Luận văn Một số biện pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng trong thời gian tới

Tài liệu Luận văn Một số biện pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng trong thời gian tới: 1 Luận văn MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỦ YẾU NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC LẬP VÀ QUẢN LÝ DỰ ÁN ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ VÀ THIẾT BỊ XÂY DỰNG TRONG THỜI GIAN TỚI 2 CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG CỦA CÔNG TÁC LẬP VÀ QUẢN LÝ DỰ ÁN ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ VÀ THIẾT BỊ XÂY DỰNG. I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ VÀ ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ VÀ THIẾT BỊ XÂY DỰNG 1. Định nghĩa về đầu tư Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường xá…), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật…) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc có năng suất trong nền sản xuất xã hội. Trong những kết quả đã đạt được trên ...

pdf99 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1216 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Một số biện pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng trong thời gian tới, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Luận văn MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỦ YẾU NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC LẬP VÀ QUẢN LÝ DỰ ÁN ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ VÀ THIẾT BỊ XÂY DỰNG TRONG THỜI GIAN TỚI 2 CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG CỦA CÔNG TÁC LẬP VÀ QUẢN LÝ DỰ ÁN ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ VÀ THIẾT BỊ XÂY DỰNG. I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ VÀ ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ VÀ THIẾT BỊ XÂY DỰNG 1. Định nghĩa về đầu tư Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường xá…), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật…) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc có năng suất trong nền sản xuất xã hội. Trong những kết quả đã đạt được trên đây, những kết quả trực tiếp của sự hy sinh các nguồn lực là các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc, mọi nơi không chỉ đối với người bỏ vốn mà cả đối với toàn bộ nền kinh tế. Những kết quả này không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế xã hội thụ hưởng. Chẳng hạn một nhà máy được xây dựng, tài sản vật chất của người đầu tư trực tiếp tăng thêm, đồng thời tài sản vật chất, tiềm lực sản xuất của nền kinh tế cũng được tăng thêm. Lợi ích trực tiếp do sự hoạt động của nhà máy này đem lại cho nhà đầu tư là lợi nhuận, còn cho nền kinh tế là thoả mãn nhu cầu tiêu dùng (cho sản xuất và cho sinh hoạt) tăng thêm của nền kinh tế, đóng góp cho ngân sách, giải quyết việc làm cho người lao động… 3 Trình độ nghề nghiệp, chuyên môn của người lao động tăng thêm không chỉ có lợi cho chính họ (để có thu nhập cao, địa vị cao trong xã hội) mà còn bổ sung cho nguồn nhân lực có kỹ thuật cho nền kinh tế để có thể tiếp nhận công nghệ ngày càng hiện đại, góp phần nâng cao dần trình độ công nghệ và kỹ thuật của nền sản xuất quốc gia. Mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt được những kết quả lớn hơn so với những hy sinh mà người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư. Đối với từng cá nhân, đơn vị, đầu tư là điều kiện quyết định sự ra đời, tồn tại và tiếp tục phát triển mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ. Đối với nền kinh tế, đầu tư là yếu tố quyết định sự phát triển nền sản xuất xã hội, là chìa khoá của sự tăng trưởng. 2. Đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng Đổi mới công nghệ và mua sắm thiết bị xây dựng là việc sử dụng các kỹ thuật mới, các loại máy móc mới có hiệu quả hơn, thể hiện ở chỗ khối lượng và chất lượng sản phẩm tăng lên nhưng số lao động tham gia vào quá trình sản xuất vẫn giữ nguyên hoặc ít hơn, hoặc là khối lượng sản phẩm vẫn giữ nguyên nhưng tiêu hao lao động ít hơn, đồng thời không làm tăng số lượng thiết bị. Đầu tư vào công nghệ và máy móc thiết bị theo chiều sâu gắn liền với việc đổi mới kỹ thuật, mua sắm mới các thiết bị hiện đại hoàn hảo hơn. Đầu tư theo chiều rộng là đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng việc sử dụng máy móc thiết bị với công nghệ và kỹ thuật lặp lại như cũ. Đầu tư theo chiều sâu sẽ làm tăng hiệu quả kinh tế tính cho một đồng vốn đầu tư nhưng lại đòi hỏi vốn đầu tư cơ bản để mua sắm thiết bị xây dựng và công nghệ lớn hơn. Đầu tư theo chiều rộng về cơ bản không làm tăng hiệu quả kinh tế tính cho một đồng vốn đầu tư nhưng đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu bỏ ra ít hơn, phù hợp với hoàn cảnh thiếu vốn. Nhìn về lâu dài, đầu tư theo chiều rộng cũng có những tác dụng quan trọng, nhất là ở giai đoạn đầu của phát triển kinh tế vì nó cũng tạo ra điều kiện chuẩn bị cho phát triển và đầu tư theo chiều sâu. 4 Để đầu tư đổi mới công nghệ và máy móc thiết bị xây dựng có thể tiến hành một số hình thức đầu tư sau: - Thay thế những thiết bị đã lạc hậu về mặt công nghệ và kỹ thuật bằng các thiết bị thi công tiến bộ và có hiệu quả cao hơn, có chi phí quy đổi tính cho một đơn vị sản phẩm của thiết bị làm ra bé hơn khi so sánh ở giai đoạn lập dự án, giai đoạn thiết kế hoặc nhập khẩu máy nhưng chưa chắc đã có chi phí quy đổi bé hơn ở khâu sử dụng sau này, bởi vì nó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố có liên quan đến đặc điểm của ngành sản xuất xây dựng và nhất là liên quan đến khâu quản lý dự án đầu tư. Vấn đề hiệu quả kinh tế của việc đầu tư vào công nghệ và thiết bị xây dựng phụ thuộc vào các điều kiện sử dụng cụ thể, gắn liền với quá trình quản lý dự án đầu tư. - Tiến hành cải tạo, hiện đại hoá các máy xây dựng hiện có đã lạc hậu. - Cải tiến kỹ thuật sử dụng máy và công nghệ xây dựng cơ giới hoá tại các công trường xây dựng, các phương án sử dụng máy theo công suất… - Cải tiến kỹ thuật trong khâu bảo dưỡng, sửa chữa máy. - Đầu tư tăng năng lực thiết bị thi công phục vụ cho chiến lược cạnh tranh, chiến lược phát triển của doanh nghiệp - Đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng phục vụ cho một dự án cụ thể. Thông thường, khi không bị hạn chế về vốn đầu tư và đặc biệt không bị chi phối bởi đầu ra của công việc, tức là có điều kiện để thiết bị phát huy công suất càng lớn càng tốt thì việc đầu tư thiết bị mới, có công nghệ và kỹ thuật mới lẽ dĩ nhiên càng cao càng tốt. Khi thiếu vốn đầu tư, thị trường đầu ra bị hạn chế và tình trạng lao động dư thừa thì có thể xem xét việc đầu tư vào công nghệ và thiết bị theo hướng đầu tư vào thiết bị có công nghệ kỹ thuật cũ, giá thấp vừa đủ cho các loại hình công việc và tạo điều kiện cho việc sử dụng lao động thủ công. Ngày nay, đối với doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng, do việc sử dụng nhân công rất linh hoạt, việc đầu tư vào máy móc và công nghệ phụ thuộc chủ yếu vào hai nhân tố: Thị trường công việc và vốn đầu tư. 5 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng trong doanh nghiệp xây dựng Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng, trong đó có thể kể đến các nhân tố chủ yếu sau: 3.1. Nhân tố thị trường Đây là nhân tố chi phối nhiều nhất tới hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng, cả trong giai đoạn hiện nay và trong những năm tới. Nhân tố thị trường bao gồm: Thị trường công việc, thị trường thiết bị, thị trường đối tác…Các nhân tố này có ảnh hưởng đến mục tiêu đổi mới, quy mô và tốc độ đổi mới thiết bị ở các doanh nghiệp. Nó có tác động rất lớn đến hiệu quả đầu tư. 3.2.Định hướng phát triển lâu dài và mục tiêu đầu tư của doanh nghiệp Đầu tư xây dựng cơ bản nói chung và đầu tư đôỉ mới công nghệ máy móc xây dựng nói riêng không phải là một việc làm nhất thời mà là một vấn đề có tính chiến lược lâu dài của doanh nghiệp. Bởi vậy đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị thi công trước hết là nhằm phục vụ những nhiệm vụ, mục tiêu có tính chiến lược của doanh nghiệp. Các nhiêm vụ, mục tiêu đó thường được hoạch định trong chiến lược kinh doanh, chiến lược đầu tư và chiến lược trang bị kỹ thuật của doanh nghiệp. Trong một chừng mực nhất định, mục tiêu nhiệm vụ đó vừa là căn cứ để lập dự án đầu tư, vừa là cơ sở để phân tích lựa chọn dự án. Các dự án đầu tư vào công nghệ và máy móc thiết bị có thể có các mục tiêu sau: + Cực tiểu chi phí và cực đại lợi nhuận. + Cực đại khối lượng sản phẩm xây dựng. + Đạt được một mức thoả mãn nào đó về hiệu quả tài chính của dự án. + Duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp trong tình hình cạnh tranh hay phục hồi doanh nghiệp thoát khỏi sự tụt dốc suy thoái. + Nâng cao chất lượng sản phẩm xây dựng và uy tín đối với chủ đầu tư để chiếm lĩnh thị trường. + Đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ + Đầu tư để cùng nhà thầu nước ngoài liên doanh nhằm tranh thủ công nghệ mới và mở rộng thị trường. 6 + Đầu tư để đảm bảo điều kiện lao động, đảm bảo yêu cầu môi trường… 3.3. Các đặc điểm của ngành sản xuất xây dựng Các nhiệm vụ sản xuất có tính cá biệt và đơn chiếc cao. Cho nên ở giai đoạn lập dự án đầu tư mua sắm thiết bị ban đầu, việc lập dự án chỉ có tính chất dự báo gần đúng và chưa tính hết đến các đặc điểm cụ thể của công trường sau này. Đặc điểm này có thể làm đảo lộn hiệu quả của dự án. Do đó để tăng độ chính xác cần phải bổ xung hay xem xét gắn liền với quá trình quản lý dự án. Điều kiện sản xuất không ổn định, luôn biến động theo địa điểm và giai đoạn xây dựng công trình dẫn đến tính chất lưu động của thiết bị thi công. Chu kỳ sản xuất thường dài ảnh hưởng lớn đến hiệu quả dự án, nhất là việc tính toán huy động vốn và khi thành lập dòng tiền của dự án. Tính đơn dụng và đa dụng của máy móc xây dựng. Tuy phân loại thiết bị theo chức năng nhưng trong thực tế sản xuất xây dựng có nhiều loại thiết bị sử dụng đa năng nên cần phải kết hợp giữa việc lập dự án cho từng loại thiết bị và cho tập hợp các thiết bị thi công. Mặt khác, do một thiết bị có thể sử dụng vào nhiều loại hình công việc khác nhau, nhiều dự án khác nhau nên cần phải chú ý khi tính toán khối lượng sản phẩm trong lập và quản lý dự án. Đối với ngành xây dựng, khác với các ngành khác, khi lập dự án đầu tư máy móc xây dựng, có nhiều trường hợp địa điểm sản xuất chưa được xác định, thậm chí có thể ảnh hưởng đến khả năng không có thị trường do thực trạng phụ thuộc vào khả năng thắng thầu của doanh nghiệp trong điều kiện cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Thời tiết cũng là một yếu tố tác động mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất của ngành xây dựng 3.4. Các giải pháp huy động và sử dụng vốn Thông thường giữa vốn tài chính và nhu cầu đầu tư đổi mới công nghệ thiết bị xây dựng là mâu thuẫn với nhau. Vốn có hạn, phạm vi lãi suất và các điều kiện vay khác nhau, còn nhu cầu đầu tư cho cả chiều rộng lẫn chiều sâu đều lớn, nhất là trong điều kiện hiện nay. Mặt khác, thị trường vốn 7 vay trong những năm gần đây biến động rất phức tạp và phong phú. Việc lựa chọn được giải pháp huy động và sử dụng vốn hợp lý sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm bớt chi phí lãi vay và quay vòng đồng vốn phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp mình. 3.5. Thực trạng thiết bị và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Ở nước ta, đây cũng là một nhân tố có ảnh hưởng đến đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng của các công ty xây dựng. Đặc điểm này kết hợp với các yêu cầu của hồ sơ thầu, yêu cầu của chủ đầu tư, của kỹ sư tư vấn và nhất là đối với các gói thầu thực hiện đấu thầu quốc tế cho phép quyết định các giải pháp đầu tư hợp lý nhằm từng bước đổi mới thiết bị, tăng khả năng cạnh tranh, phù hợp với thực trạng và chiến lược phát triển của doanh nghiệp. 3.6. Tiến bộ khoa học công nghệ trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng Tiến bộ về khoa học công nghệ trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng đòi hỏi sự phù hợp của thiết bị thi công về mặt chất lượng, kỹ thuật, công nghệ trên cơ sở đáp ứng yêu cầu của chủ đầu tư, năng lực của doanh nghiệp và bảo đảm về hiệu quả kinh tế. 3.7. Nhân tố con người trong hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng Đây là nhân tố rất quan trọng, có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và hiệu quả công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị thi công của doanh nghiệp xây dựng. Nhân tố con người thể hiện trên hai mặt: phẩm chất đạo đức và năng lực trình độ. Trong điều kiện xuất phát thấp của nền kinh tế nước ta cộng với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường xây dựng cơ sở hạ tầng, nếu không chú trọng đến nhân tố này có thể dẫn tới sự sai lệch về mục tiêu cũng như hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp. 8 Có thể tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng theo sơ đồ sau II. KHÁI NIỆM VỀ LẬP VÀ QUẢN LÝ DỰ ÁN ĐẦU TƯ 1. Khái niệm cơ bản về dự án đầu tư Dự án đầu tư có thể xem xét từ nhiều góc độ. Về mặt hình thức, dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được những kết quả và thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai. Trên góc độ quản lý, dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử dụng vốn, vật tư, lao động để tạo ra các kết quả tài chính, kinh tế – xã hội trong một thời gian dài. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng Nhân tố thị trườn g Định hướn g phát triển và mục tiêu Đặc điểm sản xuất ngành xây dựng Giải pháp huy động và sử dụng vốn Thực trạng thiết bị và sức cạnh tranh Tiến bộ KHCN trong xây dựng cở sở Nhân tố con người Công việc Thiết bị Đối tác Đạo đức Năng lực 9 Trên góc độ kế hoạch hoá, dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội, làm tiền đề cho các quyết định đầu tư và tài trợ. Dự án đầu tư là một hoạt động kinh tế riêng biệt nhỏ nhất trong công tác kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân nói chung. Xét về mặt nội dung, dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động có liên quan với nhau được kế hoạch hoá nhằm đạt được các mục tiêu đã định bằng việc tạo ra các kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định, thông qua việc sử dụng các nguồn lực xác định. Như vậy một dự án đầu tư bao gồm 4 thành phần chính: - Mục tiêu của dự án được thể hiện ở 2 mức: 1/Mục tiêu phát triển là những lợi ích kinh tế – xã hội do thực hiện dự án đem lại. 2/ Mục tiêu trước mắt là các mục đích cụ thể cần phải đạt được của dự án. - Các kết quả: đó là những kết quả cụ thể, có thể định lượng, được tạo ra từ các hoạt động khác nhau của dự án. Đây là điều kiện cần thiết để thực hiện được các mục tiêu của dự án. - Các hoạt động: Là những nhiệm vụ hoặc hành động được thực hiện trong dự án để tạo ra những kết quả nhất định. Những nhiệm vụ hoặc hành động này cùng với một lịch biểu và trách nhiệm cụ thể của các bộ phận thực hiện sẽ tạo thành kế hoạch làm việc của dự án. - Các nguồn lực: về vật chất, tài chính và con người cần thiết để tiến hành các hoạt động của dự án. Giá trị hoặc chi phí của các nguồn lực này chính là vốn đầu tư cần cho dự án. Trong 4 thành phần trên thì kết quả được coi là cột mốc đánh dấu tiến độ của dự án. Vì vậy, trong quá trình thực hiện dự án phải thường xuyên theo dõi đánh giá các kết quả đạt được. Những hoạt động nào có liên quan trực tiếp đối với việc tạo ra các kết quả được coi là hoạt động chủ yếu cần phải được đặc biệt quan tâm. 10 2. Quá trình hình thành và phát triển một dự án đầu tư Quá trình hình thành và thực hiện dự án đầu tư trải qua 3 giai đoạn: Chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư. Các bước công việc, các nội dung nghiên cứu ở các giai đoạn được tiến hành tuần tự nhưng không biệt lập mà đan xen gối đầu cho nhau, bổ xung cho nhau nhằm nâng cao dần mức độ chính xác của các kết quả nghiên cứu và tạo thuận lợi cho việc tiến hành nghiên cứu ở các bước kế tiếp. Các bước công việc của các giai đoạn hình thành và thực hiện một dự án đầu tư có thể được tóm tắt trong bảng sau: Chuẩn bị đầu tư Thực hiện đầu tư Vận hành kết quả đầu tư Nghiên cứu phát hiện cơ hội đầu tư Nghiên cứu tiền khả thi sơ bộ lựa chọn dự án Nghiên cứu khả thi Đánh giá và quyết định (thẩm định dự án) Hoàn tất thủ tục để triển khai thực hiện đầu tư Thiết kế và lập dự toán xây lắp công trình Thi công xây lắp công trình Chạy thử và nghiệm thu sử dụng Sử dụng chưa hết công suất Sử dụng công suất ở mức cao nhất Công suất giảm dần và thanh lý Trong 3 giai đoạn trên đây, giai đoạn chuẩn bị đầu tư tạo tiền đề và quyết định sự thành công hay thất bại ở giai đoạn sau, đặc biệt là đối với giai đoạn vận hành kết quả đầu tư. Do đó, đối với giai đoạn chuẩn bị đầu tư, vấn đề chất lượng, vấn đề chính xác của các kết quả nghiên cứu, tính toán và dự đoán là quan trọng nhất. Trong quá trình soạn thảo dự án phải dành đủ thời gian và chi phí theo đòi hỏi của các nghiên cứu. 11 Tổng chi phí cho giai đoạn chuẩn bị đầu tư chiếm từ 0.5 – 15% vốn đầu tư của dự án. Làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư sẽ tạo tiền đề cho việc sử dụng tốt 85 – 99.5% vốn đầu tư của dự án ở giai đoạn thực hiện đầu tư (đúng tiến độ, không phải phá đi làm lại, tránh được những chi phí không cần thiết khác…). Điều này cũng tạo cơ sở cho quá trình hoạt động của dự án được thuận lợi, nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư và có lãi (đối với các dự án sản xuất kinh doanh), nhanh chóng phát huy hết năng lực dự kiến (đối với các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng và dịch vụ xã hội). Trong giai đoạn 2, vấn đề thời gian là quan trọng nhất. Ở giai đoạn này, vốn đầu tư của dự án được chi ra nằm khê đọng trong suốt những năm thực hiện đầu tư. Đây là những năm vốn không sinh lời. Thời gian thực hiện đầu tư càng kéo dài, vốn ứ đọng càng nhiều, tổn thất càng lớn, lại thêm những tổn thất do thời tiết gây ra đối với vật tư thiết bị chưa hoặc đang được thi công, đối với các công trình đang được xây dựng dở dang. Đến lượt mình, thời gian thực hiện đầu tư lại phụ thuộc nhiều vào chất lượng công tác chuẩn bị đầu tư, vào việc quản lý quá trình thực hiện đầu tư, quản lý việc thực hiện những hoạt động khác có liên quan trực tiếp đến các kết quả của quá trình thực hiện đầu tư đã được xem xét trong dự án đầu tư. Giai đoạn 3: Vận hành các kết quả của giai đoạn thực hiện đầu tư (giai đoạn sản xuất kinh doanh dịch vụ) nhằm đạt được các mục tiêu của dự án. Nếu các kết quả do giai đoạn thực hiện đầu tư tạo ra đảm bảo tính đồng bộ, giá thành thấp, chất lượng tốt, đúng tiến độ, tại địa điểm thích hợp, với quy mô tối ưu thì hiệu quả trong hoạt động của các kết quả này và mục tiêu của dự án chỉ còn phụ thuộc trực tiếp vào quá trình tổ chức, quản lý hoạt động các kết quả đầu tư. Làm tốt các công việc của giai đoạn chuẩn bị đầu tư và thực hiện đầu tư tạo thuận lợi cho quá trình tổ chức quản lý phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư.Thời gian phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư chính là đời của dự án, nó gắn với đời sống của sản phẩm (do dự án tạo ra) trên thị trường 12 3. Quản lý dự án đầu tư Phương pháp quản lý dự án lần đầu được áp dụng trong lĩnh vực quân sự Mỹ vào những năm 50, đến nay nó nhanh chóng được ứng dụng rộng rãi vào các lĩnh vực kinh tế, quốc phòng và xã hội. Có hai lực lượng cơ bản thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của phương pháp quản lý dự án là: (1) nhu cầu ngày càng tăng của những hàng hoá và dịch vụ sản xuất phức tạp, kỹ thuật tinh vi trong khi khách hàng càng “khó tính”; (2) kiến thức của con người (hiểu biết tự nhiên, xã hội, kinh tế, kỹ thuật) ngày càng tăng. Quản lý dự án là quá trình lập kế hoạch, điều phối thời gian, nguồn lực và giám sát quá trình phát triển nhằm đảm bảo cho dự án hoàn thành đúng thời hạn, trong phạm vi ngân sách được duyệt và đạt được các yêu cầu đã định về kỹ thuật và chất lượng sản phẩm dịch vụ, bằng những phương pháp và điều kiện tốt nhất cho phép Quản lý dự án bao gồm 3 giai đoạn chủ yếu. Đó là việc lập kế hoạch, điều phối thực hiện mà nội dung chủ yếu là quản lý tiến độ thời gian, chi phí thực hiện và thực hiện giám sát các công việc dự án nhằm đạt được những mục tiêu xác định. Lập kế hoạch. Đây là giai đoạn xây dựng mục tiêu, xác định những công việc cần được hoàn thành, nguồn lực cần thiết để thực hiện dự án và là quá trình phát triển một kế hoạch hành động theo trình tự lôgic mà có thể biểu diễn dưới dạng sơ đồ hệ thống. Điều phối thực hiện dự án. Đây là quá trình phân phối nguồn lực bao gồm tiền vốn, lao động, thiết bị và đặc biệt quan trọng là quản lý và điều phối tiến độ thời gian. Giai đoạn này chi tiết hoá thời hạn thực hiện cho từng công việc và toàn bộ dự án (khi nào bắt đầu, khi nào kết thúc). 13 Giám sát là quá trình theo dõi kiểm tra tiến trình dự án, phân tích tình hình hoàn thành, giải quyết những vấn đề liên quan và thực hiện báo cáo hiện trạng. Các giai đoạn của quá trình quản lý dự án hình thành một chu trình năng động từ việc lập kế hoạch đến điều phối thực hiện và giám sát, sau đó phản hồi cho việc tái lập kế hoạch dự án theo hình sau: Hình 1: Chu trình quản lý của dự án Quản lý dự án đầu tư bao gồm các nội dung sau: 3.1- Quản lý vĩ mô và vi mô đối với các dự án a. Quản lý vi mô đối với dự án Lập kế hoạch Thiết lập mục tiêu Điều tra nguồn lực Xây dựng kế hoạch Điều phối thực hiện Điều phối tiến độ thời gian Phân phối nguồn lực Giám sát Đo lường kết quả So sánh với mục tiêu Báo cáo Giải quyết vấn đề 14 Quản lý vĩ mô hay quản lý Nhà nước đối với các dự án bao gồm tổng thể các biện pháp vĩ mô tác động đến quá trình hình thành, hoạt động và kết thúc dự án. Trong quá trình triển khai thực hiện dự án, Nhà nước mà đại diện là cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế luôn theo dõi chặt chẽ, định hướng và chi phối hoạt động của dự án nhằm đảm bảo cho dự án đóng góp tích cực vào việc phát triển kinh tế- xã hội. Những công cụ quản lý vĩ mô chính của Nhà nước để quản lý dự án bao gồm các chính sách, kế hoạch, quy hoạch như chính sách tiền tệ, tỷ giá, lãi suất, chính sách đầu tư, chính sách thuế, hệ thống luật pháp, những qui định về chế độ kế toán, thống kê, bảo hiểm, tiền lương,… b. Quản lý vi mô đối với hoạt động dự án Quản lý dự án ở tầm vi mô là quá trình quản lý các hoạt động cụ thể của dự án. Nó bao gồm nhiều khâu công việc như lập kế hoạch, điều phối, kiểm soát,…các hoạt động dự án. Quản lý dự án bao gồm hàng loạt vấn đề như quản lý thời gian, chi phí, nguồn vốn đầu tư, rủi ro, quản lý hoạt động mua bán,…Quá trình quản lý được thực hiện trong suốt các giai đoạn từ chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư đến giai đoạn vận hành kết quả của dự án. Trong từng giai đoạn, tuy đối tượng quản lý cụ thể có khác nhau nhưng đều phải gắn với ba mục tiêu cơ bản của hoạt động quản lý dự án là: thời gian, chi phí và kết quả hoàn thành. 3.2- Lĩnh vực quản lý dự án Theo đối tượng quản lý, quản lý dự án bao gồm các nội dung như trong bảng dưới. Quản lý dự án bao gồm chín lĩnh vực chính cần được nghiên cứu, xem xét ( theo Viện nghiên cứu Quản trị Dự án Quốc tế- PMI) là: - Quản lý phạm vi. Quản lý phạm vi dự án là việc xác định, giám sát việc thực hiện mục đích, mục tiêu của dự án, xác định công việc nào thuộc về dự án và cần phải thực hiện, công việc nào ngoài phạm vi của dự án. 15 - Quản lý thời gian. Quản lý thời gian là việc lập kế hoạch, phân phối và giám sát tiến độ thời gian nhằm đảm bảo thời hạn hoàn thành dự án. Nó chỉ rõ mỗi công việc kéo dài bao lâu, khi nào bắt đầu khi nào kết thúc và toàn bộ dự án bao giờ sẽ hoàn thành. - Quản lý chi phí. Quản lý chi phí của dự án là quá trình dự toán kinh phí, giám sát thực hiện chi phí theo tiến độ cho từng công việc và toàn bộ dự án, là việc tổ chức, phân tích số liệu và báo cáo những thông tin về chi phí. - Quản lý chất lượng. Quản lý chất lượng dự án là quá trình triển khai giám sát những tiêu chuẩn chất lượng cho việc thực hiện dự án, đảm bảo chất lượng sản phẩm dự án phải đáp ứng mong muốn của chủ đầu tư. - Quản lý nhân lực. Quản lý nhân lực là việc hướng dẫn, phối hợp những nỗ lực của mọi thành viên tham gia dự án vào việc hoàn thành mục tiêu dự án. Nó cho thấy việc sử dụng lực lượng lao động của dự án hiệu quả đến mức nào? - Quản lý thông tin. Quản lý thông tin là quá trình đảm bảo các dòng thông tin thông suốt một cách nhanh nhất và chính xác giữa các thành viên dự án và với các cấp quản lý khác nhau. Thông qua quản lý thông tin có thể trả lời được các câu hỏi: ai cần thông tin về dự án, mức độ chi tiết và các nhà quản lý dự án cần báo cáo cho họ bằng cách nào? - Quản lý rủi ro. Quản lý rủi ro là việc xác định các yếu tố rủi ro của dự án, lượng hoá mức độ rủi ro và có kế hoạch đối phó cũng như quản lý từng loại rủi ro. 16 - Quản lý hợp đồng và hoạt động mua bán. Quản lý hợp đồng và hoạt động mua bán của dự án là quá trình lựa chọn, thương lượng và quản lý các hợp đồng và điều hành việc mua bán nguyên vật liệu, trang thiết bị, dịch vụ,…cần thiết cho dự án. Quá trình quản lý này giải quyết vấn đề: bằng cách nào dự án nhận được hàng hoá và dịch vụ cần thiết của các tổ chức bên ngoài cung cấp cho dự án, tiến độ cung, chất lượng cung như thế nào. - Lập kế hoạch tổng quan. Lập kế hoạch tổng quan cho dự án là quá trình tổ chức dự án theo một trình tự lôgic, là việc chi tiết hoá các mục tiêu dự án thành những công việc cụ thể và hoạch định một chương trình để thực hiện các công việc đó nhằm đảm bảo các lĩnh vực quản lý khác nhau của dự án đã được kết hợp một cách chính xác và đầy đủ. Hình 3 : Các lĩnh vực quản lý của dự án 17 III. ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG CÔNG TÁC LẬP VÀ QUẢN LÝ DỰ ÁN ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ VÀ THIẾT BỊ XÂY DỰNG TRONG DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG 1. Nội dung công tác lập dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng Nội dung chủ yếu của báo cáo nghiên cứu khả thi trong dự án đầu tư gần đây nhất được quy định trong NĐ 52/1999/NĐ - CP ngày 8/7/1999 của Chính phủ. Đối với doanh nghiệp xây dựng, nội dung Lập kế hoạch tổng quan * Lập kế hoạch * Thực hiện kế hoạch * Quản lý những thay đổi Quản lý phạm vi * Xác định phạm vi * Lập kế hoạch phạm vi * Quản lý thay đổi phạm vi Quản lý thời gian * Xác định công việc * Dự tính thời gian * Quản lý tiến độ Quản lý chi phí * Lập kế hoạch nguồn lực * Tính toán chi phí * Lập dự toán * Lập kế hoạch Quản lý chất lượng * Lập kế hoạch chất lượng * Đảm bảo chất lượng * Quản lý chất lượng Quản lý nguồn lực * Lập kế hoạch nhân lực * Tuyển dụng * Phát triển nhóm Quản lý thông tin *Lập kế hoạch quản lý thông tin * Phân phối thông tin * Báo cáo tiến độ Quản lý rủi ro dự án * Xác định rủi ro * Chương trình quản lý rủi ro * Phản ứng với rủi ro Quản lý hoạt động cung ứng * Kế hoạch cung ứng * Lựa chọn nhà cung * Quản lý tiến độ 18 của dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng có đặc thù riêng. Thông thường một đời máy ( tuổi thọ sử dụng thiết bị ) hay trong dự án đầu tư thường tính toán là thời gian hoàn vốn của thiết bị, phải được thực hiện thi công trên nhiều công trình khác nhau, trên các địa bàn khác nhau. Mặt khác, đối với doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, trừ một số loại thiết bị đặc chủng, còn nói chung là các thiết bị đa năng, đồng thời các dự án đầu tư thường là được lập cho một tập hợp máy xây dựng. Với các điều kiện như vậy, nội dung của dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng được lập trên cơ sở các nhân tố chung nhất mà không phân chia riêng cho từng loại. Những nội dung chính của dự án bao gồm : 1.1. Xác định sự cần thiết phải đầu tư - Xác định thị trường công việc cho cáca thiết bị dự kiến được đầu tư Đây là nội dung quan trọng đầu tiên có ảnh hưởng trực tiếp nhất đến mục tiêu và hiệu quả đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng. Việc xác định thị trường công việc càng chính xác bao nhiêu sẽ tạo tiền đề cho việc quyết định lựa chọn phương án đầu tư hợp lý bấy nhiêu. Thị trường công việc có khả năng thực hiện bao gồm  Các công trình đã ký hợp đồng đang triển khai  Các công trình đang đấu thầu hoặc chuẩn bị được nhận thầu. Đối với loại này, do chưa đủ nhân tố chắc chắn nên cần phải tiến hành phân tích, đánh giá khả năng thắng thầu, trên cơ sở đó xác định thị phần có thể nhất.  Các công trình dự kiến sẽ tham gia đấu thầu hoặc khi chỉ định thầu trong chiến lược sản xuất kinh doanh hàng năm và dài hạn của doanh nghiệp. Trong thực tiễn việc tính toán thị phần công việc đòi hỏi rất công phu, tỷ mỷ, dựa trên việc phân tích nhiều nhân tố có liên quan, đồng thời sử dụng tốt nhất công cụ dự báo. Đây là nhân tố có nhiều rủi ro 19 nhất cho việc quyết định đầu tư Việc xác định thời gian, tiến độ xây dựng, các yêu cầu về chất lượng xây dựng cũng vì vậy được phân chia theo từng thị trường công việc. Đối với những công trình đã được xác định, việc tính toán rất thuận lợi trên cơ sở yêu cầu, hồ sơ của chủ công trình và kỹ sư tư vấn. - Xác định số lượng, chủng loại thiết bị đầu tư Thực tiễn là thời gian xây dựng các công trình giao thông và cơ sở hạ tầng thường dài. Mặt khác một gói thầu xây dựng cơ sở hạ tầng lớn yêu cầu nhiều chủng loại thiết bị. Xu hướng hiện nay trừ một số thiết bị đặc chủng được lập thành dự án riêng, còn nhìn chung về cơ bản một doanh nghiệp thành viên trực thuộc các Tổng công ty phải có đủ dây chuyền thiết bị thi công, bao gồm cả thiết bị làm nền, móng, mặt đường, xe tải, xe lu…Đối với cấp tổng công ty phải có nhiều dây chuyền thiết bị đồng bộ để có thể triển khai một lúc nhiều công trình. Vì vậy việc tính toán nhu cầu đầu tư cho từng thời kỳ, hay là xác định số lượng, chủng loại thiết bị trong dự án đầu tư phải dựa vào các căn cứ, trong đó căn cứ quan trọng nhất là việc lập bảng cân đối nhu cầu đầu tư thiết bị thi công. Việc xác định nhu cầu đầu tư cần phải được dựa trên các cơ sở sau :  Số lượng, chủng loại thiết bị hiện có cho từng loại thiết bị  Nhu cầu đầu tư về số lượng, chủng loại cho từng loại thiết bị ( trên cơ sở nghiên cứu thị trường xây dựng và căn cứ vào chỉ tiêu, năng suất thiết bị thi công và các phương án sử dụng máy ). Xác định số thiết bị cần đầu tư theo công thức : M t = Mc – ( Mhc – Mđ ) Trong đó : M t : Số thiết bị cần đầu tư cho loại thiết bị thứ t Mc : Số thiết bị cần cho các công trình xây dựng của doanh nghiệp trong khoảng thời hạn khấu hao tính toán khi lập dự án. Mhc : Số thiết bị hiện có của loại thiết bị t. Mđ : Số thiết bị dự kiến đào thải bình quân trong kỳ của thiết bị thứ t 20 - Khả năng cung cấp máy xây dựng của thị trường bao gồm  Các nguồn và các nước cung cấp thiết bị, chủng loại, mẫu mã máy.  Trình độ kỹ thuật, đặc tính sử dụng, hiệu quả kinh tế, giá cả.  Điều kiện mua bán và thanh toán  Khả năng thuê thiết bị - Các điều kiện thuận lợi và khó khăn Bao gồm các vấn đề  Cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ thiết bị hoạt động (đường giao thông, điện, chất đốt, cơ sở sửa chữa, khả năng cung cấp phụ tùng thay thế…)  Các điều kiện tự nhiên về thời tiết, địa chất, thuỷ văn, nhất là ở các công trường xây dựng dự kiến cho thiết bị thực hiện.  Các điều kiện về nguyên vật liệu xây dựng có liên quan đến thiết bị phải vận chuyển hay chế biến. Cuối cùng là kết luận sơ bộ về hiệu quả và sự cần thiết phải đầu tư 1.2. Lựa chọn hình thức đầu tư - Lựa chọn hình thức huy động vốn để tự kinh doanh hay liên doanh. - So sánh giữa phương án mua sắm và đi thuê. - So sánh giữa phương án cải tạo nâng cấp máy hiện có và mua mới. - So sánh giữa mua máy móc công nghệ nước ngoài và máy nội địa giữa các thị trường trong nước, nước ngoài với nhau. - So sánh giữa thiết bị cũ với thiết bị mới trên cơ sở lựa chọn đời thiết bị phù hợp. - Lựa chọn giữa đấu thầu rộng rãi hay chào hàng cạnh tranh.. 1.3. Lựa chọn công suất, phương án sản phẩm, giải pháp kỹ thuật và công nghệ của thiết bị - Xác định công suất của thiết bị Căn cứ để xác định công suất của thiết bị là tính chất và khối lượng công việc hàng năm của thiết bị phải thực hiện theo dự báo, khả năng cung cấp máy móc phù hợp với công suất định chọn, khả năng 21 về vốn, tính toán hiệu quả kinh tế, trình độ tập trung và quy mô các công trường xây dựng theo dự báo ( nếu độ xa chuyên chở lớn, quy mô các công trường nhỏ và phân tán theo lãnh thổ thì máy có quy mô lớn không có lợi). Các loại công suất của thiết bị dự kiến, bao gồm công suất tối dự án, công suất tính toán (có tính đến một độ an toàn nhất định của doanh thu hàng năm, sản lượng hoà vốn). - Xác định phương án sản phẩm của thiết bị  Lựa chọn thiết bị dự án năng hay thiết bị đặc chủng.  Khả năng thực hiện các công việc xây dựng với một chất lượng nhất định  Công việc chính và phụ của thiết bị  Thiết bị đầu tư mới hay đã qua sử dụng - Xác định giải pháp kỹ thuật và công nghệ của thiết bị  Xác định trình độ hiện đại của thiết bị phù hợp (nguyên lý tĩnh hay chấn động, cơ cấu thuỷ lực hau cơ cấu cơ học bình thường, cơ cấu di chuyển bánh xích hay bánh hơi, loại chất đốt, hoạt động liên tục hay chu kỳ. Thiết bị của các nước công nghệ tiên tiến hay các nước đang phát triển hoặc trong nước sản xuất…)  Xác định công nghệ sử dụng thiết bị, bao gồm việc phối hợp giữa máy móc, con người và đối tượng lao động theo trình tự thời gian và không gian khi thực hiện công việc xây dựng.  Xác định một số chỉ tiêu cơ bản như: Mức độ tự động hóa, độ dài chu kỳ công nghệ, hệ số sử dụng nguyên liệu xuất phát, thế hệ kỹ thuật, độ linh hoạt, chất lượng và phế phẩm, an toàn và cải thiện điều kiện lao động, bảo vệ môi trường, độ bền chắc và độ tin cậy, mức độ nhiệt đới hoá…  Xác định nhu cầu về thiết bị phục vụ và phụ tùng thay thế kèm theo khi tháo lắp và chuyên chở thiết bị 1.4. Dự báo các đặc điểm sử dụng thiết bị Bao gồm các vấn đề 22 - Dự báo các loại công trường xây dựng mà thiết bị có thể tham gia khi thực hiện sau này, dựa trên các điều kiện tự nhiên của công trường và tình trạng cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ thiết bị. - Xác định loại quy mô công trường và độ xa chuyên chở thiết bị thi công đến công trường phù hợp nhất với loại thiết bị được đầu tư. - Xác định các yêu cầu kỹ thuật công nghệ thi công, các tiêu chuẩn về thiết bị do chủ đầu tư, kỹ sư tư vấn yêu cầu trong hồ sơ dự thầu đối với các gói thầu xây dựng giao thông đã có địa điểm hoặc chuẩn bị tham gia đấu thầu. 1.5. Phương án tổ chức quản lý và lao động phục vụ thiết bị Bao gồm các vấn đề chủ yếu sau - Xác định hình thức tổ chức sử dụng thiết bị (chuyên môn hoá hay sử dụng hỗn hợp, sử dụng phân tán hay tập trung), nghiên cứu về bộ máy quản lý nếu có… - Xác định biên chế công nhân vận hành máy và nhu cầu lao động khi tháo lắp hoặc di chuyển thiết bị. 1.6. Phân tích đánh giá tài chính, kinh tế – xã hội của dự án - Xác định các số liệu để phân tích, đánh giá dự án Các số liệu chính gồm có  Vốn đầu tư mua sắm, tuổi thọ hay thời hạn khấu hao và dự kiến giá trị thu hồi khi đào thải máy.  Xác định một số vốn lưu động cần thiết để máy hoạt động, chủ yếu là dự trữ phụ tùng thay thế và nhiên liệu.  Chi phí sử dụng máy hàng năm dựa trên khối lượng công việc xây dựng của máy dự kiến.  Chi phí vận hành máy hàng năm (không tính khấu hao).  Doanh thu hàng năm của máy.  Khấu hao cơ bản và các khoản trừ dần.  Tiến độ vay vốn, trả nợ gốc và lãi.  Tiền nộp thuế và lệ phí hàng năm. 23  Xác định hiệu số giữa doanh thu và chi phí vận hành không có khấu hao.  Xác định suất thu lợi tối thiểu có thể chấp nhận được.  Lập dòng tiền (CFi) của dự án - Phân tích tài chính dự án Phân tích tài chính là chủ yếu phân tích xem khả năng sinh lợi của đồng vốn đầu tư cũng như sự cân bằng tài chính của một doanh nghiệp chịu trách nhiệm chính của dự án. Phân tích tài chính là bước chuẩn bị cho phân tích kinh tế. Thông thường được tiến hành theo hai bước : sơ bộ và chi tiết Phân tích tài chính sơ bộ Có các nội dung chính sau  Phân tích các khoản thu được bằng tiền như doanh thu, tiền cho thuê, các khoản thu khác…  Phân tích các khoản chi phí tính được bằng tiền của dự án như : Giá mua thiết bị, chi phí giao dịch, chi phí trong khâu sử dụng…  Lựa chọn lãi suất (r) và năm cơ bản  Phân tích các chỉ tiêu hiệu quả.  Phân tích độ nhạy của dự án, thực chất là tính tới các rủi ro thường gặp như rủi ro kỹ thuật ( thiếu thông tin để phân tích trình độ kỹ thuật của thiết bị, lựa chọn thiết bị không chính xác…), rủi ro kinh tế ( lạm phát tăng làm tăng giá thiết bị, lãi suất tăng…), rủi ro thương mai (không trúng thầu, giảm khách hàng, dự báo không chính xác nhu cầu…) Phân tích tài chính chi tiết Được tiến hành ở bước lập báo cáo khả thi. Nội dung được phân tích theo những tiêu chí như ở bước phân tích sơ bộ nhưng mức độ chi tiết và chính xác cao hơn. Ngoài ra còn làm rõ hơn  Xác định dòng tiền trước khi nộp thuế và trả nợ  Xác định dòng tiền sau khi nộp thuế và trả nợ (cả vốn lẫn lãi) Các chỉ tiêu hiệu quả trong phân tích tài chính 24 Bao gồm một số chỉ tiêu cơ bản sau  Chỉ tiêu thu nhập thuần của dự án (NPV) Thu nhập thuần của dự án là thu nhập còn lại sau khi đã trừ dần các khoản chi phí của cả đời dự án. Chỉ tiêu này không chỉ bao gồm tổng lợi nhuận thuần hàng năm của cả đời dự án mà còn bao gồm cả giá trị thu hồi thanh lý tài sản cố định ở cuối đời dự án và các khoản thu hồi khác. Nó được xác định theo công thức : NPV =     n n i i i i i 0 i 0 B C 1 r 1 r       Trong đó : Bi : Khoản thu của năm i (doanh thu thuần năm i, giá trị thanh lý tài sản cố định, vốn lưu động bỏ ra ban đầu và được thu về cuối đời dự án) Ci : Khoản chi phí năm i (không bao gồm khấu hao) n : Số năm hoạt động của đời dự án r : Tỷ suất chiết khấu được chọn.  Hệ số hoàn vốn nội bộ (IRR) Hệ số hoàn vốn nội bộ là mức lãi suất nếu dùng nó làm hệ số chiết khấu để tính chuyển các khoản thu chi của dự án về mặt bằng hiện tại thì tổng thu sẽ cân bằng với tổng chi, tức là :     n n i ii i i 0 i 0 1 1 B C 1 IRR 1 IRR       IRR cho biết mức lãi suất mà dự án có thể đạt được. Dự án được chấp nhận khi IRR>r giới hạn. Dự án không được chấp nhận khi IRR< r giới hạn. Trong đó r giới hạn có thể là mức lãi suất đi vay nếu dự án đi vay vốn để đầu tư, có thể là tỷ suất lợi nhuận định mức do nhà nước quy định nếu sử dụng vốn do ngân sách nhà nước cấp, có thể là chi phí cơ hội nếu dự án sử dụng vốn tự có để đầu tư.  Thời gian thu hồi vốn đầu tư (T) 25 Thời gian thu hồi vốn đầu tư là số thời gian cần thiết để dự án hoạt động thu hồi đủ số vốn đầu tư đã bỏ ra. Nó chính là khoảng thời gian để hoàn trả số vốn đầu tư ban đầu bằng các khoản lợi nhuận thuần hoặc tổng lợi nhuận thuần hàng năm. Thời gian thu hồi vốn đầu tư được xác định như sau - Phương pháp cộng dồn   T 0i i 1 W D Iv    Trong đó: T: Năm thu hồi vốn đầu tư; (W + D) i: là khoản thu hồi lợi nhuận thuần và khấu hao năm i. Iv0 là tổng vốn đầu tư ban đầu. - Phương pháp trừ dần : IvT - (W + Đ)T   0 Ngoài các chỉ tiêu trên, phân tích tài chính dự án đầu tư còn có thể xem xét các chỉ tiêu khác như Tỷ lệ lợi ích trên chi phí (B/C), điểm hoà vốn và các chỉ tiêu đánh giá mức độ an toàn về mặt tài chính của dự án đầu tư. 1.7. Phân tích kinh tế – xã hội của dự án đầu tư Nội dung chính bao gồm - Xác định ảnh hưởng của dự án đối với bản thân doanh nghiệp và đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. - Xác định lợi ích kinh tế và chi phí kinh tế của dự án. Trong thực tế, người ta thường áp dụng phương pháp dự án chỉ tiêu để phân tích kinh tế – xã hội của dự án. Đây là phương pháp mà các chỉ tiêu được sử dụng có thể không định lượng được bằng tiền. Các chỉ tiêu đó có thể được phân nhóm thành.  Các chỉ tiêu về mặt kinh tế  Các chỉ tiêu về mặt môi trường  Các chỉ tiêu về mặt văn hoá - xã hội Ngoài ra còn có những chỉ tiêu khác cần phân tích do yêu cầu của chủ đầu tư. Đối với doanh nghiệp xây dựng, một số chỉ tiêu được 26 dùng như : Mức độ tăng khả năng cạnh tranh trong đấu thầu, tăng khả năng thắng thầu, đẩy nhanh tiến độ thi công công trình, cải thiện điều kiện lao động, nâng cao thu nhập… Để đánh giá mức độ tác động của các chỉ tiêu, người ta có thể dùng cách cho điểm với xác định trọng số của từng loại chỉ tiêu. Xác định thang điểm 10 (hoặc 100), xác định tiêu chuẩn để cho điểm. Phương án được lựa chọn là phương án có tổng điểm cao nhất. 2. Nội dung công tác quản lý dự án đầu tư đôỉ mới công nghệ và thiết bị xây dựng Nội dung công tác quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng bao gồm những nội dung chủ yếu sau 2.1. Quản lý thời gian Đối với dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng, việc quản lý được thực hiện trên hai giai đoạn  Giai đoạn 1 : Giai đoạn quản lý thời gian mua sắm.  Giai đoạn 2 : Giai đoạn quản lý sử dụng máy trong tuổi thọ tính toán của dự án. Để việc quản lý được thuận lợi, có thể tổng hợp theo các bước sau trong cả hai giai đoạn :  Bước 1 : Xác định một bảng tiến độ mang tính hiện thực (phương pháp sơ đồ mạng). Bước này bao gồm các công việc sau : Xác định các mối quan hệ, đường Găng, xác định các mốc chính, tính thời gian hoàn thành. Trong bước này cần đặc biệt chú ý tìm hiểu về tính năng, tác dụng của thiết bị, nắm được nội dung của dự án, nắm được yêu cầu đầu vào, năng lực sẵn có, kinh nghiệm.  Bước 2 : Kiểm soát tiến độ  Bước 3 : Đưa ra những điều chỉnh thích hợp khi không đạt được tiến độ Trong giai đoạn 1, yếu tố ảnh hưởng đến đường Găng là thời điểm phải đưa thiết bị vào hoạt động theo yêu cầu thi công công trình và lãi suất vốn đầu tư. Đối với các thiết bị có tính cơ động cao, không phụ thuộc vào 27 công tác lắp đặt, công tác quản lý thời gian đơn giản hơn, nhưng đối với các thiết bị đặc chủng như trạm trộn bê tông asphalt, hệ thống nghiền sàng đá, các thiết bị thi công cầu, hầm thì phải chú trọng hơn đến hoạt động quản lý nhằm đảm bảo tiến độ và tiết kiệm chi phí. Trong giai đoạn 2, việc quản lý thời gian phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nó chính là việc quản lý hệ số sử dụng thiết bị. Hệ số sử dụng thiết bị  =  số ca hoạt động trong năm 365 Trong thực tế hệ số sử dụng thiết bị phụ thuộc vào 2 yếu tố chính là thị trường công việc và sơ đồ bố trí sử dụng thiết bị trên công trường. 2.2. Quản lý chi phí Đối với dự án đầu tư thiết bị, việc quản lý chi phí bao gồm 2 giai đoạn :  Giai đoạn đầu tư mua sắm  Giai đoạn sử dụng thiết bị Trong cả hai giai đoạn, các yếu tố chi phí cần quản lý bao gồm  Xác định ngân sách, trong đó xác định rõ yêu cầu về vốn, nguồn vốn, tiến độ cấp vốn.  Kiểm soát chi phí bao gồm : Cho phí mua sắm lắp đặt, chi phí quản lý thi công. Đối với chi phí mua sắm phải chú trọng kiểm tra chi phí ở các mốc chính, kiểm soát chi phí dự kiến, kiểm soát thay đổi các chi phí. Đối với chi phí quản lý thi công phải chú trọng chi phí khấu hao, chi phí nguyên vật liệu động lực, chi phí sửa chữa lớn, thường xuyên, chi phí quản lý… Việc quản lý chặt chẽ yếu tố chi phí trong quá trình sử dụng thiết bị sẽ bảo đảm cho việc giảm rủi ro trong thực thi các mục tiêu của dự án đề ra ban đầu. 2.3. Quản lý chất lượng - Mục đích của quản lý chất lượng Chất lượng thiết bị thi công được đầu tư là một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà thị trường thiết bị thi công rất đa dạng, phức tạp, trong đó thị trường thiết bị 28 đã qua sử dụng chiếm tới 50 – 60% thị phần do khả năng vốn đầu tư có hạn và đặc biệt là do ảnh hưởng của đấu thầu cạnh tranh trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng. Do vậy mục đích của công tác quản lý dự án đầu tư mua sắm máy thi công nhằm :  Đáp ứng yêu cầu của chủ đầu tư  Đạt được mục tiêu của dự án  Được quản lý trong suốt quá trình thực hiện dự án - Nội dung quản lý chất lượng Lập kế hoạch đảm bảo chất lượng. Khi lập kế hoạch đảm bảo chất lượng cần xác định rõ các yêu cầu và tiêu chuẩn áp dụng, xây dựng quy trình quản lý chất lượng thiết bị cụ thể. Do đặc thù của ngành xây dựng, một công trình có thể cùng lúc sử dụng sản phẩm là một dự án hoặc một tập hợp dự án, hoặc cũng có thể một dự án đầu tư là một tập hợp thiết bị lại được sử dụng cho nhiều dự án công trình xây dựng khác nhau, do đó khi lập kế hoạch đảm bảo chất lượng cần chú ý : - Lập kế hoạch chi tiết cho từng dự án cụ thể, từng thiết bị cụ thể.  Lập kế hoạch quản lý chất lượng cho cả giai đoạn mua sắm và giai đoạn vận hành sử dụng. Kế hoạch phải dễ hiểu cho tất cả mọi người, từ nhà quản lý, kỹ sư đến các công nhân kỹ thuật, vận hành sử dụng thiết bị Kế hoạch quản lý phải dễ thực thi phù hợp với điều kiện thực tiễn của doanh nghiệp. Khi lập kế hoạch quản lý chất lượng cần phải xác định :  Mức độ yêu cầu về chất lượng của dự án  Các phương pháp đảm bảo chất lượng được thực hiện trong quá trình mua sắm và sử dụng thiết bị. 29  Trách nhiệm của công việc kiểm tra quản lý chất lượng từ cấp Tổng công ty, các doanh nghiệp thành viên, đội sản xuất cho đến người trực tiếp vận hành.  Cơ chế kiểm tra chất lượng. - Kiểm soát chất lượng : Mục đích của kiểm soát chất lượng là thỏa mãn yêu cầu của chủ đầu tư và các mục tiêu của dự án. Việc kiểm soát chất lượng trong giai đoạn này nhờ vào nội dung hoạt động thẩm định giá thiết bị, trong đó quan trọng nhất là :  Trình độ và khả năng của các kỹ sư chuyên gia về lĩnh vực kỹ thuật, sử dụng thiết bị của doanh nghiệp.  Có bộ phận kiểm tra, giám sát từng giai đoạn chính của hoạt động mua sắm, lắp đặt, vận hành, chạy thử…  Kiểm soát chất lượng trong quá trình sử dụng thiết bị… Mục đích của công tác này là đảm bảo cho việc sử dụng thiết bị đúng tiến độ trong dự án đặt ra. Một yếu tố quan trọng trong nội dung này là đảm bảo được hệ số sử dụng thiết bị Hệ số sử dụng thiết bị  =  ngày trung bình tốt trong năm 365 Đạt được mục đích này phải dựa vào :  Trình độ và năng lực của kỹ sư, công nhân vận hành thiết bị  Sự hợp tác chặt chẽ của nhà cung cấp  Quá trình giám sát kỹ thuật trên công trường  Tổ chức việc sửa chữa bảo dưỡng thiết bị - Hệ thống quản lý chất lượng thiết bị của doanh nghiệp xây dựng. Mỗi tổ chức tham gia dự án phải quản lý chất lượng phần việc của tổ chức mình theo một cách riêng tuân thủ theo nguyên tắc :  Chất lượng phải được đảm bảo bằng hệ thống quản lý chất lượng. 30  Hệ thống quản lý chất lượng phải đảm bảo tính pháp lý thể hiện thông qua các văn bản thủ tục nhằm đảm bảo cho các sản phẩm đầu ra đáp ứng được yêu cầu chất lượng. Đối với các doanh nghiệp xây dựng, hệ thống quản lý chất lượng được tổ chức thống nhất từ Tổng công ty cho đến các doanh nghiệp thành viên và đội sản xuất.  Hệ thống quản lý chất lượng được kiểm tra một cách độc lập dựa trên các tiêu chuẩn trong nước và quốc tế, nhất là thoả mãn tiêu chuẩn của chủ đầu tư và tư vấn giám sát các gói thầu. 1.4. Quản lý rủi ro Sơ đồ : Mô tả các khả năng rủi ro trong đầu tư Giai đoạn lập dự án Dự án không được phê duyệt Thông tin kém chất lượng Chậm trễ do các yếu tố khách quan Tranh chấp hợp đồng Khả năng huy động vốn Phá sản khủng hoảng kinh tế Đánh giá không đúng thị trường Năng lực lập dự án Giai đoạn quản l ý dự án Chất lượng sản phẩm Thời tiết Quá trình vận dụng thiết bị Thị trườn g công việc Trượ t giá Tác động của cạnh tranh Hệ số sử dụng Năng lực quản l ý dự án 31 Đặc điểm của dự án đầu tư mua sắm thiết bị xây dựng cùng với những đặc điểm của ngành xây dựng là luôn luôn biến động, chịu tác động của nhiều yếu tố khách quan. Đặc trưng của dự án là có nhiều thành phần, nhiều bộ phận với các kỹ năng là lợi ích khác nhau, cùng tham gia vào các hoạt động để thực hiện dự án. Quá trình đó gồm nhiều yếu tố không kiểm soát được gọi là những yếu tố rủi ro. Vì vậy một trong những mục tiêu của quản lý dự án là phải dự đoán được những rủi ro và đề xuất các biện pháp dự phòng nhằm giảm nhẹ hoặc ngăn chặn rủi ro có thể xảy ra. - Những quá trình cơ bản của quản lý rủi ro  Xác định những khả năng rủi ro có thể xảy ra  Đánh giá ảnh hưởng và phân loại các rủi ro  Lựa chọn và thực hiện các biện pháp phù hợp để giảm nhẹ rủi ro Rủi ro có thể xảy ra trong tất cả các giai đoạn. từ khi lập dự án cho đến khi kết thúc dự án. - Những khả năng có thể kiểm soát Nhìn chung không thể loại bỏ rủi ro mà chỉ có thể hạn chể rủi ro xuống mức thấp nhất để có được hiệu quả trong triển khai dự án. Những khả năng có thể kiểm soát gồm.  Tiến hành khảo sát kỹ hơn thông qua việc nâng cao chất lượng thông tin  Gắn việc lập và quản lý dự án đầu tư với nhau làm cho sự gần nhau vêd các nội dung chỉ tiêu càng lớn càng tốt  Tiến hành thí nghiệm các giải pháp dự phòng, có kế hoạch khắc phục các sự cố và nâng cao vai trò của hệ thống quản lý chất lượng. 32 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC LẬP VÀ QUẢN LÝ DỰ ÁN ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ VÀ THIẾT BỊ XÂY DỰNG TẠI CÔNG TY TƯ VẤN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG GIAO THÔNG CÔNG CHÍNH HÀ NỘI I. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA CÔNG TY TƯ VẤN ĐẦU TƯ VÀ XÂY DỰNG GIAO THÔNG CÔNG CHÍNH HÀ NỘI 1. Đôi nét về quá trình hình thành và phát triển của Công ty Công ty Tư vấn Đầu tư và Xây dựng GTCC Hà Nội (tên giao dịch quốc tế là CCIC ) là doanh nghiệp Nhà nước loại I, được thành lập theo quyết định số 702/QĐUB, ngày 31 tháng 5 năm 1996 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội, trên cơ sở đổi tên và bổ sung nhiệm vụ cho Công ty khảo sát thiết kế GTCC Hà Nội ( tên cũ của công ty). - Chứng chỉ hành nghề tư vấn xây dựng số 254/BXD – CSXD do Bộ Xây dựng cấp ngày 11 tháng 12 năm 1998. - Đăng ký kinh doanh số 100637, 305688 và 305689 do Uỷ ban kế hoạch ( Sở Kế hoạch và đầu tư ) thành phố Hà Nội cấp ngày 13 tháng 4 năm 1995 và ngày 16 tháng 9 năm 1995. - Công ty bao gồm 2 xí nghiệp trực thuộc là xí nghiệp xây lắp và xí nghiệp khảo sát và 8 đội sản xuất, mỗi xí nghiệp có một giám đốc và một phó giám đốc; mỗi đội sản xuất đều có đội trưởng để điều hành đội sản xuất. Cả hai xí nghiệp trực thuộc được phép hạch toán độc lập, có con dấu riêng, có tài khoản tại ngân hàng. Các đơn vị trực thuộc vẫn phải gửi hoá đơn lên để công ty hoạch toán. Quy định cụ thể về việc sử dụng tài khoản của hai xí nghiệp như sau: - Xí nghiệp xây lắp: + Đối với những hợp đồng kinh tế về tư vấn, khảo sát – thiết kế: Giám đốc công ty ký hợp đồng với chủ đầu tư bằng tài khoản thu chi của công ty và 33 hạch toán đối với xí nghiệp xây lắp theo đúng quy chế hạch toán và khoán sản phẩm nội bộ ban hành ngày 5 tháng 4 năm 1999. + Đối với những hợp đồng kinh tế về thi công xây lắp: Giám đốc công ty uỷ quyền cho Giám đốc Xí nghiệp xây lắp ký hợp đồng với chủ đầu tư bằng tài khoản của xí nghiệp. Xí nghiệp tự hạch toán, làm nhiệm vụ đối với Nhà nước và thực hiện trách nhiệm tài chính đối với Công ty theo quy chế ban hành ngày 5 tháng 4 năm 1999. Trong trường hợp chủ đầu tư yêu cầu phải sử dụng tài khoản của công ty trong hợp đồng kinh tế thì Giám đốc uỷ quyền cho Giám đốc Xí nghiệp sử dụng tài khoản của Công ty để thanh toán, quyết toán với chủ đầu tư. - Xí nghiệp khảo sát + Đối với những công trình được giao theo Kế hoạch Pháp lệnh ( A1) và các công trình do công ty tự khai thác ( A2): Giám đốc công ty trực tiếp ký hợp đồng với chủ đầu tư bằng tài khoản của Công ty. Xí nghiệp khảo sát thực hiện nhiệm vụ sản xuất theo đúng phiếu giao việc của Công ty. Việc hạch toán và phân bổ lợi ích với Xí nghiệp được thực hiện theo đúng quy chế đã ban hành ngày 5 tháng 2 năm 1999. + Đối với công trình do xí nghiệp tự khai thác ( A3): Giám đốc công ty uỷ quyền cho giám đốc Xí nghiệp khảo sát ký hợp đồng trực tiếp với chủ đầu tư bằng khoản thu của Xí nghiệp. Xí nghiệp tự hạch toán, làm nhiệm vụ đối với nhà nước và thực hiện trách nhiệm tài chính đối với Công ty theo quy chế ban hành ngày 14 tháng 4 năm 1999. Cả hai xí nghiệp đều có bộ phận nghiệp vụ chuyên ngành kế hoạch nghiệp vụ để giúp Giám đốc Xí nghiệp quản lý hạch toán theo chế độ chính sách hiện hành cũng như các quy định của Công ty. Các xí nghiệp phải làm văn bản báo cáo định kỳ hàng tháng và hàng quý tình hình thu – chi theo nghiệp vụ quản lý tài chính của đơn vị cho phòng Tài vụ của Công ty để tổng hợp thành báo cáo chung trình các cơ quan quản lý doanh nghiệp. Các khoản chi phí để duyệt đề cương, hội họp, duyệt quyết toán về các nội dung khảo sát trong Hợp đồng kinh tế đối với các công trình A1, A2 đều do Công ty thực hiện. Khi quyết toán công trình, phòng Tài vụ lập báo cáo tổng hợp các chi phí sản xuất, trình Giám đốc công ty xem xét để xác định phần trách nhiệm của Xí nghiệp khảo sát theo nguyên tắc “Các chi phí sản xuất được phân bổ theo tỷ trọng giá trị mà chủ đầu tư thanh toán cho tư vấn, thiết kế và cho khảo sát”. Đối với các công trình lớn, phòng tài vụ và phòng kế hoạch – kỹ thuật cần hạch toán đầy đủ các khoản Chi phí trong 34 quá trình thực hiện Hợp đồng kinh tế để phân bổ trách nhiệm đóng góp một cách hợp lý cho các đơn vị tham gia. 2. Thực trạng tình hình đầu tư ở Công ty Tư vấn Đầu tư và Xây dựng GIAO THÔNG CÔNG CHÍNH Hà Nội Trong thời gian qua, với xu thế hội nhập quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và tại Công ty Tư vấn Đầu tư Xây dựng GTCC đã nhận thức được rằng để nâng tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng, để khai thác triệt để các tiềm năng sẵn có, tạo điều kiện phát triển vốn với chủ trương phát triển sản xuất kinh doanh thì không thể không có các hoạt động đầu tư. Do đó, trong những năm gần đây, công ty đã tiến hành đầu tư vào các lĩnh vực sau: - Đầu tư xây dựng cơ bản. - Đầu tư vào công nghệ và thiết bị xây dựng - Đầu tư vào nguồn nhân lực. Biểu 1 : Tình hình đầu tư của công ty trong những năm qua. Năm Đơn vị 1997 1998 1999 2000 2001 2002 TổngmứcVĐT Triệu đồng 8434 7984 13285 19801 13857 11028 VĐT XDCB - 900 1520 2400 1236 870 724 VĐT CN & thiết bị XD - 7500 6400 10800 18400 12800 10100 VĐT nhân lực - 34 64 85 165 187 204 Tốc độ phát triển liên hoàn % - 94.66 166.4 148.0 69.9 79.6 Nguồn: Báo cáo tổng hợp của Công ty Tư vấn Đầu tư và Xây dựng GTCC Biểu trên cho thấy tình hình đầu tư thực tế của công ty luôn đạt ở mức cao suốt từ năm 1998 cho đến nay. Đặc biệt vào các năm 1999 và 2000, tốc độ tăng trưởng đã lên đến 166.4% và 148%. Nguyên nhân của sự tăng đầu tư mạnh trong giai đoạn này là do năm 1997, công ty được đổi tên mới và bổ sung chức năng nhiệm vụ ( tên cũ là Công ty khảo sát thiết kế GTCC Hà Nội ) nên công ty đã tiến hành đâu tư rất mạnh trên các mặt Xây dựng cơ bản và máy móc công nghệ. Trong giai đoạn này công ty đã tiến hành xây 35 dựng thêm hai hạng mục công trình lớn tại Hà Nội làm trụ sở cho xưởng Thiết kế đô thị 2 và Xưởng thiết kế cầu đường 2 (thuộc Xí nghiệp khảo sát) và mở rộng trụ sở của Xí nghiệp Xây lắp. Đồng thời công ty cũng mạnh dạn vay vốn ngân hàng để đầu tư mới nhiều thiết bị thi công hiện đại để tạo cơ sở mở rộng sản xuất kinh doanh. Sang đến năm 2001 cho đến nay, tình hình đầu tư vào xây dựng cơ bản và công nghệ thiết bị thi công của Công ty giảm dần do đã tạo được một khối lượng tài sản cố định tương đối đầy đủ. Thay vào đó, công ty lại tăng cường đầu tư vào nguồn nhân lực của mình trên tất cả các mặt: chính trị ,tư tưởng cũng như những kiến thức và tay nghề chuyên môn. Tuy nhiên cho đến thời điểm này, đội ngũ cán bộ có tay nghề cao của công ty hãy còn rất mỏng, việc tiếp cận với công nghệ thi công mới, hiện đại hãy còn nhiều bỡ ngỡ do trước đó chủ yếu sử dụng công nghệ thi công từ Liên Xô cũ và các nước XHCN. Vì vậy, trong những năm gần đây, đầu tư vào nguồn nhân lực lại càng được Công ty quan tâm sâu hơn nữa. Cụ thể là công ty thường sử dụng những hình thức đầu tư vào nguồn nhân lưc bằng cách: - Liên kết với một số trường đại học như Đại học Xây dựng, đại học Kiến Trúc, Đại học GTVT... đầu tư cho sinh viên học tập để tiếp nhận khi ra trường. - Tuyển chọn đội ngũ lao động trẻ, có trình độ văn hoá và trình độ chuyên môn cao đi đào tạo thời chuyên môn kỹ thuật ở nước ngoài. - Thông qua các chuyên gia nước ngoài để đào tạo thực tiễn cán bộ, chuyên gia, công nhân kỹ thuật của mình. Đây là một hình thức đầu tư nhanh, hiệu quả để bắt kịp với nhu cầu lao động có trình độ cao của công ty. Cho đến thời điểm hiện nay, về cơ bản lực lượng cán bộ chuyên môn kỹ thuật, kỹ sư của công ty đã có thể đảm đương được hầu hết các công việc trong toàn bộ dây chuyền sản xuất kinh doanh xây dựng hạ tầng giao thông. Tuy nhiên mức độ linh hoạt và tinh xảo của các kỹ năng cũng như mức độ am hiểu về công nghệ kỹ thuật tiên tiến trên thế giới của cán bộ và công nhân kỹ thuật hãy còn hạn chế và đòi hỏi phải tiếp tục rèn luyện qua đào tạo thực tế thi công. 36 II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ VÀ THIẾT BỊ XÂY DỰNG CỦA CÔNG TY. 1. Đánh giá chung về hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng của công ty. Máy móc và công nghệ xây dựng có tầm quan trọng đặc biệt đối với doanh nghiệp xây dựng. Chính vì thế các doanh nghiệp đều coi đây là chìa khoá mở ra và tạo đà cho chính sách, chiến lược phát triển doanh nghiệp. Thực trạng về đầu tư mua sắm máy móc xây dựng có thể được phân theo các giai đoạn sau: - Giai đoạn trước năm 1990: Thực tế hoạt động đầu tư mua sắm thiết bị của doanh nghiệp thiết kế và xây dựng công trình giao thông chịu ảnh hưởng của cơ chế tập trung bao cấp. Thị trường xây dựng về cơ bản chưa thực hiện cơ chế đấu thầu, các công trình xây dựng chủ yếu được chỉ định thầu, hoặc bằng hình thức giao nhiệm vụ theo kế hoạch của nhà nước, vì thế máy móc thi công cũng được coi là một khâu đảm bảo kế hoạch của Nhà nước. Mặt khác do công nghệ xây dựng đường chủ yếu từ Liên Xô và các nước XHCN và việc cung cấp máy móc xây dựng qua thị trường này tương đối dồi dào bằng hình thức nhập khẩu theo kế hoạch với tỷ giá quy đổi theo đồng rúp rất rẻ. Thế nhưng công ty chưa coi việc mua sắm máy móc thiết bị xây dựng là một hình thức đầu tư, nhất là đầu tư chiến lược. Tuy nhiên việc có được một nguồn thiết bị từ thị trường này cũng đã tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty trong một số năm sau khi bắt đầu chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nhất là một số thiết bị làm đất như máy ủi, lu, xe Ben tự đổ… - Giai đoạn 1990 – 1993: Được coi là thời kỳ đệm của Công ty trong hoạt động đầu tư. Thời kỳ này do tình hình kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn, bước đầu chuyển sang cơ chế thị trường, do nhiều yếu tố khách quan về cơ chế, chính sách nên các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào hệ thống cơ sở hạ tầng ngành Giao thông chưa triển khai được. Việc xây dựng chủ yếu tập trung vào công tác duy tu, bảo dưỡng, cải tạo bằng các nguồn vốn đầu tư 37 trong nước là chính. Tuy đã nhìn thấy được khả năng về các nguồn vốn đầu tư sẽ được huy động trong tương lai, nhưng do hạn chế về năng lực tài chính, mặt khác do thiếu thông tin về thị trường thiết bị máy thi công, thiếu thông tin về quy trình công nghệ thiết bị thi công, nên hoạt động đầu tư mua sắm máy móc xây dựng trong giai đoạn này chỉ mang tính thăm dò, cầm chừng, chưa trở thành mục tiêu cấp bách của Công ty. - Giai đoạn từ năm 1993 đến nay: Có thể phân chia thời kỳ này thành 2 giai đoạn để đánh giá thực trạng đầu tư mua sắm máy móc xây dựng của công ty. Giai đoạn 1 từ năm 1993 đến năm 1996 và giai đoạn 2 từ năm 1996 đến nay. + Giai đoạn 1993 - 1996: Trong giai đoạn này, do chưa hiểu biết các tiêu chuẩn về công nghệ thi công xây dựng hạ tầng giao thông và chưa am hiểu về tính năng kỹ thuật, chất lượng, giá cả của các loại thiết bị trên thị trường phục vụ cho yêu cầu thi công nên các dự án đầu tư chưa được xây dựng trên luận cứ chặt chẽ, xác đáng, có cơ sở khoa học và thực tiễn mà chủ yếu dựa vào định hướng chiến lược và những phán đoán mang tính chủ quan. Vì vậy, kết quả là những dự án đầu tư vào mua sắm máy móc thiết bị thi công có giá trị lớn thường không đem lại hiệu quả. + Giai đoạn 1996 đến nay: Do đã trải qua một quá trình thực tiễn, công ty đã lớn mạnh về mọi mặt, đặc biệt là đã rút ra được những kinh nghiệm quan trọng trong lĩnh vực đầu tư đầu tư, nên trong giai đoạn này việc đầu tư của công ty đã thận trọng hơn. Các dự án đầu tư được lập đã trải qua một quá trình thực nghiệm công tác quản lý, vận hành thiết bị của các dự án đầu tư trong giai đoạn trước. Đồng thời, công ty cũng cẩn trọng hơn trong việc vận dụng để đảm bảo các yêu cầu của kỹ sư tư vấn về chất lượng, chủng loại thiết bị phục vụ thi công công trình. Hơn nữa, thị trường cung cấp thiết bị trong giai đoạn này cũng rất phong phú, các nhà cung cấp thiết bị cũng phải cạnh tranh gay gắt để có thể bán được hàng, do đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho công ty trong việc lựa chon thiết bị phù hợp, đúng với giá thị trường, phù hợp với năng lực của mình đồng thời đáp ứng yêu cầu của chủ đầu tư. Đánh giá chung từ năm 1993 đến nay: Công ty đã mở rộng được quy mô đầu tư cả về số lượng, chất lượng, chủng loại thiết bị phục vụ thi công công 38 trình, chuẩn bị tiền đề cho giai đoạn tới nhưng hiệu quả đầu tư nói chung còn nhiều hạn chế. 2. Thực trạng hoạt động đầu tư vào công nghệ và thiết bị xây dựng của công ty 2.1. Về mặt quy mô. Biểu 2: Quy mô đầu tư vào công nghệ và thiết bị xây dựng của doanh nghiệp Năm Đơn vị 1997 1998 1999 2000 2001 2002 VĐT Tỷ VNĐ 7.5 6.4 10.8 18.4 12.8 10.1 Tốcđộphát triểnliênhoàn % _ 85.3 168.8 170.4 69.1 78.9 Nguồn: Báo cáo tổng kết của Công ty Tư vấn Đầu tư và Xây dựng GTCC Đồ thị biểu diễn tình hình đầu tư vào công nghệ và thiết bị xây dựng 0 2 4 6 8 10 12 14 16 18 20 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Nhìn vào biểu 2 và qua đồ thị, nhìn chung tốc độ đầu tư mua sắm máy móc thiết bị của công ty liên tục tăng từ năm 1998 đến năm 2000. Riêng từ năm 2001 cho đến nay, quy mô đầu tư cho máy móc xây dựng của công ty có bị giảm sút. Tuy nhiên, điều này hoàn toàn không phải do công ty chưa chú ý đến đầu tư mua sắm thiết bị trong hai năm trở lại 39 đây, mà chủ yếu là do các máy móc thiết bị của công ty cho đến giai đoạn này cũng đã tạm đáp ứng được những yêu cầu công nghệ cơ bản và một số yêu cầu công nghệ cao, do đó quy mô đầu tư vào máy xây dựng đã được giảm xuống. Cụ thể việc đầu tư vào máy móc thiết bị qua các năm được thể hiện qua bảng sau: Biểu 3: Các máy móc thiết bị được đầu tư từ năm 1993 đến nay STT Loại thiết bị Năm mua Nguồn gốc xuất xứ Số lượng 1 Máy khoan UKB – 25 1993 Liên Xô 1 bộ 2 Khoan máy SH – 30 1993 Trung Quốc 1 bộ 3 Máy nén tam liên 1994 Trung Quốc 2 chiếc 4 Máy cắt ứng biên 1994 Trung Quốc 2 bộ 5 Thiết bị thí nghiệm cơ đất 1994 Liên Xô 1 bộ 6 Thiết bị thí nghiệm đầm chặt tiêu chuẩn 1995 Việt Nam 1 chiếc 7 Máy thuỷ bình kiểm tra độ lún NI 004 1995 Thuỵ Sỹ 1 chiếc 8 Máy đo toàn đạc Delta 1996 Đức 3 chiếc 9 Súng kiểm tra bê tông Schimidt 1997 Đức 6 chiếc 10 Máy dò cốt thép 1998 Đức 2 bộ 11 Máy khoan lấy lõi bê tông DR – 1305B – 4 SOILTEST 1998 Mỹ 1 bộ 12 Thiết bị siêu âm bê tông 1999 Anh 1 bộ 13 Trạm trộn bê tông ASphalt 1999 Nhật 2 chiếc 14 Máy rải bê tông Asphalt 1999 Nhật 2 chiếc 15 Trạm trộn cấp phối CB138 2000 Nhật Bản 1 chiếc 16 Máy rải cấp phối 2000 Nhật Bản 1 chiếc 17 Máy rải hỗn hợp bê tông nhựa 2000 Nhật Bản 1 chiếc 18 Máy khoan lấy lõi bêtông 2000 Nhật Bản 1 chiếc 19 Máy ủi 108CV 2000 Nhật Bản 2 chiếc 20 Xe tưới nhựa DRGM 2000 Nga 5 chiếc 21 Máy san Tital 2000 Đức 3 chiếc 22 Máy lu rung VV 113 2000 Sec 8 chiếc 23 Máy lu rung DY 2000 Nga 10 chiếc 24 Máy lu bánh sắt 2001 Trung Quốc 6 chiếc 40 25 Máy đầm bàn 2001 Nhật 3 chiếc 26 Máy ủi DZ 171 2001 Nga 4 chiếc 27 Máy ủi DZ 42 2001 Nga 2 chiếc 28 Máy xúc lốp gầu lật T018 2001 Trung Quốc 4 chiếc 29 Máy xúc lốp gầu lật T030 2001 Việt Nam 2 chiếc 30 Máy trộn bê tông xi măng B521 2002 Hàn Quốc 6 chiếc 31 Máy trộn vữa 2002 Đức 2 chiếc 32 Thiết bị đóng cọc DJ2 2002 Pháp 1 chiếc 33 Cẩu K162 2002 Trung Quốc 3 chiếc 34 Xe téc nước KAMAZ 2002 Nga 7 chiếc 35 Máy bơm cao áp 2002 Hàn Quốc 4 chiếc 36 Xe vận tải KAMAZ 5320 và 5425 2002 Nga 4 chiếc 37 Xe ben tự đổ KPAZ 256 và MAZ 5549 2002 Nga 5 chiếc Nguồn: Hồ sơ dự thầu của Công ty Tư vấn Đầu tư Xây dựng GTCC năm 2001 Hạ tầng kỹ thuật khu liên hợp thể thao quốc gia Mỹ Đình – Mễ Trì ( 110 ha) – giai đoạn 1 2.2. Về mặt chất lượng công nghệ Chất lượng công nghệ thiết bị được đầu tư phụ thuộc vào khả năng tài chính của công ty, yêu cầu của công trình và phụ thuộc vào chiến lược phát triển đồng thời phải phù hợp với định hướng Công nghiệp hoá - hiện đại hoá của đất nước. Đó chính là vấn đề đầu tư chiều sâu tăng năng lực thiết bị của doanh nghiệp. Có thể tóm tắt tình hình đầu tư máy móc và công nghệ xây dựng của công ty về mặt chất lượng trong những năm qua như sau: - Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 1995: Tỷ lệ các thiết bị mới, chất lượng cao, công nghệ hiện đại đã tương đối cao. Công ty đã bắt đầu chú trọng đến việc đầu tư mua sắm máy móc thiết bị thi công để tăng cường sức cạnh tranh của chính mình. - Giai đoạn từ năm 1996 đến nay: Tập trung đầu tư các thiết bị có công nghệ hiện đại nhưng chủ yếu là các thiết bị đã qua sử dụng. Đầu tư theo hướng này đem lại hiệu quả tương đôi cao cho đơn vị, vì theo 41 yêu cầu của Nhà nước, loại thiết bị này phải là thiết bị được sản xuất từ năm 1990 trở lại đây, có chất lượng không nhỏ hơn 75% và có giá trị sử dụng bằng 50 – 60% so với thiết bị mới cùng loại, đồng thời vẫn đảm bảo yêu cầu của chủ đầu tư. Với con đường đầu tư như vậy, công ty đã có thể tiết kiệm được một khoản tiền khá lớn mà vẫn đảm bảo đựơc yêu cầu công nghệ vì các máy móc còn tương đối mới, do đó thời hạn thu hồi vốn đầu tư giảm và khả năng thu hồi vốn được tăng cao rõ rệt. Đối với một số dự án thắng thầu có thời gian xây dựng dài, giá cả dự thầu hợp lý, doanh nghiệp đã tận dụng lợi thế để có thể đầu tư mua sắm từng bước các thiết bị có công nghệ tiên tiến hiện đại, tạo thế cho sự phát triển lâu dài, nhất là đối với một số dự án thi công cầu, đường, kè bờ sông… 2.3. Về mặt kinh tế xã hội. Hiệu quả tổng thể của hiệu quả đầu tư vào máy móc thi công được thể hiện ở: - Thực hiện thi công các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng với yêu cầu chất lượng kỹ thuật cao, đáp ứng được yêu cầu của chủ đầu tư và yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước. - Nâng cao giá trị sản lượng và doanh thu xây lắp của công ty, từ đó tạo tiền đề để công ty có thể nâng cao sức cạnh tranh và mở rộng các hoạt động đầu tư phát triển - Tạo công ăn việc làm ổn đinh, thường xuyên và lâu dài cho người lao động. Tạo ra một môi trường làm việc năng động, sáng tạo, phát huy được sức mạnh tổng thể của toàn bộ đội ngũ cán bộ công nhân viên trong toàn công ty. Nâng cao trình độ tay nghề của công nhân, trình độ kỹ thuật của các kỹ sư, các kiến trúc sư và của cán bộ quản lý thông qua các chương trình đạo tạo và đào tạo lại ở cả trong nước và quốc tế. Qua đó gián tiếp nâng cao chất lượng lao động của cán bộ công nhân viên của công ty nói riêng và của cả nước nói chung. - Tạo ra lợi nhuận cao, từ đó đảm bảo khả năng tái đầu tư và nâng cao sức cạnh tranh của công ty trên thị trường xây dựng. 42 III. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC LẬP VÀ QUẢN LÝ DỰ ÁN ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ THIẾT BỊ XÂY DỰNG. 1. Hệ thống tổ chức công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng của công ty. Trên cơ sở định hướng chiến lược, nhiệm vụ kế hoạch giao hàng năm, từ dự án của công ty, từ nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của công ty, giám đốc sử dụng các cơ quan chức năng của mình lập dự án đầu tư. Các công trường sản xuất, các đội sản xuất là đầu mối sử dụng thiết bị xây dựng được đầu tư. Nhóm chuyên viên kiêm nhiệm dự án là đơn vị cơ sở để đánh giá hiệu quả đầu tư, là đầu mối trực tiếp quản lý dự án, hoàn trả vốn vay. Trong những năm qua, hệ thống tổ chức này đã góp phần quan trọng giúp cho các doanh nghiệp xây dựng giao thông trong lĩnh vực lập và quản lý dự án đầu tư. Tuy nhiên, nó vẫn còn tồn tại khá nhiều bất cập gây ảnh hưởng đến chất lượng của công tác lập dự án cũng như hiệu quả của công tác quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ thiết bị xây dựng của công ty. Sơ đồ tổ chức quản lý dự án của công ty được thể hiện như sau: 43 Hệ thống tổ chức của Công ty về lập và quản l ý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng Sở GTCC - Hà Nội Tổng Giám đốc PGĐ phụ trách KT PGĐ phụ trách KD Kinh tế kế hoạc h Tổ chức hành chín h Kế toàn tài vụ Dự án đấu thầu Tư vấn đầu tư Các xưởn g thiết kế Thẩm định tư vấn giám sát Kỹ thuật công nghệ thi công Cơ giới vật tư Nhóm chuyên viên kiêm nhiệm dự án Các phòng chức năng Các đội sản xuất Công trường xây dựng 44 2. Thực trạng thực hiện trình tự, nội dung lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng Cả 3 giai đoạn: Chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành kết quả đầu tư đều đã được công ty quan tâm thực hiện đầy đủ. - Đối với giai đoạn chuẩn bị đầu tư : Đã thực hiện các bước quy định của quá trình lập dự án bao gồm nghiên cứu cơ hội đầu tư, nghiên cứu tiền khả thi, nghiên cứu khả thi và thẩm định dự án. Trong đó giai đoạn nghiên cứu cơ hội đầu tư được đặc biệt quan tâm qua việc nghiên cứu về tình hình cung cầu trên thị trường xây dựng. Tuy nhiên, cũng do ảnh hưởng của thị trường nên các kết quả trong giai đoạn này thường được lập trên cơ sở những định hướng chung nhất của công ty nhiều hơn là bám sát tình hình thực tiễn. Xét riêng về công tác lập báo cáo nghiên cứu khả thi, đối với các dự án dài hạn thường được thực hiện đầy đủ, ví dụ như dự án đầu tư vào thiết bị đóng cọc DJ2 vào năm 1999 với tổng mức vốn đầu tư là 2678 triệu đồng. Còn đối với các dự án đầu tư phục vụ trực tiếp cho một công trường cụ thể hoặc cho một dự án lớn đã thắng thâù thì thường xuất phát từ nhiệm vụ cấp bách để ra quyết định đầu tư, và trong một số trường hợp thường không tuân thủ các bước nhất là công tác thẩm định dự án. Do biến động của thị trường cung cấp vốn cho dự án đầu tư nên ngoài việc phụ thuộc vào mục tiêu đầu tư và thị trường xây dựng, trình tự đầu tư còn phụ thuộc vào sự biến động của việc huy động vốn, và nhiều khi còn phụ thuộc vào chính yêu cầu của nhà cung cấp vốn. Trong thực tiễn có trường hợp giai đoạn chuẩn bị đầu tư và giai đoạn thực hiện đầu tư được tiến hành song song với nhau. Thậm chí giai đoạn thực hiện đầu tư được thực hiện trước rồi hoàn tất các thủ tục về tình tự đầu tư 45 sau do yêu cầu của tiến độ thi công công trình. Điều này một mặt có thể đáp ứng được tiến độ thi công, nhưng mặt khác là do chỉ tính đến yêu cầu trước mắt nên sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp của các yếu tố sau khi kết thúc dự án. - Đối với giai đoạn thực hiện đầu tư: Việc tiến hành các thủ tục, các bước cũng còn nhiều yếu tố tác động. Đối với các dự án đã xác định được địa chỉ lắp đặt dựa trên hợp đồng xây lắp cụ thể, công việc tiếp nhận, xây dựng, lắp đặt các cơ sở bảo quản thường đựoc chuẩn bị trực tiếp nhằm phục vụ kịp thời cho việc thi công công trình, nhưng thông thường việc chuẩn bị tổ chức đào tạo thợ vận hành, chuyên môn kỹ thuật không kịp thời nên ảnh hưởng đến việc phát huy hiệu quả sử dụng máy của giai đoạn vận hành. Đối với các dự án đầu tư chưa xác định rõ địa điểm sử dụng máy mà chỉ nhằm làm tăng năng lực của thiết bị của doanh nghiệp và phục vụ cho các công trình mang tính ước đoán thì có điều kiện chuẩn bị về lực lượng công nhân kỹ thuật vận hành nhưng thường khó thực hiện các yếu tố đảm bảo. Trong giai đoạn này, công ty tuy có quan tâm đến hình thức đấu thầu thiết bị xây dựng, nhưng chủ yếu là vận dụng hình thức chào hàng cạnh tranh hoặc chỉ định thầu và nhằm vào việc hợp lý hoá thủ tục phục vụ cho vay vốn và công tác thanh tra kiểm tra của cơ quan chủ quản, cơ quan pháp luật là chính. - Đối với giai đoạn quản lý vận hành: 46 Tuy bản thân việc thực hiện đúng các trình tự trong giai đoạn này cũng rất quan trọng nhưng hầu hết các doanh nghiệp chưa xác định được một sơ đồ mạng về các bước thực hiện trên tất cả các lĩnh vực quản lý vận hành, từ việc quản lý thời gian, quản lý chất lượng, quản lý chi phí và các chương trình quản lý rủi ro. Thêm vào đó, việc đánh giá kiểm tra hiệu quả sử dụng trong trình tự quản lý dự án không được xem xét thường xuyên và đầy đủ. Kết luận: Về cơ bản, công ty đã quan tâm đến trình tự, nội dung lập và quản lý dự án đầu tư, thực hiện tương đối tốt đối với các dự án phục vụ trực tiếp cho các công trình xây dựng, các dự án đã thắng thầu. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại rất nhiều bất cập đối với các dự án đầu tư theo định hướng chiến lược. Các bước trong trình tự lập dự án đầu tư và các nội dung trong dự án đầu tư về cơ bản đã được đề cập đến nhưng chưa đầy đủ và chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng, ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư chung của toàn công ty. 3. Thực trạng phân tích tài chính dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng. Phân tích tài chính là một nội dung quan trọng trong công tác lập dự án. Nhận thức được việc này, công tác lập dự án của công ty cũng đã rất quan tâm việc tính toán các chỉ tiêu tài chính và thông qua đó để đánh giá tính khả thi của dự án. Để xem xét thực trạng của việc phân tích tài chính trong dự án đầu tư đổi mới công nghệ và máy xây dựng của công ty, ta xem xét cụ thể một dự án đầu tư vào dây chuyền rải bê tông cấp phối của Nhật Bản năm 2000. Dây chuyền này bao gồm: 47 Biểu4 : Những thiết bị chính được đầu tư trong dây chuyền . Tên máy Đơn vị tính Số lượng Đơn giá Thành tiền Máy rải bêtông cấp phối 1000đ 1 5.674.950 5.674.950 Trạm trộn cấp phối - 1 2.675.050 2.675.050 Máyrải hỗn hợp bêtông nhựa - 1 1.675.508 1.675.508 Máy khoan lấy lõi bê tông - 1 1.897.712 1.897.712 Máy ủi 108CV - 2 87. 800 175. 600 Thành tiền - 12.098.820 Nguồn: Dự án đầu tư dây chuyền rải bê tông cấp phối Nhật Bản năm 2000 Cơ sở để tính toán các chỉ tiêu Giá trị doanh thu: Với dây chuyền trang thiết bị trên, tính trên cơ sở sử dụng được 70% công suất thiết kế, đơn giá tính theo đơn giá khu vực Hà Nội (giá 393/KT – XD) vì công ty chủ yếu thi công các công trình trên địa bàn thành phố Hà Nội thì sản lượng thực hiện của dây chuyền một năm có thể đạt được như sau (tính khái toán các thành phần công việc chủ yếu của làm đường mới). 48 Biểu 5: Sản lượng thực hiện của dây chuyền rải bêtông cấp phối Nhật Bản thực hiện được trong một năm (70% công suất) Đơn vị tính: 1.000 đ Tên công việc ĐV Khối lượng Đơn giá Thành tiền Đào khuôn đường m3 9.251,7 40 370.068 Đắp nền lớp đáy kết cấu mặt đường m3 2700 60 162.000 Đắp cát hạt thô m3 9.251,7 55 508843.5 Làm đường thảm bêtông asphalt KCI m2 16.515 23 3.798.450 Làm đường thảm bêtông asphalt KCII m2 5.966 20 1.193.200 Làm đường thảm bêtông asphalt KCIII m2 15.602 185 2.886.370 Mặt đường mềm kết cấu loại 3 m2 1.760 185 325.600 Mặt đường cứng m2 2.100 170 357.000 Tổng giá trị doanh thu 9601531.5 Nguồn: Dự án đầu tư dây chuyền rải bê tông cấp phối Nhật Bản năm 2000 Cơ sở tính toán chi phí - Chi phí nguyên vật liệu: Tính theo khối lượng nguyên vật liệu thực tế trong một năm và theo bảng khối lượng dự kiến (biểu 5 ). Giá nguyên vật liệu lấy theo giá khu vực Hà Nội quý II năm 2000. - Chi phí nhân công: Theo định mức 58/BXD – VKT và các quy định chế độ lương, phụ cấp hiện hành. - Chi phí máy: Trên cơ sở giá ca máy 57/BXD – VKT trong đó  Khấu hao cơ bản: 20% giá trị trung bình năm  Khấu hao sửa chữa lớn, sửa chữa nhỏ: 6% giá trị trung bình một năm  Năng lượng, nhiên liệu theo định mức tiêu hao từng loại thiết bị, lấy theo khối lượng thi công thực tế (12% Tổng chi phí nguyên vật liệu ) - Chi phí quản lý doanh nghiệp: 66,5% chi phí nhân công - Thuế doanh thu 4% 49 - Lãi định mức 11% (theo tiêu chuẩn thi công đường) Biểu 6: Giá trị chi phí được tính toán cụ thể trong bảng sau: Đơn vị: 1000đ Tên công việc Đơn vị Khối lượng Đơn giá Thành tiền I. Chi phí vật liệu 3.124.180,4 Đất, cát tại công trường m3 18.000 42,00 756.000 Đá lớp cấp phối m3 5.800 186,00 1.078.800 Nhựa bitum kg 15.300 3,500 53.550 Đá lớp base m3 2.400 142,20 341.280 Bêtông cấp phối Tấn 1.220 298,70 364.414 Bột đá kg 11.720 21,00 246.120 Vật liệu khác % 10 2.840.164 284.016,4 II.Chi phí nhân công % 15 3.124.180,4 468.627,06 III. Chi phí máy 3.471.852,77 Khấu hao cơ bản % 20 11275480 2.255.096 Sửa chữa lớn, sửa chữa nhỏ % 6 11275480 676.528,8 Nhiên liệu % 12 3.124.180,4 374.901,65 Chi phí khác % 5 3306526.45 165.326,3 IV. Chi phí quản lý % 66,5 468.627,06 311.637 V. Thuế, lãi định mức % 11 7.376.297,23 811.392,7 VI. Tổng chi phí 8.187.689,93 Nguồn: Dự án đầu tư dây chuyền rải bê tông cấp phối Nhật Bản năm 2000 Các nội dung được đề cập đến trong dự án bao gồm - Tổng mức đầu tư (1000Đ) + Giá mua dây chuyền thiết bị: 12.098.820 + Chi phí lắp đặt: 26.660 + Chi phí lập và thẩm định dự án: 52.700 50 + Giá trị còn lại: 850.000 - Cơ cấu vốn đầu tư + Vốn tự có (trích từ quỹ đầu tư phát triển) 79.360 + Vốn vay: 12.098.820 - Vốn vay tín dụng ưu đãi với lãi suất 7.8%/năm - Thời gian vay: 5 năm (thời hạn ân hạn 1 năm) - Nguồn vốn để trả vốn vay ngân hàng hàng năm được lấy từ  Quỹ khấu hao hàng năm ( khấu hao đều 5 năm )  Lợi nhuận sau thuế vốn - Tỷ suất chiết khấu r  Nguồn vốn vay ngân hàng: 7.8%  Nguồn vốn tự có: 10% Tỷ suất chiết khấu r = (0,078*12.098.820)+ (0.1* 79.360) = 0.078 12.098.820 + 79.360 51 52 53 KẾT LUẬN Những kết quả đạt được - Dự án đã cho thấy tính cấp thiết phải thực hiện đầu tư, mục tiêu của dự án hoàn toàn phù hợp với mục tiêu chung của ngành và của doanh nghiệp xây dựng. - Các chỉ tiêu được tính toán rất chi tiết và cụ thể, thể hiện sự hợp lý trong việc phân tích các chỉ tiêu tài chính. - Quy trình phân tích tài chính được thực hiện theo đúng các bước đã đề ra, một số các chỉ tiêu cơ bản và chủ yếu của quá trình phân tích taì chính dự án đều được tính toán đầy đủ như xác định quy mô đầu tư, dự tính tổng vốn đầu tư, cơ cấu nguồn vốn đầu tư… - Chi phí và doanh thu của dự án được tính toán dựa trên cơ sở công suất kinh doanh an toàn của dự án nên tương đối chính xác, giúp cho quá trình thực hiện đầu tư được tiến hành có hiệu quả. - Dự án đã quan tâm đầy đủ đến các chỉ tiêu hiệu quả cơ bản và quan trọng nhất như NPV, NFV, IRR, thời gian hoàn vốn. Những chỉ tiêu này được tính dựa trên sự tuân thủ tương đối nghiêm ngặt các yêu cầu của việc phân tích, qua đó có thể xem xét tình hình, kết quả và hiệu quả hoạt động của dự án trên góc độ hạch toán kinh tế của công ty. Kết quả của quá trình phân tích này sẽ được lấy làm căn cứ cho quyết định có nên đầu tư vào dự án hay không. Những hạn chế còn tồn tại - Các yếu tố như doanh thu, chi phí nguyên vật liệu, tiền lương công nhân sản xuất trực tiếp chỉ là những ước tính chủ quan của người lập dự án mà chưa xét đến những biến động thực tế có thể phát sinh làm ảnh hưởng đến những chỉ tiêu hiệu quả đang xét. Có thể lấy ví dụ như chi phí nguyên vật liệu được ước tính dựa theo đơn giá của Hà Nội tại thời điểm lập dự án. Nhưng đơn giá này thường xuyên được Nhà nước điều chỉnh theo từng thời kỳ cho phù hợp với sự biến động của thị trường và thường có xu hướng tăng lên. Vì thế việc tính toán chi phí cho cả đời dự án với cùng một mức đơn giá như vậy là không hợp lý. - Tỷ lệ khấu hao được tính toán là 20% (5 năm hoàn vốn) là phù hợp với các thông tư, hướng dẫn của Bộ tài chính về khấu hao thiết bị xây dựng 54 trong từng giai đoạn cho từng loại thiết bị. Nhưng trên thực tế, qua tổng kết các năm thì hầu như rất ít khi công ty có thể đạt được tỷ lệ này. Nhất là trong điều kiện thị trường xây dựng cạnh tranh nhau ngày càng găy gắt như hiện nay, công ty muốn thắng thầu thường phải giảm giá dự thầu xuống rất thấp, vì thế tỷ lệ khấu hao 20% chỉ là lý thuyết mà không được thực hiện. Biểu 9: Tỷ lệ khấu hao thực tế bình quân của Công ty qua các năm Năm ĐV 1997 1998 1999 2000 2001 Tỷ lệ khấu hao % 13,5 14,7 11,4 11,6 10,8 Nguồn: Báo cáo tổng kết của Công ty Tư vấn Đầu tư và Xây dựng GTCC qua các năm - Chỉ tiêu lãi định mức được tính toán là 11% theo tiêu chuẩn thi công đường của Bộ tài chính ban hành. Nhưng cũng tương tự như cách tính khấu hao ở trên, chỉ tiêu này thường phải giảm xuống thấp hơn nhiều so với thực tế tính toán của dự án do yêu cầu cạnh tranh giảm giá dự thầu. Thậm chí có những gói thầu công ty phải giảm chỉ tiêu lãi định mức xuống 0% để giành được công trình bảo đảm cho việc sản xuất được liên tục. Biểu 10: Lợi nhuận thuần bình quân của công ty qua các năm Năm ĐV 1997 1998 1999 2000 2001 Tỷ lệ lợi nhuận thuần bình quân % 3,5 3,2 3,8 4,1 4,0 Nguồn: Báo cáo tổng kết của Công ty Tư vấn Đầu tư và Xây dựng GTCC qua các năm - Một số chỉ tiêu quan trọng khác như chỉ tiêu B/C, điểm hoà vốn…chưa được dự án quan tâm tính toán mà mới chỉ tập trung tính toán vào các chỉ tiêu NPV, NFV, IRR và thời hạn thu hồi vốn. - Lãi suất huy động vốn tự có của công ty thường được xác định theo cảm tính của người lập dự án, chưa nêu ra một cách khoa học việc tính toán là dựa trên những cơ sở nào. Vì vậy, lãi suất vốn tự có thường được ước tính là 10% là chưa hợp lý và chưa có căn cứ chính xác. Tuy nhiên, khi sử dụng vốn tự có để đầu tư thì lãi suất được tính phải bao gồm cả tỷ lệ lạm phát và 55 chi phí cơ hội. Thông thường, mức chi phí cơ hội được xác định dựa vào tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế hoặc của chủ đầu tư trong kinh doanh trước khi đầu tư, r vốn tự có phải được xác định như sau: r (%) = (1 + f)*( 1 + rcơ hội) – 1 Trong đó f: Tỷ lệ lạm phát rcơ hội: Chi phí cơ hội - Trong hầu hết các dự án, các chỉ tiêu đánh giá tiềm lực tài chính của doanh nghiệp chưa được tính toán nên chưa thấy được tình hình tài chính của doanh nghiệp. Vốn đầu tư đổi mới công nghệ và máy móc thiết bị xây dựng của doanh nghiệp chủ yếu là vốn đi vay, do đó cần phải tính toán đến chỉ tiêu này để thấy được khả năng tài chính thực tế của doanh nghiệp, đồng thời đây cũng là một chỉ tiêu có tác dụng quan trọng đối với các tổ chức cho vay vốn. 4. Thực trạng công tác quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng Công tác quản lý dự án đầu tư tại công ty thực tế giao cho các đội sản xuất trực tiếp quản lý và sử dụng. Đây cũng chính là các đầu mối đánh giá hiệu quả công tác quản lý dự án. 4.1. Quản lý thời gian: Các dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị thi công thường được chia làm 2 giai đoạn: + Giai đoạn thứ nhất là quản lý từ khi chuẩn bị thực hiện dự án cho đến khi kết thúc giai đoạn thực hiện đầu tư, tức là việc mua sắm lắp đặt máy móc thiết bị và quy trình chuyển giao công nghệ đã hoàn thành. + Giai đoạn thứ hai là giai đoạn vận hành kết quả đầu tư, được tính từ khi máy móc thiết bị được đưa vào hoạt động cho đến khi kết thúc dự án, thông thường là sau khi đã hoàn đủ vốn đầu tư hoặc là đến khi máy móc thiết bị đã được khấu hao xong toàn bộ. Nhìn chung công ty đã chú trọng đến việc quản lý thời gian nhằm kéo dài tuổi thọ và nâng cao hệ số sử dụng thiết bị. Tuy nhiên, do tác động của môi 56 trường xây dựng và do trình độ, năng lực công tác quản lý nên việc quản lý thời gian trong giai đoạn vận hành kết quả đầu tư còn nhiều hạn chế. 4.2. Quản lý chi phí mua sắm máy móc thiết bị. Quản lý chi phí của dự án là nội dung quản lý rất quan trọng trong công tác quản lý dự án của công ty vì trong quản lý giá phải đảm bảo thực hiện đúng quy định của Nhà nước với một mức giá hợp lý, chống lãng phí, thực hành tiết kiệm, lại vừa phải đảm bảo lợi ích cho các nhà đầu tư vốn. Đây cũng là một yếu tố phát sinh nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả hoạt động đầu tư. Do từ năm 1996 trở lại đây, phần lớn các thiết bị công ty mua là thiết bị đã qua sử dụng nên việc xác đinh giá trị còn lại gặp nhiều khó khăn do trình độ am hiểu về máy móc trên thị trường xây dựng của công ty hãy còn hạn chế. Mặc dù Nhà nước đã quy định việc mua sắm máy móc xây dựng phải là những thiết bị được sản xuất từ năm 1990 trở lại đây, có chất lượng không nhỏ hơn 75% và giá trị chỉ bằng khoảng 50 – 60% so với thiết bị mới cùng loại, nhưng trên thực tế có nhiều loại thiết bị công ty vẫn mua với mức giá vượt tỷ lệ này. Bên cạnh đó còn một loạt các nguyên nhân khác cũng làm cho chi phí của hoạt động đầu tư mua sắm máy móc thiết bị và đổi mới công nghệ xây dựng tăng như chi phí tăng do quản lý không tốt lao động, nguyên vật liệu, sửa chữa…hay do lãi suất vốn vay không hợp lý. Trong giai đoạn vận hành, các yếu tố chính ảnh hưởng đến quản lý chi phí dự án đầu tư đổi mới công nghệ và máy xây dựng được ước tính theo tỷ lệ sau : Biểu 11: Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý chi phí của dự án đầu tư mua sắm thiết bị xây dựng Các nhân tố ảnh hưởng Đơn vị Mức độ ảnh hưởng Do không có thị trường xây dựng % 55 Quản lý không tốt các yếu tố đầu vào - 21 Quản lý điều hành thiết bị - 12 57 Lãi suất vốn vay không hợp lý - 4 Các yếu tố khác - 8 Nguồn: Báo cáo tổng kết của công ty Tư vấn đầu tư và xây dựng GTCC Hà Nội 58 Đồ thị biểu diễn tỷ lệ các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý chi phí trong các dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng tại công ty nhan to nhan to 2 nhan to 3 nhan to nhan to Nhân tố 1: Do không có thị trường xây dựng Nhân tố 2: Quản lý không tốt các yếu tố đầu vào ( lao động, nguyên vật liệu…) Nhân tố 3: Quản lý điều hành thiết bị Nhân tố 4: Lãi suất vốn vay không hợp lý Nhân tố 5: Các yếu tố khác 4.3. Quản lý chất lượng: Quản lý chất lượng của công ty được thực hiện theo mô hình sau: 59 Mô hình quản lý chất lượng máy móc thiết bị đầu tư của công ty tư cấn đầu tư và xây dựng GTCC – Hà Nội Về thủ tục quản lý chất lượng: Tùy theo yêu cầu kỹ thuật của từng dự án đầu tư, công ty phải tổ chức đấu thầu hoặc chỉ định thầu các nhà cung cấp máy móc thiết bị, trong đó các hợp đồng cung cấp thiết bị phải có điều khoản đảm bảo về chất lượng của các thiết bị được đầu tư. Trước khi chính thức ký kết hợp đồng cung cấp thiết bị, các chuyên gia quản lý dự án phải thực hiện đầy đủ các thủ tục về thẩm định và xét duyệt các máy móc và công nghệ được đầu tư theo đúng yêu cầu kỹ thuật của từng loại máy móc và công nghệ cụ thể. Trong quá trình lắp đặt máy móc thiết bị, các chuyên gia quản lý dự án phải thực hiện giám sát kỹ thuật theo đúng hợp đồng đã ký kết, kịp thời tổ chức nghiệm thu chất lượng của các loại máy móc thiết bị đó. Công ty có quyền yêu cầu đơn vị cung cấp giải trình về mặt chất lượng và kỹ thuật các thiết bị do họ cung cấp. Nếu thiết bị nào không đạt chất lượng so với các tiêu Tổng giám đốc Bộ phận Q Phòng TN trung tâm Trạm TN hiện trường Công trường Chuyên gia QCLL Đội sản xuất Lái, thợ vận hành 60 chuẩn kỹ thuật hoặc không phù hợp với các điều khoản về chất lượng được ký kết trong hợp đồng, công ty có quyền yêu cầu từ chối nghiệm thu. Về việc quản lý bảo hành các thiết bị được đầu tư: Việc bảo hành các thiết bị được đầu tư nhằm bảo vệ lợi ích của chính công ty, đồng thời xác định trách nhiệm của đơn vị cung cấp máy móc thiết bị trước công ty và trước pháp luật. Đơn vị cung cấp có trách nhiệm và nghĩa vụ sửa chữa các hư hỏng do lỗi kỹ thuật gây ra trong thời gian bảo hành. Việc bảo hành chất lượng công trình là một việc làm bắt buộc đối với tất cả các hợp đồng cung cấp thiết bị và cần phải được làm rõ trước khi ký kết hợp đồng chính thức. Tuy đã quan tâm đến hoạt động quản lý chất lượng nhưng trên thực tế đầu mối quản lý chất lượng lại chính là các đội sản xuất. Công tác kiểm soát chất lượng tuy có được đề ra nhưng không được triển khai và thực hiện triệt để. Chính thực tế này đã cho thấy sự gắn kết lỏng lẻo giữa các bộ phận giám sát chất lượng, nghiệm thu, kiểm định và các đội sản xuất. Các bộ phận này thường chưa thực hiện đầy đủ nhiệm vụ của mình, thiếu thái độ hợp tác tích cực giữa các bên tham gia…đã làm cho chất lượng của máy móc thiết bị trong quá trình sử dụng bị giảm đi đáng kể. Việc quản lý chất lượng theo các tiêu chuẩn bảo dưỡng, bảo quản, đại tu và kiểm tra định kỳ cũng không được giám sát đầy đủ, do đó làm giảm chất lượng của thiết bị và đôi khi còn làm giảm tuổi thọ của máy móc thiết bị được đầu tư. Tuy nhiên, trong những năm qua, hệ số kỹ thuật sử dụng thiết bị của công ty cũng đã tăng lên, đáp ứng được nhu cầu sản xuất và xây dựng ngày một cao của thị trường. 61 Biểu 12: Hệ số kỹ thuật sử dụng thiết bị bình quân của công ty qua các năm Năm Đơn vị 1997 1998 1999 2000 2001 2002 HS SD thiết bị % 60.4 62.3 65.8 72.8 70.4 74.1 Nguồn: Báo cáo tổng kết của công ty qua các năm 4.4. Quản lý hoạt động mua sắm thiết bị: Thực tiễn hoạt động mua sắm thiết bị của công ty được thực hiện qua các hình thức chủ yếu là đấu thầu, chỉ định thầu hoặc chào hàng cạnh tranh. Cụ thể tình hình mua sắm máy móc thiết bị công nghệ từ năm 1993 được thể hiện qua bảng sau: Biểu 13: Hoạt động mua sắm máy móc thiết bị của công ty qua các hình thức khác nhau: Năm ĐV 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Vốn ĐT Tỷ đ 7.5 6.4 10.8 18.4 12.8 10.1 Đấu thầu Tỷ đ 2.5 1.7 2.85 4.34 6.67 5.21 Tỷ lệ % 33.33 26.56 26.39 23.59 52.11 51.59 Chỉ định thầu Tỷ đ 3.61 4.22 4.62 12.4 4.25 3.11 Tỷ lệ % 48.13 65.93 42.78 67.39 33.20 30.8 Chào hàng cạnh tranh Tỷ đ 1.39 0.48 3.33 1.66 1.88 1.78 Tỷ lệ % 18..53 7.5 30.08 9.02 14.69 17.62 Nguồn: Tổng hợp từ tài liệu của công ty Tư vấn đầu tư và xây dựng GTCC – Hà Nội Như vậy nhìn chung hoạt động đấu thầu mua sắm máy móc thiết bị đã có xu hướng tăng dần tỷ lệ đấu thầu, giảm dần tỷ lệ chỉ định thầu. Việc thực hiện mua sắm máy móc thiết bị thông qua hình thức đấu thầu đã tiết kiệm được cho công ty một lượng vốn khá lớn, đặc biệt là những dự án đầu tư vào các loại máy móc thiết bị công nghệ tiên tiến trên thế giới. Trong quá trình quản lý dự án, các chuyên gia quản lý dự án sẽ phải tiến hành tuyển chọn các nhà thầu có đủ tư cách để tham gia đấu thầu hoặc trực tiếp chỉ định thầu. Chỉ có những nhà thầu đủ năng lực, có thể đáp ứng được 62 yêu cầu chất lượng kỹ thuật mới được chọn để ký kết hợp đồng cung cấp các loại máy móc thiết bị. Những yêu cầu đó là: + Các đơn vị cung cấp phải có tư cách pháp nhân, có giấy đăng ký kinh doanh. Đối với đấu thầu mua sắm các loại máy móc thiết bị công nghệ cao, ngoài giấy phép đăng ký kinh doanh, phải có giấy phép bán hàng thuộc thẩm quyền của nhà sản xuất. + Đơn vị cung cấp thiết bị phải cung cấp những loại thiết bị theo đúng yêu cầu đã được ký kết trong hợp đồng và phải chịu sự kiểm tra, giám sát của các chuyên gia quản lý dự án và của cơ quan giám định của Nhà nước về chất lượng máy móc công nghiệp. + Đơn vị cung cấp thiết bị phải có hệ thống tổ chức đảm bảo chất lượng các máy móc thiết bị cung cấp trong quá trình các máy móc thiết bị vận hành sản xuất. 4.5. Quản lý rủi ro Do thông tin kém chất lượng kéo theo sự thiếu chính xác của các yếu tố trong lập và quản lý dự án nên thường gây ra rất nhiều rủi ro trong quản lý hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị thi công xây dựng. Yếu tố rủi ro nhất đối với quyết điịnh đầu tư mua sắm máy móc thiết bị là thị trường công việc xây dựng cơ sở hạ tầng cạnh tranh nhau quá gay gắt. Tất cả các doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng đều phải cạnh tranh trên một thị trường có quy mô hãy còn khá khiêm tốn và tốc độ phát triển không cao, vì vậy tình trạng thiếu thị trường công việc cho công ty thường xuyên xảy ra. Hơn nữa, khi thực hiện những dự án lớn, công ty thường chỉ là nhà thầu phụ từng phần cho các nhà của nước ngoài, vì vậy giá bỏ thầu của công ty phải rất thấp để đảm bảo được hoạt động sản xuất liên tục của mình. Từ đó tất yếu dẫn đến việc các máy móc thiết bị buộc phải giảm mức khấu hao xuống thấp nhất, thậm chí không có khấu hao và hậu quả là công ty không thể đảm bảo được tiến độ hoàn vốn cho các dự án. Ngoài ra còn phải kể đến hàng loạt các yếu tố khác khi quyết định đầu tư mua sắm máy móc thiết bị xây dựng như rủi ro về công nghệ thiết bị, rủi ro về lạm phát,trượt giá…cũng có ảnh hưởng không nhỏ. 63 IV. MỘT SỐ NHỮNG TỒN TẠI CHỦ YẾU TRONG CÔNG TÁC LẬP VÀ QUẢN LÝ DỰ ÁN ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ VÀ THIẾT BỊ XÂY DỰNG. 1. Chất lượng của công tác lập và quản lý dự án còn thấp Lập dự án đầu tư mua sắm thiết bị thi công trong doanh nghiệp xây dựng có đặc thù riêng do tác động của các đặc điểm thuộc ngành xây dựng. Qua quá trình phân tích công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng tại công ty có thể rút ra một số hạn chế cơ bản sau: Thứ nhất công ty chưa tuân theo đúng các yêu cầu quy định trong trình tự lập dự án đầu tư, đặc biệt là đối với những dự án phục vụ cho một công trình cụ thể. Trong thực tiễn có khi giai đoạn chuẩn bị đầu tư và giai đoạn thực hiện đầu tư được làm gối lên nhau. Điều này một mặt đảm bảo kịp thời tiến độ thi công nhưng nó sẽ ảnh hưởng đến công tác vận hành và quản lý dự án sau này. Thứ hai là các nội dung của dự án đầu tư chưa được thực hiện đầy đủ, chưa tuân theo các yêu cầu về nội dung của một dự án được quy định tại các Nghị định của Chính phủ trong từng thời kỳ mà gần đây nhất là Nghị định 52/NĐCP về quy chế quản lý đầu tư và xây dựng. Thứ ba là chất lượng của việc tính toán các chỉ tiêu hiệu quả trong phân tích tài chính dự án đầu tư còn nhiều hạn chế, các tính toán chủ yếu mang tính ước lượng chủ quan mà chưa dựa vào những biến động thực tế của thị trường cũng như thực tế của hoạt động sản xuất của công ty. Các chỉ tiêu hiệu quả mới chỉ dừng lại ở việc tính toán các chỉ tiêu NPV, NFV, IRR và thời hạn thu hồi vốn nhằm hợp lý hoá các thủ tục vay vốn ngân hàng mà chưa tính đến những chỉ tiêu hiệu quả quan trọng khác. Bên cạnh đó, tính khả thi về tài chính của dự án mới chỉ được đánh giá thông chỉ qua các chỉ tiêu phản ánh mặt tài chính mà chưa được thể hiện thông qua việc xem xét độ an toàn về tài chính như: An toàn về nguồn 64 vốn, an toàn về khả năng thanh toán nghĩa vụ tài chính ngắn hạn và khả năng trả nợ, độ nhạy của dự án. Những chỉ tiêu an toàn về tài chính này rất quan trọng, đặc biệt là trong điều kiện thị trường xây dựng biến động liên tục như hiện nay thì việc xem xét chúng là rất cần thiết. Các dự án cũng chưa xem xét đến tỷ lệ trượt giá và tỷ lệ lạm phát. Lạm phát là sự giảm sức mua của đồng tiền nói chung. Còn trượt giá là sự tăng hay giảm giá của một mặt hàng nhất định. Trượt giá và lạm phát là yếu tố khách quan tác động đến các khoản thu chi và mức lãi suất thực tế của dự án. Bởi vậy, để đánh giá đúng hiệu quả tài chính của dự án trong bối cảnh nền kinh tế nước ta thì cần phải xét đến tác động này. Doanh thu và chi phí của các dự án tại công ty hầu hết đều được giữ nguyên trong suốt cả đời dự án là chưa được hợp lý vì nó chưa phản ánh trung thực những biến động về giá cả có thể xảy ra trên thị trường trong suốt những năm dự án vận hành sản xuất. Thứ tư công tác quản lý dự án chủ yếu được thực hiện bởi các đội sản xuất ngay tại công trường chứ chưa có một bộ phận riêng biệt đảm bảo theo dõi công tác này. Chính vì vậy mà quá trình quản lý dự án, đặc biệt là quản lý trong giai đoạn vận hành thường không nghiêm túc, chặt chẽ, các yêu cầu về bảo hành bảo dưỡng máy móc thiết bị thường bị bỏ qua. Về mặt nội dung, mặc dù các dự án có chia theo từng lĩnh vực quản lý cụ thể như quản lý thời gian, quản lý chất lượng, quản lý chi phí, quản lý rủi ro nhưng trên thực tế không có sự quản lý rõ ràng đối với từng lĩnh vực. Công tác quản lý do đó chỉ mang nhiều tính chất hình thức mà chưa phát huy được tác dụng một cách rõ ràng. 2. Công tác quản lý dự án chưa theo sát công tác lập dự án Do đặc điểm của ngành xây dựng trong một thời kỳ có thể cùng lúc thực hiện nhiều công trình khác nhau nên nhìn chung hoạt động quản lý dự án 65 đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị thi công ở khâu vận hành rất phức tạp. Công tác quản lý dự án đầu tư chỉ phụ thuộc vào yêu cầu thi công tại công trường chứ ít khi được quản lý theo từng nội dung cụ thể. Ngược lại, các dự án được lập cũng chủ yếu dựa vào yêu cầu thi công hoặc mục tiêu phát triển chiến lược của công ty chứ không dựa vào cơ sở thực tiễn quản lý dự án của những năm trước. Thêm vào đó, công tác quản lý dự án chủ yếu do các đội sản xuất tại công trường đảm nhiệm. Bộ phận này lại hoàn toàn độc lập với nhóm chuyên viên kiêm nhiệm lập dự án. Vì vậy mà công tác lập và quản lý dự án tại công ty hoàn toàn không được thông nhất với nhau cả về mặt nội dung và trình tự. Công tác lập dự án chưa tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý, và ngược lại, công tác quản lý dự án cũng chưa thống nhất về trình tự và nội dung để có những điều chỉnh trong khâu lập cho thích hợp. 3. Chưa áp dụng hình thức đấu thầu trong mua sắm thiết bị xây dựng Theo quy chế Đấu thầu, đối với những gói thầu mua sắm trị giá trên 2 tỷ đồng phải thực hiện đấu thầu. Nhưng trên thực tế, quy định này thường bị bỏ qua. Công ty thường không tổ chức đấu thầu theo quy định mà thường sử dụng hình thức chỉ định thầu hoặc chào hàng cạnh tranh trên cơ sở các mối quan hệ. Một số dự án có sử dụng biện pháp đấu thầu cạnh tranh hạn chế, nhưng thực chất cũng chỉ là chỉ định thầu do các nhà thầu liên kết với nhau nhằm đảm bảo cho việc thanh tra kiểm tra của các cơ quan pháp luật. Nội dung và quy trình chấm thầu của công ty cũng thiếu chuyên nghiệp. Do năng lực tài chính còn hạn chế nên công ty hầu như chỉ quan tâm đến yếu tố giá cả, còn các yếu tố về chất lượng công nghệ thường mơ hồ, thiếu những tiêu chuẩn chặt chẽ, các chế độ bảo hành bảo trì cũng không được quan tâm nhiều. Điều này là đặc biệt nguy hiểm đối với những thiết bị đã qua sử dụng. 66 4. Bộ máy lập và quản lý dự án chưa có tính chuyên nghiệp Công ty chưa có một tổ chức chuyên nghiệp để lập và quản lý dự án mà vẫn chỉ sử dụng các chuyên gia, các cán bộ kỹ thuật ở các phòng ban chức năng khác nhau tham gia lập và quản lý dự án đầu tư. Chính vì vậy mà công tác lập và quản lý dự án tại công ty không có trách nhiệm rõ ràng, không có một đầu mối để quản lý chung. Hơn nữa, chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ của các chuyên gia, các phòng chức năng không thống nhất, đôi khi còn mâu thuẫn làm cho việc lập dự án chồng chéo thiếu nhịp nhàng. Thêm vào đó, năng lực của các cán bộ lập và quản lý dự án còn hạn chế cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của công tác này. V. MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG CỦA CÔNG TÁC LẬP VÀ QUẢN LÝ DỰ ÁN ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ THIẾT BỊ XÂY DỰNG 1. Nguyên nhân từ thị trường công việc. Thị trường công việc chính là yếu tố cơ bản nhất, quyết định nhất đến hiệu quả đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị thi công của công ty. Nó tác động đến hiệu quả trên hai khía cạnh là: - Doanh thu - Lợi nhuận và thời gian hoàn vốn đầu tư Thông thường, khi lập dự án đầu tư mua sắm thiết bị xây dựng, công ty tuy đã tính toán đến yếu tố này nhưng diễn biến thực tế của thị trường rất phức tạp. Khi tính toán chỉ tiêu doanh thu hàng năm của máy móc thiết bị và công nghệ được đầu tư, công ty thường dựa vào năng suất bình quân của thiết bị, hệ số kỹ thuật của máy và những dự đoán chung nhất về hệ số sử dụng thiết bị. Nhưng thực tế lại không diễn ra như vậy. Đối với những dự án đầu tư vào công nghệ thiết bị cho một công trình cụ thể có thời gian xây dựng dài ( khoảng trên 50% thời gian hoàn vốn của dự án) thì các chỉ tiêu về hệ số sử dụng thiết bị có thể bảo đảm được. Còn đối với những dự án đầu tư vào thiết bị đặc chủng được lập theo mục tiêu chiến lược và kế 67 hoạch kinh doanh của doanh nghiệp thì hệ số sử dụng thiết bị ước tính có thể khác rất xa so với thực tế. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt trên thị trường xây dựng cơ sở hạ tầng như hiện nay, muốn thắng thầu công ty phải giảm xuống mức thấp

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỦ YẾU NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC LẬP VÀ QUẢN LÝ DỰ ÁN ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ VÀ THIẾT BỊ XÂY DỰNG TRONG THỜI GIAN TỚI.pdf
Tài liệu liên quan