Tài liệu Luận văn Lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: LUẬN VĂN:
Lý luận của lênin về chủ nghĩa
tư bản nhà nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội
I . Lý luận của lênin về cntb nhà nước trong thời kỳ quá độ lên cnxh :
1. Sự cần thiết :
Khi cách mạng tháng mười vừa thành công thì chính quyền Xô viết phẩi đương
đầu với cuộc nội chiến và cuộc can thiệp cũ trang của cả chủ nghĩa đế quốc thế giới
.Đứng trước nguy cơ một mất một còn , chính quyền xô viết tìm mọi cách để tập trung
mọi lực lượng nhằm đánh bại những lực lượng thù địch bên trong và bên ngoài .Chính
sách “ Cộng sản thời chiến “ ra đời trong hoàn cảnh đó . Đó là chính sách kinh tế của
nhà nước Xô viết nhằm huy động mọi tài nguyên trong nước do nhu cầu của tiền tuyến
trong điều kiện nền kinh tế bị tàn phá sau cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất .
Chính sách thời chiến đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thắng lợi cho
cuộc nội chiến . Nhưng sau khi đập tan bọn vũ trang can thiệp và kết thúc nội chiến ,
tình hình kinh tế , chính trị , xã hội nướ...
13 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1072 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Lý luận của lênin về chủ nghĩa
tư bản nhà nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội
I . Lý luận của lênin về cntb nhà nước trong thời kỳ quá độ lên cnxh :
1. Sự cần thiết :
Khi cách mạng tháng mười vừa thành công thì chính quyền Xô viết phẩi đương
đầu với cuộc nội chiến và cuộc can thiệp cũ trang của cả chủ nghĩa đế quốc thế giới
.Đứng trước nguy cơ một mất một còn , chính quyền xô viết tìm mọi cách để tập trung
mọi lực lượng nhằm đánh bại những lực lượng thù địch bên trong và bên ngoài .Chính
sách “ Cộng sản thời chiến “ ra đời trong hoàn cảnh đó . Đó là chính sách kinh tế của
nhà nước Xô viết nhằm huy động mọi tài nguyên trong nước do nhu cầu của tiền tuyến
trong điều kiện nền kinh tế bị tàn phá sau cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất .
Chính sách thời chiến đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thắng lợi cho
cuộc nội chiến . Nhưng sau khi đập tan bọn vũ trang can thiệp và kết thúc nội chiến ,
tình hình kinh tế , chính trị , xã hội nước Nga rất bi đát .Đất nước lâm vào cuộc khủng
hoảng toàn diện trầm trọng . Đất nước Xô viết cần có những biện pháp mới , chiến
lược mới để khôi phục và phát triển vì chính sách “ Cộng sản thời chiến “ không còn
phù hợp . Thực tế cho thấy không thể thực hiện ngay CNXH mà cần phải lùi về
CNTBNN , từ bỏ biện pháp tấn công chính diện và bắt đầu một cuộc bao vây lâu dài .
Sự chuyển đổi ấy được đánh dấu bằng chính sách “ kinh tế mới “ .
Chính sách kinh tế mới nói chung , CNTBNN nói riêng ra đời là sự xuất phát từ
điều kiện thực tế và là sự tất yếu do hoàn cảnh kinh tế đề ra . Nước Nga là một nước
chậm tiến ở châu âu , cho nên nước Nga Xô viết chỉ mới có nguyện vọng tiên quyết
tiến lên con đường chxh mà chưa có nền móng kinh tế của nó .Trong một nước như
vậy theo lênin , cuộc cách mạng xhcn chỉ có thể thắng lợi với hai điều kiện : Điều kiện
thứ nhất là có sự ủng hộ kip thời của cách mạng xhcn ở một số nước tiên tiến . Điều
kiện thứ hai : là sự thoả thuận giữa giai cấp vô sản đang thực hiện sự chuyên chính của
mình hoặc đang nắm chính quyền nhà nước với đại da số nông dân .Lênin khẳng định :
chừng nào cách mạng chưa nổ ra ở các nước khác thì chỉ có thoả thuận với nông dân
mới có thể cứu vãn được cuộc cách mạng xhcn . Đó là lý do phải quay về tư bản nhà
nước .
Sự thoả thuận giữa hai giai cấp này sau khi kết thúc nội chiến đã trở nên không
vững chắc vì nông dân không hài lòng với hình thức quan hệ hiện có , không muốn có
hình thức quan hệ ấy nữa và không muốn tiép tục sống mãi như thế .Do đó , phải thiết
lập những mối quan hệ mới thông qua các hoạt động kinh tếvà phải thoả mãn được
những yêu cầu của nông dân , về thực chất có thể thoả mãn nông dân bằng hai việc :
phải có sự tự do trao đổi nhất định và phải kiếm ra hàng hoá và lương thực .
Chính sách tự do trao đổi là nhằm “ kiếm ra hàng hoá “ căn cứ vào tâm lý của
người tiêu dùng . Nhờ chính sách tự do buôn bán mà kích thích người nông dân , vì lợi
ích của bản thân mà tạo ra nhiều nông sản , hàng hoá , chính sách tự do buôn bán là sự
thoả thuận với nông dân một cách thực tế , khéo léo , khôn ngoan và mềm dẻo . Cũng
chính vì chính sách tự do trao đổi hàng hoá trong nông dân và chính sách đó mà xuất
hiện hai vấn đề dẫn đến CNTBNN .
Trước hết tự do trao đổi là tự do buôn bán ; mà tự do buôn bán tức là lùi lại
CNTB . Lênin đã dự kiến trước như vậy nhưng không phải vì thế mà ta có thể ngăn
cấm được . Từ đó thấy được sự cần thiết phải dung nạp CNTB . ở đây diễn ra một điều
mà chính Lênin cũng phải nói “ hình như là ngược đời : CNTB lại đóng vai trò là trợ
thủ cho CNXH , có thể sử dụng CNTB tư nhân để xúc tiến CNXH “ . Muốn không
thể thay đổi bản chất của mình , nhà nước vô sản chỉ có thể thừa nhận cho CNTB được
phát triển trong một chừng mực nào đó và tư bản tư nhân phải phục tùng sự điều tiết
của nhà nước , phải tìm cách hướng chúng vào con đường của CNTBNN bằng một tổ
chức của nhà nước và những biện pháp có tính chất nhà nước từ bên trên . Vậy , trong
điều kiện nhà nước vô sản , tự do trao đổi , tự do buôn bán tất dẫn đến sự phục hồi của
CNTB dưới hình thức chủ yếu là CNTBNN .
Trong điều kiện mà CNTB tư sản chiếm ưu thế , hàng hoá chỉ có thể có được từ
nông dân , từ nông nghiệp , như vậy , phạm vi trao đổi chỉ diễn ra trong phạm vi hàng
hoá nông sản điều đó sẽ kích thích nông dân , nông nghiệp phát triển . Do đó , phải có
những hàng hoá mà nông dân cần đó là những sản phẩm công nghiệp và thủ công
nghiệp . Nhưng tình hình trong nước không thể giải quyết ngay vấn đề này nếu không
có sự gíp đỡ của tư bản nước ngoài , theo Lênin thì cần phải “ du nhập “ CNTB từ bên
ngoài bằng những hợp đồng buôn bán với nước tư bản lớn bằng những hình thức khác
nhau cuả CNTBNN.
2 .Vai trò của CNTBNN trong nền kinh tế nước Nga :
Bản chất của CNTBNN là sự kết hợp , phối hợp Nhà nước Xô viết , nền chuyên
chính vô sản với CNTB , là một khối CNTB và đương nhiên sẽ không có CNTBNN,
nếu không có những điều kiện cho họ , điều ấy theo Lênin , chính là” cống vật “ .
Trong điều kiện trên thế giới chỉ có mình chính quyền Xô viết , xung quanh là cả một
hệ thống các nước tư bản , muốn tồn tại , chính quyền Xô viết không thể bỏ qua sự thật
ấy . Khi thực hiện CNTBNN, nhà tư bản được lặp lại , được du nhập không phải vì lợi
ích củng cố chính quyền Xô viết , mà vì lợi ích của bản thân họ . Chính Lênin còn dự
kiến khả năng sự phân chialợi ích đó thoạt đầu có lợi nhiều cho các nhà tư bản dưới
hình thức” trả giá “cho sự lạc hậu , cho sự kém cỏi của mình . Vấn đề là không cần che
giấu sự thật : phải nộp “ cống vật “ . Nhưng đối với nhà nước vô sản thì sự dung nạp và
du nhập CNTB sẽ mang lại những lợi ích cơ bản và lâu dài .
Sự phát triển của CNTB do nhà nước vô sản kiểm soát và điều tiết có thể đẩy
nhanh sự phát triển ngay tức khắc nền nông nghiệp . Nhờ việc tăng nhanh lực lượng
sản xuất trong nông nghiệp mà ổn định xã hội , thoát khỏi khủng hoảng , thoát khỏi
tình cảnh giảm sút tín nhiệm của nông dân đối với chính quyền Xô viết , khắc phục
tình trạng trộm cắp của công ...
Bằng sự du nhập CNTB ở bên ngoài mà tăng nhanh lực lượng sản xuất , tăng lên
ngay hoặc trong một thời gian ngắn . Cải thiện đời sống công nhân và nông dân , nền
đại công nghiệp sẽ được phục hồi .
CNTBNN là công cụ để liên hợp nền sản xuất nhỏ lại , khắc phục tình trạng phân
tán và đấu tranh chống tính tự phát tiểu tư sản và TBCN . CNTBNN là một bước tiến
lớn , nhờ nó mà tránh được tình trạng hỗn độn , tình trạng suy sụp về kinh tế , hiện
tượng lỏng lẻo , những thói quen , địa vị kinh tế của giai cấp . Cũng chính vì thế mà
CNTBNN sẽ đưa nước Nga lên CNXH bằng con đường chắc chắn nhất .
CNTBNN là công cụ để khắc phục được “ kẻ thù chính trong nội bộ đất nước ,
kẻ thù của các biện pháp kinh tế “ của chính quyền Xô viết . Đó là bọn đầu cơ , gian
thương , bọn phá hoại độc quyền nhà nước . CNTBNN còn được xem là công cụ đấu
tranh chống chủ nghĩa quan liêu và những lệch lạc quan liêu chủ nghĩa .
Thông qua CNTB và CNTBNN mà giai cấp công nhân có thể học tập cách quản
lý của nền sản xuất lớn , tổ chức một nền sản xuất lớn . CNTBNN thông qua sự du
nhập của tư bản từ bên ngoài là hình thức du nhập tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại ,
qua đó có được trình độ trang bị cao của CNTB .
CNTB thông qua sự phát triển của nó mà phục hồi được giai cấp công nhân . Nếu
CNTB được lợi thế thì sản xuất công nghiệp cũng sẽ tăng lên và giai cấp vô sản cũng
theo đó mà lớn mạnh lên .
3.Các hình thức TBNN mà Lênin đã nêu :
a.Tô nhượng :
Tô nhượng là một giao kèo , một sự liên minh , liên kết giữa chính quyền nhà
nước xô viết , nghĩa là nhà nước vô sản với CNTB , chống lại thế lực tự phát tiểu tư
hữu .Tô nhượng là chính quyền Xô viết ký hợp đồng với nhà tư bản . Chính quyền
XHCN giao cho nhà tư bản tư liệu sản xuất của mình . Nhà tư bản tiến hành kinh
doanh với tư cách là một bên ký kết , là người thuê tư liệu sản xuất xã hội chủ nghĩa và
thu được lợi nhuận của tư bản mà mình đã bỏ ra , rồi nộp cho nhà nước XHCN một
phần sản phẩm , tô nhượng là hình thức kinh tế mà hai bên cùng có lợi . Nhà nước tư
bản thu được lợi nhuận bất thường , siêu ngạch hoặc để có được loại nguyên liệu
không tìm được hoặc khó tìm được . Chính quyền Xô viết cũng có lợi : lực lượng sản
xuất phát triển , số lượng sản phẩm tăng lên .
Hình thức tô nhượng là sự “ du nhập “ chủ nghĩa tư bản từ bên ngoài vào . Tất cả
khó khăn trong nhiệm vụ này là phải suy nghĩ , phải cân nhắc hết mọi điều khi ký kết
hợp đồng tô nhượng và sau đó phải biết theo dõi việc chấp hành nó . Lênin đã nêu ra
những vấn đề cần chú ý :
Để thực hành tô nhượng cần phải từ bỏ chủ nghĩa ái quốc địa phương một số
người cho rằng , tự mình có thể làm lấy , không chấp nhận trở lại ách nô dịch của tư
bản .
Người nhận tô nhượng có trách nhiệm cải thiện đời sống công nhân trong xí
nghiệp tô nhượng sao cho đạt tới mức sống trung bình của nước ngoài
Vấn đè trả lương cho công nhân ở các xí nghiệp tô nhượng sẽ được quy định
riêng cho từng hợp đồng . Điều kiện về thuê mướn , về sinh hoạt vật chất , về trả lương
cho công nhân và nhân viên nước ngoài được quy định theo sự thoả thuận tự do giữa
người nhận tô nhượng vơí những loại công nhân nói trên . Công đoàn không có quyền
đòi hỏi áp dụng các mức lương ở nga , cũng như các luật lệ của Nga về thuê mướn
nhân công đôí với những nhân công đó .
Đối với những công dân Nga , chuyên gia Nga có trình độ cao , nếu các xí nghiệp
tô nhượng muốn mời thì phải có sự đồng ý của chính quyền trung ương .
Phải tôn trọng luật pháp của nước Nga .
Phải nghiêm chỉnh tuân theo những nguyên tắc khoa học và kỹ thuật phù hợp với
pháp luật của nước Nga và nước ngoài .
b.Các hợp tác xã :
Những xí nghiệp hợp tác xã được coi là một hình thức của CNTBNN . Đặc trưng
của xí nghiệp này là sự kết hợp của những xí nghiệp tư bản tư nhân với những xí
nghiệp kiểu CNXH chính cống . Những xí nghiệp hợp tác xã này là bước chuyển từ
một hình thức đại sản xuất này sang hình thức đại sản xuất khác . Hình thức này là
hinh thức hợp doanh ( công tư hợp doanh ) theo khái niệm thường ngày nay với cachs
diễn đạt của Lênin .
c. Hình thức đại lý uỷ thác:
Theo hình thức này thì nhà nước lôi cuốn nhà tư bản với tư cách một nhà buôn ,
trả cho họ một số tiền hoa hồng để họ bán sản phẩm của nhà nước và mua sản phẩm
của người sản xuáat nhỏ .
d. Cho tư bản trong nước thuê xí nghiệp , vùng mỏ , rừng đất . Cho nông dân thuê
những hầm mỏ nhỏ :
Cho tư bản trong thuê xí nghiệp ... giống hình thức tô nhượng , nhưng đối tượng
tô nhượng không phải hình thức tư bản nước ngoài mà là tư bản trong nước .
Cho nông dân thuê những hầm mỏ là một hình thức nữa của CNTBNN. Chính ở
những hầm mỏ nhỏ cho nông dân thuê , sản xuất lại đặc biệt phát triển hơn là những xí
nghiệp lớn nhất trước kia của tư bản . Những nông dân này hoạt động theo kiểu nộp tô
cho nhà nước . Đây cũng là kiểu cho thuê , nhưng đối tượng thuê là những tiểu tư bản .
4. Kết quả vận dụng kinh tế TBNN ở Liên Xô :
Sự thực hành chế độ CNTBNN ở thời Lênin đã mang lại nững kết quả to lớn .
Đến tháng 11 năm 1922 . Lênin đã trình bày khái quát những thành tựu của chính sách
kinh tế mới nói chung , CNTBNN nói riêng :
Tình hình giai cấp nông dân , từ chỗ đói kém , một bộ phận lớn trong nông dân
bất bình đến chỗ trong vòng một năm , nông dân đã thoát khỏi nạn đói và còn nộp
được thuế lương thực hàng trăm triệu rúp . Nông dân đã hài lòng với tình hình của họ .
Công nghiệp nhẹ đang có đà phát triển , đời sống của nông dân được cải thiện ,
tình trạng bất mãn của công nhân không còn nữa .
Công nghiệp nặng tuy vẫn còn khó khăn nhưng đã có sự thay đổi nhất định .
Riêng về chính sách CNTBNN, nhìn chung đã mang lại cho nước Nga những tác
dụng tích cực nhất định , góp phần làm sống động nền kinh tế nước Nga đã bị suy sụp
sau chiến tranh . Nhờ tô nhượng với nước ngoài , nhiều ngành công nghiệp quan trọng
đã phát triển , nhiều kinh nghiệm tiên tiến với kỹ thuật , thiết bị của nền sản xuất lớn
TBCN đã được đưa vào quá trình sản xuất , mang lại hiệu quả cao . Tô nhượng cùng
các công ty hợp doanh đã góp phần phát triển sản xuất hàng hoá , tăng thêm dự trữ
ngoại tệ cho đất nước , mở rộng các quan hệ liên doanh liên kết kinh tế trong lĩnh vực
đầu tư sản xuất , chuyển giao công nghệ tiên tiến và phát triển ngoại thương với các
nước tư bản phương tây .Thông qua hoạt động của công ty hợp doanh , những người
cộng sản Nga có thể thực sự học cách buôn bán , điều mà bấy giờ Lênin thường nói là
quan trọng . Hoạt động của các xí nghiệp cho thuê , các xí nghiệp hỗn hợp góp phần
giúp nhà nước Xô viết duy trì hoạt động sản xuất bình thường ở các cơ sở kinh tế , tăng
thêm sản phẩm cho xã hội , việc làm cho người lao động . Hình thức đại lý thương
nghiệp và các hợp tác xã TBCN trong các lĩnh vực sản xuất , tín dụng đã góp phần
quan trọng trong việc hỗ trợ thương nghiệp XHCN đẩy nhanh quá trình trao đổi và lưu
thông hàng hoá tiền tệ , làm sống động nền sản xuất hàng hoá nhỏ , qua đó cải biến
những người tiểu nông , nối liền quan hệ trao đổi công – nông nghiệp , thành thị –
nông thôn .
Những kết quả ấy có ý nghĩa tích cực đối với nước Nga Xô viết . Nó còn góp
phần không nhỏ vào công cuộc phát triển nền kinh tế nước Nga sau chiến tranh .Tuy
nhiên so với sự mong muốn và mục tiêu đặt ra của Lênin thì kết quả thực hành chế độ
này vẫn còn rất thấp . Nguyên nhân quan trọng nhất là CNTB đế quốc vẫn còn tìm
cách bóp chết chính quyền Xô viết , vì thề sự hợp tác , đầu tư của tư bản nước ngoài
vào Liên xô không đạt sự mong muốn .
Tuy nhiên , kết quả lớn nhất là bắt đầu hình thành một khái niệm mới , và
CNTBNN đã thực sự là một phần đặc trưng của chính sách kinh tế mới . Và nhờ chính
sách kinh tế mới mà chính quyền Xô viết đã giữ vững được vị trí vững chứcc trong
nông nghiệp và công nghiệp , có khả năng tiến lên được . Nông dân vừa lòng , công
nghiệp cũng như thương nghiệp đang được hồi sinh và phát triển . Đó là thắng lợi của
chính quyền Xô viết .
Chính sách kinh tế mới của Lênin đánh dấu một bước phát triển mới về lý thuyết
nền kinh tế XHCN . Theo tư tưởng này , nền kinh tế nhiều thành phần , các hình thức
kinh tế quá độ , việc duy trì và phát triển hàng hoá - tiền tệ , quan tâm tới lợi ích kinh tế
cá nhân trước hết là của nông dân là những vấn đề có tính nguyên tăcs trong việc xây
dựng mô hình có tính nguyên tắc trong việc xây dựng mô hình kinh tế XHCN .
II. Sự vận dụng lý luÂN của lênin về cntbnn trong thời kỳ qúa độ lên cnxh ở việt
nam :
1.Sự cần thiết :
Đặc trưng của thời đại ngày nay ; loài người đã bước vào một thời đại mới ,
chuyển từ nền văn minh máy móc , hoá chất và dầu lửa sang nền văn minh sinh học và
thông tin , nền kinh tế thế giói đang bước vào một nền kinh tế được gọi là kinh tế trí
tuệ . Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mới đang tạo ra một lực lượng sản xuất
mới có tính chất và trình độ cao hơn lực lượng sản xuất cũ và quốc tế hoá rất cao . Tính
quốc tế cao của nền kinh tế đang làm cho tất cả cá nước trên thế giới ngày càng phụ
tuộc và họp tác chặt chễ với nhau . Bất cứ một nước nào muốn tách khỏi một nền kinh
tế thế giới là một điều tự sát . Đấu tranh và hợp tác giữa các nước là điều kiện tồn tại
của tất cả các nước , của mỗi nước . Vì vậy , trong thời đại ngày nay nước ta không thể
tách rời khỏi nền kinh tế thế giới mà phải hoà nhập và muốn như thế trong các thành
phần kinh tế của nước ta phải có thành phần kinh tế TBNNđể có thể hợp tác kinh tế với
tất cả các nước trên thế giới .
Việt nam đang trong thời kỳ quá độ lên CNTBNN là một trong những trung
gian quan trọng nhất vì vậy để có thể tiến lên CNXH nước ta không thể bỏ qua các
hình thức kinh tế TBNN .
2. Các hình thức kinh tế TBNN vận dụng ở Việt nam :
Từ quan điểm của Lênin và căn cứ vào thực tiẽn của nước ta , trong bối cảnh
hiện nay , có thể xác định các hình thức CNTBNNcần vận dụng ở nước ta là :
a.Liên doanh , liên kết giữa nh với các nhà tư bản trong nước :
Trước đây , hình thức này hình thức này được gọi là công ty hợp doanh nhưng
chúng ta mới chỉ áp dụng một cách hạn chế với chủ trương cốt để cải tạo
XHCNnhằm sớm đi đến xoá bỏ kinh tế nhân . Nay , trên cơ sở quan điểm thừa nhận
các thành phần kinh tế còn tồn tại và phát triển lâu dài trong thoừi kỳ quá độ lên
CNXH , hình thức này cần được sử dụng và phát triển đa dạng hơn .
Để phát huy sức mạnh của thành phần kinh tế này , bên cạnh việc tạo diều kiện
cho kinh tế tư bản tư nhân phát triển cần khuyến khích họ liên doanh , liên kết với kinh
tế nhà nước qua đó mà tăng vốn , đổi mới công nghệ , mở rộng quy mô sản xuất , tăng
sức cạnh tranh và tăng khả năng họp tác với nước ngoài .
b.Tô nhượng và liên doanh giữa nhà nước với các tư bản và các tổ chức kinh tế
nước ngoài:
Lênin rất coi trọng việc sử dụng các chuyên gia tư sản nước ngoài vào phát triển
kinh tế trong thơì kỳ quá độ lên CNXH. Hình thức tô nhượng được Lênin coi là rành
mạch và rễ hiểu nhất để sử dụng các chuyên gia tư sản .
Ngày nay , theo kinh nghiệm các nước , việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
dưới hình thức liên doanh và công ty 100% vốn nước ngoài (thực chất là một kiểu tô
nhượng ) là hấp dẫn và có hiệu quả hơn so với việc vay vốn và tiếp nhận viện trợ của
các nước trong quá trình hiện đại hoá nền kinh tế . Thông qua các hình thức này , nhà
nước thu hút và cho phép các nhà tư bản và công ty nước ngoài dầu tư vào trong
nướcđể phát triển sản xuất kinh doanh . Hiện nay ở nước ta ,các hình thức này đang
được triển khai tích cực .
c.Cho thuê kinh doanh :
Thông qua đấu thầu một số cơ sở vật chất của các doanh nghiệp thuộc khu vực
kinh tế nhà nước , thức hiện các hợp đồng ký kết giữa nhà nước ta với các nhà tư bản
trong và ngoài nước để triển khai hình thức này . So với tô nhượng , hình thức này
khác ở hai điểm : Thời gian hợp đồng thường ngắn hơn , và đối tượng cho thuê không
phaỉ chủ yếu là quyền sử dụng đất mà chủ yếu là hầm mỏ , rừng và cửa hàng ... Thông
qua phát triển hình thức này mà mở rộng một số nghành và lĩnh vực kinh tế , đồng thời
nhà nước có điều kiện để tập trung vốn vào các lĩnh vực , nghành trọng yếu , then chốt
nhằm tăng cường vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần .
d.Đại lý kinh doanh :
Hình thức này áp dụng ở các nghành kinh tế dịch vụ . Thông qua các đại lý mua
bán và các cơ sở dịch vụ, nhà nước , tư nhân hoặc các nhà tư bản trong và ngoài nước
tiêu thụ , cung cấp các yếu tố cần thiết cho phát triển sản xuất và các sản phẩm cho tiêu
dùng xã hội .
e.Gia công đặt hàng :
Hình thức này áp dụng ở các nghành sản xuất vật chất . Thông qua hình thức
này , nhà nước đặt hàng với các nhà tư bản trong và ngoài nước hoặc các doanh nghiệp
nhà nước nhận gia công cho các công ty nước ngoài . Trong điều kiện hiện nay , khi
trình độ của ta còn thấp kém , chưa thể sản xuất hoàn chỉnh có hiệu quả một số loại sản
phẩm , nhưng với một lực lượng lao động dồi dào , giá nhân công rẻ , vị trí địa lý thuận
lợi , thị trường tiêu thụ lớn và hấp dẫn , ta có thể nhận gia công cho các công ty nước
ngoài các mặt hàng giầy da , may mặc , sản xuất các mặt hàng tái xuất , lắp ráp các sản
phẩm ô tô, xe máy , thiết bị điện tử ...
3.Kết quả vận dụng lý luận kinh tế TBNN của Lênin , những vấn đề tồn tại :
Trong mấy năm qua , nước ta đã áp dụng các phương thức góp vốn liên doanh
giữa nhà nước với các nhà tư bản để hình thành các công ty cổ phần , công ty trách
nhiệm hữu hạn . Cho đến tháng 9/1998 đã có 299 công ty cổ phần , với 100 tỷ đồng
vốn chiếm 0.1% tổng số vốn của các doanh nghiệp và bằng 3% tổng số vốn của nhà
nước tại các công ty cổ phần trong nước và và các công ty liên doanh với nước ngoài .
Tuy nhiên , trong tổ chức vẫn còn những trở ngại để mở rộng hình thức này , một mặt
cần hoàn thiện cơ sở pháp lý tài chính , mặt khác , đẩy mạnh hơn nữa cổ phần hoá các
doanh nghiệp nhà nước , phát triển các loại hình công ty cổ phần , có quy chế tạo ra
khả năng lưu hành rộng rãi cổ phiếu và các chứng khoán khác , ra đời và phát triển thị
trường chứng khoán , hoàn thiện các yếu tố của nền kinh tế thị trường .
Kinh tế TBNN với nước ngoài tồn tại dưới hình thức công ty liên doanh và công
ty 100% vốn nước ngoài .Tính đến tháng 7/1997 tỷ lệ đó là 2397 dự án đầu tư được
cấp giấy phép hoạt động với số vốn đăng ký 32.8 tỷ USD và vốn thực hiện là 13 tỷ
USD thu hút 700 hãng ở 50 quốc gia . Tuy nhiên , để đẩy mạnh thu hút và thu hút có
hiệu quả đầu tư nước ngoài tránh đầu tư quá lớn vào một số nghành trong thời gian
ngắn , dự án lỗ... Cần mở rộng một số hình thức liên doanh , trong đó cho phép các nhà
tư bản và công ty nước ngoài mua cổ phiếu của công ty cổ phần , kể cả một số doanh
nghiệp nhà nước được cổ phần hoá , phát hành trái phiếu chính phủ , trái phiếu công
trình ra nước ngoài . Nâng cao hơn nẵ tính chủ động trong gọi vốn đầu tư , tăng tỷ lệ
góp vốn của phía Việt nam trong các công ty liên doanh với nước ngoài .
Bên cạnh những kết quả đạt được , việc vận dụng các hình thúc kinh tế TBNN ở
nước ta một số hạn chế như: dầu tư quá lớn vào một số ngành trong một thời ngắn dẫn
đến cung lớn hơn cầu . Có những nghành trong nước có thể làm tốt thì lại gọi vốn đầu
tư nước ngoài ví dụ sản xuất đồ chơi trẻ em...Có những nghành có khả năng thu hồi
vốn nhanh tỷ suất lợi nhuận cao sử dụng nhiều lao động thì lại 100% vốn nước ngoài ví
dụ nghành dệt , da dầy ... Trong các liên doanh nước ngoài thường đưađưa thiết bị vào
nhưng giá cao .
4.Phương hướng phát triển các hình thức kinh tế ở nước ta
Một là , sự chung vốn , hợp vốn giữa nhà nước và tư nhân được tập trung vào
một số hướng ưu tiên sau:
- Phát triển các doanh nghiệp chế biến từ nguyên liệu nông , lâm , hải sản và
các doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng với công nghệ thích hợp , thu hút
nhiều lao động , thu hút vốn nhanh , có mức doanh lợi hấp dẫn phục vụ nhu
cầu trong nước và xuất khẩu .
- Mở rộng sản xuất , hiện đại hoá công nghiệp ở những doanh nghiệp nhà
nước hiện có dưới hình thức gọi vốn cổ phần tư nhân và ngoài nước .
- Phát triển những nghành mũi nhọn , công nghệ hiện đại có sức cạnh tranh
trên thị trường thế giới và khu vực .
Hai là , về nguyên tắc chung vốn , hợp vốn giữa các nhà nước và tư nhân , đặc
biệt là tư nhân nước ngoài cần được tập trung vào các doanh nghiệp mà việc
phát triển mới , cải tạo mở rộng , hiịen đại hoá nó đòi hỏi vốn lớn . Cần tăng
cường sức mạnh về vốn của các đối tác phía Việt nam và các nhà tư sản dân tộc
để trở thành một đối tượng cần thiết đối với nhà tư bản nước ngoài .
Ba là hợp tác , đầu tư dưới hình thức liên doanh , ký kết hợp đồng , hợp
tác kinh doanh giữa nhà nước với các nhà đầu tư nước ngoài được tiến hành
nhằm tranh thủ vốn , công nghệ , mở rộng thị trường và công nghệ quản lý tiên
tiến . Để thu hút vốn đầu tư trức tiếp của tư bản nước ngoài cần áp dụng đồng
thời và có hiệu quả ba hình thức : xí nghiệp liên doanh , xí nghiệp đầu tư 100%
vốn đầu tư nước ngoài và hợp tác kinh doanh ở tất cả các lĩnh vực , ngành nghề
của nền kinh tế ( trừ những lĩnh vực liên quan đến quốc phồng và an ninh ).
Caanf có những chính sách thu hút mạnh mẽ hơn nữa sự hiện diện đầu tư của
các công ty đa quốc gia vào khu vực công nghiệp trung , khu chế xuất dưới hìh
thức 100% vốn hoặc liên doanh với đối tác Việt nam dưới dạng công ty cổ phần
. Mở rộng từng bước việc phát hành trái phiếu chính phủ , cổ phiếu của công ty
nhà nước trên thị trường vốn trong và ngoài nước .
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Lý luận của lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.pdf