Tài liệu Luận văn Mối quan hệ giữa nhận thức con người: Con đường biện chứng của nhận thức: LUẬN VĂN:
Mối quan hệ giữa nhận thức con người - con
đường biện chứng của nhận thức
I. MỞ ĐẦU
Nhận thức là gì? Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Câu hỏi này đã được đặt ra và cũng có nhiều đáp án lý giải vấn đề trên. Mỗi trường
phái triết học là một quan niệm khác nhau về nhận thức. Chẳng hạn thuyết bất khả thi
cho rằng con người không thể biết được thế giới xung quanh và bản chất con người,
còn thuyết khả thi thì thừa nhận con người có khả năng tự nhận thức nhưng lại có hai
trường phái khác nhau rõ rệt. Chủ nghĩa duy tâm với quan niệm nhận thức chính là sự
tự nhận thức, tự ý thức về mình chứ không phải là sự phản ánh thế giới khách quan.
Với tư tưởng đó Platơn cho rằng : nhận thức là sự hồi tưởng linh hồn bất tử hay
Heghen và quan niệm của ông về nhận thức, xem nhận thức là quá trình tự nhận thức
của "ý niệm tuyệt đối" là lực lượng siêu nhiên tồn tại vĩnh hằng sáng tạo ra thiên nhiên
và con người. Khác với các quan điểm trên đây, chủ...
16 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1210 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Mối quan hệ giữa nhận thức con người: Con đường biện chứng của nhận thức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Mối quan hệ giữa nhận thức con người - con
đường biện chứng của nhận thức
I. MỞ ĐẦU
Nhận thức là gì? Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Câu hỏi này đã được đặt ra và cũng có nhiều đáp án lý giải vấn đề trên. Mỗi trường
phái triết học là một quan niệm khác nhau về nhận thức. Chẳng hạn thuyết bất khả thi
cho rằng con người không thể biết được thế giới xung quanh và bản chất con người,
còn thuyết khả thi thì thừa nhận con người có khả năng tự nhận thức nhưng lại có hai
trường phái khác nhau rõ rệt. Chủ nghĩa duy tâm với quan niệm nhận thức chính là sự
tự nhận thức, tự ý thức về mình chứ không phải là sự phản ánh thế giới khách quan.
Với tư tưởng đó Platơn cho rằng : nhận thức là sự hồi tưởng linh hồn bất tử hay
Heghen và quan niệm của ông về nhận thức, xem nhận thức là quá trình tự nhận thức
của "ý niệm tuyệt đối" là lực lượng siêu nhiên tồn tại vĩnh hằng sáng tạo ra thiên nhiên
và con người. Khác với các quan điểm trên đây, chủ nghĩa duy vật thừa nhận con
người có khả năng nhận thức thế giới và coi nhận thức thế giới là sự phản ánh hiện
thực khách quan vào bộ óc con người. Tuy nhiên do hạn chế bởi tính máy móc siêu
hình nên chủ nghĩa duy vật trước Mác không giải quyết được một cách thực sự khoa
học những vấn đề của lý luận nhận thức.
Một cuộc cách mạng trong lý luận nhận thức được thực hiện với sự ra đời của
chủ nghĩa duy vật biện chứng. Các Mác và Ăng-ghen đã kế thừa khoa học kỹ thuật và
thực tiễn xã hội đã xây dựng nên lý thuyết, lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chính lý thuyết đó đã giải thích cho chúng ta về nhận thức. Không chỉ dừng lại ở đó,
nhận thức còn mở ra một hướng mới, đó chính là sự nhận thức chân lý, hiện tại khách
quan, quan trọng nhất là quá trình nhận thức đã diễn ra như thế nào?
Trong thực tế, quá trình nhận thức chân lý, nhận thức hiện tại khách quan của
mỗi người rất khác nhau. Cùng một vật chất hình ảnh nhưng đối với mỗi người có thể
có cách nhìn nhận, nhận thức không giống nhau. Có thể nói, nhận thức hiện tại khách
quan là một quá trình hết sức phức tạp. Cũng chính vì thế mà từ xưa đến nay, trong
lĩnh vực nhận thức luôn luôn diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa các trường phái triết
học khác nhau. Vấn đề tìm ra một con đường nhận thức đúng đắn bao giờ cũng là vấn
đề hết sức thiết thực và cấp bách. Bài tiểu luận này đặt ra nhiều câu hỏi mà chúng ta
cần đi sâu vào tìm hiểu về "Mối quan hệ giữa nhận thức con người - con đường
biện chứng của nhận thức".
II. NỘI DUNG
1). Nhận thức là gì?
Đầu tiên, chúng ta cần tìm hiểu lý luận nhận thức chủ nghĩa duy vật biện chứng
của Mác và Ăng-ghen. Lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác dựa trên những nguyên
tắc rất cơ bản và quan trọng.
Một là thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan ở ngoài con người, độc
lập đối với cảm giác, tư duy và ý thức của con người. Con người có năng lực nhận
thức thế giới của con người. Về nguyên tác là không có cái gì là không thể biết. Nhận
thức của con người về giới tự nhiên là một quá trình từ thấp đến cao, chuyển từ chổ
biết không đầy đủ, không chính xác đến chổ biết ngày càng đầy đủ, chính xác hơn.
Nhận thức đi từ dễ đến khó, đi từ đơn giản đến phức tạp, từ rộng đến sâu, từ hiện
tượng bản chất cấp một, đến hiện tượng bản chất cấp hai....Thế giới vật chất rất rộng
lớn có thể có những cái mà con người chưa biết nhưng trong tương lai, với sự phát
triển của khoa học, con người dần sẽ khám phá được. Với khẳng định trên đây, lý luận
nhận thức Mác-xít khẳng định sức mạnh của con người trong việc nhận thức và cải tạo
thế giới.
Hai là nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan bởi con người, là
quá trình tạo tri thức trong bộ óc con người về hiện thực khách quan. Nhờ có nhận
thức con người mới có ý thức về thế giới, ý thức về cơ bản là kết quả của quá trình
nhận thức thế giới. Thế giới vật chất tồn tại khách quan ở ngoài và độc lập với ý thức
của con người tác động vào các giác quan sinh ra cảm giác, từ đó đi tới hình thành ý
thức.
Con người là chủ thể tích cực sáng tạo và có ý thức nhận thức cải tạo thế giới.
Chủ thể là sản phẩm có tính lịch sử, xã hội nó kế thừa tri thức của thế hệ trước đồng
thời sử dụng phương tiện nhận thức xã hội tạo ra. Do đó, khi nhận thức, các yếu tố của
chủ thể như lợi ích, lý tưởng, tài năng, ý chí, phẩm chất đạo đức......đều tham gia vào
quá trình nhận thức với những mức độ khác nhau và ảnh hưởng đến quá trình nhận
thức.
Còn khác thể nhận thức là một bộ phận của thế giới khách quan mà nhận thức
hướng tới nắm bắt, phản ánh nó nằm trong phạm vi tác động của hoạt động nhận thức.
Do vậy, khách thể thể không đồng nhất với hiện thực khách quan, phạm vi của khách
thể nhận thức được mở rộng đến đâu là tùy theo sự phát triển của nhận thức. Như vậy,
không chỉ có chủ thể nhận thức mà cả khách thể nhận thức cũng mang tính lịch sử xã
hội. Trong quan hệ giữa chủ thể và khách thể thì khách thể bao giờ cũng giữ vai trò
quyết định bởi vì nó quyết định nội dung tri thức của nhận thức. Tuy nhiên chủ thể vẫn
có tác động tích cực đến khách thể vì sự phản ánh của chủ thể là sự phản ánh có sáng
tạo, có mục đích, có chọn lọc nhằm phục vụ sự vật và thực tiễn.
Ba là nhận thức không phải là một hành động tức thời giản đơn, máy móc và
thụ động mà là quá trình sáng tạo dựa trên hoạt động thực tiễn. Có thể nói quá trình
nhận thức đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc
hơn. Vì vậy :"trong lý luận nhận thức cũng như trong tất cả các lĩnh vực khác của
khoa học, cần suy luận một cách biện chứng nghĩa là đừng giả định rằng nhận thức
của chúng ta là bất di bất dịch và có sẵn, mà phải phân tích xem sự hiểu biết nảy sinh
ra từ sự không hiểu biết như thế nào, sự hiểu biết không đầy đủ và không chính xác trở
thành đầy đủ hơn và chính xác hơn thế nào".
Cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức là thực tiễn. Thực tiễn còn là
mục đích của nhận thức, là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý của nhận thức, là tiêu chuẩn
để kiểm tra chân lý của nhận thức. Nhận thức là quá trình con người phản ánh một
cách biện chứng, năng động sáng tạo thế giới khách quan trên cơ sở thực tiễn lịch sữ -
xã hội.
2). Thực tiễn là gì? Có vai trò như thế nào đối với nhận thức
Phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản không chỉ là
của lý liận nhận thức Mác-xít mà còn là của toàn bộ triết học Mác - Lênin.
Các nhà duy vật trước Mác đã không thấy được vai trò của hoạt động thực tiễn
đối với nhận thức, do đó chủ nghĩa duy vật của họ mang tính chất trực quan. Còn một
số nhà triết học duy tâm, tuy đã thấy được mặt năng động sáng tạo trong hoạt động
con người, nhưng cũng chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt động hiện thực, hoạt động vật
chất cảm tính của con người. Kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những thiếu
sót trước Mác, Các Mác và Ph.Ăng-ghen đã đem lại một quan điểm đúng đắn, khoa
học về thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát
triển của xã hội loài người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận, hai ông đã
thực hiện một bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung và trong lý luận
nhận thức nói riêng. Lênin nhận xét:"Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là
quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức".
Vậy thực tiễn là những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã
hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người. Con người với vai trò
là chủ thể nhờ vào thực tiễn như là hoạt động có mục đích, tính xã hội của mình mà
cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, thích nghi một cách chủ động, tích cực
với thế giới và để làm chủ thế giới. Con người không thể thỏa mãn với những gì mà tự
nhiên cung cấp cho mình dưới dạng có sẵn. Con người phải tiến hành lao động sản
xuất ra của cải vật chất để nuôi sống mình. Bằng hoajt động thực tiễn, trước hết là lao
động sản xuất con người đã tạo ra những sản phẩm vốn không có sẵn trong thiên
nhiên. Không có hoạt động đó con người không thể tồn tại và phát triển được. Từ cộng
động người nguyên thủy, con người đã trải qua một quá trình lao động để tồn tại và
dần đưa xã hội tiến hóa đi lên với sự nhận thức ngày càng mở rộng về thế giới vật
chất. Vì thế có thể nói rằng thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và
xã hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế
giới. Thực tiễn là cái xác định một cách thực tế liên hệ giữa sự vật với những điều cần
thiết đối với con người. Thực tiễn với bản chất là hoạt động vật chất trong đó chủ thể
với tính tích cực sáng tạo chủ động làm biến đổi khách thể.
Về thực tiễn, Lênin viết :"Thực tiễn cao hơn nhận thức vì nó có ưu điểm không
những ở tính phổ biến mà còn ở tính hiện thực trực tiếp". Thực tiễn cao hơn hoạt động
nhận thức bởi vì cái phổ biến trong nhận thức trước hết được rút ra trong thực tiễn và
phải qua thực tiễn kiểm nghiệm thì mới xác định được đúng hoặc sai. Hơn nữa, thực
tiễn sẽ bổ sung làm phong phú thêm tính phổ biến của nhận thức. Với tư cách là hiện
thực trực tiếp, thực tiễn sẽ nghiêm khắc đánh giá sự đúng sai của một lý luận nào đó.
Thực tiễn cũng có quá trình vận động và phát triển của nó, trình độ phát triển
của thực tiễn nói lên trình độ chinh phục giới tự nhiên và làm chủ của con người. Tuy
trình độ và các hình thức hoạt động thực tiễn có thay đổi qua các giai đoạn lịch sử
khác nhau của xã hội nhưng thực tiễn luôn luôn là dạng hoạt động cơ bản và phổ biến
của xã hội loài người. Về mặt nội dung, tính chất cũng như về phương thức thực hiện
của nó đều phụ thuộc vào điều kiện lịch sử nhất định, do đó thực tiễn có tính lịch sử -
xã hội.
Thực tiễn bao gồm nhiều yếu tố và nhiều dạng hoạt động. Bất kỳ quá trình hoạt
động thực tiễn nào cũng gồm những yếu tố như : nhu cầu, lợi ích, mục đích, phương
tiện và kết quả. Các yếu tố đó liên hệ với nhau, qui định lẫn nhau mà nếu thiếu chúng
thì hoạt động thực tiễn không thể diễn ra được.
Thực tiễn gồm những dạng cơ bản sau đây: dạng cơ bản đầu tiên của thực tiễn
là hoạt động lao động sản xuất vật chất. Đây là dạng hoạt động thực tiễn nguyên thủy
và cơ bản nhất vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, quyết
định các dạng khác của hoạt động thực tiễn, nó tạo thành cơ sở của tất cả các hình thức
khác của hoạt động sống của con người, giúp con người thoát khỏi giới hạn, tồn tại
của động vật. Một dạng cơ bản khác của thực tiễn là hoạt động chính trị - xã hội nhằm
biến đổi các quan hệ xã hội, chế độ xã hội. Ngoài ra, với sự ra đời và phát triển của xã
hội, một dạng cơ bản nữa của thực tiễn cũng xuất hiện - đó là hoạt động thực nghiệm
khoa học. Dạng hoạt động thực tiễn này ngày càng trở nên quan trọng trong sự phát
triển của xã hội, đặc biệt trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
Vì thế vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước hết là cơ sở và động lực của
nhận thức. Là điểm xuất phát của nhận thức, là mục đích và động lực. Mọi lý luận,
mọi học thuyết đều hình thành từ hoạt động thực tiễn, Ph.Ăng-ghen khẳng định:"
chính việc người ta biến đổi giới tự nhiên chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên
với tính cách giới tự nhiên là cơ sở chủ yếu nhất và thực tiễn nhất của tư duy con
người và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta đã học cải biến tự
nhiên" . Con người quan hệ với tự nhiên không bắt đầu bằng lý luận mà bằng thực
tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức ở con
người được hình thành và phát triển. Bằng hoạt động thực tiễn con người tác động vào
thế giới, buộc thế giới phải bộc lộ những thuộc tính những qui luật để con người nhận
thức chúng. Mỗi bước phát triển của thực tiễn lại luôn đặt ra những vấn đề mới cho
nhận thức, thúc đẩy nhận thức phát triển. Ban đầu con người thu nhận những tài liệu
cảm tính, sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng
hóa.......để phản ánh bản chất, qui luật vận động của các sự vật, hiện tượng trong thế
giới, từ đó xây dựng làm thành các khoa học, lý luận. Như vậy, thực tiễn không chỉ đặt
ra nhu cầu cho nhận thức mà còn cung cấp những tài liệu cho nhận thức, cho lý luận.
Mọi tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp đối với người này hay người kia, thế hệ này hay
thế hệ khác, ở trình độ kinh nghiệm hay lý luận xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực
tiễn. Thực tiễn là động lực của tri thức. Trong quá trình hoạt động thực tiễn biến đổi
thế giới, con người cũng biến đổi cả bản thân mình, phát triển năng lực bản chất, năng
lực trí tuệ của mình. Nhờ đó con người ngày càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám
phá những bí mật của thế giới làm phong phú và sâu sắc nhận thức của mình về thế
giới. Thực tiễn còn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, phương hướng phát triển của nhận thức.
Nhu cầu của cuộc sống và thực tiễn, nhu cầu của hoạt động sản xuất và cải biến xã hội
đòi hỏi con người phải có thêm những hiểu biết tri thức mới. Nó đã thúc đẩy sự ra đời
và phát triển khoa học. Khoa học ra đời chính vì chúng cần thiết cho hoạt động thực
tiễn của con người.
Đơn cử một ví dụ về một môn khoa học phổ biến là toán học. Toán học cũng
như các môn khoa học khác cũng đã nảy sình từ nhu cầu thực tiễn."Từ sự đo đạc diện
tích và sự đo lường sức chứa của những cái bình, từ sự tính toán thời gian và sự chế
tạo cơ khí. Hay các học thuyết xã hội ra đời trên cơ sở và nhu cầu của cuộc đấu tranh
giai cấp công nhân".
Ngoài ra, thông qua thực tiễn các giác quan con người ngày càng hoàn thiện,
khả năng phản ánh ngày càng được nâng lên. Thực tiễn còn tạo ra những phương tiện
hiện đại (như kính thiên văn, kính hiển vi điện tử, máy vi tính, tàu vũ trụ,.....) giúp con
người ngày càng đi sâu vào các bí mật tự nhiên.
Tiếp theo thực tiễn là mục đích của nhận thức. Thực tiễn suy đến cùng không
phải để hiểu biết mà phục vụ cho con người, thực tiễn cải tạo thế giới. Sự hình thành,
phát triển của nhận thức như trên đã nói là bắt nguồn từ thực tiễn, do yêu cầu của thực
tiễn. Điều đó cũng nói lên rằng, nhận thức chỉ hoàn thành chức năng của mình khi nó
trở về chỉ đạo hoạt động thực tiễn, giúp cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn.
Trong thực tế đã chứng minh rằng lý luận khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng
được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn. Ngày nay, công cuộc đổi mới xã hội
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẽ và phức
tạp đòi hỏi sự nhận thức phải đi sâu nghiên cứu để đáp ứng yêu cầu đó. Chẳng hạn đó
là những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Và chỉ có thông quan thực tiễn thì trí thức của con
người mới thể hiện được sức mạnh của mình, sự hiểu biết của con người mới có ý
nghĩa. Những tri thức về tự nhiên xã hội của con người không phải đều là đúng, không
phải tất cả đều chân lý. Tiêu chuẩn để kiểm tra, phân biệt đúng hay sai lại chính là
hoạt động thực tiễn.
Tóm lại: Thực tiễn là cơ cở, động lực, mục đích của nhận thức, là tiêu chuẩn
của chân lý. Đây là quan điểm hết sức quan trọng của lý luận nhận thức duy vật biện
chứng. Lênin vết:"Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và
cơ bản nhất của lý luận nhận thức". Vì thế chúng ta cần phải hiểu thực tiễn là tiêu
chuẩn chân lý một cách biện chứng; tiêu chuẩn này vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính
tương đối. Một mặt thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm chân lý. Mặt
khác trong lịch sử phát triển kỹ thuật, trong các giai đoạn phát triển khác nhau, thực
tiễn không đứng yên một chỗ mà biến đổi nên vấn đề nhận thức cũng được đặt ra và
giải quyết một cách khác nhau. Trong quá trình phát triển nhận thức và thực tiễn,
những tri thức đạt được trước kia vẫn thường xuyên kiểm nghiệm bởi thực tiễn tiếp
theo và được sữa chữa, bổ sung hoàn thiện hơn. Chẳng hạn những vấn đề từ trước đến
nay của đất nước ta như : kinh tế thị trường là gì? kinh tế thị trường ở Việt Nam có đặc
điểm gì? Quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở Việt Nam diễn ra như thế
nào?....Để nhận thức những vấn đề đó, một mặt chúng ta phải kiểm nghiệm thực tế
nước ta, mặt khác chúng ta phải nghiên cứu kinh nghiệm của các nước khác.
Nghiên cứu lý luận phải liên hệ thực tiễn. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến các
sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, quan liêu.
3). Con đường biện chứng của quá trình nhận thức:
Nhận thức của con người diễn ra trên cơ sở thực tiễn và không ngừng vận động
và phát triển. Sự vận động, phát triển nhận thức diễn ra một cách biện chứng, được
Lênin miêu tả như sau :"Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu
tượng đến thực tiễn đó là con đường biện chứng của quá trình nhận thức chân lý, sự
nhận thức khách quan".
Trực quan sinh động, tư duy trừu tượng và thực tiễn là ba yếu tố của cùng một
quá trình thống nhất, song không nên hiểu các yếu tố ấy tách rời nhau mà phải hiểu
chúng trong mối liên hệ biện chứng. Cả khi sáng tạo ra lý luận con người phải quay về
với trực quan sinh động và trong giai đoạn cảm tính ấy có sự tham gia của tư duy, còn
yếu tố thực tiễn quán triệt suốt quá trình.
a./ Trực quan sinh động: (hay còn gọi là nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu
tiên của quá trình nhận thức. Nó phản ánh những mặt, những thuộc tính riêng lẻ bên
ngoài của sự vật trực tiếp vào các giác quan. Giai đoạn này được thể hiện dưới 3 hình
thức: cảm giác, tri giác và biểu tượng.
Cảm giác là hình thức đầu tiên của quá trình nhận thức và là nguồn gốc của mọi
hiểu biết của con người. Cảm giác phản ánh từng mặt, từng thuộc tính bên ngoài của
sự vật vào giác quan con người. Sự vật hoặc hiện tượng trực tiếp tác động vào các giác
quan con người gây nên cảm giác (chẳng hạn những cảm giác về màu sắc, mùi vị, âm
thanh, nhiệt độ). Cảm giác là kết quả của sự tác động vật chất của sự vật vào các giác
quan con người. là sự chuyển hóa năng lượng kích thích bên ngoài thành yếu tố của ý
thức. Bản chất của cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Cảm giác
có vai trò to lớn trong nhận thức, mang lại những tài liệu ban đầu cho quá trình nhận
thức. Tất cả các hĩnh thức tiếp theo đều dựa trên tài liệu cảm giác mang lại.
Tri giác là một hình thức cơ bản của nhận thức và được hình thành trên cơ sở
tổng hợp các cảm giác về một sự vật. Cũng như cảm giác, tri giác phản ánh sự vật một
cách trực tiếp bề ngoài thông qua các giác quan. Song tri giác cao hơn cảm giác là nó
không phản ánh sự vật từng mặt riêng lẽ mà phản ánh sự vật trong một chỉnh thể,
trong tính toàn vẹn của nó. Do vậy, tri giác đem lại cho chúng ta tri thức về sự vật đầy
đủ hơn, phong phú hơn.
Biểu tượng là hình thức cao nhất của nhận thức cảm tính. Biểu tượng là hình
ảnh của sự vật được giữ lại trong trí nhớ. Sự tiếp xúc trực tiếp nhiều lần với sự vật đó
sẽ để lại cho chúng ta những ấn tượng, những hình ảnh về sự vật đó. Những hình ảnh,
ấn tượng này đậm nét và sâu sắc đến mức nó có thể hiện lên trong ký ức của chúng ta
ngay cả khi sự vật không còn ở trước mắt. Giống với tri giác, biểu tượng cũng dừng lại
những biểu hiện bề ngoài. Song, khác với tri giác là biểu tượng xuất hiện khi không
còn tiếp xúc trực tiếp với sự vật nữa nên nó có những biến đổi nhất địng so với tri
giác. Hình thức cao nhất của biểu tượng là sự tưởng tượng, sự tưởng tượng mang tính
chủ động sáng tạo. Tưởng tượng có vai trò rất to lớn trong hoạt động sáng tạo khoa
học và nghệ thuật. Biểu tượng tuy còn mang tính chất cụ thể, sinh động của nhận thức
cảm tính, song đã bắt đầu mang tính chất khái quát và gián tiếp có thể xem biểu tượng
như là hình thức, trung gian quá độ cần thiết để chuyển từ trực quan sinh động sang tư
duy trừu tượng.
Cảm giác, tri giác và biểu tượng là các hình thức khác nhau của trực quan sinh
động. Đây là giai đoạn phản ánh sự vật trực tiếp nên nhận thức bắt đầu từ đó. Nó đưa
sự vật hiện ra với chúng ta dưới hình thức cụ thể sinh động, ta có thể nhận biết trực
tiếp bằng các giác quan. Song trực quan sinh động chỉ phản ánh được cái bên ngoài,
từng mặt, từng khía cạnh của sự vật riêng lẽ, chứ không vạch ra được cái bản chất bên
trong. Nếu dừng lại ở đây thì ta chưa có thể phản ánh được bản chất qui luật vận động,
phát triển của sự vật và sẽ không chỉ đạo được thực tiễn cải tạo thế giới. Tài liệu cảm
tính tích lũy đến một trình độ nhất định thì nhận thức sẽ chuyển lên một trình độ cao
hơn, đó là tư duy trừu tượng.
a./ Trực quan sinh động: (nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá trình nhận
thức dựa trên cơ sở những tài liệu do giai đoạn trực quan sinh động mang lại. Tư duy
trừu tường cũng phản ánh hiện thực khách quan, nhưng lại sự phản ánh gián tiếp, khái
quát, đi sâu vào mối liên hệ bản chất, tất nhiên vào qui luật vận động, phát triển của sự
vật. Lênin đã nói :"nó đã phản ánh hiện thực khách quan sâu sắc hơn, chính xác hơn,
đầy đủ hơn". Như vậy, tư duy trừu tượng giúp chúng ta có thể mở rộng tri thức và khái
quát hiện thực khách quan một cách hiện thực hơn, toàn diện hơn và bản chất hơn. Do
đó xét về góc độ này thì tư duy trừu tượng gần với hiện thực, chân lý hơn. Tư duy trừu
tượng được thể hiện ở các hình thức như khái niệm, phán đoán và suy lý.
Khái niệm là một hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những mối
liên hệ và thuộc tính chung, bản chất, phổ biến của một tập hợp các sự vật, các hiện
tượng nào đó dựa trên cơ sở khái quát tài liệu do giai đoạn nhận thức cảm tính mang
lại. Chẳng hạn khái niệm "vật chất" phản ánh thuộc tính chung bản chất khác căn bản
so với ý thức là thực tại khách quan, tồn tại không phụ thuộc vào ý thức và ý thức là
chụp lại, chép lại, phản ánh thực tại đó. Khái niệm đóng vai trò quan trọng trong tư
duy khoa học. Khái niệm là những vật liệu tạo thành ý thức, tư tưởng. Khái niệm là
những phương tiện để con người tích lũy thông tin, suy nghĩ và trao đổi tri thức với
nhau. Khái niệm có tính khách quan bởi chúng phản ánh những m,ối liên hệ, những
thuộc tính khách quan của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Lênin đã chỉ rõ:
"Những khái nhiệm của con người là chủ quan trong tính trừu tượng của chúng nhưng
là khách quan trong chỉnh thể, trong quá trình, trong kết cuộc, trong khuynh hướng
nguồn gốc". Các khái niệm không tách rời, cô lập nhau mà giữa chúng có liên hệ,
chuyển hóa lẫn nhau và không ngừng biến đổi, phát triển. Vì hiện thực khách quan
luôn vận động và phát triển cho nên khái niệm phản ánh hiện thực đó không thể bất
biến mà phải vận động, phát triển theo, liên hệ chuyển hóa lẫn nhau. Sự phát triển của
khái niệm gắn liền với phát triển của thực tiễn và nhận thức của con người, nó giúp
cho con người phản ánh ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về sự vật. Khái niệm vừa
là hình thức cơ bản, vừa là nền tảng của tư duy trừu tượng. Tư duy trừu tượng là phải
bắt đầu từ khái niệm.
Phán đoán là hình thức của tư duy trừu tượng vận dụng các khái niệm để khẳng
địng và phủ định một thuộc tính, một mối liên hệ nào đó của hiện thực khách quan.
Phán đoán là một hình thức liên kết các khái niệm, phản ánh mối liên hệ giữa các mặt
bên trong bản thân sự vật hay giữa các sự vật, các hiện tượng trong ý thức con người.
Tuy nhiên, phán đoán không phải là tổng số giản đơn của những khái nhiệm tạo thành
mà lá quá trình biện chứng trong đó các khái nhiệm có sự liên hệ và phụ thuộc lẫn
nhau.
Tùy theo góc độ khác nhau mà người ta chia phán đoán ra nhiều loại khác nhau.
Căn cứ vào việc thừa nhận hay không thừa nhận một thuộc tính nào đó của sự
vật người ta chi ra phán đoán khẳng địng (Trường điện từ là một dạng vật chất) và
phán đoán phủ định (cá voi không phải là loài cá).
Ngoài ra theo mức độ phản ánh có thể chia các phán đoán thành: phán đoán
đơn nhất (ma sát sinh ra nhiệt) phán đoán đặc thù (mọi vận động cơ giới đều có thể
biến thành nhiệt bằng cách ma sát), phán đoán phổ biến bất cứ hình thức vận động
nào, tùy theo những điều kiện nhất định của mỗi trường hợp, đều có thể và nhất thiết
phải chuyển hóa thành hình thức vận động khác.
Khác với khái niệm phản ánh các thuộc tính chung, bản chất của sự vật hiện
tượng còn phán đoán phản ánh những mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng và các
mặt của chúng. Cho nên phán đoán là một hình thức biểu đạt các qui luật khách quan.
Về mặt hình thức, phán đoán thường được biểu hiện một câu hoặc một mệnh đề theo
những qui tắc văn phạm nhất định gồm ba bộ phận: chữ từ , hệ từ, vị từ.
Suy luận là một hình thức tư duy trừu tượng dựa trên cơ sở, phán đoán đã có
làm tiền đề và mối liên hệ lẫn nhau giữa các phán đoán đã có làm tiền đề và mối liên
hệ lẫn nhau giữa các phán đoán đã có để đi đến phán đoán mới (phán đoán kết luận).
Thí dụ từ hai phán đoán làm tiền đề:"Mọi kim loại đều dẫn điện" và "Đồng là
kim loại" đi đến phán đoán mới (phán đoán kết luận), "Đồng dẫn điện".
Nói một cách khác suy luận là quá trình đi đến một phán đoán mới từ những
phán đoán tiền đề. Vì thế tính chân thực của các phán đoán tiền đề với việc thực hiện
đúng qui tắc logic của suy luận đảm bảo cho tính kết luận suy ra một cách chính xác.
Nếu như phán đoán là sự liên hệ các khái niệm thì suy luận là sự liên hệ giữa
các phán đoán. Suy luận là công cụ hùng mạnh của tư duy trừu tượng thể hiện quá
trình vận động của tư duy đi từ những cái đã biết đến nhận thức những cái chưa biết
một cách gián tiếp. Có thể nói toàn bộ các khoa học được xây dựng trên hệ thống suy
luận và nhờ có suy luận mà con người ngày càng nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn, hiện
thực khách quan và dự đoán được xu hướng vận động, phát triển của sự vật.
Suy luận có hai loại: suy luận diễn dịch và suy luận qui nạp
Đến đây một vấn đề nữa là phải được nhắc tới đó là sự thống nhất của trực quan
sinh động và tư duy trừu tượng. Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng có quan hệ
với nhau như thế nào? Vai trò của từng giai đoạn nhận thức ra sao? Trong lịch sử triết
học khi giải quyết những vấn đề đó thường có hai khuynh hướng cực đoan. Có những
ý kiến đề cao vai trò của nhận thức cảm tính mà hạ thấp nhận thức lý tính và ngược
lại. Tuy có những yếu tố hợp lý nhất định, song cả hai khuynh hướng trên đây đều
phiến diện, đều không thấy được sự thống nhất biện chứng giữa hai giai đoạn của quá
trình nhận thức. Như vậy, trực quan sinh động và tư duy trừu tượng là hai mức độ
khác nhau của một quá trình. Tuy có sự khác biệt về vị trí và mức độ phản ánh, nhưng
giữa chúng có sự liên hệ, tác động lẫn nhau, bổ sung hỗ trợ lẫn nhau, chúng đều ở
trong một quá trình thống nhất biện chứng trong một mối liên hệ không tách rời nhau.
Mối liên này được qui định một cách khách quan: trước hết cả hai giai đoạn nhận thức
này đều nhằm một mục đích phục vụ cho việc nhận thức ngày càng sâu hơn, toàn diện
hơn. Chúng đều cùng phản ánh thế giới vật chất, có cùng cơ sở sinh lý duy nhất là hệ
thần kinh của con người và đều cùng chịu sự chi phối của thực tiễn xã hội. Hai là:
nhận thức cảm tính mà không có nhận thức lý tính thì không thể hiểu được bản chất
sâu xa của sự vật, không hiểu được mối liên hệ nội tại bên trong sự vật. Ngược lại
nhận thức lý tính không thể có được nếu không có nhận thức cảm tính. Nhận thức bắt
đầu từ trực quan sinh động nhưng nó không dừng lại ở trực quan sinh động mà nó phải
phát triển lên tư duy trừu tượng để đi sâu vào bản chất vào qui luật vận động, phát
triển của sự vật. Và tư duy trừu tượng lại phải dựa trên cơ sở các tài liệu do trực quan
sinh động mang lại. Các tài liệu đó càng phong phú nhiều mặt bao nhiêu thì càng giúp
cho tư duy trừu tượng đúng đắn sâu sắc bấy nhiêu. Nhận thức của con người là nối
tiếp lẫn nhau, kế thừa lẫn nhau cho nên giữa trực quan sinh động và tư duy trừu tượng
có sự đan xem lẫn nhau. Trong giai đoạn trực quan sinh động cũng có sự tham gia của
tư duy giúp cho các tài liệu thu thập được đầy đủ hơn, chính xác hơn. Nhưng tư duy
trừu tượng phải luôn luôn trên nền tảng của tài liệu do trực quan mang lại. Nhận thức
của con người vận động, phát triển từ trực quan sinh động đến tư duy là tất yếu.Bước
chuyển từ giai đoạn cảm tính sang giai đoạn lý tính được thực hiện một cách biện
chứng, đó là kết quả của một bước nhảy vọt biện chứng, đưa đến một sự thay đổi căn
bản về chất lượng trong sự nhận thức về thế giới.
Tuy nhiên nhận thức của con người phát triển đến giai đoạn tư duy trừu tượng
chưa phải là chấm dứt, mà nó lại tiếp tục vận động trở về với thực tiễn. Vai trò của
thực tiễn đối với nhận thức là rất quan trọng đã được nêu ra, do đó chúng ta có thể
thấy được nhận thức phải quay về với thực tiễn. "Từ tư duy lý luận đến thực tiễn" đây
là bước đi quyết định trong vòng khâu nhận thức. Mâu thuẫn giữa lý luận và thực tiễn
là mâu thuẫn cơ bản nhất, quan trọng nhất chi phối toàn bộ quá trình nhận thức. Mâu
thuẩn này thường xuyên xuất hiện và không ngừng được giải quyết trong quá trình con
người đi đến chân lý. Mâu thuẩn giữa lý luận và thực tiễn biểu hiện gây gắt nhất vào
lúc hoạt động xã hội - lịch sử của con người đã tiến lên quá xa tới mức nó không chịu
sự chỉ đạo của những lý luận đã lỗi thời. Nó đặt ra trước khoa học những nhiệm vụ
mới trong lĩnh vực phát triển lý thuyết sao cho những lý thuyết mới này đáp ứng đầy
đủ nhu cầu của thực tiễn. Kết quả của việc giải quyết mâu thuẩn này là lý thuyết mới
ra đời, nó trở thành ngôi sao dẫn đường cho hoạt động thực tiễn của con người, soi
sáng và định hướng cho hoạt động đó. Lý luận mới sau khi được phát triển đến lược
mình lại đặt ra các yêu cầu mới đối với thực tiễn, thúc đẩy sự phát triển tiếp tục của nó
giúp vào việc loại trừ và khắc phục những nhược điểm trước kia.
Trực quan - tư duy - thực tiễn, ba mắc xích trong một chu trình nhận thức liên
hệ khắng khít với nhau. Trong đó thực tiễn là điểm bắt đầu và là điểm kết thúc của
một vòng khâu đó. Nhưng sự kết thúc này lại bắt đầu một vòng khâu khác mới hơn,
cao hơn và như thế vận động mãi mãi, làm cho nhận thức con người ngày càng đi sâu
nắm được bản chất và các qui luật thế giới khách quan, phục vụ cho hoạt động biến
đổi thế giới.
III. KẾT LUẬN
Xuất phát từ mục đích cuối cùng của nhận thức là cải tạo thế giới, triết học Mat
- xít không coi nhận thức là những lý luận cao siêu viễn vong, hay chỉ là sự giải thích
thế giới một cách chung chung, mà nhận thức là nhận thức hiện tại khách quan trong
đó con người đang sống, đang tiến hành những hoạt động của mình. Lênin khẳng định
rằng quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản về lý
luận nhận thức. Thực tiễn xã hội loài người là thước đo chính xác nhất của nhận thức,
là nguồn năng lượng vô tận của nhận thức. Song, không có nghĩa là lý luận chỉ đi theo
thực tiễn, tổng kết thực tiễn thụ động hòan tòan đối với thực tiễn. Nhận thức, lý luận
có tính độc lập tương đối và tính năng động của mình. Dựa trên cơ sở thực tiễn hôm
nay, nhận thức vạch ra triển vọng phát triển ngày mai về sản xuất, về khoa học kỷ
thuật, văn hóa giáo dục, về cách mạng v.v....
Thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta là một ví dụ điển hình cho một quá trình nhận
thức đúng đắn. Con đường mà chúng ta đã chọn: giương cao ngọn cờ dân tộc, dân chủ,
tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đường
lối chiến lược đó của Đảng ta đã được thực tiễn Cách mạng Việt Nam trong những
năm qua cũng như thực tiễn Cách mạng Thế giới chứng minh là hoàn toàn đúng.
Thắng lợi của Cách mạng Việt Nam là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lê nin được vân
dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh một nước là thuộc địa nửa phong kiến. Từ đó
chúng ta đã rút ra những bài học kinh nghiệm quí báu về chiến tranh nhân dân, chiến
tranh bạo lực về đường lối chiến lược và sách lược cách mạng.
Con đường biện chứng của quá trình nhận thức do triết học Mác - Lê nin
vạch ra là con đường đúng đắn dẫn dắt con người đi sâu vào thế giới vật chất. Bởi vậy,
để thực tiễn mục đích cuối cùng của nhận thức là cải tạo thế giới, trước tiên con người
cần phải nắm vững phép biện chứng của quá trình nhận thức, con đường biện chứng
của sự nhận thức và biết vận dụng chúng một cách sáng tạo, tự giác trong hoạt động
thực tiễn của mình, luận điểm nổi tiếng của Mác về thực tiễn đã được khẳng định hoàn
toàn: thực tiển là tiêu chuẩn chung của chân lý của tri thức chúng ta. các Mác viết
“Việc tư tưởng của con người có phản ánh chân lý khách quan hay không, hoàn toàn
không phải là vấn đề lý thuyết, mà là một vấn đề thực tiễn. Trên thực tế con người
phải chứng minh tính chân lý, tức tính thực tiển và sức mạnh của tư duy của mình”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học của Thầy Tiễn sĩ Nguyễn Tấn Hùng, tháng 10 năm 2004
2. Triết học Mác - Lênin, tập 1. Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội, 1994;
3. Triết học Mác - Lênin, tập 1. Nhà xuất bản Giáo dục, 1998
4. Giáo trình Lịch sử các học thuyết chính trị - pháp luật
5. Lịch sử Triết học (Tái bản có sửa chữa), Nhà xuất bản chính trị quốc gia
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Mối quan hệ giữa nhận thức con người - con đường biện chứng của nhận thức.pdf