Tài liệu Luận văn Lý luận tổng quan về rủi ro tín dụng: CHƯƠNG I
LÝ LUẬN TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG
1.1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ RỦI RO TÍN DỤNG
1.1.1 Khái niệm
Trong nền kinh tế thị trường, cấp tín dụng là chức năng kinh tế cơ bản của ngân hàng. Rủi ro trong ngân hàng có xu hướng tập trung chủ yếu vào danh mục tín dụng. Đây là rủi ro lớn nhất và thường xuyên xảy ra. Khi ngân hàng rơi vào trạng thái tài chính khó khăn nghiêm trọng, thì nguyên nhân thường phát sinh từ hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Vậy Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân hàng.
Như vậy có thể nói rằng rủi ro tín dụng có thể xuất hiện trong các mối quan hệ mà trong đó ngân hàng là chủ nợ, khách hàng là con nợ lại không thực hiện hoặc không đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Nó diễn ra trong quá trình cho vay, chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá, cho thuê tài chính, bảo lãnh, bao thanh toán c...
74 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1103 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Lý luận tổng quan về rủi ro tín dụng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG
1.1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ RỦI RO TÍN DỤNG
1.1.1 Khái niệm
Trong nền kinh tế thị trường, cấp tín dụng là chức năng kinh tế cơ bản của ngân hàng. Rủi ro trong ngân hàng có xu hướng tập trung chủ yếu vào danh mục tín dụng. Đây là rủi ro lớn nhất và thường xuyên xảy ra. Khi ngân hàng rơi vào trạng thái tài chính khó khăn nghiêm trọng, thì nguyên nhân thường phát sinh từ hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Vậy Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân hàng.
Như vậy có thể nói rằng rủi ro tín dụng có thể xuất hiện trong các mối quan hệ mà trong đó ngân hàng là chủ nợ, khách hàng là con nợ lại không thực hiện hoặc không đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Nó diễn ra trong quá trình cho vay, chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá, cho thuê tài chính, bảo lãnh, bao thanh toán của ngân hàng. Đây còn gọi là rủi ro mất khả năng chi trả và rủi ro sai hẹn, là loại rủi ro liên quan đến chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng.
1.1.2 Phân loại
Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được phân chia thành các loại sau :
Rủi ro tín dụng
Rủi ro giao dịch
Rủi ro danh mục
Rủi ro nội tại
Rủi ro tập trung
Rủi ro bảo đảm
Rủi ro nghiệp vụ
Rủi ro lựa chọn
- Rủi ro giao dịch : là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch có 03 bộ phận chính là rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ.
+ Rủi ro lựa chọn : là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín dụng, khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định cho vay.
+ Rủi ro bảo đảm : phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều khoản trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể bảo đảm, cách thức đảm bảo và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo.
+ Rủi ro nghiệp vụ : là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản cho vay có vấn đề.
- Rủi ro danh mục : là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân chia thành 02 loại : rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.
+ Rủi ro nội tại : xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.
+ Rủi ro tập trung : là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định; hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.
1.1.3 Đánh giá
Các chỉ số thường được sử dụng để đánh giá rủi ro tín dụng là :
Dư nợ quá hạn
Tổng Dư nợ cho vay
x 100%
1.1.3.1 Tỷ lệ nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước cho phép dư nợ quá hạn của các ngân hàng thương mại không được vượt quá 3%, nghĩa là trong 100 đồng vốn ngân hàng bỏ ra cho vay thì nợ quá hạn tối đa chỉ được phép là 3 đồng.
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và / hoặc lãi đã quá hạn.
Một cách tiếp cận khác, nợ quá hạn là những khoản tín dụng không hoàn trả đúng hạn, không được phép và không đủ điều kiện để được gia hạn nợ. Để đảm bảo quản lý chặt chẽ, các khoản nợ quá hạn trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam được phân loại theo thời gian và được phân chia theo thời hạn thành 03 nhóm :
- Nợ quá hạn dưới 90 ngày – Nợ cần chú ý.
- Nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày – Nợ dưới tiêu chuẩn.
- Nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày – Nợ nghi ngờ.
- Nợ quá hạn trên 361 ngày – Nợ có khả năng mất vốn.
Do việc phân loại chất lượng tín dụng được tính theo thời gian như vậy, nên những khoản tín dụng ở Việt Nam tiềm ẩn rất nhiều rủi ro.
1.1.3.2 Tỷ trọng nợ xấu / Tổng dư nợ cho vay
Nợ xấu : là những khoản nợ quá hạn trên 90 ngày mà không đòi được và không được tái cơ cấu.
Tại Việt Nam, nợ xấu bao gồm những khoản nợ quá hạn có hoặc không thể thu hồi, nợ liên quan đến các vụ án chờ xử lý và những khoản nợ quá hạn không được Chính Phủ xử lý rủi ro.
Nợ xấu (hay nợ có vấn đề, nợ không lành mạnh, nợ khó đòi, nợ không thể đòi,…) là những khoản nợ mang các đặc trưng :
- Khách hàng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các cam kết này đã hết hạn.
- Tình hình tài chính của khách hàng đang và có chiều hướng xấu dẫn đến có khả năng ngân hàng không thu hồi được cả vốn lẫn lãi.
- Tài sản đảm bảo (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh) được đánh giá là giá trị phát mãi không đủ trang trãi nợ gốc và lãi.
- Thông thường về thời gian là các khoản nợ quá hạn ít nhất là 90 ngày.
Theo Quyết định 149/QĐ-TTg ngày 05/01/2001 thì nợ xấu có thể chia thành 03 nhóm :
● Nhóm 1 : Nợ xấu có tài sản đảm bảo, gồm có : Nợ tồn đọng ngân hàng đã thu giữ tài sản dưới hình thức gán, xiết nợ; Nợ ngân hàng chưa thu giữ tài sản như nợ có tài sản liên quan đến vụ án chờ xét xử, nợ có tài sản đảm bảo đã quá hạn trên 360 ngày.
● Nhóm 2 : Nợ xấu không có tài sản đảm bảo và không có đối tượng để thu, gồm có : Nợ xóa thiên tai chưa có nguồn và còn hạch toán nội bảng; nợ khoanh doanh nghiệp đã giải thể, phá sản; nợ khoanh doanh nghiệp thuộc các vụ án; nợ khoanh do thiên tai của hộ sản xuất…
● Nhóm 3 : Nợ xấu không có tài sản đảm bảo nhưng con nợ vẫn còn tồn tại, đang hoạt động, gồm có : Nợ khoanh doanh nghiệp khó thu hồi; nợ tín dụng chính sách còn có khả năng thu hồi; nợ quá hạn trên 360 ngày.
● Ngoài ra còn có nhóm nợ phát sinh sau ngày 31/12/2000, là những khoản nợ không thu được nhưng không đủ điều kiện để khoanh, xóa.
Cũng từ cách phân loại nợ quá hạn theo thời gian như vậy nên phần lớn nợ quá hạn ở nước ta đều là nợ xấu. Các khoản nợ xấu tồn tại hiện nay ở các NHTM bao gồm :
+ Nợ quá hạn từ 90 ngày trở lên.
+ Nợ liên quan đến các vụ án, nợ đã khởi kiện nhưng chưa thể thu hồi chờ xử lý, nợ có tài sản đảm bảo nhưng không hợp lệ.
+ Những khoản nợ quá hạn, nợ trả thay không còn đối tượng để thu.
Theo Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007, nợ xấu của tổ chức tín dụng bao gồm các nhóm nợ như sau :
● Nhóm nợ dưới tiêu chuẩn bao gồm :
+ Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2;
+ Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng;
+ Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3.
● Nợ nghi ngờ bao gồm :
+ Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai;
+ Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4.
● Nợ có khả năng mất vốn bao gồm :
+ Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ đã được cơ cấu lại lần đầu;
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai;
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn;
+ Các khoản nợ khoanh, nợ chời xử lý;
+ Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5.
1.1.3.3 Hệ số rủi ro tín dụng
Hệ số này cho thấy tỷ trọng của các khoản mục tín dụng trong tài sản có, khoản mục tín dụng trong tổng tài sản càng lớn thì lợi nhuận sẽ lớn nhưng đồng thời rủi ro tín dụng cũng rất cao. Thông thường, tổng dư nợ cho vay của ngân hàng được chia thành 03 nhóm :
- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng xấu : là những khoản cho vay có mức độ rủi ro lớn nhưng có thể mang lại thu nhập cao cho ngân hàng. Đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng.
- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng tốt : là những khoản cho vay có mức độ rủi ro thấp nhưng có thể mang lại thu nhập không cao cho ngân hàng. Đây là khoản tín dụng cũng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng.
- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng trung bình : là những khoản cho vay có mức độ rủi ro có thể chấp nhận được và thu nhập mang lại cho ngân hàng là vừa phải. Đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng áp đảo trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng nên ta có công thức sau :
Tổng dư nợ cho vay
Tổng tài sản có
x 100%
Hệ số rủi ro tín dụng =
1.2 NHỮNG NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN RỦI RO TÍN DỤNG
1.2.1.1 Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định
P Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới :
Nền kinh tế Việt Nam vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp và công nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên liệu), dầu thô, may gia công,…vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế giới, nên dễ bị tổn thương khi thị trường thế giới biến động xấu. Điển hình như ngành Dệt may trong một số năm gần đây đã gặp không ít khó khăn vì bị khống chế hạn ngạch làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các khách hàng của ngân hàng nói riêng và của các ngân hàng cho vay nói chung. Ngành Thuỷ sản cũng gặp nhiều lao đao vì các vụ kiện bán phá giá vừa qua,...
P Rủi ro tất yếu của quá trình tự do hoá tài chính, hội nhập quốc tế:
Quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các những khách hàng của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó, bản thân sự cạnh tranh của các NHTM trong nước và quốc tế trong môi trường hội nhập kinh tế cũng khiến cho các ngân hàng trong nước với hệ thống quản lý yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các ngân hàng nước ngoài thu hút.
P Thiếu sự quy hoạch, phân bổ đầu tư một cách hợp lý đã dẫn đến khủng hoảng thừa về đầu tư trong một số ngành :
Nền kinh tế thị trường tất yếu sẽ dẫn đến cạnh tranh, các nhà kinh doanh sẽ tìm kiếm ngành nào có lợi nhất để đầu tư và sẽ rời bỏ những ngành không đem lại lợi nhuận cho họ và do đó có sự chuyển dịch vốn từ ngành này qua ngành khác và đây cũng là một hiện tượng khách quan. Tuy nhiên ở nước ta thời gian qua, sự cạnh tranh đã phát triển một cách tự phát, hoàn toàn không đi kèm với sự quy hoạch hợp lý, hợp tác, phân công lao động, chuyên môn hoá lao động, sự bất lực trong vai trò của các Hiệp hội và sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Điều này dẫn đến sự gia tăng quá đáng vốn đầu tư vào một số ngành, dẫn đến khủng hoảng thừa, lãng phí tài nguyên quốc gia.
1.2.1.2 Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi
P Sự kém hiệu quả của các cơ quan pháp luật cấp địa phương:
Trong những năm gần đây, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, NHNN và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều Luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, Luật và các Văn bản đã có song việc triển khai vào hoạt động ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều vướng mắc bất cập như một số văn bản về cưỡng chế thu hồi nợ. Những Văn bản này đều có quy định : Trong trường hợp khách hàng không trả được nợ, NHTM có quyền xử lý TSĐB nợ vay để thu hồi nợ. Trên thực tế, các NHTM không làm được điều này vì ngân hàng là một tổ chức kinh tế, không phải là cơ quan quyền lực Nhà nước, không có chức năng cưỡng chế buộc khách hàng bàn giao TSĐB cho ngân hàng để xử lý hoặc việc chuyển TSĐB nợ vay để Toà án xử lý qua con đường tố tụng…cùng nhiều các quy định khác dẫn đến tình trạng NHTM không giải quyết được nợ tồn đọng, tài sản tồn đọng.
P Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của NHNN:
Bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra ngân hàng và đảm bảo an toàn hệ thống chưa có sự cải thiện căn bản về chất lượng. Năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một số nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới Thanh tra ngân hàng còn chưa theo kịp. Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát lạc hậu, chậm đổi mới. Vai trò kiểm toán chưa được phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu. Thanh tra tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, khả năng kiểm soát toàn bộ hoạt động thị trường tiền tệ và giám sát rủi ro còn yếu. Thanh tra ngân hàng còn hoạt động một cách thụ động theo cách xử lý vụ việc đã phát sinh, ít có khả năng ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro và vi phạm. Mô hình tổ chức của thanh tra ngân hàng còn nhiều bất cập. Do vậy mà có những sai phạm của các NHTM không được thanh tra NHNN cảnh báo, có biện pháp ngăn chặn từ đầu, để đến khi hậu quả nặng nề đã xảy ra rồi mới can thiệp. Hàng loạt các sai phạm về cho vay, bảo lãnh tín dụng ở một số NHTM dẫn đến những rủi ró rất lớn, có nguy cơ đe doạ sự an toàn của cả hệ thống lẽ ra có thể đã được ngăn chặn ngay từ đầu nếu bộ máy thanh tra phát hiện và xử lý sớm hơn.
P Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập:
Hiện nay ở Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của NHNN hoạt động đã quá một thập niên và đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu tra cứu thông tin của các ngân hàng. Đó cũng là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng và kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện thiếu một hệ thống thông tin tương xứng. Nếu các ngân hàng cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng tín dụng trong điều kiện môi trường thông tin không cân xứng thì sẽ gia tăng nguy cơ nợ xấu cho hệ thống ngân hàng.
1.2.1.3 Rủi ro do các nguyên nhân từ phía khách hàng vay
P Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay:
Đa số các khách hàng khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh cụ thể, khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên, những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến các khách hàng khác
P Khả năng quản lý kinh doanh kém:
Khi khách hàng vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít khách hàng nào dám mạnh dạng đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kết toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
P Tình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch:
Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé là đặc điểm chung của hầu hết các khách hàng vay vốn Việt Nam. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các khách hàng tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các khách hàng cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Khi cán bộ ngân hàng lập các bảng phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các khách hàng cung cấp thường thiếu tính thực tế và xác thực. Đây cũng là nguyên nhân vì sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng.
1.2.2 Rủi ro tín dụng do nguyên nhân chủ quan :
P Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng:
Kiểm tra nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra NHNN ở tính thời gian ví nó nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Nhưng trong thời gian trước đây, công việc kiểm tra nội bộ của các ngân hàng hầu như chỉ tồn tại trên hình thức. Kiểm tra nội bộ cần phải được xem như hệ thống “thắng” của cỗ xe tín dụng. Cỗ xe càng lao đi với vận tốc lớn thì hệ thống này càng phải an toàn, hiệu quả thì mới tránh cho cỗ xe khỏi đi vào những ngã rẽ rủi ro vốn luôn luôn tồn tại thường trực trên con đường đi tới.
P Bố trí cán bộ thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ:
Một số vụ án kinh tế lớn trong thời gian vừa qua có liên quan đến cán bộ NHTM đều có sự tiếp tay của một số cán bộ ngân hàng cùng với khách hàng làm giả hồ sơ vay, hay nâng giá tài sản thế chấp, cầm cố lên quá cao so với thực tế để rút tiền ngân hàng.
Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng.
P Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay:
Các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý một cách chủ động để đảm bảo sẽ được hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Việc theo dõi hoạt động của khách hàng vay nhằm tuân thủ các điều khoản đề ra trong hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng nhằm tìm ra những cơ hội kinh doanh mới và mở rộng cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên, trong thời gian qua các NHTM chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này do một phần yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng của cán bộ ngân hàng, một phần do hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh của các khách hàng quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà NHTM yêu cầu.
P Sự hợp tác giữa các NHTM quá lỏng lẻo, vai trò của CIC chưa thật sự hiệu quả:
Kinh doanh ngân hàng là một nghề đặc biệt huy động vốn để cho vay hay nói cách khác đi vay để cho vay, do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng là không thể trách khỏi, các ngân hàng cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm hạn chế rủi ro. Sự hợp tác nảy sinh do yêu cầu quản lý rủi ro đối với cùng một khách hàng khi khách hàng này vay tiền tại nhiều ngân hàng. Trong quản trị tài chính, khả năng trả nợ của một khách hàng là một con số cụ thể, có giới hạn tối đa của nó. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin dẫn đến việc nhiều ngân hàng cùng cho vay một khách hàng đến mức vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả chứ không chừa một ngân hàng nào.
Trong tình hình cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng gay gắt như hiện nay, vai trò của CIC là rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác để các ngân hàng có các quyết định cho vay hợp lý. Đáng tiếc là hiện nay ngân hàng dữ liệu của CIC chưa đầy đủ và thông tin còn quá đơn điệu, chưa được cập nhật và xử lý kịp thời.
1.3 PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG
1.3.1 Thực hiện đúng các quy định của pháp luật về cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, chiết khấu, bao thanh toán và bảo đảm tiền vay; xem xét và quyết định việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản hoặc không có bảo đảm bằng tài sản, cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay, tránh các vướng mắc khi xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ vay. Đặc biệt chú trọng thực hiện các giải pháp thu hồi nợ vay. Đặc biệt chú trọng các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng không để nợ xấu gia tăng.
1.3.2 Phải tăng cường kiểm tra, giám sát việc chấp hành các nguyên tắc, thủ tục cho vay và cấp tín dụng khác, tránh xảy ra sự cố gây thất thoát tài sản, sắp xếp lại tổ chức bộ máy, tăng cường công tác đào tạo cán bộ để đáp ứng yêu cầu kinh doanh ngân hàng trong điều kiện hội nhập quốc tế.
1.3.3 Xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ phù hợp với hoạt động kinh doanh, đối tượng khách hàng, tính chất rủi ro của khoản nợ.
1.3.4 Thực hiện chính sách quản lý rủi ro tín dụng, mô hình giám sát rủi ro tín dụng, phương pháp xác định và đo lường rủi ro tín dụng có hiệu quả, trong đó bao gồm cách thức đánh giá về khả năng trả nợ của khách hàng, hợp đồng tín dụng, các tài sản đảm bảo, khả năng thu hồi nợ và quản lý nợ của tổ chức tín dụng.
1.3.5 Thực hiện các quy định đảm bảo kiểm soát rủi ro và an toàn hoạt động tín dụng.
a) Xây dựng và thực hiện đồng bộ một hệ thống quy chế, quy trình nội bộ về quản lý rủi ro, trong đó đặc biệt chú trọng xây dựng chính sách khách hàng vay vốn, sổ tay tín dụng, quy định về đánh giá, xếp hạng khách hàng vay, đánh giá chất lượng tín dụng và xử lý các khoản nợ xấu.
b) Mở rộng tín dụng trung và dài hạn ở mức thích hợp, đảm bảo cân đối thời hạn cho vay đối với thời hạn của nguồn vốn huy động.
c) Thực hiện đúng quy định về giới hạn cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, chiết khấu, bao thanh toán đối với một khách hàng và các tỷ lệ an toàn hoạt động kinh doanh.
1.3.6 Đối với các trường hợp chây ỳ nhận nợ và trả nợ vay, cần áp dụng các biện pháp kiên quyết, đúng pháp luật để thu hồi nợ vay, kể cả việc xử lý TSTC, cầm cố và bảo lãnh, khởi kiện lên cơ quan tòa án.
1.3.7 Thực hiện tốt việc thẩm định khách hàng và khả năng trả nợ.
1.3.8 Bảo hiểm tiền vay, nghĩa là ngân hàng chuyển toàn bộ rủi ro cho cơ quan bảo hiểm chuyên nghiệp.
1.3.9 Phải có một chính sách tín dụng hợp lý và duy trì các khoản dự phòng để đối phó với rủi ro.
Kết luận chương I : Rủi ro tín dụng có thể phát sinh do rất nhiều nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Các biện pháp phòng chống rủi ro có thể nằm trong tầm tay của các NHTM nhưng cũng có những biệp pháp vượt ngoài khả năng của riêng từng ngân hàng, liên quan đến vấn đề nội tại của bản thân nền kinh tế đang chuyển đổi, đang định hướng mô hình phát triển ở Việt Nam. Trong tầm tay của các ngân hàng, rủi ro tín dụng phụ thuộc vào năng lực của cán bộ tín dụng trong việc phát triển và hạn chế rủi ro từ lúc xem xét quyết định cho vay cũng như trong suốt thời gian vay. Năng lực cấp tín dụng phụ thuộc vào chuyên môn của cán bộ tín dụng và các nguồn lực của ngân hàng về nhân sự cũng như về cơ sở vật chất.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CHO VAY HỘ CHĂN NUÔI CÁ TRA-BASA TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHI NHÁNH AN GIANG
2.1 VÀI NÉT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI TỈNH AN GIANG
2.1.1 Về điều kiện tự nhiên
An Giang là một tỉnh thuộc ĐBSCL, Phía Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Tháp; Phía Tây Bắc giáp Vương quốc Campuchia với đường biên giới dài gần 96,6 km; Phía Nam và Tây Nam giáp tỉnh Kiên Giang; Phía Đông Nam giáp Thành phố Cần Thơ. Diện tích tự nhiên của tỉnh là 3.536,8 km2. Tỉnh có 11 đơn vị hành chính trực thuộc bao gồm : TP Long Xuyên, Thị xã Châu Đốc và 09 huyện là Châu Thành, Thoại Sơn, Châu Phú, Tri Tôn, Tịnh Biên, Chợ Mới, Phú Tân, Tân Châu, An Phú với 150 phường, xã, thị trấn. Dân số năm 2006 khoản 2.210.000 người tương ứng với mật độ dân số là 625 người/km2.
An Giang có hai nhánh sông chảy qua là sông Tiền và sông Hậu, sông Tiền chảy qua An Giang không liên tục, là ranh giới chung của hai tỉnh An Giang – Đồng Tháp (ở Tân Châu, Phú Tân, Chợ Mới). Sông Hậu đi qua tỉnh An Giang chia tỉnh thành hai phần : các huyện cù lao An Phú, Tân Châu, Phú Tân, Chợ Mới; Các huyện còn lại nằm ở khu vực tứ giác Long Xuyên, ngoài ra An Giang còn rất nhiều nhánh sông, kênh rạch,…
Nghề nuôi cá bè truyền thống của tỉnh An Giang tập trung chủ yếu trên sông Hậu, ngoài ra các mô hình nuôi cá ao cũng tập trung chủ yếu hai bên tả ngạn và hữu ngạn của sông Hậu. Do sông Hậu có tốc độ dòng chảy thấp, thấp hơn so với sông Tiền, độ sâu của lòng sông thấp, địa hình đáy sông Hậu thoai thoải, chiều rộng lòng sông lớn rất thích hợp cho nghề nuôi cá bè.
Mặt khác cộng đồng dân cư của tỉnh An Giang sống tập trung vùng lưu vực sông Hậu nhiều hơn phía sông Tiền, cơ sở hạ tầng tốt hơn như : đường giao thông bộ, bệnh viện, trường học, chợ, bưu chính viễn thông,…Đất dùng cho nuôi trồng thủy sản vùng lưu vực sông Hậu tỉnh An Giang rất nhiều tiềm năng (về diện tích), chủ yếu là đất canh tác nông nghiệp.
Với những lợi thế trên nghề nuôi trồng thủy sản mà nhiều nhất là nghề chăn nuôi cá tra-basa phát triển rất mạnh và là một trong những ngành kinh tế chủ lực của tỉnh.
2.1.2 Về tình hình kinh tế - xã hội
Năm 2007 tốc độ tăng trưởng GDP của tỉnh tăng 13,73%, cao nhất trong vòng 17 năm qua kể từ năm 1990, tăng 4,68% so với năm 2006, đứng hàng thứ 5 trong các tỉnh ĐBSCL. Từ đó làm cho thu nhập của người dân trong tỉnh tăng lên từ 9,6 triệu đồng/người (năm 2006) tăng lên 11,8 triệu đồng/người (năm 2007).
Về cơ cấu GDP theo từng lĩnh vực : Nông, Lâm, Thủy sản là 35,47%; Công nghiệp – xây dựng là 12,14% và Dịch vụ là 52,39%. Kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn đạt 540 triệu USD, tăng 21,5% so với năm 2006 và vượt kế hoạch 20% (trong đó : gạo xuất khẩu đạt 502.000 tấn tương đương 148 triệu USD bằng 91,6% về sản lượng và tăng 5,1% về kim ngạch so với năm 2006, Thủy sản đông lạnh xuất khẩu đạt 125.000 tấn tương đương 335 triệu USD tăng 20,2% về lượng và 31,2% về kim ngạch so với năm 2006). Tỷ lệ hộ nghèo là 8,93% giảm 1,86% so với năm 2006. Cụ thể :
Khu vực I (Nông lâm Thủy sản) : có mức tăng trưởng vượt bậc, người dân trúng mùa, các mặt hàng nông sản được giá, xuất khẩu ổn định, đời sống được nâng cao. Tốc độ tăng trưởng cả năm đạt 9,36% cao nhất trong những năm gần đây. Ngành nông nghiệp có diện tích gieo trồng tăng 20.916 ha so năm 2006, sản lượng thu hoạch trên 3,1 triệu tấn, tăng 219 ngàn tấn so với năm 2006. Ngành thủy sản có mức tăng trưởng cao nhất khu vực, đạt 26,97% so năm 2006, do nhu cầu tiêu thụ tăng, giá cả nguyên liệu ổn định ở mức cao, lợi nhuận nhiều làm cho diện tích nuôi trồng ngày càng mở rộng thêm, sản lượng thủy sản đạt 264.000 tấn, tăng 44,8% so năm 2006.
Khu vực II (Công nghiệp – xây dựng) : sản xuất công nghiệp ổn định và đạt ở mức tăng trưởng cao, tốc độ tăng trưởng năm 2007 tăng 15,55% so năm 2006, trong đó công nghiệp chế biến tăng mạnh 17,81%; những ngành nghề hoạt động có hiệu quả như : chế biến thủy sản, quần áo may sẵn, gạch xây dựng, xay xát gạo, nước máy thương phẩm, thức ăn gia súc, thủy sản,…Xây dựng tăng 10,5% so năm 2006.
Khu vực III (Dịch vụ) : Hoạt động kinh doanh tiếp tục phát triển; khu vực Nông Lâm Thủy sản tăng về lượng, với các mặt hàng chủ lực là lúa, cá tạo điều kiện cho khu vực công nghiệp phát triển sản xuất, giá lúa, cá ở mức cao làm tăng sức mua và khả năng thanh toán của người dân nông thôn, tăng sức mua của xã hội. Thương mại phát triển đã bảo vệ được lợi ích của người sản xuất và kích thích sản xuất phát triển. Tốc độ tăng trưởng của khu vực này đạt 15,80%, tăng 1,2% so năm 2006.
2.2 GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM VÀ GIỚI THIỆU VỀ NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHI NHÁNH AN GIANG
2.2.1 Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống Ngân hàng Công thương Việt Nam (tên viết tắt là Vietinbank)
2.2.1.1 Lịch sử hình thành
- Giai đoạn thứ nhất (từ tháng 07/1988 đến hết năm 1990) : trong giai đoạn này Ngân hàng Công thương Trung ương chỉ thực hiện nhiệm vụ quản lý như một liên hiệp xí nghiệp đặc biệt, các Chi nhánh thực hiện chế độ hạch toán kinh tế độc lập.
- Giai đoạn thứ hai (từ tháng 01/1991 đến tháng 09/1996) : sau khi Pháp lệnh ngân hàng có hiệu lực thi hành (tháng 10/1990), theo Quyết định 402/CT ngày 14/11/1990 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ), Ngân hàng Công thương Việt Nam mới thực sự trở thành một ngân hàng thương mại có chức năng kinh doanh tiền tệ. Mô hình tổ chức kinh doanh được định rõ : Ngân hàng Công thương Việt Nam là một pháp nhân thuộc sở hữu Nhà nước, thực hiện hạch toán kinh tế độc lập, có các Chi nhánh là các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc.
- Giai đoạn thứ ba (từ tháng 09/1996 đến nay) : theo mô hình Tổng Công ty Nhà nước, Ngân hàng Công thương Việt Nam được quản lý bởi Hội đồng Quản trị, điều hành bởi Tổng Giám đốc, có các Chi nhánh là các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc (Chi nhánh cấp I).
2.2.1.2 Quá trình phát triển
Ngân hàng Công thương Việt Nam là một trong những Ngân hàng Thương mại Nhà nước lớn của Việt Nam. Ngày nay, Ngân hàng Công thương Việt Nam có hệ thống mạng lưới rộng khắp bao phủ các tỉnh, thành phố trong cả nước. Ngoài ra, Ngân hàng Công thương Việt Nam còn có các đơn vị trực thuộc như : Văn phòng đại diện Thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm đào tạo, Trung tâm Công nghệ Thông tin, Công ty cho thuê Tài chính, Công ty trách nhiệm hữu hạn Chứng khoán, Công ty Quản lý và Khai thác tài sản; tham gia cùng với các Tổ chức tín dụng nước ngoài lập hai đơn vị liên doanh đầu tiên thuộc hệ thống tín dụng Việt Nam là Indovina Bank và Công ty cho thuê Tài chính Quốc tế Việt Nam và góp vốn một số liên doanh như Sài Gòn Công thương, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương Việt Nam đã và đang vươn xa ra thế giới thông qua mạng lưới hơn 600 Ngân hàng đại lý trên khắp Châu Lục.
Khách hàng của Ngân hàng Công thương Việt Nam là các tổ chức kinh tế kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, thương mại, du lịch, dịch vụ,…và các khách hàng cá nhân tại các khu tập trung đông dân cư. Với phương châm “Nâng giá trị cuộc sống” Ngân hàng Công thương Việt Nam đã góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước và sự thành đạt của các doanh nghiệp.
2.2.2 Giới thiệu về Ngân hàng Công thương Chi nhánh An Giang
2.2.2.1 Mạng lưới tổ chức
NHCT Chi nhánh An Giang chính thức được thành lập theo Quyết định số 54/NH-TCCB ngày 14/07/1988 của Tổng Giám đốc NHNN Việt Nam (nay là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam).
NHCT Chi nhánh An Giang có trụ sở chính tại số 270 đường Lý Thái Tổ, Phường Mỹ Long, Thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Ngân hàng Công thương Chi nhánh An Giang là một trong 130 Chi nhánh của Ngân hàng Công thương Việt Nam, thực hiện hạch toán nội bộ, là một Ngân hàng Thương mại Nhà nước.
Từ khi thành lập đến nay, NHCT Chi nhánh An Giang phát triển không ngừng và đã tận dụng tốt những điểm mạnh để phát huy lợi thế của một NHTMNN có uy tín trong hệ thống ngân hàng, với chức năng kinh doanh trong lĩnh vực tài chính và tiền tệ, nên chi nhánh hoạt động khá hiệu quả, lợi nhuận tăng trưởng qua các năm, ngoài ra NHCT Chi nhánh An Giang còn góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế xã hội trong tỉnh An Giang. Chi nhánh luôn đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn của khách hàng, tạo được vị thế cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh của mình. Với những thành tích đạt được Chi nhánh đã góp phần phát triển kinh tế của địa phương trong đó có 03 chương trình kinh tế lớn của tỉnh đề ra là : khuyến công, khuyến nông và khuyến ngư.
Khi mới thành lập (tháng 7/1988), NHCT Chi nhánh An Giang ngoài trụ sở chính chỉ có một Chi nhánh trực thuộc (Chi nhánh NHCT thị xã Châu Đốc) nhưng vào tháng 06 năm 2007 Chi nhánh NHCT thị xã Châu Đốc đã tách ra khỏi NHCT Chi nhánh An Giang để nâng lên Chi nhánh cấp 1 ngang bằng với NHCT Chi nhánh An Giang. Hiện nay, NHCT Chi nhánh An Giang gồm có 1 Hội sở chính và 03 Phòng Giao dịch đặt tại: TP. Long Xuyên, huyện Thoại Sơn và huyện Chợ Mới.
2.2.2.2 Cơ cấu bộ máy tổ chức, bộ máy hoạt động
NHCT Chi nhánh An Giang hiện nay có cơ cấu bộ máy tổ chức bao gồm : Giám đốc lãnh đạo điều hành mọi hoạt động của các Phòng và chịu trách nhiệm trước Tổng Giám đốc NHCT Việt Nam.
Giúp việc cho Giám đốc NHCT Chi nhánh An Giang có 02 Phó Giám đốc : 01 Phó Giám đốc phụ trách nguồn vốn và kinh doanh; 01 Phó Giám đốc phụ trách kho quỹ, tài chính, thanh toán XNK cùng với 08 Phòng nghiệp vụ giúp việc cho Ban Giám đốc là : Phòng Khách hàng Doanh nghiệp, Phòng Khách hàng Cá nhân, Phòng Kế toán giao dịch, Phòng Tiền tệ Kho quỹ, Phòng Quản lý rủi ro và Nợ có vấn đề và Phòng Tổ chức Hành chính.
2.3 KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH CHĂN NUÔI VÀ XUẤT KHẨU CÁ TRA-BASA
2.3.1 Khái quát về tình hình chăn nuôi và xuất khẩu cá tra-basa ở Việt Nam
- Nuôi trồng thủy sản nói chung và chăn nuôi cá tra-basa nói riêng đang từng bước trở thành một trong những ngành sản xuất hàng hóa chủ lực, phát triển rộng khắp, có vị trí quan trọng và đang tiến đến xây dựng các vùng sản xuất tập trung. Một đối tượng có giá trị cao, có khả năng xuất khẩu đã được tập trung đầu tư, khuyến khích phát triển, hiệu quả tốt. Phát huy được tiềm năng tự nhiên, nguồn vốn và sự năng động sáng tạo trong doanh nghiệp và nông dân, đồng thời góp phần hết sức quan trọng cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp cũng như trong xóa đói giảm nghèo. Chế biến xuất khẩu là mặt hàng phát triển rất nhanh, đã tiếp cận được với trình độ công nghệ và quản lý tiên tiến của khu vực và thế giới.
- Theo số liệu Báo cáo tổng kết hàng năm của Bộ Thủy sản, trong giai đoạn 1990-2006, tổng sản lượng TSNT của Ngành Thủy sản Việt Nam đã gia tăng nhanh chóng, từ 1 triệu tấn đã gia tăng lên gần 1,8 triệu tấn với kim ngạch xuất khẩu tương đương từ 205.000 USD đã vượt 3,3 tỷ USD và năm 2007 con số này đã lên tới 3,7 tỷ USD vượt 2,8% so với kế hoạch (3,6 tỷ USD) và tăng 10,5% so với năm 2006. Kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh phải kể đến mặt hàng xuất khẩu cá tra-basa sang thị trường Đông Âu và EU tăng, đạt giá trị xuất khẩu xấp xỉ 974 triệu USD tăng đến 35,5% so với năm 2006 (719 triệu USD) với sản lượng xuất khẩu là 383.000 tấn. Thị trường xuất khẩu thủy sản đã mở rộng ra 146 nước tăng 09 nước so với năm 2006. Giá trị sản xuất của ngành thủy sản ngày càng có tỷ trọng cao hơn trong khối nông nghiệp và GDP của nền kinh tế, trong đó mặt hàng xuất khẩu cá tra-basa đóng góp ngày càng nhiều vào tỷ trọng kim ngạch của cả ngành, góp phần vào tính chủ động trong sản xuất, tạo công ăn việc làm cho hàng triệu người lao động.
- Sản phẩm cá tra-basa xuất khẩu đảm bảo chất lượng và có tính cạnh tranh, tạo được uy tín trên thị trường thế giới. Các cơ sở sản xuất không ngừng được gia tăng, đầu tư, quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế, đổi mới đa dạng hóa sản phẩm (trên 70 mặt hàng khác nhau), mở rộng thị trường cụ thể như :
+ Năm 1995, Việt Nam gia nhập các nước ASEAN và ngành Thủy sản Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Nghề cá Đông Nam Á (SEAFDEC).
+ Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đã giúp cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu cá tra-basa nhưng từ sau vụ kiện chống bán phá giá cá tra-basa năm 2002 lại là động lực để các doanh nghiệp Việt Nam tích cực tìm kiếm thị trường mới (hiện tại xuất khẩu cá tra-basa sang 98 quốc gia trên thế giới tăng thêm 15 thị trường so với năm 2002 với cơ cấu thị trường bao gồm các thị trường chính như : Mỹ 9,8% (trước đó là 90%), EU cao nhất với 46,9%, Nga 11,2%, các nước ASEAN 8,7%, Trung Quốc (kể cả Hồng Kông) 5,1%, Australia 4,1% và 14,2% của các thị trường còn lại. Tất cả các thị trường trên đều tăng nhập sản phẩm cá tra-basa đông lạnh từ VN trong năm vừa qua tạo điều kiện cho ngành chế biến cá tra-basa có chiều hướng phát triển tốt.
- Theo dự báo của Bộ Công thương, năm 2008 xuất khẩu Thủy sản của Việt Nam sẽ tiếp tục có mức tăng trưởng cao, tăng khoảng 13,3% so với năm 2007, đạt giá trị khoảng 4,25 tỷ USD. Thị trường xuất khẩu cá tra-basa chủ yếu của Việt Nam trong năm 2008 vẫn là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và Hàn Quốc. Trong thời gian tới, ngành sẽ đẩy mạnh đa dạng hóa các thị trường còn lại ở các nước ASEAN, Trung Quốc và các nước Đông Âu cũ.
- Theo đánh giá của các chuyên gia, nhu cầu nhập khẩu thuỷ sản nói chung và cá tra-basa nói riêng trên thế giới ngày càng tăng cao, tuy nhiên doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam chỉ đáp ứng được một phần nhỏ. Đơn cử, nhu cầu nhập khẩu của Mỹ những năm gần đây khoảng 12 tỷ USD/năm, trong khi xuất khẩu của Việt Nam chỉ chiếm 6,2% kim ngạch nhập khẩu của Mỹ (tương đương 0,74 tỷ USD); thị trường EU nhập khẩu khoảng 34 tỷ USD/năm trong khi xuất khẩu của Việt Nam chỉ chiếm 2,8% kim ngạch nhập khẩu của khu vực này (tương đương 0,95 tỷ USD),…Chính vì vậy, cơ hội xuất khẩu của ngành Thủy sản Việt Nam nói chung và xuất khẩu cá tra-basa nói riêng là rất lớn.
- Đến năm 2007, cả nước có 332 cơ sở chế biến thủy sản. Từ 18 doanh nghiệp năm 1999, đến nay đã có 244 doanh nghiệp Việt Nam được phép xuất khẩu vào EU và mới đây ngày 17/01/2008 Uỷ ban liên minh Châu Âu (EU) đã ban hành thông báo D4/RM/agm D(2007)441851 công nhận thêm 25 Doanh nghiệp chế biến thủy sản Việt Nam đủ điều kiện sản xuất an toàn vệ sinh thực phẩm để xuất khẩu vào EU, nâng tổng số doanh nghiệp Việt Nam được công nhận đến nay là 269 và những doanh nghiệp mới được công nhận có thể xuất hàng vào EU từ 31/01/2008, 222 doanh nghiệp được phép xuất khẩu vào Hàn Quốc. Bên cạnh các doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thủy sản của tư nhân phát triển mạnh trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân đã có giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản hàng đầu, một số doanh nghiệp chế biến xuất khẩu đã có kim ngạch xuất khẩu trên dưới 100 triệu USD mỗi năm.
- ĐBSCL là khu vực có lợi thế nổi trội hơn trong cả nước để phát triển ngành nuôi trồng thuỷ sản. Khu vực có chiều dài bờ biển hơn 750 km, mạng lưới sông ngòi dày đặc với 15 cửa sông lớn đổ ra biển và nguồn lợi thủy sản phong phú, đa dạng, lực lượng lao động dồi dào, lại tiếp giáp với TPHCM – trung tâm kinh tế lớn của cả nước. Chính vì những thuận lợi đó, sản lượng nuôi trồng thủy sản của ĐBSCL liên tục gia tăng từ 780.000 tấn năm 2005 (trong đó cá tra-basa là 380.000 tấn, chiếm 49%), lên 1.225.000 tấn năm 2006 (trong đó cá tra-basa là 825.000 tấn, chiếm 67%) và năm 2007 là 1.500.000 tấn (trong đó cá tra-basa là 1.000.000 tấn, chiếm 67%). Đặc biệt ngành nuôi trồng và chế biến cá tra-basa xuất khẩu phát triển rất mạnh ở ĐBSCL, trong giai đoạn 1997 – 2007, sản lượng xuất khẩu loài này đã có bước nhảy thần kỳ từ 7.000 tấn, trị giá 19,7 triệu USD tăng lên 380.000 tấn, trị giá 1.000 triệu USD. Như vậy, tăng đến trên 53 lần về khối lượng và gần 50 lần về giá trị. Có thể nói chưa có một ngành hàng xuất khẩu nào đạt được tốc độ tăng trưởng phi mã như vậy.
- Đứng thứ hai sau thế mạnh về gạo của ĐBSCL đó là ngành Thủy sản, tuy nhiên từ thực tế phát triển của ngành Thủy sản cho thấy tuy thủy sản là ngành phát triển sau ngành gạo nhưng đã có những thành tựu phát triển vượt bậc. Tính đến thời điểm cuối năm 2007 toàn vùng ĐBSCL có 103 Nhà máy chế biến đông lạnh thuỷ sản, riêng đối với ngành sản xuất cá tra-basa đã chiếm tới 70 Nhà máy chế biến với công suất 1.500.000 tấn/năm và theo quy hoạch từ nay đến năm 2010 các tỉnh ĐBSCL xây dựng thêm 32 nhà máy chế biến cá tra-basa, nâng tổng số nhà máy lên 102 NMCB với tổng công suất gần 2.200.000 tấn/năm. Nếu như năm 2005 kim ngạch xuất khẩu là 303 triệu USD thì đến năm 2007 là 1.000 triệu USD tăng gần gấp ba lần chỉ sau ba năm.
- Với nhu cầu của thị trường ngày càng gia tăng, các doanh nghiệp chế biến đã tiến đến xây dựng cho mình vùng nguyên liệu thông qua việc lựa chọn và ký kết hợp đồng dài hạn với người nông dân. Mối liên kết này đã mang lại lợi ích cho cả hai bên đồng thời cũng hướng thị trường phát triển theo hướng hiệu quả hơn, giảm chi phí giao dịch và gia tăng lợi nhuận cho cả hai bên. Đến nay cả vùng ĐBSCL đã có 70 Nhà máy chế biến cá tra-basa với công suất khoảng 1.500.000 tấn/năm trong khi đó năm 2007 sản lượng cá tra-basa nuôi trồng của khu vực này mới đạt khoảng 1.000.000 tấn/năm đã dẫn đến tình trạng thiếu nguyên liệu đầu vào cung cấp cho các NMCB cá tra-basa xuất khẩu nên Việt Nam vẫn còn nhập khẩu cá tra-basa nguyên liệu từ những nước lân cận để có đủ nguyên liệu đầu vào phục vụ cho chế biến xuất khẩu.
2.3.2 Về tình hình chăn nuôi và xuất khẩu cá tra-basa ở An Giang
Trong năm 2007, ngành thủy sản An Giang mà trong đó là ngành chăn nuôi cá tra-basa tiếp tục khẳng định vị thế, mũi nhọn then chốt trong phát triển kinh tế xã hội của tỉnh với mức tăng trưởng 24,60% so với mức 2,33% năm 2006, một mức tăng trưởng rất cao.
Cơ cấu ngành thủy sản so với GDP toàn tỉnh năm 2007 là 5,36% (năm 2006 là 4,67%).
Các chỉ tiêu chủ yếu của ngành luôn tăng trưởng nhanh, mạnh và vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra, tạo thêm nhiều công ăn việc làm, góp phần xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập, tăng kim ngạch xuất khẩu, góp phần vào tăng trưởng kinh tế xã hội chung của tỉnh.
Tổng diện tích NTTS là 2.400 ha, trong đó diện tích nuôi cá tra-basa là 1.379 ha, chiếm tỷ trọng 57% trong tổng diện tích NTTS. Trong khi tổng diện tích NTTS đều tăng qua các năm thì diện tích nuôi cá tra-basa lại giảm vào năm 2006 rồi tăng đột biến vào năm 2007.
Nguyên nhân của hiện tượng trên là do vào năm 2005 thủy sản An Giang vẫn chịu những thử thách gay gắt về hàng rào kỹ thuật của thị trường quốc tế, cả người nuôi và nhà chế biến đều lận đận lao đao nhất là chất lượng cá tra-basa xuất khẩu không đạt yêu cầu của các nước nhập khẩu. Bên cạnh đó, sự phát triển quá nhanh về sản lượng mà ít chú ý đến chất lượng đầu ra của sản phẩm cộng với thiếu sự kết hợp đồng bộ của các doanh nghiệp và người nuôi; cạnh tranh lẫn nhau bán giá thấp, trả đũa nhau làm cho tình hình xuất khẩu thủy sản không ổn định; giá cá nguyên liệu giảm mạnh trong thời gian dài dẫn đến người nuôi thua lỗ nặng thậm chí phá sản. Kết quả đã làm giảm số hộ nuôi cá tra-basa trong năm 2006 kéo theo diện tích nuôi cá tra-basa cũng giảm theo.
Bảng 1 : Diện tích chăn nuôi cá tra-basa
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Tổng diện tích NTTS
1,836 ha
1,918 ha
2,400 ha
Trong đó :
+ Nuôi cá tra-basa
815 ha
807 ha
1,379 ha
+ Tỷ trọng
44%
42%
57%
(Nguồn : Báo cáo tổng kết hoạt động ngành Thủy sản An Giang năm 2005, 2006 và 2007 của Sở Thủy sản An Giang)
Chỉ tiêu
2006 so với 2005
2007 so với 2005
2007 so với 2006
Chênh lệch
%
Chênh lệch
%
Chênh lệch
%
Tổng diện tích NTTS
82 ha
4.5%
564 ha
31%
482 ha
25%
Trong đó :
+ Nuôi cá tra-basa
-8 ha
-1.0%
564 ha
69%
572 ha
71%
Bảng 2 : Số hộ chăn nuôi cá tra-basa
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Tổng số hộ NTTS
13,464 hộ
11,755 hộ
14,938 hộ
Trong đó :
+ Nuôi cá tra-basa
10,539 hộ
9,007 hộ
13,334 hộ
+ Tỷ trọng
78%
77%
89%
(Nguồn : Báo cáo tổng kết hoạt động ngành Thủy sản An Giang năm 2005, 2006 và 2007 của Sở Thủy sản An Giang)
Chỉ tiêu
2006 so với 2005
2007 so với 2005
2007 so với 2006
Chênh lệch
%
Chênh lệch
%
Chênh lệch
%
Tổng số hộ NTTS
-1,709 hộ
-12.7%
1,474 hộ
11%
3,183 hộ
27%
Trong đó :
+ Nuôi cá tra-basa
-1,532 hộ
-14.5%
2,795 hộ
27%
4,327 hộ
48%
Mặc dù diện tích và số hộ chăn nuôi cá tra-basa không tăng mà còn giảm nhưng từ bảng 3 cho thấy sản lượng chăn nuôi vẫn tăng qua 3 năm do quy mô diện tích bình quân trên một hộ nuôi tăng cao. Tuy năm 2006 có tăng so với năm 2005 nhưng tăng không nhiều (tăng 25.000 tấn tương đương tăng 21%) trong khi năm 2007 tăng 72.000 tấn tương đương tăng 50% so với năm 2006. Không chỉ có sản lượng chăn nuôi cá tra-basa tăng qua các năm mà tỷ trọng sản lượng chăn nuôi cá tra-basa chiếm trong tổng sản lượng NTTS của tỉnh cũng tăng qua các năm (năm 2005 chiếm 66%/Tổng sản lượng TSNT, năm 2006 tăng lên 80%/Tổng sản lượng TSNT và năm 2007 tiếp tục tăng lên 82%/Tổng sản lượng TSNT). Điều này cho thấy dù tình hình thị trường có biến động như thế nào thì ngành chăn nuôi cá tra-basa vẫn là ngành thế mạnh đầy tiềm năng của tỉnh.
Bảng 3 : Sản lượng chăn nuôi cá tra-basa
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Tổng sản lượng TSNT.
180,809 tấn
182,000 tấn
264,000 tấn
Trong đó :
+ Nuôi cá tra-basa
120,000 tấn
145,000 tấn
217,000 tấn
+ Tỷ trọng
66%
80%
82%
(Nguồn : Báo cáo tổng kết hoạt động ngành Thủy sản An Giang năm 2005, 2006 và 2007 của Sở Thủy sản An Giang)
Chỉ tiêu
2006 so với 2005
2007 so với 2005
2007 so với 2006
Chênh lệch
%
Chênh lệch
%
Chênh lệch
%
Tổng sản lượng TSNT.
1,191 tấn
64.9%
83,191 tấn
46%
82,000 tấn
45%
Trong đó :
+ Nuôi cá tra-basa
25,000 tấn
21%
97,000 tấn
81%
72,000 tấn
50%
Bảng 4 : Sản lượng chế biến, xuất khẩu và kim ngạch xuất khẩu cá tra-basa
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
+ Sản lượng chế biến và xuất khẩu cá tra-basa
54,900 tấn
104.000 tấn
125,000 tấn
+ Kim ngạch xuất khẩu cá tra-basa
123 triệu USD
255 triệu USD
335 triệu USD
(Nguồn : Báo cáo tổng kết hoạt động ngành Thủy sản An Giang năm 2005, 2006 và 2007 của Sở Thủy sản An Giang)
Chỉ tiêu
2006 so với 2005
2007 so với 2005
2007 so với 2006
Chênh lệch
%
Chênh lệch
%
Chênh lệch
%
+ Sản lượng cá tra-basa chế biến và xuất khẩu
49,100 tấn
89%
70,100 tấn
128%
21,000 tấn
20%
+ Kim ngạch xuất khẩu cá tra-basa
132 triệuUSD
107%
212 triệuUSD
172%
80 triệuUSD
31%
(Nguồn : Báo cáo tổng kết hoạt động ngành Thủy sản An Giang năm 2005, 2006 và 2007 của Sở Thủy sản An Giang)
Trong năm 2007, tỉnh tiếp tục quy hoạch lại các vùng sản xuất nguyên liệu chủ yếu, chủ động trong khâu sản xuất con giống, mở rộng thị trường xuất khẩu, sản phẩm chế biến đa dạng và được khách hàng nhiều nước ưa chuộng. Sản xuất ngày càng đi vào chiều sâu, chất lượng nguồn nguyên liệu cung cấp cho chế biến xuất khẩu được cải thiện đáng kể dần dần khắc phục được những rào cản kỹ thuật. Bên cạnh đó, việc ứng dụng các thành tựu kỹ thuật vào sản xuất, quan tâm đầu tư con giống, thức ăn, phòng trừ dịch bệnh và bảo vệ môi trường đã phần nào tạo được nguồn nguyên liệu sạch, không sử dụng hóa chất giúp cho uy tín của thương hiệu cá tra-basa Việt Nam ngày càng được nâng lên. Từ đó ngày càng mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu với các sản phẩm cá tra-basa đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng và được tiêu thụ tốt ở tất cả các thị trường quốc tế đã làm nên thắng lợi của ngành chăn nuôi cá tra-basa trong năm 2007. Cụ thể là sản lượng chế biến và xuất khẩu cá tra-basa giai đoạn 2005 – 2007 tăng 128% về sản lượng (70.100 tấn) và 172% về giá trị (212 triệu USD) (bảng 4).
Qua việc phân tích những số liệu trên cùng với thực tế phát triển ngành chăn nuôi cá tra-basa từ năm 2005 đến năm 2007 cho thấy ngành chăn nuôi cá tra-basa đã đạt được nhiều thành tựu vượt bậc, tuy nhiên cũng gặp không ít những khó khăn như :
- Thị trường xuất khẩu chưa thật ổn định do gặp khó khăn trong việc đối phó với những rào cản kỹ thuật của các nước nhập khẩu thủy sản.
- Thời tiết diễn ra bất thường : nắng nóng, khô hạn, thời tiết lạnh, nguồn nước bị ô nhiễm,…làm ảnh hưởng lớn đến sản xuất thủy sản nói chung và chăn nuôi cá tra-basa nói riêng, gây thiệt hại không nhỏ cho đời sống nông – ngư dân.
- Người chăn nuôi cá tra-basa có thói quen sản xuất tự phát, chưa tuân thủ quy hoạch và kế hoạch phát triển NTTS của ngành, tỉnh,...
Những khó khăn trên xảy ra đối với người chăn nuôi cá tra-basa là do nguyên nhân khách quan và chủ quan gây ra, từ đó cũng gây ra không ít khó khăn và rủi ro trong hoạt động cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa.
2.4 THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CHO VAY HỘ CHĂN NUÔI CÁ TRA-BASA TẠI NHCT CHI NHÁNH AN GIANG
2.4.1 Một số đặc điểm chủ yếu của hộ chăn nuôi cá tra-basa
Hộ chăn nuôi cá tra-basa có những đặc điểm chủ yếu sau :
- Chăn nuôi tập trung thành vùng : Vùng chăn nuôi cá tra-basa tập trung ở những vùng đất ven sông Hậu và sông Tiền hoặc trên các tuyến sông lớn thuộc các tỉnh An Giang, Đồng tháp, Cần thơ, Bến tre,…của khu vực ĐBSCL.
- Chăn nuôi theo tính chất cha truyền con nối : Nghề chăn nuôi cá tra-basa xuất phát từ làng bè Thị xã Châu Đốc, được truyền từ đời này sang đời khác nên thường chỉ nuôi theo những kinh nghiệm có được mà ít áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật hoặc tìm hiểu thêm những thông tin hoặc những kinh nghiệm bên ngoài.
- Chăn nuôi phát triển rất tự phát : Người chăn nuôi cá tra-basa có thói quen sản xuất tự phát, chưa tuân thủ quy hoạch và kế hoạch phát triển NTTS của ngành và của tỉnh.
- Hộ chăn nuôi thường thiếu những kinh nghiệm khoa học : Đây là đặc điểm phổ biến nhất của những người chăn nuôi cá tra-basa. Hầu hết những người chăn nuôi cá tra-basa là những người nông dân, bên cạnh những ngư dân chăn nuôi cá tra-basa truyền thống như ở Làng bè Châu Đốc, Phú Tân là những ngư dân có tính chất “cha truyền con nối” thì còn lại là những nông dân chuyển đổi từ các ngành nghề khác hoặc những người có vốn thậm chí không có vốn và ít có am hiểu về con cá tra-basa cũng đào ao nuôi cá vì thấy việc nuôi cá tra-basa đã làm cho không ít người trở thành những tỷ phú nghề cá. Chính những nguyên nhân đó mà nhiều người dù thiếu kinh nghiệm, thiếu hiểu biết khoa học thậm chí không có kinh nghiệm cũng đã kéo nhau đào ao nuôi cá mong kiếm được lợi ích từ nghề này mà không lường trước được những rủi ro tiềm ẩn trong tương lai.
- Chỉ thấy lợi ích trước mắt : Trên lý thuyết người chăn nuôi cá tra-basa và các nhà máy chế biến thủy sản phải luôn luôn cùng nhau nhìn về một hướng để phát triển, cùng nhau chia sẻ lợi ích đôi bên cùng có lợi nhưng thực tế không phải như vậy mà họ luôn “rình rập” nhau. Nếu thị trường có khuynh hướng có lợi cho ai thì người đó sẽ cố gắng khai thác tối đa lợi ích về phía mình sao cho thu về lợi nhuận cao nhất. Đơn cử như khi giá cá nguyên liệu tăng thì người chăn nuôi ghim hàng không chịu bán cho các nhà máy chế biến để mong chờ giá sẽ tăng hơn nữa, còn khi giá cá giảm thì các nhà máy chế biến viện đủ lý do để không thu mua hoặc có mua nhưng không thu mua theo giá đã ký trong hợp đồng mà mua với mức giá thấp hơn. Cả người nuôi và người thu mua đều vi phạm hợp đồng chỉ vì lợi ích trước mắt.
- Vốn tự có ít so với tổng nhu cầu vốn : Nhu cầu vốn cho việc chăn nuôi cá tra-basa rất lớn, nhất là các chi phí cho việc mua thức ăn (chiếm khoản 70% đến 80% nhu cầu vốn). Các loại chi phí đó rất lớn mà không phải riêng một cá nhân nào cũng có thể đáp ứng được. Vì vậy, phần lớn người chăn nuôi cá tra-basa đều thiếu vốn cho 1 chu kỳ nuôi nên phải vay vốn ngân hàng và vay thêm bên ngoài. Trường hợp nếu không bán được cá tiếp tục nuôi thì chí phí lại càng tăng thêm nhất là chi phí thức ăn để tiếp tục nuôi cá. Từ đó phải vay thêm tiền, nợ càng tăng (nợ ngân hàng, nợ vay bên ngoài, nợ tiền mua thức ăn – xăng – dầu,…) nhưng cá lại càng khó bán hơn do vượt tiêu chuẩn mà những NMCB cần.
- Lợi nhuận từ ngành chăn nuôi cá tra-basa thường cao hơn những ngành khác nhưng bấp bênh : Lợi nhuận từ hoạt động chăn nuôi thủy sản nói chung và chăn nuôi cá tra-basa nói riêng là rất cao so với các ngành nghề khác hiện nay. Trong khoảng thời gian 6 tháng chăn nuôi có người trở thành tỷ phú và cũng trong khoảng thời gian này có người từ tỷ phú mất hết vốn, nợ nầng “bao vây”. Vì vậy, nghề chăn nuôi cá tra basa chứa đựng rất nhiều rủi ro. Đặc điểm này là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc đào ao nuôi cá hàng loạt, một số người giàu lên nhanh chóng và cũng không ít người bị phá sản.
Trên đây là một số đặc điểm chủ yếu của những hộ chăn nuôi cá tra-basa, những đặc điểm trên đã gây ra không ít khó khăn cho ngành chăn nuôi cá tra-basa. Từ đó làm cho hoạt động cho vay đối với lĩnh vực chăn nuôi cá tra-basa cũng gặp không ít rủi ro.
2.4.2 Thực trạng rủi ro tín dụng trong cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa tại Ngân hàng Công thương Chi nhánh An Giang
NHCT Chi nhánh An Giang nằm trên địa bàn tỉnh An Giang với đặc thù là một tỉnh nông nghiệp thì hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng rất lớn trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Với tình hình kinh tế xã hội của tỉnh năm 2007 đạt mức cao nhất trong vòng 17 năm qua kể từ năm 1990 do nhu cầu và sức mua của người dân tăng đã kích thích sản xuất phát triển, kéo theo nhu cầu vốn của nền kinh tế cũng tăng theo nên trong năm 2007 dư nợ tín dụng trong hạn của Chi nhánh cũng đạt ở mức cao (cao nhất từ trước tới nay). Cụ thể nhìn vào bảng số liệu 5 cho thấy :
Bảng 5 : Dư nợ trong hạn theo ngành kinh tế tại NHCT Chi nhánh An Giang
Đvt : Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Tổng dư nợ trong hạn
723,268
659,782
839,723
1. Dư nợ ngắn hạn. Trong đó :
636,206
551,668
669,059
DNNN
46,826
37,716
57,043
Thành phần kinh tế khác :
589,380
513,952
612,016
+ Cho vay chăn nuôi cá tra-basa
57,148
45,801
83,552
+ Các ngành khác
532,232
468,151
528,464
2. Dư nợ trung-dài hạn. Trong đó :
90,040
110,863
173,187
DNNN
40,914
60,702
82,346
Thành phần kinh tế khác
49,126
50,161
90,841
+ Cho vay chăn nuôi cá tra-basa
12,847
4,582
6,728
+ Các ngành khác
36,279
45,579
84,113
(Nguồn : Báo cáo hoạt động ngân hàng của CN. NHCT AG năm 2005- 2007)
Dư nợ tín dụng trong hạn năm 2007 tăng cao so với năm 2005 và năm 2006, tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân giai đoạn 2005 – 2007 đạt 16%: dư nợ cuối năm 2006 là 659.782 triệu đồng giảm so với năm 2005 là 63.486 triệu đồng. Nguyên nhân là do vào tháng 06 năm 2006 Chi nhánh NHCT Thị xã Châu Đốc nâng lên thành Chi nhánh cấp I trực thuộc NHCT Việt Nam tách ra khỏi NHCT Chi nhánh An Giang nên Chi nhánh giảm dư nợ trong hạn là 136.421 triệu đồng (dư nợ trong hạn cuối năm 2005 là 723.268 triệu đồng trong khi dư nợ đầu năm 2006 chỉ còn 586.847 triệu đồng) . Nếu loại trừ phần dư nợ của Chi nhánh NHCT Châu Đốc từ đầu năm 2006 thì NHCT Chi nhánh An Giang cũng có bước tăng trưởng tín dụng là 72.935 triệu đồng (dư nợ trong hạn đầu năm 2006 là 586.847 triệu đồng, dư nợ trong hạn cuối năm 2006 là 659.782 triệu đồng) tương ứng với tốc độ tăng trưởng tín dụng là trên 12%.
Bảng 6 : Dư nợ quá hạn theo ngành kinh tế tại NHCT Chi nhánh An Giang
Đvt : Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Tổng dư nợ quá hạn
2,975
2,749
1,977
Ngắn hạn
2,671
2,546
1,977
DNNN
0
0
0
Thành phần kinh tế khác :
2,671
2,546
1,977
+ Cho vay chăn nuôi cá tra-basa
2,184
259
197
+ Các ngành khác
487
2,287
1,780
Trung-dài hạn.
304
203
0
(Nguồn : Báo cáo hoạt động ngân hàng của CN. NHCT AG năm 2005- 2007)
Dư nợ quá hạn đến 31/12/2006 là 2.749 triệu đồng giảm so với năm 2005 là 226 triệu đồng do trong năm 2005, thực hiện chỉ đạo của NHCT Việt Nam, NHCT chi nhánh An Giang đã chủ trương không tăng trưởng tín dụng nóng mà tập trung sàn lọc khách hàng để cho vay, chấp hành nghiêm chỉnh những chỉ đạo về cho vay có bảo đảm bằng tài sản, giảm dư nợ cho vay DNNN, đẩy mạnh thu hồi nợ và kiềm chế không để nợ quá hạn phát sinh. Từ đó đã làm giảm NQH của năm 2006 so với năm 2005.
Cũng do trong năm 2006 Chi nhánh NHCT Châu Đốc đã tách ra khỏi NHCT chi nhánh An Giang nên NQH của Chi nhánh năm 2007 giảm 2.503 triệu đồng. Nếu loại trừ phần dư nợ quá hạn của Chi nhánh NHCT Châu Đốc từ đầu năm 2006 thì NQH của NHCT Chi nhánh An Giang đã tăng 2.277 triệu đồng (dư nợ quá hạn đầu năm 2006 là 472 triệu đồng, dư nợ quá hạn cuối năm 2006 là 2.749 triệu đồng) tương ứng với tốc độ tăng khá cao, trên 5 lần.
NHCT Chi nhánh An Giang nằm trên địa bàn tỉnh An Giang với đặc thù là một tỉnh nông nghiệp thì hoạt động cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động cho vay hộ : như cho vay chăn nuôi, cho vay ngư nghiệp, cho vay trồng lúa,...Trước đây, khi ngành nghề chăn nuôi cá tra-basa còn chưa phát triển, sản phẩm được chế biến từ cá tra-basa chưa được thế giới biết đến thì cho vay ngư nghiệp chủ yếu là cho vay chăn nuôi một số loại cá như : cá lóc, cá rô phi, cá chim trắng,…cá tra-basa cũng có nhưng rất ít, chủ yếu là cá tra-basa nuôi bè. Nhưng từ khi con cá tra-basa được bạn bè khắp nơi trên thế giới biết đến như một loại thực phẩm bổ dưỡng thay thế cho loài cá nheo ở biển thì ngành nghề chăn nuôi cá tra-basa ngày càng phát triển rộng khắp, nhất là ở khu vực ĐBSCL với các loại hình chăn nuôi ngày càng đa dạng hơn như : nuôi bè, nuôi ao hầm, nuôi đăng quầng,…trong đó loại hình nuôi cá tra-basa ao hầm phát triển nhất. Khi đó, mọi người lũ lượt kéo nhau đào ao nuôi cá, mọi người nuôi cá, nhà nhà nuôi cá, nông dân từ trồng lúa chuyển sang nuôi cá, những nhà kinh doanh hoặc người làm công ăn lương, cán bộ công nhân viên Nhà nước cũng tranh thủ làm thêm nghề phụ là chăn nuôi cá tra-basa. Ai có đất thì cứ thế mà đào ao nuôi cá, ai không có đất thì mua đất để đào ao nuôi cá.
Nhưng không phải ai cũng có vốn để đầu tư cho loại hình chăn nuôi này, không kể những đại gia có sẵn vốn thì hầu hết người chăn nuôi cá tra-basa đều đi vay mượn để đào ao và chi phí thức ăn cho việc nuôi cá. Họ vay vốn dưới nhiều hình thức như : từ gia đình, bạn bè, những người cho vay nặng lãi, từ phía ngân hàng. Trong đó, vay vốn ngân hàng là hình thức được sử dụng nhiều nhất.
Bảng 7 : Tình hình dư nợ trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa tại NHCT Chi nhánh An Giang
Đvt : Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Tổng dư nợ trong hạn
723,268
659,782
839,723
+ Cho vay chăn nuôi cá tra-basa
69,995
50,383
90,280
+ Các ngành khác
653,273
609,399
749,443
(Nguồn : Báo cáo hoạt động ngân hàng của CN. NHCT AG năm 2005- 2007)
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Dư nợ (Trđ)
Tỷ trọng (%)
Dư nợ (Trđ)
Tỷ trọng (%)
Dư nợ (Trđ)
Tỷ trọng (%)
Tổng dư nợ trong hạn
723,268
100%
659,782
100%
839,723
100%
+ Cho vay chăn nuôi cá tra-basa
69,995
10%
50,383
8%
90,280
11%
+ Các ngành khác
653,273
90%
609,399
92%
749,443
89%
Chỉ tiêu
2006 so với 2005
2007 so với 2005
2007 so với 2006
Chênh lệch
%
Chênh lệch
%
Chênh lệch
%
Tổng dư nợ trong hạn
-63,486
-9%
116,455
16%
179,941
27%
+ Cho vay chăn nuôi cá tra-basa
-19,612
-28%
20,285
29%
39,897
79%
+ Các ngành khác
-43,874
-7%
96,170
15%
140,044
23%
Qua bảng số liệu 7 cho thấy, tình hình dư nợ trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa qua 03 năm đều tăng (năm 2006 giảm là do nguyên nhân đã nêu ở trên): năm 2007 tăng so với năm 2005 là 116.455 triệu đồng với tốc độ tăng là 16%, trong đó cho vay chăn nuôi cá tra-basa cũng tăng 20.285 triệu đồng với tốc độ tăng trưởng 29%. Từ đó cho thấy, tốc độ tăng dư nợ trong hạn của ngành nghề chăn nuôi cá tra-basa tăng nhanh hơn tốc độ tăng dư nợ trong hạn chung và trong tất cả các ngành nghề khác thì tỷ trọng dư nợ của nó năm 2007 chiếm tới 11%/Tổng dư nợ trong hạn của NHCT Chi nhánh An Giang (năm 2005 là 10%/Tổng dư nợ trong hạn và năm 2006 là 8%/Tổng dư nợ trong hạn). Điều này là do năm 2007 là năm đạt được nhiều thắng lợi lớn trong ngành chăn nuôi và chế biến xuất khẩu cá tra-basa.
Trong bảng số liệu 5 cho thấy, cơ cấu dư nợ trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa gồm dư nợ ngắn hạn và dư nợ trung-dài hạn. Trong đó, dư nợ cho vay ngắn hạn tăng dần (năm 2005 là 57.148 triệu đồng, năm 2006 là 45.801 triệu đồng và năm 2007 là 83.552 triệu đồng), còn dư nợ cho vay trung – dài hạn thì giảm dần (năm 2005 là 12.847 triệu đồng, năm 2006 là 4.582 triệu đồng và năm 2007 là 6.728 triệu đồng). Nguyên nhân của hiện tượng trên là do thị trường cá tra-basa là thị trường không ổn định, giá cả luôn luôn biến động nên việc cho vay trung – dài hạn đối với loại hình này sẽ mang lại rủi ro cao. Do vậy mà NHCT Chi nhánh An Giang đã hạn chế hình thức cho vay trung – dài hạn ở lĩnh vực này.
Ngoài ra, đa số những món vay chăn nuôi cá tra-basa đều là những món vay ngắn hạn vì theo quy định thì “Thời hạn cho vay : là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận tiền vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc, lãi tiền vay và phí (nếu có) đã được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng giữa NHCV và khách hàng, được xác định trên cơ sở chu kỳ sản suất kinh doanh của đối tượng vay”. Vì vậy, theo quy định trên thì cho vay chăn nuôi cá tra-basa thường có thời hạn từ 06 đến 09 tháng (do một chu kỳ nuôi cá tra-basa là 06 đến 09 tháng).
Theo quy định thì trong 02 nguyên tắc vay vốn ngân hàng có nguyên tắc “sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng”. Tuy nhiên, vì việc hạn chế cho vay trung – dài hạn nên các hộ chăn nuôi cá tra-basa đã vay ngắn hạn để đầu tư vào những máy móc thiết bị dùng cho chăn nuôi như : hệ thống điện bơm thức ăn, bơm nước ra vào hầm; tiền mua đất; chi phí cho việc đào hầm, cải tạo hầm, hệ thống xử lý nước thải,…đã làm phát sinh nợ quá hạn do sử dụng vốn vay không đúng mục đích.
Bảng 8 : Tình hình dư nợ quá hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa tại NHCT Chi nhánh An Giang
Đvt : Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Tổng dư nợ quá hạn
2,975
2,749
1,977
+ Cho vay chăn nuôi cá tra-basa
2,184
259
197
+ Các ngành khác
791
2,490
1,780
(Nguồn : Báo cáo hoạt động ngân hàng của CN. NHCT AG năm 2005- 2007)
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Dư nợ (Trđ)
Tỷ trọng (%)
Dư nợ (Trđ)
Tỷ trọng (%)
Dư nợ (Trđ)
Tỷ trọng (%)
Tổng dư nợ quá hạn
2,975
100%
2,749
100%
1,977
100%
+ Cho vay chăn nuôi cá tra-basa
2,184
73%
259
9%
197
10%
+ Các ngành khác
791
27%
2,490
91%
1,780
90%
Chỉ tiêu
2006 so với 2005
2007 so với 2005
2007 so với 2006
Chênh lệch
%
Chênh lệch
%
Chênh lệch
%
Tổng dư nợ quá hạn
-226
-7.6%
-998
-34%
-772
-28%
+ Cho vay chăn nuôi cá tra-basa
-1,925
-88%
-1,987
-91%
-62
-24%
+ Các ngành khác
1,699
215%
989
125%
-710
-29%
Nhìn vào bảng số liệu 8 thì tình hình NQH cho vay chăn nuôi cá tra-basa diễn biến như sau :
+ Năm 2005, NQH là 2.184 triệu đồng, chiếm 73%/Tổng NQH. Thời điểm này, phát sinh NQH chủ yếu là NQH cho vay chăn nuôi cá bè của Chi nhánh NHCT thị xã Châu Đốc. Nguyên nhân phát sinh NQH của NHCT Chi nhánh Châu Đốc là do trong năm 2004, ở thời điểm sắp thu hoạch cá thì cá bị dịch bệnh chết hàng loạt, nhiều người chăn nuôi bị thua lỗ thậm chí bị phá sản. Trong khi đó, ngân hàng lại nhận chính những nhà bè nuôi cá trên sông làm TSĐB nên khi gặp rủi ro ngân hàng phát mãi tài sản không được do không có người mua hoặc phát mãi được nhưng với giá trị rất thấp so với giá trị tại thời điểm cho vay (thường khoảng 30% so với thời điểm cho vay) nên phần NQH trên đến năm 2005 vẫn chưa thu hồi được.
+ Năm 2006, NQH chỉ còn 259 triệu đồng, chiếm 9%/Tổng NQH, giảm tới 1.925 triệu đồng so với năm 2005 tương ứng với tỷ lệ giảm là 88%. Nguyên nhân chính vẫn là do Chi nhánh NHCT thị xã Châu Đốc tách ra khỏi NHCT Chi nhánh An Giang. Vì vậy mà phần NQH cho vay chăn nuôi cá bè của Chi nhánh NHCT Châu Đốc đã được chuyển về cho Chi nhánh Châu Đốc quản lý.
+ Năm 2007, NQH là 197 triệu đồng, chiếm 10%/Tổng NQH, giảm 62 triệu đồng so với năm 2006 tương ứng với tỷ lệ giảm là 24%. Năm 2007, cho vay chăn nuôi cá tra-basa chủ yếu là cho vay ngắn hạn, hạn chế áp dụng loại hình cho vay trung – dài hạn đối với ngành nghề này, nên NQH phát sinh một phần là do sử dụng vốn không đúng mục đích (sử dụng vốn vay ngắn hạn để đầu tư vào MMTB), một phần nữa là do tình hình thị trường cá tra-basa cũng còn nhiều biến động. Mặc dù năm 2007 là năm thắng lợi lớn của ngành chăn nuôi và chế biến xuất khẩu cá tra-basa nhưng trong năm cũng có những thời điểm thị trường biến động theo hướng bất lợi cho người chăn nuôi, những hộ nào có kinh nghiệm, có vốn, hiểu biết thị trường thì sẽ trụ được lâu dài, ngược lại sẽ bị lỗ thậm chí bị phá sản không trả được nợ vay ngân hàng.
Mặc dù năm 2007 là năm xuất khẩu cá tra-basa gặp nhiều thuận lợi, nhiều ngư dân đã thắng lớn, tuy nhiên vẫn phát sinh NQH trong cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa nhưng ở mức thấp và có khả năng thu hồi được là do ngân hàng đã đánh giá được phần nào rủi ro trong cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa nên đã áp dụng một số biện pháp hạn chế rủi ro và chỉ mở rộng cho vay theo xu hướng của thị trường cá tra-basa (tình hình xuất khẩu cá tra-basa ổn định hoặc phát triển thì ngân hàng mở rộng cho vay, ngược lại ngân hàng thu hẹp cho vay để hạn chế những rủi ro phát sinh) mà vẫn chưa đưa ra được những giải pháp cụ thể nào dành riêng cho hoạt động cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa.
Bảng 9 : Tình hình dư nợ cho vay chăn nuôi cá tra-basa của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang
Đvt : Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Tổng dư nợ của các TCTD trên địa bàn tỉnh AG
7,472,952
8,989,848
13,444,716
+ Ngành thủy sản
559,117
618,287
1,157,993
* Cho vay chăn nuôi cá tra-basa
475,249
525,540
810,595
(Nguồn : Báo cáo của NHNN tỉnh AG năm 2005, 2006 và 2007)
Bảng 10 : Tình hình dư nợ cho vay chăn nuôi cá tra-basa của NHCT Chi nhánh An Giang trên địa bàn tỉnh An Giang
Đvt : Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Tổng dư nợ cho vay chăn nuôi cá tra-basa trên địa bàn tỉnh AG.
475,249
525,540
810,595
+ Chi nhánh NHCT An Giang
69,995
50,383
90,280
+ Tỷ trọng
15%
10%
11%
(Nguồn : Báo cáo của NHNN tỉnh An Giang năm 2005, 2006 và 2007)
Trên đây là tình hình dư nợ cho vay trong hạn và dư nợ quá hạn của hoạt động cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa tại NHCT Chi nhánh An Giang, nếu so với Tổng dư nợ trong hạn cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang thì dư nợ trong hạn cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa của NHCT Chi nhánh An Giang chỉ chiếm một phần nhỏ (bảng số liệu 9 và 10). Cụ thể như sau :
+ Năm 2005, TDN trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang là 475.249 triệu đồng, trong khi đó TDN trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa tại NHCT Chi nhánh An Giang là 69.995 triệu đồng chiếm 15%/TDN trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang.
+ Năm 2006, TDN trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang là 525.540 triệu đồng, trong khi đó TDN trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa tại NHCT Chi nhánh An Giang là 50.383 triệu đồng chiếm 10%/TDN trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang.
+ Năm 2007, TDN trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang là 810.595 triệu đồng, trong khi đó TDN trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa tại NHCT Chi nhánh An Giang là 90.280 triệu đồng chiếm 11%/TDN trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang.
Qua diễn biến tình hình dư nợ trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa tại NHCT Chi nhánh An Giang cho thấy : đối với một tỉnh có lợi thế về chăn nuôi cá tra-basa như hiện nay và dư nợ trong hạn cho vay ngành thủy sản trên địa bàn tỉnh An Giang chủ yếu là dư nợ trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa thì dư nợ trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa của NHCT Chi nhánh An Giang – một trong những NHTMNN lớn trên địa bàn tỉnh An Giang – chiếm một tỷ trọng rất thấp (trung bình chỉ chiếm 12%/TDN trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang). Nguyên nhân là do NHCT Chi nhánh An Giang đã nhận thức được những rủi ro trong cho vay chăn nuôi cá tra-basa tại Chi nhánh NHCT Châu Đốc nên kể từ năm 2006 điều kiện cho vay chăn nuôi hộ cá tra-basa có phần gắt gao hơn và hạn chế hơn, chủ yếu là cho vay theo xu hướng của thị trường cá tra-basa.
Bảng 11 : Tình hình dư nợ quá hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang
Đvt : Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Tổng dư nợ quá hạn của các TCTD trên địa bàn tỉnh AG
225,000
223,000
176,000
+ Ngành thủy sản
10,928
10,148
5,165
* Cho vay chăn nuôi cá tra-basa
9,288
8,625
4,132
(Nguồn : Báo cáo của NHNN tỉnh An Giang năm 2005, 2006 và 2007)
Do tính rủi ro của ngành nghề cá tra-basa nên các ngân hàng rất thận trọng trong cho vay chăn nuôi cá tra-basa. Qua bảng số liệu bảng 11 cho thấy trong Tổng NQH của ngành thủy sản thì đa số là NQH của loại hình cho vay chăn nuôi cá tra-basa. Tuy nhiên, NQH đối với cho vay chăn nuôi cá tra-basa đã giảm trong giai đoạn 2005 – 2007. Dư nợ cho vay chăn nuôi cá tra-basa trên địa bàn tỉnh An Giang thì tăng còn NQH thì giảm, một mặt do các ngân hàng thận trọng hơn trong việc cho vay chăn nuôi cá tra-basa, mặt khác do giai đoạn 2005 – 2007 là giai đoạn phát triển thuận lợi của con cá tra-basa nên hầu hết những người chăn nuôi đều thu được lợi.
Bảng 12 : Tình hình dư nợ quá hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa của NHCT CN An Giang trên địa bàn tỉnh An Giang
Đvt : Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Tổng dư nợ quá hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa trên địa bàn tỉnh AG
9,288
8,625
4,132
+ Chi nhánh NHCT An Giang
2,184
259
197
+ Tỷ trọng
24%
3%
5%
(Nguồn : Báo cáo của NHNN tỉnh An Giang năm 2005, 2006 và 2007)
Năm 2005, trong tổng NQH cho vay chăn nuôi cá tra-basa trên địa bàn tỉnh An Giang thì NQH của NHCT Chi nhánh An Giang đã chiếm tới 24%. Nguyên nhân chính vẫn do NQH của Chi nhánh Châu Đốc – địa phương chăn nuôi cá tra-basa nhiều nhất của tỉnh An Giang. Năm 2006, tỷ trọng NQH cho vay chăn nuôi cá tra-basa tại NHCT Chi nhánh An Giang giảm xuống chỉ còn 3%/Tổng NQH trên địa bàn tỉnh An Giang nhưng đến năm 2007 NQH lại tăng lên 5%. Kết hợp với bảng số liệu 10 thấy được nguyên nhân của việc tăng NQH này là do dư nợ cho vay chăn nuôi cá tra-basa của NHCT Chi nhánh An Giang đã tăng lên. Như vậy, tăng số lượng cho vay chưa chú trọng nhiều đến chất lượng cho vay.
Hiện nay, ngành thủy sản mà đặc biệt là chăn nuôi cá tra-basa (cá tra-basa: một loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng quý giá) là một trong những thế mạnh của ĐBSCL nói chung, của tỉnh An Giang nói riêng và được các nước trên thế giới biết đến, nhất là trong giai đoạn hiện nay Việt Nam vừa gia nhập WTO thì việc mở rộng phát triển sản lượng cá tra-basa cả về lượng và về chất là rất cần thiết để đáp ứng cho nhu cầu thực phẩm trong nước và xuất khẩu. Để làm được điều này cần phải có sự phối hợp tốt giữa 04 nhà, trong đó nhà nông là lực lượng nồng cốt trong việc phát triển ngành nghề này, còn ngân hàng là một trong các nhà doanh nghiệp hỗ trợ về vốn tốt nhất cho nhà nông vì đa số những người chăn nuôi cá tra-basa đều thiếu vốn cho một chu kỳ nuôi. Tuy nhiên, một mặt mở rộng tín dụng cho những người chăn nuôi cá tra-basa, mặt khác phải đảm bảo chất lượng tín dụng bằng những biện pháp giảm thiểu rủi ro trong cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa, hạn chế phát sinh NQH đến mức thấp nhất.
Trong những năm qua, nghề chăn nuôi cá tra-basa đã khẳng định được vị thế của mình, đây là thế mạnh của Đồng bằng Sông Cửu Long sau nông nghiệp nên Chính phủ rất quan tâm và tạo điều kiện để phát triển nghề này. Đặc biệt trong những tháng đầu năm 2008 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã dành khoảng 1.000 tỷ đồng để mua cá tra-basa quá lứa tại các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long tạo điều kiện cho người chăn nuôi vượt qua khó khăn. Tuy nhiên, việc thực thi chính sách này của Ngân hàng Nhà nước các Ngân hàng Thương mại được giao nhiệm vụ thực hiện còn rất hạn chế, chưa đạt kế hoạch đề ra, có nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là do Ngân hàng Nhà nước đã có chủ trương nhưng chưa có các giải pháp cụ thể để thực hiện.
2.5 NHỮNG NGUYÊN NHÂN CHỦ YẾU DẪN ĐẾN RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY HỘ CHĂN NUÔI CÁ TRA-BASA TẠI NHCT CHI NHÁNH AN GIANG
ĐBSCL nói chung và tỉnh An Giang nói riêng là vùng sản xuất nông nghiệp, thủy sản hàng hóa lớn nhất cả nước. Với khoảng 50% sản lượng lúa, 52% sản lượng thủy sản và đóng góp khoảng 90% sản lượng gạo xuất khẩu, chiếm 60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Kinh tế vùng tăng trưởng khá cao, GDP bình quân giai đoạn 2001 – 2005 tăng gần 11%/năm, đứng thứ ba (sau vùng Đông Nam Bộ - 39,9%; vùng Đồng bằng Sông Hồng – 22,8%) và đang dịch chuyển theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu, phát triển dịch vụ thương mại và du lịch. Cụ thể : GDP tăng bình quân 11% - 12%/năm; Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 20%/năm; Cơ cấu GDP với trên 30% dịch vụ, gần 30% công nghiệp và xây dựng, 40% nông lâm ngư nghiệp.
Riêng NTTS, toàn khu vực hiện có 1.100.000 ha, chiếm 55% tổng diện tích NTTS cả nước (2.000.000 ha). Hơn 10 năm qua, diện tích NTTS tăng 2,37 lần, sản lượng tăng 3,68 lần ; tốc độ dịch chuyển cơ cấu sản xuất nông nghiệp sang NTTS đang diễn ra rất sôi động. Trong đó, ngoài tôm sú thì cá tra-basa đóng góp rất lớn vào kim ngạch xuất khẩu thủy sản, năm 2007 xuất khẩu thủy sản đạt 3.600 triệu USD; công nghiệp chế biến chiếm khoảng 80% giá trị sản lượng công nghiệp toàn vùng. Diện tích nuôi cá tra-basa tăng 7 lần (từ 1.200 ha tăng lên 9.000ha), sản lượng tăng 36,2 lần (từ 22.500 tấn tăng lên 825.000 tấn); toàn vùng có 70 nhà máy chế biến với công suất khoảng 1.500.000 tấn/năm, giá trị sản phẩm chế biến xuất khẩu tăng 40 lần (từ dưới 20 triệu USD lên 736,8 triệu USD), chiếm 40% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản.
Tính đến cuối năm 2007, tổng dư nợ cho chăn nuôi cá tra-basa của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang đạt 810.595 triệu đồng, tăng 54% (tương đương tăng 285.055 triệu đồng so với năm 2006), trong đó, riêng Vietinbank chi nhánh An Giang là 83.552 triệu đồng, tăng 82% (tương đương tăng 37.751 triệu đồng so với năm 2006). Tuy nhiên, mức dư nợ cho vay trên chưa tương xứng với kim ngạch xuất khẩu cũng như thế mạnh và tổng dư nợ cho vay của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang nói chung (chiếm 10% trong tổng dư nợ cho vay) và của Vietinbank chi nhánh An Giang nói riêng. Vậy đâu là nguyên nhân?
Vì vậy cần phải nghiên cứu, phân tích để tìm ra những giải pháp phù hợp trong cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa nhằm giảm thiểu những rủi ro tín dụng trong khi cho vay. Từ đó mở rộng tăng trưởng tín dụng trong lĩnh vực này phù hợp với định hướng phát triển của cả nước, của NHCT Việt Nam nói chung và của NHCT chi nhánh An Giang nói riêng. Vì đây là một trong những thế mạnh và tiềm năng của khu vực kinh tế ĐBSCL trong đó có An Giang, là lĩnh vực đầu tư truyền thống của Vietinbank chi nhánh An Giang bên cạnh việc đầu tư cho ngành lương thực.
2.5.1 Nguyên nhân khách quan
- Mất cân đối cung cầu cá tra-basa nguyên liệu
Toàn vùng ĐBSCL có 70 Nhà máy chế biến, với công suất khoảng 1.500.000 tấn/năm. Tuy nhiên việc phát triển Nhà máy chế biến chưa theo quy hoạch; còn mang tính tự phát cả trong phát triển Nhà máy chế biến và vùng nguyên liệu. Điều này có thể dẫn đến rủi ro mất cân đối cung cầu nguyên liệu và thị trường xuất khẩu.
- Thị trường tiêu thụ cá tra-basa chủ yếu là thị trường nước ngoài
Sản phẩm chủ yếu là xuất khẩu (khoảng 80% sản lượng chế biến) nên phụ thuộc nhiều vào thị trường nước ngoài, thị trường tiêu thụ trong nước còn hạn chế. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp luôn phải đối mặt với nguy cơ kiện bán phá giá hay vi phạm các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm trong chăn nuôi cá tra-basa của những người chăn nuôi mà tác hại của những vấn đề trên là không nhỏ và thực tế đã từng xảy ra.
- Sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp
Sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp trong việc hạ hoặc tăng giá thu mua nguyên liệu hay giá bán làm ảnh hưởng không nhỏ đến những người chăn nuôi cá tra-basa, cạnh tranh giữa các ngân hàng trong việc hạ thấp các tiêu chuẩn cho vay, lãi suất,…
- Thiếu sự liên kết giữa các doanh nghiệp
Giữa các doanh nghiệp thiếu sự liên kết để tạo thêm sức mạnh trong cạnh tranh hay giải quyết tình trạng thừa nguyên liệu cục bộ tạm thời tác động đến giá cả thu mua nguyên liệu của những người chăn nuôi; Các doanh nghiệp còn gây khó khăn cho người nuôi khi nguồn nguyên liệu dồi dào. Điều này tác động xấu đến người nuôi – nhà chế biến.
- Tốc độ phát triển quá nhanh về diện tích và số người chăn nuôi làm mất cân bằng sinh thái
Tốc độ phát triển quá nhanh về diện tích và số người nuôi làm mất cân bằng sinh thái, ảnh hưởng đến môi trường, gây nên dịch bệnh cho cá; Tình trạng “Nhà nhà nuôi cá” bất kể có đúng quy trình, kỹ thuật hay không dẫn đến tình trạng chất lượng cá không đảm bảo do nhiễm hóa chất, vi sinh đã làm giảm chất lượng hàng xuất khẩu, ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ; Nhiều hộ nuôi nhỏ lẻ, manh mún rất dễ gặp rủi ro khi thị trường tiêu thụ gặp khó khăn.
- Nhu cầu vốn luôn quá cao so với các điều kiện về đảm bảo tiền vay của ngân hàng
Nhu cầu vốn vay của người chăn nuôi kể cả nhu cầu vốn cho đầu tư máy móc thiết bị thì luôn quá cao so với các điều kiện về bảo đảm tiền vay của ngân hàng nên đã có nhiều phương án, dự án không thực hiện được và ngân hàng khó có thể cho vay hoặc nếu cho vay thì ngân hàng sẽ gặp nhiều rủi ro.
- Thiếu quy hoạch tổng thể, thiếu chiến lược phát triển ngành nghề dẫn đến tình trạng phát triển tự phát
Tại An Giang – địa phương chăn nuôi cá tra-basa nhiều nhất khu vực ĐBSCL – còn thiếu quy hoạch tổng thể, thiếu chiến lược phát triển ngành nghề dẫn đến tình trạng phát triển tự phát. Vai trò của Hiệp Hội nghề cá Việt Nam, Hiệp hội nghề nuôi và chế biến thủy sản chưa rõ nét trong việc nuôi trồng, xây dựng vùng quy hoạch, làm cầu nối giữa người nuôi và doanh nghiệp chế biến hay trong kiểm tra giám sát chất lượng,…
- Sự phụ thuộc quá nhiều vào đồng đô la Mỹ
Đa số các doanh nghiệp chế biến ở Việt Nam rất thường sử dụng đồng đô la Mỹ trong xuất khẩu. Điều này rất dễ dẫn đến nhiều rủi ro trong kinh doanh của các doanh nghiệp nhất là trong những lúc đồng đô la Mỹ giảm giá. Tình trạng này sẽ làm cho các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cá tra-basa gặp nhiều khó khăn trong thu mua cá nguyên liệu và trang trải các chi phí sản xuất khác. Hậu quả là người chăn nuôi phải gánh chịu nhiều thiệt hại do nguồn cá nguyên liệu không bán được, bị tồn đọng lại do các nhà máy chế biến không thu mua cá nguyên liệu. Nếu có thu mua thì sẽ thu mua theo giá rất thấp, người chăn nuôi dù bán hay không vẫn phải gánh chịu thiệt hại.
Ngoài những nguyên nhân chủ yếu ở trên thì chính những đặc điểm của ngành nghề chăn nuôi cá tra-basa như : thiếu kinh nghiệm, thiếu hiểu biết, chỉ thấy lợi ích trước mắt,…cũng là những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay chăn nuôi cá tra-basa.
2.5.2 Nguyên nhân chủ quan
- Định giá tài sản đảm bảo tiền vay quá cao so với giá trị thực tế của nó
Do tốc độ phát triển diện tích nuôi quá nhanh dẫn đến tình trạng giá đất tăng không có cơ sở và gấp nhiều lần so với khung giá do Nhà nước quy định (bình thường 1.000m2 ao nuôi chỉ có vài chục triệu đồng nhưng vào thời điểm ngành nghề chăn nuôi cá tra-basa gặp nhiều thuận lợi, mọi người kéo nhau đào ao nuôi cá thì giá đất có khi tăng đến 100 triệu đồng/1.000m2. Nhưng nếu nuôi thất bại, người chăn nuôi không trả được nợ, ngân hàng sẽ phát mãi tài sản để thu hồi nợ thì số diện tích đất này – tài sản chủ yếu dùng làm đảm bảo cho ngân hàng – rất khó bán được do không có thị trường hoặc bán với giá rất thấp.
- Ngân hàng nhận chính quyền sử dụng đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản làm tài sản đảm bảo
Đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản thường có giá trị rất thấp (tính thanh khoản thấp) do tính năng sử dụng của nó nhưng khi cho vay ngân hàng thường nhận chính quyền sử dụng đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản để làm tài sản đảm bảo cho khoản vay của người vay mà không kết hợp với những hình thức bảo đảm khác (thế chấp quyền sử dụng đất hoặc quyền sở hữu nhà ở có tính thanh khoản cao hoặc bảo lãnh,...). Khi xảy ra rủi ro không đảm bảo thu hồi được nợ.
- Lãi suất cho vay thường cao hơn các ngành nghề khác
Do mức độ rủi ro của ngành nghề chăn nuôi cá tra-basa nên ngân hàng thường áp dụng lãi suất cho vay rất cao so với các ngành nghề khác nên khi người chăn nuôi gặp khó khăn thì việc lãi suất cho vay cao sẽ càng gây khó khăn hơn cho người chăn nuôi trong việc trả nợ gốc và nợ lãi cho ngân hàng.
- Cán bộ tín dụng chưa thường xuyên kiểm tra việc sử dụng vốn vay sau khi giải ngân
Sau khi cho vay, cán bộ tín dụng thường ít khi kiểm tra sử dụng vốn vay của khách hàng xem người vay có sử dụng tiền vay đúng mục đích hay không, thời điểm khách hàng bán cá và giá cả như thế nào để thu hồi vốn vay. Nếu không thường xuyên kiểm tra thì sau khi bán cá khách hàng có thể trả nợ cho người khác trước mà không ưu tiên trả nợ cho ngân hàng vì để đáp ứng đủ nhu cầu vốn nuôi cá người chăn nuôi thường vay tiền từ nhiều nguồn khác nhau.
- Trình độ của cán bộ tín dụng về ngành nghề chăn nuôi cá tra-basa còn yếu kém
Ngành nghề chăn nuôi cá tra-basa tuy không phải là một ngành nghề mới mà đã có từ rất lâu nhưng ít được biết đến nhiều như hiện nay. Chăn nuôi cá tra-basa đầu tiên là để đáp ứng nhu cầu thực phẩm cho những hộ gia đình nông thôn đến nay chăn nuôi cá tra-basa để đáp ứng nhu cầu cá nguyên liệu cho các NMCB xuất khẩu thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước. Vì vậy mà ngày nay, ngành nghề này ngày càng phát triển và trở nên phổ biến hơn. Nhu cầu vốn cho ngành nghề này cũng ngày càng nhiều hơn nhất là nhu cầu vốn vay ngân hàng. Chăn nuôi cá tra-basa đã trở thành đối tượng vay vốn của ngân hàng.
Tuy nhiên, trình độ hiểu biết về ngành nghề chăn nuôi cá tra-basa của cán bộ tín dụng còn nhiều yếu kém. Đa số cán bộ tín dụng đều không có kiến thức về con cá tra-basa và những rủi ro trong chăn nuôi mà những rủi ro này có thể dẫn đến rủi ro tín dụng trong khi cho vay để từ đó giúp khách hàng và ngân hàng phòng ngừa, mặt khác cũng gây khó khăn cho cán bộ tín dụng trong việc kiểm tra sử dụng vốn vay của khách hàng.
- Việc thực thi các chủ trương chính sách của Nhà nước chưa đồng bộ :
Trong 06 tháng đầu năm 2008, tình hình cá tra-basa gặp nhiều khó khăn trong chăn nuôi cũng như trong chế biến xuất khẩu do sự bất ổn định về tình hình kinh tế xã hội. Trước tình hình đó, NHNN đã giao chỉ tiêu 1.000 tỷ đồng phân bổ cho các NHTM giải ngân ưu tiên giúp cho các DNCB và người chăn nuôi cá tra-basa vượt qua khó khăn. Tuy nhiên, việc giải ngân chưa được thực hiện đồng bộ giữa các NHTM, các DNCB và người chăn nuôi do các nguyên nhân sau :
+ Đối với ngành ngân hàng : NHNN đã giao chỉ tiêu cho các NHTM phải cho vay thu mua cá tra-basa quá lứa trong dân nhưng việc cho vay tại các NHTM lại thực hiện theo thể lệ tín dụng hiện hành (điều kiện cho vay, lãi suất cho vay,…). Nếu rủi ro xảy ra thì phải trích lập dự phòng rủi ro làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh tại các ngân hàng cho vay nên các NHTM rất thận trọng trong cho vay, mặc dù đã được sự chỉ định của NHNN.
+ Đối với doanh nghiệp chế biến : thực hiện theo chủ trương mua cá quá lứa của NHNN thì các doanh nghiệp đầu mối phải thu mua theo chủ trương nhưng các doanh nghiệp chỉ cthực hiện cầm chừng. Nguyên nhân của tình trạng này là do việc xuất khẩu cá tra-basa phải tùy thuộc vào thị trường tiêu thụ ở nước ngoài yêu cầu (kích cỡ cá, chất lượng thịt cá,…), mặt khác thủy sản xuất khẩu dự trữ trong kho cũng phải có thời gian, sức chứa của các kho đông lạnh cũng có hạn, lãi suất cho vay của Ngân hàng theo lãi suất cho vay thương mại (không ưu đãi lãi suất),… làm cho chi phí xuất khẩu tăng lên trong khi giá cá xuất khẩu không tăng, nếu doanh nghiệp mua càng nhiều thì rủi ro càng cao. Khi doanh nghiệp gặp rủi ro xảy ra thì Chính phủ tạo điều kiện cho doanh nghiệp như thế nào cũng chưa có các giải pháp cụ thể, tạo điều kiện để doanh nghệp an tâm thực hiện chủ trương chính sách của Nhà nước.
+ Đối với các hộ ngư dân : được ngân hàng xem xét cho gia hạn nợ nhưng với lãi suất cho vay như hiện nay cộng thêm giá thức ăn tăng lên từng ngày,…làm cho giá thành 1kg cá tăng lên trong khi giá bán không tăng mà giảm từng ngày. Từ đó, những người chăn nuôi đang gặp khó khăn lại càng khó khăn thêm.
Kết luận chương II : Có nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa, cả khách quan lẫn chủ quan và những nguyên nhân được nêu ra trên đây là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro trong cho vay chăn nuôi cá tra-basa tại NHCT Chi nhánh An Giang. Qua phân tích các số liệu ta thấy được trong tổng NQH cho vay thuỷ sản của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang thì NQH của ngành nghề chăn nuôi cá tra-basa luôn chiếm tỷ trọng cao. Trong đó có NHCT Chi nhánh An Giang, mặc dù dư nợ cho vay chăn nuôi cá tra-basa của Chi nhánh tăng trong giai đoạn 2005 – 2007 nhưng NQH lại giảm. Điều này chứng tỏ hoạt động cho vay chăn nuôi cá tra-basa ngày càng được Chi nhánh chú trọng hơn cả về số lượng lẫn chất lượng, tuy nhiên việc cho vay ngành nghề này còn phụ thuộc nhiều vào xu hướng thị trường của con cá tra-basa (thị trường thuận lợi cho con cá tra-basa thì Chi nhánh mở rộng cho vay, ngược lại thu hẹp cho vay) do tính chất còn nhiều rủi ro của ngành nghề. Xuất phát từ việc nhận thấy những rủi ro do một số nguyên nhân trên gây ra nên Chi nhánh chưa mạnh dạng trong cho vay và chưa chủ động trong xây dựng chiến lược đầu tư cho vay ngành nghề này.
CHƯƠNG III
NHỮNG GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CHO VAY HỘ CHĂN NUÔI CÁ TRA-BASA TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHI NHÁNH AN GIANG
3.1 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA NHCT CHI NHÁNH AN GIANG TRONG NĂM 2008
3.1.1 Định hướng chung
Tiếp tục thực hiện phương châm “ Phát triển - an toàn - hiệu quả”, chi nhánh NHCT An Giang xây dựng kế hoạch kinh doanh năm 2008 như sau :
- Về nguồn vốn huy động : tốc độ tăng trưởng nguồn vốn đến cuối năm là 15% so với đầu năm.
- Về tổng dư nợ cho vay nền kinh tế : tốc độ tăng trưởng dư nợ đến cuối năm là 20% so với đầu năm (trong đó dư nợ cho vay cá tra-basa chiếm 15%/Tổng dư nợ cho vay) và tăng trưởng tín dụng phải đi đối với chất lượng tín dụng.
- Số dư nợ xấu : dưới 2 tỷ đồng.
- Thu dịch vụ : 3 tỷ đồng.
- Lơi nhuận (đã trích dự phòng rủi ro) : 30 tỷ đồng.
3.1.2 Định hướng cụ thể
- Về công tác huy động vốn : Có tăng trưởng nguồn vốn thì mới có thể chủ động trong việc cho vay và đầu tư. Đẩy mạnh khai thác, tăng trưởng nguồn vốn (cả nội tệ và ngoại tệ) theo hướng đa dạng hóa nguồn vốn, cơ cấu kỳ hạn và lãi suất hợp lý, tăng tỷ trọng các nguồn vốn có lãi suất đầu vào thấp.
- Tích cực tăng trưởng tín dụng đầu tư, phát triển dư nợ mới, khách hàng mới, đảm bảo chất lượng, an toàn, hiệu quả, bền vững. Tiếp cận và triển khai mở rộng hoạt động tín dụng nhắm vào khách hàng có tình hình sản suất kinh doanh ổn định, phát triển, tài chính lành mạnh để xây dựng cơ cấu tín dụng có khả năng sinh lời cao.
- Tập trung phân tích đánh giá một số nhóm khách hàng, đề xuất định hướng, chiến lược đầu tư đặc biệt, chiến lược đầu tư tín dụng đối với lĩnh vực chăn nuôi cá tra-basa – một ngành chủ lực của tỉnh nói riêng và của ĐBSCL nói chung. Nâng tỷ trọng cho vay cá tra-basa đối với các khách hàng có kinh nghiệm, có TSBĐ ổn định, có Hợp đồng bao tiêu sản phẩm và là hội viên của Hội nghề cá tỉnh An Giang.
- Huy động vốn và phát triển sản phẩm dịch vụ cụ thể đối với từng nhóm khách hàng.
- Triệt để thu hồi các khoản nợ xấu, nợ ngoại bảng, lành mạnh hóa tình hình tài chính.
- Phát triển các sản phẩm dịch vụ thanh toán hiện đại, mở rộng thanh toán song biên, mở rộng phạm vi kết nối hệ thống thanh toán NHCT với các tổ chức tín dụng khác. Phát triển tăng thị phần phi tín dụng và các dịch vụ tài chính ngân hàng, cung ứng cho nền kinh tế với chất lượng cao và ổn định, có sự khác biệt và có tính cạnh tranh cao so với các NHTM khác, dịch vụ ngân hàng hoàn hảo. Nhanh chóng triển khai các tiện ích mới cho sản phẩm thẻ, phát hành thẻ chip, tăng số lượng thẻ tín dụng visa master card,…
- Xây dựng phong cách văn hóa, lề lối làm việc, kỹ cương trong toàn chi nhánh, đề cao nguyên tắc, kỹ luật, kỹ cương trong quản trị điều hành; xác định rõ trách nhiệm của từng cán bộ trong quản trị hệ thống, có chính sách, chế độ thưởng phạt nghiêm minh,…
3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY HỘ CHĂN NUÔI CÁ TRA-BASA
Từ những nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong cho vay chăn nuôi cá tra-basa cho thấy là đầu tư, cho vay chăn nuôi cá tra-basa luôn gặp rủi ro. Vì thực tế lĩnh vực này đang phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng, tiềm năng còn rất lớn. Nhưng đứng về khía cạnh ngân hàng, việc xác định rủi ro của ngành, thận trọng trong cho vay khi xét thấy khoản vay dễ gặp rủi ro là cần thiết và phù hợp với định hướng phát triển. Hơn nữa trong thời gian gần đây, việc phát triển rất nhanh nghề nuôi cá tra-basa tại các địa phương dễ dẫn đến hệ quả xấu trong tương lai. Nên việc xuất hiện những rủi ro trong cho vay lĩnh vực này là điều dễ nhận thấy.
3.2.1 Trước tiên là giải pháp đối với Chính phủ về lĩnh vực chăn nuôi cá tra-basa
Rủi ro tín dụng trong việc cho vay lĩnh vực chăn nuôi cá tra-basa một phần xuất phát từ sự bất ổn định đối với lĩnh vực đó tạo nên. Chính sự phát triển ồ ạt mà không bền vững của ngành chăn nuôi cá tra-basa đã gây ra không ít sóng gió cho cả người chăn nuôi, các doanh nghiệp và cả môi trường sống, điển hình như : ô nhiễm môi trường, dịch bệnh trên cá, mất cân đối cung cầu cá nguyên liệu, lợi ích phân phối không đồng đều giữa Nhà nông và Nhà doanh nghiệp,…Vì vậy, muốn hạn chế những rủi ro có thể xảy ra trong cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa thì điều đầu tiên cần phải làm là giúp cho lĩnh vực chăn nuôi cá tra-basa phát triển một cách bền vững thông qua một số giải pháp sau :
3.2.1.1 Ứng dụng tiến bộ khoa học
a. Về nuôi trồng : Áp dụng tiến bộ khoa học của thế giới và khu vực, nâng cao công nghệ hiện có và nhập mới các công nghệ mới về nuôi trồng, thức ăn, xử lý và bảo vệ môi trường (công nghệ sinh học). Gia tăng đầu tư để hiện đại hóa cơ sở nghiên cứu chăn nuôi cá tra-basa nguyên liệu chất lượng cao, khuyến khích nhiều thành phần kinh tế đầu tư vào xây dựng và áp dụng quy trình nghiên cứu sản xuất giống chất lượng cao. Muốn vậy thì phải gia tăng ngân sách nhà nước cho nghiên cứu khoa học song song với việc gia tăng quá trình chuyển giao công nghệ từ các Viện, Trường, Trung tâm nghiên cứu ứng dụng tới người chăn nuôi cá tra-basa phù hợp với nhu cầu phát triển của tỉnh An Giang, của Việt Nam, của khu vực Đông Nam Á và trên thế giới.
b. Về chế biến : Đầu tư nâng cấp và xây dựng các Nhà máy chế biến cá tra-basa với công nghệ tiên tiến theo hướng gia tăng tỷ trọng các nhà máy chế biến, thực hiện quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO, HACCP, SQH,…nhằm gia tăng khối lượng các sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Bên cạnh đó, cũng phải xây dựng thương hiệu sản phẩm xuất khẩu trong nước và quốc tế.
3.2.1.2 Giải pháp thị trường
a. Thông tin dự báo thị trường : Thông tin thị trường (do các cơ quan chức năng thực hiện) phải cập nhật thường xuyên và phổ biến đến người chăn nuôi cá tra-basa trên những phương tiện truyền thông như báo, đài, trên trang web,…
b. Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước đối với thị trường :
- Lập kế hoạch về hoạt động của thị trường thủy sản nói chung và cá tra-basa nói riêng, xác định mục tiêu và xây dựng các chương trình hành động cho sản xuất, tiếp cận và tiêu thụ. Cụ thể là Chính quyền các cấp cơ sở, các tổ chức Hội, Hiệp hội địa phương cần thể hiện rõ hơn nữa vai trò, chức năng quản lý của mình đối với những người chăn nuôi cá tra-basa, nhất là trong trong công tác quản lý chất lượng cá nguyên liệu đầu vào từ khâu sản xuất con giống đến khâu nuôi trồng và cuối cùng là khâu chế biến của các DNCB.
- Kiểm tra chất lượng an toàn vệ sinh thú y thủy sản ở các cơ sở nuôi, các Nhà máy chế biến, sản phẩm xuất khẩu do Cục Chất lượng an toàn vệ sinh và thú y thủy sản (viết tắt là NAFIQAVED) đảm trách.
- Thu thập, xử lý, phân tích và lưu giữ số liệu thống kê về giá cả, một số mặt hàng được chế biến từ cá tra-basa trên thị trường để từ đó Nhà nước có thể kiểm soát được giá cả, biết được những mặt hàng mạnh và những mặt hàng yếu. Từ đó, phát huy những mặt hàng mạnh và loại bỏ những mặt hàng kém chất lượng.
- Trong thời gian qua vẫn diễn ra “một cuộc chiến thầm lặng” giữa những người chăn nuôi cá tra-basa và các DNCB, một cuộc chiến thu mua nguyên liệu. Nếu thị trường theo hướng có lợi cho các Nhà máy thì giá thu mua nguyên liệu sẽ do các Nhà máy quyết định, ngược lại sẽ do những ngư dân quyết định và đương nhiên lợi ích sẽ do người quyết định nắm giữ. Bất kể là Nhà máy thu mua nguyên liệu hay người chăn nuôi cá tra-basa chỉ cần có cơ hội thì họ sẽ tranh thủ giành hết lợi ích về cho mình dù cho giữa hai bên có ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm hay không, mạnh ai nấy “xé rào” mà không phải chịu bất kỳ một hình phạt nào do “vi phạm hợp đồng”. Vì vậy, Bộ Thương mại cần tăng cường hơn nữa chức năng quản lý thị trường để tình trạng trên không còn, giúp cho giá cá tra-basa nguyên liệu được ổn định hơn.
Xảy ra tình trạng trên là do Việt Nam chưa có một hành lang pháp lý rõ ràng nào cho lĩnh vực chăn nuôi cá tra-basa, việc quản lý còn lỏng lẻo, việc xử phạt chưa nghiêm minh. Trong thời gian tới, chính quyền các cấp cơ sở, các tổ chức Hội, Hiệp hội địa phương cần phải kiên quyết xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm, những doanh nghiệp có hiểu hiện gian lận thương mại giúp cho người chăn nuôi hạn chế những thiệt hại phát sinh do doanh nghiệp chế biến chèn ép giá.
c. Về tiêu thụ hàng hóa xuất khẩu và tiêu thụ hàng hóa nội địa :
- Tiêu thụ hàng hóa nội địa : Nhu cầu tiêu thụ sản phẩm thủy sản nói chung và cá tra-basa nói riêng ở nước ta ngày nay ngày càng tăng, sản phẩm cá tra-basa được người dùng ưa chuộng do những công dụng bổ ích của nó, với dân số khoản 80 triệu người Việt Nam là một thị trường tiêu thụ sản phẩm cá tra-basa lớn trong khu vực. Do đó, phát triển thị trường cá tra-basa nội địa là phát huy nội lực để phát triển ngành Thủy sản.
- Tiêu thụ hàng hóa xuất khẩu : Bốn thị trường lớn nhập khẩu sản phẩm cá tra-basa của Việt Nam là Mỹ, Nhật Bản, EU, Trung Quốc chiếm tỷ trọng cao (khoản ¾ tổng giá trị xuất khẩu thủy sản). Nhưng các thị trường này biến động nhiều, gây nhiều rủi ro, do vậy cần đa dạng hóa thị trường xuất khẩu cá tra-basa, đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu, khai thác chiều sâu các thị trường lớn. Đơn cử là “vụ kiện chống bán phá giá cá da trơn của Mỹ”. Trước vụ kiện chống bán phá giá cá da trơn của Mỹ đối với Việt Nam thì Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất, chiếm hơn 90% về sản lượng xuất khẩu và giá trị xuất khẩu cá tra-basa của Việt Nam. Sau khi xảy ra vụ kiện trên, trong một thời gian dài sản phẩm cá tra-basa của Việt Nam đã không xuất khẩu được. Như vậy, quá phụ thuộc vào một thị trường sẽ dễ rơi vào thế bị động.
3.2.1.3 Giải pháp về bảo vệ môi trường, phát triển bền vững
Ngày nay, lượng nước thải sử dụng trong quy trình nuôi trồng thủy sản thải ra môi trường nước tự nhiên (sông, kênh rạch) không qua xử lý là rất lớn (trong năm 2006 khoảng 1,1 tỷ m3; năm 2007 khoảng 2,2 tỷ m3; và dự kiến đến năm 2010 khoảng 5,1 tỷ m3).
Tình trạng ô nhiễm môi trường do các ngư dân cũng như của các DNCB gây ra vẫn còn tiếp diễn : ngư dân vì lợi ích trước mắt kéo nhau đào ao nuôi cá, còn các NMCB thì mọc lên hàng loạt mặc dù có hệ thống xử lý nước thải nhưng không đủ tiêu chuẩn nên nước thải ra môi trường ảnh hưởng đến những người dân sống xung quanh. Điều này cũng có ảnh hưởng đến chất lượng cá tra-basa nguyên liệu.
Vì vậy Nhà nước phải :
- Quản lý ngành Thủy sản nói chung và ngành chăn nuôi cá tra-basa nói riêng chặt chẽ. Cụ thể đối với mô hình nuôi ao hầm muốn hoạt động được phải có Giấy phép NTTS (phải có ao xử lý nước thải trong quá trình nuôi trước khi thải ra môi trường, phải có giấy phép xả nước thải ra môi trường, phải nằm trong quy hoạch NTTS của địa phương,…), phải có biện pháp xử lý cá chết khi hao hụt nhiều.
- Quy định nước thải của các Nhà máy chế biến phải được xử lý đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra môi trường xung quanh.
3.2.1.4 Giải pháp về thủy lợi
Quy hoạch và xây dựng hệ thống cấp nước, xả nước thải trong chăn nuôi cá tra-basa đối với những vùng chăn nuôi tập trung diện tích lớn.
3.2.1.5 Giải pháp về nhu cầu vốn
Nhu cầu vốn cho phát triển chăn nuôi cá tra-basa là rất lớn, khả năng đáp ứng là có hạn, hiện nguồn vốn cho nhu cầu phát triển là nguồn vốn tín dụng. Vì vậy Nhà nước cần có chính sách về vốn (tín dụng) cho người chăn nuôi để khuyến khích phát triển ngành chăn nuôi cá tra-basa.
3.2.1.6 Duy trì và gia tăng liên kết 04 nhà : Nhà nông, Nhà doanh nghiệp, Nhà khoa học và Nhà nước. Xác định rõ vai trò, vị trí của từng Nhà.
Trong tình hình hiện nay, nước ta đã gia nhập WTO thì việc sản xuất nhỏ lẻ thiếu liên kết là hình thức sản xuất sẽ không tồn tại lâu bền nhất là phải đối mặt với những khắt khe của thị trường trong nước cũng như thị trường xuất khẩu đòi hỏi các hộ nuôi riêng rẽ phải liên kết lại để tạo được môi trường tốt với chất lượng đều hơn đồng thời giảm chi phí sản xuất.
Vận động các doanh nghiệp chủ động gắn kết với người nuôi, tăng cường mối liên kết trên từng khâu, từng lĩnh vực nhất là Nhà nông luôn chịu nhiều thiệt thòi khi thị trường cá tra-basa có những biến động theo chiều hướng xấu do các DNCB còn được hưởng nhiều ưu đãi của Nhà nước mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn về xuất khẩu và hội nhập nhưng Nhà nông thì rất ít có cơ hội để được hưởng.
Sự phối hợp giữa người nuôi với các doanh nghiệp và Nhà khoa học trong tổ chức sản xuất một cách phù hợp góp phần làm tăng giá trị chất lượng sản phẩm và làm tăng sức mạnh cạnh tranh.
3.2.1.7 Nhanh chóng xác định quy hoạch phát triển nghề nuôi cá tra-basa ở ĐBSCL, không để tình trạng “quy hoạch của Nhà nước chạy theo dân”.
Muốn làm được như vậy, trước hết phải xác định cho được sức tải của 02 dòng sông Tiền và sông Hậu. Khi đó việc xây dựng quy hoạch mới chính xác mang lại hiệu quả cao.
Quy hoạch nhưng không hạn chế phát triển chăn nuôi cá tra-basa song khi nuôi phải gắn chặt với bảo vệ môi trường, xây dựng hệ thống cấp nước, nước xả trong chăn nuôi cá tra-basa đối với các vùng quy hoạch tập trung có diện tích lớn.
Bên cạnh đó, phải xây dựng các vùng nuôi gắn với chế biến theo tiêu chuẩn an toàn chất lượng, các vùng nuôi với nguyên liệu sạch, sinh thái theo tiêu chuẩn quốc tế mà thị trường cần.
3.2.1.8 Tăng cường công tác đào tạo và tập huấn kỹ thuật cho người chăn nuôi cá tra-basa, cán bộ kỹ thuật và cán bộ làm công tác khuyến ngư
Xác định rõ quan niệm “Nuôi cá tra-basa bây giờ để làm giàu, để thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước chứ không phải chỉ để xóa đói giảm nghèo”. Nó không phải là một tròi chơi may rủi: được thì phất, không được thì đi ăn mày”, không phải cứ bỏ vốn ra đào ao nuôi cá là sẽ mang lại lợi nhuận cao. Theo đó, người chăn nuôi phải có nhiều kinh nghiệm, có tay nghề, hiểu biết thị trường. Vì vậy phải :
- Thường xuyên tổ chức lớp tập huấn để quảng bá đối tượng nuôi, mô hình nuôi, kỹ thuật nuôi (chọn giống, cho ăn, phòng trị bệnh, thu hoạch,..) đến với người chăn nuôi. Từ đó, ngư dân sẽ hiểu được những tiêu chuẩn chất lượng nào mà thị trường đòi hỏi và chọn cho mình hướng chăn nuôi phù hợp với thị trường, tránh tình trạng nuôi tràn lan không có chất lượng.
Sau những lớp đào tạo như vậy, những hộ chăn nuôi cá tra-basa sẽ được cấp Giấy chứng nhận chứng minh họ đã có tham gia những lớp tập huấn kiến thức về chăn nuôi cá tra-basa. Nó được xem như một chứng chỉ hành nghề giống như các ngành nghề khác và các DNCB chỉ đồng ý thu mua cá tra-basa nguyên liệu đối với những hộ đã được cấp Giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn hành nghề chăn nuôi cá tra-basa. Nếu hộ chăn nuôi cá tra-basa nào vi phạm những tiêu chuẩn về nuôi cá tra-basa sạch gây ô nhiễm môi trường, nhẹ thì sẽ bị xử phạt hành chính, nặng thì bị tịch thu Giấy phép hành nghề, không được các DNCB tiếp tục thu mua cá nguyên liệu và ngân hàng không xem xét cho vay.
- Song song với việc đào tạo người chăn nuôi cá tra-basa thì việc đào tạo đội ngũ cán bộ khuyến ngư cũng không kém phần quan trọng, nên liên kết với các trường đại học đào tạo nhân viên khuyến ngư có trình độ chuyên môn giỏi. Ngư dân chỉ có thể làm tốt công việc của mình khi có đội ngũ cán bộ khuyến ngư nhiều kinh nghiệm, hiểu biết sâu về lĩnh vực chăn nuôi cá tra-basa, về chất lượng, về tiêu chuẩn an toàn vệ sinh, về các yếu tố môi trường,…mà thị trường đòi hỏi. Do đó, phải tăng cường nhân viên khuyến ngư ở các xã, huyện với mục đích hỗ trợ kỹ thuật cho ngư dân, thực hiện chuyển giao công nghệ đến ngư dân nhanh chóng và hiệu quả.
3.2.1.9 Về lâu và về dài nên thành lập “Trung tâm giao dịch cá tra-basa” ở khu vực ĐBSCL trong thời gian tới
Đối với cá tra-basa đã có sản xuất hàng hóa lớn nhưng năng lực quản lý chưa tương xứng. Vấn đề đặt ra là phải có cơ chế cho người chăn nuôi đăng ký hành nghề, đăng ký thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường, đảm bảo ATTP, ký kết HĐKT với các DNCB. Phải có định hướng và cơ chế đảm bảo hài hòa lợi ích giữa doanh nghiệp và người chăn nuôi.
Việc mua bán cần diễn ra công khai đạt đến hài hòa lợi ích đặc biệt là giúp người chăn nuôi tránh bị ép giá, tổ chức đấu giá công khai hóa và thị trường hóa quá trình định giá mua – bán cá nguyên liệu bằng vệc cho ra đời “sàn đấu giá công khai cho cá tra-basa nguyên liệu ở khu vực ĐBSCL” trong thời gian tới.
3.2.1.10 Nên thành lập quỹ bình ổn giá đối với lĩnh vực chăn nuôi cá tra-basa :
Ngành nghề chăn nuôi các tra-basa là một trong những thế mạnh của ĐBSCL, mang lại một nguồn ngoại tệ không nhỏ về cho đất nước, tạo công ăn việc làm không nhỏ cho người lao động. Tuy nhiên ngành nghề này cũng chứa đựng nhiều rủi ro.Vì vậy Chính phủ nên thành lập Quỹ bình ổn giá tạo điều kiện cho nghề này khi gặp khó khăn về giá như hiện nay.
3.2.2 Giải pháp đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
3.2.2.1 Hỗ trợ lãi suất cho vay và các chính sách tín dụng khác đối với các Ngân hàng Thương mại:
Khi Ngân hàng Thương mại thực hiện các chủ trương chính sách của N
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ND luan van co chinh sua3.doc