Luận văn Mối quan hệ giữa văn hoá và du lịch trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay

Tài liệu Luận văn Mối quan hệ giữa văn hoá và du lịch trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay: LUẬN VĂN: Mối quan hệ giữa văn hoá và du lịch trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với những thành tựu của công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, du lịch Việt Nam trong những năm gần đây đã có bước tiến mạnh mẽ. Năm 2004 số lượng khách quốc tế đến nước ta đã đạt con số trên ba triệu lượt người, khách du lịch nội địa cũng tăng nhanh. Thực tế này đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ cho sự phát triển văn hoá và mối quan hệ giữa văn hoá và du lịch. Giữa văn hoá và du lịch từ lâu đã có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ. Văn hoá, bản sắc văn hoá dân tộc là nguồn lực cho hoạt động du lịch. Và du lịch là một hình thức của hoạt động giao lưu văn hoá ngày càng được đẩy mạnh hiện nay. Du lịch là cầu nối giữa các bộ phận dân cư thuộc các nền văn hoá khác nhau trên thế giới, đồng thời tạo lập mối quan hệ trong cuộc sống giữa quá khứ hiện tại và tương lai của mỗi dân tộc. Với việc tìm hiểu, nghiên cứu đề tài: "Mối quan hệ giữa văn hoá...

pdf92 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1331 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Mối quan hệ giữa văn hoá và du lịch trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Mối quan hệ giữa văn hoá và du lịch trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với những thành tựu của công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, du lịch Việt Nam trong những năm gần đây đã có bước tiến mạnh mẽ. Năm 2004 số lượng khách quốc tế đến nước ta đã đạt con số trên ba triệu lượt người, khách du lịch nội địa cũng tăng nhanh. Thực tế này đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ cho sự phát triển văn hoá và mối quan hệ giữa văn hoá và du lịch. Giữa văn hoá và du lịch từ lâu đã có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ. Văn hoá, bản sắc văn hoá dân tộc là nguồn lực cho hoạt động du lịch. Và du lịch là một hình thức của hoạt động giao lưu văn hoá ngày càng được đẩy mạnh hiện nay. Du lịch là cầu nối giữa các bộ phận dân cư thuộc các nền văn hoá khác nhau trên thế giới, đồng thời tạo lập mối quan hệ trong cuộc sống giữa quá khứ hiện tại và tương lai của mỗi dân tộc. Với việc tìm hiểu, nghiên cứu đề tài: "Mối quan hệ giữa văn hoá và du lịch trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay" (qua khảo sát thực tế trên địa bàn Hà Nội), chúng tôi sẽ có điều kiện nhận diện rõ hơn các phương diện lý luận về mối quan hệ giữa văn hoá và du lịch, về thực tiễn vấn đề phát triển du lịch dựa trên nền tảng kế thừa và phát huy di sản và bản sắc văn hoá Thăng Long - Hà Nội - mảnh đất ngàn năm văn hiến. Đề tài sẽ góp phần đánh giá thực trạng mối quan hệ giữa hoạt động văn hoá và du lịch (và ngược lại) ở Thủ đô và đề xuất những biện pháp nhằm giải quyết tốt mối quan hệ này. Đây là vấn đề vừa có ý nghĩa lý luận cơ bản, vừa có ý nghĩa thực tiễn cấp bách góp phần vào việc xây dựng và phát triển Hà Nội “thành phố vì hoà bình”, “Thủ đô anh hùng", xây dựng con người Hà Nội văn minh, thanh lịch, hiện đại, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề phát triển văn hoá và du lịch trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay đã được một số nhà nghiên cứu văn hoá và du lịch đề cập. Đã có những cuộc hội thảo, những công trình chuyên ngành đề cập đến vai trò văn hoá đối với phát triển kinh tế- xã hội nói chung, văn hoá đối với phát triển du lịch nói riêng trên phạm vi cả nước và ở Hà Nội. Về di sản văn hoá Thăng Long - Hà Nội, có thể kể tới các công trình nghiên cứu tiêu biểu như: - “Thăng Long - Hà Nội” của Tiến sĩ Lưu Minh Trị và Nhà nghiên cứu, Nhà báo Hoàng Tùng chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995. - “Hà Nội nghìn xưa” của Giáo sư Trần Quốc Vượng và nhà nghiên cứu Vũ Tuấn Sán, Nxb Hà Nội, 1998. - “ Văn hiến Thăng Long”của Giáo sư Vũ Khiêu và nhà nghiên cứu Nguyễn Vinh Phúc chủ biên, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, 2000. - “ Văn hoá Thăng Long - Hà Nội hội tụ và toả sáng” của Giáo sư Trần Văn Bính chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003. Các công trình nói trên đã hệ thống, khái quát hoá các giá trị văn hoá, các di sản văn hoá tiêu biểu của Thăng Long- Hà Nội- nguồn lực to lớn cho phát triển du lịch ở Thủ đô Hà Nội. Về hoạt động du lịch ở Hà Nội có thể kể tới các công trình sau: - “Hà Nội trung tâm du lịch của Việt Nam”của Giáo sư Trần Quốc Vượng và nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Thường, Nguyễn Vinh Phúc, Nxb Thế giới, Hà Nội, 1996. - “Những giải pháp chủ yếu để phát triển du lịch trên địa bàn Hà Nội", Luận án Tiến sĩ của Bùi Thị Nga, Hà Nội,1996. - “Du lịch Hà Nội hướng tới 1000 năm Thăng Long” của Nhà nghiên cứu Nguyễn Vinh Phúc, Nxb Hà Nội, 2000. - “Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Thủ đô" của Tiến sĩ Nguyễn Quang Lân, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 2/2005. Các công trình nói trên đã phân tích thực trạng hoạt động du lịch ở Hà Nội trong thời gian qua và đề xuất các phương hướng, giải pháp cho phát triển du lịch ở Thủ đô trong thời gian tới. Về mối quan hệ giữa văn hoá và du lịch có các công trình tiêu biểu: - “Du lịch và vấn đề giữ gìn văn hoá dân tộc ở Hà Nội” của Phó Giáo sư- Tiến sĩ Lê Hồng Lý, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, Số 2/2000. - “Quan hệ du lịch - văn hoá và triển vọng ngành du lịch Việt Nam” của Thạc sĩ Ngô Kim Anh, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, Số 2/2000. - “Về hiệu quả kinh tế - xã hội của văn hoá qua hoạt động du lịch” của Tiến sĩ Trần Nhoãn, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, Số 4/2002. - “Suy nghĩ về giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong hoạt động du lịch" của nhà nghiên cứu Huỳnh Thị Mỹ Đức, Tạp chí Khoa học xã hội, Số 6/2002. Các tác giả đã ít nhiều đề cập tới mối quan hệ giữa văn hoá và du lịch, phát triển du lịch gắn với phát triển văn hoá ở nước ta nói chung, ở Hà Nội nói riêng. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu một cách hệ thống về mối quan hệ giữa văn hoá và du lịch trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay (qua khảo sát thực tế trên địa bàn Hà Nội). 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Mục đích của luận văn là nhằm phát huy vai trò của văn hoá đối với sự phát triển du lịch trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay (qua khảo sát thực tế trên địa bàn Hà Nội). Để thực hiện mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau: - Trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về văn hoá, du lịch, về mối quan hệ văn hoá và du lịch. - Đánh giá giá trị các nguồn lực văn hoá và thực trạng giải quyết mối quan hệ giữa văn hoá và du lịch trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay (qua khảo sát thực tế trên địa bàn Hà Nội). - Xác định phương hướng và đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa việc kế thừa và phát huy các giá trị và bản sắc văn hoá dân tộc với phát triển du lịch ở thủ đô Hà Nội và ở nước ta hiện nay. 4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Đề tài tập trung làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn giải quyết mối quan hệ giữa văn hoá và sự phát triển du lịch ở nước ta và ở thủ đô trong những năm gần đây, chủ yếu là từ năm 2000 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn Đề tài được tiến hành trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và Thành uỷ Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội về phát triển văn hoá và du lịch. Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được tiến hành là phân tích, tổng hợp, thống kê, điều tra xã hội học… 6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn -Đề tài góp phần giải quyết cơ bản mối quan hệ giữa văn hoá và du lịch trên bình diện lý luận. - Phân tích đánh giá những giá trị của di sản văn hoá Thăng Long - Hà Nội nguồn lực cho phát triển du lịch ở Thủ đô. - Đánh giá thực trạng và đề xuất những giải pháp khả thi nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa văn hoá Thăng Long - Hà Nội đối với sự phát triển du lịch ở thủ đô hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết. Chương 1 Những vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa văn hoá và du lịch trong quá trình đổi mới ở nước ta 1.1. quan niệm về văn hoá 1.1.1. Khái niệm văn hoá Một quan niệm đầy đủ về bản chất của văn hoá ngày càng được xác định. Nếu trước đây khái niệm văn hoá chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp trong giới hạn các hoạt động văn học, nghệ thuật thì ngày nay văn hoá được hiểu theo nghĩa rộng là tổng thể các hệ thống giá trị bao gồm các mặt tình cảm, tri thức, vật chất và tinh thần của xã hội do con người sáng tạo ra trong hoạt động thực tiễn - lịch sử của mình, trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và xã hội.Trong lễ phát động: Thập kỷ thế giới phát triển văn hoá“ (Pari tháng 12/1986) Ông F. Mayor Tổng giám đốc UNESCO đã cho rằng: “Văn hoá là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của các cá nhân và các cộng đồng) trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên các giá trị, các truyền thống và các thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc [35, tr.32]. Định nghĩa này rất phù hợp với quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới đã nêu ra cách đó trên 40 năm: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó, tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn [45, tr.431]. Như vậy từ trong quan niệm của Hồ Chí Minh toát lên một cái nhìn vừa toàn diện, vừa sâu sắc về nguồn gốc lịch sử của văn hoá, về phạm vi rộng lớn của văn hoá, về mặt biểu hiện của văn hoá trong đời sống và toàn bộ sinh hoạt của con người. Nguồn gốc của văn hoá, theo Hồ Chí Minh là do nhu cầu sinh tồn và mục đích đời sống của con người. Con người không thể tồn tại nếu như không có khả năng sáng tạo và phát minh ra văn hoá nhằm đối phó với những thử thách của thiên nhiên và xã hội. Về phạm vi và nhân tố cấu thành văn hoá, Hồ Chí Minh soi xét cả hai mặt vật chất và tinh thần. Về mặt tinh thần đó là ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật. Về mặt vật chất đó là những công cụ của sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng những công cụ ấy. Quan điểm toàn diện và sâu sắc của Hồ Chí Minh về văn hoá có ý nghĩa cực kỳ lớn lao trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc khi mà Đảng ta xác định: “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội". 1.1.2. Vai trò của văn hoá đối với phát triển kinh tế - xã hội Trước đây do thiếu hiểu biết, nhiều người vẫn giữ quan niệm cho rằng: Văn hoá như là một lĩnh vực đứng ngoài kinh tế, do kinh tế trợ cấp, chỉ khi kinh tế phát triển thì mới có điều kiện mở mang các hoạt động văn hoá, nâng cao đời sống tinh thần của con người. Với quan niệm đó, văn hoá được coi như là một hoạt động có tính giải trí, khi kinh tế còn khó khăn thì ít người quan tâm đến văn hoá, và rõ ràng trong điều kiện đó thì người ta không thể nhận thấy vai trò của văn hoá đối với phát triển kinh tế. Trong thời gian gần đây, từ việc xem xét sự phát triển của nhiều quốc gia mà đặc biệt là các quốc gia ở khu vực châu á - Thái Bình Dương, người ta đã tìm thấy những dấu ấn và đặc trưng văn hoá trong phát triển của các quốc gia đó. Thực tế đó đã khiến người ta không chỉ thừa nhận sự tác động của các yếu tố văn hoá vào quá trình phát triển kinh tế, mà còn đi sâu xem xét vai trò của văn hoá cũng như tầm quan trọng của việc đưa các yếu tố văn hoá vào hoạt động sản xuất, kinh doanh. Văn hoá và kinh tế có sự gắn bó tác động biện chứng với nhau. Kinh tế phải bảo đảm được nhu cầu sống tối thiểu của con người sau đó mới đảm bảo điều kiện cho văn hoá phát triển. Kinh tế không thể phát triển nếu không có một nền tảng văn hoá, đồng thời văn hoá không chỉ phản ánh kinh tế mà còn là nhân tố tác động đến phát triển kinh tế. Sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc chỉ có thể năng động, hiệu quả, bền vững chừng nào quốc gia đó đạt được sự phát triển kết hợp hài hoà giữa kinh tế với văn hoá. Văn hoá mang tính đặc thù của từng quốc gia, từng dân tộc, là những di sản quí báu tích luỹ được qua nhiều thế hệ, mang đậm bản sắc của quốc gia, dân tộc đó. Nhưng đồng thời với quá trình phát triển, kế thừa và giữ gìn bản sắc riêng đó, nó còn tiếp thu những tinh hoa văn hoá của các quốc gia, dân tộc khác, làm cho văn hoá vừa đậm đà bản sắc dân tộc, vừa có tính thời đại phù hợp với sự phát triển kinh tế trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ và xu thế toàn cầu hoá ngày càng mạnh mẽ. Bối cảnh này làm cho vai trò của văn hoá trong hoạt động kinh tế ngày càng được nâng cao, văn hoá khơi dậy mọi tiềm năng sáng tạo của con người, quyết định sự tăng trưởng nhanh và bền vững. Sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta là sự phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, vì vậy cần nhận thức sâu sắc hơn vị trí, vai trò của văn hoá trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thực tế khủng hoảng diễn ra ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa trong thời gian qua đã cho thấy những nước đó đã đặt không đúng vị trí của văn hoá trong phát triển, có những quan niệm không đúng về cách mạng văn hoá và tư tưởng: Văn hoá thường được xem là yếu tố đứng ngoài kinh tế, tuỳ thuộc vào kinh tế. Quá trình phát triển văn hoá vì thế lệ thuộc vào sự trợ cấp của kinh tế, được hoạch định như chính sách xã hội. Mặt khác, cách mạng văn hoá được coi như là cách mạng chính trị, do đó những cuộc cách mạng văn hoá và tư tưởng thường bị biến dạng thành những cuộc đấu tranh chính trị đơn thuần như chúng ta đã thường thấy ở một số nước…Thực tế này đòi hỏi phải có nhận thức mới về vai trò của văn hoá trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Wang Yalin một học giả của Trung Quốc cho rằng: Công cuộc hiện đại hoá xây dựng Chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc hiện nay đang phải thực hiện “sự vượt qua kép” tức là phải thực hiện: Thứ nhất, cả công nghiệp hoá và cả hậu công nghiệp hoá. Thứ hai, cả về phát triển kinh tế và phát triển nhân văn. Phát triển kinh tế và nhân văn xã hội là những bộ phận quan trọng của sự phát triển toàn bộ xã hội dựa vào nhau và thúc đẩy lẫn nhau để phát triển. ông cho rằng phát triển nhân văn xã hội một mặt được sự hỗ trợ của phát triển kinh tế, mặt khác lại thực hiện một số chức năng đối với phát triển kinh tế như sáng tạo ra môi trường tốt đẹp cho phát triển kinh tế trở thành hệ thống đảm bảo cho sự phát triển. Và phát triển nhân văn xã hội lấy con người làm hạt nhân cung cấp hệ thống định hướng giá trị cho phát triển kinh tế. Như vậy rõ ràng là những nhân tố nhân văn xã hội, hay nói cách khác những nhân tố văn hoá không thể thiếu vắng trong động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế và tiến bộ văn hoá. Theo khẳng định của UNESCO: “Nước nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách rời môi trường văn hoá, thì nhất định sẽ xảy ra những mất cân đối nghiêm trọng cả về kinh tế lẫn văn hoá, và tiềm năng sáng tạo của những ấy sẽ bị suy yếu rất nhiều” [60, tr.5]. Văn hoá ngày nay đang trở thành một nhân tố tham gia trực tiếp vào quá trình phát triển kinh tế. Trong bất kỳ thời kỳ nào, quốc gia nào, con người nào cũng đều đóng vai trò quyết định với quá trình sản xuất. Mà con người trước hết là một thực thể văn hoá. Tố chất con người (tinh thần yêu nước, trình độ khoa học kỹ thuật, tinh thần tổ chức xã hội, tính nhân văn, nhân bản…) cao thấp có ý nghĩa quyết định sức mạnh của văn hoá. Sự phát triển của mỗi quốc gia không phải chỉ ở tài nguyên thiên nhiên giàu có, đa dạng mà quyết định là ở sự sáng tạo, trí tuệ, tài năng, đạo đức của con người, ở trong hàm lượng và sự phân bố tài nguyên tri thức trong cơ cấu sản xuất… Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta luôn coi trọng văn hoá, giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ. Các văn kiện Hội nghị Trung ương khoá VII, VIII, IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Yếu tố nền tảng của văn hoá ở đây là sự hiểu biết, là tri thức, kinh nghiệm và sự khôn ngoan tích luỹ được trong quá trình học tập, lao động, đấu tranh để duy trì và phát triển cuộc sống con người. Muốn đạt được mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần phải có sự hiểu biết về tri thức, kinh nghiệm, khoa học công nghệ hiện đại của nhân loại, đồng thời phải biết phát huy các giá trị của truyền thống văn hoá. Nhân tố nền tảng này nếu được khai thác và biết cách phát huy thì sẽ trở thành một động lực to lớn cho sự phát triển kinh tế. Kinh nghiệm cho thấy, so với nước Mỹ thì Nhật Bản còn có một số kỹ thuật nhập khẩu từ Mỹ, nhưng con đường để cho các xí nghiệp của Nhật Bản vượt các xí nghiệp Mỹ về tăng năng suất lao động lại chính là việc sử dụng các yếu tố truyền thống trong đó phải kể đến tinh thần gia tộc và tinh thần quần thể của người Nhật. Người Nhật đã biết phát huy những đặc điểm ưu việt của nền văn hoá truyền thống thông qua một hệ thống giáo dục và hoạt động văn hoá có sự đầu tư thích đáng về vật chất và tinh thần. Họ đã không để cho làn sóng hiện đại hoá và giao lưu văn hoá ồ ạt của thời kỳ mới lấn át các cơ sở văn hoá truyền thống được cố kết hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc như tinh thần kỷ cương trong lao động, tôn ti trật tự cần thiết trong sự điều hành xã hội, mối liên hệ gia đình, làng xóm, dân tộc có tác dụng đối với lao động, đức tín nghĩa… Bên cạnh việc tiếp thu tinh hoa tốt đẹp của văn hoá nhân loại Đảng ta đã cho rằng bản sắc văn hoá dân tộc là trụ cột của sức mạnh văn hoá. Truyền thống văn hoá cùng với tinh thần dân tộc là nguồn tài nguyên của dân tộc và đất nước. Trong lịch sử hàng chục thế kỷ chống ngoại xâm của dân tộc ta, nguồn lực quan trọng nhất trong truyền thống văn hoá là tinh thần yêu nước, chủ nghĩa yêu nước. Từ khi ra đời Đảng ta đã động viên, phát huy cao độ tinh thần yêu nước để giành và giữ vững nền độc lập dân tộc gắn liền với xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Đảng ta luôn nhấn mạnh việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc phải đi đôi với việc tiếp thu tinh hoa của văn hoá nhân loại, nhấn mạnh tính dân tộc đồng thời với tính khoa học và đại chúng, tính tiên tiến gắn với bản sắc dân tộc đậm đà. Đó chính là bản lĩnh, bản sắc văn hoá Việt Nam, sức mạnh của văn hoá Việt Nam là nền tảng, động lực và mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII đã xác định nhiệm vụ: “Mở cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn với thi đua yêu nước và phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”. Phong trào này đã nhanh chóng được triển khai sâu rộng và sáng tạo, góp phần làm cho đời sống chính trị ổn định, kinh tế phát triển, giảm bớt các hộ đói nghèo, giảm các tệ nạn xã hội, phát huy được tình làng nghĩa xóm, làm đẹp cảnh quan môi trường, làm cho đời sống văn hoá tinh thần ngày càng phong phú hơn. Hiện nay trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, chúng ta nhận thức sâu sắc rằng toàn cầu hoá là cơ hội để văn hoá Việt Nam học hỏi và phát huy các giá trị của mình. Song chúng ta cũng đối mặt với các thách thức to lớn của quá trình toàn cầu hoá đối với các giá trị truyền thống dân tộc. Logíc tồn tại của nền văn hoá dân tộc hiện nay đang diễn ra trong hai quá trình: quá trình đẩy nhanh sự hợp tác trao đổi và quá trình gia tăng bản sắc của dân tộc. Hai quá trình này thống nhất biện chứng trong quá trình toàn cầu hoá. Chúng ta nhất thiết phải mở cửa, phải hội nhập để đón nhận những giá trị mới của nhân loại, đó là lẽ sống còn của dân tộc nhưng mở cửa để hội nhập và phát triển, mở cửa phải giữ vững nền độc lập dân tộc và gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giữ được cơ cấu và giá trị nội sinh của văn hoá dân tộc. Trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới và trong xu thế toàn cầu hoá, các quan hệ kinh tế sẽ mang lại sự hưởng thụ các sản phẩm vất chất và tinh thần của nhân loại với giá rẻ hơn, tiện nghi thuận lợi hơn song nó có khả năng thúc đẩy lối sống tiêu thụ thực dụng, làm tha hoá nhân cách, làm rối loạn những giá trị xã hội, nó phá vỡ sự cân bằng của môi trường truyền thống, nó thương mại hoá không ít các hoạt động văn hoá và quan hệ xã hội. Hệ giá trị làng xã Việt Nam với một cơ cấu cộng đồng bền chặt đang phải thử thách trước làn sóng đầu tư trong quá trình toàn cầu hoá. Các mối quan hệ trong gia đình, làng xóm có phần lỏng lẻo dần. Khát vọng làm giàu của các thế hệ đặc biệt là thanh niên đang gia tăng trước thời cơ và vận hội này với không ít lệch lạc làm thay đổi cơ cấu giá trị của nền kinh tế cũ để chuyển sang nền kinh tế thị trường. Việt Nam đã tham gia hội nhập Hiệp hội các nước Đông Nam á (aSEAN), tham gia diễn đàn hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dương (APEC) tiến tới gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) nhằm liên kết các giá trị khu vực và quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá và khu vực hoá gia tăng mạnh mẽ. Chúng ta cũng bước đầu xây dựng một chiến lược giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Trong chiến lược này, văn hoá được coi là nền tảng tinh thần của xã hội, văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế-xã hội. Để Việt Nam phát triển được trong quá trình toàn cầu hoá, trước hết phải quan tâm xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Nền văn hoá đó xác lập hệ giá trị cơ bản là yêu nước và tiến bộ với nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưỏng Hồ Chí Minh làm định hướng và thước đo giá trị. Các giá trị văn hoá là nhân tố tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần thay đổi nếp nghĩ, cách làm, kích thích sáng tạo, năng động trong nền kinh tế thị trường nhưng bên cạnh đó những phản giá trị như chủ nghĩa cá nhân, lối sống tiêu thụ … xuất hiện đã làm thay đổi bản chất nhân cách của con người và các quan hệ xã hội, kích thích chủ nghĩa cá nhân, tính vị kỷ…Hơn lúc nào hết, ngày nay văn hoá phải góp phần bảo vệ và phát huy những giá trị văn hoá đích thực để thúc đẩy và hướng dẫn sự phát triển và hoàn thiện nhân cách của con người trước những thách thức của toàn cầu hoá và kinh tế thị trường. Nếu chúng ta cho rằng văn hoá là hệ thống các giá trị, các truyền thống, các thị hiếu và lối sống được các cộng đồng sáng tạo nên qua lịch sử phát triển hàng thế kỷ, dựa vào đó từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình, thì rõ ràng văn hoá không đứng ngoài mà nằm ở trong, là nhân tố nội sinh của sự phát triển kinh tế - xã hội. Văn hoá với vai trò của mình làm nền tảng và định hướng cho cái đúng, cái hay, cái đẹp trong tư duy của nhà chiến lược, trong suy nghĩ của nhà hoạch định chính sách, trong hành vi ứng xử của doanh nhân, trong ngoại giao và trong hoạt động du lịch… Từ Đại hội VI (1986) đến nay nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, mở rộng kinh tế đối ngoại, bước vào ngưỡng cửa của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Muốn thực hiện được tốt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới, điều quan trọng trước tiên là phải phát huy nguồn lực văn hoá, nâng cao trình độ văn hoá của toàn dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra những quan điểm cơ bản chỉ đạo sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá trong thời kỳ đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa: - Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. - Nền văn hoá mà chúng ta cần xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mang nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại. - Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng của một quốc gia dân tộc thống nhất; tổng hoà các tinh hoa văn hoá của các dân tộc anh em cùng chung sống trên mảnh đất Việt Nam. - Văn hoá là một mặt trận, người làm văn hoá là chiến sỹ trên mặt trận ấy. - Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là sự nghiệp sáng tạo của toàn dân do Đảng lãnh đạo, đội ngũ trí thức gắn bó với nhân dân là lực lượng quan trọng. - Có chính sách đầu tư thích đáng cho văn hoá, văn nghệ, khoa học, giáo dục…, coi đầu tư cho văn hoá là đầu tư cho phát triển. Phát triển các hoạt động văn hoá, văn nghệ của Nhà nước, tập thể và các cá nhân bảo đảm định hướng chính trị của Đảng và Nhà nước, đồng thời bảo đảm quyền tự do sáng tạo của các nhà hoạt động văn hoá… Kết luận Hội nghị Trung ương 10 khoá IX của Đảng đã khẳng định: “Đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hoá - nền tảng tinh thần xã hội… bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước” [33, tr.4]. 1.2. Quan niệm về du lịch 1.2.1. Khái niệm du lịch Du lịch ngày nay đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy cho đến nay không chỉ ở nước ta nhận thức về nội dung khái niệm du lịch vẫn chưa có sự thống nhất. Với những cách tiếp cận khác nhau, các học giả đã đưa ra những khái niệm khác nhau về du lịch: Theo từ nguyên, trong tiếng Anh “to tour" có nghĩa là dã ngoại; trong tiếng Pháp “tour“ có nghĩa là đi dạo chơi, leo núi, vận động ngoài trời; trong tiếng Việt, du lịch là một từ đã có từ lâu gắn liền với các chuyến đi: Kinh lý, tham quan, vãn cảnh, thăm viếng… của các nho sỹ, các tầng lớp vua chúa, quan lại, các nhà truyền giáo… Trong Từ điển tiếng Việt, du lịch được giải thích là “đi chơi cho biết xứ người" [71]. - Bác sỹ Nguyễn Khắc Viện cho rằng: “Du lịch là sự mở rộng không gian văn hoá của con người” [72]. Kuns, học giả người Thụy Sĩ xác nhận: “Du lịch là hiện tượng những người chỗ khác đi đến nơi không phải thường xuyên cư trú của họ bằng phương tiện vận tải và dùng các dịch vụ du lịch” [52, tr.29]. Hai học giả Hoa Kỳ là Mathieson và Wall gắn kết cả cách nhìn nhận về du lịch từ phía người đi du lịch và người kinh doanh du lịch. Các ông viết: “Du lịch là sự di chuyển tạm thời của người dân đến ngoài nơi ở và làm việc của họ, là những hoạt động xảy ra trong quá trình lưu lại nơi đến và các cơ sở vật chất tạo ra để đáp ứng những nhu cầu của họ” [61, tr.11]. Năm 1963 với mục đích quốc tế hoá khái niệm du lịch, tại hội nghị Liên hợp quốc về du lịch họp ở Roma, các chuyên gia đã đưa ra định nghĩa về du lịch như sau: “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của các cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ với mục đích hoà bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ” [61, tr.12]. Xuất phát từ hiện tượng du lịch, nhà nghiên cứu Trần Nhạn đã đưa ra một khái niệm khá toàn diện về bản chất đích thực, cơ bản của du lịch: “Du lịch là quá trình hoạt động của con người rời khỏi quê hương đến một nơi khác với mục đích chủ yếu là được thẩm nhận những giá trị vật chất và tinh thần đặc sắc, độc đáo khác lạ với quê hương, không nhằm mục đích sinh lợi được tính bằng đồng tiền” [52, tr.30]. Như vậy các định nghĩa về du lịch nói trên đã tiếp cận khái niệm du lịch theo nghĩa rộng hơn, không chỉ đề cập du lịch đối với khách du lịch vãng lai mà còn thêm vào đó các hoạt động kinh doanh của các cơ sở và cá nhân phục vụ cho các nhu cầu của khách du lịch đi qua và ở lại (như việc vận chuyển, phục vụ ăn uống, nghỉ ngơi, hướng dẫn tham quan, giải trí…) và các giá trị văn hoá tinh thần thu nhận được trong quá trình du lịch. Khái niệm du lịch trong Luật Du lịch của Việt Nam cũng xuất phát từ cái nhìn toàn diện này: “Du lịch là các hoạt dộng có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thoả đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định” [42, tr.9]. 1.2.2. Vai trò của du lịch đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Ngày nay du lịch đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống xã hội. Du lịch đã khẳng định được vai trò to lớn trong nền kinh tế quốc dân của các nước như một ngành “công nghiệp không khói ”. Trong những năm gần đây, hoạt động du lịch đang trở nên phổ biến trên toàn cầu và phát triển với tốc độ nhanh. Theo số liệu của Tổ chức Du lịch thế giới thì năm 1950 toàn thế giới có 25 triệu du khách, đến năm 1990 con số này đã lên tới 450 triệu (tăng 18 lần sau 20 năm). Tính riêng trong vòng mười năm gần đây số khách du lịch quốc tế đã tăng từ 339 triệu năm 1986 lên 592 triệu năm 1996 và đến năm 2000 con số này đạt tới 637 triệu và khoảng 937 triệu vào năm 2010. Theo tính toán của các chuyên gia du lịch quốc tế, chỉ trong vòng 36 năm (từ 1960 - 1996) thu nhập từ du lịch của thế giới đã tăng 62 lần (từ 6,8 tỷ USD năm 1960 tăng lên 423 tỷ USD năm 1996), riêng năm 1995 ngành du lịch toàn cầu đã tạo việc làm cho 212 triệu người và dự tính đến năm 2005 con số này sẽ lên tới 338 triệu trên phạm vi toàn thế giới. Nhiều tài liệu nghiên cứu cũng đã chỉ rõ: Du lịch là ngành lớn nhất thế giới, tính theo sản phẩm thu được, là ngành đứng đầu về thu thuế, là ngành có khả năng nhất trong việc tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp lao động. Từ 1990-1993, số người làm việc trong ngành du lịch tăng nhanh hơn 50% so với tốc độ tăng công ăn việc làm trên thế giới. Hội đồng Du lịch và Kinh doanh du lịch thế giới ước tính: Du lịch và kinh doanh du lịch tạo ra cho 144 triệu việc làm trên thế giới từ 2000 đến 2005, trong đó 112 triệu là ở các nước đang phát triển thuộc khu vực châu á - Thái Bình Dương. Họ đã tính số tiền khách du lịch chi trả cho các chuyến du lịch sẽ tăng từ 450 tỷ USD năm 1998 lên 555 tỷ USD năm 2000 và 1500 tỷ USD vào năm 2010. Như vậy sau 20 năm nữa du lịch rất có thể sẽ trở thành ngành kinh tế phát triển mạnh hàng đầu thế giới [75] Với đường lối đổi mới toàn diện của Đảng và Nhà nước, từ năm 1986 đến nay, ngành Du lịch Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể. Chương trình hành động quốc gia về du lịch với tiêu đề: “Việt Nam - Điểm đến của thiên niên kỷ mới” đã mạng lại cho Du lịch Việt Nam những kết quả quan trọng, góp phần đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội, thay đổi diện mạo và khẳng định tầm vóc của du lịch nước ta, rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực. Qua chương trình này có 42 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã thành lập Ban chỉ đạo Phát triển du lịch, 14 Bộ, Ngành có chương trình, kế hoạch phối hợp triển khai chương trình. Đây là tiền đề quan trọng huy động nguồn sức mạnh tổng hợp cho phát triển du lịch. Ngành Du lịch thời gian qua đã tổ chức hàng loạt các lễ hội và liên hoan văn hoá - du lịch lớn trong cả nước, thu hút một lượng lớn du khách trong và ngoài nước: Festival Huế tổ chức hai năm một lần, Đêm rằm phố cổ Hội An, Liên hoan du lịch đất Phương Nam, Lễ hội văn hoá - du lịch 100 năm Đà Lạt, 110 năm Sapa, Năm du lịch Hạ Long, Năm du lịch Điện Biên Phủ và hàng chục các lễ hội truyền thống được khôi phục và nâng cấp phục vụ mục đích du lịch. Hàng chục vạn ấn phẩm quảng bá du lịch bằng nhiều thứ tiếng đã được phát hành. Hình ảnh cô gái Việt Nam và tiêu đề “Việt Nam - Điểm đến của thiên niên kỷ mới” đã tạo nên sự quen thuộc, gần gũi đối với mọi người trên thế giới. Nhờ những hoạt động du lịch văn hoá nói trên chúng ta đã thu hút được lượng khách quốc tế khá đông đảo mặc dầu phải đương đầu với không ít khó khăn thách thức do khách quan đưa lại. Theo thống kê của Tổng cục Du lịch, lượng khách quốc tế đến nước ta giai đoạn 2000-2004 tăng gần một triệu lượt người, khách nội địa tăng 3,5 triệu lượt. Năm 2000, năm đầu tiên thực hiện chương trình, lượng khách quốc tế đạt 2,14 triệu lượt tăng 20,1% so với 1999 và gấp 8,4 lần so với năm 1990, khách nội địa đạt 11,2 triệu lượt người, tăng 5,7% so với năm 1999. Thu nhập xã hội từ du lịch đạt 1,2 tỷ USD, tăng 19% so với năm 1999. Riêng năm 2004 đã đón được 2.927.837 lượt khách quốc tế, 14 triệu lượt khách nội địa, thu nhập xã hội từ du lịch đạt 1,65 tỷ USD, tăng 18% so với năm 2003 [37, tr.53]. Đánh giá về kết quả hoạt động du lịch trong thời gian qua đồng chí Vũ Khoan, Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Trưởng ban chỉ đạo Nhà nước về du lịch đã nhận định: Hoạt động du lịch khởi sắc đã tạo ra khả năng tiêu thụ tại chỗ cho hàng hoá và dịch vụ sản xuất trong nước, khôi phục nhiều nghề thủ công truyền thống, góp phần vào sự phát triển của hàng không, văn hoá - thông tin và các ngành khác liên quan đến du lịch, tạo nhiều việc làm mới, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế cả nước và từng địa phương, thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo, mở rộng giao lưu giữa các vùng, miền trong nước và quốc tế [37, tr.53]. 1.3. Mối quan hệ giữa văn hoá và du lịch Giữa văn hoá và du lịch luôn có mối liên hệ khăng khít, mật thiết. Đó là khai thác và phát huy các di sản và giá trị văn hoá, một bộ phận thiết yếu nhất của nguồn tài nguyên du lịch, việc phát triển du lịch hướng vào mục tiêu văn hoá, nâng cao tố chất văn hoá trong kinh doanh du lịch… 1.3.1. Di sản văn hoá, giá trị văn hoá là nguồn lực cho phát triển du lịch Chúng ta đã nhận thức ngày càng sâu sắc hơn vị trí đặc biệt quan trọng của văn hoá Việt Nam đối với sự phát triển toàn diện đất nước về kinh tế, chính trị, xã hội trong đó có du lịch, một ngành kinh tế đang trở thành mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong thế kỷ XXI. Nhiều người đã khẳng định rằng nếu không có truyền thống, vẻ đẹp độc đáo, những giá trị và công trình văn hoá thì du lịch Việt Nam sẽ không phát triển mạnh được, sẽ mất đi sự hấp dẫn riêng của nó. Trong Luật Du lịch được ban hành năm 2005 thì tài nguyên du lịch được xác định là “cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn hoá, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch” [42, tr.9]. Với nhận định trên, có thể khẳng định rằng phần lớn tài nguyên du lịch là các giá trị, các thành tựu, các công trình văn hoá của dân tộc trong sự gắn bó với môi trường tự nhiên và xã hội. Bên cạnh đó, tài nguyên du lịch còn gắn trực tiếp với tiến trình lịch sử của đất nước, với truyền thống văn hoá của dân tộc qua các thời kỳ lịch sử khác nhau. Như vậy, đối với du lịch, đặc biệt đối với du lịch bền vững, văn hoá trở thành tài nguyên tạo nên sự hấp dẫn có chiều sâu nhất đối với du lịch. Và sở dĩ du lịch là một ngành kinh tế có sức thu hút mạnh mẽ bởi vì trong nó có hàm chứa nội dung văn hoá sâu sắc và phong phú. Để du lịch phát triển bền vững thì nó phải tuân thủ một yêu cầu khách quan hết sức nghiêm ngặt là phải đảm bảo sự bền vững về văn hoá. Việc khai thác các giá trị văn hoá nhằm phục vụ nhu cầu du lịch hiện tại song không được làm tổn hại đến các giá trị văn hoá, phải bảo tồn các di sản văn hoá cho các thế hệ mai sau. Theo số liệu thống kê của Bộ Văn hoá - Thông tin đến năm 2001, Việt Nam có tổng số di tích văn hoá đã được Nhà nước công nhận và xếp hạng là 2.597, trong đó: - Di tích lịch sử là 1266. - Di tích kiến trúc nghệ thuật là 1205. - Di tích khảo cổ là 38. - Danh lam thắng cảnh là 88. (Đặc biệt trong số này có 6 di sản văn hoá được thế giới công nhận là di sản thế giới đó là: Cố Đô Huế (Thừa Thiên - Huế); Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh); Khu phố cổ Hội An (Quảng Nam); Khu di tích Mỹ Sơn (Quảng Nam); Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình); Nhã nhạc cung đình Huế (Thừa Thiên - Huế).) Đó là những di sản văn hoá độc đáo ở mọi vùng, miền của đất nước nơi lưu giữ bao chiến công, hào hùng của dân tộc Việt Nam, nơi ẩn chứa với những giá trị nhân bản sâu sắc, độc đáo của dân tộc Việt Nam trong suốt trường kỳ dựng nước và giữ nước, tất cả hợp thành bản anh hùng ca bất hủ của dân tộc. Các di sản văn hoá có mặt ở hầu hết ở các địa phương trên cả nước từ miền ngược đến miền xuôi, từ nông thôn đến thành thị, đó là lợi thế để ngành du lịch phát huy các di sản văn hoá trong tổ chức hoạt động du lịch. Có thể khẳng định rằng tiềm năng to lớn của du lịch Việt Nam nằm trong văn hoá dân tộc. Chẳng hạn, Chùa Việt Nam là điểm hẹn rất hấp dẫn của khách du lịch quốc tế và nội địa. Đây vừa được coi là nơi linh thiêng thu giữ khí trời đất, vừa luôn gắn liền với xóm làng, vừa là nơi giải toả và thanh lọc tâm hồn con người. Vì vậy nó có sức hẫp dẫn lôi cuốn mạnh mẽ du khách, trở thành yếu tố không thể thiếu được trong tổ chức các loại hình du lịch, các cuộc hành hương của du khách trong và ngoài nước. ở hà Nội, số chùa đã được công nhận là di tích lịch sử văn hoá là 116 chùa, trong đó có nhiều chùa nổi tiếng như chùa Một Cột, chùa Trấn Quốc, chùa Cổ Loa… Hà Tây có 90 chùa được công nhận, trong đó có nhiều chùa là di sản quý hiếm của cả nước như chùa Thầy, chùa Tây Phương, chùa Trầm, chùa Trăm Gian, chùa Hương, chùa Đậu, chùa Mía… ở Bắc Ninh, Bắc Giang có tới 44 chùa được công nhận là di tích, trong đó có chùa Phật Tích, chùa Dâu nổi tiếng. ở Nam Định có chùa Keo, chùa Cổ Lễ... ở Nam Bộ các ngôi chùa Khơmer có vị trí đặc biệt đối với đồng bào Khơmer và đối với cả vùng đồng bằng sông Cửu Long. Và chùa là nơi giáo dục toàn dân, là thư tàng cổ, là điểm gặp gỡ vui chơi của dân phum sóc trong các ngày lễ. Bên cạnh đó chúng ta lại tự hào với những địa đạo, những khu căn cứ cách mạng, nhà tù chính trị như địa đạo Củ Chi, nhà tù Côn Đảo, Hoả Lò… đó là những di tích, những bằng chứng sống của cuộc chiến tranh khốc liệt mà oai hùng của Đảng và nhân dân ta trong thế kỷ XX. Những di tích đó đã và đang được bảo tồn, phát huy. Du khách về đây là dịp hồi tưởng về quá khứ chiến tranh yêu nước và cách mạng, các di tích đó có tính giáo dục cao về truyền thống anh hùng của dân tộc Việt Nam. Cùng với các di tích lịch sử văn hoá như là những tài nguyên tĩnh thì các loại hình văn hoá phi vật thể là tài nguyên động của du lịch Việt Nam. Tính chất động của nó đặc biệt do gắn liền với hoạt động của con người, tái hiện, tái tạo của bản thân con người trong quá khứ và hiện tại làm sống lại lịch sử trong tính toàn vẹn, tính hình tượng cụ thể cảm tính, sinh động của nó, tạo nên môi trường du lịch độc đáo và sức hấp dẫn kỳ lạ đối với khách du lịch từ nơi xa đến (những lễ hội dân gian, những chương trình nghệ thuật cổ truyền, những làn điệu dân ca…) chẳng hạn như Ca Huế và Hò Huế là loại hình ca hát được mọi người ưa chuộng thường được biểu diễn trên một con đò lững lờ trôi giữa dòng Hương Giang. Du khách đến Huế sau những ngày tham quan các di tích - lịch sử văn hoá, thắng cảnh được thả mình trên dòng Hương Giang nghe hò thả tâm hồn mình vào những câu “nam ai nam bằng" trải dài như bất tận, lửng lơ trong không gian, một phần như chùng chình, giăng túi trên mặt nước nghe lưu luyến, nỉ non, xốn xang lòng người. Cùng với nó là những điệu múa cung đình Huế, những tiết mục múa rối nước Thăng Long- Hà Nội, những làn điệu dân ca mượt mà sâu lắng của người dân quan họ Bắc Ninh. Điều đáng quí và độc đáo hơn cả, tạo nên sức hấp dẫn của du lịch là nguồn di sản văn hoá phi vật thể được truyền bá từ ngàn năm lịch sử. Yêu nước là truyền thống quí báu của dân tộc. Lòng yêu nước của dân tộc đã tô thắm lịch sử bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước. Truyền thống đó đã được giáo dục và lưu truyền cho các thế hệ mai sau. Phát huy tinh thần yêu nước chính là khẳng định bản lĩnh của con người và Tổ quốc Việt Nam trên trường quốc tế nhất là trong hoạt động du lịch. Ngoài các di tích, các lễ hội và truyền thống ngàn năm của dân tộc, chúng ta còn có rất nhiều di sản lễ hội của đồng bào các dân tộc như các lễ hội của đồng bào dân tộc Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ luôn có sức hẫp dẫn kỳ lạ đối với du khách. Nếu chúng ta biết cách khai thác, tổ chức tốt kết hợp với các tua du lịch, chúng ta có thể vừa bảo tồn các lễ hội, vừa coi lễ hội đó như là một hoạt động du lịch. Theo ý kiến của một số nhà nghiên cứu văn hoá thì một số tỉnh, thành như ở Bắc Ninh, Lạng Sơn, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Hải Dương, Nam Định, Bắc Giang, Thái Bình hàng năm có rất nhiều lễ hội. Dĩ nhiên, không phải tất cả các lễ hội đều trở thành nội dung hoạt động du lịch, nhưng chứng tỏ rằng di sản văn hoá của chúng ta là một tài nguyên độc đáo, quí giá của du lịch. Nguồn lực văn hoá đa dạng và phong phú của 54 dân tộc anh em trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được kết tinh từ tài năng, trí tuệ, tâm hồn con người Việt từ ngàn đời, đồng thời là kết tinh của quá trình giao lưu, tiếp thu tinh hoa văn hoá của các dân tộc trên thế giới, đã tạo nên sự đa dạng về văn hoá, sự phong phú của các lễ hội, các phong tục tập quán của các dân tộc Việt Nam. Có thể nói, văn hoá là nguồn tài nguyên chủ yếu của du lịch. Môi trường thiên nhiên và môi trường văn hoá, nhân văn có vai trò đặc biệt quan trọng đối với du lịch vì chúng chính là nguồn tài nguyên, là yếu tố cơ sở cho phát triển du lịch. Ngày nay, xu hướng du lịch sinh thái, du lịch cảnh quan và du lịch văn hoá đang trở thành những loại hình du lịch chủ yếu trong xu thế phát triển của ngành du lịch. ở nhiều nước trên thế giới kinh nghiệm cho thấy rằng nếu quốc gia nào có truyền thống văn hoá lâu đời, có nhiều danh lam thắng cảnh thì quốc gia đó sẽ có thị trường du lịch hấp dẫn. Số liệu thống kê của một số nghiên cứu do Uỷ ban châu Âu tiến hành cho thấy 20% du khách đến châu Âu với động cơ văn hoá, 60 % du khách người châu Âu quan tâm đến việc tìm hiểu, khám phá các sự kiện, hiện tượng văn hoá trong chuyến đi của họ. Văn hoá còn góp phần cấu thành nên môi trường văn hoá cho du lịch. Văn hoá làm cho du khách sung sướng, vừa lòng, những tình cảm tốt lành, những kỷ niệm đẹp cho du khách sau những chuyến đi. Văn hoá cung cấp tri thức, các phép ứng xử văn minh lịch sự cho hoạt động du lịch. Một trong những lĩnh vực góp phần phát triển tốt cho lễ hội là du lịch. Mặt khác du lịch cũng tìm thấy ở lễ hội một chỗ dựa vững chắc, một kho tàng phong phú để khai thác nhằm phát triển sự nghiệp của mình. Trong các cuộc hội nghị bàn về chiến lược phát triển văn hoá Việt Nam đến năm 2010, nhiều ý kiến cho rằng không có yếu tố truyền thống, vẻ đẹp độc đáo, những giá trị và công trình văn hoá, du lịch Việt Nam sẽ không phát triển mạnh được, sẽ mất đi sự hấp dẫn riêng của nó. Vì du lịch chính là để hiểu hơn văn hoá Việt Nam đặc biệt là văn hoá truyền thống dân tộc Việt Nam với 54 dân tộc anh em mang sắc thái khác nhau, song cùng hoà quyện với sắc thái thiên nhiên tạo thành bức tranh văn hoá hết sức độc đáo giàu truyền thống được lưu truyền trong các bảo tàng, sự khéo léo của các làng nghề truyền thống, cách xử sự nồng nhiệt đậm đà thú vị qua các món ăn ẩm thực, phong tục tập quán riêng qua các lễ hội…Số liệu thống kê thời gian qua cho biết: + Có gần 30.000 lượt khách trong nước và quốc tế đến tham dự Lễ hội 100 năm Sapa. + 77.000 lượt khách dự tại chương trình Tháng Tám - Nha Trang - Điểm hẹn + Mê Kông Fetival 2003 thu hút gần 120.000 lượt khách + Lễ Hội Chùa Hương đón 356.524 năm 2004 + Đền Hùng trên 1.000.000 lượt khách + Fetival Huế là 1.200.000 lượt khách. Việc tổ chức lễ hội văn hoá du lịch đã trở thành hoạt động quảng bá tiềm năng thúc đẩy hợp tác du lịch, tạo ra nhiều sản phẩm du lịch độc đáo thu hút khách khắp mọi nơi. Sự thành công của các sự kiện văn hoá du lịch không chỉ được thể hiện bằng số lượng khách đến tham dự mà còn ở chỗ sự tham gia phối hợp tổ chức của nhiều cấp, nhiều ngành trong khoảng thời gian dài trên các mặt: hoàn thiện cơ sở hạ tầng, tạo ra sản phẩm mới, chỉnh trang môi trường, cảnh quan, giáo dục tuyên truyền cộng đồng địa phương đến công tác xúc tiến quảng bá... Vấn đề này cũng khẳng định ngành du lịch đang dần dần có vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế - xã hội của nhiều địa phương. Ngoài ra, hiệu quả của các sự kiện văn hoá lễ hội du lịch còn được đánh giá qua những lợi ích mang lại cho cộng đồng dân cư. Khi cộng đồng dân cư được chia xẻ lợi ích, họ sẽ tự biết bảo vệ nguồn tài nguyên phục vụ phát triển du lịch bền vững. 1.3.2. Văn hoá là mục tiêu của phát triển du lịch Văn hoá và du lịch có mối quan hệ biện chứng với nhau. Phát huy bản sắc, truyền thống văn hoá trong kinh doanh du lịch, tạo động lực cho kinh doanh du lịch phát triển. Bất kỳ một ngành kinh tế nào cũng đều hướng tới lợi nhuận, để đạt tới lợi nhuận có rất nhiều phương thức khác nhau trong đó có việc phát huy nhân tố con người. Các nhà quản lý doanh nghiệp phải lấy nó làm động lực để thúc đẩy sản xuất. Đồng thời với việc nhận thức rõ vai trò của những nhân tố truyền thống văn hoá trong kinh doanh du lịch như phong tục, tập quán, nếp sống… được sử dụng như một phương thức kinh doanh. Yếu tố truyền thống văn hoá trong kinh doanh du lịch có vai trò quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của du lịch. Muốn có hiệu quả trong kinh doanh điều quan trọng không chỉ thoả mãn nhu cầu của khách bằng cơ sở vật chất của mình mà điều quan trọng hơn chiếm được tình cảm của khách qua việc phát huy truyền thống, bản sắc văn hoá dân tộc. Du lịch vừa là ngành dịch vụ, vừa là ngành sản xuất, vừa tiêu thụ sản phẩm của chính mình. Trong du lịch phần lớn các dịch vụ đều do con người thực hiện. Khách sạn là nơi tiếp đón và phục vụ rất nhiều đối tượng khác nhau về mục đích thăm viếng, quốc tịch, dân tộc… Ngay cách cư xử cũng thể hiện những phong tục tập quán khác nhau. Người Hàn Quốc chào nhau bằng cách cúi gập người, người châu Âu hay bắt tay khi giao tiếp, người Việt là nụ cười thân mật nở trên môi. Người Việt ta có câu: "Lời nói chẳng mất tiền mua Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau” Người Trung Quốc thì cho rằng: “Nếu không biết cười thì đừng bao giờ mở nhà hàng”. Giao tiếp là một yếu tố rất quan trọng quyết định đến hoạt động du lịch. Trong điều kiện nước ta còn nghèo, kinh tế chưa phát triển, lòng hiếu khách, vẻ thanh lịch, sự tự tin trong giao tiếp ứng xử đối với khách nhất là khách quốc tế là điều rất cần thiết. Vì vậy những người làm du lịch đã phải hình thành cho mình một phong cách giao tiếp, ứng xử mang cốt cách Việt Nam nghĩa là mến khách, tôn trọng những nhu cầu chính đáng của khách, khéo léo lịch sự, nhã nhặn, bình đẳng với mọi người. Đó cũng là truyền thống văn hoá và nhân cách của người Việt Nam. Trang phục truyền thống với những gam màu sắc là yếu tố góp phần tạo cho khách cảm giác thoải mái khi sử dụng dịch vụ. Mỗi khách sạn đều chọn cho mình một kiểu trang phục phù hợp với điều kiện kinh doanh, điều kiện môi trường nơi hoạt động. Trang phục cũng là nét đẹp thể hiện sự tôn trọng đối với khách. Cảm nhận đầu tiên khi khách đến cơ sở du lịch tốt hay xấu là phụ thuộc vào thái độ, cử chỉ, trang phục của người đón tiếp. Nhiều khách sạn đã biết chọn cho mình kiểu trang phục mang sắc thái độc đáo, hài hoà với khung cảnh. Qua đó phần nào đánh giá được trình độ tổ chức của khách sạn đó. Việt Nam là quốc gia có 54 dân tộc, mỗi dân tộc đều có sắc thái trang phục riêng. Kế thừa kho tàng phong phú về trang phục với những chất liệu như lụa, gấm, thổ cẩm… những người làm du lịch đã sáng tạo, áp dụng phù hợp với cơ sở của mình. Trang phục đã góp phần không nhỏ tạo ra sự thành công trong nghi thức ngoại giao, trong tiếp tân, trong các chương trình lễ hội của các vùng miền trên đất nước. Hoạt động của du lịch nhìn từ góc độ nào cũng gắn với tự nhiên. Các yếu tố tự nhiên như khí hậu, tài nguyên… thường xuyên thay đổi và tác động đến cung cầu du lịch. Con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội, nếu như phương Tây có xu hướng cải tạo tự nhiên thì phương Đông nói chung, con người Việt Nam nói riêng lại có xu hướng hoà đồng với thiên nhiên. Họ yêu thiên nhiên và sống gắn bó với thiên nhiên vì họ hiểu những giá trị, những lợi ích to lớn mà thiên nhiên ban tặng họ: “ Rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu”. Lối ví von như vàng, như bạc không chỉ có nghĩa là thiên nhiên giàu có mà chứng tỏ thiên nhiên trong tâm khảm người Việt là vô cùng quí giá, là nguồn sống, nguồn của cải vật chất mà con người phải tôn trọng, bảo vệ, giữ gìn không chỉ cho thế hệ hôm nay mà cả cho thế hệ mai sau. Nguồn cảm hứng thẩm mỹ sâu sắc trước thiên nhiên, con người đã khám phá, xây dựng những công trình kiến trúc như đền, chùa, miếu mạo…, tuy không đồ sộ hoành tráng nhưng hài hoà với khung cảnh thiên nhiên và phù hợp với tâm thức của người Việt như các di tích lịch sử của Một Cột, chùa Trấn Quốc, Đền Hùng, Cố Đô Huế… Đây thực sự là hệ sinh thái nhân văn đẹp, hài hoà giúp cho con người cảm nhận sự thư giãn, sự linh thiêng trong các dịp lễ hội. Trước những vấn đề của cuộc sống, trước sức ép ngày càng tăng của công việc đô thị hoá, con người ngày càng có nhu cầu tìm đến với thiên nhiên, du lịch sinh thái. Loại hình du lịch gắn với thiên nhiên - du lịch sinh thái đang trở thành một hướng khai thác không thể thiếu được trong chính sách phát triển du lịch của các quốc gia. So với nhiều quốc gia trên thế giới, cảnh quan thiên nhiên Việt Nam còn khá hoang sơ, nhiều nơi con người còn chưa khám phá, rất phù hợp với loại hình du lịch thiên nhiên, du lịch xanh… Với đất nước có nhiều dân tộc với những nét văn hoá bản địa hấp dẫn, đầy hứa hẹn những tiềm năng cho việc khai thác và phát triển du lịch. Khai thác tốt và hợp lý với những chính sách phù hợp việc phát triển loại hình du lịch sinh thái chính là phát huy tốt mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong hoạt động du lịch. Đứng ở góc nhìn văn hoá, du lịch sinh thái chính là sự biểu hiện rõ rệt cho mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Việt Nam là nước nông nghiệp, mọi hoạt động kinh tế, xã hội, văn hoá của mỗi người dân trong đó có hoạt động du lịch đã chi phối mạnh mẽ tới hành động thái độ ứng xử của con người với tự nhiên. Đẩy mạnh phát triển du lịch nhưng đồng thời phải tích cực bảo vệ môi trường sinh thái. Nếu hoạch định chính sách phát triển du lịch không có nội dung “phát triển bền vững”, đảm bảo đáp ứng nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến đáp ứng nhu cầu của thế hệ mai sau thì việc khai thác du lịch không gắn với bảo vệ môi trường sẽ làm cho tự nhiên biến đổi nhanh chóng sẽ tác động tiêu cực đến du lịch. Hiện nay không ít khách than phiền về phí tham quan ở một số nơi quá đắt và môi trường ngày càng bị ô nhiễm. Tại một số điểm du lịch, khi cộng đồng địa phương được hưởng các lợi ích vật chất từ hoạt động du lịch thì ý thức về bảo vệ môi trường được cải thiện rõ rệt. Khi đó những tác động tiêu cực tới môi trường cũng được hạn chế đáng kể (như ở khu du lịch Ao Vua, Vườn Quốc gia Ba Vì…). Văn hoá là mục tiêu của phát triển du lịch bền vững và lành mạnh. Vì vậy những người hoạt động du lịch phải có tri thức văn hoá phong phú, kinh doanh có văn hoá, phong cách văn hoá trong ứng xử giao tiếp… 1.3.3. Du lịch thúc đẩy giao lưu văn hoá phát triển Du lịch và văn hoá có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Mối quan hệ này được hình thành và củng cố dựa trên quá trình hình thành và phát triển một cách ngày càng đa dạng của các loại hình du lịch cũng như tốc độ phát triển nhanh chóng của du lịch trong nước, trong khu vực cũng như trên thế giới. Trong mối quan hệ với văn hoá, du lịch là yếu tố quan trọng đẩy mạnh giao lưu văn hoá giữa các vùng miền trong nước và giữa các quốc gia dân tộc trên thế giới. Sự phát triển của du lịch tác động trực tiếp và gián tiếp đến việc chấn hưng và bảo tồn các di sản văn hoá. Du lịch đã tạo nên điều kiện thúc đẩy kinh tế - xã hội của các địa phương và của các dân tộc phát triển. Nói một cách khác, du lịch đã có tác động quan trọng vào đời sống văn hoá của xã hội. Doanh thu từ các hoạt động du lịch được sử dụng một phần cho việc tu bổ di tích, chỉnh lý các bảo tàng, đồng thời khôi phục các làng nghề truyền thống như mây tre, gốm, dệt thổ cẩm… biến chúng trở thành hàng hoá bán cho khách tham quan. Đối với các giá trị văn hoá phi vật thể, hoạt động du lịch trong thời gian quan đã phục hồi và làm sống lại những lễ hội dân gian, văn nghệ dân gian, sinh hoạt tín ngưỡng… phục vụ du khách. Du lịch còn có ý nghĩa to lớn về mặt kinh tế, chính trị, xã hội và sinh thái. ý nghĩa xã hội quan trọng của du lịch là thông qua du lịch con người được thay đổi môi trường, có ấn tượng và cảm xúc mới, có điều kiện tiếp xúc với những thành tựu văn hoá phong phú và lâu đời của các dân tộc, đồng thời mở mang kiến thức đáp ứng lòng ham hiểu biết từ đó tăng thêm lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết quốc tế, hình thành những phẩm chất đạo đức tốt đẹp như lòng yêu lao động, tình bạn góp phần hình thành phương hướng đúng đắn trong mơ ước sáng tạo, trong kế hoạnh tương lai của con người. Điều này quyết định sự phát triển nhân cách của mỗi cá nhân trong xã hội. Trong thời gian du lịch, khách du lịch thường sử dụng các dịch vụ, hàng hoá và thường tiếp xúc với dân địa phương, thông qua các cuộc tiếp xúc đó, khách và dân bản địa đều được trau dồi và nâng cao sự hiểu biết lẫn nhau về văn hoá, lịch sử, những phong tục tập quán của khách và cả chủ nhà. Du lịch là cầu nối hoà bình giữa các dân tộc. Du lịch là giấy “thông hành của hoà bình” vì thông qua nó con người hiểu biết thêm các dân tộc trên thế giới, cảm thông và xích lại gần nhau hơn, thấy được cái hay cái đẹp mà con người đang khát vọng vươn tới vì ngày mai tốt đẹp hơn, qua đó mỗi dân tộc có sự chắt lọc, bổ sung, nâng cao nền văn hoá của mình. Để thế giới có thể tìm hiểu sâu sắc hơn về văn hoá Việt Nam, qua du lịch chúng ta đã giới thiệu nhiều di tích văn hoá, công trình văn hoá thiên tạo và nhân tạo của mình: Cố Đô Huế, Vịnh Hạ Long, di tích Mỹ Sơn, phố cổ Hội An, Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng…Tuần lễ Du lịch Fetival Huế được tổ chức tại Cố Đô Huế là dịp để chúng ta giao lưu, trao đổi, hợp tác, làm cho chúng ta và bè bạn ngày càng “xích lại gần nhau hơn” trong không khí hữu nghị, đoàn kết đượm đà màu sắc văn hoá đa dạng, phong phú. Có thể nói các hoạt động giao lưu văn hoá giữa nước ta với các nước trên thế giới không ngừng tăng lên vừa phong phú về nội dung vừa đa dạng về hình thức trong thời gian qua là có sự đóng góp của hoạt động du lịch. Hoạt động này đã góp phần vào việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Ngoài những thành tựu đã đạt được kể trên, hoạt động giao lưu văn hoá qua du lịch cũng còn có một số hạn chế: Trước hết là về nhận thức tư tưởng, đạo đức, lối sống xuất hiện, tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng cá nhân, vị kỷ đang gây tai hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Việc giao lưu văn hoá với nước ngoài chưa tích cực và chủ động, còn nhiều sơ hở, văn hoá phẩm độc hại vào nước ta còn nhiều, tác phẩm văn hoá có giá trị của ta giới thiệu với nước ngoài còn ít. Tuy nhiên, những tồn tại và thiếu sót trên cũng không làm mờ đi những thành tựu lớn về văn hoá và du lịch mà chúng ta đã đạt được trong quá trình giao lưu và hội nhập. Thực tế đã chứng tỏ đường lối và các chính sách của Đảng và Nhà nước ta đang phát huy tích cực, định hướng đúng đắn cho phát triển văn hoá và du lịch. Kết luận chương 1 Văn hoá và du lịch có mối quan hệ qua lại hết sức mật thiết. Văn hoá là nguồn tài nguyên nhân văn vô cùng phong phú đặc sắc có thể tạo ra các sản phẩm du lịch độc đáo để thu hút khách du lịch, là nguồn tài nguyên chủ yếu của du lịch hiện nay. Du lịch văn hoá đang trở thành một loại hình du lịch phổ biến và có hiệu quả cao. Hoạt động du lịch cũng có những tác động trở lại đối với văn hoá. Du lịch chính là cầu nối để thúc đẩy trao đổi, giao lưu giữa các dân tộc, quốc gia, cộng đồng với nhau đồng thời du lịch chính là động lực góp phần vào phát triển, giữ gìn bảo tồn và phát huy truyền thống văn hoá của dân tộc. Tuy nhiên sự phát triển du lịch cũng đang đặt ra cho văn hoá dân tộc những thách thức, những “nguy cơ bất ổn”. Thứ nhất: Đối với các di sản văn hoá, đặc biệt các di sản văn hoá vật thể có giá trị thì khách tham quan và sự bùng nổ số lượng khách đã trở thành mối nguy cơ đe doạ việc bảo vệ các di tích này. Sự có mặt quá đông của du khách cùng một thời điểm ở một di sản đã tạo nên những tác động cơ học, hoá học cùng với yếu tố khí hậu nhiệt đới gây nên những huỷ hoại đối với các di sản và các động sản phụ như các vật thờ, các dụng cụ trang trí. Thứ hai: Sự phát triển của các dịch vụ du lịch tự phát thiếu sự kiểm soát đã tác động mạnh mẽ đến cảnh quan văn hoá và môi trường sinh thái tại các khu di tích. Hiện tượng viết và khắc chữ lên một số di tích, sự ô nhiễm môi trường từ khói bụi, các loại rác thải… đang xảy ra tác động trực tiếp đến các di tích… Thứ ba: Các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể là các điểm nổi bật trong văn hoá của mỗi dân tộc. Do tác động của quá trình thương mại hoá, các giá trị này đang bị mai một. Thứ tư: Có sự xung đột giữa các giá trị văn hoá bản địa và văn hoá của du khách, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, nhiều nơi đã và đang diễn ra những thay đổi không lành mạnh từ lối sống truyền thống sang lối sống hiện đại được du nhập thông qua khách du lịch. Thứ năm: Sự phát triển du lịch kèm theo buôn bán trái phép đồ cổ. Do hám lợi một số kẻ xấu đã ăn cắp cổ vật ở các khu di tích, đào bới các lăng mộ cổ và gom nhiều hiện vật quý trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu để bán với khách du lịch. Thứ sáu: Kinh tế du lịch được thúc đẩy là một tác nhân làm tăng sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội. Khắc phục được các thách thức và nguy cơ đó, văn hoá và du lịch nước ta chắc chắn sẽ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội bền vững, toàn diện. Chương 2 Mối quan hệ giữa văn hoá và du lịch Trên địa bàn Hà Nội 2.1. Thực trạng bảo tồn và phát triển văn hoá nhằm phục vụ phát triển du lịch 2.1.1. Di sản văn hoá Thăng Long Hà Nội nguồn lực cho phát triển du lịch Thủ đô 2.1.1.1. Tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên Hà Nội là một thành phố cổ kính có tài nguyên thiên nhiên, cảnh quan hấp dẫn, là một thành phố của cây xanh và hồ đẹp, nơi gặp gỡ giữa trời đất, con người và các quần thể hoà quyện vào nhau tạo thành một bức tranh duyên dáng. Với những cây xanh gắn bó với con người không chỉ làm đẹp cảnh quan mà còn làm cho môi trường thoáng mát. Những đường phố cũng có nhiều nét đặc trưng riêng của nó. Đường Trần Hưng Đạo với nhiều cây sấu um tùm, đường Điện Biên Phủ có hàng cây đa xanh ngắt, đường Ngô Quyền có những cây me cổ thụ. “Mùa Hoa Sữa” có ở đường Nguyễn Du, “Hoàng Lan" có ở Phố Phan Đình Phùng. Phố Lý Thường Kiệt, Đường Bà Triệu có "Bằng lăng”. Bốn mùa Hà Nội cho ta đầy sắc hương của nhiều loại hoa lá quanh năm xanh tốt. Hoa làng Ngọc Hà, Quất Quảng Bá, Hoa đào Nhật Tân… Hà Nội thuộc hai hệ thống sông chính là Sông Hồng và Sông Thái Bình giàu phù sa, cung cấp đủ nước tưới tiêu cho đồng ruộng, cây trồng. Thành phố có rất nhiều sông nhỏ và hồ đẹp: Cả thảy có tới 3.600 ha hồ ao với 27 hồ lớn, có thể trở thành nơi có điểm du lịch hấp dẫn. Hồ Gươm với Tháp Rùa, Đền Ngọc Sơn ngàn năm in bóng, đền được xây dựng trên Đảo Ngọc, với nhiều công trình liên hoàn tinh tế: cổng Nghi Môn, tháp Bút, đài Nghiên, cầu Thê Húc, lầu Đắc Nguyệt, đình Trấn Ba, tháp Rùa và ngôi đền chính. "Khen ai khéo hoạ dư đồ Giữa nơi thành thị có hồ xanh trong". Hồ đã gắn với huyền thoại lịch sử, chuyện xưa kể lại rằng: Khi xưa vua Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn có tìm được lưỡi kiếm ở dưới sông. Lê Lợi đem kiếm báu dưới cờ kháng chiến suốt mười năm đánh đuổi quân Minh, rồi về đóng đô ở Thăng Long. Một hôm nhà vua dạo thuyền bên hồ Lục Thuỷ (tên Hồ Gươm) gặp một con Rùa, Rùa ngậm lấy lặn biến. Từ đó có tên là “Hồ Gươm” hay còn gọi là “hồ Hoàn Kiếm”. Hồ Gươm là trung tâm của thủ đô, là danh thắng lịch sử văn hoá lâu đời với truyền thuyết yêu nước chống giặc ngoại xâm đã gắn trong tâm trí của mỗi người dân Việt Nam. Hồ có sức lôi cuốn khách du lịch trong nước và quốc tế, là nơi giao lưu giữa nhân dân thủ đô và nhân dân các địa phương khác. Trung tâm Hà Nội còn có nhiều hồ khác như: Hồ Bảy Mẫu, hồ Thiền Quang, hồ Trúc Bạch, hồ Giảng Võ… đều là những cảnh quan đẹp và là nơi vui chơi giải trí của nhiều người. Đặc biệt tiềm năng vô tận của Hồ Tây còn được biết đến như một điểm du lịch đa dạng và đặc sắc không chỉ của Hà Nội mà còn của cả nước. Từ xa xưa, Hồ Tây đã là nơi thưởng ngoạn cảnh quan, nơi hành hương, nơi nghỉ dưỡng, vui chơi. Hồ Tây cũng là nơi tập trung khá nhiều di tích văn hoá với bề dầy lịch sử ngàn năm và xưa hơn nữa. Hồ Tây với diện tích chừng 500 ha nằm trong nội thành Hà Nội, hồ được ví như là lá phổi xanh lớn cho thủ đô, nơi tập trung đông dân cư với hoạt động kinh tế, giao thông dày đặc. Hồ được biết đến như một nhánh lớn bị chia cắt của Sông Hồng. Hồ Tây không chỉ là một không gian xanh mà còn được bao phủ bởi các lớp huyền thoại lịch sử và đượm chất văn hoá dân gian. Truyền thuyết kể lại rằng: “Thời nhà Lý, Vua cho đúc đồng đen thành một quả chuông lớn, đúc song, khi đánh thử chuông, có một con Trâu Vàng từ phương Bắc ngỡ là tiếng mẹ đã vùng chạy sang: Trâu chạy tìm, đất sụt thành hồ. Nhà vua phải cho ném chuông xuống hồ, Trâu mới yên. Từ đó, Trâu ở lại đáy Hồ Tây cho nên còn gọi là hồ “Trâu Vàng". Hiện nay bao quanh Hồ Tây là trên 60 di tích lịch sử - văn hoá có giá trị nhiều mặt. Đặc biệt là các chùa, đình, đền, miếu… trong đó có những di tích là điểm đến đặc biệt quan trọng của khách du lịch như chùa Trấn Quốc, Phủ Tây Hồ, Quán Trấn Vũ … Gắn với các di tích ấy là lễ hội dân gian truyền thống có sức hấp dẫn với khách du lịch quốc tế và khách nội địa. Nhiều làng nghề truyền thống cũng tập trung quanh khu vực Hồ Tây nay trở thành phố phường mà vẫn giữ được nghề như nghề đúc đồng Ngũ Xã, giấy ở Yên Thái. Hồ Tây còn được đánh giá dưới góc độ khác tiềm năng của du lịch sinh thái và du lịch xanh cùng với du lịch thể thao mặt nước và dưới nước. Hồ Tây được bao quanh bởi nhiều làng cổ Yên Phụ, Quảng An, Nhật Tân, Bưởi, Thuỵ Khê, hệ thống cây xanh quanh 17 km chu vi hồ trong đó có nhiều cây lớn cùng với các làng hoa Nghi Tàm, Nhật Tân, tạo nên một môi trường sinh thái nhân văn hấp dẫn. Tiềm năng nước và mặt nước Hồ Tây mở ra khả năng lớn cho sự phát triển các loaị hình du lịch có sức hấp dẫn to lớn và lâu dài. Các hoạt động thể thao như bơi lội, câu cá, du thuyền, lướt vát đều có thể thực hiện được. Công viên Hồ Tây được xây dựng và đưa vào sử dụng đó là các dịch vụ vui chơi giải trí, ăn uống, thể thao bơi lội… trong đó có việc khai thác mặt nước ven hồ. Tổ hợp này đã thu hút gần 500 nghìn lượt khách du lịch vào sử dụng các dịch vụ trong những tháng hè. Những ngày thứ bẩy, chủ nhật có tới 7 nghìn lượt khách đến thăm quan. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra hiện nay là chất lượng nước và cảnh quan môi sinh ven Hồ Tây, tiềm năng lớn và quan trọng của du lịch, cần phải được đảm bảo trong sạch để có thể khai thác lâu bền. Nhiều cuộc khảo sát Hồ Tây cho thấy tình trạng nước và rác thải trong lòng hồ ngày càng bị ô nhiễm nghiêm trọng nhất là những nơi có các dịch vụ kinh doanh. Để Hồ Tây trở thành một trong những tiêu điểm của hoạt động du lịch của Hà Nội thì phải có chương trình đầu tư, qui hoạch, cải tạo, bảo tồn và khai thác một cách khoa học. 2.1.1.2. Tiềm năng về di tích lịch sử văn hoá Các thế hệ người Việt Nam, ngay từ buổi đầu dựng nước, đã biết tôn trọng và giữ gìn các giá trị văn hoá, đặc biệt là đã biết sáng tạo và huy động sức mạnh văn hoá vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trước những thử thách của thời gian và lịch sử, của thiên tai và địch hoạ để tồn tại và phát triển. Ông cha ta đã biết sớm khơi nguồn sức mạnh từ chiều sâu của nền văn hoá dân tộc, biết chắt lọc tinh hoa từ nền văn hoá của nhân loại để tạo nên những giá trị văn hoá cao đẹp, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc, thắm đượm tính nhân văn. Từ những giá trị truyền thống của văn hoá Việt Nam, Thăng Long - Hà Nội, mảnh đất ngàn năm văn hiến đã hình thành nên những di sản văn hoá (di sản văn hoá vật thể và phi vật thể) vô cùng phong phú và đa dạng. Ngày nay Hà Nội đã trở thành biểu tượng cho các giá trị văn hoá của dân tộc, là niềm tự hào của mỗi người Việt Nam. Câu thơ quen thuộc của Huỳnh Văn Nghệ, một nhà thơ một vị tướng quân trên đất Nam Bộ: “Từ thuở mang gươm đi mở cõi Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long” Đã nói thay tấm lòng của nhân dân cả nước đối với Hà Nội, mọi người dân cả nước “đều thương nhớ”, đều mong ước được đến thăm Hà Nội. Du khách nước ngoài đến Việt Nam cũng không thể bỏ qua Hà Nội bởi vì Hà Nội có bề dày lịch sử nghìn năm tồn tại, là thủ đô của nước Việt Nam anh hùng và mến khách. Thăng Long - Hà Nội” đã sớm trở thành điểm hội tụ văn hoá của mọi miền đất nước. Lý Công Uẩn đã mang về Thăng Long những giá trị văn hoá của vùng Kinh Bắc vốn là quê hương của mình. Sau thời Lý, văn hoá Thăng Long lại được bổ sung những nhân tố mới kể từ khi triều Lý trị vì ở Thăng Long… Cứ thế, với vị trí là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá của cả nước, văn hoá Hà Nội đã trở thành bản giao hưởng các giá trị đó đã được nâng cao và có ý nghĩa phổ quát trong mỗi giai đoạn lịch sử [11, tr.12]. Nghiên cứu về văn hoá Thăng Long - Hà Nội, một câu hỏi đã đặt ra: gần 1000 năm qua, Hà Nội đã là nơi hội tụ tài hoa và trí tuệ của cả nước, trong suốt chiều dài lịch sử đó, Hà Nội đã để lại những giá trị văn hoá gì cho ngày nay? Hà Nội có rất nhiều di tích lịch sử, văn hoá truyền thống, các công trình kiến trúc của đình chùa, miếu mạo, những khu phố cổ, những dinh thự, những quần thể kiến trúc của nền văn hoá phương Đông vừa tự nhiên, thơ mộng huyền bí, đẹp đẽ. Theo báo cáo năm 2002 của Ban quản lý danh thắng và di tích, Hà Nội có khoảng 2.727 di tích lịch sử văn hoá bao gồm 775 ngôi chùa, 216 ngôi đền, 252 ngôi miếu, 679 ngôi đình, 12 lăng, 66 nhà thờ họ, 32 quán am. Di sản văn hoá Thăng Long- Hà Nội đa dạng và phong phú, có niên đại từ trước thời Lý đến thời Nguyễn, những viên ngọc quí trong kho tàng văn hoá của dân tộc. Mật độ di tích của Hà Nội thuộc loại cao nhất nước. Những di sản này được sinh ra và nuôi dưỡng bằng đạo lý, tín ngưỡng và phong tục truyền thống của dân tộc nên có sức sống mãnh liệt, lâu bền. Có khách du lịch nước ngoài đã nêu nhận xét về Hà Nội: Với tư cách là khách du lịch mến yêu Hà Nội, bản thân tôi rất mong Hà Nội ngày càng hiện đại, nhưng điều quan trọng hơn cả là việc lưu giữ các di tích lịch sử, những thắng cảnh mạng giá trị nhân văn vốn có từ lâu đời của các bạn. Theo tôi chính những yếu tố ấy mới tạo nên được sức sống, nét đặc trưng rất riêng của Hà Nội [59, tr.32]. Trong các di tích kiến trúc cổ, chùa có số lượng lớn nhất. Chùa Trấn Quốc là chùa cổ vào loại bậc nhất nước ta được xây dựng từ thời Lý Nam Đế. Chùa ở phía đông Hồ Tây, xây dựng trên hòn đảo xưa có tên gọi là Kim Ngư. Chùa như một hòn đảo được sóng vỗ quanh năm. Ngôi chùa kết hợp được vẻ đẹp cổ kính của di tích lịch sử lâu đời với vẻ đẹp thanh nhã của thắng cảnh ven hồ. Qua nhiều niên đại, chùa vẫn được coi là một danh thắng đẹp nhất kinh thành, đã đi vào lịch sử như một niềm tự hào của văn hoá dân tộc. Chùa Kim Liên được xây dựng từ năm 1639, có tên gọi là chùa Sen Vàng, cũng ở Hồ Tây, nằm trên bán đảo Nghi Tàm. Ngôi chùa như nổi trên mặt nước, kiến trúc độc đáo, mỗi nếp nhà có hai tầng mái, cả bốn mặt tường đều xây gạch trần, với ba nếp nhà liên tiếp nhau thành hình chữ tam vừa lộng lẫy vừa trang nghiêm. Chùa với bề dày lịch sử, và những giá trị kiến trúc nghệ thuật lớn được đặt vào vị trí trang trọng trong kho di sản văn hoá, chùa lại nằm trong quần thể của Hồ Tây, một tuyến tham quan du lịch liên khu di tích Quan Thánh - Trấn Quốc - Yên Phụ - Kim Liên. Chùa Một Cột được xây dựng năm 1041, chùa nằm ở phố Chùa Một Cột, quận Ba Đình, nằm trong quần thể di tích Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chùa Một Cột còn có tên chữ Hán là “Nhất Trụ Cột”. Chùa có kiến trúc độc đáo trên một trụ đá trong hồ nước. Chùa Một Cột còn gọi là Toà Đài Sen, vì hình dáng của chùa như là một bông sen nhô lên trên mặt nước. Chùa hình vuông làm bằng gỗ, lợp ngói ta. Nóc chùa có mặt nguyệt bốc lửa, hai đầu rồng chầu về mặt nguyệt. Trong chùa đức phật Quan Âm toạ lạc (có nhiều tay), sơn màu vằng. Phía trên tượng phật là hoành phi “Liên hoa đài” (đài Hoa Sen). Tượng phật Quan Âm cũng ngồi trên một bông sen bằng gỗ sơn son thiếp vàng, ở vị trí cao nhất. Chùa có bốn mái, bốn đầu đao cong được đắp hình đầu rồng. Chùa Một Cột được xây ở giữa hồ thả sen. Khách trong nước và quốc tế tới vãn cảnh, cầu nguyện, ngắm sen nở. Trong hồ tương phản với chùa cũng là bông sen lớn, toát lên sự thanh cao của đức phật Quan Âm. Ngoài ra Hà Nội còn rất nhiều chùa nổi tiếng về sự tích lịch sử, và kiến trúc độc đáo như chùa Lý Quốc Sư, Chùa Hà, chùa Thiên Phúc, chùa Vạn Ngọc, chùa Phúc Khánh. Ngoài hệ thống chùa còn có các đình, đền thờ phụng các anh hùng dân tộc, các thánh mà trong tiềm thức của dân gian cho là linh thiêng. Như đình Giảng Võ thờ bà Lý Châu Nương, một nữ tướng thời Trần phụ trách kho lương thực của quân đội và có công đánh giặc, được triều đình phong làm phúc thần. Đình Linh Đàm thờ Thành Hoàng là Bảo Ninh Vương. Theo truyền thuyết, Bảo Ninh Vương vốn là thuỷ thần học trò của Chu Văn An đã có công làm ra mưa chống hạn cho nhân dân bảy làng quanh vùng. Đình Thanh Hà nơi tưởng niệm Trần Lựu, người có công trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc dưới triều Trần ở thế kỷ XIII được nhân dân thờ làm Thành Hoàng. Đền Ngọc Sơn nằm trong lòng Hồ Gươm lịch sử. Đền là quần thể kiến trúc liên hoàn tinh tế giữa Tháp bút, Đài Nghiên, cầu Thê Húc, Lầu Đắc Nguyệt, đình Trấn Ba. Từ xưa nơi đây là nơi thưởng ngoạn của các vua chúa. Tháp Bút là một công trình kiến trúc đẹp, điểm tô thêm vẻ đẹp của thắng cảnh Hồ Gươm và đền Ngọc Sơn. Từ Tháp Bút đi vào gần phía hồ, trên nền núi Ngọc Sơn xưa, Nguyễn Văn Siêu đã cho xây một Đài Nghiên. Khu đền chính Ngọc Sơn được xây dựng ở trung tâm Đảo Ngọc, ẩn mình dưới những tán cây cổ thụ quanh năm xanh tốt. Có bài thơ khuyết danh được người đời ca tụng nói về Hồ Gươm và Cầu Thê Húc đã in trong Nam Thi hợp tuyển do đốc học Nguyễn Văn Ngọc biên tập. Bóng Tháp lô nhô lấp sóng cồn Nhịp cầu nho nhỏ ghếch sườn non Nước trong chưa vẩn tăm thầm kiếm Đường rộng còn trơ dấu phép môn, Kim cổ treo chung tranh thuỷ mặc Tang thương chớp nhoáng bóng hoàng hôn Nghìn thu suy thịnh gương còn đó, Coi thuở vầng trăng khuyết lại tròn. Ngày nay đền được tu sửa lại càng trở nên đẹp và đầy ý nghĩa nhân bản. Đền được soi mình dưới nước như những hạt ngọc lung linh huyền diệu cho tất cả khách thập phương đến thăm cảnh hồ. Đền Hai Bà Trưng, thờ hai nữ anh hùng đầu tiên của lịch sử chống giặc ngoại xâm ở nửa đầu thế kỷ I sau công nguyên: Trưng Trắc và Trưng Nhị. Sự ra đời của ngôi đền đã được kể lại rằng: Vào đời Lý Anh Tông niên hiệu Đại Đinh Ba (1142) có pho tượng đá nổi trên dòng Nhị Hà toả sáng cả một đoạn sông, thuyền bè không dám đến gần. Vua Anh Tông biết chuyện bèn sai người ra đón rước nhưng không được. Theo ý các bô lão, người ta lấy vải đỏ làm lễ buộc vào tượng rồi rước vào, một pho tượng cao lớn, đầu đội mũ trụ, thân mặc áo giáp, hai tay chỉ lên trời, một chân quì, một chân ngã ra… Đền được dựng ở bãi Đồng Nhân, thời nhà Lý do đất lở nên đã di chuyển vào vị trí ngày nay. Đền là trung tâm của quần thể di tích với đình thờ Thần Hoàng làng và chùa thờ phật. Trước mặt đền có hồ bán nguyệt, cây cối tốt tươi, dưới bóng cây đa cổ thụ có tấm bia đá đặt trên lưng Rùa. Trong đền có tượng Hai Bà mặc áo vàng, áo đỏ. Hà Nội còn có khu di tích văn hoá mang đậm dấu ấn của lịch sử như khu di tích Cổ Loa, Văn Miếu Quốc Tử Giám, khu di tích Hoả Lò… Khu di tích Cổ Loa là một vùng thành trì lớn, một dấu tích vật chất về kiến trúc quân sự và đô thị cổ cách đây gần hai thiên niên thành Cổ Loa gắn liền với câu chuyện An Dương Vương và Nhà nước Âu Lạc. Câu chuyện xây thành đã trở thành huyền thoại. Thành cứ ngày xây, đêm đổ nên chỉ khi vua được Thần Kim Qui (Rùa Vàng) cho người mách kế diệt Tinh Bạch Kê (Gà Trắng) thì thành mới xây xong. Chiếc Nỏ Thần mà lẫy nỏ chính là móng Rùa Vàng, trăm phát trăm trúng đã giúp vua tiêu diệt giặc, giữ được thành. Cổ Loa là di tích lớn và là di tích duy nhất còn lại đến nay về một thủ phủ lớn. Một thủ phủ mà cha ông ta đã thiết lập trên đồng bằng Bắc bộ, thoạt đầu hẳn là thủ phủ của thủ lĩnh quân sự lớn. Đây là di tích duy nhất về kiến trúc quân sự thời cổ ở nước ta. Trong khu vực thành vẫn còn tượng An Dương Vương bằng đồng. Dấu tích kiến trúc quan trọng còn lại đến nay nằm ở khu vực thành trong, có đền thờ An Dương Vương. Phía trước đền thờ có giếng Ngọc (nơi tự vẫn của Trọng Thuỷ). Cổ Loa nếu được đầu tư phục chế lại thì sẽ là di tích rất đáng tự hào của thủ đô. Văn Miếu Quốc Tử Giám được xây dựng từ thời Lý Thánh Tông (1070) là trường đại học đầu tiên của nước ta. Sau gần ngàn năm tồn tại, trải qua bao nhiêu biến cố, Văn Miếu Quốc Tử Giám ngày nay vẫn là khu di tích lịch sử văn hoá quan trọng, một thắng cảnh độc đáo. Ngoài giá trị lịch sử, văn hoá, nó còn có giá trị về kiến trúc nghệ thuật, là công trình kiến trúc tiêu biểu của nho giáo và trải qua nhiều triều đại được trùng tu sửa chữa. Toàn bộ khu vực có diện tích hình chữ nhật, chiều dài 306 mét, chiều rộng 75 mét, đường vào qua cổng Tam Quan, trong sân có “Khuê Văn Các” soi bóng xuống mặt hồ nước nhỏ hình vuông mang tên Thiên Quang Tinh (giếng nước mang ánh sáng của bầu trời) được coi là hình ảnh tiêu biểu của nền văn hoá Việt Nam cũng như của Thăng Long - Hà Nội. Trong số nhiều hiện vật cổ quí hiếm, chứng tích của ngàn năm văn hiến có 82 bia tiến sỹ được dựng từ năm 1484 đến năm 1780. Bia tiến sỹ là những phiến đá đặt trên lưng những con Rùa đá khắc văn bia và ghi rõ họ tên, quê quán của những người thi đỗ. Ngày nay, Văn Miếu Quốc Tử Giám là di tích nổi tiếng được bảo tồn khá nguyên vẹn giữa lòng Hà Nội. Đây không chỉ là di tích, một danh thắng cuốn hút khách vào thăm mà còn là trung tâm hoạt động văn hoá khoa học của thủ đô. Hà Nội còn nhiều gò tích như Gò Đống Đa, Ngọc Hồi … gắn với các chiến công anh hùng của cha ông. Hà Nội có khu phố cổ 36 phố phường được hình thành từ xa xưa với những tên phố thân quen: Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Bạc, Hàng Đường… Các ngôi nhà cổ theo kiểu nhà ống thường làm theo kiểu gian ngoài là chỗ bán hàng, tiếp đó là khoảng sân lộ thiên để lấy ánh sáng. Khu phố cổ Hà Nội là hạt nhân của phần “thị" này bao gồm 76 tuyến phố thuộc phạm vi mười phường trên địa bàn quận Hoàn Kiếm. Trong phạm vi phố cổ đã từng có trên một trăm di tích tôn giáo tín ngưỡng, là nơi thờ tự của các làng, thôn, phường cũ là nơi thờ tổ nghề, thờ thần Hoàng Hà Nội gốc như: Đền Bạc Mã, đình Thanh Hà, … Trải qua những biến động của thời gian, của lịch sử khu phố cổ có nhiều biến dạng, song bóng dáng của thời xưa vẫn còn lưu lại trên những khu phố cổ kính, cái không gian văn hoá đậm đà màu sắc cổ truyền của vẻ đẹp đô thị phản ánh gốc gác của dân cư kinh thành… Các loại mứt, ô mai và các món ăn đặc biệt hương vị “Tràng An” đã thu hút trí tuệ, tình cảm của các nhà văn, nhà nghiên cứu đã nhận xét: “Những nhà ống nhỏ bé lại xen với những mái chùa cong mềm mại hoà trong không gian cây xanh với vẻ đẹp yêu kiều. Một nét độc đáo nữa của Hà Nội mà ở thủ đô nhiều nước không có đó là những phố nghề, làng nghề như làng giấy, làng hoa, làng gốm, Hàng Bạc, Hàng Đường… mà chúng ta đang và sẽ giữ gìn và phát huy để trở thành những tuyến du lịch tham quan hướng dẫn du khách. Và với sự đầu tư của Nhà nước, sự tài trợ của quốc tế và trách nhiệm của người dân, khu phố cổ hy vọng sẽ được bảo tồn, tôn tạo trở thành khu sầm uất sẽ được phát triển theo hướng phố cổ trong thời đại mới”. Hàng chục di tích lịch sử cách mạng với những cơ sở cách mạng thời kỳ 1929 - 1930, 1936 - 1939, nhà tù Hoả Lò, nơi giam cầm các chiến sỹ yêu nước và cách mạng. Ngôi nhà 48 Hàng Ngang - nơi Bác Hồ viết Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, khu di tích lịch sử Ba đình nơi sống, làm việc và yên nghỉ của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Hệ thống các bảo tàng ở Hà Nội (Bảo tàng Lịch sử, Bảo tàng Cách mạng, Bảo tàng Lịch sử Quân sự, Bảo tàng Mỹ thuật, Bảo tàng Dân tộc học…) cũng là những địa điểm lý tưởng cho khách du lịch đến thăm quan, thưởng ngoạn ở thủ đô. 2.1.2. Các hoạt động văn hoá phục vụ cho phát triển du lịch 2.1.2.1. Hoạt động của các lễ hội Thăng Long - Hà Nội là mảnh đất có rất nhiều lễ hội. Chủ thể sáng tạo của các lễ hội cổ truyền đã tái tạo lại lịch sử, viết lại lịch sử dân tộc, quê hương bằng các lễ hội cổ truyền. Nhà nghiên cúu Nguyễn Vinh Phúc cho rằng: “đậm sắc màu lịch sử” là nét đặc trưng của lễ hội Việt Nam nói chung, Thăng Long- Hà Nội nói riêng. Với tấm lòng thành kính “nhớ về cội nguồn dân tộc”, lễ hội bao giờ cũng gắn bó với một cộng đồng dân cư nhất định. Lễ hội gắn bó với từng làng quê, các làng quê khác nhau thì có hội làng khác nhau. Mặt khác lễ hội cũng mang tính tộc người rõ nét, các dân tộc khác nhau sẽ có những lễ hội khác nhau. Những lễ hội tiêu biểu hàng năm của Hà Nội: * Lễ hội Đền: Thứ tự Tên lễ hội Không gian, địa điểm, địa danh Thời gian (theo âm lịch) Đối tượng tôn thờ (tên Thần, Thánh trong lễ hội Các nghi lễ chính thức, rước thần, tục hèm và các trò chơi dân gian 1 Lễ hội đền Cổ Loa Cổ Loa - Đông Anh 6-1 Thờ: Thục phán An Dương Vương (lập nước Âu Lạc) Có tế lễ nghênh rước - Tục rước “vua sống” - Đấu vật, chơi cờ tướng 2 Lễ hội đền Sóc Xuân Đỉnh - Từ Liêm 6-1 Thờ: Thánh Gióng (tượng cao 4 mét) Tế lễ và rước kiệu Thánh - Tục chơi cờ người và chọi gà 3 Lễ hội đền Sóc Sơn Sóc Sơn - Xuân Đỉnh 6 đến 8-1 Thờ: Thánh Gióng và Thổ thần Tế lễ và rước xách linh đình Lễ Dâng hương và lễ Mộc dục 52 xã rước hoa tre (nhuộm màu) dâng cũng xong tung cướp lấy may Lễ Chém tướng giặc Ân Chọi gà, cờ tướng, đu, hát ca trù 4 Lễ hội đèn Đồng Nhân Đồng Nhân - Quận Hai Bà Trưng 6-2 Thờ: Hai Bà Trưng (có 2 pho tượng quý của Hai Bà) Tổ chức tế lễ trọng thể Lễ Dâng hương và Rước tượng Hai Bà Có điệu múa đèn (“Con đĩ đánh bồng“) và nhiều trò chơi Thứ tự Tên lễ hội Không gian, địa điểm, địa danh Thời gian (theo âm lịch) Đối tượng tôn thờ (tên Thần, Thánh trong lễ hội Các nghi lễ chính thức, rước thần, tục hèm và các trò chơi dân gian dân gian 5 Lễ hội đền Trấn Vũ Thôn Ngọc trì - Thạch Bàn - Gia Lâm 6 đến 10- 2 Thờ: Đại Thánh Trấn Vũ (tượng bằng đồng đen cao 3,8 mét nặng 4 tấn) Tổ chức tế lễ dâng hương trọng thể Có tục kéo co ngồi rất cổ và nhiều trò vui dân gian 6 Lễ hội đền Voi Phục Thủ Lệ - Câù Giấy 10-2 Thờ: Hoàng Tử Linh Lang (con trai vua Lý Thái Tông) có nhiều công đánh Tống Tổ chức tế lễ và rước xách. Dâng hương tưởng niệm. Có tục thi nâng hòn đá lớn (tảng đá) và chơi cờ tướng… 7 Lễ hội đền Bạch Mã Hàng Buồm - Hoàn Kiếm 15-2 và 15-8 Thờ: Thần Bạch mã (tục thờ thần mặt trời) Thờ Thần Long đỗ (thần Thành Hoàng của kinh đô Thăng Long) Tổ chức tế lễ trọng thể cầu mưa (15-2) và cầu tạnh (15-8) Lễ Nghìn xuân, Tiến Ngưu đánh trâu, Cầu mùa. Lễ Ăn thề 8 Lễ (đền) Phủ Tây Hồ Quảng An - Tây Hồ 3 đến 7-3 Thờ Liễu Hạnh, Thánh Mẫu và tam toà Thánh Mẫu Tế lễ dâng hương, cúng bái nhân ngày giỗ Mẫu Liễu Hạnh Có lên đồng hầu bóng và thi hát chầu văn Thứ tự Tên lễ hội Không gian, địa điểm, địa danh Thời gian (theo âm lịch) Đối tượng tôn thờ (tên Thần, Thánh trong lễ hội Các nghi lễ chính thức, rước thần, tục hèm và các trò chơi dân gian 9 Lễ hội đền Đồng Cỏ Thuỵ Khuê - Phường Bưởi 4-4 Thờ: Thần Đồng Cổ (Thần Trống Đồng) Tế lễ trọng thể dâng hương. Lễ Tuyên thệ Tổ chức hội thể của các vua quan thời phong kiến Đây là quốc lễ theo nghi thức triều đình xưa do vua chủ trì 10 Lễ hội đền Phù Đổng Làng Phù Đổng -Xã Phù Đổng - Gia Lâm 9-4 Thờ: Thánh Gióng + Đức Thánh Mẫu (mẹ Thánh Gióng) Tổ chức tế lễ trọng thể Có rước kiệu Thánh Lễ rước nước Tục mặt trời cổ xưa Trò diễn trận “Thánh Gióng đánh giặc Ân” Có nhiều trò chơi dân gian: đấu vật, cờ người, hát chèo, quan họ 11 Lễ hội đền Chí Nam Lệ Chi- Gia Lâm 8-4 Thờ: Thánh Gióng + Thờ Hiển Công (là tướng thời Hùng Vương thứ 6) Có tế lễ và rước xách linh đình. Tổ chức hội trận của hai phe trai đình (đóng quân ta và quân giặc Ân) Thi vật và đấu gậy. *lễ hội chùa: Thứ tự Tên lễ hội Địa điểm, địa danh của lễ hội Thời gian Lễ hội (âm lịch) Đối tượng tôn thờ: Phật - Hậu Phật Các nghi lễ Phật giáo- tín ngưỡng dân gian, các trò chơi trò diễn đặc sắc 1 Lễ hội chùa Vua Phố Huế, Quận Hai Bà Trưng 6 đến 8-1 Thờ: Tam bảo chư Phật Thờ: Đế Thích (vua cờ) - Lễ dâng hương, tụng kinh niệm Phật. Tế lễ vua cờ. - Trò chơi cờ người, cờ tướng, cờ bỏi, chọi gà, múa sư tử. - Ai được giải nhất 3 năm liền được khắc tên vào bia đá chùa. 2 Lễ hội chùa Nành (Hội Đại) Xã Ninh Hiệp 4 đến 6-2 Thờ tam bảo chư Phật - Thờ Phật Mẫu Man Nương - Bà Nành - Pháp Vân - Thờ Trần Hưng Đạo - Lễ cầu kinh niệm Phật. Tế lễ rước Bà Nành, kéo ngựa và lễ lục cúng. Tục tế lễ Trần Hưng Đạo - Trò tục: Nâng cây Phan (trò múa tín ngưỡng phồn thực). 3 Lễ hội chùa Láng Phường Láng Trung, Đống Đa 7-3 Thờ Đức Phật - Thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh (Thánh Từ) - Vua Lý - Lễ tụng kinh niệm Phật - Lễ dâng hương cúng Thánh thần đồ chay - Tế lễ, lễ tắm tượng - Rước xách kiệu Thánh lớn - Lễ cầu Thứ tự Tên lễ hội Địa điểm, địa danh của lễ hội Thời gian Lễ hội (âm lịch) Đối tượng tôn thờ: Phật - Hậu Phật Các nghi lễ Phật giáo- tín ngưỡng dân gian, các trò chơi trò diễn đặc sắc Thần Tông. đảo, cầu mưa - Nhiều trò chơi dân gian 4 Lễ hội chùa Đông Phù Liệt (Chùa Nhót tên chữ: Hưng Long tự) Làng Nhót, Đông Mỹ, Thanh Trì 15-3 Thờ đức Phật và hai công chúa (con gái vua Lý Thánh Tông) Lễ cầu kinh niệm Phật - Tế lễ dâng hương và đồ chay - Lễ kể hạnh, cầu lộc cầu phúc 5 Lễ hội chùa Dục Khánh Ngõ Văn Chương, Tôn Đức Thắng, Đống Đa 24 đến 25-4 Thờ Phật - Thờ vua Lê Thái Tổ và vua Lê Thần Tông - Tượng Nguyễn Trãi và bà Nguyễn Thị Lộ - Có cầu kinh niệm Phật - Lễ dâng hương, cúng tế các vị thờ ở đây theo nghi thức cổ truyền - Có nhiều trò vui dân gian * Lễ hội Đình: Thứ tự Tên lễ hội Địa điểm, địa danh Thời gian (lịch âm) Đối tượng tôn thờ Các nghi lễ chính, trò chơi, trò diễn dân gian 1 Lễ hội đình Sài Đồng Làng Sài Đồng, Gia Thuỵ, Gia Lâm 4-1 (hàng tháng) Thành Hoàng Linh Lang Đại Vương (Thời Lý) - Tế thần - Động thổ - Trình nghề (chủ yếu là nghề nông) 2 Lễ hội đình Mai Động Làng Mai Động, Q. Hai Bà Trưng Từ 4 đến 6 tháng hàng năm Thờ: Bà Lê Trân - Nguyễn Tam Chinh (Tổ sư lò vật làng Mai Động) - Có tế lễ theo nghi thức cổ truyền - Trò tục đấu vật (diễn lại sự tích luyện quân sỹ, thời kỳ khởi nghĩa Hai Bà Trưng của tổ sư lò vật Mai Động) 3 Lễ hội đình Khương Thượng Khương Thượng, Đống đa 5 tháng 1 hàng năm Vua Quang Trung - Nguyễn Huệ - Tế lễ dâng hương ở đình Khương Thượng - Cầu siêu ở chùa Đông Quang - Rước rồng lửa, múa lân, chọi gà, cờ tướng 4 Lễ hội đình Hoàng Mai Làng Hoàng Mai, Hoàng Văn Thụ, Q. Hai Bà Trưng 6 tháng 1 hàng năm Trần Khát Chân (tướng nhà Trần) - Dâng hương, tế thần - Rước kiệu thần - Đấu vật, đấu gậy, chọi gà, cờ người. Thứ tự Tên lễ hội Địa điểm, địa danh Thời gian (lịch âm) Đối tượng tôn thờ Các nghi lễ chính, trò chơi, trò diễn dân gian Thả diều 5 Lễ hội đình Thị Cấm Làng Thị Cấm, Xuân Phương, Từ Liêm 6 đến 8-1 Phạm Công Tây (thời Hùng Vương 18) và công chúa Hoa Dung - Tế lễ - Rước kiệu Thần từ Thị Cấm đến Hoè Thị - Thổi cơm thi 6 Lễ hội đình Lỗ Khê Kẻ Rỗ, xã Liên Hà, Đông Anh 6-15 Ông Dực, ông Minh, Dinh Dự và Mãn Hoa Đường - Dâng hương, tế lễ - Hát cửa đình, hát thi (ở Lỗ Khê còn có lễ tế Tổ sư ca công vào ngày 6-4 và hội thu vào 10- 8) 7 Lễ hội đình Gạ Làng Gạ, Phú gia, Từ Liêm Từ 9 đến 11-1 Bà chúa Tằm Quỳnh Hoa - Tế lễ - lấy nước, rước nước - Đấu võ, múa sư tử, hát ả đào, diễn chèo 8 Lễ hội đình Triều Khúc Làng Triều Khúc,Tân Triều, Thanh Trì Từ 9 đến 12-1 Bố Cái Đại Vương (Vua Phùng Hưng) - Nhập tịch - Tế lễ mừng Phùng Hưng lên ngôi - Rước hoàng bào từ đình Sắc về đình Đaị - Múa rồng, múa lân, múa con đĩ đánh bồng. Chạy cờ duyệt quân, vật giải, chơi Thứ tự Tên lễ hội Địa điểm, địa danh Thời gian (lịch âm) Đối tượng tôn thờ Các nghi lễ chính, trò chơi, trò diễn dân gian đu, hát chèo 9 Lễ hội đình Cự Chính Thôn Cự Chính, Nhân Chính, Thanh Xuân 12 -1, 12-2, 18-10 Lã Đại Liêu (Tướng của Tản Viên) - Tế lễ - dâng hương - Rước kiệu thần - các trò diễn và trò chơi dân gian 10 Lễ hội đình Khoan Tế Làng Khoan Tế, Đa Tốn, Gia Lâm 10-1 Bạch mã Đại Vương và Phùng Kha Đại Vương - Dânghương - Tế lễ - Thi ném pháo theo kiểu riêng của địa phương 11 Lễ hội đình Vĩnh Ninh Làng Vính Ninh, Vĩnh Quỳnh, Thanh trì 8-2 Nàng Tý quê ở Láng (là tướng của Hai Bà Trưng) - Ông Rắn - Ông Đất - Dâng hương, tế lễ - Đánh cờ, đấu vật - Vào ngày hội, mọi người đều thắp hương tại nhà mình 12 Lễ hội đình Yên Phụ Yên Phụ, Tây Hồ 8 đến 10-2 Linh Lang Đại Vương (Hoàng tử đời Trần) - Tế lễ - Rước kiệu - Chọi gà, đánh cờ tướng, tham quan di tích cổ 13 Lế hội đình Mọc Quan Nhân 5 làng Mọc, Nhân Chính, Thanh 8 đến 11-2 - Lã Liệt + Hùng Lãnh Công + ả Đại Vương (Đức - Tế lễ - Các dòng họ tới đình dâng hương và lễ phẩm Thứ tự Tên lễ hội Địa điểm, địa danh Thời gian (lịch âm) Đối tượng tôn thờ Các nghi lễ chính, trò chơi, trò diễn dân gian Xuân Bà) + Đoàn Thượng - rước kiệu qua 5 làng (cả đi lẫn về) - Múa rồng, múa sư tử - Cờ tướng, hát chèo 14 Lễ hội đình Vẽ Làng Vẽ, Đông Ngạc, Từ Liêm 9 đến 11-2 - Độc Cước + Lê Khôi + Thổ thần bản địa - Tế thần, dâng hương - Lễ tạ trời đất - Rước nước - Đại tế - Lễ tạ trời đất - Đấu vật, cờ tướng 15 Lễ hội đình Giàn Làng Giàn, Xuân Đỉnh, Từ Liêm 9 đến 11-2 Lý Phục Man (danh tướng thời Tiền Lý) - Tế lễ. Rước nước - Rước kiệu Ông + kiệu bà sang chùa rồi tới đình - Cờ người, vật, đấu võ, chọi gà 16 Lế hội đình Cót Làng Cót, Yên Hoà, Từ Liêm 9 đến 11-2 Lý Thần Tông + Bạch Hạc + Cao Sơn Đại Vương + Diêm La Đại vương - Tễ lễ - Rước bài vị từ miếu ra đình - Chọi gà, cờ tướng 17 Lễ hội đình Cổ Nhuế Kẻ Noi, Cổ Nhuế, Từ Liêm 9 đến 11-2 Đông Chinh Vương + Phu Nhân Đông Chinh + Tạ - Dâng hương - Đại tế - Cờ người - Cúng cỗ chay, cơm Thứ tự Tên lễ hội Địa điểm, địa danh Thời gian (lịch âm) Đối tượng tôn thờ Các nghi lễ chính, trò chơi, trò diễn dân gian Minh Hiền (chị gái) nắm, muối vừng vì phu nhân của Ngài có một thời đi tu 18 Lễ hội đình An Thái Làng An Thái, Bưởi, Tây Hồ 10-2 Hai vợ chồng Vũ Phục có công cứu vua Lý Nhân Tông khỏi đau mắt (theo lời Thần, hai vợ chồng đều nhảy xuống sông Tô Lịch tự tử) - Tế thần - Rước kiệu từ đình An Thái sang đền Đồng Cổ - Hát ca trù - Ngâm thơ ở đình - Diễn chèo + tuồng ở khu cầu san - Đu tiên, cờ tướng, chọi gà - Thi cây cảnh 19 Lễ hội đình Đông Ngạc Làng Vẽ, Đông Ngạc, Từ Liêm 10 đến 12-2 Hoá Quang Tiên Sơn Đại Thánh - Lê Khôi (con vua Lê Thái tổ) - Thần Bản Thổ - Tế lễ trọng thị - Rước xách kiệu thần - Cờ bỏi, chọi gà 20 Lễ hội đình Cấm Làng Thị Cấm, Vân Canh, Từ Liêm 12-2 - Phan Tây Nhạc (Bộ tướng của vua Hùng Duệ - Tế lễ - Rước kiệu Thần - Thi nấu cơm và dệt vải Thứ tự Tên lễ hội Địa điểm, địa danh Thời gian (lịch âm) Đối tượng tôn thờ Các nghi lễ chính, trò chơi, trò diễn dân gian Vương 18) 21 Lễ hội đình Quảng Bá Quảng Bá, Quảng An, Tây Hồ 12-2, 10-8 Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng - Tế lễ, dâng hương - Rước kiệu Thần - Có nhiều trò tục dân gian 22 Lế hội đình Cá Lễ Làng Hồ Khẩu, Bưởi, Tây Hồ 14-2 - Cá Lễ và Cống Lễ (hai anh em sinh đôi có công diệt giặc Bạch Hạc được phong Tướng công vệ quốc và Tướng quân Dực Thánh) - Tế lễ - Dâng hương - Diễn trò bơi cạn mô phỏng cảnh Cá Lễ đi tìm vợ chết đưối (trò này do 36 thanh niên đảm nhiệm) 23 Lễ hội đình Đăm Làng Đăm, Tây Tựu, Từ Liêm 9 đến 12-3 - Đức Thánh Tam giang + Bạch Hạc Tam Giang - Dâng hương, tế lễ - Rước Thánh từ miếu về đình - Đua thuyền dạo chơi trình Thánh - Rước Thánh ra Thuỷ đình dự hội - Đua thuyền, đốt pháo - Diến chèo + hội đua thuyền làng Đăm rất qui mô, nổi tiếng Thứ tự Tên lễ hội Địa điểm, địa danh Thời gian (lịch âm) Đối tượng tôn thờ Các nghi lễ chính, trò chơi, trò diễn dân gian 24 Lễ hội đình Thượng Cát Làng Đông Ba, Thượng cát, Từ Liêm 10 đến 12-3 - Quách Lãng - Đinh Bạch Nương - Đinh Tĩnh Nương (các tướng của Hai Bà Trưng) - Tế lễ - dâng hương - Rước kiệu các vị thành Hoàng làng - Thi bơi trải, đua thuyền - Tục đánh cờ người 25 Lễ hội đình Mai Dịch Làng Mai Dịch, Từ Liêm 10 đến 12-3 Diêm La Đại Vương (tướng của Lý Nam Đế 544-548) - Tế lễ và rước xách rất linh đình - Có các trò chơi dân gian 26 Lế hội đình Lệ Mật Làng Lệ Mật, Việt Hưng, Gia Lâm 23-3 - Hoàng Phúc Trung (còn gọi là Hoàng Lệ Mật) có công diệt thuỷ quái cứu công chúa nhà Lý và khai khẩn 13 trại ở phía Tây Thăng Long - Tế lễ - Dâng cá chép cần - Rước nước - Rước kiệu - Rước cỗ của dân 13 trại phía nam Nhị Hà - Múa rắn 27 Lễ hội đình Chèm Làng Chèm, Thuỵ Phương, Từ Liêm 15-5 Lý Ông Trọng - Tế lễ trọng thị - Rước kiệu Thánh lên lên làng Hoàng Xá giao hiếu - Có các trò vui dân Thứ tự Tên lễ hội Địa điểm, địa danh Thời gian (lịch âm) Đối tượng tôn thờ Các nghi lễ chính, trò chơi, trò diễn dân gian gian trong 3 ngày hội Giá trị của lễ hội mà du khách được cảm nhận chính là gía trị cộng cảm và cộng mệnh. Ngày lễ hội là thời gian cư dân tụ họp để tưởng nhớ vị thánh của làng. Vì thế đây là một sinh hoạt tập thể long trọng thường đem lại niềm phấn chấn cho tất cả mọi người. Các nghi thức của lễ hội mà mọi người phải tuân theo tạo nên niềm cộng cảm với tất cả cộng đồng, làm cho mỗi người gắn bó chặt chẽ hơn với cộng đồng, cảm thấy có khả năng vươn lên ở tầm vóc cao hơn, với sức mạnh lớn hơn. Lễ hội còn như một loại bảo tàng văn hoá- bảo tàng tâm thức lưu giữ các giá trị văn hoá, các sinh hoạt văn hoá. Đó có thể là các trò chơi tín ngường dân gian, các hình thức diễn xướng dân gian… Du khách có thể tìm hiểu tín ngưỡng Việt Nam có đặc điểm là sự dung hợp giữa tín ngưỡng Phật giáo, Đạo giáo, với tín ngưỡng dân gian. Đặc điểm này càng được thể hiện rõ trên đất Thăng Long. Nguyên nhân sâu sa của sự dung hợp này là truyền thống yêu thương giúp đỡ nhau trong nhân dân, là tinh thần khoan dung của dân tộc và thái độ không thành kiến với những người khác mình về tư tưởng, quan điểm cũng như về tín ngưỡng. Thăng Long có đền thờ thần Núi (Tản Viên), thần Sông (Tô Lịch). Có “Thăng Long tứ trấn”, bốn ngôi đền các vị thần trấn giữ bốn phía đông, tây, nam, bắc. Vị anh hùng Trần Hưng Đạo được suy tôn thành Đức Thánh Trần được thờ ở nhiều nơi. Vị công chúa huyền thoại Liễu Hạnh được suy tôn là Thánh Mẫu và người “Mẹ bất tử”, một trong “tứ bất tử” của Việt Nam, cũng có hàng trăm nơi thờ cúng ở Thăng Long và ở cả nước nhưng nổi tiếng nhất là ở Phủ Tây Hồ. Như vậy lễ hội truyền thống gắn liền với lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Lễ hội biểu hiện sức sáng tạo bền bỉ, lớn lao của nhân dân trải qua hàng thiên niên kỷ, qua nhiều loại hình lễ hội mang tính toàn quốc hoặc tính địa phương. Lễ hội vừa được kế thừa đồng thời vừa mang được cải biến qua từng thế hệ. Lễ hội là những sinh hoạt của cộng đồng, mang tính dân tộc và được vận động trong lịch sử. Các qui luật vận động của nó nằm trong các qui luật gía trị của quá trình xã hội hoá. Sinh hoạt lễ hội đã mang đến cho người thưởng thức những giá trị đạo đức, các phong tục, tập quán, các điều kiêng kỵ… Nó gắn bó với các tình cảm, thị hiếu, đức tin của dân tộc. Có thể nói gía trị của các lễ hội được thể hiện trong nhiều mặt: Nghi lễ, y phục, đồ thờ, kiến trúc và trang trí, biểu diễn nghệ thuật, lễ vật dâng cúng và các trò chơi dân gian… đặc biệt cần phải nói đến những con người trong lễ hội, nhân vật lễ hội chính là chủ thể sáng tạo và vận hành lễ hội, là động cơ, nguồn gốc sinh ra và nuôi dưỡng lễ hội. Sự hấp dẫn của lễ hội truyền thống trước hết là ý nghĩa lịch sử, văn hoá, chính trị cũng như ý nghĩa cộng đồng xã hội rộng lớn. Chẳng hạn khu di tích Phù Đổng là nơi thờ vị anh hùng có công đánh giặc Ân từ thời Hùng Vương thứ sáu. Sự tích làng Gióng thuộc loại hàng đầu trong kho huyền thoại và lịch sử văn hoá Việt Nam. Lễ hội diễn ra ngày mùng 9 tháng tư hàng năm. Câu chuyện Thánh Gióng là tư liệu thần thoại ngợi ca cuộc đấu tranh thần thánh chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam thời cổ. Người anh hùng làng Gióng là hình ảnh sáng ngời của dân tộc Việt Nam trưởng thành trong chiến đấu, Gióng cùng toàn dân đánh giặc, Gióng nhằm nơi giặc Ân đóng mà xông tới quất roi sắt vào thân giặc, vút tre ngà xuống đầu giặc và đánh thắng giặc xong bay về Trời. Như vậy trong sự nghiệp bảo vệ đất nước cũng là những trang sáng ngời của lịch sử gợi cho du khách một ý niệm cao cả thiêng liêng về dân tộc, về các bậc anh hùng trong nhân dân. Qua lễ hội cái đẹp của tinh thần đó đã được cụ thể hoá bằng các cuộc biểu diễn văn hoá,văn nghệ, võ thuật. Xem trận đánh của Gióng trong lễ hội ta sẽ thấy được tính thẩm mỹ dân tộc của lễ hội được tái tạo lại bản chất anh hùng của dân tộc. Những trò vui chơi của lễ hội không chỉ để giải trí, thư giãn mà còn là những trò vui chơi mang nội dung lịch sử văn hoá sâu sắc. Lễ hội truyền thống còn mang lại sự bình đẳng giữa con người với con người, giữa nam và nữ. Trong các cuộc rước kiệu ta thấy từng đoàn người ăn mặc màu sắc sặc sỡ thu hút sự chiêm ngưỡng của bao người. Đó là những bức tranh màu sắc và sự thanh lịch đậm đà bản sắc dân tộc từ cách ăn mặc đến cách đi đứng, cách ứng xử… Như vậy tính dân tộc quán triệt trong suốt quá trình diễn ra các lễ hội là một động lực bảo tồn và phát huy các lễ hội trong đời sống. Tiếp xúc với cái hay cái đẹp có tính chất dân dã và tính văn hoá mang trí tuệ cao đánh dấu một nền văn minh xóm làng do cha ông tạo lập và truyền lại. Nhân dân đã tự biên, tự diễn nghệ thuật trong niềm vui sáng tạo, biểu diễn rõ ý thức và tinh thần thẩm mỹ trong lễ hội. Lễ hội truyền thống thường gắn liền với danh lam thắng cảnh và các di tích lịch sử, văn hoá. Nói đến lễ hội ở đền Quán Thánh là nhắc đến thờ thần Trấn Vũ. Một hình tượng kết hợp giữa nhân vật thần thoại Việt Nam. Ông thánh đã giúp An Dương Vương trừ ma trong khi xây thành Cổ Loa và nhân vật thần thoại Trung Quốc ông Thánh coi giữ phương Bắc. Đền Quán Thánh đẹp về nhiều mặt, ở đây hình thức và nội dung lịch sử của di tích hoà quyện vào nhau, gắn liền với khung cảnh đẹp của Hồ Tây với vần thơ nổi tiếng: Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ xương Mịt mù khói toả cành sương Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ”. ở đây mỗi đình chùa và cảnh quan thiên nhiên bao quanh là một bảo tàng nhỏ của lễ hội, trong đó có các di tích và một số di vật nhất định. Về mặt lễ hội, du lịch lễ hội sẽ đem lại một số ngân quĩ không nhỏ để tôn tạo trùng tu các di tích, các quần thể kiến trúc và xây dựng các cơ sở dịch vụ như khách sạn, nơi tham quan… Muốn ngày càng thu hút khách đến chiêm ngưỡng thì phải quan tâm bảo vệ các giá trị dân tộc của lễ hội truyền thống, phải coi trọng công tác bảo tồn các di tích và di vật liên quan đến lễ hội, giữ gìn cảnh quan thiên nhiên. Bên cạnh đó cần phải đào tạo được đội ngũ hướng dẫn viên du lịch có kiến thức và trình độ văn hoá lễ hội… 2.1.2.2. Hoạt động của các làng nghề truyền thống Làng nghề truyền thống là nơi một cụm dân cư sinh sống và sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ cổ truyền. Họ tạo thành làng nghề hay phường hội, một cộng đồng nhỏ về kinh tế và văn hoá. Những phong tục, tập quán, đền thờ ông tổ nghề, những bí quyết ngành nghề thủ công truyền thống làm nên nét riêng trong văn hoá của mỗi làng nghề. Các sản phẩm mà các làng nghề truyền thống làm ra là sự kết tinh các giá trị văn hoá lâu đời của dân tộc. Nhiều người nước ngoài biết đến Việt Nam thông qua các mặt hàng thủ công truyền thống. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ thể hiện khá đậm nét qua các hoạ tiết chạm trổ mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Những sản phẩm của làng nghề với những nét riêng biệt độc đáo là dấu ấn di sản văn hoá quý báu mà ông cha ta để lại cho thế hệ mai sau. Vì vậy trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nếu không có ý thức bảo tồn nghề thủ công mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc thì những nét văn hoá độc đáo đó sẽ bị mai một. Việc duy trì các ngành nghề truyền thống, bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc trong các sản phẩm thủ công truyền thống là rất cần thiết vì các sản phẩm thủ công truyền thống có các giá trị văn hoá đặc biệt, nó mang trong mình bản sắc văn hoá dân tộc, nó là những thông điệp bền vững của văn hoá dân tộc được lưu truyền lại cho các thế hệ sau và du khách quốc tế. Các làng nghề truyền thống ở Thăng Long - Hà Nội là nơi lưu giữ những giá trị văn hoá vật chất và tinh thần của dân tộc. Được hình thành và tồn tại trong lịch sử của dân tộc, của vùng văn hoá Bắc Bộ và tiểu vùng văn hoá Thăng Long, các làng nghề này đã có một quá trình tồn tại lâu dài như làng nghề giấy ở Bưởi, ở Yên Hoà, làng đúc đồng Ngũ Xã, làng mây tre Liên Ngạc, làng gỗ Thiết ứng - Vân Hà - Đông Anh, đặc biệt là làng gốm sứ Bát Tràng... Sự tồn tại và phát triển của làng nghề truyền thống hôm nay gắn liền với sự phát triển của hoạt động du lịch hiện tại và tương lai. Những sản phẩm được tạo ra bằng những bàn tay khéo léo của cư dân nơi đâyđược khách hàng ưa chuộng trong đó lực lượng đáng kể là khách du lịch trong nước và quốc tế. Đối với làng nghề, sự hấp dẫn của nó với khách du lịch ở chỗ nó thể hiện và bảo đảm những giá trị văn hoá dân tộc rất đặc sắc và độc đáo: Các lọ hoa, bình thậm chí cả những con vật trong huyền thoại được tạo dáng bởi chất men với hoa văn tinh tế khiến du khách ngạc nhiên và thán phục. Mây tre được đan bởi những người thợ cần mẫn chăm chỉ, sản phẩm là những chiếc mũ, nón, túi, hộp, bàn ghế… vừa dân dã vừa độc đáo của làng nghề Liên Ngạc vẫn còn nguyên giá trị đến ngày nay. Bên cạnh làng nghề có những ngôi đình, đền hay nhà thờ tổ nghề vào đầu năm du khách đến tham quan còn được chứng kiến và tham dự những lễ hội liên quan đến các vị tổ của nghề truyền thống ở các làng quê. Không khí ngày hội thật náo nhiệt, giàu tính nghệ thuật, du khách có thể tìm hiểu được cội nguồn của những nghề thủ công truyền thống, tìm hiểu bản sắc văn hoá của vùng cũng chính là bản sắc văn hoá Việt Nam một cách sinh động. Đồng thời du khách có cơ hội kinh doanh những sản phẩm ưa chuộng ra nước ngoài, đó cũng là một cách tạo đà cho sản phẩm trở thành hàng hoá nhiều hơn, làng nghề phát triển hơn. Nhiều khách du lịch nước ngoài khi nhận xét về một số sản phẩm phục vụ kinh doanh đã đánh g

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Mối quan hệ giữa văn hoá và du lịch trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay 2.pdf
Tài liệu liên quan