Tài liệu Luận văn Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị với việc đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay: LUẬN VĂN:
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị với việc
đảm bảo định hướng xó hội chủ nghĩa sự
phỏt triển nền kinh tế nhiều thành phần ở
Việt Nam hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhận thức và vận dụng mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong những năm
trước đổi mới, nhiều nước XHCN trong đó có nước ta ở những mức độ nhất định đã mắc
phải những lệch lạc, chủ quan duy ý chí. Đó là một trong những nguyên nhân đẩy nền
kinh tế - xã hội của đất nước rơi vào tình trạng trì trệ và khủng hoảng.
Nhận thức được những lệch lạc đó, trên cơ sở tổng kết thực tiễn đất nước và
nghiên cứu, nắm vững thực chất khoa học quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa
Mác - Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới
đúng đắn. Đường lối chiến lược phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước định hướng XHCN là sự vận dụng sáng tạo
quan điểm mác xít về mối quan hệ giữa kinh t...
95 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1018 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị với việc đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị với việc
đảm bảo định hướng xó hội chủ nghĩa sự
phỏt triển nền kinh tế nhiều thành phần ở
Việt Nam hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhận thức và vận dụng mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong những năm
trước đổi mới, nhiều nước XHCN trong đó có nước ta ở những mức độ nhất định đã mắc
phải những lệch lạc, chủ quan duy ý chí. Đó là một trong những nguyên nhân đẩy nền
kinh tế - xã hội của đất nước rơi vào tình trạng trì trệ và khủng hoảng.
Nhận thức được những lệch lạc đó, trên cơ sở tổng kết thực tiễn đất nước và
nghiên cứu, nắm vững thực chất khoa học quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa
Mác - Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới
đúng đắn. Đường lối chiến lược phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước định hướng XHCN là sự vận dụng sáng tạo
quan điểm mác xít về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong điều kiện nước ta hiện
nay. Đường lối đó đã mở ra triển vọng vừa giải phóng được mọi năng lực sản xuất, kích
thích kinh tế phát triển, vừa đảm bảo sự định hướng phát triển kinh tế theo mục tiêu chính
trị mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Qua 15 năm thực hiện đường lối đó, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng
kể. Kinh tế phát triển, mục tiêu CNXH vẫn được giữ vững. Tuy nhiên, công cuộc đổi mới
càng đi vào chiều sâu càng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp cần phải lý giải, giải quyết.
Thực tiễn cho thấy, quá trình phát triển nền kinh tế ở nước ta bên cạnh những mặt tích
cực còn bộc lộ những khuyết tật có nguy cơ chệch hướng XHCN.
Đối mặt với những nguy cơ này, trong cán bộ đảng viên cũng xuất hiện nhiều
băn khoăn, trăn trở: liệu chúng ta có định hướng chính trị được sự phát triển nền kinh tế
đó hay không? Liệu Nhà nước có quản lý, điều tiết được nền kinh tế đó theo quỹ đạo
XHCN hay không?
Hơn nữa, việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước định hướng XHCN là chưa có tiền lệ trong lịch sử.
Quá trình này đòi hỏi chúng ta vừa làm vừa phải tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, tìm ra
hình thức và bước đi thích hợp. Quá trình đó tất yếu phải có sự lãnh đạo của chính trị
đóng vai trò "người cầm trịch" hướng vào mục tiêu CNXH. Chính vì vậy, việc nghiên
cứu mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị đặc biệt là tìm ra những giải pháp nâng cao vai
trò của chính trị trong lãnh đạo, quản lý, điều tiết kinh tế để vừa thúc đẩy sự phát triển
kinh tế vừa đảm bảo định hướng XHCN trong sự phát triển của nó vẫn là vấn đề có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. Đó là lý do tại sao tác giả luận văn chọn đề tài " Mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị với việc đảm bảo định hướng xó hội chủ nghĩa sự
phỏt triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay " là đề tài nghiên cứu của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đến nay đã có một số công trình nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau liên quan
tới luận văn: Khổng Doãn Hợi, "Quan hệ giữa kinh tế và chính trị ở nước ta", Tạp chí
Cộng sản, 6/1993; Lê Hữu Nghĩa, "Vai trò của chính trị trong việc bảo đảm định hướng
xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Cộng sản, Hà Nội, 5/1996; Nguyễn Tiến Phồn, "Vai trò lãnh
đạo chính trị của Đảng và chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước trong điều kiện nền
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay", Tạp chí Triết học, số 3/1995; Nguyễn Trọng
Chuẩn, "Mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới chính sách kinh tế và đổi mới chính sách
xã hội", Tạp chí Triết học, số 3/1996; Nguyễn Chí Mỳ, "Xu hướng và các nhân tố bảo
đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế nhiều thành phần", Tạp chí Cộng sản,
số 10/1997;...
Ngoài ra, còn có một số luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ đề cập đến các góc độ
khác nhau của đề tài: "Định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, nội dung cơ bản và
những điều kiện chủ yếu để thực hiện", Luận án tiến sĩ Khoa học triết học chuyên ngành
chủ nghĩa cộng sản khoa học, của Nguyễn Văn Oánh; Hà Nội 1994 "Vai trò định hướng xã
hội chủ nghĩa của kiến trúc thượng tầng chính trị đối với sự phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay", Luận văn thạc sĩ triết học của Huỳnh Thanh
Minh, Hà Nội, 1997; "Nhân tố chủ quan với việc bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa sự
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta hiện nay", Luận văn thạc sĩ
Triết học của Nguyễn Văn Ninh, Hà Nội, năm 2001; "Vai trò định hướng xã hội chủ
nghĩa của Nhà nước đối với sự phát triển nền kinh tế Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ
triết học của Lê Thị Hồng, Hà Nội, năm 2001.
Mặc dù các công trình nghiên cứu đã đề cập đến khá nhiều khía cạnh khác nhau
của đề tài, song việc nghiên cứu vấn đề "mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị với việc
đảm bảo định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện
nay" vẫn là vấn đề bức xúc.
3. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích thực chất quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong thời kỳ quá
độ lên CNXH và sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình đổi mới, từ đó đề xuất một số
giải pháp nhằm tăng cường vai trò của chính trị trong việc đảm bảo định hướng XHCN sự
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích thực chất mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong thời kỳ quá độ
lên CNXH.
- Làm rõ sự nhận thức và vận dụng về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong
quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta và những vấn đề đặt ra hiện
nay.
- Đề xuất một số giải pháp tăng cường vai trò của chính trị nhằm đảm bảo định
hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay.
3.3. Giới hạn của luận văn
Từ việc nghiên cứu mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, sự nhận thức và vận dụng mối quan hệ đó vào thực tiễn đổi mới của
nước ta, luận án chỉ đi sâu nghiên cứu vai trò tác động của chính trị mà cụ thể là vai trò
của các chủ thể như Đảng và Nhà nước trong việc đảm bảo định hướng XHCN sự phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay.
4. Cái mới của luận văn
- Góp phần làm rõ mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong quá trình phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay. Từ đó nêu bật vai trò quan trọng của
chính trị trong việc định hướng XHCN nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò chính trị của Đảng và Nhà
nước trong việc bảo đảm định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở
nước ta hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về mối quan hệ giữa kinh tế - chính trị.
Luận văn có tham khảo kết quả của nhiều công trình có liên quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp như: Phân tích và tổng hợp, lịch sử
và lôgíc...
6. ý nghĩa của luận văn
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc học tập và giảng dạy
môn triết học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương 4 tiết.
Chương 1
quan hệ biện chứng giữa kinh tế
và chính trị trong quá trình phát triển
nền kinh tế nhiều Thành phần ở Việt Nam
1.1. quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong thời kỳ quá độ lên CNXH
1.1.1. Quan điểm mác xít về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong sự
phát triển xã hội
Kinh tế là một khái niệm được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Ngày nay, khái
niệm kinh tế được hiểu theo hai nghĩa cơ bản:
- Tổng thể các quan hệ sản xuất nhất định trong lịch sử phù hợp với mỗi trình độ
phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.
- Toàn bộ các ngành kinh tế quốc dân hay một bộ phận của nền kinh tế quốc dân.
Nó bao gồm các hình thức sản xuất theo ngành kinh tế, thành phần kinh tế và vùng kinh
tế (tức cơ cấu kinh tế) và cơ chế quản lý kinh tế.
Như vậy nói đến kinh tế là nói đến điều kiện vật chất của đời sống xã hội, hay nói
cách khác, đó là phương tiện để con người tồn tại. Chẳng hạn, muốn tồn tại, con người cần
phải có cái ăn, cái mặc, thuốc men để chữa bệnh... Tất cả những gì thuộc kinh tế theo nghĩa
đó - còn gọi là tư liệu sinh hoạt - không phải do thần thánh sinh ra, mà do con người dùng
công cụ lao động của mình tác động vào tự nhiên tạo ra. Ngay cả công cụ lao động mà
con người dùng để làm ra của cải vật chất đó cũng do chính con người tạo ra.
Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, con người không thể tiến hành sản
xuất một cách biệt lập, riêng lẻ được, mà trái lại, muốn tiến hành sản xuất, con người
chẳng những phải có quan hệ với tự nhiên mà còn có quan hệ với nhau để cùng hoạt
động, trao đổi kinh nghiệm và kết quả lao động. Khẳng định tính tất yếu của mối quan hệ
này C.Mác nói: "Người ta không thể sản xuất được, nếu không biết hợp tác với nhau theo
một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất
được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau và quan hệ của
họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất, chỉ diễn ra trong khuôn khổ những mối liên hệ
và quan hệ xã hội đó [28, tr. 552]. Vì lẽ đó, khái niệm "kinh tế" đã chứa đựng trong nó cả
những quan hệ giữa người với tự nhiên, lẫn những quan hệ giữa người với người trong
quá trình sản xuất, tức là quan hệ sản xuất. Khái niệm "kinh tế" cũng có thể dùng để chỉ
tổng thể các quan hệ sản xuất của một xã hội nhất định, tạo nên cơ sở kinh tế của xã hội
đó. C.Mác viết: "Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội,
tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị
và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó" [29, tr. 15].
Nói đến nền tảng kinh tế của xã hội cụ thể là nói đến toàn bộ những quan hệ sản
xuất cũng như sự tác động lẫn nhau giữa các quan hệ ấy trong một xã hội cụ thể. Trong
các chế độ xã hội tồn tại cho đến nay, bên cạnh quan hệ sản xuất thống trị vẫn còn quan
hệ sản xuất tàn dư của chế độ xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương
lai. Cho nên kinh tế của một xã hội cụ thể được đặc trưng, trước hết, bởi kiểu quan hệ sản
xuất thống trị tiêu biểu cho xã hội ấy đồng thời bao gồm cả những quan hệ sản xuất tàn
dư và quan hệ sản xuất mầm mống. Trong cơ sở kinh tế đó, cái giữ địa vị chi phối, có vai
trò chủ đạo và có tác dụng quyết định đối với sự phát triển kinh tế là quan hệ sản xuất
thống trị.
Tóm lại, khái niệm "kinh tế" có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau như đã trình
bày ở trên. Trong luận văn này, chúng tôi đã sử dụng khái niệm "kinh tế" theo nghĩa là
toàn bộ những quan hệ sản xuất tạo thành cơ cấu kinh tế của một xã hội cụ thể.
Trong sự phát triển của lịch sử loài người không phải bao giờ cũng tồn tại chính
trị. Chính trị chỉ xuất hiện và tồn tại trong những giai đoạn phát triển nhất định của lịch
sử, đồng thời nó sẽ mất đi khi cơ sở tồn tại của nó không còn nữa.
Trước khi xã hội có sự phân chia giai cấp và nhà nước, xã hội loài người chưa
xuất hiện vấn đề chính trị. Khi nền sản xuất xã hội phát triển đến một mức độ nhất định,
sự phát triển của lực lượng sản xuất đã đem lại năng suất lao động cao hơn. Xã hội bắt
đầu có của cải dư thừa, tạo điều kiện khách quan cho sự ra đời của chế độ tư hữu. Sự ra
đời của chế độ tư hữu là cơ sở của sự bất bình đẳng về kinh tế trong xã hội, đồng thời là
nguyên nhân dẫn đến sự hình thành các giai cấp đối kháng. Sự đối kháng giữa các giai
cấp ngày càng trở nên gay gắt, không thể điều hòa đã dẫn đến sự ra đời của nhà nước. Từ
đó bắt đầu xuất hiện vấn đề chính trị.
"Chính trị" theo nguyên nghĩa của nó, là những công việc nhà nước, là phạm vi
hoạt động gắn với những quan hệ giai cấp, dân tộc và các nhóm xã hội khác nhau mà hạt
nhân của nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng chính quyền nhà nước [1, tr. 507].
Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp, các tập đoàn, các tầng lớp xã hội có vị trí
khác nhau trong việc quản lý nhà nước. Do đó, các giai cấp, các tập đoàn xã hội đấu tranh
với nhau để giành, giữ và sử dụng nhà nước. Như vậy, chính trị là mối quan hệ giữa các
giai cấp, các tập đoàn, các tầng lớp xã hội về mặt nhà nước.
Chính trị - những quan điểm, tư tưởng chính trị và những thiết chế xã hội tương
ứng với nó như nhà nước, đảng phái, các tổ chức chính trị - xã hội... - là một bộ phận
quan trọng của kiến trúc thượng tầng, khái niệm chính trị được sử dụng trong luận văn
này là hiểu theo nghĩa đó.
Vấn đề quan hệ giữa kinh tế và chính trị đã được đặt ra từ rất sớm trong lịch sử
triết học. Tất cả các nhà triết học trước Mác đều đi tìm nguyên nhân của các sự biến lịch
sử không phải trong kinh tế mà ở trong chính trị, tôn giáo hoặc trong các nhân tố tinh
thần khác.
Khác với các nhà triết học trước đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đi tìm nguyên
nhân của các động cơ tư tưởng trong lĩnh vực tồn tại xã hội, tìm nguyên nhân của chính
trị trong lĩnh vực kinh tế.
Theo C.Mác, kinh tế có vai trò hết sức to lớn đối với chính trị. Vai trò quyết định
của kinh tế đối với chính trị được thể hiện ở chỗ: Kinh tế tạo ra những cơ sở cho sự xuất
hiện giai cấp và đối kháng giai cấp; kinh tế tạo ra điều kiện để hình thành các chính đảng
của các giai cấp thông qua các cuộc đấu tranh giai cấp, đồng thời kinh tế còn là cơ sở cho
sự ra đời của nhà nước... Do đó, khi nói về vai trò quyết định của kinh tế đối với những
quan hệ chính trị, Ph.Ăngghen viết: "Tôi đã nhận thấy rất rõ ràng rằng những sự kiện kinh tế
mà từ trước đến nay, những tác phẩm sử học cho là không đóng một vai trò nào, hoặc có
chăng nữa thì chỉ đóng một vai trò thảm hại, thì ít nhất trong thế giới hiện đại, cũng đã là một
lực lượng lịch sử quyết định" [31, tr. 321].
Trước hết, C.Mác và Ăngghen cho rằng, kinh tế là cơ sở xuất hiện giai cấp và đối
kháng giai cấp. Ph.Ăngghen viết: "Quan niệm duy vật về lịch sử xuất phát từ luận điểm
cho rằng, sản xuất và tiếp theo sau sản xuất là trao đổi sản phẩm của sản xuất, là cơ sở
của mọi chế độ, xã hội, rằng trong mỗi xã hội xuất hiện trong lịch sử, sự phân phối sản
phẩm và cùng với sự phân phối ấy là sự phân chia xã hội thành giai cấp hoặc đẳng cấp đều
được quyết định bởi tình hình: người ta sản xuất ra cái gì và sản xuất ra bằng cách nào và
những sản phẩm của sản xuất đó được trao đổi như thế nào" [30, tr. 371]. Như vậy, theo
Ph.Ăngghen, kinh tế - sản xuất và trao đổi là cơ sở của sự xuất hiện giai cấp trong xã hội.
Vì vậy, cần tìm nguyên nhân của sự xuất hiện giai cấp, của những biến đổi xã hội, đặc
biệt là những biến đổi về chính trị, ở ngay trong kinh tế chứ không phải ở những lực
lượng thần bí, hay ở ý thức chủ quan của con người như các nhà xã hội học trước C.Mác
đã làm. Ph.Ăngghen viết: "Phải tìm những nguyên nhân cuối cùng của tất cả những biến
đổi xã hội và những đảo lộn chính trị không phải trong đầu óc người ta, không phải ở
nhận thức ngày càng tăng thêm của người ta..., mà là trong những biến đổi của phương
thức sản xuất và phương thức trao đổi; cần phải tìm những nguyên nhân đó không phải
trong triết học, mà là trong kinh tế của thời đại tương ứng" [30, tr. 371].
Nhưng, kinh tế không chỉ là nguyên nhân làm xuất hiện giai cấp trong xã hội mà
còn là nguyên nhân làm nảy sinh đối kháng giai cấp. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp
nào chiếm được tư liệu sản xuất thì giai cấp đó chiếm được địa vị thống trị về kinh tế
trong đời sống xã hội. Và tất yếu dẫn đến sự đối lập về lợi ích kinh tế giữa một bên là giai
cấp bị trị, không có tư liệu sản xuất với một bên là giai cấp thống trị, nắm toàn bộ tư liệu
sản xuất của xã hội. Sự đối lập về kinh tế không thể điều hòa được, tất yếu sẽ dẫn đến
đối kháng giai cấp về chính trị. Vì vậy, Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng kinh tế là "cơ
sở cho sự xuất hiện của những đối kháng giai cấp hiện nay" [31, tr. 321].
Trong đấu tranh giai cấp, tất yếu các giai cấp phải lập ra chính đảng của mình để
lãnh đạo phong trào. Như vậy, kinh tế còn là cơ sở gián tiếp của sự hình thành các chính
đảng của các giai cấp và cuộc đấu tranh chính trị giữa các chính đảng đó với nhau.
Thêm vào đó, sự ra đời của nhà nước, sự xuất hiện các quan điểm chính trị của
một giai cấp nhất định có tác dụng chi phối hoạt động của giai cấp, của nhà nước trong xã
hội... đều bắt nguồn từ nguyên nhân kinh tế.
Nhà nước ra đời cùng sự ra đời của chế độ tư hữu và sự phân chia xã hội thành
các giai cấp đối kháng. Giai cấp thống trị không thể duy trì địa vị thống trị nếu không dựa
vào bộ máy bạo lực và các công cụ của nó như quân đội, pháp luật... Tất cả những cái đó
đều bắt nguồn một cách trực tiếp hoặc gián tiếp từ những nguyên nhân kinh tế. Do đó
Ph.Ăngghen đã khẳng định: "Tất cả mọi quyền lực xã hội và tất cả mọi bạo lực chính trị
đều bắt nguồn từ những tiền đề kinh tế, từ phương thức sản xuất, trao đổi của mỗi một xã
hội nhất định trong lịch sử" [30, tr. 303]. Vì vậy, sự ra đời, tồn tại và tiêu vong của Nhà
nước không phải do ý muốn chủ quan của một cá nhân của một giai cấp nào, mà trái lại,
là một tất yếu khách quan, do yêu cầu phát triển tất yếu của các quan hệ kinh tế.
Không những giai cấp, đảng phái, nhà nước và đấu tranh giai cấp đều có nguồn
gốc từ kinh tế mà hệ tư tưởng chính trị chi phối mọi hoạt động chính trị như đấu tranh
giai cấp, hoạt động của Nhà nước, của các chính đảng... cũng đều là biểu hiện của kinh
tế. Mặc dù chưa trực tiếp chỉ rõ rằng, hệ tư tưởng chính trị là biểu hiện của kinh tế nhưng
khi nói về mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của một xã hội nhất
định, C.Mác, Ph.Ăngghen đều coi chính trị (gồm có hệ tư tưởng chính trị và các thiết chế
tương ứng cũng như mối quan hệ nội tại giữa chúng) là một bộ phận của kiến trúc thượng
tầng được sinh ra từ quan hệ kinh tế nhất định và phản ánh những quan hệ kinh tế đó.
Vì lẽ đó, những mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị bao giờ cũng là sự phản ánh
của những mâu thuẫn về kinh tế, và ngược lại, những mâu thuẫn trong kinh tế tất yếu sẽ
dẫn đến đấu tranh giai cấp. Đúng như C.Mác đã khẳng định, mâu thuẫn gay gắt giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cuối cùng sẽ dẫn đến cuộc cách mạng xã hội. Do đó khi
nghiên cứu những cuộc đảo lộn trong xã hội thì bao giờ cũng phải phân biệt cuộc đảo lộn vật
chất trong những điều kiện kinh tế của sản xuất với những hình thái pháp lý, chính trị, tôn
giáo... tóm lại, với những hình thái tư tưởng, trong đó con người ý thức được cuộc xung
đột ấy và đấu tranh để giải quyết nó [29, tr. 15].
Như vậy, mọi nhân tố của chính trị, từ việc hình thành các giai cấp, đối kháng
giai cấp đến đấu tranh giai cấp; từ việc hình thành nhà nước, chính đảng đến những hoạt
động của Nhà nước, của chính đảng cũng như những quan điểm chi phối những hoạt
động đó và toàn bộ lịch sử nói chung đều có nguồn gốc trực tiếp hoặc gián tiếp từ kinh tế.
Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà C.Mác cho rằng: "Phải lấy những quan hệ kinh tế và
sự tiến triển của những quan hệ ấy để giải thích chính trị và lịch sử chính trị chứ không
phải ngược lại" [31, tr. 321].
Vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị không chỉ biểu hiện ở chỗ, kinh tế
sinh ra chính trị, mà còn biểu hiện ở chỗ, những biến đổi căn bản trong kinh tế sớm
muộn sẽ dẫn đến những biến đổi căn bản trong chính trị.
Theo Ph.Ăngghen, kinh tế là cái có trước, còn chính trị là cái có sau và là sự biểu
hiện của kinh tế; kinh tế là tính thứ nhất, còn chính trị là tính thứ hai, cho nên sự biến đổi
của chính trị bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi trong kinh tế. Nhưng không phải cứ có
sự biến đổi nào về kinh tế thì ngay lập tức dẫn đến sự biến đổi về chính trị... Song, sự
biến đổi của kinh tế sớm hay muộn cũng sẽ dẫn đến sự biến đổi về chính trị.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, sự biến đổi của chính trị càng diễn ra rõ rệt
hơn khi cơ sở kinh tế của xã hội này được thay thế bằng cơ sở kinh tế của xã hội khác. Sự
biến đổi này phù hợp với quy luật khách quan chi phối sự phát triển của xã hội - đó là
quy luật về sự tác động biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. C.Mác
nói rằng, khi "cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị
đảo lộn ít nhiều nhanh chóng" [29, tr. 15]. Sự đảo lộn trước tiên của kiến trúc thượng
tầng khi cơ sở hạ tầng thay đổi trước hết là chính trị.
Trong tác phẩm "Chống Đuy-rinh", Ph.Ăngghen đã phê phán quan điểm của Đuy
Rinh cho rằng, chính trị quyết định kinh tế, tất cả các hiện tượng kinh tế đều được giải
thích bằng nguyên nhân chính trị. Để đả phá quan điểm đó, Ph.Ăngghen đã cho rằng "bạo
lực chỉ là phương tiện, còn lợi ích kinh tế trái lại, là mục đích" [30, tr. 226]. Và do đó "Để
thỏa mãn những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm một phương
tiện đơn thuần" [31, tr. 439].
Tóm lại, kinh tế có vai trò quyết định đối với chính trị, cho nên mọi hoạt động
chính trị đều nhằm đạt đến mục đích kinh tế.
Chính trị được sinh ra từ những nguyên nhân kinh tế và mọi sự biến đổi của nó
đều do kinh tế quyết định một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Nhưng chính trị không phải
là yếu tố thụ động mà có tác động trở lại kinh tế. Khẳng định điều đó Ph.Ăngghen viết:
"Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật v.v... đều
dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và
ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế" [33, tr. 271].
Trong tất cả các nhân tố của chính trị, nhà nước đóng một vai trò hết sức quan
trọng và có tác dụng to lớn đối với kinh tế. Được nảy sinh trên một cơ sở kinh tế nhất
định, nhà nước tác động trở lại đối với sự phát triển kinh tế. Chính vì vậy, trong xã hội có
giai cấp đối kháng, các giai cấp đấu tranh với nhau để giành, giữ chính quyền cũng là để
tạo cho giai cấp mình một sức mạnh kinh tế. Vì thế, khi nói về cuộc đấu tranh chính trị
của giai cấp vô sản, Ph.Ăngghen viết: "Chúng tôi đấu tranh cho chuyên chính chính trị
của giai cấp vô sản để làm gì, nếu quyền lực chính trị bất lực về kinh tế? Bạo lực (tức là
quyền lực nhà nước) - cũng là một lực lượng kinh tế" [32, tr. 683]. Dựa vào nhà nước, giai
cấp nắm chính quyền không ngừng phát triển lực lượng kinh tế của mình ngày càng vững
mạnh. Khi kinh tế phát triển lại là cơ sở đảm bảo cho quyền lực nhà nước càng được tăng
cường mạnh mẽ. Có như vậy, địa vị và quyền lực kinh tế của giai cấp nắm chính quyền
nhà nước luôn luôn được đảm bảo vững chắc. Nghĩa là cơ sở kinh tế của một xã hội nhất
định được ổn định và vững chắc là phần lớn nhờ vào sự vững mạnh của chính quyền nhà
nước tương ứng.
Sự tác động của chính trị đối với kinh tế không chỉ được thể hiện thông qua sự
tác động của nhà nước mà còn thể hiện ở vai trò của hệ tư tưởng chính trị - một nhân tố
quan trọng của chính trị. Nhưng hệ tư tưởng chính trị tự nó chưa có vai trò gì đối với kinh
tế. Vai trò tác động của hệ tư tưởng chính trị đối với kinh tế được thực hiện thông qua
thực tiễn chính trị của nhà nước, của chính đảng của một giai cấp nhất định. Chỉ thông
qua những hoạt động đó, hệ tư tưởng chính trị mới có tác dụng to lớn trong việc bảo vệ
hoặc xóa bỏ chế độ kinh tế hiện đang tồn tại.
Cũng như sự tác động của nhà nước, hệ tư tưởng chính trị của một giai cấp tác
động đến kinh tế theo hai chiều. Nếu hệ tư tưởng chính trị phản ánh một cách khoa học
và được cụ thể hóa trong các cương lĩnh, đường lối của các chính đảng, trong pháp luật
và các chính sách của nhà nước của giai cấp nắm chính quyền thì sẽ có tác dụng bảo vệ
và thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh chóng. Ngược lại, sẽ cản trở sự phát triển của kinh
tế.
Như vậy, thông qua sự tác động của hệ tư tưởng chính trị của một giai cấp nhất
định trong xã hội, thông qua hoạt động của nhà nước, chính đảng của giai cấp đó, chính
trị có vai trò hết sức to lớn đối với sự phát triển kinh tế, ở một mức độ nhất định, chính trị
có thể làm thay đổi cơ sở kinh tế. Vai trò của chính trị đối với kinh tế có thể tác động
theo hai chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực. Chính trị sẽ có tác động tích cực, nếu nó tác
động cùng chiều với các quy luật phát triển kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển. Trái lại,
sự tác động ngược chiều của chính trị đối với các quy luật kinh tế sẽ dẫn đến sự xung đột
giữa kinh tế và chính trị, lúc đó chính trị là chướng ngại vật cản trở sự phát triển của kinh
tế.
1.1.2. Thực chất quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong thời kỳ quá độ lên
CNXH
Quá trình giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong thời kỳ quá độ ở
nước Nga, V.I.Lênin đã có nhiều đóng góp quan trọng vào lý luận về mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị.
Theo V.I.Lênin, khi giai cấp vô sản chưa giành được chính quyền, chưa nắm
được quyền lực nhà nước thì giai cấp vô sản chưa có quyền lực kinh tế. Giai cấp vô sản
chỉ có được quyền lực ấy khi hoàn thành nhiệm vụ chính trị là lật đổ chính quyền của giai
cấp tư sản và thiết lập nên chính quyền của giai cấp vô sản.
Trong tác phẩm "Làm gì", Lênin viết: "Từ chỗ quyền lợi kinh tế đóng một vai trò
quyết định, tuyệt nhiên không thể kết luận được rằng cuộc đấu tranh kinh tế (có tính chất
nghiệp đoàn) lại có một tầm quan trọng bậc nhất, vì những quyền lợi chủ yếu, "quyết định"
của các giai cấp, nói chung, chỉ có thể thỏa mãn được bằng những cuộc cải biến chính trị căn
bản; còn quyền lợi kinh tế trọng yếu của giai cấp vô sản, nói riêng, chỉ có thể thỏa mãn được
bằng cuộc cách mạng chính trị thay thế chuyên chính của giai cấp tư sản bằng chuyên chính
vô sản" [39, tr. 59]. Theo V.I.Lênin, trong bất cứ cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nào, giai
cấp vô sản đã làm xong nhiệm vụ giành chính quyền thì tất nhiên có một nhiệm vụ căn bản
khác được đề lên hàng đầu, đó là thiết lập một chế độ xã hội mới cao hơn chủ nghĩa tư bản.
Để thực hiện nhiệm vụ đó, giai cấp vô sản phải đưa ra được cách tổ chức lao động cao hơn,
tức là nhiệm vụ kinh tế [41, tr. 228]. Do đó, sau khi giai cấp vô sản giành được chính quyền
nhà nước, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị biểu hiện ở chỗ, giai cấp vô sản đã thiết lập
được bộ máy nhà nước của mình, có quyền sử dụng bộ máy nhà nước đó để giải quyết
những nhiệm vụ tiếp theo trong lĩnh vực kinh tế, tổ chức lại và phát triển kinh tế quốc dân,
quản lý sản xuất. Vì thế, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ chính trị giữ địa
vị phụ thuộc so với nhiệm vụ kinh tế. Khẳng định điều đó, V.I.Lênin viết: "nhiệm vụ quản lý
nhà nước trước hết và trên hết được quy lại thành nhiệm vụ thuần túy kinh tế, hàn gắn những
vết thương do chiến tranh gây ra trên đất nước, khôi phục lại các lực lượng sản xuất, tổ
chức công tác kiểm soát đối với việc sản xuất và phân phối sản phẩm, nâng cao năng suất
lao động. Nói tóm lại, nhiệm vụ đó được quy thành nhiệm vụ tổ chức lại nền kinh tế" [41,
tr. 63].
Như vậy, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, bước ngoặt chính trị dường như diễn
ra trước bước ngoặt về kinh tế. Từ đó, một số người có quan niệm sai lầm cho rằng, kiến
trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa không phải do cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa sinh ra.
Ngược lại, kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa còn tạo ra và quyết định cơ sở hạ tầng
của xã hội xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ quan niệm đó, họ đi đến kết luận: chính trị -
kiến trúc thượng tầng quyết định sự xuất hiện biến đổi của kinh tế, của cơ sở hạ tầng. Do
đó, muốn giải thích các hiện tượng xã hội, các hiện tượng thuộc kiến trúc thượng tầng thì
phải xuất phát từ chính trị, từ kiến trúc thượng tầng của xã hội chứ không phải từ kinh tế,
từ cơ sở hạ tầng của xã hội.
Thực tiễn xây dựng CNXH ở các nước khác nhau cho thấy, quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa không thể được thiết lập trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa. Quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa chỉ có thể được thiết lập sau khi giai cấp vô sản đã đánh đổ được sự
thống trị của giai cấp thống trị. Sau khi giành được chính quyền, giai cấp vô sản sử dụng
chính quyền đó để từng bước cải tạo, xóa bỏ quan hệ sản xuất đã lạc hậu, lỗi thời, cản trở
sự phát triển của lực lượng sản xuất, đồng thời thiết lập nên quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa phù hợp với lực lượng sản xuất ngày càng lớn mạnh, có tính chất xã hội hóa ngày
càng cao, nhằm thúc đẩy sản xuất, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Rõ ràng, cơ sở khách quan để dẫn đến bước ngoặt chính trị, thay thế chính quyền
nhà nước của giai cấp tư sản bằng chính quyền nhà nước của giai cấp vô sản và nhân dân
lao động, đã nảy sinh trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là, sự phát
triển cao của lực lượng sản xuất, cùng với tính chất xã hội hóa ngày càng cao của nó đã
dẫn đến mâu thuẫn trong sản xuất. Biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn đó là mâu
thuẫn giữa các giai cấp ngày càng gay gắt và không thể điều hòa được. Nói một cách
khác, sự phát triển của lực lượng sản xuất, của sản xuất trong lòng xã hội tư bản chủ
nghĩa dẫn đến mâu thuẫn giữa kinh tế và chính trị. Đó là điều kiện khách quan dẫn đến
bước ngoặt chính trị trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Mặt khác, sau khi giai cấp vô sản đã giành được chính quyền, các giai cấp vẫn
còn tồn tại, địa vị của các giai cấp có những thay đổi và quan hệ giữa các giai cấp cũng
biến đổi. Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp vô sản là giai cấp bị tước đoạt hết mọi
quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất, bị áp bức bóc lột và bị thống trị. Sau khi lật đổ
được sự thống trị chính trị của giai cấp tư sản, thiết lập được chính quyền của mình và sử
dụng chính quyền nhà nước đó, giai cấp vô sản trở thành giai cấp thống trị xã hội về
chính trị; nắm lấy tư liệu sản xuất đã lớn mạnh và đã được xã hội hóa dưới xã hội tư bản
chủ nghĩa, biến nó thành tài sản xã hội chủ nghĩa. Chỉ khi đó, giai cấp vô sản mới có thể
thực hiện được quyền lực kinh tế của mình. Và giai cấp vô sản chỉ có thể dựa vào cơ sở
kinh tế của mình và sử dụng nó để cải tạo nền kinh tế của đất nước theo hướng xã hội chủ
nghĩa. Vì thế, quyền lực chính trị của giai cấp vô sản và nhân dân lao động chỉ có thể
được đảm bảo, giai cấp vô sản chỉ có thể lãnh đạo toàn bộ xã hội, xây dựng xã hội mới
khi giai cấp vô sản và nhân dân lao động đã nắm được trong tay mình quyền lực về kinh
tế.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị
còn biểu hiện ở chỗ, nhu cầu phát triển khách quan của nền kinh tế quyết định phương
hướng hoạt động của đảng, của nhà nước của giai cấp vô sản, quyết định tính chất và khả
năng ảnh hưởng của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Nghĩa là, chính trị là sự phản
ánh tập trung của kinh tế. Sự phản ánh đó biểu hiện thông qua việc hình thành các tổ
chức chính trị, những chính sách, từ đó giải quyết những vấn đề, quyết định mục tiêu và
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Sự phản ánh tập trung nhu cầu phát triển khách quan của kinh tế được thể hiện ở
các chính sách kinh tế, ở phương thức hoạt động của các bộ phận trong hệ thống chính
trị. Đúng như V.I.Lênin đã khẳng định: "Bất cứ một vấn đề chính trị nào cũng có thể là
một vấn đề tổ chức, và ngược lại... Không thể tách những vấn đề tổ chức khỏi những vấn
đề chính trị được. Chính trị tức là kinh tế được cô đọng lại" [42, tr. 147]. Trong thời kỳ
quá độ, mặc dù chính trị giữ địa vị phụ thuộc so với kinh tế, song giải quyết những vấn đề
chính trị cũng chính là vì mục tiêu kinh tế: "Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh
tế".
Tuy nhiên, trong sự tác động biện chứng với kinh tế, chính trị không phải là nhân
tố thụ động mà là nhân tố tác động mạnh mẽ trở lại đối với kinh tế. Vai trò của chính trị
đối với kinh tế thể hiện trong luận điểm nổi tiếng của V.I.Lênin về vị trí ưu tiên của chính
trị đối với kinh tế.
Trong cuộc đấu tranh với những người theo "chủ nghĩa kinh tế", V.I.Lênin đã
nêu lên vai trò hàng đầu của chính trị đối với kinh tế của các giai cấp. Trong cuốn "Lại
bàn về công đoàn, về tình hình trước mắt và về những sai lầm của các đồng chí Tơrốtxki
và Bukharin", tư tưởng về vai trò hàng đầu của chính trị so với kinh tế lại được V.I.Lênin
khẳng định một lần nữa. V.I.Lênin viết: "Chính trị không thể không chiếm địa vị hàng
đầu so với kinh tế. Lập luận một cách khác đi, tức là quên mất những điều sơ đẳng của
chủ nghĩa Mác" [44, tr. 349].
Theo V.I.Lênin, vị trí hàng đầu của chính trị đối với kinh tế là việc thừa nhận ý
nghĩa quyết định của việc giành chính quyền nhà nước, thay thế chính quyền của giai cấp
tư sản bằng chính quyền nhà nước của giai cấp vô sản để thực hiện lợi ích kinh tế cơ bản
của giai cấp vô sản, để giải quyết những nhiệm vụ kinh tế. Vì vậy, cần phải có thái độ
chính trị đúng đắn đối với tất cả các vấn đề kinh tế, văn hóa, và tổ chức (đặc biệt là vấn
đề tổ chức). Do đó, khi nói về vai trò của công đoàn, V.I.Lênin đã chỉ ra rằng, xét về mặt
chính trị mà nói, nếu chúng ta có thái độ sai đối với công đoàn thì chính quyền Xô viết
và chuyên chính vô sản sẽ tiêu tan. Trong một nước nông dân như nước Nga, nếu có
sự chia rẽ giữa đảng với công đoàn, do sai lầm của đảng gây ra thì chắc chắn là chính
quyền xô viết sẽ bị sụp đổ [44, tr. 349]
Xuất phát từ luận điểm trên, V.I.Lênin đã kiên quyết chống lại "chủ nghĩa chiết
chung" của Bukharin. V.I.Lênin cho rằng, Bukharin là người đặt quan điểm chính trị bên
cạnh quan điểm kinh tế đối với công đoàn, mà không thấy được mối quan hệ biện chứng
giữa kinh tế và chính trị. Ông coi đó là một sai lầm nghiêm trọng, bởi vì giai cấp vô sản
không thể giữ được chính quyền trong một nước nông dân, nếu có quan điểm chính trị sai
lầm. Những sai lầm trong chính trị (mà Tơrốtxki và Bukharin đã phạm phải) đã làm cho
Đảng cộng sản phải bỏ nhiệm vụ kinh tế và các công tác sản xuất vì mất thời gian để sửa
chữa những sai lầm đó. Do đó "không có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp
nhất định nào đó, không thể nào giữ vững được sự thống trị của mình, và do đó, cũng
không thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất" [44, tr. 350].
Sau khi giai cấp vô sản giành được chính quyền, được tự do về chính trị và hoàn
thành về căn bản nhiệm vụ đấu tranh lật đổ chính quyền của giai cấp tư sản, thì những
vấn đề về kinh tế, về tổ chức nền kinh tế quốc dân, quản lý sản xuất, nổi lên vị trí hàng
đầu. V.I.Lênin gọi đó là nhiệm vụ chính trị chủ yếu hàng đầu sau khi giành chính quyền.
Ông viết:
Chính trị chủ yếu của chúng ta lúc này là xây dựng nước nhà về mặt
kinh tế, để tích góp được nhiều lúa mì hơn, để sản xuất được nhiều than hơn,
để sử dụng được những lúa mì và than đó được hợp lý hơn sao cho không có
người đói nữa. Chính trị của chúng ta phải là như vậy... Chúng ta sẽ chuyển
hướng sang thực hiện chính trị trong lĩnh vực kinh tế [43, tr. 483].
Vì thế, theo V.I.Lênin, chính cơ sở của chính quyền, cũng như thực chất của thời
kỳ quá độ từ xã hội tư bản chủ nghĩa sang xã hội xã hội chủ nghĩa lại là ở chỗ, các nhiệm
vụ chính trị giữ địa vị phụ thuộc so với các nhiệm vụ kinh tế [40 tr. 162].
Vấn đề đặt ra là, phải chăng tư tưởng của V.I.Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế
và chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có chứa đựng mâu thuẫn? Bởi vì,
theo cách diễn đạt của V.I.Lênin, chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với
kinh tế, trong khi đó, ở một chỗ khác, V.I.Lênin lại cho rằng, trọng tâm của chính trị cần
phải chuyển sang lĩnh vực kinh tế và các nhiệm vụ chính trị lại giữ địa vị phụ thuộc so
với các nhiệm vụ kinh tế.
Trên thực tế, những luận điểm đó của V.I.Lênin không có gì mâu thuẫn nhau cả.
Bởi vì, mỗi tư tưởng của V.I.Lênin đều xuất hiện trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể và
đều đề cập đến nhiệm vụ cụ thể của giai cấp vô sản. Trong thời kỳ giai cấp vô sản chưa
được tự do về chính trị - tức là khi vấn đề chính quyền chưa được giải quyết thì vấn đề
giành chính quyền là nhiệm vụ trung tâm của Đảng cộng sản của giai cấp vô sản. Toàn bộ
hoạt động của Đảng cộng sản của giai cấp vô sản đều tập trung vào nhiệm vụ đó. Khi đó,
bọn tư sản, địa chủ là người chủ trong nền kinh tế và quản lý sản xuất, vì thế, nhiệm vụ
cải tạo nền kinh tế chưa được đặt ra một cách trực tiếp và cấp thiết, vấn đề kinh tế lúc bấy
giờ chỉ là nhu cầu kinh tế hàng ngày- như tiền lương, bánh mì, giảm giờ làm, v.v... gắn
liền vào cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản. Bởi vì, "Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa giai
cấp vô sản là một giai cấp bị áp bức, một giai cấp bị tước đoạt mất mọi quyền sở hữu tư
liệu sản xuất" [42, tr. 319]. Lúc bấy giờ, giai cấp vô sản không có quyền lực về kinh tế
và quyền lợi về chính trị thì bị bó hẹp trong vòng thống trị của giai cấp tư sản.
Sau khi giành được chính quyền, ngay từ những ngày đầu của cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa, những vấn đề kiểm tra, kiểm soát của giai cấp vô sản đối với nền sản xuất,
đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, mà trong đó, giai cấp vô sản là người lãnh
đạo cách mạng và đa số nhân dân lao động là người làm chủ, mới trở thành hiện thực.
Công cuộc xây dựng nền kinh tế là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Khi nói về thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, V.I.Lênin cho xây dựng nền kinh tế là hoạt
động chính trị có ý nghĩa nhất. Ông viết: "Dưới chế độ tư sản, người kinh doanh là bọn
chủ chứ không phải là những cơ quan của nhà nước, nhưng trong nước ta, công tác kinh tế
phải là sự nghiệp chung của tất cả mọi người. Đối với chúng ta, đó là hoạt động chính trị có
ý nghĩa nhất" [45, tr. 396-397]. Khi đã trở thành giai cấp thống trị - nắm lấy quyền sử dụng
bộ máy nhà nước và trở thành giai cấp lãnh đạo toàn xã hội, thông qua tổ chức Đảng của
mình - giai cấp vô sản hướng nhiệm vụ của mình vào việc giải quyết những vấn đề cấp
thiết, mấu chốt trong nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền kinh tế quốc dân. Bởi vì,
theo quan điểm của V.I.Lênin, "ngày nay và có lẽ lần đầu tiên trong lịch sử cận đại của
các dân tộc văn minh, đây là một sự quản lý trong đó cái có ý nghĩa trọng đại hơn cả
không phải là chính trị mà là kinh tế" [41, tr. 162].
Tuy nhiên, trong điều kiện của một nước tiểu nông như nước Nga V.I.Lênin cho
rằng, giai cấp vô sản không thể củng cố nền sản xuất, công xưởng và nhà máy, không thể
phát triển được nền kinh tế quốc dân của nước mình, nếu không hồi sinh ở một mức độ
nhất định giai cấp tiểu tư sản và sự trao đổi của nó. Chính vì vậy, giai cấp vô sản cần phải
có một thời kỳ dài để chuyển nền kinh tế tư bản chủ nghĩa sang kinh tế xã hội chủ nghĩa,
cải tạo chế độ xã hội cũ và xây dựng chế độ xã hội mới - chế độ xã hội chủ nghĩa. Như
vậy, về kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH còn tồn tại đan xen cả những yếu tố của
xã hội cũ và những nhân tố của xã hội mới. Theo V.I.Lênin, trong thời kỳ quá độ đó, có
những bộ phận, những phần, những mảnh của cả kinh tế tư bản chủ nghĩa lẫn kinh tế xã
hội chủ nghĩa. Do đó, việc xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa; cải tạo toàn bộ nền
kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa, làm cho các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa trở
thành chỉ đạo chi phối thắng lợi các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, là những
nhiệm vụ vô cùng khó khăn và phức tạp, không thể hoàn thành trong một thời gian ngắn.
Vì thế, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, để phát triển được kinh tế, phát
triển được đời sống xã hội, thì mọi hoạt động của Đảng, của nhà nước, của giai cấp vô
sản phải được tổ chức một cách thận trọng, tránh những sai lầm trong chính trị, vì bất cứ
một sai lầm nào trong chính trị cũng gây khó khăn cho việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế.
Trong khi nêu lên vị trí hàng đầu của chính trị đối với kinh tế, V.I.Lênin cho
rằng, trong thời quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, việc củng cố chính
quyền vô sản là tuyệt đối cần thiết. Bởi vì, sau khi giai cấp vô sản giành được chính
quyền, các giai cấp vẫn còn tồn tại, mặc dù quan hệ giữa giai cấp có những biến đổi; sự
chống đối của giai cấp bóc lột (đã mất chính quyền) ngày càng gay gắt; nền kinh tế còn
tồn tại nhiều thành phần. Do đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa có vai trò to lớn đối với sự
phát triển nền kinh tế quốc dân. Trong thời kỳ này, sự lãnh đạo nền kinh tế quốc dân là
nhiệm vụ chủ yếu và cơ bản của Đảng cộng sản và của nhà nước xã hội chủ nghĩa, vì
công tác kinh tế là sự nghiệp của nhân dân lao động. Do đó, nếu giai cấp vô sản không
thiết lập bộ máy nhà nước của mình và sử dụng nó để quản lý, kiểm kê, kiểm soát được
các hoạt động sản xuất, trao đổi, phân phối sản phẩm trong nền kinh tế thì giai cấp vô sản
không thể nào giữ vững được chính quyền và không thể xây dựng được chế độ xã hội chủ
nghĩa mà còn có nguy cơ quay trở lại chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều này đã được
V.I.Lênin nêu rõ trong tác phẩm "Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền xô viết". Ông
viết "Nếu nhà nước không tiến hành kiểm kê và kiểm soát toàn diện đối với việc sản xuất
và phân phối các sản phẩm, thì chính quyền của những người lao động, nền tự do của họ sẽ
không thể nào duy trì được và nhất định họ sẽ phải sống trở lại dưới ách của chủ nghĩa tư
bản" [41, tr. 224].
Rõ ràng, cũng như nhà nước tư sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng có chức
năng kinh tế. Song nhà nước xã hội chủ nghĩa khác về căn bản với nhà nước tư sản (đặc
biệt là nhà nước tư sản trong giai đoạn độc quyền) trong việc thực hiện chức năng kinh
tế. Nhà nước tư sản cũng thực hiện chức năng kinh tế, sử dụng hàng loạt những đòn bẩy
kinh tế để quản lý kinh tế, phân phối lại thu nhập quốc dân, nhưng nhằm phục vụ lợi ích
của bọn độc quyền, để tăng cường bóc lột người lao động. Cái chính trong hoạt động của
nhà nước tư sản là trấn áp những người bị bóc lột - tức đa số những người lao động -
nhằm bảo vệ nền tảng của chế độ tư bản chủ nghĩa. Trái lại, hoạt động của nhà nước xã
hội chủ nghĩa trong việc quản lý nền kinh tế đất nước nhằm phục vụ lợi ích của đa số
nhân dân lao động; còn chức năng trấn áp của nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với sự
chống đối của giai cấp bóc lột chỉ là hoạt động thứ yếu; nó sẽ mất đi cùng với việc xóa bỏ
giai cấp bóc lột.
Như vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa chủ yếu thực hiện chức năng quản lý kinh
tế, xây dựng đất nước. Trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội,
việc thực hiện chức năng kinh tế của nhà nước gắn liền với sự quá độ từ nền kinh tế nhiều
thành phần sang nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thống nhất. Bởi vì, theo V.I.Lênin, chủ
nghĩa xã hội là sự xóa bỏ giai cấp, nhiệm vụ này không phải làm một lần là xong ngay
được. Đây là nhiệm vụ vô cùng khó khăn; nó chỉ có thể thực hiện được bằng cách cải tạo
toàn bộ nền kinh tế xã hội, bằng cách chuyển từ nền kinh tế hàng hóa nhỏ, cá thể, riêng lẻ
sang nền kinh tế tập thể lớn [42, tr. 315-316]. Có như vậy, Đảng và Nhà nước của giai
cấp vô sản mới có thể thực hiện được nhiệm vụ của mình là xây dựng chủ nghĩa cộng
sản. Vì chủ nghĩa cộng sản không thể xây dựng trên cơ sở của một nền kinh tế nghèo nàn,
lạc hậu mà chỉ có thể được ra đời trên cơ sở phát triển cao của nền sản xuất. Điều này đã
giải thích tại sao Đảng và Nhà nước của giai cấp vô sản lại nêu lên nhiệm vụ chủ yếu của
mình trong thời kỳ quá độ là xây dựng nền kinh tế quốc dân, kiểm kê, kiểm soát đối với
sản xuất, nâng cao năng suất lao động, phổ biến kinh nghiệm thực tiễn... Việc xóa bỏ
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa nhằm
thực hiện các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội phụ thuộc vào việc xây dựng cơ sở kinh tế -
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Những nhiệm vụ đó được giải quyết có hiệu quả hay
không lại tùy thuộc vào sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, vào vai trò quản lý của nhà nước.
Do đó, sự hoạt động của Đảng cộng sản, của Nhà nước xã hội chủ nghĩa có vai trò hết
sức to lớn để tạo ra sự phát triển của kinh tế - xã hội; tạo ra sự thắng lợi của chủ nghĩa xã
hội đối với chủ nghĩa tư bản. Vì thế, V.I.Lênin đã cho rằng, để có thể chiến thắng được
giai cấp tư sản, giai cấp vô sản phải đưa ra và thực hiện cho được một kiểu tổ chức lao
động xã hội mang lại năng suất cao hơn chủ nghĩa tư bản.
Rõ ràng, với những chủ trương, chính sách của Đảng cộng sản, của nhà nước xã hội
chủ nghĩa, với sự kiểm kê, kiểm soát trong quản lý kinh tế, Đảng và Nhà nước xã hội chủ
nghĩa của giai cấp vô sản có vai trò rất to lớn trong sự phát triển nền kinh tế quốc dân, trong
cuộc đấu tranh cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội đối với chủ nghĩa tư bản, trong việc bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, theo quan điểm của V.I.Lênin, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực của đời sống xã hội có mối quan hệ biện chứng
với nhau, trong đó kinh tế, xét đến cùng, là nhân tố quyết định sự hình thành phát triển
của chính trị, song chính trị, có vai trò hết sức to lớn, nó tác động trở lại đối với sự phát
triển của kinh tế. Điều này thể hiện trước hết là ở chỗ; mọi hoạt động kinh tế, mọi sự phát
triển của nền kinh tế không chỉ gắn liền với việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
các giai cấp, các dân tộc, mà còn là điều kiện đảm bảo cho hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa vững mạnh, đảm bảo cho chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện trong
thực tế trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó cũng chính là cơ sở vững chắc cho
sự thắng lợi của chế độ xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa đối với chế độ xã hội cũ. Tất
cả những điều đó có ý nghĩa chính trị to lớn. Ngược lại, chính sách kinh tế của Đảng
cộng sản, sự quản lý của nhà nước, v.v... đối với kinh tế đều tạo ra động lực thúc đẩy cho
kinh tế xã hội chủ nghĩa phát triển trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Vì thế, V.I.Lênin quan niệm rằng, chính trị là sự biểu hiện tập trung của
kinh tế và chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế. Đó là hai kết
luận cơ bản của Lênin về biểu hiện của sự tác động biện chứng giữa kinh tế và chính trị
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1.2. Thực trạng của sự nhận thức và vận dụng quan điểm mác xít về quan hệ
giữa kinh tế và chính trị trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở
Việt Nam
1.2.1. Phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN - một tất
yếu khách quan
Tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và
chính trị đã trở thành lý luận khoa học và cách mạng cho việc nhận thức và cải tạo xã hội,
đặc biệt là đối với các nước phát triển theo định hướng XHCN.
Sau khi đất nước được hoàn toàn thống nhất, trên cơ sở nhận định đúng những
đặc điểm cơ bản của tình hình cách mạng đất nước và xu thế của thời đại, Đảng ta chủ
trương đưa cả nước tiến lên CNXH, đề ra đường lối chung và đường lối kinh tế trong cả
thời kỳ quá độ lên CNXH. Tuy nhiên, trong suốt quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn,
bên cạnh những thành công, Đảng và Nhà nước ta cũng đã vấp phải một số những hạn
chế trong việc giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Trong một thời gian dài
(trước thời kỳ đổi mới) chúng ta đã mắc phải những lệch lạc cực đoan, chủ quan, duy ý
chí, cường điệu vai trò của chính trị, ít nhiều chịu ảnh hưởng của tư tưởng "chính trị là
thống soái". Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến sâu sắc chế độ xã hội cũ và xây
dựng chế độ xã hội mới, là thời kỳ còn tồn tại đan xen giữa những yếu tố của chế độ cũ
lẫn những nhân tố của chế độ xã hội mới, CNXH mới ra đời nhưng còn non yếu... do đó,
chính trị đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Tuy nhiên, chính trị phải trên cơ sở phản
ánh kinh tế tức là phản ánh thực trạng kinh tế và các quy luật kinh tế khách quan mới có
tác động tích cực. Ngược lại, nếu chính trị chỉ dựa trên ý chí, mong muốn chủ quan, bất
chấp kinh tế thì như thực tế đã chỉ ra, sẽ đẩy nền kinh tế - xã hội rơi vào tình trạng khủng
hoảng trì trệ - thực tế nước ta trước thời kỳ đổi mới đã chứng tỏ điều đó.
Thời kỳ quá độ lên CNXH phải tiến hành cải tạo XHCN nền kinh tế của đất nước
đó là sự cần thiết. Nhưng cải tạo kinh tế phải vận dụng một cách chủ động, sáng tạo các
quy luật kinh tế mà trước hết là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
của lực lượng sản xuất. Song, quy luật này ở nước ta chưa được nhận thức và vận dụng
một cách đúng đắn. Thực tế lực lượng sản xuất ở nước ta còn ở trình độ thấp, sản xuất
manh mún, công nghệ lạc hậu, tính chất xã hội hóa chưa cao, xóa bỏ một cách nóng vội
các thành phần kinh tế phi XHCN, xây dựng một cách ồ ạt nền kinh tế thuần nhất XHCN
dưới hai hình thức tập thể và quốc doanh là không phù hợp. Vả lại, trong xây dựng quan
hệ sản xuất XHCN không coi trọng giải quyết các vấn đề tổ chức, phân phối; quản lý
điều hành nền kinh tế theo kiểu kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bằng mệnh lệnh hành
chính... đã tạo thành lực cản kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, kìm hãm sức
sản xuất của xã hội, năng suất lao động thấp và theo đó, thu nhập và đời sống của nhân
dân ngày càng giảm sút.
Qua kinh nghiệm thực tiễn với những thành công và thất bại, trong đường lối đổi
mới Đảng ta đã nhận thức được rằng "lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong
trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng
bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất" [9, tr.
57]. Từ đó, Đảng ta cũng nhận rõ, muốn phát triển lực lượng sản xuất, bên cạnh việc thay
đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư, cần phải chú trọng đến việc thay đổi cơ cấu thành
phần kinh tế, coi trọng các hình thức kinh tế trung gian quá độ từ thấp đến cao, từ quy mô
nhỏ đến quy mô lớn. Trên cơ sở vận dụng đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
Đảng ta xác định:
Đẩy mạnh cải tạo XHCN là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong
suốt thời kỳ quá độ lên CNXH, với những hình thức và bước đi thích hợp, làm
cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất,
luôn luôn có tác động thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất [9, tr. 58].
Xuất phát từ những bài học kinh nghiệm trong cải tạo XHCN trong những năm
1976 - 1986, từ thực trạng kinh tế - xã hội đất nước, từ sự vận dụng quan điểm của V.I.
Lênin coi nền kinh tế nhiều thành phần như một đặc trưng của thời kỳ quá độ, Đảng ta đã
đề ra chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế nhằm khai thác mọi khả
năng của các thành phần kinh tế trong sự nghiệp xây dựng CNXH. Phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần đã được Đảng ta coi "là một giải pháp có ý nghĩa chiến lược góp phần giải
phóng và khai thác mọi khả năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ cấu kinh tế
hợp lý" [9, tr. 56], nhằm khắc phục những sai lầm trong việc cải tạo và xây dựng CNXH
trước đây, khai thác và phát huy được hết công suất, thiết bị, đất đai, tài nguyên, nguồn
nhân lực cho sự phát triển kinh tế.
Quán triệt quan điểm có tính nguyên tắc nêu trên, Đảng ta đã chủ trương chuyển
từ nền kinh tế thuần nhất XHCN, kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh
tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng XHCN.
Thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước ở nước ta là sự trở lại với chính mình để tiến lên CNXH một cách
đúng đắn có hiệu quả hơn, để sớm đạt được mục tiêu XHCN chứ không phải là chúng ta
từ bỏ mục tiêu, con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Điều đó có nghĩa là,
Đảng ta sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần như một phương tiện để đạt được mục
tiêu XHCN, chứ không phải là thay đổi mục tiêu XHCN.
Chủ trương phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN là chủ trương phản ánh đúng
đắn mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở
nước ta.
Thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH. Tuy CNXH đang lâm
vào thời kỳ khủng hoảng trầm trọng, toàn diện với sự sụp đổ của của hàng loạt các nước
XHCN, song tính chất của thời đại vẫn không thay đổi. Lựa chọn con đường phát triển
đất nước theo định hướng XHCN là sự lựa chọn đúng đắn, vừa phù hợp với xu thế của
thời đại, vừa đáp ứng nguyện vọng lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Bối
cảnh thế giới với xu hướng toàn cầu hóa đã mở ra nhiều khả năng mới để các nước lạc
hậu có thể tận dụng những cơ hội, rút ngắn khoảng cách vươn tới trình độ văn minh, hiện
đại. Song, đó cũng là quá trình lâu dài, gian khổ, đầy khó khăn, phức tạp.
Để thực hiện bước quá độ lên CNXH, trước hết cần phải có lực lượng sản xuất
phát triển. Chúng ta tiến lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, đó là xu hướng và khả năng
khách quan của thời kỳ lịch sử hiện nay. Song chúng ta không thể bỏ qua những tiền đề
về kinh tế, kỹ thuật, văn hóa, xã hội cần thiết cho sự quá độ đó. Lực lượng sản xuất ở
nước ta còn ở trình độ thấp kém, phát triển không đồng đều. Vì vậy, để phát triển lực lượng
sản xuất nhằm tạo cơ sở vật chất, kỹ thuật cho CNXH chúng ta không có con đường nào
khác là phải thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần. Có như vậy mới tạo điều kiện củng cố,
cải tạo và phát triển lực lượng sản xuất nước ta, và chỉ có phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần chúng ta mới có khả năng huy động được mọi tiềm năng về vốn, kỹ thuật, tạo thêm
công ăn việc làm, khai thác tối đa nguồn lao động dồi dào ở nước ta để đẩy nhanh sức sản
xuất của xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế [37, tr. 33-36]. Như vậy, thực hiện nền kinh
tế nhiều thành phần là nhu cầu khách quan và phù hợp với quy luật từ sản xuất nhỏ lên
sản xuất lớn XHCN. Đó là con đường để có thể tạo ra tiền đề vật chất - kỹ thuật cần thiết
cho sự quá độ lên CNXH ở Việt Nam hiện nay.
Song, vấn đề đặt ra là nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường ở nước ta liệu có định hướng được XHCN hay không? Đó chẳng những là vấn đề
lý luận mà còn là vấn đề thực tiễn bức xúc đòi hỏi chúng ta phải lý giải và khẳng định
được trên thực tế xu hướng phát triển đó.
Tổng kết quá trình thực tiễn, nghiên cứu những điều kiện khách quan trong và
ngoài nước đến nay, cho phép chúng ta có thể khẳng định rằng, định hướng XHCN nền
kinh tế nhiều thành phần ở nước ta là một xu hướng khách quan, một khả năng có triển
vọng.
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, đặc biệt là xu hướng toàn cầu hóa với sự phát
triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, khoa học đã trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp và trí tuệ trở thành nhân tố quan trọng trong việc nâng cao năng
suất lao động xã hội. Các thành tựu, các phát minh khoa học đã nhanh chóng được ứng
dụng vào quá trình sản xuất, vào quá trình đổi mới công nghệ. Do vậy, khoa học đã mở ra
khả năng to lớn cho phép con người, các quốc gia dân tộc tận dụng những cơ hội khai
thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, nâng trình độ phát triển của sản xuất xã
hội lên một trình độ mới về chất.
Bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển của nền sản xuất xã hội thể hiện ở chỗ,
lực lượng sản xuất thế giới bước vào một thời kỳ phát triển chưa từng có, sự phát triển đó
được thực hiện trên tất cả các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, nhất là yếu tố người
lao động. Đội ngũ người lao động ngày nay đòi hỏi phải có trình độ khoa học - kỹ thuật,
tay nghề cao, có chuyên môn nghiệp vụ cơ bản. Sự chuyển hóa về chất của lực lượng sản
xuất kéo theo hàng loạt những sự biến đổi về lao động sản xuất của con người, làm thay
đổi cơ cấu người lao động trong các khâu của sản xuất. Từ đó tạo ra những cơ hội mới
cho mọi quốc gia trong việc lựa chọn con đường phát triển kinh tế của mình, nhất là việc
lựa chọn cách thức khai thác các nguồn lực cho phát triển kinh tế. Trong đó nguồn lực
người lao động được xác định là một trong các nguồn lực quan trọng nhất.
Do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và chính những thành
quả của nó đã thúc đẩy quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới. Xu thế hội nhập
vào nền kinh tế thế giới của các quốc gia, dân tộc là một tất yếu khách quan. Vì vậy tất cả
các nước nhất là các nước chậm phát triển có cơ hội "đi tắt đón đầu" để phát triển, vươn
lên.
Ngay với các nước tư bản phát triển, giai cấp tư sản đã có những điều chỉnh lớn
về quan hệ sản xuất cho phù hợp với đòi hỏi khách quan của xu thế đó. Sự năng động của
các công ty tư bản tạo ra sự cạnh tranh và thúc đẩy nhanh sự phát triển của quá trình chu
chuyển vốn bằng con đường đầu tư làm cho quá trình sản xuất và dịch vụ mang tính chất
quốc tế hóa. Nền kinh tế thế giới hiện nay đã phá vỡ tính chất khép kín, biệt lập cả về sản
xuất và dịch vụ ở mỗi quốc gia cũng như từng khu vực. Quá trình đó đã làm thay đổi mối
quan hệ giữa thị trường trong nước với thị trường thế giới và thị trường khu vực. Thị
trường trong từng quốc gia có thể nhanh chóng tiếp cận thị trường các quốc gia khác
trong khu vực và trên toàn thế giới bằng cách mở rộng hợp tác kinh tế đối ngoại và hoạt
động ngoại thương.
Sự biến đổi của nền kinh tế thế giới một mặt đã tạo ra tính thống nhất của thị
trường thế giới như đã nêu trên, mặt khác, xu thế toàn cầu hóa đã tác động mạnh mẽ tới
quá trình phân công lao động và hợp tác quốc tế. Thực tế đó đang thực sự là nhân tố kích
thích nền kinh tế của mỗi quốc gia vươn lên bắt kịp trình độ thế giới. Điều đó đã tạo ra
điều kiện thuận lợi, cơ hội để các quốc gia có thể phát huy lợi thế của mình, tăng cường
tính độc lập và tính phụ thuộc lẫn nhau trên nguyên tắc bình đẳng, hợp tác đôi bên cùng
có lợi giữa các nước. Quá trình đó đã mở ra những mối quan hệ quốc tế theo kiểu song
phương và đa phương. Thông qua những mối quan hệ đối ngoại, những điều kiện thuận
lợi trong quan hệ kinh tế quốc tế cho phép chúng ta có thể tranh thủ những mặt tích cực,
thuận lợi nhằm thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất, thúc đẩy quá trình tăng trưởng
kinh tế, khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế.
Sự phân tích ở trên cho thấy, chúng ta phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN là
cách thức, là sự lựa chọn đúng đắn những điều kiện khách quan mà thời đại mang lại,
trước hết là sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ; xu thế toàn cầu hóa
về kinh tế. Thực tế cho thấy, nếu chúng ta có được những chủ trương và định hướng đúng
đắn, lựa chọn được những lợi thế trong quan hệ quốc tế bằng việc xây dựng những chính
sách phù hợp thì khả năng đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế sẽ là hiện thực. Và như
vậy, việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN là một khả
năng khách quan cho phép. Tuy nhiên, bên cạnh những điều kiện khách quan thuận lợi
như đã phân tích, bối cảnh quốc tế cũng cho thấy những khó khăn ít nhiều gây cản trở
trong quá trình định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta.
Khẳng định khả năng khách quan của sự phát triển theo định hướng XHCN nền
kinh tế nhiều thành phần còn bắt nguồn từ những thành tựu mà chúng ta đạt được sau 15
năm đổi mới ở nước ta.
Từ khi bắt đầu thực hiện định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần ở nước ta đến nay, nền kinh tế nước ta đã có bước phát triển vượt bậc, cơ chế thị
trường ngày càng được hình thành rõ nét và phát triển theo hướng văn minh, hiện đại.
Quá trình phát triển của nền kinh tế đó luôn có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước.
Sự mở rộng và phát triển của các thành phần kinh tế đã tận dụng và khai thác
được một tiềm năng lớn sức lao động xã hội dư thừa vào quá trình sản xuất, đã và đang
góp phần tích cực vào việc giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và mức sống cho
những người lao động ở nước ta; từ đó, làm cho đời sống xã hội có bước phát triển và ổn
định.
Nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường ở nước ta không
phải là vận động và phát triển theo hướng bất kỳ mà theo định hướng XHCN. Vì vậy,
kinh tế nhà nước và cùng với nó là kinh tế hợp tác luôn được Đảng ta xác định là nền
tảng vật chất của quá trình định hướng. Những năm qua, do xác định được vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước, nhờ liên tục đổi mới hệ thống chính sách của Đảng và Nhà
nước đối với kinh tế nhà nước nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng nên đã làm
cho cơ cấu sở hữu nhà nước được đổi mới. Trên cơ sở đó tạo động lực thúc đẩy việc sử
dụng có hiệu quả tài sản của nhà nước và huy động vốn xã hội vào quá trình phát triển
kinh tế, góp phần đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chúng ta đã khắc
phục tình trạng hoạt động tách biệt giữa các thành phần kinh tế, đã tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp phát huy sức mạnh của mình. Cùng với đó là quá trình không ngừng hoàn
thiện sự hợp tác và đa dạng hóa các hình thức hợp tác giữa các thành phần kinh tế. Thông
qua đó, kinh tế nhà nước từng bước thực hiện vai trò chủ đạo và điều tiết các thành phần
kinh tế khác.
Như vậy, xét trên lĩnh vực kinh tế, thời gian qua ở nước ta đã có những bước phát
triển đáng kể, kinh tế tăng trưởng nhanh, lạm phát được đẩy lùi mức độ đầu tư cho phát
triển sản xuất tăng đáng kể. Doanh nghiệp nhà nước không ngừng được củng cố theo
hướng tuy có giảm về số lượng nhưng tăng tính hiệu quả trong cạnh tranh, bước đầu thể
hiện vai trò chủ lực trong kinh tế nhà nước, phần nào thể hiện vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế quốc dân. Quan hệ sản xuất XHCN tiếp tục được xác lập và củng cố trên cả ba
phương diện như sở hữu, quản lý tổ chức và về phân phối.
Về sở hữu, một mặt chúng ta tiếp tục duy trì chế độ sở hữu công cộng với những
tư liệu sản xuất chủ yếu, trong đó nhà nước là đại diện chủ sở hữu. Mặt khác, chúng ta đã
thực hiện đa dạng hóa các hình thức sở hữu cho phù hợp với trình độ phát triển thực tế
của lực lượng sản xuất, từ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Về quản lý, qua việc đổi mới chế độ quản lý đối với nền kinh tế nhiều thành
phần, trước hết là cơ chế quản lý đối với thành phần kinh tế nhà nước, chúng ta dần dần
thiết lập được cơ chế để người lao động thực hiện quyền dân chủ, kiểm tra, kiểm soát quá
trình sản xuất kinh doanh, tham gia vào những công việc quản lý kinh tế của Nhà nước.
Cùng với đổi mới các doanh nghiệp nhà nước, chúng ta đã tiến hành đổi mới kinh tế hợp
tác xã. Vì vậy, những năm qua các doanh nghiệp nhà nước và thành phần kinh tế hợp tác
xã đã có sự tiến bộ, vươn lên trong nền kinh tế. Do đổi mới cơ chế quản lý đã khắc phục
được tình trạng "cha chung không ai khóc" trước đây, khắc phục tình trạng phân tán tư liệu
sản xuất của Nhà nước, tha hóa về chế độ sở hữu.
Về phân phối, quan hệ phân phối không ngừng được củng cố và đổi mới. Chúng
ta thực hiện nhiều hình thức phân phối, kết hợp chặt chẽ giữa các hình thức phân phối với
nhau, lấy hình thức phân phối dựa trên hiệu quả kinh tế và kết quả lao động là chủ yếu,
nhằm làm cho quá trình phân phối ngày càng hợp lý, bảo đảm tính công bằng và tạo ra
động lực to lớn cho sự phát triển kinh tế, xã hội nói chung.
Bên cạnh những tiền đề khách quan như đã phân tích ở trên, trong quá trình phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, một điều kiện khách quan rất cơ bản và có ý
nghĩa quan trọng, tạo ra khả năng phát triển theo định hướng XHCN ở nước ta đó là
chúng ta có một hệ thống chính trị vững chắc, đảm bảo vai trò lãnh đạo xã hội, và tạo
được niềm tin cho quần chúng. Trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
hệ thống chính trị nước ta tiếp tục đổi mới cho phù hợp với cơ chế kinh tế mới và đáp
ứng những yêu cầu của nền kinh tế đó. Chúng ta cũng đã giữ vững được ổn định về chính
trị - xã hội, tạo điều kiện cần thiết cho quá trình phát triển kinh tế theo định hướng
XHCN.
Qua sự phân tích trên đây, chúng ta có thể khẳng định rằng, định hướng XHCN sự
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta là khả năng khách quan. Song, vấn đề là ở
chỗ khả năng khách quan đó liệu có trở thành hiện thực hay không? Điều đó còn phụ
thuộc vào vai trò của chính trị trong việc thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo, điều hành nền
kinh tế đất nước. Đây là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn to lớn đối với giai đoạn cách mạng
nước ta hiện nay.
1.2.2. Vai trò của chính trị trong việc đảm bảo định hướng XHCN sự phát
triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam
Lựa chọn và phát triển kinh tế đất nước theo con đường XHCN là phù hợp với
quy luật khách quan của lịch sử. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, đó là quá trình đầy khó
khăn và phức tạp.
Quá trình thực hiện phát triển nền kinh tế nhiều thành phần do Đảng ta đề ra 15
năm qua đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể: nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an ninh về lương thực. Chúng ta từ một nước thiếu lương
thực triền miên đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới. Chúng ta đã mở
rộng quan hệ hợp tác kinh tế với bên ngoài thu hút được các nguồn vốn và kỹ thuật, công
nghệ hiện đại của nước ngoài, tận dụng kinh nghiệm của các nước đi trước cho quá trình
phát triển kinh tế. Chúng ta cũng đã phá bỏ thế bị bao vây, cô lập về kinh tế, tạo ra thế và
lực mới trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta đã
bộc lộ những mặt hạn chế mâu thuẫn với bản chất của CNXH. Đó là khuynh hướng tự
phát TBCN, sự phân hóa giàu nghèo có chiều hướng gia tăng, xuất hiện tâm lý sùng bái
đồng tiền, lối sống thực dụng, hạ thấp giá trị đạo đức, tinh thần, truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, các tệ nạn xã hội nảy sinh, môi trường sinh thái đang bị đe dọa...
Trong quá trình phát triển nền kinh tế, khuynh hướng tự phát TBCN đối với nước
ta là không thể coi thường. Điều đó xuất phát do cả yếu tố nội sinh lẫn yếu tố ngoại sinh.
Đảng ta chủ trương thực hiện và phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Mỗi thành
phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành của nền kinh tế, vận động theo định hướng XHCN.
Vai trò của Nhà nước là phải tạo ra một "sân chơi bình đẳng" cho các thành phần kinh tế
và hướng các thành phần này theo hướng tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công
bằng xã hội.
Thành phần kinh tế tư bản ở nước ta không phải đã "già cỗi" mà ngược lại đang ở
thời kỳ "sung sức", trong lúc đó thành phần kinh tế XHCN thì mới ra đời và thực tế còn
rất non yếu. Tạo ra một môi trường tự do bình đẳng trong cạnh tranh là sự cần thiết.
Nhưng rõ ràng đã đặt thành phần kinh tế XHCN trước những thử thách mang tính sống
còn. "Ai sẽ thắng ai", "ai sử dụng ai", "ai sẽ chuyển hóa ai" đã và sẽ diễn ra rất gay gắt.
Ngoài ra, sau mấy thập kỷ xây dựng và phát triển kinh tế, nền kinh tế nước ta đã có
những bước tiến nhất định, nhưng sản xuất nhỏ vẫn là phổ biến. Sản xuất nhỏ như
V.I.Lênin đã từng cảnh báo, là hàng ngày hàng giờ tự phát TBCN. Như vậy, nền kinh tế
nước ta hiện nay đang tiềm ẩn khả năng tự phát TBCN và trên thực tế chúng ta đang phải
đối mặt với nguy cơ chệch hướng XHCN.
Thêm vào đó, các lực lượng thù địch trong và ngoài nước đang tìm cách lợi dụng
khuynh hướng này để xuyên tạc, chống lại CNXH ở nước ta, thực hiện mưu đồ "diễn
biến hòa bình". Sự chống phá của chúng ngày càng quyết liệt hơn bao giờ hết, bằng
nhiều hình thức: thông qua con đường làm ăn kinh tế, tuyên truyền sách báo với nội
dung ca ngợi CNTB, với chiêu bài nhân quyền, tự do dân chủ, nhân quyền TBCN và đặc
biệt là chúng đánh vào tâm lý kinh tế của người dân, khát vọng về một xã hội tư bản hào
nhoáng.
Ngoài ra, khuynh hướng tự phát TBCN của nền kinh tế nước ta hiện nay còn do
một phần tác động của quá trình hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa, một
mặt, thúc đẩy cho sự hợp nhất, mặt khác, vẫn không xóa bỏ những mầm mống của sự
phân ly và xung đột, đó là sự khác biệt giữa các khu vực và quốc gia cũng như sự phân
hóa và phân cực trong nền kinh tế thế giới. Toàn cầu hóa mang lại nhiều vận hội và cũng
đặt ra nhiều thách thức đối với các nước chậm phát triển như nước ta. Thời cơ đan xen
lẫn nguy cơ. Tham gia vào toàn cầu hóa, hội nhập khu vực và quốc tế để tận dụng được
sức mạnh của thời đại mà đưa đất nước tiến lên. Nhưng với tính phức tạp của quá trình
toàn cầu hóa, với những thách thức đặt ra liệu chúng ta có thể giữ vững được bản sắc của
mình, vẫn còn là mình không khi "các luật chơi" trong toàn cầu hóa hiện nay, về cơ bản
là do các lực lượng tư bản chủ nghĩa thảo ra; khi các thiết chế kinh tế - tài chính quốc tế
hiện thời là sản phẩm của chính chủ nghĩa tư bản và mấy chục năm qua vẫn hoạt động
dưới sự chi phối của CNTB... Liệu chúng ta có đủ khôn ngoan hay không trong cuộc chơi
mà phía đối tác đầy mưu đồ, lắm thủ đoạn, dày dạn kinh nghiệm trong cạnh tranh với vô
vàn thủ đoạn hết sức tinh vi. Liệu tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường mà
chúng ta đang xây dựng có giữ được không khi nó trở thành một yếu tố của nền kinh tế
thị trường toàn cầu dưới sự chi phối của CNTB như hiện nay? Chúng ta lại tham gia vào
quá trình khu vực hóa, toàn cầu hóa đó trong điều kiện trình độ kinh tế, kinh nghiệm làm
kinh tế... còn rất hạn chế. Từ đó vấn đề độc lập trên lĩnh vực kinh tế, độc lập trên lĩnh vực
chính trị sẽ được giải quyết như thế nào? Không giữ được độc lập thì không thể có CNXH.
Đó quả là những vấn đề vô cùng nan giải, là những thách thức vô cùng to lớn tiềm ẩn khả
năng tự phát TBCN.
Sự phân tích ở trên cho thấy, quá trình phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước
ta diễn ra trong bối cảnh hết sức phức tạp, do cả tác động bên ngoài và cả yếu tố nội sinh
có thể làm cho nền kinh tế ấy phát triển chệch hướng XHCN. Vì vậy, vấn đề phân biệt
giàu nghèo; tâm lý sùng bái đồng tiền, lối sống thực dụng, suy thoái đạo đức, hủy hoại
môi trường... đang là những vấn đề bức xúc. Cảnh báo về nguy cơ này, Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định:
Tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới, chệch hướng XHCN, nạn tham nhũng và tệ quan liêu "diễn biến hòa
bình" do các thế lực thù địch gây ra đến nay vẫn diễn biến phức tạp, đan xen,
tác động lẫn nhau không thể xem nhẹ nguy cơ nào [14, tr. 15].
Quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta đang đứng trước
nguy cơ chệch hướng XHCN. Một nền kinh tế phát triển không thể không có sự can thiệp
của kiến trúc thượng tầng chính trị. Vì vậy, không thể tách rời kinh tế nhiều thành phần
với sự định hướng XHCN. Mối liên hệ này là yêu cầu khách quan của quá trình phát triển
kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay. Không có nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ,
nhờ đó nền sản xuất được xã hội hóa thì cũng không có CNXH, ngược lại nếu không có
sự định hướng chính trị đúng đắn, rõ ràng dứt khoát tức là không có sự can thiệp, điều
tiết của chính trị thì càng không có CNXH. Để định hướng XHCN sự phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần thì "chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế".
Chính vì vậy, để đảm bảo định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
ở nước ta, vai trò chính trị mà trước hết là vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà
nước là không thể thiếu được.
Trong điều kiện phát triển đất nước định hướng XHCN ở nước ta, chính trị được thực
hiện thông qua sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, trở thành nhân tố định hướng cho sự
phát triển của kinh tế. Do đó, sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước có vai trò
hết sức quan trọng và có ý nghĩa quyết định trong việc đảm bảo sự phát triển đất nước theo
con đường XHCN. Vai trò đó thể hiện ở những điểm sau đây:
Thứ nhất, chính trị định hướng XHCN sự phát triển kinh tế nhiều thành phần, xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế thế giới.
Như phần trên đã trình bày, sự phát triển của các thành phần kinh tế cá thể và
kinh tế tư bản tư nhân có tiềm ẩn khả năng tự phát TBCN. Song không phải vì muốn thực
hiện mục tiêu CNXH mà chúng ta xóa bỏ hoặc ngăn cấm sự phát triển của các thành phần
kinh tế đó. Nếu làm như vậy, chúng ta lại vi phạm quy luật khách quan, lại rơi vào sai
lầm cũ. Vì vậy, Đảng ta chủ trương thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế
nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật, đều là bộ phận cấu
thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài,
hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo, là
lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô
nền kinh tế.
Như vậy, trong quá trình phát triển kinh tế nhiều thành phần, vai trò chính trị là
định hướng, tổ chức và quản lý nền kinh tế thị trường vận động theo quỹ đạo XHCN.
Muốn làm được điều đó, Đảng và Nhà nước phải có chủ trương, chính sách đúng đắn để
phát triển kinh tế nhà nước, làm cho thực lực kinh tế nhà nước phát triển mạnh mẽ, có đủ
sức để có thể giữ được vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Nếu kinh tế nhà nước
không có được vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân thì không thể có CNXH. Vì vậy
trong những năm qua chúng ta đã tiến hành đổi mới cơ chế, hoàn thiện chính sách để từng
bước nâng cao hiệu quả của kinh tế nhà nước.
Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước thể hiện ở chỗ nó mở đường và hỗ trợ cho
các thành phần kinh tế khác phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế. Nó
là công cụ để nhà nước điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế theo định hướng XHCN, tham
gia bảo đảm ổn định kinh tế - xã hội góp phần khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị
trường. Mặt khác, kinh tế nhà nước còn có vai trò mở đường, hỗ trợ cho các thành phần
kinh tế khác phát triển nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng lâu dài của nền kinh tế. Kinh tế nhà
nước phải thực sự là thành phần giữ vai trò chủ đạo, có khả năng "hút" các thành phần
kinh tế khác. Các thành phần kinh tế khác trở thành những thành phần "vệ tinh" đối với
thành phần kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước là cơ sở của chế độ mới, là "điều kiện thế
chấp" của CNXH.
Từ việc nhận thức rõ yêu cầu phải phát triển kinh tế nhà nước làm cho xứng đáng
với vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, chúng ta có chủ trương thúc đẩy thành
phần kinh tế này phát triển bằng cách tập trung nguồn lực có trong tay nhà nước vào việc
xây dựng và phát triển một số ngành, doanh nghiệp trọng điểm...
Ngoài kinh tế nhà nước, Đảng ta còn chủ trương phát triển kinh tế tập thể với
nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Kinh tế cá thể, tiểu chủ
cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Kinh tế cá thể, tiểu chủ có mối
quan hệ chặt chẽ với kinh tế hợp tác xã. Nó có điều kiện phát huy nhanh và có hiệu quả
tiềm năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng nhóm và từng người dân. Tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta chỉ rõ:
Kinh tế cá thể, tiểu chủ giải quyết các khó khăn về vốn, về khoa học
và công nghệ, về thị trường tiêu thụ sản phẩm, hướng dẫn kinh tế cá thể, tiểu
chủ, vì lợi ích thiết thân và nhu cầu phát triển của sản xuất, từng bước đi vào làm
ăn hợp pháp một cách tự nguyện, hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp nhà
nước hay hợp tác xã [12, tr. 96].
Chúng ta cũng khuyến khích phát triển rộng rãi kinh tế tư bản tư nhân trong
những ngành nghề sản xuất, kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật, tạo môi trường kinh
doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những
hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; các doanh nghiệp chuyển thành
doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động; liên doanh, liên kết với nhau với
kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Kinh tế tư bản tư nhân ở nước ta được "bảo hộ quyền
sở hữu và lợi ích hợp pháp".
Phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết
giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi
ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh.
Vấn đề ở đây là làm thế nào sử dụng một cách có hiệu quả các thành phần kinh tế
cá thể và kinh tế TBCN tận dụng ưu thế và sức mạnh của các thành phần kinh tế đó cho
mục tiêu tăng trưởng kinh tế đất nước. Điều đó chỉ có thể thực hiện được thông qua chủ
trương, chính sách, pháp luật và các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước như kế hoạch,
tài chính, ngân hàng, giá cả... Nhờ vào những công cụ và phương tiện đó, Đảng và Nhà
nước có thể tiến hành kiểm kê, kiểm soát, điều tiết đối với sản xuất và lưu thông hàng
hóa, đối với sự vận động của các thành phần kinh tế ngoài kinh tế nhà nước và kinh tế tập
thể đi theo định hướng XHCN. Vì thế, chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc
định hướng cho sự phát triển của các thành phần kinh tế ngoài kinh tế nhà nước, hướng
dẫn các thành phần kinh tế này đi vào quỹ đạo XHCN, nhằm tạo ra động lực cho nền
kinh tế phát triển hướng vào mục tiêu mà chúng ta đã lựa chọn.
Ngoài các thành phần kinh tế nói trên còn có thành phần kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài. Chủ trương của chúng ta là tạo điều kiện để thành phần kinh tế này phát triển
thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội gắn với thu hút
công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Đảng ta chủ trương phát triển các hình thức
tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế
với nhau với mục đích thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Bên cạnh chủ trương nhất quán phát triển kinh tế nhiều thành phần, quan điểm
của chúng ta là gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế. Độc lập tự chủ về kinh tế tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu
quả. Hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả tạo điều kiện cần thiết để xây dựng kinh tế độc
lập tự chủ.
Chủ trương của Đảng là xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ theo định hướng
XHCN trong điều kiện mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong bối cảnh hiện nay, làm cho nền kinh tế phát triển mạnh mẽ theo định hướng
XHCN cần được xem là một trong những tiêu chí đánh giá tính đúng - sai, hiệu quả của
chính sách đối ngoại của Đảng. Vì vậy, Báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng đã nêu
lên một số vấn đề hết sức cơ bản, mang tầm chỉ đạo chiến lược.
Độc lập, tự chủ về kinh tế là nền tảng vật chất cơ bản để bảo đảm sự bền vững
của độc lập, tự chủ về chính trị. Điều đó được quy định bởi "chính trị là sự biểu hiện tập
trung của kinh tế" (V.I.Lênin). Không thể có độc lập tự chủ về chính trị, nếu chúng ta lệ
thuộc về kinh tế. Độc lập, tự chủ về kinh tế được đặt trong mối quan hệ biện chứng với
độc lập, tự chủ về các mặt khác tạo thành sự độc lập, tự chủ và sức mạnh tổng hợp của
quốc gia.
Độc lập, tự chủ về kinh tế cũng có nghĩa là bảo đảm vững chắc định hướng
XHCN và bản sắc văn hóa dân tộc trong công cuộc phát triển kinh tế, thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giữ gìn an ninh chính trị, bảo vệ môi trường.
Trong thời đại ngày nay, nói tới độc lập, tự chủ về kinh tế không có nghĩa là nói
tới một nền kinh tế tự cung tự cấp mà đặt trong mối quan hệ biện chứng với mở cửa, hội
nhập, chủ động tham gia vào sự giao lưu, hợp tác và cạnh tranh quốc tế trên cơ sở phát huy
tốt nhất nội lực và lợi thế so sánh. Đồng thời, từng bước xây dựng một cơ cấu sản xuất
đáp ứng được cơ bản nhu cầu thiết yếu về đời sống của nhân dân và có khả năng trang bị
lại ở mức cần thiết cho yêu cầu phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng - an ninh.
Để đảm bảo độc lập, tự chủ về kinh tế, trước hết phải có đường lối, chính sách
độc lập, tự chủ về phát triển kinh tế. Thực hiện CNH, HĐH đất nước phù hợp với điều
kiện cụ thể của nước ta và bối cảnh quốc tế, bảo đảm định hướng XHCN trong phát triển
kinh tế; kết hợp chặt chẽ giữa nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp cho phát
triển, trong đó nội lực giữ vai trò quyết định; có đường lối đối ngoại và hoạt động đối
ngoại đúng đắn, bảo vệ được chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc, đồng thời chủ động
hội nhập quốc tế và ứng phó được với các tình huống phức tạp về kinh tế và chính trị đối
ngoại, bảo đảm sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước.
Thứ hai, vai trò của chính trị đối với nền kinh tế còn thể hiện ở việc kiểm soát
chặt chẽ những vấn đề cơ bản và then chốt của hoạt động kinh tế.
Đó là ngân sách, vốn, các công cụ tài chính khác, các chính sách, công cụ điều
chỉnh "đóng - mở" quan hệ kinh tế đối ngoại, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội cơ
bản. Do vai trò to lớn của nó trong nền kinh tế thị trường hiện đại, tài chính và ngân hàng
trở thành những điểm then chốt mà lãnh đạo chính trị nhất thiết phải quản lý chặt chẽ.
Chính trị phải lãnh đạo để giữ được ổn định kinh tế vĩ mô với hệ thống tài chính,
tiền tệ lành mạnh, bảo đảm giữ được cán cân thương mại và cán cân thanh toán, có dự trữ
ngoại tệ cần thiết, có chiến lược trả nợ vay hợp lý, không để bị động và lệ thuộc. Chính
trị góp phần hình thành thể chế kinh tế - xã hội bền vững, có cơ cấu kinh tế gắn với cơ
cấu công nghệ, phát huy được lợi thế so sánh đủ khả năng tạo sức cạnh tranh và hiệu quả,
trả được nợ, tạo được tích lũy, đáp ứng được yêu cầu của thị trường trong nước, chiếm
lĩnh được thị trường ngoài nước; bảo đảm được nhịp độ tăng trưởng nhanh, ổn định, bền
vững. Cơ cấu kinh tế này bao gồm cơ cấu các ngành sản xuất và dịch vụ; cơ cấu các vùng
lãnh thổ, cơ cấu các thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế trong nước và kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài; về cơ cấu đầu tư (ngắn hạn và dài hạn, trực tiếp và gián tiếp) đặc biệt là
vốn đầu tư, cần phải có kế hoạch cụ thể trong vốn đầu tư, đầu tư cho các vùng, khu kinh
tế trọng điểm và ưu tiên cho các ngành kinh tế mũi nhọn, chiến lược.
Trong quá trình phát triển kinh tế, chính trị không được buông lỏng các lĩnh vực
như ngân hàng, tài chính. Nếu mất vai trò chủ đạo trong việc quản lý điều hành, phân
phối, sử dụng công cụ tài chính của đất nước, vai trò lãnh đạo, quản lý nền kinh tế đất
nước sẽ bị lung lay, và đó là thách thức lớn nhất đối với nền chính trị của nước ta. Chính
vì vậy, chính trị không thể chỉ là công tác tư tưởng, không thể chỉ là việc luận bàn chung
chung để bảo vệ, duy trì đường lối; chính trị lãnh đạo kinh tế, trước hết là phải quan tâm và
kiểm soát được lĩnh vực xương sống của nền kinh tế, tất nhiên là bằng phương pháp thích
hợp. Chẳng hạn, như hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo sân chơi bình đẳng cho các thành
phần kinh tế, tạo điều kiện kích thích các chủ thể kinh tế năng động, sáng tạo trong
sản xuất kinh doanh. Nhà nước nắm giữ các khâu kinh tế trọng điểm. Đảng và Nhà nước
thực hiện kiểm soát, điều tiết nền kinh tế bằng hệ thống công cụ, chính sách kinh tế hợp
lý, tạo môi trường ổn định cho các nhà đầu tư yên tâm sản xuất kinh doanh...
Thứ ba, vai trò của chính trị đối với kinh tế còn thể hiện ở việc động viên, khơi
dậy các nguồn lực, tiềm năng cho sự phát triển kinh tế.
Bất cứ quốc gia nào cũng đều chú ý đến vấn đề huy động sức dân. Đây là phương
thức cơ bản tạo nên sức mạnh "nội sinh" đủ khả năng hấp thụ những yếu tố "ngoại sinh";
làm cơ sở nền tảng cho sự phát triển bền vững, ổn định của mỗi quốc gia, dân tộc. Do đó,
huy động sức dân về mọi mặt cho phát triển kinh tế - xã hội chính là tiêu chí tổng hợp
biểu thị sức mạnh trực tiếp và tổng quát của lãnh đạo chính trị.
Trong nền kinh tế thị trường, phương thức huy động nhân lực, tài lực không chỉ
là huy động các nghĩa vụ mà căn bản là điều hòa các lợi ích. Công cụ cơ bản để chính trị
huy động được các nguồn lực là hệ thống luật pháp, chính sách kinh tế có lợi cho tất cả
mọi người nhằm kích thích và ràng buộc các thành viên xã hội. Như vậy, để có thể huy
động được nhân lực, tài lực, vật lực, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải có phương pháp lãnh
đạo đúng đắn, có chủ trương, chính sách đúng để giải quyết hài hòa các mối quan hệ lợi
ích, kích thích mọi người, mọi chủ thể kinh tế tham gia vào quá trình phát triển, khuyến
khích mọi người làm giàu hợp pháp, tuân theo pháp luật. Tuy nhiên, chính trị cần phải
tìm phương thức tác động phù hợp và cần phải tôn trọng các quy luật kinh tế khách quan,
những yếu tố và những liên hệ tất nhiên, khách quan trong nền kinh tế.
Chúng ta thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường
nhưng vấn đề cơ bản là xác định và tạo cho được thành phần kinh tế trụ cột, thu hút các
thành phần kinh tế "vệ tinh" vào quỹ đạo của nó. Muốn vậy, trong quá trình thực hiện
phải biết huy động nguồn nội lực ở mọi chủ thể kinh tế của các thành phần kinh tế, đảm
bảo sự cạnh tranh bình đẳng trong khuôn khổ pháp luật hướng vào mục tiêu chung là xây
dựng xã hội ngày càng giàu mạnh. Nhiệm vụ của chúng ta là phải tạo ra nguồn nội lực đủ
sức hấp thụ ngoại lực và có khả năng đứng vững trước sự tác động của bên ngoài. Nền kinh
tế của chúng ta có thể tiếp thu những thành tựu về khoa học, công nghệ, trình độ quản lý...
nhưng phải phát triển trong quỹ đạo XHCN.
Để mặc kinh tế phát triển tự do, tự phát hoặc chỉ đạo, can thiệp thô bạo, duy ý
chí, không tính tới "quy luật khách quan" của nền kinh tế đều là những sai lầm ở các cực
khác nhau trong sự lãnh đạo của chính trị đối với kinh tế. Kết luận rút ra là: phải tính tới
và tôn trọng những yếu tố, những liên hệ kinh tế tồn tại một cách khách quan do lịch sử
để lại, coi chúng là những dữ kiện, cơ sở để hoạch định chủ trương chính sách theo
những quy luật kinh tế khách quan, đó là một trong những yêu cầu cơ bản của sự lãnh
đạo đúng đắn, có hiệu quả của chính trị đối với kinh tế.
Sự phân tích ở trên cho thấy, vai trò của chính trị đối với kinh tế là nhằm tổ chức,
quản lý, điều hành nền kinh tế hướng vào mục tiêu vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc. ở
nước ta hiện nay, vai trò của chính trị là định hướng, tổ chức và quản lý, điều hành nền
kinh tế thị trường vận động theo đúng quỹ đạo XHCN. Muốn làm tốt điều đó thì trước
hết Đảng và Nhà nước phải tìm ra cho mình một phương thức lãnh đạo phù hợp, động
viên được mọi nguồn lực. Trong đó cần thiết phải phát huy được nguồn nhân lực, thực
hiện tốt vấn đề dân chủ trong lĩnh vực kinh tế, thực hiện được một nền kinh tế nhân dân,
làm cho mọi người dân tự ý thức, tự tham gia xây dựng nền kinh tế ấy. Tất nhiên, để mọi
người tự nguyện hưởng ứng nền kinh tế ấy, Đảng và Nhà nước phải có những chủ
trương, chính sách đúng đắn để phát triển kinh tế nhà nước, làm cho kinh tế nhà nước có
đủ thực lực để đáp ứng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân; tạo mọi điều kiện cho
kinh tế nhà nước thực sự trở thành trung tâm có khả năng thu hút các thành phần kinh tế
ngoài XHCN.
Như vậy, trong điều kiện phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện
nay, chính trị có một vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế và sự
phát triển xã hội. Trong một chừng mực nhất định, chính trị có ý nghĩa quyết định đối với sự
phát triển của kinh tế, ổn định xã hội. Vì vậy, Đảng ta thực hiện đổi mới kinh tế gắn liền
với đổi mới chính trị, cùng với đổi mới kinh tế phải từng bước đổi mới và kiện toàn hệ
thống chính trị, thực hiện đổi mới phương thức lãnh đạo, tổ chức thực hiện, tổng kết thực
tiễn, đổi mới quản lý, điều tiết nền kinh tế nhằm đảm bảo định hướng XHCN sự phát
triển nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
Chương 2
nâng cao vai trò của chính trị
nhằm đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa
sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
ở việt nam hiện nay - thực trạng và giải pháp
Quá trình thực hiện đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần vận động theo
cơ chế thị trường định hướng XHCN ở nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể,
kinh tế phát triển và mục tiêu CNXH vẫn được giữ vững. Một trong những nguyên nhân
của những thành tựu đó không thể không kể đến vai trò chính trị của Đảng và Nhà nước
trong lãnh đạo, quản lý nền kinh tế. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, việc đánh giá
thực trạng và từ đó đưa ra những giải pháp tích cực nhằm phát huy vai trò của chính trị
đối với việc đảm bảo định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế là cần thiết và quan
trọng.
2.1. Thực trạng việc phát huy vai trò của chính trị trong đảm bảo định
hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam
2.1.1. Những thành tựu đạt được
Tổng kết 15 năm đổi mới đã cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu,
trong đó "đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp
đổi mới" [14, tr. 19]. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng thể hiện ngay trong đường lối đổi
mới và trong suốt quá trình thực hiện đổi mới; thể hiện ở những quyết sách với những
hình thức và bước đi thích hợp cho sự phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước.
Trước tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội của đất nước những năm đầu thập
kỷ 80, Đảng ta đã tiến hành tự kiểm điểm, tự phê bình theo tinh thần trách nhiệm cao và
đã khẳng định: "Sự lãnh đạo của Đảng chưa ngang tầm với những nhiệm vụ của giai đoạn
mới" [11, tr. 123]. Từ đó Đảng chủ trương đổi mới mà trước hết là đổi mới tư duy, đổi
mới tư duy chính trị về CNXH và nhất là tư duy về kinh tế. Điểm nổi bật trong đường lối
đổi mới của Đảng ta là đã đề ra chủ trương thực hiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần định hướng XHCN. Chủ trương đó của Đảng là sự khái quát, tổng kết từ thực tiễn
cách mạng của đất nước và là sự vận dụng sáng tạo quan điểm của Lênin về sự cần thiết
phải sử dụng những khâu "trung gian", "quá độ" để đi lên CNXH từ một nước tiểu nông.
Có sử dụng kinh tế nhiều thành phần chúng ta mới có khả năng để giải phóng mọi năng
lực sản xuất xã hội, khả năng để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH.
Việc chuyển từ cơ chế kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế kinh tế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước là quyết sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta.
Từ đó chúng ta đã tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển, dần dần từng bước
củng cố quan hệ sản xuất XHCN. Đồng thời, trong quá trình chỉ đạo thực hiện, Đảng và
Nhà nước đã không ngừng bổ sung, hoàn thiện bằng những chính sách và những giải
pháp thiết thực nhằm giữ vững định hướng XHCN trong sự phát triển nền kinh tế của đất
nước. Đảng ta chủ trương thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, coi
các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, không có sự kỳ thị đối với bất kỳ thành phần kinh tế nào. Tuy nhiên,
trong cơ cấu kinh tế đó, kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập
thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân.
Để thực hiện đường lối kinh tế đề ra, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng
về việc tổ chức thực hiện, uốn nắn, khuyến khích động viên các thành phần kinh tế, thực
hiện chế độ phân phối đa dạng, hợp lý.
Do chúng ta đang ở thời kỳ quá độ lên CNXH và quá trình đó phải trải qua nhiều
bước nên trong quá trình đổi mới, chúng ta đã thừa nhận các hình thức phân phối khác
nhau; chấp nhận những hình thức phân phối gắn liền với các hoạt động theo cơ chế thị
trường nhưng không để quan hệ bóc lột và bị bóc lột phát triển thành quan hệ chi phối.
Nhà nước - bằng cơ chế điều tiết hợp lý - khuyến khích mọi người làm giàu một cách
chính đáng đồng thời đảm bảo được các chính sách xã hội; bảo trợ những người già cả,
tàn tật, những người gặp nhiều khó khăn vì hậu quả chiến tranh, những người lao động bị
thất nghiệp vì doanh nghiệp phá sản... và bằng cách đó đã từng bước đảm bảo công bằng
xã hội.
Sớm ý thức được rằng không có kinh tế nhà nước và vai trò của chủ đạo của nó
thì không thể có CNXH, nên trong những năm qua chúng ta đã tiến hành đổi mới cơ chế,
hoàn thiện chính sách để từng bước nâng cao hiệu quả của kinh tế nhà nước. Để phát huy
vai trò của kinh tế nhà nước, chúng ta đã tập trung nguồn lực có trong tay nhà nước vào
việc xây dựng, phát triển một số ngành, doanh nghiệp trọng điểm như kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội, tài chính, ngân hàng, một số cơ sở dịch vụ quan trọng, một số doanh
nghiệp có chức năng thực hiện những nhiệm vụ có liên quan tới quốc phòng, an ninh.
Cùng với việc đổi mới cơ cấu kinh tế, Đảng ta đã kịp thời phát hiện và từng bước
lãnh đạo đổi mới cơ chế quản lý và cơ chế vận hành của nền kinh tế vì đây là chìa khóa để
phát huy và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Thực tiễn cho thấy, Đảng ta đã tích cực lãnh đạo trong việc đổi mới cơ chế vận
hành đối với nền kinh tế, cương quyết xóa bỏ cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao
cấp, chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Chủ trương đó nhằm làm
cho "thị trường trong nước gắn với thị trường thế giới, thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối
tượng của kế hoạch" và "thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn
lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức kinh doanh" [48, tr. 67].
Chủ trương trên đây của Đảng đã thực sự phát huy được mọi năng lực sản xuất
trong nước, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển. Vì vậy, các thành phần kinh tế không
ngừng lớn mạnh, mở rộng quy mô sản xuất nhằm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Thực tế, những năm qua đóng góp vào ngân sách nhà nước của các thành phần kinh tế
tăng lên rõ rệt, đời sống của xã hội từng bước được nâng cao và đi vào ổn định.
Nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường được Đảng ta chủ
trương xây dựng và phát triển không phải là nền kinh tế nhiều thành phần bất kỳ nào mà
theo định hướng XHCN. Do có sự nhận thức đúng đắn về đặc điểm, điều kiện khách
quan trong và ngoài nước, với mục đích làm cho quá trình phát triển kinh tế được rút
ngắn nhằm sớm đến được mục tiêu CNXH, Đảng ta đã có chủ trương và chủ động lãnh
đạo kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập với kinh tế khu vực và kinh tế thế giới.
Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta không thể thực hiện một nền kinh tế "đóng
cửa" mà phải thực hiện một nền kinh tế "mở cửa", thực hiện hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới. Vì vậy đã tận dụng được những thành tựu đạt được về khoa học - công nghệ của
các nước đi trước, vận dụng vào quá trình phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta khi
nước ta còn ở giai đoạn lạc hậu và kém phát triển. Đảng ta cũng nhận thấy, tuy nền kinh
tế nước ta còn ở trình độ thấp nhưng chúng ta chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần
khi thế giới đã chuyển sang giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại. Vì vậy, Đảng ta đã chủ
trương đi thẳng vào nền kinh tế thị trường hiện đại, không nhất thiết phải trải qua nền
kinh tế hàng hóa giản đơn chủ động "đi tắt, đón đầu" trong nhiều lĩnh vực. Quá trình đó
tất yếu phải có sự tham gia quản lý của Nhà nước. Nhiệm vụ của Nhà nước là quản lý,
giám sát và điều tiết nền kinh tế. Khẳng định điều đó, Văn kiện Đại hội VIII của Đảng viết:
"Tăng cường hiệu lực quản lý vĩ mô của Nhà nước, khai thác triệt để vai trò tích cực đi đôi
với khắc phục và ngăn ngừa hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường" [12,
tr. 93].
Quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, bên cạnh những mặt tích cực, sự vận
động khách quan của nền kinh tế đó luôn có khả năng làm tăng mức độ phát sinh các mâu
thuẫn, giữa tăng trưởng kinh tế với sự phân hóa xã hội, giữa mở cửa, hội nhập kinh tế với
việc giữ vững ổn định chính trị cho quá trình phát triển... Vì vậy Đảng đã xác định phải
"giữ vững ổn định chính trị và định hướng XHCN trong quá trình phát triển" [12, tr. 83].
Để đảm bảo ổn định về chính trị, Đảng đã có nhiều chủ trương, chính sách đổi mới hệ
thống chính trị cho phù hợp với quá trình đổi mới kinh tế. Trong quá trình đổi mới chính
trị, Đảng hết sức thận trọng làm từng bước một, hướng quá trình đổi mới chính trị vào
thực hiện nền dân chủ XHCN, đặc biệt là thực hiện dân chủ trong lĩnh vực kinh tế. Cũng
trong quá trình phát triển kinh tế, Đảng luôn chú trọng xây dựng các thành phần kinh tế
như kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể nhằm xây dựng nền tảng cho hệ thống kinh tế
quốc dân và để đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Ngoài ra, Đảng và Nhà
nước đã tiến hành thực hiện chủ trương cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp nhà nước
với mục đích chuyển một bộ phận doanh nghiệp nhà nước thành các công ty cổ phần. Vì
vậy, Hội nghị Trung ương lần thứ III (khóa IX) đã họp bàn về việc tiếp tục đẩy nhanh sắp
xếp lại hệ thống doanh nghiệp, tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước nhằm củng cố vị trí chủ lực của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh
tế, đảm bảo cho kinh tế nhà nước nắm được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, quá trình sắp xếp, đổi mới
các doanh nghiệp nhà nước đã được triển khai theo các nội dung như: đổi mới cơ chế,
chính sách theo hướng doanh nghiệp nhà nước tự chủ, tự chịu trách nhiệm, thực sự hạch
toán kinh doanh theo cơ chế thị trường. Đổi mới cả về kế hoạch, về tài chính, về tổ chức
bộ máy, cán bộ và đổi mới quản lý nhà nước theo hướng xóa bỏ các chế độ chủ quản của
các cơ quan hành chính nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước; sáp nhập, giải thể, cho
phá sản doanh nghiệp nhà nước yếu kém thua lỗ, kéo dài mà nhà nước không cần nắm
giữ. Vì vậy, cơ cấu doanh nghiệp nhà nước bước đầu được điều chỉnh hợp lý, có tác động
tích cực đến quá trình tích tụ và tập trung vốn, hình thành và phát triển một số doanh
nghiệp mới có trình độ công nghệ cao và sức cạnh tranh; tổ chức, củng cố và phát triển
các tổng công ty nhà nước nhằm tập trung nguồn lực của nhà nước vào các ngành then
chốt mà nhà nước cần chi phối...; thực hiện cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp nhà
nước mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo thêm động
lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển; thực hiện giao và khoán kinh doanh, cho
thuê những doanh nghiệp nhà nước có quy mô nhỏ, thua lỗ kéo dài để sử dụng có hiệu
quả tài sản nhà nước, bảo đảm việc làm và thu nhập của người lao động.
Với sự chỉ đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, quá trình đổi mới sắp xếp lại
doanh nghiệp nhà nước đạt được những thành tựu nhất định. Hầu hết các doanh nghiệp
nhà nước đều có chuyển biến tích cực. Cơ cấu và quy mô bước đầu được điều chỉnh theo
hướng phù hợp hơn, thích ứng được với cơ chế thị trường; trình độ công nghệ và quản lý
có nhiều tiến bộ; vốn được bảo toàn và tăng thêm... Doanh nghiệp nhà nước đã góp phần
rất quan trọng để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành
phần chi phối được các ngành và các lĩnh vực then chốt, thực sự là nòng cốt trong tăng
trưởng kinh tế, trong xuất khẩu và đóng góp cho ngân sách nhà nước; bảo đảm cân đối
lớn và góp phần quan trọng trong ổn định kinh tế vĩ mô, là lực lượng chính trong việc bảo
đảm các sản phẩm và dịch vụ công ích chủ yếu của xã hội... Không dừng lại ở đó, chúng
ta đã tiến thêm một bước trong quá trình lãnh đạo thực hiện đổi mới doanh nghiệp bằng
sự ra đời của luật doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp thực sự là một bước đột phá trong thể
chế kinh tế giải phóng lực lượng sản xuất ở vùng đô thị, phát triển các loại hình doanh
nghiệp dân doanh. Trong gần hai năm qua, việc thực hiện Luật doanh nghiệp đã tạo thêm
thế và lực mới cho nền kinh tế, góp phần quan trọng vào tăng tốc độ phát triển của đất nước
ta cho những năm sắp tới.
Đảng và Nhà nước ta cũng có rất nhiều cố gắng trong việc tháo gỡ những vướng
mắc về cơ chế, chính sách cho sự phát triển của các doanh nghiệp. Vừa qua, việc bãi bỏ
những giấy phép trái với Luật doanh nghiệp mới chỉ là một bước, dù rằng đây là bước
quan trọng trong toàn bộ quá trình khuyến khích, hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi
cho doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất kinh doanh; thực hiện tháo gỡ những trở ngại trong
hoạt động sản xuất kinh doanh về các lĩnh vực như về hải quan, tín dụng, ngân hàng,...
Cùng với việc xây dựng những chủ trương thúc đẩy phát triển kinh tế, thời gian
qua, Đảng cũng đã chú trọng đến vấn đề
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị với việc đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa sự phỏt triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay.pdf