Tài liệu Luận văn Một số biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh muối ở tổng công ty muối Việt Nam: Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Nguyễn Công Hoà QTKDTH Page 1
Luận văn
Một số biện phỏp gúp phần nõng
cao hiệu quả kinh doanh muối ở
Tổng Cụng ty Muối Việt nam
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Nguyễn Công Hoà QTKDTH Page 2
LỜI NểI ĐẦU
“ Hiệu quả” là một thuật ngữ rất hay được dựng để đỏnh giỏ một cụng việc,
một vấn đề nào đú. Khi núi đến hiệu quả người ta thường gắn với tớnh khả thi, sự
thành cụng mà cụng việc sẽ đạt được. Vậy hiệu quả kinh doanh gắn với cả một quỏ
trỡnh kinh doanh sẽ phải được định nghĩa như thế nào cho xỏc đỏng nhất?
Hiệu quả kinh tế đú chớnh là khả năng tận dụng tối ưu cỏc nguồn lực khan
hiếm. Với mỗi một doanh nghiệp đạt được hiệu quả kinh doanh cú nghĩa là doanh
nghiệp đó kết hợp tối ưu cỏc yếu tố đầu vào của quỏ trỡnh sản xuất như mỏy múc,
trang thiết bị, con người, nguồn nguyờn liệu với cỏc yếu tố đầu ra như cụng tỏc
Marketing, mẫu mó, bao bỡ, chất lượng sản phẩm... Như vậy hiệu quả kinh doanh
gắn liền với tớnh năng động...
100 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1087 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Một số biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh muối ở tổng công ty muối Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 1
Luận văn
Một số biện pháp góp phần nâng
cao hiệu quả kinh doanh muối ở
Tổng Công ty Muối Việt nam
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 2
LỜI NÓI ĐẦU
“ Hiệu quả” là một thuật ngữ rất hay được dùng để đánh giá một công việc,
một vấn đề nào đó. Khi nói đến hiệu quả người ta thường gắn với tính khả thi, sự
thành công mà công việc sẽ đạt được. Vậy hiệu quả kinh doanh gắn với cả một quá
trình kinh doanh sẽ phải được định nghĩa như thế nào cho xác đáng nhất?
Hiệu quả kinh tế đó chính là khả năng tận dụng tối ưu các nguồn lực khan
hiếm. Với mỗi một doanh nghiệp đạt được hiệu quả kinh doanh có nghĩa là doanh
nghiệp đã kết hợp tối ưu các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất như máy móc,
trang thiết bị, con người, nguồn nguyên liệu với các yếu tố đầu ra như công tác
Marketing, mẫu mã, bao bì, chất lượng sản phẩm... Như vậy hiệu quả kinh doanh
gắn liền với tính năng động nhạy bén của những người lãnh đạo doanh nghiệp.
Trong một cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt, lợi nhuận, hiệu quả kinh
doanh được đưa lên làm mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp nói chung và
doanh nghiệp Nhà nước nói riêng. Vì thế đòi hỏi các doanh nghiệp phải tích cực
đưa những thiết bị công nghệ mới vào sản xuất, bằng mọi cách giảm chi phí giảm
giá thành và không ngừng nâng cao chất lượng... Có làm được như vậy thì các
doanh nghiệp mới có thể tồn tại, trụ vững trong cơ chế thị trường.
Thời kỳ bao cấp qua đi để lại một bức tranh kinh tế ảm đạm. Một thời kỳ
làm việc theo kiểu quan liêu bao cấp, các xí nghiệp quốc doanh luôn luôn đạt mức
sản lượng vượt kế hoạch. Người ta nói rất nhiều đến hiệu quả, năng suất lao động,
năng suất chất lượng đều đạt ở mức rất cao nhưng tất cả số liệu doanh thu, sản
lượng đều là “lãi” trên giấy tờ, còn thực chất sản xuất kinh doanh của các xí
nghiệp có hoạt động nhưng không có hiệu quả. Các đơn vị kinh tế quốc doanh chỉ
đảm bảo số lượng, chỉ tiêu kế hoạch sản xuất đặt ra chứ việc đảm bảo chất lượng
cải tiến mẫu mã sản phẩm hầu như các xí nghiệp không chú trọng.
Bắt đầu từ năm 1986 Nhà nước có chủ trương đổi mới cơ chế từ cơ chế tập
trung bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng và
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 3
nhà nước đã chủ chương đổi mới toàn diện về mọi mặt mở ra một thời kỳ phát
triển mới.
Riêng với các Doanh nghiệp Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong các
thành phần kinh tế, là công cụ vĩ mô của nhà nước thực hiện các nhiệm vụ bảo
đảm hiệu quả xã hội. Do đó ngoài việc cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác
để tồn tại các Doanh nghiệp Nhà nước còn phải giữ nhiệm vụ quan trọng đó chính
là vai trò chủ đạo.
Khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường các Doanh nghiệp Nhà nước thường
gặp phải những khó khăn trở ngại sau đây, có những Doanh nghiệp đã nhanh
chóng bắt kịp với thời cuộc bằng cách cải tiến mẫu mã chất lượng, tăng quy mô
sản xuất. Nhưng bên cạnh đó có những Doanh nghiệp hàng sản xuất ra không bán
được, công nhân nghỉ việc không lương. Những Doanh nghiệp này vẫn loay hoay
chưa tìm được lối ra, họ quá ỷ lại vào kế hoạch, trợ cấp của Nhà nước và đã có
những Doanh nghiệp lâm vào tình trạng thua lỗ dẫn đến phá sản.
Vì vậy để Doanh nghiệp Nhà nước vươn lên giữ vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế thị trường thì vấn đề hiệu quả và không ngừng nâng cao hiệu quả là mục
tiêu hàng đầu của các Doanh nghiệp, với Tổng Công ty Muối không nằm ngoài
quy luật đó. Trong những năm gần đây sản lượng muối hàng năm tăng nhưng hiệu
quả vẫn còn thấp. Chính hiệu quả kinh doanh thấp đã hạn chế vai trò chủ đạo của
Công ty Muối Việt nam.
Bởi vậy tôi đã chọn đề tài nghiên cứu “Một số biện pháp góp phần nâng
cao hiệu quả kinh doanh muối ở Tổng Công ty Muối Việt nam ”
Đây là một đề tài rộng và khó, với lượng kiến thức hạn hẹp mà em đã tích
luỹ được từ nhà trường và xã hội, chắc chắn sẽ không tránh khỏi nhiều thiếu sót,
em rất mong được sự động viên, góp ý của thầy cô và các bạn
Trong quá trình hoàn thành đề tài, em đã được sự tận tình hướng dẫn chỉ bảo
của Cô Giáo TS. Cao Thuý Xiêm và các cô chú trong phòng kế toán của Tổng
Công Ty Muối đã giúp em hoàn thành chuyên đề này.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 4
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 5
ChươngI
Những vấn đề lý luận về hiệu quả sản xuất
kinh doanh
1. Bản chất của hiệu quả kinh doanh:
1.1Khái niệm và bản chất:
Trong cơ chế thị trường thì hầu hết tất cả các doanh nghiệp đều nhằm đạt được
mục tiêu bao trùm và lâu dài nhất, đó là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu
này mọi doanh nghiệp đều phải xây dựng cho mình một chiền lược kinh doanh,
phương án kinh doanh, phải kế hoạch hoá các hoạt động của doanh nghiệp và đồng
thời tổ chức thực hiện chúng một cách có hiệu quả.
Trong quá trình tổ chức xây dựng và thực hiện, các nhà quản lý doanh
nghiệp phải luôn chú ý tới tính hiệu quả của chúng. Muốn kiểm tra đánh giá các
hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn doanh nghiệp cũng như từng lĩnh vực,
từng bộ phận bên trong doanh nghiệp thì doanh nghiệp không thể không xem xét
hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh đó. Để hiểu được hiệu quả
kinh tế cuả các hoạt động sản xuất kinh doanh (hiệu quả sản xuất kinh doanh),
trước tiên ta phải tìm hiểu xem hiệu quả kinh tế nói chung là gì?
Từ trước đến nay có rất nhiều tác giả đưa ra các quan điểm khác nhau về
hiệu quả kinh tế: như P.Samerclson, W.Nordhanb, Manfredkuln, Wohe và
Doring...Song có một quan điểm được nhiều nhà kinh tế trong và ngoài nước quan
tâm chú ý sử dụng là: Hiệu quả kinh tế của một hiện tượng( hoặc một quá trình )
kinh tế là phạm trù kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được
mục tiêu đã xác định. Đây là khái niệm tương đối đầy đủ phản ánh được hiệu quả
kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Từ các quan điểm trên về hiệu quả kinh tế ta có thể đưa ra khái niệm về hiệu
quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như sau:
“Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế biểu hiện tập trung của sự
phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác nguồn lực của doanh
nghiệp (lao động, máy móc, thiết bị, vốn và các yếu tố khác) trong quá trình sản
xuất nhằm đạt được mục tiêu mà doanh nghiệp đã đề ra.
Xét về mặt đinh lượng: Hiệu quả sản xuất kinh doanh thể hiện mối quan hệ
tương quan giữa kết quả thu được và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để thực hiện
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 6
được kết quả theo hướng tăng thu giảm chi. Phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh
thực chất là mối quan hệ so sánh giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra để sử
dụng các yếu tố đầu vào và có tính đến các mục tiêu của doanh nghiệp. Xét theo
mục đích cuối cùng thì hiệu quả sản xuất kinh doanh đồng nghĩa với lợi nhuận.
Về mặt tuyệt đối thì hiệu quả sản xuất kinh doanh được tính như sau :
H= K- C
H: là hiệu quả sản xuất kinh doanh
K: kết quả đạt được
C: chi phí bỏ ra đẻ sử dụng các nguồn lực đầu vào
Còn so sánh tương đối thì:
H = K/C
Do đó để tính được hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ta phải
tính kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Nếu xét mối quan hệ giữa kết quả và hiệu
quả thì kết quả là cơ sở để ta tính hiệu quả và hai đại lượng này tỷ lệ thuận với
nhau. Kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thường là đại lượng có khả
năng cân, đo, đong, đếm được như số sản phẩm tiêu thụ, doanh thu bán hàng, thị
phần, lợi nhuận...Như vậy kết quả sản xuất kinh doanh thường là mục tiêu của
doanh nghiệp. Nếu đứng trên góc độ từng yếu tố riêng lẻ để xem xét, thì hiệu quả
sản xuất kinh doanh thể hiện trình độ, khả năng khai thác các yếu tố trong quá trình
sản xuất, nó thể hiện ảnh hưởng của từng yếu tố đó đến kết quả cuối cùng của sản
xuất kinh doanh.
Về mặt định tính: hiệu quả sản xuất kinh doanh thể hiện trình độ, khả năng
tổ chức sản xuất và quản lý của doanh nghiệp. Nếu tổ chức sản xuất tốt và khả
năng quản lý cao thì doanh nghiệp có thể đảm bảo mua được các yếu tố đầu vào
đủ về số lượng, chất lượng tốt, đúng thời gian và giá cả hợp lý. Đồng thời doanh
nghiệp có thể sản xuất sản phẩm chất lượng cao với giá thành rẻ, đưa ra tiêu thụ
trên thị trường một cách nhanh nhất với chi phí thấp nhất.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải được gắn liền với việc
thực hiện các mục tiêu mà doanh nghiệp đã đề ra. Mục tiêu kinh doanh là trạng
thái của doanh nghiệp được xác định trong tương lai ngắn hạn và dài hạn. Trước
mỗi kỳ kinh doanh, các doanh nghiệp đều phải đặt ra cho mình các mục tiêu trong
thời gian trước mắt và lâu dài, từ đó lập ra các chiến lược, kế hoạch để thực hiện
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 7
mục tiêu đó. Không thể nói một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả khi
doanh nghiệp đó không thực hiện được các mục tiêu đã đề ra. Do vậy để nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh mỗi doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một hệ
thống các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn, phù hợp với tình hình và khả năng của
doanh nghiệp đặt trong mối quan hệ với xu hướng biến động của thị trường. Khi
đánh giá về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phải gắn chặt nó trong mối
quan hệ với hiệu quả kinh tế xã hội. Đó là việc xem xét các chỉ tiêu: giải quyết việc
làm cho người lao động, nâng cao trình độ văn hoá, nâng cao mức sống của người
lao động, đảm bảo vệ sinh môi trường...dành được hiệu quả cao cho doanh nghiệp
là chưa đủ mà còn phải thực hiện được mục tiêu hiệu quả của cả ngành, cả địa
phương và toàn xã hội.
1.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp đều
phải đối đầu với sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Có rất nhiều doanh nghiệp đã trụ vững và phát triển nhưng cũng có rất nhiều doanh
nghiệp “ vẫn đang loay hoay chưa tìm ra lối thoát ” và nhiều doanh nghiệp làm ăn
thua lỗ đã phải đi đến phá sản, giải thể. Vì vậy, để phát triển được trong cơ chế thị
trường buộc các doanh nghiệp phải không ngừng tìm ra những biện pháp phù hợp
để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình.
a. Sản xuất kinh doanh có hiệu quả - điều kiện sống còn của các doanh nghiệp.
Trong cơ chế thị trường các chủ thể thường cạnh tranh với nhau rất gay gắt
để đảm bảo cho sự sinh tồn của mình, vì thế các doanh nghiệp phải luôn luôn linh
hoạt, tìm mọi biện pháp phát triển đi lên. Có những doanh nghiệp đi lên bằng việc
tìm mọi cách triệt hạ các đối thủ, trốn lậu thuế, làm ăn phi pháp...Những doanh
nghiệp này thường chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, bởi vì xét trên phương diện đạo
đức họ đã vi phạm nguyên tắc đạo đức trong kinh doanh, ngày nay luật chơi công
bằng luôn được các doanh nghiệp ưa thích. Trong thị trường ngày nay, các doanh
nghiệp thường phải tìm ra cách đi riêng cho mình nhưng họ đều phải trả lời được 3
câu hỏi đó là sản xuất cho ai? sản xuất ra cái gì? và sản xuất như thế nào? Tựu
chung lại, điểm mấu chốt mà các doanh nghiệp phải giải quyết là tính hiệu quả
trong sản xuất kinh doanh của họ. Quá trình sản xuất các hoạt động dịch vụ kinh
doanh đều là những vòng quay liên hồi phục vụ cho một vòng đời sản phẩm. Các
doanh nghiệp mong muốn vòng đời sản phẩm ngắn lại, quy mô mở rộng ra, giai
đoạn tăng trưởng và phát triển sản phẩm được kéo dài thì đòi hỏi mỗi quyết định
kinh doanh phải đúng đắn và mang tính hiệu quả cao. Qua đó cho thấy bất kì một
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 8
doanh nghiệp nào trong cơ chế thị trường, hoạt động trong cơ chế thị trường không
có hiệu quả tức là tự nhấn mình chết chìm trong “vòng xoáy của các luồng cạnh
tranh”.
Sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp hiện nay đó chính là đi giải
quyết bài toán mang tính sống còn, đó là lợi nhuận. Nếu như trước kia, việc đánh
giá hiệu quả của các doanh nghiệp chỉ dựa vào khả năng hoàn thành kế hoạch các
chỉ tiêu Nhà nước giao cho, thì ngày nay các doanh nghiệp thường phải tự bươn
trải để tìm kiếm và đáp ứng nhu cầu của thị trường. Muốn vậy, các doanh nghiệp
phải không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng sản
phẩm giảm chi phí, giá thành, nâng cao uy tín và vị thế của doanh nghiệp mình ...
b. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là công cụ hữu hiệu của nhà quản trị.
Mục tiêu bao trùm và lâu dài của quá trình kinh doanh là tạo ra lợi nhuận và
tối đa hoá lợi nhuận trên cơ sở các nguồn lực sẵn có. Để đạt được mục tiêu này,
quản trị doanh nghiệp có nhiều phương thức khác nhau, trong đó nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh là công cụ hữu hiệu để nhà quản trị thực hiện chức năng
cuả mình. Việc xem xét và tính toán hiệu quả kinh doanh không chỉ cho biết sản
xuất đạt được ở trình độ nào mà còn cho phép các nhà quản trị phân tích tìm ra các
yếu tố ảnh hưởng (những yếu tố then chốt và những yếu tố phụ...) và đưa ra biện
pháp thích hợp trên cả phương diện tăng kết quả và giảm chi phí nhằm nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh. Bản chất của phạm trù hiệu quả đã chỉ rõ trình độ lợi
dụng các nguồn lực sản xuất: trình độ lợi dụng các nguồn lực càng cao, doanh
nghiệp càng có khả năng tạo ra kết quả trong cùng một nguồn lực đầu vào hoặc tốc
độ tăng kết quả lớn hơn tốc độ tăng chi phí sử dụng các nguồn lực đầu vào. Như
vậy, thông qua xem xét hiệu quả sản xuất kinh doanh, các nhà quản trị có thể kiểm
soát được công việc kinh doanh của doanh nghiệp mình bằng việc so sánh, đánh
giá, phân tích kinh tế nhằm tìm ra các giải pháp tối ưu, đưa ra các quyết định kinh
doanh đúng đắn để đạt được mục tiêu bao trùm cuối cùng là lợi nhuận.
Tóm lại, qua tất cả các vấn đề trên cho thấy rằng sản xuất kinh doanh có
hiệu quả là cần thiết, là mục tiêu kinh tế tổng hợp cần đạt được trong mỗi kỳ kinh
doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào hoạt động trong cơ chế thị trường.
1.3 Phân loại hiệu quả sản xuất kinh doanh.
1.3.1.Hiệu quả xã hội, hiệu quả kinh tế, hiệu quả kinh tế – xã hội, hiệu quả
kinh doanh.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 9
Thứ nhất, hiệu quả xã hội. Hiệu quả xã hội là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng
các nguồn lực sản xuất xã hội nhằm đạt được các mục tiêu xã hội nhất định. Các
mục tiêu xã hội thường là giải quyết công ăn, việc làm; xây dựng cơ sở hạ tầng;
nâng cao phúc lợi xã hội; nâng cao mức sống và đời sống văn hoá, tinh thần cho
người lao động; đảm bảo và nâng cao sức khoẻ cho người lao động; cải thiện điều
kiện lao động, đảm bảo vệ sinh môi trường;…Hiệu quả xã hội thường gắn liền với
các mô hình kinh tế hỗn hợp và trước hết thường được đánh giá và giải quyết ở góc
độ vĩ mô.
Thứ hai, hiệu quả kinh tế. Hiệu quả kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các
nguồn lực để đạt các mục tiêu kinh tế của một thời kì nào đó. Hiệu quả kinh tế
thường được nghiên cứu ở giác độ quản lí vĩ mô. Cần chú ý rằng không phải bao
giờ hiệu quả kinh tế và hiệu quả kinh doanh cũng vận động cùng chiều. Có thể
từng doanh nghiệp đạt được hiệu quả kinh doanh cao song chưa chắc nền kinh tế
đã đạt hiệu quả kinh tế cao bởi lẽ kết quả của một nền kinh tế đạt được trong mỗi
thời kì không phải lúc nào cũng là tổng đơn thuần của các kết quả của từng doanh
nghiệp.
Thứ ba, hiệu quả kinh tế – xã hội phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực
sản xuất để đạt được các mục tiêu kinh tế – xã hội nhất định. Hiệu quả kinh tế xã
hội gắn với nền kinh tế hỗn hợp và được xem xét ở góc độ vĩ mô.
Thứ tư, hiệu quả kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh trình
độ lợi dụng các nguồn lực, phản ánh mặt chất lượng của quá trình kinh doanh,
phức tạp và khó tính toán bởi cả phạm trù kết quả và hao phí nguồn lực gắn vắi
một thời kỳ cụ thể nào đó đều khó xác định một cách chính xác.
Cần chú ý rằng hiệu quả kinh tế xã hội và hiệu quả kinh doanh là hai phạm trù
khác nhau, giải quyết ở hại góc độ khác nhau song có mối quan hệ biện chứng với
nhau.
Hiệu quả kinh tế xã hội đạt mức tối đa là mức hiệu quả thoả mãn tiêu chuẩn hiệu
quả Pareto. Trong thực tế, do các doanh nghiệp cố tình giảm chi phí kinh doanh
biên cá nhân làm cho chi phí kinh doanh này thấp hơn chi phí kinh doanh biên xã
hội nên có sự tách biệt giữa hiệu quả kinh doanh và hiệu quả xã hội.
Tuy nhiên, với tư cách là một tế bào của nền kinh tế xã hội các doanh nghiệp có
nghĩa vụ góp phần vào quá trình thực hiện mục tiêu xã hội. Mặt khác, xã hội càng
phát triển thì nhân thức cảu con người đối với xã hội cũng dần thay đổi, nhu cầu
của người tiêu dùng không phải chỉ ở công dụng của sản phẩm mà còn ở các điều
kiện khác như chống ô nhiệm môi trường,…
vì vậy, càng ngày các doanh nghiệp càng tự giác nhận thức vai trò, nghĩa vụ, trách
nhiệm của mình đối với việc thực hiện các mục tiêu xã hội bởi chính sự nhận thức
và đóng góp của doanh nghiệp vào thực hiện các mục tiêu xã hội lại làm tăng uy
tín, danh tiếng của doanh nghiệp và tác động tích cực , lâu dài đến kết quả hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp này. vì lẽ đó, càng ngày các doanh nghiệp
không chỉ quan tâm đến hiệu quả kinh doanh mà còn càng quan tâm hơn đến hiệu
quả xã hội.
1.3.2 Hiệu quả kinh doanh tổng hợp và hiệu quả kinh doanh bộ phận
Thứ nhất, hiệu quả kinh doanh tổng hợp.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 10
Hiệu quả kinh doanh tổng hợp phản ánh khái quát và cho phép kết luận về hiệu quả
kinh doanh của toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một
thời kỳ xác định
Thứ hai, hiệu quả kinh doanh bộ phận.
Hiệu quả kinh doanh bộ phậnlà hiệu quả kinh doanh chỉ xét ở từng lĩnh vực hoạt
động cụ thể của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh bộ phận phản ánh hiệu quả ở
từng lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp chứ không phản ánh hiệu quả của doanh
nghiệp.
Giữa hiệu quả kinh doanh tổng hợp và hiệu quả kinh doanh bộ phận có mối quan
hệ biện chứng với nhau. Hiệu qảu kinh doanh tổng hợp cấp doanh nghiệp phản ánh
hiệu quả hoạt động của tất cả các lĩnh vực hoạt động cụ thể của doanh nghiệp và
các đơn vị bộ phận trong doanh nghiệp. Tuy nhiện, trong nhiều trường hợp có thể
xuất hiện mâu thuận giữa hiệu quả kinh doanh tổng hợp và hiệu quả kinh doanh bộ
phận, khi đó chỉ có chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh bộ phận chỉ có thể phản ánh hiệu
quả ở từng lĩnh vực hoạt động, từng bộ phận của doanh nghiệp.
1.3.3 Hiệu quả kinh doanh ngắn hạn và hiệu quả kinh doanh dài hạn
Hiệu quả kinh doanh ngắn hạn, là hiệu quả kinh doanh được xem xét, đánh giá
ở từng khoảng thời gian ngắn. Hiệu quả kinh doanh ngắn hạn chỉ đề cập đến
từng khoảng thời gian ngắn như tuần, tháng…
Hiệu quả kinh doanh dài hạn, là hiệu quả kinh doanh được xem xét, đánh giá
trong khoảng thời gian dài, gắn với chiến lược, các kế hoạch dài hạn hoặc thậm
chí, nói đến hiệu quả kinh doanh dìa hạn người ta hay nhắc đến hiệu quả lâu
dài, gắn với quảng đồi tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Cần chú ý rằng, giữa hiệu quả kinh doanh dài hạn và ngắn hạn vừa có mối quan hệ
biện chứng với nhau và trong nhiều trường hợp có thể mâu thuận nhau. Về nguyên
tắc, chỉ có thể xem xét và đánh giá hiệu quả kinh doanh ngắn hạn trên cơ sở vẫn
đảm bảo đạt được hiệu quả kinh doanh dài hạn trong tương lai.
2 . Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh
2.1. Các nhân tố bên trong
2.1.1.Lực lượng lao động
Người ta thường nhắc đến luận điểm ngày nay khoá học kỹ thuật đã trở thành lực
lượng trực tiếp. áp dụng khoa học kỹ thuật tiến tiến là điều kiện tiên quyết để tăng
hiệu quả sản xuất của các doanh nghiệp . Tuy nhiên , cần thấy rằng :
Thứ nhất, máy móc dù tối tân đến đâu cũng do người chế tạo ra . Nếu không có lao
động sáng tạo của con người sẽ không thể có các thiết bị đó.
Thứ hai, máy móc thiết bị dù có hiên đại đến đâu cũng phải phù hợp với trình độ tổ
chức, trình độ kỹ thuật, trình độ máy móc của người lao động. Thực tế cho thấy
nhiều doanh nghiệp nhập tràn lan thiết bị hiện đại của nước ngoài nhưng do trình
độ sự dụng yếu kém nên vừa không đem lại năng xuất cao lại vừa tốn kém tiền
của cho hạt động sửa chữa, kết cục là hiệu quả kinh doanh rất thấp.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 11
Trong sản xuất kinh doanh, lực lượng lao động của doanh nghiệp có thể sáng tạo ra
công nghệ, kỹ thuật mới và đưa chúng vào sự dụng tạo ra tiềm năng lớn cho việc
nâng cao hiệu quả kinh doanh . Cũng chính lực lượng lao động sáng tạo ra sản
phẩm mới với kiểu giáng phù hợp với cầu của người tiêu dùng làm cho sảm phẩm
(dich vụ) của doanh nghiệp có thể bán được tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả kinh
doanh. Lực lượng lao động có tác động trực tiếp đến năng suất lao động, đến trình
độ sự dụng các nguồn lực khác (máy móc thiết bị và nguyên vật liệu…) nên tác
động trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngày nay, sự phát triển khoa học kỹ thụât đã thúc đẩy nền kinh tế trí thức. Đặc
trưng cơ bản của nền kinh tế trí thức là hàm lượng khoa học kết tinh trong sản
phẩm (dịch vụ) rất cao. Đòi hỏi lực lượng lao động phải là lực lượng rất tinh nhuễ
có trình độ khoa học kỹ thuật cao. Điều này càng khẳng định vai trò ngày càng
quan trọng của lượng lao động đối với việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp.
2.1.2.Trình độ phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật
Công cụ lao động là phương tiện mà con người sự dụng để tác động vào đối
tượng lao động. Qúa trình phát triển sản xuất luôn gắn liền với với quá trình phát
triển của công cụ lao động. Sự phát triển của công cụ lao động gắn bó chặt chẽ với
quá trình tăng năng suất lao động, tăng sản lượng, chất lương sản phẩm và hạ giá
thành . Như thế, cơ sở vật chất kỹ thụât là nhân tố hết sức quan trọng tạo ra tiềm
năng tăng năng suất, chất lương, tăng hiệu quả kinh doanh. Chất lương hoạt động
của các doanh nghiệp chịu tác động mạnh mẽ của trình độ kỹ thụât, cơ cấu, tính
đồng bộ của máy móc thiết bị, chất lương, công tác bảo dưỡng sửa chữa máy móc
thiết bị…
Nhiều doanh nghiệp nước ta hiện nay có cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thụât còn
hết sức yếu kém; Máy móc thiết bị vừa lạc hậu vừa không đồng bộ. Đồng thời,
trong những năm qua việc quản trị, sử dụng cơ sở vật chất kỹ thụât cũng không
được chú trọng nên nhiều doanh nghiệp không sử dụng và phát huy hết năng lực
sản xuất hiện có của mình. Thực tế trong những năm chuyễn đổi kinh tế vừa qua
cho thấy doanh nghiệp nào được chuyễn giao công nghệ sản xuất và hệ thống thiết
bị hiền đại, làm chủ được yếu tố kỹ thụât thì phát triển được sản xuất kinh doanh,
đạt được kết quả và hiệu quả kinh doanh cao, tạo được lợi thế cạnh tranh so với
các doanh nghiệp cùng nghành và có khả năng phát triển. Ngược lại những doanh
nghiệp vẫn sử dụng công nghệ , thiết bị cũ hoặc được chuyễn giao công nghệ lạc
hậu không thể tạo ra sản phẩm đáp ứng đòi của thị trường về cả chất lượng và giá
cả nên sản xuất ở doanh nghiệp đó thường chững lại, đi xuống và trong nhiều
trường hợp doanh nghiệp có thể bị đóng cửa do kinh doanh không hiệu quả.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 12
Ngày nay, công nghệ kỹ thụât phát triển nhanh chóng, chu kỳ công nghệ ngày càng
ngắn hơn và ngày càng hiện đại hơn, đóng vai trò ngày càng to lớn, mang tính
chất quyết định đối với việc nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả . Điều này
đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải tìm được giải pháp đầu tư đúng đắn, chuyễn giao
công nghệ phù hợp với trình độ công nghệ tiến tiến của thế giới, bồi dưỡng và đào
tạo lưc lượng lao động làm chủ được công nghệ kỹ thụât hiện đại để tiến tới chổ
ứng dụng kỹ thụât ngày càng tiên tiến, sáng tạo kỹ thụât công nghệ mới… làm cơ
sở choviệc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp .
2.1.3.Nhân tố quản trị doanh nghiệp
Càng ngày nhân tố quản trị càng đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp .
Quản trị doanh nghiệp chú trọng đến việc xác định cho doanh nghiệp một hướng đi
đúng đắn trong môi trường kinh doanh ngày càng biến động. Chất lượng của
chiến lược kinh doanh là nhân tố đầu tiên và quan trọng nhất quyết định sử thành
công, hiệu quả kinh doanh cao hay thất bại, kinh doanh phi hiệu quả của một
doanh nghiệp. Định hướng đúng và luôn định hướng đúng là cơ sở để đảm bảo
hiệu quả lâu dài của doanh nghiệp .
Muốn tồn tại và phát triển doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh tranh, các lợi
thế về chất lượng và sử khác biệt hoá sản phẩm, giá cả và tốc độ cung ứng để đảm
bảo cho một doanh nghiệp dành chiến thắng trong cạnh tranh phụ thuộc chủ yếu
vào nhãn quan và khả năng quản tri của các nhà quản trị doanh nghiệp. Đến nay,
người ta cũng khẳng định ngay cả đối với việc đảm bảo và ngày càng nâng cao
chất lượng sản phẩm của một doanh nghiệp cũng chịu ảnh hưởng nhiều của nhân
tố quản trị chứ không phải của nhân tố kỹ thuật; quản trị định hướng chất lượng
theo tiêu chuẩn ISO 9000. Chính là dựa trên nền tảng tư tưởng này .
Trong quá trình kinh doanh, quản trị doanh nghiệp khai thác và thực hiện phân bổ
các nguồn lực sản xuất. Chất lượng của hoạt động này cũng là nhân tố quan trọng
ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của mỗi thời kỳ.
Đội ngụ các nhà quản tri mà đặc biệt là các nhà quản trị cao cấp lãnh đạo doanh
nghiệp bằng phẩm chất và tài năng của mình có vai trò quan trọng bậc nhất, ảnh
hưởng có tính chất quyết định đến sử thành đạt của doanh nghiệp . Ơ mỗi doanh
nghiệp, kết quả và hiệu quả hoạt động của quản trị doanh nghiệp đều phụ thuộc rất
lớn vào trình độ chuyên môn của các nhà quản trị cũng như cơ cấu tổ chức bổ máy
quản trị doanh nghiệp, việc xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn từng bộ
phận, cá nhân và thiết lập các mối quan hệ giữa các bộ phận trong cơ cấu tổ chức
đó.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 13
2.1.4. Hệ thông trao đổi và xử lý thông tin
Ngay nay sử phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học kỹ thụât đang làm thay
đổi hặn nhiều lĩnh vực sản xuất, trong đó công nghệ tin học đóng vai trò đặc biệt
quan trọng. Thông tin được coi là hàng hoá, là đối tượng kinh doanh và nền kinh
tế thị trường hiện nay là nền kinh tế thông tin hoá. Để đạt được thành công khi
kinh doanh trong điều kiện cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt, các doanh
nghiệp rất cần nhiều thông tin chính xác về cung cầu thị trường hàng hoá, về công
nghệ kỹ thuật về người mua, về các đối thủ cạnh tranh …Ngoài ra , doanh nghiệp
còn rất cần đến các thông tin về kinh nghiệm thành công hay thất bại của các
doanh nghiệp khác ở trong nước và quốc tế, cần biết các thông tin về các thay đổi
trong các chính sách của Nhà Nước và các nước khác có liên quan..
Trong kinh doanh nếu biết mình, biết người và nhất là hiểu rõ được các đối thủ
cạnh tranh thì mới có đối sách giành thắng lợi trong cạnh tranh, có chính sách phát
triển mối quan hệ hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau. Kinh nghiệm thành công của nhiều
doanh nghiệp cho thấy nắm được các thông tin cần thiết, xử lý và sử dụng các
thông tin đó kịp thời là một điều rất quan trọng để ra các quyết định kinh doanh có
hiệu quả cao, đem lại thắng lợi trong cạnh tranh. Những thông tin chính xác được
cung cấp kịp thời sẽ là cơ sở vững chắc để các doanh nghiệp xác định phương
hướng kinh doanh, xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn cũng như hoạch định
chương trình sản xuất ngắn hạn. Nếu doanh nghiệp không dược cung cấp thông
tin một cách thường xuyên và liên tục, không có trong tay các thông tin cần thiết
và xử lý một cách kịp thời doanh nghiệp không có cơ sở đẻ ban hành các quyết
định kinh doanh dài hạn và ngắn hạn và do đó dễ dẫn đến thất bại.
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là của công nghệ thông tin đã thúc
đẩy và đòi hỏi mỗi nước phải bắt tay xây dựng nền kinh tế trí thức. Một trong
những đòi hỏi của việc xây dựng nền kinh tế trí thức là các hoạt động kinh doanh
phải dựa trên cơ sở sự phát triển của công nghệ tin học. Nhu cầu về thông tin của
các doanh nghiệp đòi hỏi phải phát triển mạnh mẽ hệ thông tin dưới nhiều hình
thức khác nhau trong đó đặc biệt là hệ thống thông tin nối mạng trong nước và
quốc tế.
Tổ chức khoa học hệ thống thông tin nội bổ vừa đáp ứng nhu cầu thông tin kinh
doanh lại vừa đảm bảo giảm thiểu chi phí kinh doanh cho quá trình thu thập, xử
lý, lưu trữ và sử dụng thông tin. Do nhu cầu thông tin ngày càng lớn nên nhiệm vụ
này cũng là nhiệm vụ rất quan trọng của công tác quản trị doanh nghiệp hiện nay.
Phù hợp với xu thế phát triển hể htống thông tin nội bộ phải là hệ thống thông tin
nối mạng cục bộ và cao hơn nữa là nối trong nước và quốc tế.
2.2.Nhân tố thuộc môi trường bên ngoài
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 14
2.2.1 Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý bao gồm luật, các văn bản dưới luật,…Mọi quy định
pháp luật về kinh doanh đều tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp. Vì môi trường pháp lý tạo ra “sân chơi” để các doanh nghiệp
cùng tham gia hoạt động kinh doanh, vừa cạnh tranh lại vừa hợp tác với nhau nên
việc tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh là rất quan trọng. Một môi trường pháp
lý lành mạnh vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động kinh
doanh của mình lại vừa điều chỉnh các hoạt động kinh tế vi mô không chỉ chú ý
đến kết quả và hiểu quả riêng mà còn phải chú ý đến lợi ích của các thành viên
khác trong xã hội. Môi trường pháp lý bảo đảm tính bình đẳng của mọi loại hình
doanh nghiệp sẽ điều chỉnh các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, cạnh tranh
nhau một cách lành mạnh; mỗi doanh nghiệp buộc phải chú ý phát triển các nhân
tố nội lực, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật và khoa học quản trị tiên tiến
tận dụng được các cơ hội bên ngoài nhằm phát triển kinh doanh của mình, tránh
những đổ vỡ không cần thiết, có hại cho xã hội.
Tiến hành các hoạt động kinh doanh mọi doanh nghiệp có nghĩa vụ chấp
hành nghiêm chỉnh mọi quy định của pháp luật, kinh doanh trên thị trường quốc tế
doanh nghiệp phải nắm chắc luật pháp của nước sở tại và tiến hành các hoạt động
kinh doanh trên cở tôn trọng luật pháp của nước đó.
Tính nghiêm minh của luật pháp thể hiện trong môi trường kinh doanh thực tế ở
mức độ nào cũng tác động mạnh mẽ đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của mỗi
doanh nghiệp. Sẽ chỉ có kết quả và hiệu quả tích cực nếu môi trường kinh doanh
mà mỗi thành viên đều tuân theo pháp luật. Nếu ngược lại, nhiều doanh nghiệp sẽ
lao vào làm ăn bất chính, trốn lậu thuế, sản xuất hàng giả, hàng nhái cũng như gian
lận thương mại, vi phạm pháp lệnh môi trường,…làm cho môi trường kinh doanh
không còn lành mạnh. Trong môi trường này, nhiều khi kết quả và hiệu quả kinh
doanh không có cách yếu tố nội lực từng quyết định dẫn đến những thiệt hại rất lớn
về kinh tế và làm xói mòn đạo đức xã hội.
2.2.2. Môi trường kinh tế.
Môi trường kinh tế là nhân tố bên ngoài tác động rất lớn đến hiệu quả kinh doanh
của từng doanh nghiệp. Trước hết, phải kể đến các chính sách đầu tư, chính sách
phát triển kinh tế, chính sách cơ cấu,….các chính sách vĩ mô này tạo sự ưu tiên hay
kìm hãm sự phát triển của từng nghành, từng vùng kinh tế cụ thể do đó tác động
trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc các
nghành, các vùng kinh tế nhất định.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 15
Việc tạo ra môi trưòng kinh doanh lành mạnh, các cơ quan quả lý nhà nước về kinh
tế làm tốt công tác dự báo để điều tiết đúng đắn các hoạt động đầu tư, không để
nghành hay vùng kinh tế nào phát triển theo xu hướng cung vượt cầu; việc thực
hiện tốt sự hạn chế độc quyền, kiểm soát độc quyền, tạo ra mội trường cạnh tranh
bình đẳng; việc quản lý tốt các doanh nghiệp nhà nước, không tạo ra sự khác biệt
đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước và các loại hình doanh nghiệp khác; việc sử lý
tốt các quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ tỷ giá hối đoái; việc đưa ra các chính
sách thuế phù hợp với trình độ kinh tế và đảm bảo tính công bằng;…đều là những
vấn đề hết sức quan trọng, tác đông rất mạnh mẽ đến kết quả và hiệu quả kinh
doanh của các doanh nghiệp có liên quan.
2.2.3. Các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng
Các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng như hệ thống đường giao thông, hệ thống thông tin
liên lạc, điện, nước, … cũng như sự phát triển của giáo dục và đào tạo, …đều là
những nhân tố tác động mạnh mẽ đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp kinh doanh ở khu vực có giao thông thuận lợi, điện nước đầy đủ,
dân cư đông đúc và có trình độ dân trí cao sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát
triển sản xuất, tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu, giảm chi phí kinh
doanh,…và do đó nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Ngược lại, ở nhiều
vùng nông thôn, miền núi, biên giới, hải đạo có cơ sở hạ tầng yếu kém, không
thuận lợi cho mọi hoạt động như vận chuyển, mua bán hàng hoá, …các doanh
nghiệp hoạt động với hiệu quả kinh doanh không cao. Thậm chí so với nhiều vùng
sản phẩm làm ra mặc dù rất có giá trị nhưng không có hệ thống giao thông thuận
lợi vẫn không thể tiêu thụ được dẫn đến hiệu quả kinh doanh thấp.
Trình độ dân trí tác động rất lớn đến chất lượng của lực lượng lao động xã hội nên
tác đông trực tiếp đến nguồn nhân lực cảu mỗi doanh nghiệp. Chất lượng của đội
ngũ lao động lại là nhân tố bên trong ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp.
3. Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh.
3.1.Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tổng hợp
Việc phân tích các chỉ tiêu doanh lợi sẽ đánh giá hai loại vốn kinh doanh và vốn
tự có của Doanh nghiệp phản ánh mức sinh lời của số vốn kinh doanh, khẳng định
mức độ đặt hiệu quả kinh doanh của toàn bộ số vốn, cũng như số vốn tự có mà
Doanh nghiệp đã sử dụng. Trong các chỉ tiêu doanh lợi, chỉ tiêu doanh thu vô
cùng quan trọng, nó xác định số lượng sản phẩm bán được từ các hoạt động sản
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 16
xuất và kinh doanh. Khi doanh thu tăng chứng tỏ mức tiêu thụ càng lớn, phần nào
khẳng định chiến lược bán hàng thu được những thành công nhất định.
+ Doanh lợi của toàn bộ số vốn kinh doanh :
Với DVKD: doanh lợi của toàn bộ vốn kinh doanh.
R: Lãi ròng.
VV: Lãi trả vốn vay.
VKD: Là tổng vốn kinh doanh.
Doanh lợi của toàn bộ vốn kinh doanh cho biết rằng: với một đồng của toàn bộ số
vốn kinh doanh bỏ vào để sản xuất kinh doanh thì thu được bao nhiêu đồng lợi
nhuận. ở đây tổng vốn kinh doanh là bao gồm cả vốn tự có của doanh nghiệp và
vốn đI vay của các nguồn khác.
Chỉ tiêu này phản ánh thực tế hơn. chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ rằng doanh
nghiệp làm ăn ngày càng có lãi.
+ Doanh lợi của số vốn tự có :
DVTC: Doanh lợi vốn tự có của một thời kỳ nhất định.
VTC: Tổng vốn tự có.
Doanh lợi trên vốn tự có cho biết cứ một đồng vốn tự có của doanh nghiẹp bỏ ra
để kinh doanh thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Chỉ tiêu doanh lợi vốn tự có xem xét khi lựa chọn kinh tế nếu DVTC = 100%
thì việc tối đa hoá doanh lợi vốn tự có là hoạt động kinh tế không có hiệu quả.
Doanh lợi doanh thu bán hàng
DTR: Doanh lợi doanh thu bán hàng
KD
VVR
VKD
C V
D 100)(%
TC
R
VTC
C V
D 100%
TR
D
R
TR 100
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 17
R: Lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh
TR : Tổng doanh thu bán hàng
Chỉ tiêu này cho biết trong một đồng doanh thu có bao nhiêu đồng lợi nhuận.
+ Ngoài ra bao trùm hoạt động kinh doanh, mấu chốt của các chỉ tiêu doanh lợi
chính là chỉ tiêu lợi nhuận Đây là các chỉ tiêu mà các nhà kinh tế cũng như các
nhà tài trợ nhà tài trợ quan tâm nhiều nhất khi xem xét hiệu quả kinh doanh.
Lợi nhuận của toàn bộ Tổng Công ty Muối là biểu hiện bằng tiền của bộ phận sản
xuất thặng dư do kết quả của người sản xuất mang lại. Lợi nhuận là chỉ tiêu chất
lượng tổng hợp biểu hiện kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Nó phản ánh
đầy đủ các mặt số lượng và chất lượng của toàn Tổng Công ty Muối, phản ánh kết
quả việc sử dụng các yếu tố cơ bản của qúa trình sản xuất như lao động, vât tư, tài
sản cố định. .. Bên cạnh đó lợi nhuận còn là nguồn vốn quan trọng để tái sản xuất
mở rộng toàn bộ Tổng Công ty. Bởi vì lợi nhuận là nguồn hình thành nên thu nhập
của ngân sách nhà nước, thông qua việc thu thuế lợi tức giúp cho Nhà nước phát
triển nền kinh tế xã hội. Một phần lợi nhuận còn được phân phối vào các quỹ tạo
điều kiện nâng cao sản xuất, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên.
Chỉ tiêu này được tính theo công thức:
PR= D - ( C+ T).
PR: lợi nhuận đạt được sau mỗi kỳ kinh doanh
D: doanh thu đạt đợc sau mỗi kỳ kinh doanh
C: chi phí hay giá thành sản phẩm.
T: thuế doanh thu.
Vì sản phẩm muối là sản phẩm đặc biệt nên thuế VAT= 0% hay T=0.
Trong các chỉ tiêu phản ánh lợi nhuận còn có các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận
+ Tỷ suất lợi nhuận chi phí :
T= P/C
T: tỷ suất lợi nhuận chi phí
P: lợi nhuận
C: chi phí
+ Tỷ suất lợi nhuận vốn :
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 18
T= P/V
P : lợi nhuận
V: vốn kinh doanh
* Các chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế
QG: Sản lượng tính bằng giá trị.
CTC: Chi phí tài chính.
CTT: Chi phí kinh doanh thực tế.
CPD: Chi phí kinh doanh phải đạt.
Các chỉ tiêu này đánh giá tính hiêu quả của các hoạt động sản xuất
kinh doanh xem xét chi phí kinh doanh là chi phí chi ra trong điều kiện
thuận lợi nhất
3.2.Các chỉ tiêu bộ phận
+ Số vòng quay của vốn (SVV).
SVV = TR/VKD.
SVV: Là số vòng quay của vốn. Số vòng quay càng lớn thì hiệu xuất sử
dụng vốn càng lớn.
+ Hiệu quả sử dụng vốn cố định.
TSCDG= nguyên giá TSCD - hao mòn TSCD
HTSCD: Hiệu suất sử dụng vốn cố định.
TSCDG: Tổng giá trị TSCD bình quân trong kỳ.
Công thức này sẽ cho biết việc đầu tư vào TSCD có hiệu quả hay không.
+ Hiệu suất sử dụng vốn lưu động
TC
G
C
QH 100%
PD
TT
C
CH 100(%)
G
R
TSCD
TSCD
H
LD
R
VLD
V
H
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 19
.
HVLD: hiệu quả sử dụng vốn lu động.
VLD: vốn lưu động bình quân trong năm.
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi
nhuận trong kỳ.
3.3. Các chỉ tiêu xã hội
Trước hết chúng ta cần phải hiểu hiệu quả kinh tế xã hội bởi vì ngày nay
khi mục tiêu số một của các doanh nghiệp là lợi nhuận, nhưng bên cạnh lợi nhuận
còn rất nhiều các vấn đề phải giải quyết như môi sinh, thất nghiệp, đói kém ...
Đó là các vấn đề xã hội mà các doanh nghiệp phảI quan tâm đặc biệt là các
doanh nghiệp nhà nước. Chỉ tiêu xã hội cho chúng ta thấy mức độ hoàn thành
nhiệm vụ xã hội của Tổng Công ty Muối Việt Nam.
Hiệu quả xã hội phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực nhằm đạt các
mục tiêu xã hội nhất định. Các mục tiêu xã hội thường thấy là giải quyết công ăn
việc là trong toàn ngành, giảm số người thất nghiệp, nâng cao trình độ đời sống
văn hoá cho nhân dân, đảm bảo mức sống tối thiểu cho ngời lao động, đảm bảo
sức khoẻ, bảo đảm vệ sinh môi trờng.
Đối với các Doanh nghiệp muối Nhà nước các hiệu qủa xã hội được xem
xét trên các khía cạnh :
- Mức độ tiêu dùng sản lượng muối: trong đó muối tinh qua chế biến là bao
nhiêu. Đặc biệt vùng đồng bằng đã tiêu dùng bao nhiêu sản lượng muối iốt, để
giảm và phòng chống bệnh bướu cổ. Đối với các vùng miền núi, vùng sâu, vùng
xa thì chỉ tiêu tiêu dùng muối rất quan trọng. Bởi vì các căn bệnh giảm trí tụê do
thiếu iốt trầm trọng đang trong tình trạng báo động
- Mức độ tiêu thụ sản lượng muối cho diêm dân, chỉ tiêu này được đo lư-
ờng bằng tỉ trọng muối mà Tổng Công ty Muối mua của diêm dân trong tổng số
sản lượng muối mà họ thu hoạch. Một trong những nhiệm vụ mà Nhà nước giao
cho các doanh nghiệp muối Nhà nước cần phải tiêu thụ hàng hoá dư thừa của diêm
dân với giá đảm bảo cho ngời làm muối một mức lãi nhất định (tuỳ vùng ,tuỳ vụ).
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 20
- Mức độ đáp ứng nhu cầu thị trường: đó chính là thị trường của doanh
nghiệp. Nó được đo bằng tỷ trọng khối lượng muối bán ra của Tổng Công ty Muối
và nhu cầu của thị trường. Nó thể hiện khả năng thâm nhập thị trường của doanh
nghiệp. Khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường càng lớn càng chứng tỏ vai trò chủ
đạo của Tổng Công ty Muối. Có thể nói nhu cầu thị trường là tấm gương phản
chiếu tốc độ thay đổi mẫu mã, kiểu dáng, chất lượng sản phẩm. Qua đó nhấn mạnh
việc nắm bắt nhanh với nhu cầu thị trường của Tổng Công ty Muối đối với người
tiêu dùng. Các doanh nghiệp muối muốn điều tiết được thị trường thì trước hết
phải có khả năng đáp ứng phần lớn nhu cầu thị trường.
- Giải quyết công ăn việc làm của người sản xuất muối, từng bước nâng
cao thu nhập cho người lao động, góp phần cải thiện cuộc sống cho họ. Tình trạng
lao động dồi dào trong ngành muối hiện nay quá nhiều, công việc ngày càng được
cơ giới hoá nên đòi hỏi một số ít công nhân. Mặt khác thu nhập của người dân làm
muối hiện nay rất thấp, với thu nhập bình quân là 90.000 đ/người thì không thể
đảm bảo đủ trong điều kiện sống quá “đắt đỏ ”.
- Số lượng dự trữ thờng xuyên mà Tổng Công ty Muối phải đảm bảo cung
ứng cho dân cư và cho các ngành sản xuất khi có các điều kiện xấu (thiên tai, mất
mùa. ..) xảy ra. Đồng thời để thực hiện nhiệm vụ bình ổn giá muối, Tổng Công ty
Muối phải đảm bảo một lượng muối dự trữ theo nhu cầu.
- Phân bổ một khung giá hợp lý với dân cư miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Do điều kiện xa biển địa hình hiểm trở gây khó khăn cho công tác vận chuyển, vì
thế lượng muối cần phải cung cấp cho đồng bào miền núi còn gặp nhiều trở ngại.
Lượng muối cần thiết được cung cấp còn rất thấp, mặt khác đây là khu
vực có thu nhập thấp nhất trong cả nước nên việc đưa ra một khung giá thích hợp
với túi tiền của người dân miền núi là một chỉ tiêu xẫ hội rất đúng đắn, nó còn nói
lên tính nhân đạo, sự quan tâm sâu sắc tới các dân tộc miền núi của Đảng và Nhà
nước ta
4. Các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh.
4.1.Tăng cường quản trị chiến lược kinh doanh.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 21
Nền kinh tế thị trường mở cửa và ngày càng hội nhập với khu vực quốc tế vừa tạo
nhiều điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, vừa làm cho tính biến động của
môi trường kinh doanh ngày càng lớn. Đặc biệt khi mà các hiệp định thương mại
được ký kết giữa nước ta, các nước trong khu vực và thế giới đang ngày càng xoá
đi các rào cản thuế quan đối với hoạt động xuất, nhập khẩu. Điều này dẫn đến sự
thâm nhập trực thiếp của các doanh nghiệp ở các nước vào thị trường của nhau.
Trong môi trường kinh doanh này để chống đỡ với sự thay đổi không lường trước
của môi trường đồi hỏi doanh nghiệp phải có một chiến lược kinh doanh manh
tính chất động và tấn công. Chất lượng của hoạch định và quản trị chiến lược tác
động trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, vị thế cạnh tranh
cũng như hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Chiến lược phải được xây dựng theo qui định khoa học, phải thể hiện tính linh hoạt
cao. Đó không phải là bản thuyết trình chung chung mà phải thể hiện các mục tiêu
cụ thể trên cơ sở chủ động tận dụng các cơ hội và tấn công làm hạn chế các đe doạ
của thị trường. Trong quá trình hoạch định chiến lược phải thể hiện sự kết hợp hài
hoà giữa chiến lược tổng quát và chiến lược bộ phận.
Một số vấn đề quan trọng nữa là phải chú ý đến chất lượng khâu triển khai thực
hiện chiến lược, biến chiến lược kinh doanh thành các chương trình, các kế hoạch
và chính sách kinh doanh phù hợp.
4.2. Quyết định mức sản xuất và sự tham gia của các yếu tố đầu vào.
Mọi doanh nghiệp kinh doanh đều có mục tiêu bao trùm, lâu dài là tối đa hoá lợi
nhuận. Xét trên phương diện lý thuyết thì để đạt được mục tiêu này, trong mọi thời
kỳ kinh doanh doanh nghiệp phải quyết định mức sản xuất của mình thoả mãn điều
kiện doanh thu biên thu được từ đơn vị sản phẩm thứ i phải bằng với chi phí kinh
doanh biên để sản xuất ra đơn vị sản phẩm thứ i đó: MC = MR.
Mặt khác, để sử dụng các nguồn lực đầu vào có hiệu quả nhất. Doanh nghiệp quyết
định sử dụng khối lượng mỗi nguồn lực sao cho mức chi phí kinh doanh để có đơn
vị yếu tố đầu vào thứ j nào đó, bằng với sản phẩm doanh thu biên mà yếu tố đầu
vào đó tạo ra: MRP = MC để vận dụng lý thuyết tối ưu vào quyết định mức sản
lượng sản xuất cũng như việc sử dụng các yếu tố đầu vào vấn đề là ở chỗ doanh
nghiệp phải triển khai quản trị chi phí kinh doanh. Việc tính toán chi phí kinh
doanh và từ đó tính chi phí kinh doanh cận biên phải được tiến hành liên tục và
đảm bảo tính chính xác cần thiết nhằm cung cấp thường xuyên những thông tin về
chi phí kinh doanh theo yêu cầu của bộ máy quản trị doanh nghiệp
4.3. Phát triển trình độ lao động và tạo động lực cho đội ngũ lao động
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 22
Lao động sáng tạo của con người là nhân tố quyết định hiệu quả kinh doanh. Xu
thế xây dựng nền kinh tế trí thức đòi hỏi đội ngũ lao động phải có trình độ chuyên
môn cao, có năng lưc sáng tạo. Vấn đề tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo
lại nhằm thường xuyên nâng cao chất lượng cho đội ngũ lao động là nhiệm vụ mà
doanh nghiệp phải hết sức quan tâm. Đặc biệt, đội ngũ lao động quản trị phải có
khả năng hoạch định chiến lược, phân bổ có hiệu quả các nguồn lực, chủ động ứng
phó với những thay đổi bất thường của môi trường kinh doanh.
Doanh nghiệp phải xây dựng cơ cấu lao động tối ưu, đảm bảo đủ việc làm trên cơ
sở phân công và bố trí lao động hợp lý phù hợp với năng lưc, sở trường và nguyện
vọng của mỗi người. Khi giao việc phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm. Phải đảm bảo cung cấp đầy đủ các điều kiện cần thiết của quá
trình sản xuất, đảm bảo sự cân đối thường xuyên trong sự biến động của môi
trường kinh doanh. Phải chú trọng công tác vệ sinh công nghiệp và an toàn về an
toàn lao động.
Động lực tập thể và cá nhân là yếu tố quyết định khả năng sáng tạo, là yếu tố tập
hợp, liên kết giữa các thành viên lại với nhau. Tạo động lực cho tập thể, cá nhân là
vấn đề đặc biệt quan trọng. Yếu tố tác động mạnh mẽ nhất tới việc tạo động lực là
việc thực hiện trả lương, khuyến khích lợi ích vật chất và chịu trách nhiệm vật chất
đối với người lao động. Không thể tạo ra động lực khi trả lương, thưởng không
theo nguyên tắc công bằng. Mặt khác, nhu cầu tinh thần tinh thần của người lao
động ngày càng đòi hỏi phải chuyển sang quản trị dân chủ, tạo ra bầu không khí
hữu nghị, thân thiện giữa các thành viên phải ngày càng đảm bảo cung cấp đầy đủ,
kịp thời thông tin cho người lao động. Đồng thời phải đặc biệt chú trọng nhân cách
của đội ngũ những người lao động.
4.4 Công tác quản trị
Bộ máy quản trị doanh nghiệp gọn nhẹ, năng động, linh hoạt, trước biến bổi thị
trường luôn là đòi hỏi bức thiết đối với công tác quản trị doanh nghiệp . Muốn
vây, phải chú ngay từ khâu tuyển dụng theo nguyên tắc tuyển người theo yêu cầu
của công việc chứ không được phép ngược lại
Cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp phải thích ứng với sự biến động của
môi trường kinh doanh. Phải xác đinh rõ chứng năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ
trách nhiệm, mối quan hệ giứa các bộ phận, cá nhân trong bộ máy quản trị doanh
nghiệp và phải được quy đinh rõ ràng trong điều lệ cũng như hệ thống nội quy của
doanh nghiệp. Những quy định này phải quán triệt nguyên tắc phát huy tính chủ
động, sáng tạo trong quản trị.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 23
Thiết lập hệ thống thông tin hợp lý là nhiệm vụ không kém phần quan trọng của
công tác tổ chức doanh nghiệp. Việc thiết lập hệ thống thông tin đáp ứng các yêu
cầu sau:
- phải đáp ứng nhu cầu sử dụng thông tin, đảm bảo thường xuyên cung cấp
thông tin cần thiết đến đúng các địa chỉ nhận tin.
- Phải tăng cường chất lượng công tác thu nhân, xử lý thông tin, đảm bảo
thường xuyên cập nhật, bổ sung thông tin
- Phải phù hợp với khả năng sử dụng, khai thác thông tin của doanh nghiệp .
- Phải đảm bảo chi phí kinh doanh thu thập, xử lý và khái thác, sử dụng thông
tin là thấp nhất.
- Phải phù hợp với trình độ phát triển công nghệ tin học, từng bước hội nhập
với hệ thống tin học quốc tế.
4.5. Phát triển công nghệ kỹ thuật:
Nhiều doanh nghiệp nước ta hiện nay có công nghệ kỹ thuật rất lạc hậu, máy móc
thiết bị quá cũ kỹ làm cho năng xuất lao động thấp, chất lượng sản phẩm không
đảm bảo và kết cục là hiệu quả kinh tế thấp hoặc kinh doanh không có hiệu quả.
Nhu cầu đổi mới kỹ thuật công nghệ là rất chính đáng song phát triển công nghệ kỹ
thuật đòi hỏi phải đầu tư lớn; đầu tư đúng hay sai sẽ tác động tới hiệu quả lâu dài
trong tương lai. Vì vậy, để quyết định đầu tư đổi mới kỹ thuật công nghệ phải giải
quyết tốt ba vấn đề:
Thứ nhất, phải dự đoán đúng cung – cầu thị trường, tính chất cạnh tranh, nguồn lực
cần thiết liên quan đến loại sản phẩm (dich vụ) doanh nghiệp sẽ đầu tư phát triển .
Thứ hai, phải phân tích đánh giá và lựa chọn công nghệ phù hợp. Các trường hợp
công nghệ lỗi thời, thiết bị bãi rác, gây ô nhiễm môi trường,… đều đã ẩn chứa
nguy cơ sử dụng không có hiệu quả chúng trong tương lai.
Thứ ba, phải có giải pháp huy động và sử dụng vốn đúng đắn. Nếu dự án thiết bị
không được đảm bảo bởi các điều kiện huy động và sử dụng vốn đúng đắn cũng
đều chứa đựng nguy cơ thất bại, không đem lại hiệu quả.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh hiện nay, các hướng chủ hiếu nhằm đổi mới
và phát triển kỹ thụât công nghệ là:
- Nâng cao chất lượng quản trị công nghệ kỹ thụât, từng bước hoàn thiện quản
trị định hướng chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000.
- Nghiên cứu, đánh giá để có thể chuyễn giao công nghệ một cách có hiệu
quả, tiến tới làm chủ công nghệ và có khả năng sáng tạo công nghệ mới.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 24
- Nghiên cứu, đánh giá và nhập các loại thiết bị máy móc phù hợp với trình độ
kỹ thuật, các điều kiệntài chính; từng bước quản trị và sử dụng có hiệu quả
thiết bị máy móc hiện có.
- Nghiên cứu sử dụng vật liệu mới và vật liệu thay thế theo nguyên tắc nguồn
lực dễ kiếm hơn, rẽ tiền hơn và vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm.
- Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tin học trong mọi lĩnh vực quản trị quản
trị kỹ thụât và quản trị các hoạt động sản xuất kinh doanh khác.
4.6. Tăng cường và mở rộng quan hệ cầu nối giữa doanh nghiệp và xã hội.
Cùng với sự phát triển và mở rộng thị trường, sự phụ thuộc giữa các doanh nghiệp
với nhau càng chặt chẽ. Doanh nghiệp nào biết khai thác tốt thị trường cũng như
các quan hệ bạn hàng doanh nghiệp đó có cơ hội phát triển kinh doanh. Muốn
hoạt động kinh doanh có hiệu quả cao, doanh nghiệp phải biết tận dụng cơ hội,
hạn chế khó khăn, tránh các cảm bẫy,… Muốn vậy, doanh nghiệp phải:
- Giải quyết tốt các quan hệ với khách hàng. Khách hàng là đối tương duy
nhất mà doanh nghiệp phải tân tuỵ phục vụ và thông quá đó, doanh nghiệp
mối có cơ hội thu được lợi nhuận.
- Tạo sự tín nhiệm, uy tín và danh tiếng của doanh nghiệp trên thị trường.
Chính uy tín, danh tiếng là cái “không ai có thể mua được” nhưng lại là điều
kiện đảm bảo hiệu quả lâu dài cho mọi doanh nghiệp .
- Giải quyết tốt các mối quan hệ với các đơn vị tiêu thụ, cung ứng, các đơn vị
kinh doanh có liên qua khác, …đây là điều kiện để doanh nghiệp có thể
giảm được chi phí kinh doanh sử dụng các yếu tố đầu vào.
- Giải quyết tốt các mối quan hệ với cơ quan quản lý nhà nước vĩ mô vì chỉ
trên cơ sở này mội hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mới có thể diễn
ra thuật lợi, hiệu quả kinh doanh mới gắn chặt với hiệu quả kinh tế xã hội.
- Thực hiện nghiêp chỉnh luật pháp là điều kiện không thể thiếu để phát triển
kinh doanh bền vững.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 25
ChươngII
Thực trạng hiệu quả kinh doanh muối của Tổng Công
Ty Muối Việt Nam.
1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của Tổng Công ty
Muối Việt Nam:
1.1. Tổng quan về ngành muối:
Ngành muối ở Việt Nam ra đời cách đây rất lâu, từ xa xưa người ta đã coi sự
hưng thịnh của nghề muối chỉ rõ sự chấn hưng hay suy thoái của nền kinh tế. Cũng
giống như các ngành nghề quan trọng khác nghề muối từ thuở khai sinh đã được
chú trọng, đặc biệt muối vừa là sản phẩm tiêu dùng thiết yếu hàng ngày, vừa là
nguyên liệu cho các ngành sản xuất khác.
Với một lợi thế đặc biệt về điều kiện tự nhiên, có bờ biển dài trên 3.200 km,
thời tiết nắng nhiều và là một trong những nước ẩn chứa tiềm năng to lớn về sản
xuất muối và các sản phẩm từ muối. Do bốc hơi nước mặn là phương pháp phổ
biến lâu đời ở nước ta để sản xuất muối, những năm gần đây đã đạt sản lượng xấp
xỉ 600.000 tấn/ năm và phấn đấu đạt 1.200.000 tấn vào năm 2003.
Trải qua các thời kỳ, nghề muối có sự phát triển khác nhau, tốc độ phát triển
phụ thuộc vào chế độ chính trị, xã hội, phụ thuộc vào các chính sách, quyết sách
đúng đắn của Chính phủ.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 26
Tuy nhiên qua bao năm tháng nghề muối vẫn phát triển và sản lượng càng
ngày càng cao, cuộc sống người dân làm muối vẫn còn vô vàn những khó khăn
nhưng họ vẫn kiên định trụ vững gắn bó với nghề. Đã nhiều thế hệ trôi qua nhưng
nghề muối vẫn được duy trì tồn tại và phát triển. Điều này đã khẳng định được vị
trí của nghề muối trong xã hội.
Thời kỳ phong kiến
Nhìn lại lịch sử cho thấy sự phát triển sản xuất muối mang tính kế thừa liên
tục, ở thời kỳ phong kiến sản xuất muối vốn xuất phát từ nông nghiệp dần dần tách
ra như một ngành công nghiệp và muối sớm trở thành một hàng hoá quan trọng
sớm được trao đổi trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Trong các thời kỳ
phong kiến chính sách kinh tế của Nhà nước phong kiến đã lấy muối như là một
ngành tạo nên sự phồn thịnh cho nền kinh tế, qua việc sản xuất lưu thông muối để
thu tài chính quốc gia, muối như hàng hoá có lợi nhuận siêu ngạch có những chính
sách chủ trương đặc biệt để mở rộng mối quan hệ với bên ngoài như trao đổi ngoại
giao, mời tư thương đến buôn bán có chính sách ưu đãi được hưởng quy chế riêng
với các thương nhân nước ngoài. Chính sách thuế muối được hình thành sớm, nghề
muối đã trở thành một ngành kinh tế quan trọng đóng góp vào ngân sách quốc gia.
Thời kỳ Pháp thuộc
Nhà nước thực dân Pháp giữ độc quyền về tổ chức sản xuất và lưu thông
muối. Các chính sách hà khắc của chúng đã bóc lột thậm tệ nhân dân, thuế muối là
nguồn thu ngân sách quan trọng thường chiếm từ 6% đến 10% nguồn thu của chính
quyền thực dân, giá mua muối diêm dân chỉ bằng 1/5 đến 1/2 giá bán.
Mỗi một Nhà nước mỗi một chế độ chính trị xã hội có một cách cai quản nền
kinh tế khác nhau. Xã hội nửa thực dân nửa phong kiến đã phơi bày bản chất bóc
lột, chúng đã dùng các chính sách ngu dân để đàn áp người lao động, người làm
muối cũng là những người chịu đủ mọi hình thức bóc lột cạn kiệt sức lao động.
Sản xuất muối hết sức cực khổ nhưng làm không đủ ăn, diêm dân phải chịu
các khoản thuế hết sức vô lý, thuế mà diêm dân phải chịu chiếm 71,1% giá mua
muối.
Mặt khác tính vô nhân đạo của quân xâm lược chèn ép người bản xứ, từ
người sản xuất muối đến người kinh doanh muối, chúng cho rằng đây là mặt hàng
" Béo bở ". Vì vậy chỉ có người Pháp, tư bản Pháp mới được phép kinh doanh công
khai còn người Việt bị hạn chế đến mức tối thiểu. Như vậy với bản chất của một
chế độ bóc lột trong thời kỳ thuộc Pháp ngành muối chỉ đơn thuần sản xuất để kinh
doanh mang lại lợi nhuận siêu ngạch trong khi đó những người dân miền núi, vùng
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 27
sâu vùng xa không có đủ muối để dùng, vì vậy các căn bệnh do thiếu muối gây ra
hết sức nghiêm trọng.
Thời kỳ 1954-1975
Miền Bắc hoà bình, đi vào con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong sự
nghiệp phát triển kinh tế đất nước, ngành muối rất được chú trọng đầu tư phát
triển. Nhà nước ban hành các chính sách về quản lý muối với các mục đích:
Một là phục hồi nghề làm muối và nâng cao chất lượng muối, cải thiện đời
sống cho diêm dân.
Hai là đảm bảo cung cấp muối cho nhân dân và điều hoà giá muối trên thị
trường.
Ba là đảm bảo thu thuế muối cho tài chính quốc gia.
Với các chính sách này thể hiện tính chất xã hội trong việc quản lý ngành
muối của Nhà nước ta. Đó là không ngừng nâng cao đời sống của diêm dân, đảm
bảo cung cấp đủ muối cho các dân tộc miền núi xa xôi.
Thời kỳ này người sản xuất muối đã được tập hợp lại trong các tập đoàn sản
xuất muối. Đây là hình thức tiến bộ nhất trong lúc này, các tập đoàn sản xuất muối
đã giúp các hộ diêm dân đổi công, hợp công trong sản xuất muối, sửa chữa ô nề,
làm đê cống trao đổi kinh nghiệm kỹ thuật sản xuất muối, giúp nhau tiến bộ về mặt
sản xuất và thực hiện chính sách Nhà nước. Kết quả là miền Bắc đảm bảo đủ muối
tiêu dùng trong dân cư, tăng cường lượng dự trữ quốc gia.
ở miền Nam: Nghề muối cũng được chính quyền Nguỵ quan tâm tạo điều
kiện phát triển. Việc lưu thông muối trong nước và xuất khẩu cũng rất nhộn nhịp.
Nhưng mục đích cuối cùng kinh doanh muối của chế độ này đơn thuần là tìm kiếm
lợi nhuận.
Qua đó ta thấy muối là một trong những mặt hàng có sự theo dõi chặt chẽ và
chính quyền đều có chính sách hỗ trợ sản xuất lưu thông ( dù ở chế độ khác nhau ).
Có thể đánh giá một cách khách quan rằng: chính sách quản lý muối của chúng ta
đã mang tính chất toàn diện. Bởi vì chính sách quản lý muối cuối cùng mang lại
quyền lợi cho diêm dân, cho nhân dân cả nước và cho quốc gia. Đó là ba mặt
không thể tách rời và không được xem nhẹ mặt nào, đồng thời thể hiện tính xã hội
trong quản lý ngành muối mà chỉ có trong chế độ xã hội chủ nghĩa mới có được.
Thời kỳ 1875-1989
Nhà nước thống nhất quản lý ngành muối, thực thi chính sách độc quyền về
sản xuất và lưu thông muối trên toàn quốc. Nhà nước ấn định mức giá thu mua và
bán lẻ muối trong cả nước. Cơ quan quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh muối là
Cục Công nghiệp muối thuộc Bộ Lương thực và Thực phẩm. Sau đó ngành muối
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 28
được tổ chức lại dưới hình thức Tổng Công ty Muối trong cả nước. Nhưng về cơ
bản vẫn áp dụng nguyên tắc quản lý bao cấp, kế hoạch hoá tập trung, Nhà nước
cung cấp lương thực, thực phẩm, công cụ sản xuất, phương tiện hoạt động và thu
mua toàn bộ lượng muối sản xuất ra để phân phối cho tiêu dùng.
Tổng Công ty Muối đã thực hiện mua thẳng muối từ các hợp tác xã, xí
nghiệp sản xuất và cung ứng thẳng vật tư, hàng hoá cho các cơ sở sản xuất ký kết
hợp đồng. Đồng thời mở rộng mạng lưới đại lý bán buôn ở các khu chợ kiêm bán
lẻ, thực hiện kinh doanh tổng hợp để bù lỗ cho kinh doanh muối. Hàng năm Tổng
Công ty Muối đã tiến hành xuất khẩu hàng năm theo hợp đồng dài hạn của Liên
Xô cũ và các bạn hàng khác trên 100 ngàn tấn muối. Đây là mức xuất khẩu cao
trong ngành muối ở nước ta.
Khái quát lại trong thời kỳ này do hoàn cảnh nền kinh tế nước ta mới thoát
khỏi chiến tranh nên ngành muối gặp rất nhiều khó khăn. Thị trường muối tiêu thụ
rộng lớn nhưng giá kinh doanh thấp lại thêm tình trạng cấm chợ, ngăn sông các
hàng hoá khác, do đó không khuyến khích mọi người kinh doanh muối, thị trường
kém phát triển. Mạng lưới lưu thông rộng khắp từ trung ương xuống các tỉnh
huyện và xã, song các điều kiện cần thiết về cơ sở hạ tầng kỹ thuật, vốn kinh doanh
không đáp ứng nhu cầu, sản xuất và lưu thông muối thường xuyên xuất hiện tình
trạng thừa thiếu cục bộ, đôi khi có những căng thẳng giả tạo ( do tư tưởng tích trữ
muối của mọi gia đình ). Sự quản lý cứng nhắc giá muối từ trung ương đã ngăn cản
việc hình thành sớm một thị trường để thu hút nhiều thành phần kinh tế cũng như
thương nhân tham gia kinh doanh muối.
Thực tế đó không khuyến khích diêm dân và các xí nghiệp muối quốc doanh
sản xuất muối, đẩy mạnh sản xuất gây nên những trì trệ và đòi hỏi những đổi mới
trong quản lý ngành muối cho phù hợp với sự chuyển hướng chung của nền kinh tế
nước ta.
Thời kỳ 1989 đến nay.
Từ nửa cuối 1988 là thời kỳ chuyển đổi cơ chế quản lý từ kế hoạch hoá tập
trung sang cơ chế thị trường, trước tình hình đó ngành muối có những biến động
sâu sắc. Tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp quốc
doanh đều bị ngừng cấp vốn kinh doanh, các doanh nghiệp này phải chuyển hướng
kinh doanh theo hình thức tự trang trải, tự hạch toán kinh tế mà không còn được sự
bao cấp của Nhà nước nữa.
Thời kỳ này các doanh nghiệp phải tự huy động vốn bằng các nguồn vay
khác nhau với lãi suất khá cao. Do đó các doanh nghiệp kinh doanh muối bước đầu
gặp rất nhiều khó khăn, các địa phương thiếu tiền mặt để mua muối, diêm dân phải
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 29
bán muối với giá rẻ mạt để kiếm sống. Nhiều đơn vị cơ quan, quân đội trong lúc
khó khăn về đời sống đã sử dụng phương tiện vận tải, xăng dầu để kinh doanh
muối, kể cả việc trốn thuế để kiếm lời cải thiện đời sống. Bức tranh ngành muối
lúc này thật ảm đạm, các doanh nghiệp kinh doanh muối thì manh mún phân tán,
trên thị trường bung ra các kiểu kinh doanh muối của tất cả các cơ quan đơn vị
ngành khác và tư nhân chỉ với mục đích là kiếm lời bằng mọi cách.
Từ năm 1989 sản xuất muối giảm sút đáng kể, một mặt do thời tiết không
thuận lợi cho việc sản xuất muối, mặt khác việc lưu thông muối không được tổ
chức tốt, việc định giá cho sản xuất không được thoả đáng, không khuyến khích
người dân sản xuất muối. Người diêm dân không được tạo động lực sản xuất, do
đó có không ít người từ bỏ cuộc sống khó khăn của mình để đi tìm một ngành nghề
khác. Đó chính là nguyên nhân làm cho lực lượng lao động sản xuất muối giảm
sút. Một lý do khác là việc đầu tư của Nhà nước để duy trì sự ổn định hàng năm
không còn nữa, dẫn đến tình trạng diêm dân bỏ sản xuất muối, số diện tích còn lại
năng suất giảm đi rõ rệt, hệ thống hợp tác xã bị tan rã làm cho việc sản xuất muối
cũng bị tan rã. Diêm dân quay lại lối sản xuất hộ gia đình, bước đầu có mang lại
thu nhập cao hơn, nhưng do sản xuất muối mang tính chất công nghiệp, phải sử
dụng chung hệ thống thuỷ nông, cơ sở hạ tầng, đường xá không phù hợp với xu thế
sản xuất nhỏ manh mún nên ngày càng xuống cấp giảm sản lượng muối trên cả
nước trong thời kỳ dài.
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ này là thị trường có nhiều biến động, giá muối
lên xuống thất thường ( một ngày có ba bảng giá khác nhau ) chứng tỏ sự yếu kém
kinh doanh không hiệu quả của Tổng Công ty đối với toàn ngành muối.Tổng Công
ty Muối là một doanh nghiệp Nhà nước được thành lập lại theo quyết định 90-CP
của Thủ tướng Chính phủ nhưng phạm vi hoạt động rất hạn chế. Chức năng bán
buôn muối để kiểm soát thị trường ngày càng khó khăn. Tổng Công ty phải cạnh
tranh với lực lượng tư nhân, tư thương khá hùng hậu. Chính các đối thủ này do chỉ
kinh doanh kiếm lời do đó tìm mọi cách ép giá Tổng Công ty, thao túng giá và làm
rối loạn thị trường giá cả.
Trước tình hình sản xuất lưu thông bị cạnh tranh không lành mạnh Tổng
Công ty đã xây dựng cho mình chiến lược phát triển muối, quy hoạch lại các đồng
muối để không ngừng nâng cao chất lượng điều tiết giá cả.
Để tìm hiểu rõ hơn về ngành muối, chúng ta sẽ nghiên cứu cụ thể tình hình
kinh doanh tại Tổng Công ty Muối Việt Nam.
1.2. Quá trình hình thành và phát triển của Tổng Công ty Muối:
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 30
Tổng Công ty Muối được thành lập ngày 15/10/1985 theo quyết định số
252/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng trên cơ sở sát nhập giữa Cục Công nghiệp
Muối thuộc Bộ Công nghiệp Thực phẩm và Công ty Muối Trung ương thuộc Bộ
Nội thương ( nay là Bộ Thương Mại ).
Từ bước đầu khởi sắc Tổng Công ty đã không ngừng vươn lên bằng chính
sức mạnh của mình, Tổng Công ty đã ngày càng phát huy vai trò chủ đạo của
doanh nghiệp Nhà nước trong toàn ngành muối nói riêng và trong hệ thống doanh
nghiệp Nhà nước nói chung. Cùng với sự đóng góp to lớn của Ban lãnh đạo Tổng
Công ty còn có sự đóng góp của cả mỗi cá nhân, mỗi thành viên trong Tổng Công
ty tạo thành những mắt xích quan trọng. Sự đoàn kết hiệp lực giữa các cá nhân ấy
là một trong những nhân tố sức mạnh làm cho Tổng Công ty ngày càng phồn thịnh.
Thêm một dấu mốc lịch sử được hình thành đó là vào ngày 17/5/1995 Tổng
Công ty đã được thành lập lại theo quyết định số 414/TM-TCCB của Bộ Thương
Mại. Tổng Công ty Muối bao gồm các xí nghiệp doanh nghiệp sản xuất và kinh
doanh muối trên địa bàn cả nước trải dài từ Bắc vào Nam, từ Móng Cái Lạng Sơn
cho đến mũi Cà Mau.
Các đơn vị trực thuộc Tổng Công ty là các đơn vị thành viên hạch toán độc
lập nhưng có quan hệ mật thiết với Tổng Công ty về lợi ích kinh tế, tài chính, công
nghệ, cung ứng, tiêu thụ, dịch vụ thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị hoạt động
kinh doanh nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, phân công chuyên môn hoá và hợp
tác kinh doanh nhằm nâng cao khả năng và hiệu quả kinh doanh của các đơn vị
thành viên cũng như toàn Tổng Công ty.
Tổng Công ty Muối là một doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân,
hạch toán kinh tế độc lập được Nhà nước giao vốn, tài nguyên, đất đai và các
nguồn lực khác, doanh nghệp có trách nhiệm sử dụng hiệu quả, bảo toàn và phát
triển vốn được giao, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về hoạt
động kinh doanh trong phạm vi số vốn Nhà nước giao cho Tổng Công ty quản lý.
Trên cơ sở vốn và nguồn lực Nhà nước đã giao cho Tổng Công ty, Tổng
Công ty giao lại vốn và các nguồn lực khác cho các đưn vị thành viên phù hợp với
nhiêm vụ sản xuất kinh doanh bảo đảm hiệu quả kinh doanh cao nhất. Đồng thời
để đạt mục tiêu không ngừng tăng trưởng lợi nhuận, quy mô sản xuất, hoàn thành
các chỉ tiêu xã hội mà Nhà nước giao phó. Tổng Công ty phải phối hợp hành động,
quản lý chặt chẽ các doanh nghiệp trực thuộc, các phương án sản xuất kinh doanh,
kế hoạch quy hoạch cải tạo đồng muối, phương án sử dụng vốn... sẽ được Hội
đồng quản trị ( HĐQT ) phê duyệt. Các đơn vị thành viên chịu trách nhiệm trước
Nhà nước và Tổng Công ty về hiệu quả sử dụng vốn, đồng muối kho tàng và các
nguồn lực khác.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 31
2. Đặc điểm kinh tế – Kỹ thuật của tổng công ty muối:
2.1. Chức năng và Nhiệm vụ của Tổng công ty Muối:
Về chức năng:
- Lập và triển khai các dự án dài hạn toàn quốc về sản xuất - kinh doanh
muối và các sản phẩm khác từ nước biển.
- Sản xuất và cung ứng muối trộn Iốt cho miền núi và đồng bằng.
- Dự trữ muối Quốc gia.
- Khảo sát, thiết kế, xây dựng đồng muối cỡ nhỏ và vừa.
- Thiết kế chế tạo, lắp đặt các nhà máy trộn Iốt.
- Cố vấn kinh tế, kỹ thật về sản xuất muối và liên quan.
- Hợp tác liên doanh liên kết với các đối tác trong và ngoài nước về sản xuất
và buôn bán muối.
-Xuất nhập khẩu trực tiếp muối và các mặt hàng khác.
Về nhiệm vụ:
Nhiệm vụ chung của Tổng Công ty phấn đấu đạt sản lượng 1,2 triệu
tấn với doanh thu là 620 tỉ đồng vào năm 2003.
Muốn vậy Tổng Công ty phải không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường( cạnh tranh gay gắt) nhiệm vụ của Tổng
Công ty ngày một khó khăn hơn khác hẳn với các loại hình doanh nghiệp của các
thành phần kinh tế khác họ chỉ đơn thuần kinh doanh chạy theo lợi nhuận còn
Tổng Công ty phải gánh vác các trọng trách rất nặng nề, đó là điều hoà cung cầu
muối trong cả nước, giảm tối thiểu số người mắc bệnh đần độn do thiếu Iốt.
Hai nhiệm vụ mà Tổng Công ty Muối phải thực hiện đó là đảm bảo hiệu
quả về mặt xã hội và hiệu quả về mặt kinh tế.
Hai nhiệm vụ đó bổ xung, phối hợp chặt chẽ với nhau để giúp Tổng Công ty
hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước và chính sự tồn tại của mình.
Tổng Công ty Muối là đơn vị duy nhất thực hiện chương trình phổ cập muối
Iốt toàn dân. Ngoài ra việc điều hoà muối tại các tỉnh miền núi và đồng bằng đảm
bảo cho bà con các dân tộc ở vùng sâu, vùng xa có đủ muối để tiêu dùng, giúp họ
phòng chống các căn bệnh do thiếu muối gây ra. Những chương trình như vậy
mang ý nghĩa xã hội rất sâu sắc nó thể hiện tính nhân đạo của Đảng và Nhà nước
ta.
Nhìn chung, Tổng công ty Muối phải gánh vác một nhiệm vụ to lớn là sản
xuất và cung ứng đủ muối tiêu dùng cho người dân và đảm bảo hỗ trợ, thúc đẩy
các ngành kinh tế khác cùng phát triển (cung cấp nguyên liệu đầu vào cho các
ngành đó) cũng nh hướng tới xuất khẩu muối.
Đặc điểm sản xuất muối ở nước ta nhìn chung còn manh mún, phân tán chưa
tập trung, các đồng muối chưa được quy hoạch cụ thể. Do truyền thống lâu đời nên
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 32
phương pháp sản xuất muối ở nước ta vẫn chủ yếu là phương pháp thủ công sản
xuất phơi cát. Phương pháp này phụ thuộc rất lớn vào thời tiết do đó mà khối
lượng sản xuất thường không ổn định
2.2. Cơ cấu tổ chức Tổng Công ty Muối:
Tổ chức Tổng Công ty Muối bao gồm:
a. Hội đồng quản trị ( HĐQT ):
Được thành lập theo quyết định số 1167/ TH-TCCB của Bộ trưởng Bộ
Thương Mại tháng 12/1996. Hội đồng quản trị có năm người gồm:
- Chủ tịch: 1 người
- Trưởng ban kiểm soát chuyên trách: 1 người
- Uỷ viên kiêm nhiệm: 3 người. Trong đó 1 uỷ viên là Tổng Giám đốc, 1 uỷ
viên đương chức phụ trách phòng kỹ thuật Tổng Công Ty, 1 uỷ viên là do Bộ
Thương Mại ( nay là Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn ) uỷ nhiệm.
b. Ban kiểm soát:
Ban này cũng gồm 5 người. Trong đó 1 trưởng ban chuyên trách, 4 uỷ viên
kiêm nhiệm. Trong số 4 uỷ viên này có một người là cán bộ vụ tài chính kế toán
Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, 1 người là cán bộ của Tổng cục quản
lý vốn và tài sản doanh nghiệp, 2 cán bộ của Tổng Công ty.
c. Ban giám đốc: Gồm Tổng giám đốc, các Phó Tổng giám đốc, bộ máy
giúp việc
Tổng giám đốc: Là người chỉ đạo điều hành cao nhất trong mọi hoạt động
của Tổng công ty.
- Phó Tổng giám đốc: Là người giúp việc trực tiếp cho Tổng giám đốc và thay
mặt cho Tổng giám đốc khi được uỷ quyền để điều hành và ký kết các văn
bản, hợp đồng kinh tế.
d. Văn phòng Tổng công ty:
Gồm 102 người bố trí theo các phòng ban, trạm trực thuộc Tổng công ty.
Văn phòng Tổng Công ty có trụ sở tại 07 Hàng Gà - Hà Nội, cán bộ công nhân
viên của Tổng Công ty gồm 59 người và có các phòng ban như sau:
- Phòng Tổ chức hành chính
- Phòng tài chính kế toán
- Phòng Xây dựng cơ bản
- Phòng Dự trữ quốc gia
- Phòng Kế hoạch kinh doanh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 33
- Phòng Xuất nhập khẩu
- Phòng Kỹ thuật
Các phòng ban này có nhiệm vụ chấp hành và kiểm tra việc thực hiện các chỉ
tiêu kế hoạch, các chế độ chính sách của Nhà nước, các quy định nội quy của Tổng
Công ty và các chỉ thị mệnh lệnh của Hội đồng quản trị. Đề xuất với Tổng Giám
đốc Tổng Công ty Muối những chủ trương, biện pháp giải quyết khó khăn gặp phải
trong sản xuất kinh doanh và tăng cường công tác quản lý của Tổng công ty dưới
sự chỉ đạo của Hội đồng qỷan trị.
Cơ cấu tổ chức các phồng ban nhiệm vụ, chức năng:
Nhiệm vụ chung của Tổng Công ty phấn đấu đạt sản lượng 1,2 triệu tấn với
doanh thu là 350 tỷ đồng vào năm 2003. Muốn vậy Tổng Công ty phải không
ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị
trường ( cạnh tranh gay gắt ) nhiệm vụ của Tổng Công ty ngày một khó khăn hơn
khác hẳn với các loại hình doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác, họ chỉ
đơn thuần kinh doanh chạy theo lợi nhuận còn Tổng Công ty phải gánh vác các
trọng trách rất nặng nề, đó là điều hoà cung cầu muối trong cả nước, giảm tối thiểu
số người mắc bệnh đần độn do thiếu iốt.
Hai nhiệm vụ mà Tổng Công ty Muối phải thực hiện đó là đảm bảo hiệu quả
về mặt xã hội và hiệu quả về mặt kinh tế. Tưởng chừng như hai khái niệm đó rất
mâu thuẫn trái ngược với nhau đối với một doanh nghiệp kinh doanh trongg cơ chế
thị trường, nhưng đó lại là hai chức năng chính của Tổng Công ty Muối. Hai nhiệm
vụ đó vừa bổ sung, phối hợp chặt chẽ để giúp Tổng Công ty hoàn thành nghĩa vụ
đối với Nhà nước và chính sự tồn tại của Tổng Công ty.
Tổng Công ty Muối thực hiện các nhiệm vụ được Nhà nước giao phó, đó là
nhiệm vụ chương trình phổ cập muối iốt toàn dân. Ngoài ra việc điều hoà muối tại
các tỉnh miền núi và đồng bằng đảm bảo cho bà con các dân tộc ở vùng sâu, vùng
xa có đủ muối để tiêu dùng, giúp họ phòng chống các căn bệnh do thiếu muối gây
ra. Những chương trình như vậy mang ý nghĩa xã hội rất sâu sắc, nó thể hiện tính
nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta.
Nhiệm vụ chức năng của các phòng ban:
+ Phòng kế hoạch kinh doanh :
Có nhiệm vụ nghiên cứu, tiếp cận thị trường để xây dựng và tổ chức thực hiện
kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm của Tổng công ty, trên cơ sở các kế hoạch
cụ thể của Nhà nước giao, của các phòng chức năng, và các kế hoạch khác của
tổng công ty.
+ Phòng xuất nhập khẩu:
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 34
- Có nhiệm vụ nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước để xây dựng kế
hoạch và tổ chức thực hiện các phương án kinh doanh xuất-nhập khẩu.
- Tham mưu, nghiên cứu, đánh giá, khảo sát khả năng tiềm lực của đối tác
nước ngoài khi liên kết kinh doanh với Tổng công ty cho Tổng giám đốc trong
quan hệ đối ngoại, chính sách xuất - nhập khẩu.
+ Phòng dự trữ quốc gia:
Có nhiệm vụ XD kế hoạch dự trữ muối phòng khi mất mùa, chiến tranh.
Cùng phòng kế hoạch kinh doanh xây dựng kế hoạch dự trữ muối nguyên liệu để
phục vụ sản xuất kinh doanh trong những ngày giáp vụ, dự báo nhu cầu để dự trữ
muối khi cần thiết, thực hiện nhiệm vụ xuất muối dự trữ quốc gia khi có nhu cầu
đột biến.
Bộ phận dự trữ quốc gia được hạch toán theo nguồn vốn hành chính sự
nghiệp, với 13 cụm kho dự trữ từ Bắc vào Nam.
+ Phòng tổ chức hành chính :
Tham mưu về công tác tổ chức sắp xếp cán bộ; tiếp các đoàn thanh tra ; xây
dựng kế hoạch và mua sắm trang bị làm việc cho văn phòng Tổng công ty hàng
tháng và hàng năm; tổ chức tiếp khách, hướng dẫn khách đến làm việc, quản lý các
loại tài sản trực thuộc văn phòng Tổng công ty; bảo đảm xe đưa đón lãnh đạo, cán
bộ đi làm đúng giờ an toàn; xây dựng kế hoạch, nội dung công tác thi đua, tập hợp
đề nghị khen thưởng , đề xuất hình thức khen thưởng với hợp đồng thi đua và Tổng
giám đốc xét sau.
+ Phòng xây dựng cơ bản:
- Có nhiệm vụ lập kế hoạch đầu tư, kế hoạch xây dựng cơ bản hàng năm và kế
hoạch dài hạn của Tổng công ty.
- Điều tra khảo sát lập dự án đầu tư xây dựng, khảo sát thiết kế lập tổng dự
toán các công trình xây dựng. Giám sát kỹ thuật xây dựng, nghiệm thu khối lượng
và chất lượng các công đoạn xây lắp công trình, tổ chức bàn giao các công trình đi
vào sử dụng.
- Quản lý các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách cấp và tự có
của các đơn vị thành viên (kể cả vốn vay ). Lập và sửa chữa nhỏ các công trình
như kho tàng, nhà xưởng thuộc sự quản lý trực tiếp của Tổng công ty.
+ Phòng tài chính kế toán :
- Có nhiệm vụ tham mưu, xây dựng kế hoạch tài chính, đề xuất lên Tổng giám
đốc phương án tổ chức hoạt động của bộ máy kế toán của Tổng công ty phù hợp
với chế độ kế toán Nhà nước.
- Tổ chức quản lý kế toán, hướng dẫn các hàng và chương trình bướu cổ bộ y
tế về muối Iốt cho miềm núi.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 35
+ Phòng Khoa học kỹ thuật :
Có nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật để phục
vụ ngành muối. Giúp Tổng giám đốc quản lý các dự án, đề án về khoa học kỹ
thuật, công nghệ trong toàn Tổng công ty.
+ Các Trạm trực thuộc Văn phòng Tổng công ty : Thực hiện những nhiệm
vụ Tổng công ty giao cho.
+ Ban Quản lý dự án Khu kinh tế muối Công nghiệp và Xuất khẩu Quán
Thẻ - Ninh Thuận.
f. Các đơn vị trực thuộc Tổng công ty Muối :
Tổng công ty có 15 doanh nghiệp thành viên trực thuộc (7 doanh nghiệp hạch
toán độc lập, 8 doanh nghiệp hạch toán phụ thuộc)
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 36
Bảngsố1: Các DN thành viên trực thuộc của TCT Muối
Stt Đơn vị Địa chỉ
Ngành
nghề
Hạch
toán
Vốn
nhà
nước
Loại
DN
Thị trường
tiêu thụ
1
Công ty Muối
Hải Phòng
TP. Hải
Phòng
SX - KD
muối
Độc lập 2.469
Công
ích
Hà Giang,
Tuyên Quang,
Lai Châu, Thái
bình,
2
Công ty Muối
Nam Định
TP. Nam
Định
SX - KD
muối
Độc lập 10.075 Công
ích
Hà Giang,
Tuyên Quang,
Lai Châu
3
Công ty Muối
Thanh Hoá
TP.
Thanh
Hoá
KD muối
,hoá
Chất,
Độc lập 4.241
Công
ích
Nghệ an,
Thanh hoá,
HG, TQ,
4 Công ty Muối
Nghệ An
TP.Vinh
SS - KD
muối
Độc lập 4.722
Công
ích
Nghệ an,
Thanh hoá,
Hoà bình. HG,
TQ, LC,
5
Công ty Muối
Hà Tĩnh
TX. Hà
Tĩnh
SX - KD
muối
Phụ
thuộc
4.245
Công
ích
Hà Giang,
Tuyên Quang,
Lai Châu, …
6
Công ty Muối
Miền Trung
TP. Đà
Nẵng
SX - KD
muối
Phụ
thuộc
5.012
Công
ích
Miền Trung,
Miền Nam,
Tây Nguyên
7
Công ty Muối
Miền Nam
TP. Hồ
Chí
Minh
SX - KD
muối,
Xây
dựng
Độc lập 14.075
Công
ích
Miền Nam,
Miền Trung,
Tây Nguyên
8
Công ty Muối
Bạc Liêu
Huyện
Vĩnh Lợi
– TX
Bạc Liêu
SX – KD
Muối
Độc lập 4.263
Kinh
doanh
Sóc Trăng, Trà
Vinh., Bạc
Liêu, Cà Mau
9
Công ty Thực
phẩm Thái
Bình
T.X Thái
Bình
SX - KD
muối,
TPhẩm,
khách sạn
Độc lập 1.212
Kinh
doanh
Thái Bình, các
tỉnh Miền Bắc
10
Công ty Tư
vấn Đầu tư và
xây lắp ngành
Muối
TP. Hà
Nội
Xây
dựng, tư
vấn,
thiết kế
Phụ
thuộc
731
Kinh
doanh
Cả nước
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 37
11
Công ty XNK
Tổng Hợp
TP. Hà
Nội
XNK
Muối và
các mặt
hàng
khác
Phụ
thuộc
472
Kinh
doanh
Việt Nam,
Nước ngoài
12
XN quốc
doanh muối
Vĩnh Ngọc
Huyện
Quỳnh
Lưu-
Nghệ An
SX muối
Nguyên
liệu
Phụ
thuộc
939
Kinh
doanh
Bán muối
nguyên liệu
cho Công ty
Muối Ngệ An
13
Công ty CP
Vận tải Muối
Tp Hà
Nội
KD Vận
tải
Độc lập 836
Kinh
doanh
Cả nước
14
Văn phòng
Tổng công ty
TP Hà
Nội
SX - KD
Muối
Phụ
thuộc
5849 -
Nghệ an, HG,
TQ, LC, LS,
CB, BC
15
Trung tâm
Thực nghiệm
và Chuyển
giao Công
nghệ Muối
biển
Gia
Lâm, Hà
Nội
Nghiên
cứu,
Thực
nghiệm
và
Chuyển
giao
Công
nghệ
Muối
biển
Phụ
thuộc
2729
Công
ích
Cả nước
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 38
Sơ đồ1: Sơ đồ tổ chức quản lý của Tổng công ty muối
: Mối quan hệ trực tiếp
: Mối quan hệ gián tiếp
Hội đồng quản trị
Ban kiểm soát
Tổng giám Phó Tổng
đốc giám đốc
Phòng
xây
dựng
cơ
bản
Phòng
khoa
học
kỹ
thuật
Phòng
dự
trữ
quốc
gia
Phòng
xuất
nhập
khẩu
Các
Trạm
trực
thuộc
Văn
phòng
TCT
Phòng
kế
hoạch
kinh
doanh
Phòng
tổ
chức
hành
chính
Phòng
tài
chính
kế
toán
Các doanh nghiệp
thành viên
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 39
2.3. Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất muối :
Có hai phương pháp sản xuất muối thô:
- Phương pháp phơi cát (Hiện nay thế giới không sử dụng)
- Phương pháp phơi nước
Tổng công ty sản xuất muối thành phẩm theo công nghệ PHABA (Bằng độc
quyền sáng chế số 2014 của Cục Sở hữu công nghiệp - Bộ KHCN&MT), quy trình
sản xuất như sau.
Sơ đồ 2: Sơ đồ quy trình sản xuất muối Iốt
2.4. Đặc điểm về vốn của Tổng Công ty.
Muối thô
Máy nghiền rửu
Bể chạt
Máy ly tâm
Máy trộn Iốt
Bể xử lý
Nứơc rửa
Bơm
Phóng không
Máy sấy Xử lý khí thải CALORIFE
Đóng bao sản phẩm
muối tinh Iốt
Độ ẩm 5%
Đóng bao sản phẩm
muối tinh Iốt khô
Độ ẩm 0,5%
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 40
Tổng Công ty Muối là doanh nghiệp Nhà nước được nhà nước cấp vốn để
phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh và thực hiện hoạt động công ích cho xã
hội. Vì vậy, nguồn vốn từ ngân sách cấp của Tổng Công ty chiếm tỷ trọng khá lớn.
Tình hình nguồn vốn sở hữu năm 1998, 1999,2000,2001,2002.
Bảng số 2: Cơ cấu nguồn vốn kinh doanh Đơn vị:
1000đ
Chỉ tiêu 1998 1999 2000 2001 2002
I. Nguồn vốn
kinh doanh
70.900 121.471 123.264 132.450 138.160
-Vốn cố định 20.862 30.318 40.320 45.750 49.640
NSNNcấp 20.434 29718 39670 45000 48770
Tự bổ sung 428 600 650 750 870
-Vốn lưu động 50.038 91153 82944 86700 88520
NSNNcấp 40.888 70923 82664 86350 118090
Tự bổ sung 150 230 280 350 430
Nguồn:(Tổng công ty Muối)
Trong điều kiện kinh tế hiện nay có nhiều khó khăn. Một trong những khó khăn
nhất của doanh nghiệp là tình trạng thiếu vốn. Trước tình hình này doanh nghiệp
đã huy động vốn từ nhiều nguồn khác, nguồn tự bổ sung (thấp). Do vậy, hàng năm
doanh nghiệp được bổ sung thêm vào nguồn vốn để có thể kinh doanh và đầu tư
xây dựng cơ bản, mua sắm TSCĐ.
+ Đối với vốn lưu động, trong cơ cấu tài sản dự trữ thì hàng tồn kho, thành
phần tồn kho chiếm tỷ trọng lớn. Vì vậy gây ứ đọng trong sản xuất và tiêu thụ.
Tình trạng lạm dụng vốn của khách hàng cũng gây ảnh hưởng đến hiệu quả
sử dụng vốn.
2.5. Nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh muối:
2.5.1. Đặc điểm sản xuất, lưu thông và tiêu dùng muối ở Việt Nam:
2.5.1.1. Đặc diểm sản xuất muối:
Đặc diểm sản xuất muối nhìn chung còn manh mún phân tán chưa tập trung. Các
đồng muối sản xuất chưa được quy hoạch cụ thể. Hiện nay do truyền thống lâu đời
nên nghề muối nước ta vẫn chủ yếu được làm theo phương pháp thủ công với diện
tích 9600 ha và sản lượng đạt 430.000 tấn/ năm, năm 1998 đạt 800.000 tấn. Do
điều kiện khác nhau giữa hai miền Nam, Bắc nên phương thức sản xuất khác nhau.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 41
ở miền Nam chỉ có hai mùa mưa nắng nên áp dụng phương pháp phơi nước.
Phương pháp này cho năng suất cao chất lượng muối nguyên liệu khá tốt và một
phần muối đủ tiêu chuẩn xuất khẩu.
ở miền Bắc thời tiết chia làm bốn mùa không rõ rệt nên áp dụng phương pháp sản
xuất phơi cát ( phương pháp này hiện nay trên thế giới không còn sử dụng nữa ).
Phương pháp phơi cát cho năng suất thấp vì thế lợi thế cạnh tranh của muối miền
Bắc kém hơn miền Nam. Tuy nhiên không thể không coi trọng nghề muối ở miền
Bắc do thị hiếu người tiêu dùng và đặc biệt có liên quan đến đời sống hàng vạn
người lao động.
Từ khi bãi bỏ cơ chế bao cấp, các thành phần kinh tế tư nhân được phép
tham gia vào sản xuất và kinh doanh muối. Thị trường trở nên cạnh tranh gay gắt
giữa tư thương và các Doanh nghiệp Nhà nước làm cho giá cả hỗn loạn. Chính vì
sự biến động của thị trường làm cho phát triển sản xuất giảm sút, một số đồng
muối bị thu hẹp. Diêm dân ( theo từ Hán để chỉ những người dân sản xuất muối )
quay sang nuôi trồng tôm và thuỷ sản. Một số người sản xuất theo hộ gia đình, lúc
đầu cho thu nhập khá cao nhưng vì sản xuất muối mang tính chất công nghiệp,
đồng muối kho bãi cơ sở hạ tầng phải dùng chung, vì vậy một số đồng muối xuống
cấp nghiêm trọng, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp.
2.5.1.2. Đặc điểm lưu thông muối:
Trên thực tế hiện nay lưu thông muối bị buông lỏng, thị trường muối hoàn
toàn được thả nổi. Trước năm 1990 toàn quốc có Tổng Công ty Muối làm nhiệm
vụ bán buôn, các công ty công nghiệp địa phương làm nhiệm vụ bán lẻ trên từng
địa bàn tỉnh, huyện. Hệ thống cửa hàng thương nghiệp và hợp tác xã mua bán làm
nhiệm vụ bán lẻ.
Do muối là mặt hàng kinh doanh có khối lượng lớn ăn mòn phương tiện, chi
phí vận tải lớn, giá bán lẻ thấp nên chiết khấu không đủ cho cả khâu bán buôn và
khâu bán lẻ. Thông thường phải lấy chi phí của các mặt hàng khác để bù vào chi
phí về kinh doanh.
Khi chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường các doanh nghiệp bắt đầu dần dần
không kinh doanh muối nữa. Các xí nghiệp được phân cấp và địa phương quản lý.
ở Trung ương vẫn tồn tại Tổng Công ty Muối chuyên kinh doanh làm nhiệm vụ
buôn bán muối và được giao nhiệm vụ làm chủ những công trình xây dựng cơ bản
nhằm duy trì sản lượng muối. Việc tổ chức lưu thông muối hiện nay bị buông lỏng
không có một đầu mối thống nhất, tình trạng tranh mua bán diễn ra thường xuyên.
Tổng Công ty Muối với tư cách là một doanh nghiệp nhà nước có chức năng kinh
doanh, buôn bán muối và điều hoà thị trường muối trong cả nước.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 42
Trên thực tế việc quản lý lưu thông muối của Tổng Công ty Muối gặp rất
nhiều khó khăn. Giữa Tổng Công ty Muối và các hộ dân sản xuất chưa có mối
quan hệ ràng buộc chặt chẽ. Nên tư thương khi mua thường ép giá của dân mang
bán lại cho công ty muối với giá cao hơn hẳn cho nên giá thành của Tổng Công ty
Muối bị nâng lên.
Hiện nay mạng lưới các xí nghiệp quốc doanh muối bố trí bị phân tán nên
gây ra khó khăn trong việc quản lý về cung cầu muối. Thêm vào đó các tư nhân
kinh doanh theo kiểu tự do kinh doanh đã tạo ra sự hỗn loạn trong sản xuất và lưu
thông muối. Vì vậy cần có sự tác động tích cực của Nhà nước đối với nhu cầu
muối của toàn xã hội, bằng cách quản lý các xí nghiệp quốc doanh vừa đảm bảo
quyền tự chủ cho họ vừa tránh được các cuộc khủng hoảng thừa thiếu cho chính
các xí nghệp đó. Việc vận chuyển từ Nam ra Bắc vào mùa khô tránh làm muối ướt
và chủ yếu bằng hai phương tiện thuỷ và bộ.
Mặt khác ngoài thời vụ người lao động khá rỗi việc. Trong quá trình sản xuất
họ tích trữ một phần sản phẩm của mình để dự trữ lưu thông bán lẻ. Việc lưu thông
kiểu này tiện lợi cho người tiêu dùng nhưng lại gây khó khăn trong việc lưu thông
trên thị trường có thể xảy ra hai trường hợp: giá bán của họ quá thấp do được mùa
muối, lúc lại quá cao tạo nên sự không ổn định về giá muối. Như vậy vấn đề lưu
thông hiện nay còn rất nhiều bất cập.
Ngoài vận chuyển muối cho đồng bằng còn phải cung cấp cho đồng bào
vùng sâu vùng xa. Việc vận chuyển muối lên miền núi rất khó khăn do địa hình
hiểm trở, hơn nữa đây là khu vực dân cư có thu nhập thấp, giá muối bán ra phải
thấp hơn giá muối tại đồng bằng. Vì vậy để điều hoà muối giữa các vùng trong cả
nước đối với các doanh nghiệp Nhà nước sản xuất còn là bài toán khó.
2.5.1.3. Đặc điểm tiêu dùng muối:
Đặc điểm tiêu dùng quanh năm rộng khắp và ổn định chất lượng muối dùng
cho dân cư, khu công nghiệp, khu vực sản xuất đòi hỏi ngày càng cao. Nếu như
trước kia người ta thường dùng muối hạt thì nay người ta sử dụng muối tinh chế(đã
lọc bỏ tạp chất) hay muối tinh trộn iốt. Trong cơ thể con người bao giờ cũng phải
cung cấp muối iốt cần thiết, người ta không thể lúc này ăn được nhiều muối nhưng
lúc khác không ăn hoặc ăn ít hơn. Muối không có mặt hàng thay thế như gạo, thực
phẩm nên mức cầu về tiêu dùng khá ổn định. Do việc tăng sản xuất trong ngành
muối là rất khó khăn.
Đối với doanh nghiệp sản xuất thì với cùng công nhân, tay nghề sản phẩm
làm ra càng nhiều thì càng mang lại nhiều lợi nhuận cho nhà kinh doanh, nhưng
với sản xuất muối thì khác hẳn sản xuất phải nghiên cứu định mức tiêu dùng, sản
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 43
xuất quá nhiều sẽ dẫn đến sự mất cân đối cung cầu. Điều này làm cho các nhà sản
xuất luôn bị thiệt và lúc đó hiệu quả kinh tế sẽ không được bảo đảm.
Từ sự khác nhau giữa tiêu dùng và sản xuất, cộng với những đặc trưng cơ
bản mà các ngành khác không thể có được như ngành muối đã gây ra sự mất cân
đối cung cầu về mặt không gian và thời gian.
2.5.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của tổng công ty
muối:
2.5.2.1. Những nhân tố thuộc môi trường kinh doanh:
Những nhân tố thuộc môi trường kinh doanh của doanh nghiệp chi phối mọi
hoạt động của doanh nghiệp, trong đó ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp. Các nhân tố đó bao gồm:
a. Chính sách của Nhà nước:
Để quản lý vĩ mô nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng, Nhà
nước sử dụng hệ thống pháp luật, cơ chế quản lý hoặc các chính sách vĩ mô để điều
tiết. Tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể của từng thời kỳ, từng thị trường mà Nhà nước sử
dụng biện pháp khác nhau. Các chế độ chính sách của Nhà nước như chế độ tiền
lương, chế độ khấu hao, chế độ hạch toán kinh doanh, các quy chế tài chính... Các
chính sách đó cũng có thể tạo ra những lợi thế nhưng cũng có thể tạo ra những bất
lợi cho hoạt động kinh doanh. Sự hoàn thiện và ổn định của hệ thống chế độ chính
sách của Nhà nước mới tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xây dựng và thực hiện
kế hoạch quản lý hiệu quả kinh doanh tốt hơn, từ đó mới có thể tiết kiệm được chi
phí nhiều hơn.
Đối với Tổng Công ty Muối hiện nay do thực hiện nhiệm vụ xã hội như bán
muối cho miền núi với khung giá thích hợp nên tại thời điểm này Chính phủ đã có
chính sách trợ cấp và trợ giá cho Tổng Công ty.
b. Thời tiết và khí hậu:
Đây là nhân tố vĩ mô ảnh hưởng đến chi phí kinh doanh của doanh nghiệp vì
thời tiết và khí hậu ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng sản phẩm muối. Nếu thời tiết
giao động thất thường sẽ làm cho sản lượng muối hàng năm giảm 30-60% tổng sản
lượng muối, điều đó khiến cho chi phí kinh doanh tăng lên làm ảnh hưởng đến giá
thành sản phẩm, giá thành sản phẩm cao lên dẫn đến ứ đọng hàng hoá và càng làm
giảm hiệu quả kinh doanh. Do đó đây là yếu tố ngoại lai có tính chất quyết định
đến mùa vụ. Không giống như các sản phẩm hàng hoá khác, quy trình sản xuất
muối phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên. Có thể chỉ sau một cơn bão cả đồng
muối bị mất trắng, chi phí kinh doanh của doanh nghiệp sẽ tăng lên, ảnh hưởng đến
lợi nhuận của doanh nghiệp.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 44
2.5.2.2. Những nhân tố thuộc bản thân doanh nghiệp:
a. Vốn, đồng muối, kho tàng:
Vốn là yếu tố rất quan trọng trong quá trình kinh doanh, đảm bảo cho doanh
nghiệp mở rộng quy mô sản xuất, tích cực đầu tư công nghệ, từng bước thâm nhập
vào các thị trường mục tiêu. Vốn càng lớn sẽ là bước đệm đầu tiên tăng khả năng
kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với một doanh nghiệp thì vốn đó có thể là vốn
tự có hoặc vốn đi vay. Do đó nếu sử dụng vốn không có hiệu quả thì chi phí về vốn
là rất lớn, làm tăng chi phí kinh doanh của doanh nghiệp.
Đồng muối là cơ sở quan trọng trong sản xuất và lưu thông muối. Năng suất
muối cao hay thấp phụ thuộc vào chất lượng của đồng muối. Nếu đồng muối được
khai thác có kế hoạch quy mô và tinh thần trách nhiệm cao thì sẽ tiết kiệm được
chi phi kinh doanh cho doanh nghiệp. Còn nếu như khai thác bừa bãi, sử dụng
đồng muối như của riêng thì sẽ dẫn đến hư hỏng và xuống cấp. Khi đó thì phải tốn
kém một khoản chi phí để sửa chữa và nâng cấp đồng muối.
Kho tàng là nơi có thể dự trữ muối ngắn hạn và dài hạn. Kho tàng cũng có
thể là nơi nhận để lưu thông muối trong một thời gian rất ngắn, nhưng cũng có thể
là nơi bảo quản muối tới mấy mùa vụ. Vì muối rất dễ chảy nước nên cách thức bảo
quản muối rất riêng biệt, đòi hỏi kho tàng phải chịu được độ ẩm, không trong môi
trường ẩm ướt và phải chịu được sự ăn mòn cao. Vì vậy các kho tàng phải được
xây dựng trên địa hình thuỷ văn kiên cố. ở nơi không khí thoáng mát và phải xây
dựng bằng những tấm đá lớn. Quá trình xây dựng kho tàng muối phải chi phí khá
tốn kém cho nên để đảm bảo sản lượng dự trữ cho tiêu dùng và sản xuất cần nguồn
vốn xây dựng cơ bản.
b. Mạng lưới lưu thông:
Hoạt động sản xuất kinh doanh muối có hiệu quả hay không đó là việc doanh
nghiệp có tổ chức tốt mạng lưới lưu thông trôi chảy hay chưa. Tổ chức mạng lưới
lưu thông suôn sẻ, nhịp nhàng sẽ làm tăng tốc độ cho quá trình tiêu thụ và giảm bớt
chi phí cho quá trình kinh doanh. Lưu thông là vấn đề mấu chốt của tiêu thụ muối,
là góc điểm để giải quyết bài toán cung cầu. Có khi tại đồng băng rất thừa muối
nhưng lên đến vùng miền núi thì lại thiếu muối nghiêm trọng. Vì vậy điều cần thiết
phải giải quyết là cân đối lượng muối hai vùng tức là nếu lưu thông không tốt thì
sẽ làm tăng chi phí kinh doanh. Gắn liền với lưu thông là chức năng tiêu thụ và
phân phối, nếu lưu thông trục trặc thì sẽ dẫn đến tiêu thụ bị bế tắc. Vì vậy đối với
riêng Tổng Công ty Muối giải quyết tốt vấn đề lưu thông được đưa lên hàng đầu.
Bởi nó có ảnh hưởng rất nhiều đến chi phí kinh doanh.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 45
3. Kết quả hoạt động kinh doanh của Tổng Công ty trong vài
năm gần đây:
Như ta đã biết muối và sản phẩm muối có vai trò vô cùng quan trọng trong
tiêu dùng và sản xuất. Muối ăn là nguyên liệu chính, là sản phẩm thiết yếu trong
cuộc sống hàng ngày. Sản phẩm của muối là nguyên liệu, chất phụ gia để chế biến
hơn 14.000 sản phẩm, có mặt hầu hết ở các ngành công nghiệp, nông nghiệp, y
dược, thực phẩm. Ví dụ trong y dược là nguyên liệu chế nước khoáng, thuốc chữa
bệnh; trong nông nghiệp là nguyên liệu chế biến phân bón, thức ăn cho gia súc;
trong công nghiệp có vai trò trong chế biến tơ nhân tạo, thuỷ tinh, xút... Người ta
chỉ nhìn nhận muối trong một lĩnh vực duy nhất là bữa ăn hàng ngày nhưng công
dụng của muối là rất lớn, nó có vai trò và tác dụng chế biến nguyên liệu cho các
ngành sản xuất khác nhau.
Vì vậy khi nói đến muối không chỉ đơn thuần xem xét tính mặn nhạt mà phải
tìm hiểu cả công dụng của muối. Hiện nay khi cuộc sống ngày càng phát triển, nền
kinh tế chuyển đổi sang cơ chế thị trường thì đồng nghĩa với nền kinh tế hàng hoá
là sự thay đổi cảnh quan thiên nhiên, thay đổi môi trường sống. Việt Nam là một
nước thiếu iốt. Qua bao nhiêu thế kỷ, iốt tự nhiên trong đất bị rửa trôi khỏi các
sườn núi dẫn tới lụt lội, đất không đủ cung cấp cho cây trồng và gia súc. Điều đó
dẫn đến thiếu iốt dùng cho thực phẩm con người. Và cách tốt nhất, hiệu quả nhất
để đưa iốt vào cơ thể con người được đó là dùng muối pha trộn iốt.
Bên cạnh sản phẩm muối iốt còn có một sản phẩm rất quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân đó là muối công nghiệp. Muối công nghiệp là nguyên liệu cho rất
nhiều ngành kinh tế khác nhau như hoá chất, công nghiệp thực phẩm, nông
nghiệp... Hiện nay nhu cầu về muối công nghiệp đang là vấn đề cấp bách. Theo
đúng quy hoạch ngành muối đã được Chính phủ phê duyệt đến năm 2000 cần một
lượng muối là 1,1 triệu tấn muối / năm, trong đó muối công nghiệp phục vụ cho
xuất khẩu là 625.000 tấn / năm. Hiện tại ở nước ta có các xí nghiệp quốc doanh
được thiết kế để sản xuất muối công nghiệp với diện tích là 1.000 ha, hàng năm có
thể sản xuất 100.000 - 150.000 tấn muối. Như vậy so với nhu cầu thì lượng diện
tích quá nhỏ bé.
Mặt khác do cách sản xuất muối công nghiệp phân tán, chưa chặt chẽ nên
sản xuất muối công nghiệp không đảm bảo chất lượng do đó mấy năm gần đây
chúng ta phải nhập muối từ nước ngoài. Ta có thể thấy rằng muối là một sản phẩm
có một vai trò cực kỳ quan trọng đối với đời sống của mỗi người dân cũng như
toàn bộ xã hội.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 46
Do vậy Tổng Công ty Muối Việt Nam được Nhà nước thành lập để làm lực
lượng nòng cốt để duy trì và phát triển nghề muối ở nước ta.
Từ khi thành lập đến nay, Tổng Công ty đã phải vượt qua những khó khăn,
thử thách rất lớn, lợi nhuận qua các năm còn thấp tuy nhiên Tổng Công ty đã có
nhiều cố gắng trong việc tăng doanh thu, giảm chi phí.. Để có cái nhìn tổng quát
hơn về tình hoạt động của Tổng Công ty, ta sẽ xem xét kết quả kinh doanh trong
những năm gần đây
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 47
Bảng 3: Kết quả hoạt động kinh doanh của Tổng Công ty Muối trong những năm
gần đây.
( Đơn vị: 1.000.000 đồng )
Chỉ tiêu
Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
Tổng doanh thu 146612 187637 202909 374229 294726
Các khoản giảm trừ 1572 1137 164 539 1971
Chiết khấu 15 8 10 12 7,73
Giảm giá 633 779 11 424 597,27
Thuế DT, thuế XK 924 350 143 104 1366
1. Doanh thu thuần 145040 186500 202745 373690 292755
2. Giá vốn hàng bán 111178 156785 165139 312336 236673
3. Lợi tức gộp 33862 29715 37606 61353 56082
4. Chi phí bán hàng 24711 21243 26865 39290 29818
5. Chi phí quản lý DN 9110 8310 9886 20774 25830
6.Lợi tức thuần từ
HĐKD
41 162 855 1289 434
Thu nhập từ HĐTC 25 478 280 881 420
Chi phí từ HĐTC 0,6 349 877 2320 2263
7. Lợi tức HĐTC 24,4 129 -597 -1439 -1843
Thu nhập bất thường 619 592 207 1350 2232
Chi phí bất thường 508 665 56 1048 614
8. Lợi tức bất thường 111 -73 151 302 1618
9. Lợi tức trước thuế 176,4 218 409 155 209
10. Thuế lợi tức phải
nộp
86 164 212 90 136
11. Lợi tức sau thuế 90,4 54 197 65 73
12. Thu nhập /người 0,550 0,600 0,650 0,680 0,750
( Nguồn: Tổng Công ty Muối)
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 48
3.1. Doanh thu:
Nhìn chung qua 5 năm doanh thu có xu hướng tăng lên đó là dấu hiệu đáng
mừng đối với Tổng Công ty mặc dù yêú tố doanh thu chưa quyết định tới sự tồn tại
hay phá sản một doanh nghiệp nhưng nó có ý nghĩa rất lớn trong quá trình tăng
trưởng. Tác động đến doanh thu chủ yếu là giá cả và sản lượng (đây là 2 nhân tố
chính), sự lên xuống của chúng sẽ làm doanh thu được nâng cao hoặc bị hạ thấp.
Sự biến độngcủa giá cả, sản lượng phụ thuộc vào tình hình thị trường, điều
kiện khách quan như khí hậu , thời tiết ... ở mỗi năm mỗi thời điểm lại khác nhau
Đơn vị: 1000 tấn
Chỉ tiêu
Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
Sản lượng 800 400 500 520 750
Tốc độ %SL 20% -50% 25% 4% 44,23%
(Nguồn : Tổng công ty muối)
Trong 5 năm gần đây (1998,1999, 2000. 2001,2002) sản lượng muối có xu hướng
giảm xuống, riêng năm 1999 sản lượng muối đạt 400.000 tấn bằng 50% sản lượng
năm 1998 (800.000 tấn), năm 2000 sản lượng đạt 500.000 tấn tăng 25% so với sản
lượng năm 1999. Riêng năm 2001 sản lượng đạt 520.000 tấn tăng cao hơn năm
2000 là 20.000 tấn tương ứng 4%, nhưng so với mức sản lượng muối bình quân
hàng năm là 620.000 tấn chỉ đạt 83,87 %. Điều đáng mừng là năm 2002 sản lượng
đạt 750.000 tấn tăng cao hơn so năm 2001 là 230 tấn tương ứng 44,23%.
Tình trạng giảm sản lượng muối trong những năm gần đây (so với
mức bình quân trong nhiều năm là 620.000 tấn) trong khi nhu cầu của xã hội về
sản phẩm muối ngày càng ra tăng là một điều hết sức nguy hiểm và cần phải được
xem xét kỹ. Sở dĩ sản lượng giảm trong những năm gần đây có thể được giải thích
qua một số nguyên nhân chính sau. Trước hết phải kể đến là trong những năm gần
đây điều kiện thời tiết không thuận lợi cho sản xuất và lưu thông muối.
Ví dụ như ở năm 2000 và 2001 ở miền Trung thường xảy ra ma giữa
mùa khô, còn ở miền Nam thì mùa khô lại kết thúc trước từ 30 đến 40 ngày cộng
thêm với tình trạng bão và lũ lụt hoành hành... Còn một nguyên nhân nữa phải kể
đến là xu thế thu hẹp đồng muối thuộc khu vực cá thể ở các tỉnh miền Trung và
Nam Bộ. Việc chuyển đổi đồng muối thuộc khu vực cá thể của dân sang nuôi tôm
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn C«ng Hoµ QTKDTH Page 49
đã trở thành xu thế và đang diễn ra trên diện rộng, đã góp phần làm giảm đáng kể
sản lượng muối toàn quốc. Nguyên nhân của tình trạng này có thể được kể đến
như:
Thứ nhất giá trị thu nhập từ nuôi tôm trên một đơn vị diện tích so với
muối gấp từ 8 - 10 lần ở miền Trung và 15 - 20 lần ở Nam Bộ, thêm vào đó điều
kiện thời tiết thất thường đã tạo ra tâm lý hoang mang trong diêm dân. Sau cùng,
việc hình thành tuyến đê ven biển Tây và Đông Nam Bộ để mở rộng diện tích ngọt
hoá dẫn đến thiếu nước sản xuất nhiều đồng muối, nên năng suất muối vùng giảm
xuống chỉ còn 50%.
Sau 3 năm liên tiếp sản xuất bị giảm thấp do điều kiện khí hậu thời
tiết không thuận lợi cho nghề sản xuất muối thí năm2002 khu vực Nam- Trung bộ
bị hạn hán kéo dài , sản lượng muối tăng hơn nhiều so với 3 năm trước . Riêng các
tỉnh miền Bắc sản lượng có thấp hơn nhưng cân đối cung cầu chung toàn quốc
cùng với sự điều tiết vùng này sang vùng k
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Một số biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh muối ở Tổng Công ty Muối Việt nam.pdf