thức đàm phán được sử dụng là giống nhau. Thông thường có các hình thức
đàm phán sau: đàm phán qua thư tín, đàm phán qua điện thoại, đàm phán bằng
cách gặp gỡ trực tiếp.
- Đàm phán qua thư tín: Ngày nay đàm phán qua thư tín vẫn còn được
sử dụng rộng rãi đặc biệt trong ngoại thương. Những cuộc tiếp xúc ban đầu
thường qua thư từ. Ngay cả khi hai bên đã có điều kiện gặp gỡ thì việc duy trì
quan hệ cũng phải qua thư từ thương mại.
Ưu điểm của giao dịch qua thư tín là tiết kiệm được nhiều chi phí, trong
cùng một lúc có thể giao dịch với nhiều khách hàng ở nhiều nơi khác nhau,
nhiều quốc gia khác nhau, người viết thư có thể cân nhắc, suy nghĩ, tham khảo
ý kiến của nhiều người và có thể dấu kín ý định của mình một cách khéo léo.
Trước đây khi chưa có mạng INTERNET thì việc đàm phán qua thư thường
mất thời gian và có thể bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Nhưng hiện nay người ta có
thể khắc phục nhược điểm này bằng cách gửi thư điện tử thông qua mạng dịch
vụ INTERNET.
Sử dụng thư tín trong giao dịch đàm phán luôn phải bảo đảm tính lịch
sự, chính xác, khẩn trương, giấy viết thư phải được chuẩn bị chu đáo. Xu
hướng hiện nay là viết ngắn gọn, rõ ràng, nếu là giao dịch kinh doanh xuất
20
nhập khẩu thì thứ tiếng dùng để viết thư nên là thứ tiếng mà khách hàng quen
dùng như vậy sẽ gây thiện cảm và sẽ thu hút sự chú ý.
Nội dung của thư tín thương mại đòi hỏi tính chính xác cao, cụ thể rõ
ràng, chi tiết về những yêu cầu, đề nghị của mình. Nên sử dụng những đơn vị
đo lường thông dụng, nếu khác cần có giải thích kèm theo, tránh gây hiểu lầm.
Tất cả mọi thư tín đều phải được trả lời một cách nhanh chóng. Việc trì
hoãn trả lời hoặc không trả lời sẽ gây ấn tượng xấu, không giữ được sự tín
nhiệm, ưu tiên của bạn hàng.
- Đàm phán qua điện thoại:
Hiện nay khi công nghệ thông tin ngày càng phát triển, việc giao dịch qua điện
thoại giữa các nhà kinh doanh trở nên khá phổ biến. Hình thức giao dịch này
giúp các chủ thể tiết kiệm được thời gian, nhanh chóng nắm bắt được thời cơ
mua bán vì cuộc đàm phán diễn ra khẩn trương. Hình thức này thường được sử
dụng trong giai đoạn đầu của giao dịch khi doanh nghiệp muốn có những
thông tin sơ lược về giá cả, phương thức thanh toán, hợp đồng... Trong thương
mại quốc tế hình thức này ít được sử dụng hơn do cước phí điện thoại cao, thời
gian bị hạn chế.Trao đổi qua điện thoại là trao đổi bằng miệng, không có gì
làm bằng chứng. Bởi vậy sau khi trao đổi bằng điện thoại cần có thư xác nhận
nội dung đã đàm phán.
- Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp:
Việc gặp gỡ trực tiếp giữa hai bên để trao đổi về mọi điều kiện buôn bán
là một hình thức đặc biệt quan trọng. Hình thức đàm phán này đẩy nhanh tốt
độ giải quyết mọi vấn đề giữa hai bên và nhiều khi là lối thoát cho những đàm
phán bằng thư tín hoặc điện thoại kéo dài quá lâu mà không đi đến kết quả.
Hình thức đàm phán này thường được sử dụng khi có nhiều điều kiện phải giải
thích căn kẽ để thuyết phục nhau hoặc về những hợp đồng lớn, phức tạp. Đàm
phán trực tiếp thường chỉ 2 - 3 ngày là có kết quả.
đàm phán trực tiếp đòi hỏi một sự chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi tiến
hành. Đây là hình thức đàm phán khó khăn nhất nên đòi hỏi người tiến hành
21
đàm phán phải chắc chắn về nghiệp vụ, tự chủ, phản ứng nhanh nhạy. Trong
đàm phán trực tiếp nên tránh bàn bạc trao đổi ý kiến với nhau trước mặt đối
phương.
Cần xác định rõ mục đích, yêu cầu của từng đợt đàm phán, dự kiến
những biện pháp để đạt kết quả mong muốn. Mỗi bên đều phải nghiên cứu kỹ
về hàng hoá mình định mua, bán, các điều kiện giao dịch đưa ra trao đổi... dự
kiến trước những tình huống mà mình có thể gặp khi tiến hành đàm phán.
Trong quá trình đàm phán nên tránh những căng thẳng không cần thiết.
ý kiến hai bên có thể đổi lập nhau nhưng vẫn phải giữ thái độ mềm mỏng, lịch
sự.
Việc giành được quyền chủ động trong đàm phán là rất quan trọng. Tuy
nhiên đây không phải là một việc dễ dàng vì nó phụ thuộc vào "thế" của mỗi
bên, vào kinh nghiệm và khéo léo của người tham gia đàm phán.
Việc ký kết hợp đồng cần được tiến hành kịp thời khi điều kiện đã chín
muồi. Không nên nôn nóng trong ký kết dù thấy thời gian đàm phán sắp hết.
Nếu một bên nắm được bên kia có ý định phải ký hợp đồng trong đợt đàm
phán thì sẽ ép buộc bên kia phải có nhiều nhượng bộ.
* Trình tự quá trình đàm phán.
Một cuộc đàm phán với đối tác nước ngoài hay trong nước thì đều phải
trải qua một số bước sau:
Hỏi giá -> Thương lượng -> Đặt hàng -> Xác nhận điều kiện -> Chấp
nhận -> Ký hợp đồng mua - bán.
- Hỏi giá: Do bên mua đưa ra. Đây là việc người mua đề nghị người bán
báo giá cả và các điều kiện mua hàng. Nội dung của một hỏi giá có thể bao
gồm: tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, thời gian giao hàng, loại tiền
(trong kinh doanh XNK), thể thức thanh toán, điều kiện cơ sở giao hàng ...
Hỏi giá không ràng buộc trách nhiệm của người hỏi giá.
22
- Thương lượng: Hai bên tiến hành thương lượng về các điều kiện cung
cấp hàng hoá, như điều kiện về giá cả, khối lượng, chất lượng, thời hạn giao
hàng, thời hạn thanh toán, vận chuyển....
- Đặt hàng: Lời đề nghị ký kết hợp đồng từ phía người mua được đưa
ra dưới hình thức đặt hàng. Trong đặt hàng người mua nêu cụ thể hàng hoá
định mua và tất cả những nội dung cần thiết cho việc ký kết hợp đồng. Trong
thực tế, người ta chỉ đặt hàng với các khách hàng có quan hệ thường xuyên,
lâu dài.
- Xác nhận: Khi bên mua đặt hàng và bên bán chấp nhận đơn đặt hàng
nghĩa là hai bên đã xác nhận các điều kiện cung cấp hàng hoá.
- Chấp nhận: Đối với người mua, chấp nhận mua là sự đồng ý hoàn toàn
tất cả mọi điều kiện báo giá của người bán. Khi đó một hợp đồng được thành
lập.
- Ký kết hợp đồng mua - bán: Hai bên mua và bán sau khi thống nhất
thoả thuận với nhau về điều kiện giao dịch, có khi cẩn thận ghi lại mọi điều đã
thoả thuận gửi cho bên kia. Đó là văn bản xác nhận, thường được làm thành
hai bản, bên xác nhận ký trước rồi gửi cho bên kia. Bên kia ký xong giữ lại
một bản và gửi trả lại một bản.
* Ký kết hợp đồng.
Việc giao dịch đàm phán có kết quả sẽ dẫn đến một hợp đồng mua bán.
Hợp đồng mua bán chính là sự thoả thuận giữa bên mua và bên bán. Trong đó
quy định bên bán phải cung cấp hàng hoá và quyền sở hữu hàng hoá, bên mua
phải thanh toán tiền hàng và nhận hàng. Hợp đồng mua bán là cơ sở để các bên
chuẩn bị hàng hoá, làm tốt nghĩa vụ của mình, là căn cứ để phân xử trách
nhiệm mỗi bên khi có tranh chấp và xử lý vi phạm hợp đồng. Hợp đồng thể
hiện dưới hình thức văn bản là bắt buộc với các doanh nghiệp Việt Nam. Do
đặc điểm của buôn bán trong nước và buôn bán quốc tế là khác nhau nên nội
dung cụ thể của từng điều khoản trong hợp đồng ngoại phức tạp hơn so với
hợp đồng nội. Tuy nhiên về cơ bản bất kỳ một hợp đồng nào cũng đều phải có
23
các điều khoản chủ yếu, nếu thiếu một trong các điều khoản này thì coi như
hợp đồng chưa hình thành. Dưới đây chúng ta sẽ xem xét về những điều khoản
chủ yếu của hợp đồng. Do tính chất của buôn bán quốc tế nên bên cạnh những
phần giống nhau mà cả hai loại hợp đồng đều phải có chúng ta cũng sẽ xem
xét những nội dung mà chỉ riêng hợp đồng ngoại mới có.
*.1.Các điều khoản chủ yếu của hợp đồng.
Là những điều kiện mua bán mà hai bên đã thoả thuận. Thông thường,
một nội dung hợp đồng bao gồm các điều khoản chính sau:
- Tên hàng.
- Số lượng và cách xác định.
- Qui cách, phẩm chất và cách xác định.
- Giá cả - đơn giá, tổng giá.
- Điều kiện thanh toán.
- Điều kiện giao hàng.
Với những hợp đồng phức tạp, nhiều mặt hàng thì có thêm các phụ lục
của hợp đồng, nó là bộ phận không thể tách rời của hợp đồng. Nếu trong hợp
đồng không có quy định khác về điều khoản tuỳ nghi thì hai bên coi như sẽ
thực hiện theo quy định của nhà nước hoặc theo tập quán quốc tế (đối với hợp
đồng ngoại thương).
Sau đây chỉ giới thiệu một số điều khoản chủ yếu:
- Điều khoản tên hàng: Tên hàng nói lên chính xác đối tượng trao đổi
mua bán. Vì vậy tên hàng phải được diễn đạt chính xác. Có nhiều cách diễn
đạt tên hàng như: Ghi tên hàng bao gồm tên thông thường + tên thương mại +
tên khoa học; ghi tên hàng kèm theo tên nhà sản xuất, nơi sản xuất; ghi tên
hàng kèm nhãn hiệu của nó...
- Điều khoản phẩm chất: Phẩm chất là điều khoản nói lên mặt chất của
hàng hoá mua bán như tính năng, quy cách, kích thước, tác dụng, công suất,
hiệu suất ... của hàng hoá đó. Xác định cụ thể phẩm chất của hàng hoá là cơ sở
24
để xác định giá cả hàng hoá và người mua có thể mua được hàng hoá như ý
muốn.
Trong điều khoản này phải ghi rõ cách xác định phẩm chất, tiêu chuẩn
mà hàng hoá phải đạt được. Có nhhiều phương pháp xác định phẩm chất như:
xác định dựa vào mẫu hàng, dựa vào phẩm cấp hoặc tiêu chuẩn, dựa vào quy
cách của hàng hoá, dựa vào hàm lượng chất chủ yếu trong hàng hoá, dựa vào
nhãn hiệu hàng hoá, tài liệu kỹ thuật, hiện trạng hàng hoá, sự mô tả hàng hoá,
chỉ tiêu đại khái quen dùng FAQ, GMQ...
- Điều khoản về số lượng: điều khoản này nói lên mặt lượng của hàng
hoá giao dịch. Điều khoản này bao gồm các vấn đề về đơn vị tính số lượng
(hoặc trọng lượng) của hàng hoá. Nếu số lượng quy định khoảng chừng phải
đưa ra một sai số có thể chấp nhận được. Trọng lượng của hàng hoá có thể tính
theo trọng lượng cả bì hoặc không; cũng có thể tính theo trọng lượng thương
mại tức là hàng hoá có độ ẩm tiêu chuẩn.
- Điều khoản giá cả: Điều khoản xác định đồng tiền tính giá (đối với
hợp đồng ngoại thương), mức giá, phương pháp qui định mức giá, phương
pháp xác định mức giá, cơ sở của giá cả và việc hạ giá.
+ Đồng tiền tính giá (đối với hợp đồng ngoại thương): Trong buôn bán
Thương mại quốc tế, giá cả hàng hoá được tính bằng đồng tiền của nước xuất
khẩu, nước nhập khẩu hoặc của nước thứ ba. Thông thường người ta sử dụng
những đồng ngoại tệ mạnh có khả năng chyển đổi như USD, GBP, FRF...
+ Mức giá: giá cả trong hợp đồng là giá thị trường. Trước khi ký kết hợp
đồng các bên phải tuân theo nguyên tắc xác định giá.
+ Phương pháp quy định giá: Giá cả có thể xác định ngay lúc ký kết hợp
đồng gọi là giá xác định, cũng có thể xác định trong thời gian hiệu lực của hợp
đồng gọi là giá xác định sau hoặc xác định vào lúc thực hiện hợp đồng.
+ Giảm giá: Để khuyến khích các bên thực hiện hợp đồng sớm hoặc khi
khách hàng mua với số lượng lớn, khách truyền thống, trả tiền sớm... người
bán có thể giảm giá cho người mua. Hoặc người bán sẽ giảm giá vào thời vụ,
25
đổi hàng cũ lấy hàng mới, ... Có các loại giảm giá sau: Giảm giá đơn, giảm giá
kép, giảm giá luỹ tiến, giảm giá tặng thưởng.
+ Điều kiện cơ sở giao hàng (đối với hợp đồng ngoại thương): Bên cạnh
giá cả người ta bao giờ cũng ghi kèm một điều kiện cơ sở giao hàng thoả
thuận. Ví dụ như $2000 CIF Hải phòng.
- Điều khoản giao hàng: Nội dung cơ bản của điều kiện giao hàng là sự
xác định thời hạn, địa điểm giao hàng và thông báo giao hàng.
+ Thời hạn giao hàng: là thời hạn mà người bán phải hoàn thành nghĩa
vụ giao hàng. Có 2 kiểu quy định thời hạn giao hàng là thời hạn giao hàng có
định kỳ, thời hạn giao hàng không định kỳ (ít được dùng).
+ Địa điểm giao hàng: có thể giao tại kho người bán hoặc tại kho người
mua. Tuy nhiên trong thương mại quốc tế việc quy định rõ địa điểm giao hàng
rất quan trọng. Nó liên quan đến phương thức chuyên chở hàng hoá và điều
kiện cơ sở giao hàng. Mặc dù điều kiện cơ sở giao hàng đã quy định rõ địa
điểm giao hàng, tuy nhiên có những điều kiện cơ sở giao hàng chỉ quy định
cảng đến mà không xác định cảng đi (ví dụ như điều kiện C and F). Vì vậy hai
bên phải thoả thuận quy định địa điểm giao hàng.
Trong buôn bán Thương mại quốc tế người ta phân biệt các địa điểm
giao hàng sau:
Quy định cảng (ga) giao hàng, cảng (ga) đến, cảng (ga) thông qua.
Quy định một cảng (ga) và nhiều cảng (ga).
Quy định cảng (ga) khẳng định, cảng (ga) lựa chọn.
+ Phương thức giao hàng:
Quy định việc giao hàng được tiến hành ở một nơi nào đó là giao nhận
sơ bộ hoặc giao nhận cuối cùng. Giao nhận sơ bộ là bước đầu xem xét hàng
hoá, xác nhận sự phù hợp về số lượng, chất lượng hàng hoá so với hợp đồng.
Giao nhận cuối cùng xác nhận việc người bán hàng hoàn thành nghĩa vụ giao
hàng.
26
Quy định việc giao nhận về số lượng và chất lượng: Giao nhận về số
lượng là xác định số lượng thực tế hàng hoá được giao bằng các phương pháp
cân đong, đo, đếm; giao nhận về chất lượng là kiểm tra hàng hoá về kích
thước, hình dáng, tính năng, công dụng, hiệu suất... Giao nhận có thể tiến hành
bằng phương pháp cảm quan hoặc phương pháp phân tích, có thể trên toàn bộ
hàng hoá hay một phần có tính chất điển hình.
+ Thông báo giao hàng: Đối với các hợp đồng mua - bán trong nước,
việc quy định thông báo giao hàng không quan trọng và có thể bỏ qua trong
hợp đồng. Nhưng đối với hợp đồng ngoại thì việc quy định thông báo giao
hàng là không thể bỏ qua. Trước khi giao hàng, người bán có trách nhiệm
thông báo cho người mua biết đã sẵn sàng giao hoặc ngày đem hàng ra cảng để
giao. Người mua thông báo những điều cần thiết để gửi hàng hoặc về chi tiết
của tàu đến nhận hàng...
- Điều kiện thanh toán: Trong điều kiện này các bên cần xác định các
vấn đề: phương thức thanh toán, thời hạn thanh toán, đối với các hợp đồng
ngoại thì còn phải xác định thêm về đồng tiền thanh toán, các chứng từ làm
căn cứ thanh toán và điều kiện đảm bảo hối đoái.
Thời hạn thanh toán có thể trả trước, trả ngay, trả sau hoặc kết hợp các
hình thức đó trong một hợp đồng.
Phương thức thanh toán:
Đối với hợp đồng nội: có thể sử dụng các phương thức thanh toán
như: thanh toán gối đầu nợ một hoá đơn, thanh toán một tháng một
lần, ...
Đối với hợp đồng ngoại: có thể sử dụng các phương thức thanh toán
như: phương thức nhờ thu, phương thức tín dụng chứng từ, phương
thức chuyển tiền, phương thức chuyển tài khoản, phương thức ghi
sổ...
27
Trong hợp đồng ngoại, đồng tiền thanh toán có thể là đồng tiền của
nước xuất khẩu hoặc nước nhập khẩu hoặc một nước thứ ba. Đồng tiền thanh
toán có thể trùng hoặc không trùng với đồng tiền tính giá.
Điều kiện đảm bảo hối đoái: Để tránh các tổn thất có thể xảy ra các bên
giao dịch có thể thoả thuận điều kiện đảm bảo hối đoái khi đồng tiền thế giới
biến động bất thường.
Ngoài những điều khoản cơ bản trên nội dung của hợp đồng cũng cần
làm rõ một số vấn đề sau( đặc biệt trong mua bán ngoại thương):
- Bảo hiểm và giám định hàng hoá.
- Các trường hợp bất khả kháng.
- Trách nhiệm của các bên khi vi phạm hợp đồng.
- Hiệu lực của hợp đồng và thủ tục giải quyết tranh chấp.
II.2.2.2. Tổ chức thực hiện hợp đồng.
Do tính chất phức tạp của buôn bán quốc tế mà trong phần này chúng ta
sẽ đi xem xét riêng từng cách tổ chức thực hiện hợp đồng.
* Tổ chức thực hiện hợp đồng mua bán trong nước.
Sau khi ký kết hợp đồng mua bán, nghĩa là quyền lợi và nghĩa vụ của
các bên đã được xác lập. DNTM với tư cách là một bên ký kết hợp đồng, tiến
hành sắp xếp những phần việc phải làm, ghi thành biểu bảng theo dõi tiến độ
thực hiện hợp đồng. Ngoài việc thực hiện nghĩa vụ của mình DNTM còn phải
yêu cầu bên bán thực hiện trách nhiệm của họ để hợp đồng được thực hiện
đúng tiến độ, tránh gây cản trở hoặc chậm thời gian thực hiện dẫn đến những
hậu quả xấu ảnh hưởng đến kinh tế của cả hai bên.
Tổ chức thực hiện hợp đồng trong nước có thể bao gồm các công việc
sau:
28
*.1. đôn đốc bên bán giao hàng.
Để hợp đồng được thực hiện đúng tiến độ, DNTM cần nhắc nhở bên bán
giao hàng đúng thời hạn bằng thư, điện thoại, FAX... Việc này sẽ giúp cho bên
bán nhận thấy rõ trách nhiệm của mình hơn, khẩn trương giao hàng, bên mua
sẽ nhận được hàng đúng thời hạn, quá trình thực hiện hợp đồng diễn ra trôi
chảy.
*.2. Tổ chức tiếp nhận và vận chuyển.
Trước khi hàng về đến kho bên mua, bên bán có trách nhiệm thông báo
cho bên mua để chuẩn bị nhận hàng. Sau khi nhận được thông báo bên mua
(DNTM) có trách nhiệm sắp xếp, bố trí người nhận hàng và nơi để hàng. Việc
nhận hàng có thể qua hai bước tiếp nhận sơ bộ và tiếp nhận cụ thể, cũng có thể
bỏ qua bước tiếp nhận sơ bộ nếu lượng hàng ít và đơn giản.
Việc vận chuyển hàng hoá từ kho người bán đến kho người mua còn tuỳ
thuộc vào hợp đồng giữa hai bên. Nếu trong hợp đồng có quy định bên mua
phải tự vận chuyển hàng hoá từ kho người bán thì bên mua phải có trách
nhiệm chuẩn bị phương tiện vận chuyển, tổ chức vận chuyển hàng hoá về kho
ôn c bên bán giao hàng
T ch c ti p nh n và v n chuy n
Thanh toán
Gi i quy t khi u n i n u có
29
của mình. Nếu hợp đồng quy định bên bán có trách nhiệm giao hàng tận nơi
theo yêu cầu của người mua thì bên mua không phải tổ chức vận chuyển hàng
hoá. Tuy nhiên lúc này trong giá hàng thường bao gồm cả giá cước vận
chuyển.
*.3. Thanh toán.
Sau khi nhận hàng đầy đủ, doanh nghiệp có trách nhiệm thanh toán cho
người bán. Thời hạn thanh toán phụ thuộc vào thời hạn thanh toán quy định
trong hợp đồng. Doanh nghiệp phải nhanh chóng thanh toán đúng hạn cho
người bán. Việc thanh toán đúng hạn không chỉ đảm bảo việc thực hiện đúng
hợp đồng, tránh sự khiếu nại của người bán mà nó còn tạo ra uy tín trong buôn
bán với nhà cung cấp. Có thể nói danh tiếng hay uy tín về việc thanh toán hoá
đơn là một tài sản đối với doanh nghiệp.
*.4. Giải quyết khiếu nại (nếu có).
Trong trường hợp bên bán không giao đủ hàng hoặc chất lượng, chủng
loại hàng hoá không đúng với hợp đồng và đơn hàng, Doanh nghiệp có thể giải
quyết theo ba cách sau:
- Phản ánh lại với người bán và đề nghị giao đủ hàng hoặc đổi hàng.
- Đưa khiếu nại ra trọng tài kinh tế mà hai bên đã quy định trong hợp
đồng trong trường hợp bên bán không đồng ý đề nghị của bên mua.
- Khiếu nại lên toà án kinh tế nếu bên mua không đồng ý với quyết định
của trọng tài.
* Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Khác với hợp đồng mua bán trong nước hợp đồng nhập khẩu phức tạp
hơn rất nhiều do dính đến yếu tố nước ngoài. Vì vậy công tác tổ chức thực
hiện hợp đồng nhập khẩu rất phức tạp, nó bao gồm các công việc sau:
30
Quy trình thựa hiện hợp đồng nhập khẩu
*.1 Xin giấy phép nhập khẩu.
Giấy phép nhập khẩu là cơ sở pháp lý đầu tiên để doanh nghiệp tiến
hành các bước tiếp theo. Hiện nay Nhà nước đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho
Xin gi y phép nh p kh u
M L/C
ôn c bên bán giao hàng
Thuê tàu (n u nh p kh u giá FOP)
Mua b o hi m hàng hoá
Làm th t c h i quan
Nh n hàng
Ki m tra hàng hoá
Làm th t c thanh toán
Khi u n i v hàng hoá (n u có)
31
các đơn vị sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu những mặt hàng theo ngành
nghề mà đơn vị đã đăng ký trong giấy phép kinh doanh. Nghị định 57/CP - ban
hành ngày 31/07/1998 qui định:
Các mặt hàng thuộc danh mục hàng hoá kinh doanh có điều kiện khi
muốn nhập khẩu phải xin giấy phép nhập khẩu.
Các mặt hàng thuộc danh mục hàng hoá theo ngành nghề đã đăng ký
trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh khi nhập khẩu không cần phải xin
giấy phép nhập khẩu.
Xin giấy phép nhập khẩu.
Đối tượng của việc xin giấy phép nhập khẩu là các hàng hoá nhập
khẩu có điều kiện. Hàng hoá nhập khẩu có điều kiện là hàng hoá nhập khẩu
theo hạn ngạch hoặc hàng hoá nhập khẩu theo giấy phép của Bộ Thương mại
hoặc Bộ quản lý chuyên ngành (Điều 5 - NĐ 57 / CP. 1998).
Khi đối tượng hợp đồng thuộc phạm vi phải xin giấy phép nhập khẩu,
các doanh nghiệp phải xuất trình hồ sơ xin phép gồm: Hợp đồng, phiếu hạn
ngạch (nếu là hàng thuộc diện quản lý bằng hạn ngạch), hợp đồng nhập khẩu
uỷ thác (nếu đó là trường hợp nhập khẩu uỷ thác).
Đăng ký mã số doanh nghiệp:
Nghị định 57 / CP ban hành ngày 31/07/1998 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công
và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài là một bước đổi mới trong cơ chế,
thủ tục hành chính của hoạt động xuất nhập khẩu. Nó khuyến khích mọi thành
phần kinh tế tham gia vào hoạt động kinh doanh Thương mại quốc tế nhằm mở
rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Sự thay đổi đó là thay thế giấy phép kinh doanh
xuất nhập khẩu do Bộ Thương mại cấp bằng giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh và giấy chứng nhận đăng ký mã số doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là
các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo quy định
của pháp luật được phép kinh doanh xuất nhập khẩu theo ngành nghề đăng ký
kinh doanh trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh sau khi đã đăng ký mã
32
số doanh nghiệp tại Cục hải quan tỉnh, thành phố mà không phải xin giấy phép
kinh doanh nhập khẩu ở Bộ Thương mại như trước đây.
*.2. Mở thư tín dụng L / C.
Nếu thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ thì người nhập
khẩu làm đơn xin mở thư tín dụng gửi đến ngân hàng phục vụ mình yêu cầu
mở một thư tín dụng cho người xuất khẩu hưởng.
Thư tín dụng ( Letter of Credit - L / C) là một chứng thư (điện hoặc ấn
chỉ) trong đó ngân hàng mở L / C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nếu họ
trình được một bộ chứng từ phù hợp với nội dung của L / C.
L / C là một văn bản pháp lý rất quan trọng. Thiếu nó, người xuất khẩu
sẽ không giao hàng và người nhập khẩu sẽ không thanh toán nếu người xuất
khẩu không giao đủ bộ chứng từ hợp lệ quy định trong L / C.
Nội cung của L / C dựa vào nội dung của hợp đồng nhập khẩu nhưng
sau khi mở nó lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng.
Nội dung của L / C cần ghi rõ: loại L /C, người mở L/ C, người hưởng
lợi, thời gian giao hàng, số tiền, các chứng từ quy định, điều kiện cơ sở giao
hàng, phương thức giao hàng và các điều kiện khác.
*.3. Đôn đốc bên bán giao hàng.
Để hợp đồng thực hiện đúng tiến độ, người nhập khẩu sẽ nhắc nhở, đôn
đốc người xuất khẩu giao hàng đúng hạn bằng thư, điện thoại, FAX ... Việc
này sẽ giúp cho người xuất khẩu nhận rõ trách nhiệm của mình hơn, người
nhập khẩu nhận hàng đúng hạn và mọi điều khoản khác sẽ trôi chảy, hai bên
đỡ bị thiệt hại về kinh tế và uy tín.
*.4. Thuê tàu vận chuyển nếu nhập giá FOB:
Điều kiện cơ sở giao hàng thường được các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu sử dụng là CIF, FOB trong vận tải đường biển. Nếu đơn vị nhập khẩu
nhập bằng giá FOB sẽ phải chịu trách nhiệm thuê tàu chuyên chở hàng hoá.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu, việc thuê tàu dựa
vào các căn cứ sau:
33
- Những điều khoản của hợp đồng nhập khẩu.
- Đặc điểm hàng hoá mua bán
Thông thường có hai phương thức thuê tàu là thuê tàu chợ và thuê tàu
chuyến. Tàu chợ là tàu chuyên chở hàng hoá theo đúng tuyến đường đã định
trước và qua các cảng nhất định. Tàu chợ chủ yếu chuyên chở nhiều loại hàng
hoá thuộc loại hàng rời đóng kiện nên còn gọi là tàu bách hoá. Thường có
nhiều chủ hàng sở hữu nhiều loại hàng hoá trên một chuyến tàu chợ. Tàu
chuyến là tàu kinh doanh chuyên chở hàng hoá trên biển không theo một lịch
trình nhất định, nó thường tuân theo yêu cầu của người thuê tàu. Người thuê
tàu có thể áp dụng các hình thức thuê tàu chuyến một, thuê chuyến khứ hồi
hay thuê bao tuỳ theo khối lượng của hàng hoá và phương thức kinh doanh của
mình.
*.5. Mua bảo hiểm hàng hoá.
Chuyên chở bằng đường biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Bởi vậy
trong kinh doanh Thương mại quốc tế, bảo hiểm hàng hoá phổ biến nhất. Bảo
hiểm sẽ chịu trách nhiệm về các thiệt hại được bảo hiểm như bão tố, cướp
biển, chiến tranh, chìm, đắm tàu gây tổn thất cho hàng hoá.
Có hai loại hợp đồng bảo hiểm: Hợp đồng bảo hiểm bao và hợp đồng bảo hiểm
chuyến. ở Việt Nam, theo quy định 2051/HH 94 của tổng Công ty Bảo hiểm
Việt Nam (Bảo Việt) ban hành ngày 12/12/1994 thì phạm vi bảo hiểm được
quy định theo ba điều kiện A, B, C. Nhà kinh doanh nhập khẩu bắt buộc mua
bảo hiểm hàng hoá trong các trường hợp sau:
- Khi hợp đồng nhập khẩu quy định người nhập khẩu phải mua bảo
hiểm.
- Khi nhập khẩu theo các điều kiện thương mại khác các điều kiện CIF,
CIP và nếu người mua và người bán thoả thuận vấn đề mua bảo hiểm hàng hoá
thuộc về người mua thì người mua phải mua bảo hiểm.
Lựa chọn điều kiện bảo hiểm thường trên các căn cứ:
- Tính chất hàng hoá.
34
- Điều khoản của hợp đồng.
- Loại phương tiện vận chuyển.
- Tình trạng bao bì và phương thức bốc xếp hàng hoá.
- Tình hình chính trị xã hội.
- Tuyến đường vận chuyển...
*.6. Làm thủ tục hải quan.
Thủ tục hải quan là một công cụ để quản lý hành vi buôn bán theo pháp
luật của Nhà nước để ngăn chặn hành vi buôn bán lậu qua biên giới; để kiểm
tra giấy tờ sai xót, giả mạo hay không; để thống kê số liệu về hàng xuất nhập
khẩu. Doanh nghiệp nhập khẩu muốn vận chuyển hàng hoá qua biên giới quốc
gia bắt buộc phải làm thủ tục hải quan.
Việc làm thủ tục hải quan nhập khẩu phải trải qua 3 bước:
- Bước 1: Làm thủ tục nhập khẩu về mặt giấy tờ tại cơ quan hải quan;
khai báo hải quan.
- Bước 2: Xuất trình hàng hoá để kiểm tra.
- Bước 3: Thực hiện các quyết định của hải quan
+ Cho thông quan, hoặc
+ Thông quan có điều kiện, hoặc
+ Không được phép nhập khẩu qua biên giới.
*.7. Nhận hàng.
Nghi định 200 / CP ngày 31/12/1973 quy định các cơ quan vận tải (ga,
cảng) có trách nhiệm tiếp nhận hàng hoá nhập khẩu trên các phương tiện vận
tải từ nước ngoài vào, bảo quản, xếp dỡ, lưu kho, lưu bãi và giao theo lệnh cho
đơn vị đặt hàng hoặc đơn vị ngoại thương đã nhập hàng.
Các đơn vị kinh doanh nhập khẩu phải:
- Ký hợp đồng uỷ thác cho cơ quan vận tải về việc giao hàng.
- Xác nhận với cơ quan vận tải kế hoạch tiếp nhận hàng nhập khẩu hàng
năm, quý...
35
- Thông báo cho các đơn vị trong nước đặt hàng dự kiến ngày hàng về,
ngày thực tế chở hàng đến cảng hoặc chở vào kho giao nhận.
- Thanh toán các khoản liên quan tới vận tải.
- Theo dõi, đôn đốc việc bốc xếp, giao nhận hàng hoá.
*.8. Kiểm tra hàng nhập khẩu.
Có hai tiêu chuẩn để kiểm tra, đó là số lượng và chất lượng. Việc kiểm
tra số lượng thường dễ hơn kiểm tra chất lượng. Kiểm tra số lượng bằng các
phương tiện như cân, đong, đo, đếm. Khi đã đủ hàng hoá về mặt lượng vẫn
còn phải kiểm tra về mặt chất của nó. Điều này nhằm bảo đảm lợi ích, hiệu
quả kinh tế của người nhập khẩu, ngăn chặn mầm dịch bệnh hoặc chất lượng
hàng không đủ tiêu chuẩn.
Đơn vị nhập khẩu với tư cách là một bên đứng tên trong vận đơn phải
làm đơn dự kháng nếu nghi ngờ hoặc hàng hoá thật sự thiếu hụt hoặc không
đồng bộ như quy định trong hợp đồng.
Các cơ quan chức năng có nhiệm vụ kiểm tra hàng trước khi cho tiếp tục
chuyênchở vào nội địa.
*.9. Làm thủ tục thanh toán.
Có thể nói thanh toán là khâu trọng tâm và kết quả cuối cùng của tất cả
các giao dịch kinh doanh Thương mại quốc tế.
Thanh toán trong Thương mại quốc tế được hiểu là việc chi trả các
khoản tiền, tín dụng có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá được thoả
thuận ghi trong hợp đồng. Thanh toán trong Thương mại quốc tế rất phức tạp
nhưng chủ yếu có hai phương thức sau: thanh toán bằng thư tín dụng L / C,
thanh toán bằng phương thức nhờ thu.
*.10. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại (nếu có).
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, khi hàng hoá có tổn thất hoặc
thanh toán nhầm lẫn ... thì doanh nghiệp nhập khẩu sẽ khiếu nại với doanh
nghiệp xuất khẩu.
36
Khiếu nại là một trong hai phương pháp giải quyết tranh chấp phát sinh
trong quá tình thực hiên hợp đồng ngoại thương mà theo đó các bên tranh chấp
tiến hành đàm phán và thương lượng theo nguyên tắc mặt đối mặt nhằm đem
lại một hậu quả pháp lý là có thể thoả mãn hoặc không thoả mãn yêu cầu của
người đi khiếu nại.
Trong hoạt động ngoại thương, người nhập khẩu thường khiếu nại
những người sau: Người bán ( người xuất khẩu), người vận tải, người bảo
hiểm.
II.2.3. Theo dõi và đánh giá hoạt động mua hàng.
Trong quá trình thực hiện kế hoạch mua hàng việc theo dõi và đánh giá
kết quả mua tỏ ra khá quan trọng. Nó là cơ sở để doanh nghiệp lên các đơn
hàng tiếp theo. Việc theo dõi bao gồm các dữ liệu về hàng hoá được bán ra
như thế nào, tốc độ luân chuyển hàng hoá, việc định giá lại thấp hơn, những
khiếu nại của khách hàng, hàng bị trả lại, những điều chỉnh, và những khoản
được trừ bớt. Những nội dung này phải luôn luôn được cập nhật kể từ khi nhập
hàng cho đến khi bán được hàng. Việc theo dõi sẽ giúp doanh nghiệp biết được
mặt hàng nào thuộc loại "nóng"; mặt hàng nào chỉ có mức bán trung bình;
hoặc mặt hàng nào là sự quyết định sai lầm của doanh nghiệp. Để việc theo dõi
nhập hàng tốt doanh nghiệp nên lập hồ sơ về các nguồn cung ứng. Trong bộ hồ
sơ đó doanh nghiệp sẽ lưu trữ một phiếu theo dõi của mỗi nhà cung cấp có ghi
chép đầy đủ kết quả của tất cả các vụ giao dịch buôn bán với hãng cung cấp
đó. Bộ hồ sơ bao gồm những số liệu về giá cả, số lượng hàng đã nhập, mức
chiết khấu, và những thông tin mua bán khác. Một bộ hồ sơ như vậy là một chỉ
dẫn có giá trị cho việc đặt hàng sau này. Doanh nghiệp dựa trên kết quả theo
dõi đó để đánh giá toàn bộ công tác mua hàng, so sánh kết quả đạt được với kế
hoạch đề ra.
37
Chương 2: tình hình tạo nguồn và mua hàng của Trung tâm Thương mại
INTIMEX- công ty xuất nhập khẩu INTIMEX.
I. Lịch sử hình thành và phát triển của Trung tâm Thương mại
INTIMEX.
I.1. Quá trình hình thành, chức năng nhiệm vụ của Trung tâm.
I.1.1. Quá trình hình thành của Trung tâm Thương mại INTIMEX..
Trung tâm Thương mại INTIMEX là một doanh nghiệp Nhà nước , là
một trong tám thành viên của Công ty xuất nhập khẩu INTIMEX, trực thuộc
Bộ Thương mại. Công ty XNK INTIMEX được thành lập theo quyết định số
469-TM TCCB của Bộ thương mại ngày 8/6/1995.
Quá trình phát triển của Trung tâm Thương mại INTIMEX cũng đồng
thời với sự phát triển của nền thương mại - dịch vụ thủ đô và của đất nước
trong hơn 40 năm qua.
Tiền thân là xí nghiệp thương nghiệp Giao tế ra đời vào năm 1959 với
nhiệm vụ là cửa hàng cung cấp hàng hoá đặc biệt nhằm phục vụ các cán bộ
cao cấp của Đảng và nhà nước. Xí nghiệp là đơn vị hạch toán kinh tế, thực
hiện xuất khẩu tại chỗ thông qua việc mua bán hàng hoá cho khách nước
ngoài. Tuy nhiên việc phục vụ vẫn là nhiệm vụ chính.
Năm 1982, Công ty Hữu Nghị được thành lập trên cơ sở Xí nghiệp
thương nghiệp Giao Tế. Đại hội Đảng VI - 1986 đã mở ra một công cuộc đổi
mới toàn diện nền kinh tế. Cùng với việc đổi mới tư duy kinh tế, Đảng và nhà
nước ta đã ban hành nhiều chính sách tạo điều kiện cho việc phát triển thương
mại nước nhà. Chuyển việc mua bán hàng hoá từ cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp sang mua bán theo cơ chế thị trường, giá cả được hình thành trên cơ
sở giá trị và quan hệ cung - cầu. Công ty Hữu Nghị đã được tăng quyền chủ
động trong kinh doanh sau quyết định 217 / HĐBT, có trách nhiệm xây dựng
kế hoạch, có nghĩa vụ thực hiện kế hoạch được giao và được hưởng những
quyền lợi tương ứng.
38
Từ năm 1982 đến năm 1987, Công ty Hữu Nghị trực thuộc Bộ Thương
Mại. Năm 1987, Công ty Hữu Nghị sát nhập và trở thành một thành viên của
Công ty xuất nhập khẩu nội thương và hợp tác xã INTIMEX.
Năm 1990, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã tạo cho Công ty
nhiều cơ hội mới nhưng cũng nhiều thách thức mới. Cũng trong khoảng thời
gian này Công ty đã được tách thành hai đơn vị: Xí nghiệp thương mại dịch
vụ tổng hợp và Trung tâm thương mại dịch vụ tổng hợp.
Đến ngày 8/6/1995, Công ty xuất nhập khẩu nội thương và hợp tác xã
INTIMEX chuyển thành Công ty xuất nhập khẩu và dịch vụ thương mại
INTIMEX (hiện nay là Công ty xuất nhập khẩu INTIMEX) theo quyết định số
469 Tm -tccb của Bộ thương mại, thực hiện nhiệm vụ xuất nhập khẩu và tổ
chức hoạt động dịch vụ nhằm phù hợp với tình hình phát triển của nền kinh tế
đất nước. Trong quá trình hoạt động Công ty nhận thấy hai đơn vị nằm trên
cùng một địa bàn, có chức năng nhiệm vụ như nhau, dẫn đến cạnh tranh
không lành mạnh trong cùng một tổng thể của Công ty, hoạt động trong cơ chế
thì trường không còn phù hợp nữa. Để tổng hợp sức mạnh Công ty đã quyết
định sát nhập thành Trung tâm Thương mại INTIMEX. Trung tâm được hình
thành từ ba đơn vị:
- Xí nghiệp thương mại dịch vụ tổng hợp.
- Trung tâm thương mại dịch vụ tổng hợp.
- Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu số 9 của Công ty.
Trung tâm Thương mại INTIMEX là một doanh nghiệp nhà nước trực
thuộc Công ty xuất nhập khẩu INTIMEX. Trung tâm Thương mại INTIMEX
là một tổ chức có tư cách pháp nhân, hạch toán phụ thuộc, được tổ chức hạch
toán kinh doanh theo quy định của pháp luật, có các quyền và nghĩa vụ theo
luật định, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong tổng số
vốn do Trung tâm quản lý, có con dấu riêng, tài sản nằm trong sự quản lý của
Công ty, được mở tài khoản tại Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm, được tổ
chức và hoạt động theo điều lệ quy định của Bộ Thương mại.
39
Tên đơn vị: Trung tâm Thương mại INTIMEX.
Tên giao dịch đối ngoại: Intimex Trading Centre.
Tên viết tắt: Intimex.
Địa chỉ: 22 - 32 Lê Thái Tổ - Hà Nội.
I.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm Thương mại INTIMEX.
Trung tâm Thương mại INTIMEX có hai chức năng cơ bản:
- Trực tiếp kinh doanh thương mại nội địa và kinh doanh xuất nhập
khẩu.
- Làm các dịch vụ như: Dịch vụ khách sạn, du lịch, kiều hối.
Hai chức năng này được biểu hiện ở các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh ngắn hạn, dài hạn về kinh
doanh xuất nhập khẩu, kinh doanh nội địa, ... theo đúng ngành nghề đã đăng
ký kinh doanh và luật pháp của Nhà nước dưới sự điều hành của Công ty Mẹ
và các hướng dẫn của luật doanh nghiệp.
- Xây dựng các phương án kinh doanh về dịch vụ phát triển theo kế
hoạch và mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp.
- Tổ chức nghiên cứu và nâng cao năng suất lao động, áp dụng tiến bộ
khoa học vào quản lý và thực hiện kinh doanh, cải tiến phương thức kinh
doanh nâng cao chất lượng hàng hoá và mẫu mã hàng hoá ...
- Thực hiện đầy đủ mọi cam kết trong hợp đồng kinh tế đã ký kết với
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
- Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế cho ngân sách Nhà nước.
- Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Công ty.
I.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động của Trung tâm Thương mại
INTIMEX.
Đứng đầu là giám đốc Trung tâm do giám đốc Công ty bổ nhiệm và
miễn nhiệm.
40
Giúp việc cho giám đốc có các phó giám đốc, các phó giám đốc này
mỗi người chịu trách nhiệm tương ứng một phần công việc của Trung tâm
thương mại.
Kế toán trưởng chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc, có trách nhiệm
giúp đỡ Giám đốc tổ chức chỉ đạo thực hiện toàn bộ công tác kế toán thống kê,
thông tin kinh tế và hạch toán kinh tế của Trung tâm theo quy định hiện hành
của Nhà nước.
Nhiệm vụ của các phòng ban do giám đốc quy định. Trung tâm gồm có
các phòng ban sau:
1/ Phòng tài chính kế toán.
2/ Phòng tổ chức hành chính.
3/ Phòng nghiệp vụ kinh doanh.
Đơn vị trực thuộc gồm có: Siêu thị INTIMEX.
Trong đó:
- Phòng tổ chức hành chính có nhiệm vụ tham mưu cho Giám đốc về
công tác tổ chức các hoạt động hành chính, quản lý tài sản, tổ chức sắp xếp
cán bộ, thực hiện chế độ với cán bộ công nhân viên trong Trung tâm.
- Phòng tài chính kế toán: giúp Giám đốc tổ chức hạch toán kinh doanh,
thực hiện giám đốc bằng đồng tiền, theo dõi, ghi chép số liệu tình hình cụ thể
về luân chuyển và sử dụng tài sản tiền vốn, quá trình và kết quả hoạt động kinh
doanh của Trung tâm.
- Phòng nghiệp vụ kinh doanh: có trách nhiệm nghiên cứu thị trường,
quan hệ giao dịch với các bạn hàng trong và ngoài nước để khai thác nguồn
hàng phục vụ cho hoạt động XNK và kinh doanh nội địa.
41
Dưới đây là sơ đồ cơ cấu tổ chức của Trung tâm Thương mại
INTIMEX:
II. Đặc điểm và kết quả hoạt động kinh doanh của Trung tâm Thương
mại INTIMEX.
II.1. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Trung tâm Thương mại
INTIMEX.
II.1.1. Đặc điểm về sản phẩm và lĩnh vực hoạt động của Trung tâm Thương
mại INTIMEX.
Trung tâm Thương mại INTIMEX là một doanh nghiệp kinh doanh theo
loại hình kinh doanh tổng hợp. Ban lãnh đạo của Trung tâm và Công ty cũng
xác định chiến lược kinh doanh của Trung tâm cũng như toàn bộ Công ty là đa
dạng hoá mặt hàng kinh doanh. Cơ cấu mặt hàng kinh doanh ngày càng mở
rộng.
Về hàng hoá kinh doanh xuất nhập khẩu: mặt hàng chính cho xuất khẩu
là hàng nông sản, hàng may mặc, các thiết bị đồng bộ, cao su... Mặt hàng
chính cho nhập khẩu là hàng tiêu dùng, linh kiện xe máy, hoá chất, vải sợi, các
hàng hóa thuộc nhóm mỹ phẩm, nguyên vật liệu, trong đó hàng tiêu dùng chủ
yếu là hàng công nghệ phẩm, thực phẩm công nghệ và công cụ gia đình.
Giám c Trung tâm
Phó giám c 1 Phó giám c 2 Phó giám c 3
Phòng t ch c
hành chính
Phòng nghi p
v kinh doanh
Siêu th
INTIMEX
Phòng k toán
t ng h p
42
Về hàng hoá kinh doanh nội địa: Trung tâm kinh doanh tổng hợp các
mặt hàng thuộc nhóm hàng tiêu dùng. Bao gồm các mặt hàng thuộc các ngành:
Bánh kẹo, đồ uống, thực phẩm tươi sống, thực phẩm chế biến và đồ hộp, mỹ
phẩm và chất tảy rửa, hàng gia dụng và dụng cụ gia đình. Ngoài ra Trung tâm
còn kinh doanh dịch vụ du lịch và kiều hối.
II.1.2. Về phương thức kinh doanh.
Trung tâm Thương mại INTIMEX có hai chức năng chính là kinh doanh
xuất nhập khẩu và kinh doanh nội địa. Đối với mỗi chức năng, Trung tâm xác
định các phương thức kinh doanh khác nhau.
Trong kinh doanh XNK, các phương thức chủ yếu là xuất khẩu trực tiếp,
xuất khẩu uỷ thác, các hình thức gia công hàng hoá xuất khẩu, chuyển khẩu,
tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập có tỷ trọng nhỏ, hầu như không đáng kể.
Đối với kinh doanh nội địa: Trung tâm thực hiện kinh doanh nội địa
thông qua bán các mặt hàng nhập khẩu bằng hình thức bán buôn, bán lẻ tại
Siêu thị INTIMEX. Ngoài ra Trung tâm còn tổ chức kinh doanh các mặt hàng
chất lượng cao sản xuất trong nước, các mặt hàng nhập khẩu thông qua một số
nhà cung cấp.
Phương thức kinh doanh của Trung tâm đa dạng và dễ dàng thay đổi
theo các điều kiện kinh doanh. Trung tâm áp dụng các hình thức bán buôn, bán
lẻ, đại lý, uỷ thác. nhằm đạt mục tiêu của chiến lược kinh doanh và đáp ứng
kịp thời các nhu cầu khác nhau của sản xuất và tiêu dùng trong nước và ngoài
nước. Điều này đòi hỏi các hoạt động kinh doanh của Trung tâm phải diễn ra
nhanh chóng, số vòng quay vốn lớn, lượng vốn nhiều, chất lượng hàng hoá
nhập khẩu đảm bảo.
II.1.3. Đặc điểm về thị trường, khách hàng và nguồn hàng của Trung tâm
thương mại INTIMEX.
Về thị trường và khách hàng của Trung tâm: thị trường trong nước,
Trung tâm xác định đối tượng phục vụ là tầng lớp dân cư có thu nhập khá trở
lên, phụ nữ và khách du lịch nước ngoài, những đối tượng này tập trung chủ
43
yếu ỏ Hà Nội. Loại khách này chủ yếu chú ý đến những hàng hoá có chất
lượng tốt, mẫu mã đẹp, nhãn hiệu nổi tiếng và cung cách phục vụ của nhân
viên. Đối với khách hàng mua buôn, mua với khối lượng lớn, Trung tâm tổ
chức bán buôn, giao hàng tận nơi theo yêu cầu. Về thị trường nước ngoài,
Trung tâm đã quan hệ buôn bán với nhiều nước trên thế giới như Trung Quốc,
Hongkong, Cộng hoà liên bang Nga, ucraina, australia, các nước thuộc khối
ASEAN,... Một số thị trường lớn như EU, Mỹ, Trung tâm chưa đặt quan hệ
buôn bán. Trong thời gian tới Trung tâm sẽ cố gắng thâm nhập thị trường lớn
này.
Vì kinh doanh đa dạng hoá mặt hàng nên nguồn phục vụ cho hoạt động
kinh doanh của Trung tâm cũng rất phong phú. Trung tâm có quan hệ làm ăn
buôn bán với nhiều nhà máy sản xuất, các hãng liên doanh, các nhà phân phối
sản phẩm lớn tại Việt Nam. Ví dụ như nhà máy đồ hộp thực phẩm Hạ Long
cung cấp thực phẩm đóng hộp; nhà máy sản xuất chè Kim Anh; Unilever Việt
nam....Thị trường nguồn hàng nhập khẩu của Trung tâm cũng rất phong phú.
Các bạn hàng truyền thống của Trung tâm là Nhật Bản, Thái Lan, Singapore,
Hongkong, Malaysia, Italia,....
II.1.4. Đặc điểm về nguồn lực của Trung tâm Thương mại INTIMEX.
II.1.4.1. Đặc điểm về vốn, trang thiết bị, tài sản của Trung tâm.
Để tìm hiểu về nguồn vốn của Trung tâm, chúng ta hãy xem xét cơ cấu
vốn của Trung tâm được thể hiện trong bảng dưới đây:
Bảng 1: Nguồn vốn Trung tâm Thương mại INTIMEX năm 1999 - 2000.
Đơn vị: triệu đồng.
Năm
Chỉ tiêu
Năm 1999 Năm 2000
Số lượng Tỷ trọng (%) Số lượng Tỷ trọng (%)
Tổng 10746,09 100 15039,1 100
Vốn vay:
- Vốn vay ngắn hạn.
- Tiền khách hàng trả
trước.
9691,09
4305,5
5385,59
90,2
(40,1)
(50,1)
13.009,1
5.315,4
7.693,7
86,5
(35,3)
(51,2)
Vốn chủ sở hữu. 1055 9,8 2.030 14,5
(Nguồn số liệu phòng tài chính kế toán - Trung tâm Thương mại
INTIMEX giai đoạn 1999 - 2000)
Qua bảng 1 chúng ta thấy, lượng vốn chủ sở hữu của Trung tâm không
lớn chỉ chiếm 9,8% (năm 1999) và 14,5% (năm 2000). Như vậy hoạt động
44
kinh doanh của Trung tâm chủ yếu dựa vào nguồn vốn đi vay. Trung tâm chỉ
có vốn vay ngắn hạn, không có vốn vay dài hạn. Bên cạnh nguồn vốn đi vay,
Trung tâm có được một lượng vốn khá lớn từ tiền ứng trước của các khách
hàng. Năm 1999, nguồn vốn vay là 90,2%, trong đó 40,1% là nguồn vay ngắn
hạn và 50,1% là tiền ứng trước của khách hàng. Năm 2000, tuy tỷ trọng nguồn
vốn đi vay có giảm nhưng vẫn chiếm một tỷ trọng lớn là 86,5%, trong đó
35,3% là nguồn vay ngắn hạn và 34,8% là tiền khách hàng ứng trước.
Về tài sản và trang thiết bị: Trung tâm đã trang bị những thiết bị hiện đại
cần thiết cho hoạt động kinh doanh. Trước khi sát nhập hầu hết mọi hoạt động
đều theo dõi bằng hình thức ghi chép sổ sách, hiện nay mọi hoạt động đều
được quản lý trên máy tính. Hiện nay tất cả các phòng ban của Trung tâm đều
được trang bị máy vi tính, máy Fax, điện thoại....Đặc biệt mạng cục bộ LAN
đã giúp cho công tác điều hành được tiến hành nhanh chóng và sát sao hơn.
Dưới đây là tình trạng trang thiết bị của Trung tâm Thương mại INTIMEX.
Bảng 2: Tài sản của Trung tâm Thương mại INTIMEX.
STT Trang thiết bị Đơn vị tính Số lượng
1 Nhà kho Nhà 1
2 Máy vi tính Cái 30
3 Máy FAX Cái 2
4 Máy photo Cái 1
5 Điện thoại Cái 10
6 Ôtô Chiếc 1
7 Máy điều hoà Cái 10
8 Máy in Cái 4
(Nguồn số liệu của phòng tài chính kế toán - Trung tâm Thương mại
INTIMEX giai đoạn 1999 - 2000)
45
II.1.4.2. Về đội ngũ lao động.
Bảng 3: Cơ cấu lao động của Trung tâm Thương mại INTIMEX.
Đơn vị: Người lao động.
Kết cấu Năm 1999 Năm 2000 SS (2000/1999)
SL TT (%) SL TT (%) SL TT (%)
1.Trình độ 130 100 137 100 7 105,4
- Đại học, sau đại học 32 24,6 40 29,2 8 125
- Trung cấp 98 75,4 97 70,8 -1 99
Nhìn vào bảng cơ cấu lao động ta thấy nguồn nhân lực của Trung tâm
khá tốt. Năm 1999, cán bộ công nhân viên có trình độ đại học, trên đại học
chiếm tỷ lệ 24,6%; người có trình độ trung cấp chiếm 75,6%. Sang năm 2000,
tỷ lệ nhân viên có trình độ đại học, trên đại học đã tăng lên là 29,2% và số
nhân viên có trình độ trung cấp giảm xuống còn 70,8%. Số nhân viên có trình
độ đại học, trên đại học tập trung chủ yếu ở phòng nghiệp vụ kinh doanh. Đây
là bộ phận quan trọng nhất của Trung tâm, toàn bộ cán bộ phòng nghiệp vụ
đều có trình độ đại học, một số ít có trình độ trên đại học. Về số lượng cán bộ
công nhân viên, năm 1999 Trung tâm có 130 người. Năm 2000, Trung tâm có
137 người. Điều này được giải thích là do sự mở rộng kinh doanh đòi hỏi
Trung tâm phải bổ sung thêm nguồn nhân lực có trình độ. Lực lượng lao động
của Trung tâm có sức khoẻ, trình độ nghiệp vụ và kinh nghiệm. Để phù hợp
với chiến lược phát triển kinh doanh sau khi sát nhập Trung tâm đã tổ chức
những khoá học nâng cao trình độ cho cán bộ công nhân viên của công ty.
Điều đó đã góp phần giảm bớt những hạn chế và nguồn nhân lực.
II.2. Một số kết quả hoạt động kinh doanh của Trung tâm Thương mại
INTIMEX.
Mặc dù Trung tâm Thương mại INTIMEX mới được hình thành 2 năm
nhưng có thể nói rằng Trung tâm làm ăn rất hiệu quả. Để thấy được điều đó
chúng ta sẽ xem xét kết quả kinh doanh của Trung tâm qua một số chỉ tiêu:
46
Trước tiên ta hãy xem xét về doanh thu của Trung tâm trong hai năm
1999 và 2000.
Bảng 4:Tình hình thực hiện các chỉ tiêu của Trung tâm Thương mại
INTIMEX trong hai năm 1999 - 2000.
Đơn vị: triệu đồng.
Stt Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000
1. Doanh thu: 48.743,2 66.770,1
- Doanh thu của Siêu thị 9692,3 11.312,5
- Doanh thu XNK 39.050,9 55.457.6
2. Doanh số giá vốn 44503,7 60.964,0
- Giá vốn hàng kinh doanh siêu thị 8076,9 9427.1
- Giá vốn XNK 36426,8 51536.9
3. Tổng quỹ lương 1185,6 1.250,4
4. Lương bình quân 0,76 0,8
5. Lợi nhuận nộp công ty 806,4 1.089,6
6. Lãi ròng 115,9 156,6
(Nguồn số liệu của phòng tài chính kế toán- Trung tâm Thương mại
INTIMEX giai đoạn 1999-2000)
Trong hai năm 1999 và 2000 doanh thu từ kinh doanh Siêu thị không
lớn, chỉ chiếm khoảng 17 - 18% so với tổng doanh thu của Trung tâm. Khoảng
80% doanh thu là từ hoạt động XNK. So với tiềm lực của Trung tâm và khả
năng tiêu thụ hàng hoá trên thị trường Hà Nội thì doanh thu từ hoạt động Siêu
thị còn nhỏ. Chính vì vậy Trung tâm đã quyết định xây dựng một Siêu thị mới
có diện tích khoảng 1500 m2. Qua bảng trên ta thấy lương bình quân của cán
bộ công nhân viên Trung tâm khá cao, được 760.000 đồng / người năm 1999
và 800.000 đồng / người năm 2000. Dưới đây là tình hình thực hiện nghĩa vụ
với Nhà nước và Công ty XNK INTIMEX.
47
Bảng 5: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước 2000.
Đơn vị: triệu đồng.
Chỉ tiêu Đơn vị Số phải nộp
- Thuế giá trị gia tăng Triệu VND 5.734,4
- Thuế nhập khẩu Nt 11.123,8
- Thuế đất Nt 8,9
- Thuế môn bài Nt 0,350
- Thuế tiêu thụ đặc biệt Nt 156
Tổng cộng Nt 17023.45
(Nguồn số liệu của phòng tài chính kế toán- Trung tâm Thương mại
INTIMEX giai đoạn 1999-2000)
Bảng 6: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với Công ty XNK INTIMEX năm
2000
Đơn vị: triệu đồng.
Chỉ tiêu Đơn vị Số phải nộp
- Các chi phí nộp Công ty Triệu VND 799.8
- Lợi nhuận nộp Công ty nt 1.089,6
Tổng cộng nt 1889.4
(Nguồn số liệu của phòng tài chính kế toán- Trung tâm Thương mại
INTIMEX giai đoạn 1999-2000)
Đánh giá chung: Mặc dù mới được thành lập nhưng có thể nói tình hình
hoạt động kinh doanh của Trung tâm khá tốt: Lợi nhuận nộp Công ty ngày
càng cao, lương bình quân cán bộ công nhân viên khá cao, thực hiện đầy đủ
các nghĩa vụ với Nhà nước và Công ty. Có được kết quả đó một phần là nhờ
Trung tâm đã thực hiện khá tốt công tác tạo nguồn, mua hàng. Tuy nhiên bên
cạnh đó công tác tạo nguồn mua hàng của Trung tâm vẫn còn một số hạn chế.
Để hiểu rõ chúng ta sẽ tiếp tục phân tích công tác này của Trung tâm Thương
mại INTIMEX trong hai năm 1999 - 2000.
48
III. Phân tích hoạt động tạo nguồn, mua hàng của Trung tâm Thương mại
INTIMEX trong giai đoạn 1999 -2000.
III.1. Nguồn hàng của Trung tâm Thương mại INTIMEX và công tác tạo
nguồn của Trung tâm.
III.1.1. Nguồn hàng của Trung tâm Thương mại INTIMEX.
Trung tâm Thương mại INTIMEX hoạt động chủ yếu trên hai mảng lớn.
Đó là XNK và kinh doanh siêu thị. Trong đó kinh doanh siêu thị được coi là
mũi nhọn trong chiến lược phát triển của Trung tâm. Việc tạo nguồn cho kinh
doanh siêu thị hết sức quan trọng. Nguồn hàng chủ yếu hiện nay của Trung
tâm là từ nhập khẩu(trong đó bao gồm những mặt hàng do Trung tâm tự nhập
khẩu và những mặt hàng được nhập thông qua các nhà phân phối) và từ các
nguồn hàng khác trong nước.
III.1.1.1 Nguồn hàng trong nước.
Nguồn hàng trong nước của Trung tâm rất phong phú và đa dạng. Các
mặt hàng sản xuất trong nước chiếm khoảng 45% - 50% tổng giá trị hàng hoá
của Siêu thị. Trung tâm xác định đối tượng khách hàng của Trung tâm là tầng
lớp trung lưu có thu nhập khá trở lên, phụ nữ và khách du lịch vãng lai. Chính
vì vậy khi lựa chọn hàng hoá đưa vào Siêu thị Trung tâm rất chú ý tới chất
lượng cũng như uy tín của sản phẩm trên thị trường. Phần lớn những hàng hoá
đưa vào Siêu thị đều đã được người tiêu dùng bình chọn là hàng hoá có chất
lượng cao. Do đó có thể nói đặc điểm nổi bất của nguồn hàng trong nước của
Trung tâm Thương mại INTIMEX là " Hàng Việt Nam chất lượng cao".
Những hàng hoá này không chỉ có chất lượng cao mà còn rất phong phú về
chủng loại, bao bì đẹp và liên tục có sự cải tiến về chất lượng cũng như mẫu
mã sản phẩm. Mặc dù sản phẩm trong nước đã có nhiều tiến bộ và từng bước
khẳng định được vị trí trên thị trường nhưng không phải ngành hàng nào cũng
có những tiến bộ như nhau. Điều đó được thể hiện ở cơ cấu hàng hoá sản xuất
trong nước đưa vào Siêu thị. Dưới đây là cơ cấu hàng hoá hoá sản xuất trong
49
nước được phân theo tiêu thức ngành hàng của Siêu thị INTIMEX - Trung tâm
Thương mại INTIMEX trong hai năm 1999 - 2000.
Bảng 7: Cơ cấu hàng hoá sản xuất trong nước theo tiêu thức ngành hàng.
Đơn vị: Triệu VND.
T
T
Ngành hàng Năm 1999 Năm 2000 So sánh
2000/99 GTN TT(%) GTN TT(%)
1 Đồ gia dụng 312 8,5 255 5,6 81,7
2 Mỹ phẩm và chất tẩy rửa 987,6 27 1,670 36,5 169,1
3 Bánh kẹo, đường sữa. 689,5 18,8 709 15,5 102,8
4 Thực phẩm đông lạnh 458,3 12,5 580,7 12,7 126,7
5 Đồ uống 497,8 13,6 530,8 11,6 106,6
6 Thực phẩm chế biến, đồ
hộp
623,8 17,1 745 16,3 119,4
7 May mặc, đồ da 78,9 2,2 77,8 1,7 98,6
8 Đồ chơi trẻ em 12,8 0,3 8,7 0,2 68
9 Tổng 3.660,7 100 4577 100 125,0
(Ghi chú: GTN: Giá trị nhập; TT(%): tỷ trọng ).
(Nguồn số liệu phòng nghiệp vụ kinh doanh - Trung tâm Thương mại
INTIMEX giai đoạn 1999 - 2000.)
Nhìn vào bảng trên, chúng ta thấy rằng mỹ phẩm và chất tẩy rửa là mặt
hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất. Tiếp theo là một số mặt hàng bánh kẹo, đường
sữa, thực phẩm chế biến, đồ hộp và thực phẩm đông lạnh. Có thể coi đây là
những mặt hàng chính của Siêu thị. Các mặt hàng khác chiếm một tỷ trọng nhỏ
không đáng kể. Điều này được giải thích là do Trung tâm tập trung vào kinh
doanh các mặt hàng có khả năng tiêu dùng lớn và phải tiêu dùng thường xuyên
cho những nhu cầu hàng ngày. Mặt khác, trong số các hàng hoá sản xuất trong
nước thì chỉ có những ngành hàng vừa nêu là có nhiều mẫu mã sản phẩm, có
chất lượng tốt và được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng. Những hàng hoá
50
khác như may mặc, đồ gia dụng chiếm một tỷ trọng nhỏ là do giá trị hàng nhập
ngoại chiếm một tỷ trọng lớn. Với những hàng hoá lâu bền người tiêu dùng
vẫn thích sử dụng hàng ngoại nhập hơn do chúng có chất lượng cao hơn.
Chính vì vậy để phục vụ tốt khách hàng cũng như để tăng doanh thu và lợi
nhuận Trung tâm chỉ nhập những mặt hàng sản xuất trong nước đã được người
tiêu dùng ưa thích và tín nhiệm. Mặt hàng đồ chơi trẻ em chiếm một tỷ trọng
thấp nhất trong tổng giá trị hàng sản xuất trong nước. Điều này được giải thích
là do các sản phẩm đồ chơi của Việt Nam sản xuất còn quá nghèo nàn về mẫu
mã, chủng loại chưa đáp ứng được nhu cầu của trẻ em. Do đó chưa đáp ứng
được yêu cầu của kinh doanh Siêu thị.
Năm 1999, lượng hàng hoá mỹ phẩm Trung tâm nhập vào là 987,6 triệu
đồng, tương đương với 27%. Chiếm một tỷ trọng lớn nhất so với tổng giá trị
hàng nội mà Siêu thị đang kinh doanh. Hàng bánh kẹo, đường sữa là 689,5
triệu đồng, tương đương với 18,8%, đứng thứ hai về tỷ trọng hàng nội trong
Siêu thị. Tiếp theo là hàng thực phẩm chế biến và đồ hộp có giá trị 623,8 triệu
đồng chiếm 17,1% trong tổng giá trị hàng nội. Bên cạnh đó còn có một số mặt
hàng khác có tỷ trọng cũng khá cao là đồ uống (13,6%) và thực phẩm đông
lạnh (12,5%). Các mặt hàng đồ gia dụng chiếm 8,5%; May mặc và đồ da
chiếm 2,2% và đồ chơi trẻ em chiếm 0,3%.
Năm 2000, cơ cấu hàng hoá đưa vào Siêu thị có một số thay đổi. Tuy
nhiên hàng mỹ phẩm và chất tẩy rửa vẫn là mặt hàng chủ lực chiếm một tỷ
trọng lớn nhất. Giá trị hàng hoá mỹ phẩm là 1.670 triệu đồng tương đương với
36,5%. So với năm 1999, tăng 682,4 triệu đồng hay 69,1%. Mặt hàng có lượng
nhập nhiều thứ hai là thực phẩm chế biến và đồ hộp với 745 triệu đồng tương
đương 16,3%. So với năm 1999, tăng 121,2 triệu đồng hay tăng 19,4%. Mặc
dù hàng bánh kẹo, đường, sữa không còn đứng thứ hai về giá trị nhập nhưng
lượng hàng nhập vào Siêu thị năm 2000 vẫn đạt một giá trị đáng kể là 709
triệu đồng tương đương với 15,3%. So với năm 1999, tăng 19,5 triệu đồng hay
2,8%. Hàng thực phẩm đông lạnh có chiều hướng khả quan hơn. Năm 2000,
51
giá trị nhập hàng đông lạnh là 580,7 triệu đồng tương đương với 12,7%. So với
năm 1999, tăng 122,4 triệu đồng hay 26,7%. Như vậy tỷ trọng hàng đông lạnh
đã có sự thay đổi đáng kể. Điều này chứng tỏ hàng đông lạnh của nước ta
ngày càng được người tiêu dùng ưa thích. Các mặt hàng còn lại đều giảm về
giá trị nhập. Hàng gia dụng là 255 triệu đồng chỉ chiếm 5,6% so với tổng giá
trị hàng nội nhập vào Siêu thị trong năm 2000. Nếu so sánh với năm 1999 thì
chỉ bằng 81,7%. Mặt hàng may mặc, đồ da giảm xuống còn 77,8 triệu đồng
tương đương với 1,7%, bằng 98,6% năm 1999. Mặt hàng đồ chơi trẻ em giảm
xuống còn 8,7 triệu đồng tương đương với 0,2%, bằng 68% năm 1999.
Như vậy qua sự phân tích trên ta thấy mặt hàng mỹ phẩm và chất tẩy rửa
là mặt hàng chủ lực của Siêu thị. Bên cạnh đó là hàng bánh kẹo,đường sữa; đồ
hộp; hàng đông lạnh; đồ uống và thuốc lá. Đây là những mặt hàng có giá trị
nhập lớn và chiếm một tỷ trọng lớn nhất trong tổng giá trị hàng nội của Trung
tâm. Trung tâm cũng xác định hàng thực phẩm chế biến và đồ tươi sống là
những sản phẩm dẫn dắt khách hàng đến với Trung tâm.
III.1.1.2. Nguồn hàng nhập khẩu.
Vì Trung tâm Thương mại INTIMEX xác định khách hàng của Trung
tâm là những người thuộc tầng lớp trung lưu và có một bộ phận không nhỏ là
khách nước ngoài nên hàng hoá đưa vào kinh doanh phải là những mặt hàng
có chất lượng, uy tín trên thị trường, mẫu mã đẹp. Để đáp ứng được yêu cầu
khắt khe của người tiêu dùng Trung tâm đã phải nhập một lượng lớn là hàng
nhập khẩu. Mặt khác, tâm lý thích dùng hàng ngoại của người Việt Nam cũng
là một trong những lý do để Trung tâm quyết định khi lựa chọn mặt hàng đưa
vào kinh doanh. Hàng nhập khẩu của Trung tâm bao gồm hai loại: do Trung
tâm tự nhập khẩu và được lấy từ các nhà nhập khẩu khác. Hiện nay các mặt
hàng mà Trung tâm nhập khẩu được đưa vào kinh doanh bán lẻ bao gồm: Mỹ
phẩm Khoser, bỉm trẻ em, sữa tươi Tablecape của úc. Lượng hàng còn lại
được lấy thông qua các nhà phân phối sản phẩm khác. Hàng hoá nhập khẩu
của Trung tâm rất phong phú và đa dạng. Chúng có xuất sứ từ nhiều nước
52
khác nhau trên thế giới. Nhưng trong đó hàng nhập khẩu từ Đức chiếm nhiều
nhất. Tiếp đó là hàng Mỹ, Thái lan, Nhật,...Hàng nhập khẩu của Trung tâm có
chất lượng cao, nhãn hiệu nổi tiếng, kiểu dáng mẫu mã phù hợp với người tiêu
dùng.
Để hiểu rõ hơn về hàng nhập khẩu của Trung tâm chúng ta cùng đi xem
xét bảng số liệu dưới đây:
Bảng 8: Cơ cấu hàng hoá nhập khẩu theo tiêu thức ngành hàng.
Đơn vị: Triệu VND
T
T
Ngành hàng Năm 1999 Năm 2000 So sánh
2000/99 GTN TT(%) GTN TT(%)
1 Đồ gia dụng 635 14,4 765 15,8 120,5
2 Mỹ phẩm và chất tẩy rửa 716,5 16,2 926 19,1 129,2
3 Bánh kẹo, đường sữa. 743 16,8 852,6 17,6 114,7
4 Thực phẩm đông lạnh 487 11,1 445,2 9,1 91,4
5 Đồ uống 552 12,5 534,4 11,0 96,8
6 Thực phẩm chế biến, đồ
hộp
786,4 17,8 811,1 16,7 103,1
7 May mặc, đồ da 297,8 6,7 308,3 6,4 103,5
8 Đồ chơi trẻ em 198,5 4,5 207,5 4,3 104,5
9 Tổng 4416.2 100 4850,1 100 109,8
(Ghi chú: GTN: giá trị nhập; TT(%): tỷ trọng).
(Nguồn số liệu phòng nghiệp vụ kinh doanh - Trung tâm Thương mại
INTIMEX giai đoạn 1999 - 2000).
Nhìn bảng số liệu trên ta thấy, tỷ trọng các mặt hàng tương đối đồng
đều. Thực phẩm chế biến, đồ hộp, mỹ phẩm và chất tẩy rửa, bánh kẹo, đường
sữa, đồ gia dụng là những mặt hàng có tỷ trọng lớn. Tỷ trọng của các mặt hàng
trên có sự trên lệch không lớn.
Năm 1999, thực phẩm chế biến và đồ hộp có giá trị 786,4 triệu đồng,
tương đương với 17,8%, là mặt hàng có tỷ trọng lớn nhất. Phần lớn các sản
53
phẩm này đều có xuất sứ từ Đức, Thái lan, một số ít có xuất sứ từ Pháp. Đứng
thứ hai là hàng bánh kẹo, đường sữa, giá trị nhập là 743 triệu đồng, tương
đương với 16,8%. Hàng mỹ phẩm và chất tẩy rửa có giá trị nhập là 716,5 triệu
đồng, tương đương 16,2%. Hàng gia dụng có giá trị nhập là 635 triệu đồng hay
chiếm 14,4% tổng giá trị hàng ngoại nhập. Đồ uống là 552 triệu đồng, chiếm
12,5%. Thực phẩm đông lạnh là 487 triệu đồng, chiếm 11,1%. Thấp nhất là
hàng may mặc, đồ da và đồ chơi trẻ em. Lần lượt có giá trị nhập là 297,8 triệu
đồng, chiếm 6,7% và 198,5 triệu đồng, chiếm 4,5% tổng giá trị hàng ngoại
nhập.
Năm 2000, có một chút thay đổi về cơ cấu hàng hoá. Mỹ phẩm và chất
tẩy rửa có giá trị nhập là 926 triệu đồng, tương đương 19,1%, chiếm tỷ trọng
lớn nhất trong tổng giá trị hàng nhập khẩu bán tại Siêu thị. So với năm 1999,
tăng 209,5 triệu đồng hay 29,2%. Hàng mỹ phẩm chủ yếu có xuất sứ từ Đức,
Mỹ, Nhật. Hàng bánh kẹo, đường sữa có giá trị nhập là 852,6 triệu đồng,
tương đương với 17,6%. So với năm 1999, tăng 109,6 triệu đồng hay 14,7%.
Mặc dù hàng thực phẩm chế biến và đồ hộp có giá trị nhập cao hơn năm 1999,
đạt 811,1 triệu đồng nhưng tỷ trọng giảm xuống còn 16,7% trong tổng giá trị
hàng ngoại nhập vào Siêu thị. So với năm 1999, tăng 24,7 triệu đồng hay
3,1%. Hàng gia dụng có giá trị nhập 765 triệu đồng tương đương 15,8%. So
với 1999, tăng 130 triệu đồng hay 20,5%. Đồ uống và thuốc lá có giá trị nhập
là 534,4 triệu đồng tương đương với 11,0%. Giảm 17,6 triệu đồng hay chỉ
bằng 96,8% so với giá trị nhập năm 1999. Thực phẩm đông lạnh có giá trị
nhập là 445,2 triệu đồng, tương đương với 9,1%. Giảm 41,8 triệu đồng hay
chỉ chiếm 91,4% so với giá trị nhập năm 1999. Hàng may mặc, đồ da có giá trị
nhập là 308,3 triệu đồng, tương đương với 6,4%. Tăng 10,5 triệu đồng so với
năm 1999. Nhưng nếu xét về tỷ trọng thì chỉ chiếm 6,4% tổng giá trị hàng
ngoại nhập năm 2000, thấp hơn so với năm 1999. Cũng giống mặt hàng may
mặc và đồ da, hàng dồ chơi trẻ em có giá trị nhập 207,5 triệu đồng, tăng 9 triệu
54
đồng so với năm 1999. Tuy nhiên nếu xét về tỷ trọng thì chỉ chiếm 4,3% tổng
giá trị hàng ngoại nhập năm 2000, thấp hơn so với năm 1999.
Qua sự phân tích về cơ cấu các mặt hàng sản xuất trong nước cũng như
các mặt hàng nhập khẩu, chúng ta thấy có một số ngành hàng đóng vai trò chủ
đạo trong số các mặt hàng kinh doanh tại Siêu thị INTIMEX là hàng mỹ phẩm
và chất tẩy rửa, bánh kẹo và đường sữa, thực phẩm chế biến và đồ hộp, thực
phẩm đông lạnh, đồ uống và thuốc lá, đồ gia dụng. Các mặt hàng khác chiếm
tỷ trọng không đáng kể.
Để hiểu rõ hơn về tình hình hoạt động tạo nguồn của Trung tâm Thương
mại INTIMEX, chúng ta sẽ đi xem xét nguồn hàng của Trung tâm thông qua
một số nhà cung cấp lớn.
III.1.1.3. Phân loại nguồn hàng theo tiêu thức nhà cung cấp.
Ngoài việc quản lý và theo dõi nguồn hàng theo xuất sứ hàng hoá và
theo tiêu thức ngành hàng, Trung tâm còn quản lý, theo dõi hàng hoá theo tiêu
thức chủ hàng. Khi quản lý nguồn hàng theo tiêu thức này, Trung tâm sẽ biết
được trong số các nhà cung cấp hàng hoá cho mình ai là người có giá trị cung
cấp lớn nhất, đâu là những chủ hàng quan trọng cần hợp tác lâu dài. Từ đó
Trung tâm sẽ có những chính sách hợp lý với từng loại nhà cung cấp. Hiện nay
Trung tâm đang có quan hệ buôn bán với khoảng 300 chủ hàng. Nhưng trong
số đó chỉ có khoảng 10 nhà cung cấp lớn và có ảnh hưởng quan trọng tới hoạt
động kinh doanh của Trung tâm. Dưới đây chúng ta sẽ xem xét một số nhà
cung cấp lớn nhất hiện nay của Trung tâm.
55
Bảng 9: Nguồn hàng theo nhà cung cấp của Trung tâm Thương mại
INTIMEX giai đoạn 1999 - 2000.
Đơn vị: Triệu VND.
T
T
Nhà cung cấp Năm 1999 Năm 2000 SSánh
(00/99) GTN TT(%) GTN TT(%)
1 Cty hỗ trợ phát triển công
nghệ và thương mại Vital
Detech
466,6 20,5 598,2 20,1 128,2
2 Bách hoá Chùa Bộc 402,1 17,7 529,3 17,8 131,6
3 Công ty thương mại Phú
Thái
305,8 13,5 474,9 15,9 155,3
4 Công ty cổ phần Thái Sơn 243,2 10,7 321,1 10,8 132,0
5 Công ty Mesa 189,7 8,3 242,1 8,1 127,6
6 Công ty Nhị long 158,5 7,0 201,0 6,7 126,8
7 Công ty Sữa Việt Nam 145,7 6,4 164,9 5,6 113,2
8 Công ty bánh kẹo Hải Hà 143,6 6,3 157,2 5,3 109,5
9 Cty Vinh Quang 112,1 4,9 150,7 5,1 134,4
10 Công ty Kim Anh 106,8 4,7 139,0 4,6 130,1
11 Tổng cộng 2274.1 100 2978,4 100 131,0
(Ghi chú: GTN: giá trị nhập; TT(%): tỷ trọng)
(Nguồn số liệu phòng nghiệp vụ kinh doanh - Trung tâm Thương mại
INTIMEX giai đoạn 1999 - 2000).
Trên đây là 10 nhà cung cấp lớn của Trung tâm, được xếp theo giá trị từ
lớn đến nhỏ. Nếu so sánh với tổng giá trị hàng hoá nhập vào siêu thị, thì giá trị
hàng hoá của 10 nhà cung cấp này chiếm một tỷ trọng khá lớn. Năm 1999,
tổng giá vốn hàng hoá là 7666,9 triệu đồng, trong đó có 2274,1 triệu đồng giá
trị hàng hoá là lấy từ mười nhà cung cấp trên. Xét về tỷ trọng, giá trị hàng hoá
của mười nhà cung cấp chiếm 29,7%. Như vậy có thể thấy lượng hàng hoá mà
Siêu thị lấy từ mười nhà cung cấp này là khá lớn nếu xét trong 400 nhà cung
56
cấp của Trung tâm. Sang năm 2000, tổng giá vốn hàng hoá của Siêu thị là
9427,1 triệu đồng, trong đó 2978,4 triệu đồng hàng hoá được lấy từ 10 nhà
cung cấp trên. Về tỷ trọng, giá trị hàng hoá của 10 nhà cung cấp chiếm 31,6%.
Như vậy, ta có thể thấy 10 nhà cung cấp này ngày một có sự ảnh hưởng lớn tới
hoạt động kinh doanh của Trung tâm, cụ thể là hoạt động kinh doanh của Siêu
thị INTIMEX. Nếu như năm 1999, giá trị hàng hoá của 10 nhà cung cấp chiếm
29,7% thì năm 2000, tỷ trọng đó là 31,6%, tăng 1,9%. Để hiểu rõ hơn về các
nhà cung cấp cũng như để thấy được ảnh hưởng của từng nhà cung cấp tới
hoạt động kinh doanh của Trung tâm Thương mại INTIMEX chúng ta sẽ đi
xem xét từng nhà cung cấp.
Công ty hỗ trợ phát triển công nghệ và thương mại Vital Detech là nhà
cung cấp lớn nhất của Trung tâm. Công ty này là nhà phân phối các sản phẩm
của hãng Unilever, ví dụ như trà Lipton, cháo ăn liền, bột Knor, và đặc biệt là
mỹ phẩm và chất tảy rửa như các sản phẩm của Pon's, Hazeline, bột giặt
Omo... Hiện nay những sản phẩm này đang được người tiêu dùng Việt Nam rất
ưa chuộng. Nếu chỉ xét riêng về mỹ phẩm và chất tảy rửa thì đây là nhà phân
phối lớn nhất, các sản phẩm mà họ cung cấp cho Trung tâm chiếm khoảng
47%. Năm 1999, giá trị hàng hoá mà Công ty hỗ trợ phát triển công nghệ và
thượng mại Vital Detech cung cấp cho Trung tâm Thương mại INTIMEX là
466,6 triệu đồng, chiếm 20,5% trong tổng trị trị hàng hoá của 10 nhà cung cấp
lớn nhất. Năm 2000, giá trị hàng hoá cung cấp là 598,2 triệu đồng, chiếm
20,1% trong tổng giá trị hàng hoá của 10 nhà cung cấp lớn nhất. So sánh năm
2000 với năm 1999, lượng giá trị hàng hoá tăng 131,6 triệu đồng, hay tăng
28,2%. Nhưng nếu xét về tỷ trọng giữa 10 nhà cung cấp thì giảm 0,4%.
Bách hoá Chùa Bộc là nhà cung cấp lớn thứ hai của Trung tâm Thương
mại INTIMEX. Công ty này chuyên phân phối các sản phẩm của Đức. Đây là
công ty kinh doanh tổng hợp do đó sản phẩm của họ rất phong phú và đa dạng,
bao gồm các loại bánh kẹo, sôcôla, đồ uống, đồ hộp, mỹ phẩm, dệt may và đồ
gia dụng. Hiện nay, tất cả các ngành hàng đều lấy hàng từ Bách Hoá Chùa bộc.
57
Trong số các hàng hoá nhập khẩu của Trung tâm Thương mại INTIMEX thì
lượng hàng Đức chiếm một tỷ trọng rất lớn và trong số đó phần lớn được lấy
từ Bách Hoá Chùa Bộc. Năm 1999, giá trị hàng hoá mà Bách hoá Chùa Bộc
cung cấp cho Trung tâm là 402,1 triệu đồng, chiếm 17,7% giá trị hàng hoá của
10 nhà cung cấp lớn nhất. Năm 2000, giá trị hàng hoá là 529,3 triệu đồng,
chiếm 17,8%. So sánh năm 2000 với năm 1999, thì giá trị hàng hoá tăng 127,2
triệu đồng, hay tăng 31,6%.
Cũng giống như Bách hoá Chùa bộc, Công ty Phú Thái kinh doanh theo
loại hình kinh doanh tổng hợp. Hiện nay, Công ty này đang cung cấp các sản
phẩm thuộc các nhóm ngành bánh kẹo, đồ uống và mỹ phẩm cho Trung tâm.
Tất cả đều là hàng hoá nhập khẩu từ một số nước Đông Nam á như Malaysia,
Thái lan. Năm 1999, giá trị hàng hoá mà Công ty Phú Thái cung cấp cho
Trung tâm là 305,8 triệu đồng, chiếm 13,5% tổng giá trị hàng hoá của 10 nhà
cung cấp lớn nhất. Năm 2000, giá trị hàng hoá là 474,9 triệu đồng, chiếm
15,9%. So sánh năm 2000 với năm 1999 giá trị hàng hoá tăng 169,1 triệu
đồng, hay tăng 55,3%.
Công ty cổ phần Thái Sơn cũng là một nhà phân phối lớn của Trung
tâm. Hàng hoá mà họ cung cấp cho Trung tâm bao gồm có các loại thực phẩm
đóng hộp, hàng đông lạnh, và các loại dụng cụ gia đình. Năm 1999, giá trị
hàng hoá mà Công ty cung cấp cho Trung tâm là 243,2 triệu đồng, chiếm
10,7% tổng giá trị hàng hoá của 10 nhà cung cấp đưa vào Siêu thị INTIMEX.
Năm 2000, giá trị hàng hoá là 321,1 triệu đồng, chiếm 10,8%. So sánh năm
2000 với năm 1999, giá trị hàng hoá tăng 77,9 triệu đồng, tương đương 32%.
Công ty Mesa là nhà phân phối các sản phẩm của hãng Nestle và một số
hãng khác. Hiện nay công ty Mesa đang cung cấp cho Trung tâm các loại sữa
của Nestle bao gồm sữa bột, sữa tươi, sữa chua. Bên cạnh đó còn có các loại
bánh kẹo, sôcôla được nhập khẩu từ Đức. Về giá trị hàng hoá công ty cung cấp
cho Trung tâm, năm 1999 là 189,7 triệu đồng, chiếm 8,3% tổng giá trị hàng
hoá của 10 nhà cung cấp lớn nhất. Năm 2000, lượng hàng hoá đưa sang đạt
58
242,1 triệu đồng, chiếm 8,1%. So với 1999, tăng 52,4 triệu đồng, tương đương
27,6%.
Công ty Nhị Long hiện đang cung cấp các sản phẩm đông lạnh, đồ hộp,
đồ uống cho Trung tâm Thương mại INTIMEX. Hàng hoá của họ một phần
được lấy từ các nhà sản xuất trong nước, một phần được nhập từ nước ngoài.
Năm 1999, công ty cung cấp cho Trung tâm lượng hàng hoá trị giá 158,5 triệu
đồng, chiếm 7,0% tổng giá trị hàng hoá đưa vào Siêu thị INTIMEX của 10 nhà
cung cấp lớn nhất. Năm 2000 giá trị hàng hoá là 201 triệu đồng, chiếm 6,7%.
Như vậy so với năm 1999, tăng 42,5 triệu đồng, tương đương 26,8%. Tuy
nhiên nếu xét về tỷ trọng giữa 10 nhà phân phối thì tỷ trọng của Công ty lại
giảm từ 7% xuống còn 6,7%.
Công ty Sữa Việt nam (Vinamilk) là nhà sản xuất sữa hàng đầu của Việt
Nam. Các sản phẩm của Vinamilk rất được ưa chuộng do chất lượng tốt và giá
cả cũng phù hợp với thu nhập của người tiêu dùng. Sản phẩm của họ cũng rất
đa dạng và phong phú. Hiện nay, Công ty sữa Việt nam cung cấp cho Trung
tâm khoảng 30 mặt hàng, bao gồm các loại sữa tươi, sữa đặc, sữa chua, bột
dinh dưỡng, bơ và nước ép trái cây. Năm 1999, lượng hàng hoá mà công ty
cung cấp cho Trung tâm có giá trị 145,7 triệu đồng, chiếm 6,4%. Năm 2000,
giá trị hàng hoá là 157,2 triệu đồng, chiếm 5,3%.so với năm 1999, tăng 11,5
triệu đồng, hay 13,2%.
Công ty Bánh kẹo Hải Hà cung cấp các sản phẩm bánh kẹo cho Trung
tâm. Các sản phẩm hiện nay Trung tâm đang lấy từ công ty bao gồm các loại
kẹo dẻo, kẹo cứng, và một số ít loại bánh. Năm 1999, Công ty cung cấp cho
Trung tâm lượng hàng hoá trị giá 143,6 triệu đồng, chiếm 6,3%. Năm 2000,
giá trị hàng hoá là 164,9 triệu đồng, chiếm 5,6%. So sánh năm 2000 với năm
1999, giá trị hàng hoá tăng 21,3 triệu đồng, hay 9,5%.
Công ty Vinh Quang kinh doanh tổng hợp, cung cấp cho Trung tâm
nhiều mặt hàng thuộc các ngành hàng khác nhau, bao gồm bánh kẹo, đồ hộp,
mỹ phẩm. Năm 1999, giá trị hàng hoá Công ty cung cấp cho Trung tâm là
59
112,1 triệu đồng, chiếm 4,9%. Năm 2000, giá trị hàng hoá là 150,7 triệu đồng,
chiếm 5,1%. So với năm 1999, tăng 38,6 triệu đồng, hay 34,4%.
Công ty Kim Anh chuyên phân phối các sản phẩm đông lạnh và đồ hộp.
Hiện nay, công ty là nhà phân phối lớn thứ hai về các sản phẩm đông lạnh và
đồ hộp cho Trung tâm. Các sản phẩm của Công ty đều là hàng nhập khẩu.
Năm 1999, giá trị hàng hoá cung cấp cho Trung tâm là 106,8 triệu đồng, chiếm
4,7%. Năm 2000, giá trị hàng hoá là 139 triệu đồng, chiếm 4,6%. So với năm
1999, tăng 32,2 triệu đồng, ha
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Một số biện pháp hoàn thiện hoạt động tạo nguồn mua hàng tại Trung tâm Thương mại INTIMEX - Công ty xuất nhập khẩu INTIMEX.pdf