Tài liệu Luận văn Liên kết liên tưởng trong thơ Việt Nam: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
----------------------------
THÁI THỊ LAN ANH
LIÊN KẾT LIÊN TƯỞNG
TRONG THƠ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN HOÀNG
Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận
được sự hướng dẫn, giúp đỡ, và động viên rất quý báu của thầy cô, gia đình, bạn bè và
anh chị em đồng nghiệp.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và tri ân sâu sắc đến TS Trần Hoàng,
người thầy kính mến đã tận tâm hướng dẫn khoa học, hết lòng giúp đỡ, dạy bảo và luôn
động viên tôi.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến quý thầy cô đã tận tình dìu dắt, truyền dạy
kiến thức cho tôi trong thời gian qua.
Xin cảm ơn phòng Sau Đại học – Trường Đại học Sư phạm TPHCM đã tạo điều
kiện thuận lợi trong thời gian tôi học tập tại trường.
Cảm ơn Ban Giám hiệu và tổ Ngữ Văn trường THPT Tr...
115 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1637 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Liên kết liên tưởng trong thơ Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
----------------------------
THÁI THỊ LAN ANH
LIÊN KẾT LIÊN TƯỞNG
TRONG THƠ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN HOÀNG
Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận
được sự hướng dẫn, giúp đỡ, và động viên rất quý báu của thầy cô, gia đình, bạn bè và
anh chị em đồng nghiệp.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và tri ân sâu sắc đến TS Trần Hoàng,
người thầy kính mến đã tận tâm hướng dẫn khoa học, hết lòng giúp đỡ, dạy bảo và luôn
động viên tôi.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến quý thầy cô đã tận tình dìu dắt, truyền dạy
kiến thức cho tôi trong thời gian qua.
Xin cảm ơn phòng Sau Đại học – Trường Đại học Sư phạm TPHCM đã tạo điều
kiện thuận lợi trong thời gian tôi học tập tại trường.
Cảm ơn Ban Giám hiệu và tổ Ngữ Văn trường THPT Trường Chinh, Quận 12,
TPHCM đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong công tác.
Sau cùng, xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, khích lệ tôi trong suốt quá
trình học tập và thực hiện luận văn.
TPHCM, tháng 11 năm 2010
Thái Thị Lan Anh
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngôn ngữ là một loại chất liệu đặc biệt không thể thiếu trong quá trình sáng tạo văn chương,
đặc biệt là thơ ca, bởi các tác phẩm văn chương, trước hết, là các tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. Thơ
ca Việt Nam được xem là bức tranh vô cùng phong phú và đa dạng, phản ánh trung thực đất nước,
con người Việt Nam qua bao thời đại. Lời thơ cũng chính là tình cảm chân thành, sâu sắc của các
tác giả. Các tác giả đã sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt tâm tư, tình cảm, nguyện vọng,… của mình. Và
thông qua những hình tượng thẩm mĩ, thơ ca đã thể hiện phong phú và linh hoạt những suy tư, diễn
biến tình cảm và nhận thức của con người. Văn chương là tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. Chúng ta
tìm hiểu một tác phẩm văn chương không chỉ ở phương diện viết về cái gì mà còn ở phương diện
viết như thế nào. Sức sống của những tác phẩm văn chương không thể thiếu những đóng góp ở
phương diện viết như thế nào ấy. Do vậy, việc áp dụng những tri thức ngôn ngữ học nói chung và tri
thức ngôn ngữ học văn bản nói riêng để tìm hiểu văn bản thơ ca là điều rất cần thiết.
Nghiên cứu thơ ca từ góc độ ngôn ngữ học, đặc biệt là ngôn ngữ học văn bản cũng là một
hướng nghiên cứu khá mới mẻ. Hiện nay có rất ít công trình nghiên cứu thơ ca theo hướng này.
Chính vì vậy, luận văn của chúng tôi đã đi sâu tìm hiểu vấn đề liên kết liên tưởng trong thơ Việt
Nam. Đây cũng là một trong những cách để đóng góp cho khoa học chuyên ngành.
2. Lịch sử vấn đề
Nhìn chung, cho đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về thơ ca Việt Nam. Tuy
nhiên, phần lớn các công trình nghiên cứu thơ ca Việt Nam là dưới góc độ văn học, còn dưới góc độ
ngôn ngữ học thì còn khá ít.
Tìm hiểu thơ ca dưới góc độ ngôn ngữ học, chúng tôi thấy có một số bài viết và công trình
nghiên cứu tiêu biểu như sau:
Năm 1985, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội đã giới thiệu với bạn đọc công trình “Tìm hiểu
phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều” của Phan Ngọc [43]. Công trình gồm có mười chương
bàn về các vấn đề như tư tưởng, phương pháp tự sự của Truyện Kiều, Truyện Kiều, tiểu thuyết phân
tích tâm lí, một vài vấn đề nhận thức luận chung quanh Truyện Kiều, cách bố cục Truyện Kiều theo
yêu cầu của kịch. Trong công trình này, đặc biệt phải kể đến các chương sau cùng: Chương 7 – Câu
thơ Truyện Kiều; Chương 8 – Ngôn ngữ Truyện Kiều; Chương 9 – Ngữ pháp Truyện Kiều; Chương
10 – Phong cách học và phân tích văn học. Mặc dù công trình này chủ yếu bàn về mặt phong cách
của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, không đề cập nhiều đến liên kết liên tưởng, nhưng có một số
nhận định rất đáng lưu ý. Chẳng hạn, Phan Ngọc đã khẳng định “…Trong phong cách có nội dung,
nhưng nội dung được xây dựng theo cái hình thức riêng thích hợp với phong cách này. Nó có hình
thức, nhưng hình thức là để thích hợp với một loại nội dung nhất định, chứ không thích hợp với một
nội dung khác. Nói khác đi, khi nó nói đến nội dung thì nó nói luôn cả hình thức hóa nội dung, và
ngược lại khi nói đến hình thức thì nó nói luôn hình thức này có tác dụng gì trong việc thể hiện nội
dung đã chọn”. Như vậy, theo ông, khi tìm hiểu một tác phẩm văn học dù dưới bất kì góc độ nào,
đều phải chú trọng cả hai mặt nội dung và hình thức. Nghiên cứu liên kết liên tưởng trong thơ ca
cũng không ngoại lệ.
Năm 1987, Nhà xuất bản Đại học và trung học chuyên nghiệp Hà Nội đã giới thiệu với bạn
đọc công trình “Ngôn ngữ thơ” của Nguyễn Phan Cảnh [6]. Công trình gồm mười hai chương.
Chương 1 viết về “Ngôn ngữ giao tế và ngôn ngữ nghệ thuật”. Nội dung của chương 2 là Nghệ
thuật ngôn ngữ và các loại hình nghệ thuật. Trong chương 3: Ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ văn xuôi,
tác giả đã khẳng định “các nhà thơ tư duy trên chất liệu ngôn ngữ”. Chương 4: Các tín hiệu đơn.
Chương 5: Cách tổ chức kép các lượng ngữ nghĩa hay bản chất các phương thức chuyển nghĩa có
tính chất ẩn dụ. Trong chương này, tác giả đã cho rằng “Một văn bản thơ, tuy bao gồm nhiều tín
hiệu riêng lẻ với tư cách là những yếu tố tạo thành của tác phẩm, nhưng bản chất nghệ thuật của
văn bản lại tùy thuộc một cách rất cơ bản vào phương thức liên tưởng của các tín hiệu ấy. Nói cách
khác, nghệ thuật ngôn ngữ trước hết là nghệ thuật tạo những mối liên tưởng giữa các yếu tố riêng lẻ
làm thành tác phẩm nhằm sử dụng một cách mỹ học chiều dày của chất liệu ngôn ngữi”. Chương 6
viết về bản chất của các phương thức chuyển nghĩa có tính chất hoán dụ. Trong chương này,
Nguyễn Phan Cảnh đã khẳng định “quan niệm tri giác mỹ học như một quá trình, một phạm trù giãn
nở, chú trọng đến tính chất động học của nó, lắp ghép chính là phương thức hướng dẫn sự chú ý và
liên tưởng của người nhận một cách bắt buộc”. Trong chương 7, tác giả đề cập đến vấn đề nhạc thơ.
Chương 8: Nét khu biệt và nét dư trong ngôn ngữ thơ. Chương 9: Thể loại hay ngưỡng âm tiết. Ở
chương 10, tác giả chỉ tập trung viết về thể loại thơ lục bát. Chương 11 là vấn đề thơ dịch và dịch
thơ. Chương 12 viết về Động học của thi pháp hay sự giãn nở của ngôn ngữ thơ. Có thể nói, công
trình Ngôn ngữ thơ của Nguyễn Phan Cảnh là một trong những công trình nghiên cứu thơ ca dưới
góc độ ngôn ngữ học rất có giá trị. Tuy nhiên, do tính chất bao quát, trong công trình này, vấn đề
liên kết liên tưởng vẫn chưa được tìm hiểu kĩ.
Trên tạp chí Ngôn ngữ và đời sống số 5 – 2000 có bài viết “Vầng trăng từ độ…” của Trần
Hoàng [23]. Bài viết này đã đề cập đến những cách biểu đạt vầng trăng dựa trên sự liên tưởng. Tác
giả đã khẳng định “sự liên tưởng càng độc đáo càng giàu tính sáng tạo, càng gây được nhiều rung
cảm thẩm mĩ ở người đọc”. Đồng thời, tác giả cũng cho rằng “qua cái liên tưởng ấy, ta hiểu được
tâm hồn và cá tính của nhà thơ”. Rõ ràng, liên tưởng có vai trò rất quan trọng trong thơ ca.
Năm 2006, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội đã ra mắt bạn đọc công trình “Những lĩnh
vực ứng dụng của Việt ngữ học” của Nguyễn Thiện Giáp [14]. Công trình gồm có năm chương.
Trong đó, nội dung Việt ngữ học với việc nghiên cứu văn học ở chương 4 đã đề cập đến việc nghiên
cứu văn học dưới góc độ ngôn ngữ học. Cụ thể là các chủ đề: Nghiên cứu văn học theo cách tiếp
cận văn bản học; Nghiên cứu văn học theo cách tiếp cận hệ thống – cấu trúc; Nghiên cứu văn học
với tư cách là nghệ thuật ngôn từ; và Vận dụng những phương pháp của ngôn ngữ học thống kê và
lí thuyết thông tin vào nghiên cứu văn học. Đây một trong những công trình quan trọng trong việc
vận dụng kiến thức ngôn ngữ học vào việc nghiên cứu văn học. Tuy nhiên, công trình này cũng
chưa đề cập nhiều đến phương thức liên kết liên tưởng trong thơ.
Ngoài ra, rải rác trong các tạp chí chuyên ngành (Ngôn ngữ, Ngôn ngữ và Đời sống…) cũng
xuất hiện những bài viết chung về ngôn ngữ thơ, ngôn ngữ văn chương hay một số khía cạnh nào đó
của thơ ca Việt Nam…
Liên quan đến đề tài còn có một số công trình nghiên cứu về liên kết văn bản tiếng Việt.
Năm 1985 (tái bản vào năm 2006), công trình “Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt” của
Trần Ngọc Thêm [66] được công bố. Đây là công trình rất có giá trị và đánh dấu bước phát triển
mới của ngôn ngữ học văn bản nói chung và các phương thức liên kết văn bản nói riêng. Công trình
gồm có ba phần chính. Phần 1 gồm ba chương, đề cập đến các khái niệm và cái nhìn khái quát về
“Liên kết văn bản”. Ở phần 2, cũng gồm có ba chương, tác giả bắt đầu đi vào “Các phương thức liên
kết giữa các phát ngôn”. Phương thức liên kết liên tưởng được trình bày khá cụ thể và chi tiết ở
chương 2. Dựa vào đặc điểm liên quan về nghĩa thông qua một số ít nghĩa chung và không chứa nét
nghĩa đối lập giữa các phát ngôn, tác giả đã phân chia thành bảy kiểu liên kết liên tưởng. Đó là: liên
tưởng bao hàm, liên tưởng đồng loại, liên tưởng định lượng, liên tưởng định vị, liên tưởng định
chức, liên tưởng đặc trưng và liên tưởng nhân quả. Còn ở phần 3, tác giả đề cập đến liên kết về mặt
nội dung. Như vậy, đứng trên quan điểm phát ngôn, Trần Ngọc Thêm đã mô tả những đặc điểm cơ
bản của các phương thức liên kết liên tưởng. Từ mô hình lí thuyết chung này, chúng tôi kế thừa có
điều chỉnh để khảo sát các phương thức liên kết liên tưởng trong thơ ca Việt Nam. Có thể nói, đây là
một trong những công trình nghiên cứu sâu về các phương thức liên kết liên tưởng trong tiếng Việt.
Năm 1999, Nhà xuất bản Giáo dục đã ra mắt bạn đọc công trình của Nguyễn Thị Việt Thanh
[57] về “Hệ thống liên kết lời nói tiếng Việt”. Đối tượng nghiên cứu của công trình này là ngôn bản,
đề cập khá sâu về những vấn đề chung liên quan đến liên kết lời nói. Tác giả chia liên kết lời nói
thành hai phương thức: phương thức ngữ kết học và phương thức ngữ dụng học. Phương thức liên
kết ngữ kết học lại được chia thành ba tiểu loại: liên kết duy trì chủ đề, liên kết phát triển chủ đề và
liên kết logic. Nhìn chung, đóng góp chủ yếu của công trình này là nghiên cứu các phương tiện liên
kết trên ngữ liệu lời nói.
Năm 2006, quyển “Văn bản và liên kết trong tiếng Việt” của Diệp Quang Ban [2] được tái
bản (lần thứ ba). Trong công trình này, ở phần 2, tác giả đã đề cập đến “Liên kết trong tiếng Việt”,
trong đó có phép liên tưởng (từ tr. 126-128). Lấy phát ngôn làm cơ sở như Trần Ngọc Thêm, Diệp
Quang Ban cũng chia phép liên tưởng thành bảy kiểu cơ bản như: liên tưởng bao hàm, liên tưởng
đồng loại, liên tưởng định lượng, liên tưởng định vị, liên tưởng định chức, liên tưởng đặc trưng và
liên tưởng nhân quả. Đặc biệt, ở phần một, tác giả đã đưa ra khoảng mười lăm cách hiểu khái niệm
văn bản, phân biệt khái niệm văn bản với diễn ngôn, ngôn ngữ nói và viết, đồng thời nêu lên những
đặc trưng về văn bản nói chung.
Năm 2007, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm đã cho ra mắt bạn đọc quyển “Văn bản” của tác
giả Diệp Quang Ban [3]. Công trình tuy khá bao quát các khía cạnh của văn bản, đề cập hầu hết các
phương thức liên kết, nhưng nhìn chung chỉ là sự tổng hợp từ các công trình đi trước nên những
đóng góp riêng của nó là không đáng kể.
Có thể nói, cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu nào về liên kết văn
bản thơ ca Việt Nam, nhất là về liên kết liên tưởng. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đã trình
bày trên đây là những cơ sở lí thuyết quan trọng, được luận văn vận dụng vào nghiên cứu ở những
mức độ khác nhau.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu vấn đề liên kết liên tưởng trong thơ Việt Nam với mong muốn tìm hiểu
cụ thể hơn về vấn đề này, đồng thời cũng mong muốn có cái nhìn đầy đủ hơn đối với tác phẩm thơ
ca. Trước hết, mỗi một tác phẩm là một văn bản, vì vậy, nó cũng là đối tượng của ngôn ngữ học văn
bản chứ không phải chỉ là đối tượng của văn học.
Chúng tôi cũng hy vọng rằng, kết quả nghiên cứu của đề tài này sẽ đóng góp một phần nhỏ
vào việc nghiên cứu và giảng dạy các tác phẩm thơ ca Việt Nam trong trường phổ thông hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Tìm hiểu vấn đề liên kết liên tưởng trong thơ Việt Nam, luận văn của chúng tôi giới hạn
phạm vi nghiên cứu như sau:
Các ngữ liệu khảo sát là những văn bản thơ của một số tác gia tiêu biểu trong văn học thời kì
trung đại và thời kì hiện đại. Đã là một tác phẩm văn học, mà cụ thể ở đây là tác phẩm thơ ca, thì
nhất thiết phải có sự liên kết. Tuy nhiên, khi tìm hiểu vấn đề liên kết văn bản, chúng tôi không
nghiên cứu tất cả các phương thức, phương tiện liên kết mà chỉ nghiên cứu phương thức liên kết liên
tưởng. Chúng tôi cũng thử so sánh đối chiếu kết quả thu được sau khi tìm hiểu trên cứ liệu là các
văn bản (tác phẩm) thơ ca của tác gia này với tác gia khác và hy vọng phát hiện thêm những điều
mới mẻ thú vị về phong cách cá nhân của các nhà thơ được thể hiện ở phương diện mà chúng tôi
đang nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu miêu tả, phân tích, đối
chiếu và một số thủ pháp như phân loại, hệ thống hóa, và thống kê toán học. Trước hết, chúng tôi
thu thập và phân loại cứ liệu, sau đó, tiến hành phân tích những phương thức liên kết liên tưởng
trong các văn bản đã được thu thập được trên cơ sở xác định mỗi dòng thơ là một phát ngôn. Cuối
cùng, chúng tôi lập bảng thống kê, thử đối chiếu kết quả thu được sau khi tìm hiểu trên cứ liệu là
các văn bản (tác phẩm) thơ ca của tác gia này với tác gia khác và đưa ra những nhận xét.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Về lí thuyết: Nghiên cứu vấn đề liên kết liên tưởng trong thơ Việt Nam sẽ góp thêm
một công trình vận dụng ngữ pháp văn bản vào nghiên cứu ngôn ngữ và nghiên cứu văn học. Đề tài
sẽ làm rõ thêm cơ sở lí luận của ngôn ngữ học văn bản, cụ thể là phương thức liên kết liên tưởng.
Thực hiện đề tài này, người viết mong muốn có sự nhìn nhận xác đáng về liên kết liên tưởng, về liên
kết văn bản, và về văn bản với tư cách là một chỉnh thể thống nhất, góp phần làm sáng rõ những giá
trị vốn đã lớn lao của thơ ca Việt Nam, đồng thời góp thêm một hướng nghiên cứu mới cho văn học.
- Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể ứng dụng vào giảng dạy thơ ca Việt
Nam trong nhà trường.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm có ba chương. Nội dung
của chương một là cơ sở lí thuyết, bao gồm vấn đề liên kết liên tưởng và đặc điểm liên kết liên
tưởng trong thơ. Ở chương hai và chương ba, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát liên kết liên tưởng
trong thơ của một số tác gia tiêu biểu của thơ ca Việt Nam trong thời kì trung đại và thời kì hiện đại.
Cụ thể, trong chương hai, chúng tôi sẽ khảo sát liên kết liên tưởng trong thơ của Nguyễn Trãi, Hồ
Xuân Hương và Nguyễn Khuyến; trong chương ba, chúng tôi sẽ khảo sát liên kết liên tưởng trong
thơ của Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên và Xuân Quỳnh. Trọng tâm nghiên cứu của luận văn này nằm ở
chương hai và chương ba.
Chương 1:
LIÊN KẾT LIÊN TƯỞNG VÀ ĐẶC ĐIỂM
LIÊN KẾT LIÊN TƯỞNG TRONG THƠ VIỆT NAM
1.1. Liên kết
Theo quan niệm của ngôn ngữ học truyền thống, cả một thời gian dài, phạm vi nghiên cứu
của ngôn ngữ học không bao giờ vượt ra khỏi giới hạn câu. Do các lí thuyết ngôn ngữ học được xây
dựng trong khuôn khổ câu nên càng về sau càng bộc lộ những hạn chế và bất lực trước những nhu
cầu của lí luận và thực tiễn. Đó là:
“Không đủ khả năng giải thích nhiều hiện tượng biểu hiện trong phạm vi câu nhưng lại có
liên quan đến những cơ chế ngoài câu như: hiện tượng điệp, đối; việc lựa chọn quán từ; vai trò của
đại từ, từ nối, từ chêm xen; bản chất và chức năng của các loại câu đặc biệt, câu vô nghĩa,…
Không đủ đáp ứng những nhu cầu thực tiễn của việc xây dựng văn bản, trong đó có môn làm
văn trong nhà trường. Không đủ giúp cho học sinh viết được những bài văn mạch lạc, đúng và hay.
Không đủ khả năng phân tích và đề ra cách sửa chữa nhiều loại lỗi trong các bài viết của các em.
Liên quan đến các vần đề này là những nhu cầu của công tác biên tập – xuất bản, công tác tuyên
truyền, báo chí, phát thanh,…
Không đáp ứng nhu cầu thực tiễn của việc phân tích tác phẩm văn học. Cái quan trọng đối
với một tác phẩm văn học là cấu trúc văn bản hoàn chỉnh của nó thì lại là cái “ngoài rìa” đối với
ngôn ngữ học”.
Không đáp ứng những nhu cầu cấp bách của việc tự động hóa các quá trình xử lí thông tin
ngôn ngữ: các bản dịch, các bài tóm tắt văn bản do máy tính điện tử làm ra theo những quy trình
được xây dựng trên cơ sở của những thành tựu của ngôn ngữ học trong câu có thể gồm những câu
đúng nhưng toàn văn bản thì không tránh khỏi tình trạng câu ngô nghê, rời rạc”. (Theo [66; 9-10])
Trước những nhu cầu của lí luận và thực tiễn, đòi hỏi ngôn ngữ học phải có một bước phát
triển mới, phải đưa phạm vi nghiên cứu vượt qua khỏi giới hạn câu để đến với những đơn vị có qui
mô và kích thước lớn hơn. Từ đó, ngữ pháp văn bản, hay rộng hơn ngôn ngữ học văn bản ra đời.
Người ta nhận thấy rằng, văn bản không phải là một phép cộng đơn thuần của các câu. Ta
hãy xét ngữ liệu sau đây:
“(1)Thúy Kiều và Thúy Vân đều là con gái của ông bà Vương viên ngoại. (2) Nàng là một
thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, sống hòa thuận hạnh phúc với cha mẹ. (3) Họ sống êm ấm dưới một mái
nhà, cùng có những nét xinh đẹp tuyệt vời. (4) Vẻ đẹp của Kiều hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải
hờn. (5) Còn Vân có nét đẹp đoan trang thùy mị. (6) Còn về tài thì nàng hơn hẳn Thúy Vân. (7) Thế
nhưng nàng đâu có được hưởng hạnh phúc.”
(Theo SGK Ngữ Văn 10, tập hai, Nxb GD, 2006, tr. 66)
Rõ ràng, cả bảy câu trong đoạn văn trên đều đúng ngữ pháp. Nhưng cả đoạn văn vẫn chưa có
được tính thống nhất, chặt chẽ. Vì thế cho nên, các câu trên chỉ là một chuỗi các câu hỗn độn mà
thôi. Vậy thì cái gì đã làm cho một chuỗi các câu hỗn độn trở thành văn bản? Không thể nghiên cứu
các câu độc lập, chỉ có thể quan sát trên tổng thể văn bản thì mới có thể tìm ra câu trả lời.
Hãy xem xét từng câu trong ngữ liệu trên. Câu (1), câu mở đầu giới thiệu về cả hai nhân vật
là Thúy Kiều và Thúy Vân. Thế nhưng, sang câu (2), người viết lại dùng đại từ thay thế là nàng –
vốn dĩ chỉ để thay thế cho ngôi thứ ba số ít. Nên giữa câu (1) và (2) chưa có sự thống nhất với nhau.
Tiếp tục, ở câu (3), lại dùng đại từ thay thế ở ngôi thứ ba số nhiều là họ. Chắc chắn là mọi người
đọc đều hiểu rằng họ ở đây là Thúy Kiều và Thúy Vân. Như vậy, trật tự hợp lí của câu (3) là phải
ngay sau câu (1) vì câu (1) giới thiệu về hai nhân vật này. Câu (3) có một phần nội dung là nói về
cuộc sống của hai nhân vật nên ta phải đưa sống hòa thuận hạnh phúc với cha mẹ ở câu (2) vào để
bổ sung thêm nội dung đó; và có một phần nội dung nói về nét đẹp xinh đẹp tuyệt vời của Thúy Kiều
và Thúy Vân. Vậy nên, các câu tiếp theo phải là các câu lần lượt nói về nét đẹp của hai nhân vật này,
đó là câu (4) và câu (5). Ngoài vẻ đẹp của Thúy Kiều và Thúy Vân, người viết còn muốn nhắc đến
cái tài và số phận của Thúy Kiều. Nên câu tiếp theo phải là câu (2) và phải thay đại từ thay thế nàng
bằng tên nhân vật cụ thể, ở đây là Kiều. Kế tiếp là câu (6) đã bỏ đi từ còn (vì nó không ở trong tình
thế “sóng đôi” với câu phía trước) và câu (7) vẫn nằm ở vị trí sau cùng.
Vì vậy, để cho ngữ liệu đó có thể trở nên thống nhất, chặt chẽ, thì chúng ta phải sắp xếp lại
trật tự các câu, các vế câu và có thể thêm bớt hoặc thay đổi một số từ ngữ một cách hợp lí. Có thể
viết lại đoạn văn trên như sau:
“(1) Thúy Kiều và Thúy Vân đều là con gái của ông bà Vương viên ngoại. (2) Họ sống êm ấm
dưới một mái nhà, sống hòa thuận hạnh phúc với cha mẹ, cùng có những nét xinh đẹp tuyệt vời. (3)
Vẻ đẹp của Kiều hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải hờn. (4) Còn Vân có nét đẹp đoan trang thùy
mị. (5) Kiều là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn. (6) Về tài thì nàng hơn hẳn Thúy Vân. (7) Thế nhưng
nàng đâu có được hưởng hạnh phúc”.
Viết lại thế này thì chúng ta đã có một “văn bản” thống nhất, liên kết chặt chẽ. Câu (2) gắn
kết được với câu (1) là do từ họ được dùng để thay thế cho Thúy Kiều và Thúy Vân. Câu (3) và câu
(4) gắn kết được với câu (2) là do nó lần lượt triển khai cho những nét xinh đẹp tuyệt vời ở câu (2).
Câu (3) và câu (4) gắn kết được với nhau là nhờ từ còn. Nếu câu (3) nói về nét đẹp, thì các câu (5),
(6) và (7) nói về tài và số phận của Kiều. Nên các câu này cũng gắn kết được với nhau.
Vậy, để có thể trở thành văn bản thì một chuỗi câu hỗn độn đó phải có những sợi dây liên hệ
chặt chẽ với nhau. Sợi dây đó chính là tính liên kết trong văn bản. “Nói một cách chung nhất thì văn
bản là một hệ thống mà trong đó các câu mới chỉ là các phần tử. Ngoài các câu – phần tử, trong hệ
thống văn bản còn có cấu trúc. Cấu trúc của văn bản chỉ ra vị trí của mỗi câu và những mối quan
hệ, liên hệ của nó với những câu xung quanh nói riêng và với toàn văn bản nói chung. Sự liên kết là
mạng lưới của những quan hệ và liên hệ ấy.” (Theo [66; 19])
Không phải một sớm một chiều mà các nhà ngôn ngữ học đưa ra được khái niệm thống nhất
nhau về sự liên kết. Liên kết là một hiện tượng dễ nhận biết, nhưng cách hiểu về liên kết cũng
không hoàn toàn giống nhau ở các nhà nghiên cứu.
Ở giai đoạn đầu, tính liên kết chủ yếu chỉ giới hạn ở những biểu hiện hình thức. Với cách
hiểu như thế thì một chuỗi các câu có dấu hiệu liên kết với nhau về hình thức nhưng không cùng
diễn đạt một nội dung nào vẫn được xem là một văn bản. Ta hãy cùng xem xét ví dụ sau:
(1) Cắm bơi một mình trong đêm. (2) Đêm tối bưng không nhìn rõ mặt đường. (3) Trên con
đường ấy, chiếc xe lăn bánh rất êm. (4) Khung cửa xe phía cô gái ngồi lồng đầy bóng trăng. (5)
Trăng bồng bềnh nổi lên qua dãy Pú Hồng. (6) Dãy núi này có ảnh hưởng quyết định tới gió mùa
đông bắc ở nước ta. (7) Nước ta bây giờ của ta rồi, cuộc đời đã bắt đầu hửng sáng.
(Dẫn theo Trần Ngọc Thêm [66;20])
Câu (1) và câu (2) liên kết với nhau nhờ từ đêm. Câu (2) và câu (3) liên kết được với nhau
nhờ từ (con) đường. Tương tự như vậy, câu (3) và câu (4) – từ xe; câu (4) và câu(5) – từ trăng; câu
(5) và câu (6) – từ dãy (núi); câu (6) và câu (7) – từ nước ta. Về mặt hình thức, ta thấy các câu trên
có sự liên kết chặt chẽ với nhau, nhưng đó chỉ là liên kết thuần hình thức. Nhìn tổng thể cả đoạn văn
trên, ta không thấy các câu phối hợp nghĩa với nhau một cách lôgic, bổ sung cho nhau để cùng thể
hiện một nội dung. Nếu với cách hiểu một chuỗi các câu có dấu hiệu liên kết với nhau về hình thức
nhưng không cùng diễn đạt một nội dung nào vẫn được xem là một văn bản thì không thể thuyết
phục được.
Ở giai đoạn hai, khi đã đi sâu vào tìm hiểu những đặc trưng của văn bản, các nhà nghiên cứu
ngày càng chú ý đến vai trò của liên kết ngữ nghĩa. Tuy nhiên, nếu liên kết ngữ nghĩa được xem xét
tách biệt với liên kết hình thức thì sẽ dẫn đến sự tách rời hoàn toàn hình thức khỏi nội dung. Điều
này lại càng khiến cho nhiều cái gọi là “phi văn bản” cũng sẽ trở thành văn bản.
Ví dụ: Phải loại bỏ những cảm tính tùy tiện, phải đấu tranh thay đổi những nguyên tắc lỗi
thời. Có thể sẽ thất bại, nói bao giờ cũng giỏi hơn làm. Làm có khi thành khi bại, tốt hơn không
làm. Chúng ta phải cố tìm ra cách làm tốt nhất, không thất bại.
Các câu trong ví dụ trên rõ ràng là có liên kết nhau về mặt nội dung, nhưng cũng khó để
chúng ta chấp nhận nó là văn bản. Cũng nội dung ấy, nếu thêm vào các phương thức liên kết về hình
thức thì nó sẽ rõ ràng, chính xác và chặt chẽ hơn nhiều:
Phải loại bỏ những cảm tính tùy tiện, đồng thời cũng phải đấu tranh thay đổi những nguyên
tắc lỗi thời. Có thể sẽ còn thất bại, vì nói bao giờ cũng giỏi hơn làm. Nhưng làm mà có khi thành
khi bại, vẫn tốt hơn không làm. Tất nhiên, chúng ta phải cố tìm ra cách làm tốt nhất, để không thất
bại.
(Nguyễn Mạnh Tuấn, Đứng trước biển)
Do vậy, nên mới xuất hiện khuynh hướng thứ hai khi xem xét vấn đề liên kết ngữ nghĩa. Ở
khuynh hướng này, người ta đòi hỏi văn bản nhất thiết phải có đầy đủ cả liên kết hình thức và liên
kết ngữ nghĩa.
Nhìn một cách khái quát, ta thấy rằng tính liên kết của văn bản có hai mặt: liên kết hình thức
và liên kết nội dung. Liên kết hình thức và liên kết nội dung có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ với
nhau; liên kết nội dung được thể hiện bằng một hệ thống các phương thức liên kết hình thức, và liên
kết hình thức chủ yếu dùng để diễn đạt sự liên kết nội dung. Chúng là hai mặt gắn bó mật thiết với
nhau, cho nên mỗi văn bản đều phải có đủ hai mặt: liên kết hình thức và liên kết nội dung.
Liên kết hình thức là hệ thống các phương thức liên kết như phép lặp, phép đối, phép thế
đồng nghĩa, phép liên tưởng, phép tuyến tính, phép thế đại từ, phép tỉnh lược và phép nối. Phương
diện liên quan trực tiếp đến liên kết hình thức giữa các câu là phương diện nghĩa.
Khái niệm liên kết nội dung rộng hơn khái niệm liên kết ngữ nghĩa. Nó nhấn mạnh nhiều hơn
đến những nhân tố ngoài ngôn ngữ. Các câu được xem là có liên kết nội dung khi chúng đều phối
hợp với nhau một cách hài hòa, bổ sung cho nhau để cùng thể hiện một nội dung. Liên kết nội dung
có hai phương diện chủ yếu là liên kết chủ đề và liên kết lôgic.
Liên kết chủ đề là sợi dây kết nối hợp lí giữa những vật, những việc được nói đến trong các
câu có liên kết với nhau. Liên kết chủ đề gồm duy trì chủ đề và triển khai chủ đề.
Thứ nhất, duy trì chủ đề là nhắc lại cùng một vật, một việc nào đó trong các câu có liên kết
với nhau.
Ví dụ:
- Sách giúp cho người đọc phát hiện ra chính mình, hiểu rõ mình là ai giữa vũ trụ bao
la này, hiểu mỗi người có mối quan hệ như thế nào với người khác, với tất cả mọi người trong cộng
đồng dân tộc và cộng đồng nhân loại này. Sách giúp cho người đọc hiểu đâu là hạnh phúc, đâu là
nỗi khổ của mỗi người và phải làm gì để sống cho đúng và để đi tới một cuộc đời thật sự. Sách mở
rộng những chân trời ước mơ và khát vọng.
(Theo Làm văn 10, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000)
- Tiếng hát của các em lan trên các cánh đồng bay theo gió. Tiếng hát trong như
những giọt sương trên bờ cỏ.
(Nguyễn Thị Ngọc Tú, Buổi sáng)
- Người mẹ chồng và nàng dâu nhìn nhau. Hai người chợt thấy lẻ loi, cô đơn và
thương nhau lạ lùng.
(Tô Hoài, Khác trước)
Các phép liên kết dùng để duy trì chủ đề gồm có: phép lặp từ vựng, phép thế đồng nghĩa,
phép thế đại từ và phép tỉnh lược.
Lần lượt trong từng ví dụ trên, chủ đề sách và chủ đề tiếng hát được duy trì bằng phép lặp từ
vựng, chủ đề người mẹ chồng và nàng dâu được duy trì bằng phép thế đại từ.
Thứ hai, triển khai chủ đề là cùng với một (hoặc vài) chủ đề đã cho, đưa thêm vào một hoặc
những chủ đề khác nữa có liên quan đến chủ đề ban đầu, theo tiêu chuẩn cần và đủ của lôgic để đảm
bảo cho các câu chứa chúng liên kết được với nhau.
Ví dụ: Những dải nắng mặt trời xuyên qua vòm cây như những sợi tơ năm sắc óng ánh giăng
mắc khắp nơi. Núi rừng đang được sưởi ấm lại.
(Trần Mai Nam, Vào xuân)
Dải nắng mặt trời ở câu đầu là chủ đề, sưởi ấm ở câu sau là đặc trưng của chủ đề đó.
Các phép liên kết dùng để triển khai chủ đề gồm có: phép liên tưởng và phép đối, trong đó,
phép đối ít được dùng hơn. Trong liên kết chủ đề, các vật được biểu đạt bằng các danh từ, cụm danh
từ xuất hiện trong chuỗi câu liên kết nhau (cũng như trong toàn văn bản) đều có khả năng diễn đạt
chủ đề. Các vật, hiện tượng, các tính chất được biểu đạt bằng động từ, tính từ, cụm động từ, cụm
tính từ hay một cụm chủ - vị, cũng có thể diễn đạt chủ đề trong liên kết chủ đề.
Nếu liên kết chủ đề tập trung chú ý vào vật, việc được nói đến thì liên kết lôgic chú ý trước
hết ở phần nêu đặc trưng của vật, việc được nói đến đó. Như vậy có thể hiểu liên kết lôgic là sợi dây
nối kết hợp lí giữa vật, việc với đặc trưng của chúng trong một câu và giữa đặc trưng này với đặc
trưng kia trong những câu liên kết nhau.
Ví dụ:
(1) Cắm đi một mình trong đêm. (2) Đúng như báo Đảng nói, đêm nay trời ít mây và có gió
nhẹ. (3) Mùa xuân về trên rẻo cao đã làm nở những thứ hoa chỉ thơm ban đêm, kín đáo như nụ cười
tình của một cô gái Mèo. (4) Tiếng kêu của một con hoẵng lạc bầy trong rừng khuya nghe như tiếng
gọi tha thiết của một con người. (5) Cắm nghĩ chưa bao giờ anh nghe báo nói về tiếng kêu của con
hoẵng đó. (6) Nhưng nói làm gì, trên khắp đất nước ta, có nơi nào mà một đêm mùa xuân lại không
nghe thấy tiếng kêu tha thiết của một con hoẵng con? (7) Cắm xốc lại cây súng, nhưng không phải
để bắn. (8) Anh đi nhanh trong đêm quen thuộc.
(Nguyên Ngọc, Rẻo cao)
Trong ví dụ trên, nội dung của các câu đều ăn khớp với nhau theo một lôgic chặt chẽ. Ở câu
(1), vì Cắm đi, cho nên anh nhìn thấy trời mây ở câu (2) và ngửi thấy mùi hoa ở câu (3), nghe thấy
tiếng muông thú ở câu (4). Và vì đi một mình nên anh có điều kiện để suy nghĩ về những điều đã
nhìn và nghe thấy ở câu (5) và câu (6). Chi tiết xốc lại súng ở câu (7) cũng rất hợp lí, đúng chỗ và
có thể được giải thích rõ ràng như sau: không phải để bắn con hoẵng, mà là để đi nhanh hơn. Ngay
việc đi nhanh ở câu (8) này cũng không phải là ngẫu nhiên, mà nó là hệ quả của cả quá trình nhìn –
nghe – suy nghĩ ở trên: yêu quê hương đất nước mình, anh đi nhanh để sớm hoàn thành tốt nhiệm
vụ.
Tóm lại, ngôn ngữ học văn bản đã đưa ra một phát hiện mới, đó là tính liên kết. Nhìn một
cách khái quát, ta thấy rằng tính liên kết của văn bản có hai mặt: liên kết hình thức và liên kết nội
dung. Trong liên kết nội dung lại tách ra hai bình diện: liên kết chủ đề và liên kết lôgic (trong liên
kết chủ đề lại có thể thực hiện theo hai cách: liên kết duy trì chủ đề và liên kết triển khai chủ đề).
Chính việc phân biệt hai bình diện này của liên kết nội dung cho phép liên kết không chỉ có khả
năng phân biệt văn bản với chuỗi phát ngôn hỗn độn mà còn có khả năng bao quát hết các loại văn
bản. Và nhắc đến tính liên kết là chúng ta nhắc đến một đặc thù chỉ có ở cấp độ trên câu.
Có thể khái quát lại tính liên kết và các phương thức liên kết theo bảng tóm tắt sau:
Bảng 1: Các phương thức liên kết
L
I
Ê
N
K
Ế
T
Liên
kết
hình
thức
Lặp
Từ vựng
Ngữ pháp
Ngữ âm
Đối
Thế đồng nghĩa
Liên tưởng
Tuyến tính
Thế đại từ
Tình lược (yếu/mạnh)
Nối (lỏng/chặt)
Liên
kết
nội
dung
Liên kết chủ đề
Liên kết
duy trì chủ đề
Lặp từ vựng
Thế đồng nghĩa
Thế đại từ
Tỉnh lược (mạnh/yếu)
Liên kết
triển khai chủ đề
Liên tưởng
Đối
Liên kết lôgic Cấp độ từ Tuyến tính
Nối (lỏng/chặt) Cấp độ câu
1.2. Liên kết liên tưởng
“Liên tưởng là nhân sự việc, hiện tượng nào đó mà nghĩ tới sự việc, hiện tượng khác có liên
quan”. (Theo [78;568])
Trần Ngọc Thêm cũng cho rằng “sự liên tưởng là quan hệ giữa hai từ bất kì mà sự xuất hiện
của từ này kéo theo sự xuất hiện của từ kia trong kí ức. Muốn thế, chúng chỉ cần có ít nhất một nét
nghĩa chung, tức là thuộc cùng một trường nghĩa. Đó là liên tưởng theo nghĩa rộng”. Tuy nhiên,
khi định nghĩa liên kết liên tưởng là gì thì tác giả Trần Ngọc Thêm lại định nghĩa liên tưởng theo
nghĩa hẹp là “sự liên tưởng giữa hai từ thuộc cùng một trường nghĩa, không có nét đối lập và có
một số ít nét nghĩa chung”. Từ đó, ông đưa ra định nghĩa “phép liên tưởng dựa trên sự liên tưởng
theo nghĩa hẹp, nhưng không chỉ giữa các từ, mà còn giữa các cụm từ. Và không phải giữa một từ
với các từ khác trong kí ức, mà là giữa các ngữ đoạn trong văn bản. Nói chính xác hơn, phép liên
tưởng là một phương thức liên kết thể hiện ở việc sử dụng trong chủ ngôn và kết ngôn những ngữ
đoạn (từ hoặc nhóm từ) có liên quan về nghĩa với nhau thông qua một số nét nghĩa chung và không
chứa nét nghĩa đối lập”. (Theo [66; 122 – 123])
Trong khái niệm trên, ngữ đoạn tham gia phép liên tưởng nằm ở chủ ngôn thì được gọi là chủ
tố, còn ngữ đoạn tham gia phép liên tưởng nằm ở kết ngôn thì được gọi là liên tố. Tùy theo tính chất
và mối quan hệ giữa hai yếu tố liên kết này mà người ta phân loại được phép liên tưởng. Các yếu tố
liên kết trong phép liên tưởng có thể quy về bảy loại theo ba dạng sau: 1)Động vật (loài người, loài
vật); 2)Tĩnh vật (sự vật, hiện tượng, khái niệm); 3)Hoạt động (hành động, sự việc).
Trong phép liên tưởng, nếu chủ tố và liên tố đều thuộc cùng một loại sẽ được gọi là liên
tưởng đồng chất; và nếu chủ tố và liên tố không thuộc cùng một loại sẽ được gọi là liên tưởng
không đồng chất. Theo tính chất của mối quan hệ giữa chủ tố và liên tố, phép liên tưởng có thể chia
thành bảy kiểu xếp thành hai nhóm đồng chất và không đồng chất như sau:
Liên tưởng đồng chất Liên tưởng không đồng chất
Liên tưởng
bao hàm
Liên tưởng
đồng loại
Liên tưởng
định lượng
Liên tưởng
định vị
Liên tưởng
định chức
Liên tưởng
đặc trưng
Liên tưởng
nhân quả
Tiếp theo, chúng tôi sẽ lần lượt đi vào từng kiểu liên tưởng trong mỗi nhóm.
1.2.1. Liên tưởng đồng chất
1.2.1.1. Liên tưởng bao hàm
Trong kiểu liên tưởng này, chủ tố và liên tố chỉ những đối tượng có quan hệ bao chứa nhau.
Quan hệ bao hàm ở đây là bao hàm giữa cái chung và cái riêng, cái bộ phận, chứ không bao hàm
theo kiểu loại – hạng. Tuy trật tự giữa từ chỉ cái chung và từ chỉ cái riêng không cố định, nhưng thứ
tự chung – riêng có tần số xuất hiện nhiều hơn thứ tự riêng – chung.
Ví dụ:
- Trong nhà có tiếng lẹp kẹp. Cửa từ từ mở.
(Nguyễn Sáng, Sài Gòn dưới những tầng khói)
- Mặt biển mở rộng dần và đã nối liền lại. Sóng gợn man mác, cái màu trắng buồn tẻ
bao quanh càng man mác hơn.
(Nguyễn Khải, Họ sống và chiến đấu)
- Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt.
(Kim Lân, Vợ nhặt)
- Trâu đã già. Đôi sừng kềnh càng như hai cánh nỏ.
(Chu Văn, Con trâu bạc)
- Cứ xem cái ngôn ngữ của bọn địch ở đây đủ rõ. Gọi các lực lượng cách mạng ở bờ
Nam những năm trước, chúng dùng các danh từ “phiến loạn”, “cộng phỉ”, “việt cộng”. Giờ thì là
“Giải phóng”, là “Mặt trận”, đôi khi còn thêm hai chữ “các ông”.
(Chế Lan Viên, Viên kim cương đầu giới tuyến)
- Ban đầu lương thực, khí giới, chăn áo, thuốc men, cái gì cũng thiếu thốn. Bộ đội phải
thường nhịn đói, nhưng vẫn hăng hái tươi cười.
(Hồ Chí Minh, Kỉ niệm ngày thành lập GPQ Việt Nam, 12-1947)
Kiểu liên tưởng bao hàm có độ liên kết mạnh nhất, vì nó dựa trên mối quan hệ biện chứng
giữa cái chung và cái riêng.
1.2.1.2. Liên tưởng đồng loại
Liên tưởng đồng loại là kiểu liên tưởng của những đối tượng đồng chất ngang hàng với nhau,
không phân biệt cái nào bị bao hàm trong cái nào. Chúng đều là cái riêng của cùng một cái chung,
những giống của cùng một loài. Chính nhờ những quan hệ đồng loại đó mà chúng tạo nên sự liên
kết chặt chẽ giữa hai phát ngôn.
- Sự vật: Anh đặt tờ giấy lên mặt vỏ hòm đạn gỗ ở đầu giường. Hai mắt tròn ra đờ đẫn,
đôi môi dày cộm gồ lên suy nghĩ mà cái quản bút cứ xoay xoay trong miệng chưa đặt xuống viết ra
một chữ.
(Lê Lựu, Người cầm súng)
- Hiện tượng: Mưa vẫn ồ ạt như vỡ đập. Ánh chớp lóe lên soi rõ khuôn mặt anh trong
một giây.
(Nguyễn Kiên, Anh Keng)
- Loài người: Bộ đội xung phong. Du kích nhào theo.
(Nguyễn Thi, Người mẹ cầm súng)
- Loài vật: Gà lên chuồng từ lúc nãy. Hai bác ngan cũng đã ì ạch về chuồng rồi. Chỉ
duy có hai chú ngỗng vẫn tha thẩn đứng giữa sân.
(Tô Hoài, Hai con ngỗng)
- Khái niệm: Chiều chạng vạng tối. Sợ tối, quân ta tiếp viện đánh ập lại, chúng nó ôm
cả mớ văn chiêu hồi rút lui có trật tự.
(Hồng Châu, Mùa thu ơi…)
- Hành động: Mãi đến 10 giờ đêm, anh mới trở về, lăn vào giữa khẩu đội ngủ. Một lát,
đã nghe anh ngáy đều đều.
(Nguyễn Trọng Oánh, Nhật kí đảo anh hùng)
Kiểu liên tưởng đồng loại khá gần với kiểu đối lâm thời. Khi bị giới hạn trong hai đối tượng
và nhất là khi có từ nối tương phản đi kèm, thì nó sẽ chuyển thành kiểu đối lâm thời.
1.2.1.3. Liên tưởng định lượng
Liên tưởng định lượng là kiểu liên tưởng giữa các đối tượng cùng một loại, mọi “chất liệu”
của các đối tượng này sẽ được xem xét, tính đếm về mặt số lượng. Kiểu liên tưởng định lượng có
thể chia thành hai trường hợp là liên tưởng định lượng hợp – phân và liên tưởng định lượng đối
chiếu.
a) Liên tưởng định lượng hợp – phân
Kiểu liên tưởng này chỉ có mặt khi một trong hai yếu tố liên kết là một số từ chỉ số lượng
chung, yếu tố liên kết kia là số lượng bộ phận. Khi số từ chỉ số lượng chung làm liên tố, ta sẽ có liên
tưởng định lượng hợp. Và ngược lại, khi số từ chỉ số lượng chung làm chủ tố, ta sẽ có liên tưởng
định lượng phân.
Người mẹ chồng và nàng dâu nhìn nhau. Hai người chợt thấy lẻ loi, cô đơn và thương
nhau lạ lùng.
(Tô Hoài, Khác trước)
Đây là ví dụ cho kiểu liên tưởng định lượng hợp. Số từ chỉ số lượng chung hai người nằm
ở câu kết ngôn. Còn dưới đây là ví dụ cho kiểu liên tưởng định lượng phân, số từ chỉ số lượng
chung nằm ở chủ ngôn.
Ở đó, có hai mẹ con. Một bà mẹ anh hùng và một người con dũng sĩ.
(Nguyễn Chí Trung, Cầm súng)
Khi liệt kê các số lượng bộ phận bằng một thì nó có thể được thể hiện bằng số từ một
hoặc bằng các danh từ đếm được số đơn. Khi nói từng số lượng bộ phận nói chung thì nó được thể
hiện bằng các từ mỗi, từng. Ví dụ:
Năm đứa chúng tôi như năm con ong thợ. Mỗi người đều tự giác nhận lấy phận sự của
mình.
(Hoàng Hữu Các, Vẫn còn chùm hoa phượng)
b) Liên tưởng định lượng đối chiếu
Đây là kiểu liên tưởng mà trong đó các số lượng được đối chiếu nhau, thường là theo một
xu hướng nhất định (tăng dần hoặc giảm dần).
Ví dụ:
Cách năm trăm thước, chúng dừng lại, triển khai đội hình …[+ 11 phát ngôn].
Ba trăm thước, Nghiêu hơi ghé mắt lên bờ giếng … [+ 22 phát ngôn].
Một trăm thước rồi. Ba nói nhỏ [+ 2 phát ngôn].
Năm mươi thước. Vân ngắt vào đùi Nghiêu một cái … [+ 3 phát ngôn].
Ba mươi thước.
(Nguyễn Trung Thành, Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc)
Đây là ví dụ cho kiểu liên định lượng mà trong đó các số lượng được đối chiếu nhau theo
một xu hướng giảm dần.
1.2.2. Liên tưởng không đồng chất
1.2.2.1. Liên tưởng định vị
Liên kết liên tưởng theo quan hệ định vị là sự liên tưởng giữa một động vật, một tĩnh vật
hoặc một hành động ở vị trí tồn tại điển hình của nó trong không gian (hoặc cả trong thời gian).
Phổ biến nhất là sự định vị cho người, sự vật trong không gian.
Ví dụ:
- Người ta không dắt Nghiêu về đơn vị mà dẫn anh đến trạm xá. Y sĩ Hoàng xem xét vết
thương kĩ lưỡng.
(Nguyễn Trung Thành, Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc)
Trên đây là ví dụ cho phép liên kết liên tưởng định vị cho người. Trong đó, không gian được
định vị là một không gian rộng, không gian cố định: trạm xá, người được định vị trong không gian
đó là y sĩ.
- Đồng nước tràn ngập tiếng sóng vỗ rì rào xao động. Gió vi vút thổi ngang qua
xuồng.
(Đinh Quang Nhã, Nước)
Đây là ví dụ cho phép liên kết liên tưởng định vị cho sự vật. Trong đó, không gian được định
vị là một không gian cố định: đồng nước.
Bên cạnh người, sự vật, đôi khi ta có thể gặp liên tưởng định vị cho hiện tượng.
Ví dụ:
Sáng rồi. Phương Đông rực rỡ một màu hồng chói lọi.
(Nguyễn Trung Thành, Đường chúng ta đi)
Cũng có trường hợp liên tưởng định vị giữa hành động và không gian điển hình cho hành
động đó.
Ví dụ:
Tuy chưa buồn ngủ nhưng nằm đắp chăn cho ấm và buông màn cho khỏi muỗi thì vẫn tốt.
Hai cái giường nhỏ kê song song, cách nhau một lối đi nhỏ.
(Nam Cao, Đôi mắt)
Đây là liên tưởng định vị cho hành động nằm trong không gian diễn ra hành động đó là
giường.
Liên tưởng định vị trong thời gian là trường hợp ít gặp hơn so với liên tưởng định vị trong
không gian. Ta hãy xét ví dụ sau:
Đêm lạnh, trời thăm thẳm. Sao vẫn xanh biếc đầy trời. Khó ngủ quá.
(Hồ Phương, Thư nhà)
Trong ví dụ trên, cặp liên tưởng đêm – sao là liên tưởng định vị thời gian – sự vật, còn cặp
đêm – ngủ là liên tưởng định vị thời gian – hành động.
1.2.2.2. Liên tưởng định chức
Liên kết liên tưởng theo quan hệ định chức là sự liên tưởng giữa một động vật, tĩnh vật, hoặc
một hoạt động với chức năng điển hình của nó.
Ví dụ:
- Suốt một năm đầu, y là một ông thầy rất tận tâm. Y soạn bài, giảng bài, chấm bài rất
kĩ càng…
(Nam Cao, Sống mòn)
Bên cạnh đó, còn có liên tưởng định chức của hiện tượng.
Ví dụ:
Những dải nắng mặt trời xuyên qua vòm cây như những sợi tơ năm sắc óng ánh giăng mắc
khắp nơi. Núi rừng đang được sưởi ấm lại.
(Trần Mai Nam, Vào xuân)
Phần lớn các trường hợp liên tưởng định chức đều là quan hệ giữa một danh ngữ với một
động ngữ. Tuy nhiên, cá biệt, ta cũng có thể gặp sự liên tưởng định chức giữa hai danh từ.
Ví dụ:
Trong công tác của tôi, thiếu chiếc đồng hồ chắc thật là tai hại. Đầu óc tôi lúc nào cũng
nghĩ đến chuyện giờ giấc.
(Hữu Mai, Người thợ chữa đồng hồ)
Ngoài ra, cũng có thể nói đến liên tưởng định chức của hai hoạt động.
Ví dụ:
Hai thép rót rượu ra li. Anh nài nỉ mẹ Sáu phải uống một chút.
(Anh Đức, Hòn đất)
Liên tưởng định chức là kiểu liên tưởng phong phú nhất của phép liên tưởng.
1.2.2.3. Liên tưởng đặc trưng
Liên kết liên tưởng theo quan hệ đặc trưng là sự liên tưởng giữa một tĩnh vật hoặc một hoạt
động với dấu hiệu đặc trưng của nó. Khi dấu hiệu làm chủ tố thì sự liên tưởng đặc trưng thiên về
khía cạnh giải thích. Khi dấu hiệu làm liên tố thì sự liên tưởng đặc trưng thiên về khía cạnh chứng
minh.
Ví dụ:
- Tiếng reo mỗi lúc một xa. Đám rước đã đến ngã ba.
(Chu Văn, Con trâu bạc)
- Đại hội làng Tới họp lớn lắm. Tiếng chiêng nổi lên từ đêm hôm trước.
(Nguyễn Chí Trung, Bức thư làng Mục)
Đây là hai ví dụ về liên tưởng đặc trưng cho sự việc. Ví dụ một, liên tưởng đặc trưng thiên
về khía cạnh giải thích, dấu hiệu đặc trưng là tiếng reo mỗi lúc một xa; câu sau giải thích cho sự
việc đó là đám rước đã đến ngã ba. Ví dụ hai, liên tưởng đặc trưng thiên về khía cạnh chứng minh,
dấu hiệu đặc trưng là tiếng chiêng nổi lên từ đêm hôm trước, nó chứng minh cho đại hội làng
Tới họp lớn lắm ở câu trước.
Bên cạnh đó, còn có các loại liên tưởng đặc trưng cho hiện tượng, khái niệm và hoạt động.
Những ví dụ sau sẽ lần lượt minh họa cho các loại liên tưởng đặc trưng đó.
- Rõ ràng là bằng mắt phải anh vẫn thấy hiện lên một cánh chim én chao đi chao lại.
Mùa xuân đã đến rồi.
(Nguyễn Trung Thành, Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc)
- Những ngày làm việc, Dung rất thích mặc áo nâu. Thoạt nhìn, tôi đã nhận xét với ý
nghĩ: giản dị.
(Tiền phong, số 5-6, 1981)
- Giá sách vẫn đầy và trên bàn vẫn không mất đi những dấu vết ngổn ngang bừa bộn
rất đáng yêu của sách vở đang bị truy tìm lục lọi. Thư vẫn làm việc.
(Lê Phương, Bạch đàn)
Ở kiểu liên tưởng này, dấu hiệu thường được thể hiện bằng cụm từ.
1.2.2.4. Liên tưởng nhân quả
Trong kiểu liên kết liên tưởng này, chủ tố thường diễn đạt nguyên nhân, liên tố thường diễn
đạt kết quả. Các ví dụ sau lần lượt minh họa cho điều đó:
- Trận lụt chưa rút. Nước vẫn mênh mông.
(Nguyễn Quang Sáng, Một chuyện vui)
- Ấm nước reo rồi ấm nước sôi sùng sục. Bà đồ dập bớt lửa rồi chạy ra sân.
(Nam Cao, Đón khách)
- Hà sống rất hồn nhiên. Ngoài việc cơ quan, nó say mê vẽ. Trên tường đầy tranh.
(Triệu Huấn, Ánh sao băng)
Chúng tôi đã vừa nêu sơ lược về các kiểu liên kết liên tưởng dựa trên cơ sở tiếp thu những
thành quả của Trần Ngọc Thêm đã được trình bày trong Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt. Hầu
hết những ví dụ minh họa của Trần Ngọc Thêm đều trích từ các tác phẩm văn xuôi. Và liệu trong
thơ ca Việt Nam còn có thể có kiểu liên kết liên tưởng nào khác so với những kiểu trên hay không?
Chúng ta hãy đến với các ví dụ sau đây:
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
Hoa lá ngây tình không muốn động
Lòng em hồi hộp chị Hằng ơi!
(Hàn Mặc Tử, Bẽn lẽn)
Trăng, với Hàn Mặc Tử, như là một người bạn tâm giao, nó đã gợi lên trong thơ ca của Hàn
những sự liên tưởng giàu tính sáng tạo, gây được nhiều rung động thẩm mỹ ở người đọc. Trong
đoạn thơ trên, Hàn Mặc Tử đã có một sự liên tưởng rất độc đáo. Trăng được xem như một cô gái
xuân thì lơi lả. Nhiều động ngữ xuất hiện liên tiếp nhau để rồi cùng diễn tả cái lơi lả của trăng, của
lá như nằm sóng soãi, lả lơi, ngây tình. Vầng trăng đã gợi niềm thi hứng cho nhà thơ. Có thể thấy,
cơ sở của sự liên tưởng này là dựa trên sự tương đồng.
Ngoài liên tưởng dựa trên cơ sở tương đồng, trong thơ ca, đặc biệt là trong ca dao còn có liên
tưởng phi lôgic. Chẳng hạn như sự liên tưởng trong câu ca dao sau:
Bao giờ chạch đẻ ngọn đa
Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình
(Ca dao)
Đây có thể là câu trả lời của cô gái khi được một chàng trai ngõ lời. Cô gái đã không nêu lên
trực tiếp lời từ chối của mình, mà khéo léo mượn những liên tưởng phi lôgic để chàng trai có thể
hiểu được hàm ý. Thực tế, sẽ không bao giờ xảy ra chuyện “ngược đời” như thế, cho nên chuyện ta
lấy mình cũng là chuyện sẽ không xảy ra. Cái hay, cái độc đáo của câu ca dao trên là nhờ sự liên
tưởng phi lôgic ấy.
Quả thật, phép liên kết liên tưởng là phương thức liên kết có giá trị nghệ thuật cao. Vì vậy,
khi nghiên cứu phép liên tưởng trong các văn bản (tác phẩm) văn học, ta không thể không xem xét ở
thể loại thơ ca, một thể loại văn học rất giàu trí tưởng tượng và cũng rất giàu tính nghệ thuật. Nhắc
đến thơ ca là chúng ta nhắc đến cả một thế giới của tài năng, của nghệ thuật, tâm hồn, tình yêu, ước
mơ, và cả niềm vui hạnh phúc hay đau khổ,… Để có thể diễn đạt được hết tất cả những điều đó, tự
bản thân mình, thơ ca đã phải “chắp đôi cánh” để được bay bổng trong thế giới của những sự liên
tưởng bất ngờ và diệu kì. Chúng tôi nhận thấy rằng, nghiên cứu về liên kết trong thơ ca là một việc
làm rất cần thiết và bổ ích nhưng không hề dễ dàng. Hy vọng rằng, trong quá trình nghiên cứu,
chúng tôi sẽ phát hiện được thêm nhiều điều thú vị và bổ ích xung quanh vấn đề này.
1.3. Liên kết và liên kết liên tưởng trong thơ Việt Nam
Như đã trình bày ở mục 1.1, khi ta nói đến liên kết trong văn bản nghĩa là ta đang nói đến cấp
độ “trên câu”. Hay theo Trần Ngọc Thêm, đơn vị liên kết phải là phát ngôn. Và cũng theo Trần
Ngọc Thêm, phát ngôn là “một bộ phận của đoạn văn, với một cấu trúc và nội dung nhất định nào
đó (đầy đủ hoặc không đầy đủ), được tách ra một cách hoàn chỉnh về hình thức: Ở dạng viết, nó bắt
đầu bằng chữ cái viết hoa và kết thúc bằng dấu ngắt phát ngôn; ở dạng nói, nó được phát ra theo
một kiểu ngữ điệu nhất định và kết thúc bằng một quãng ngắt hơi; về mặt lượng, nó có thể kết thúc
bằng một ngữ khí từ”.(Theo [66; 42]).
Thế nhưng trong thơ ca, không phải ở văn bản (tác phẩm) nào ta cũng có thể dễ dàng phân
định các phát ngôn. Do đó, trong luận văn này, chúng tôi chỉ tạm thời xem mỗi dòng thơ như là một
phát ngôn, một đơn vị của sự liên kết. Xem xét liên kết trong thơ, có nghĩa là chúng tôi xem xét sự
liên kết giữa các dòng thơ trong cùng một đoạn (khổ) thơ, hoặc một bài thơ cụ thể nào đó.
Nói đến liên kết trong thơ, tất nhiên không thể không nêu ra khái niệm thơ. Theo định nghĩa
của Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) thì thơ là “hình thức nghệ thuật dùng ngôn ngữ giàu
hình ảnh và có nhịp điệu để thể hiện nội dung một cách hàm súc”. (Theo [78; 954]). Khi nói đến
liên kết trong thơ, điều mà người ta nghĩ đến trước tiên là sự liên kết về mặt ngữ âm. Đó là liên kết
“bề nổi” dễ nhận thấy nhất và nó cũng là điều hiển nhiên vì nhịp điệu của thơ ca được tạo nên từ
những giá trị mang tính ngữ âm.
Các thể thơ Việt Nam có thể được phân chia thành ba nhóm chính: các thể thơ dân tộc (lục
bát, song thất lục bát và hát nói), các thể thơ Đường luật (ngũ ngôn, thất ngôn), các thể thơ hiện đại
(năm tiếng, bảy tiếng, tám tiếng, hỗn hợp, tự do, thơ – văn xuôi). Sự hình thành luật thơ cũng như
sự vay mượn, mô phỏng và cách tân thơ đều phải dựa trên các đặc trưng ngữ âm của tiếng Việt,
trong đó tiếng là đơn vị có vai trò quan trọng. Ngay cả tên gọi các thể thơ cũng căn cứ vào số tiếng của
dòng thơ.
Tiếng gồm có ba phần: phụ âm đầu, vần và thanh điệu. Vần thơ là phần được lặp lại để liên
kết dòng trước và dòng sau.
Ví dụ: Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng…
(Ca dao)
Mỗi tiếng có một trong sáu thanh điệu: ngang, huyền, sắc, nặng, hỏi, ngã. Theo truyền thống,
người ta phân chia các thanh bằng (thanh ngang và thanh huyền) và thanh trắc (thanh sắc, nặng,
hỏi, ngã). Sự luân phiên đối xứng và hài hòa của các thanh bằng, trắc tạo nên nhạc điệu cho thơ.
Sự liên kết về ngữ âm thể hiện qua cách hiệp vần, hài thanh, nhịp điệu. Cụ thể, ở thể thơ lục
bát, chẳng hạn:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Mỗi bài thơ lục bát là sự kế tiếp nhau của một cặp gồm dòng lục (6 tiếng) và dòng bát (8
tiếng). Sự liên kết về ngữ âm thể hiện thông qua cách hiệp vần (ở tiếng thứ sáu của hai dòng và
tiếng thứ tám của dòng bát với tiếng thứ sáu của dòng lục tiếp theo) và hài thanh (có sự đối xứng
luân phiên B – T – B ở các tiếng hai, bốn, sáu trong dòng thơ, đối lập âm vực trầm bổng ở tiếng thứ
sáu và tiếng thứ tám của dòng bát).
Ở thể thơ song thất lục bát, ta cũng có thể thấy sự liên kết như thế về mặt ngữ âm.
Ví dụ:
Ngòi đầu cầu nước trong như lọc,
Đường bên cầu cỏ mọc còn non.
Đưa chàng lòng dặc dặc buồn,
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền.
(Đoàn Thị Điểm (?), Chinh phụ ngâm)
Ở thể thơ song thất lục bát, cặp song thất và cặp lục bát luân phiên nhau kế tiếp nhau trong
toàn bài. Hiệp vần ở mỗi cặp (lọc – mọc, buồn – khôn); cặp song thất có vần trắc, cặp lục bát có vần
bằng. Giữa cặp song thất và cặp lục bát có vần liền.
Các thể thất ngôn Đường luật có kết cấu, niêm luật chặt chẽ. Đó là minh chứng rõ ràng nhất
cho sự liên kết về ngữ âm trong thể thơ này. Chỉ riêng cách hài thanh, ta có thể thấy được sự liên kết
chặt chẽ như thế.
Ví dụ trong bài thơ Ông phỗng đá của Nguyễn Khuyến, bài thơ thuộc thể thơ thất ngôn tứ
tuyệt:
Ông đứng làm chi đó hỡi ông?
Trơ trơ như đá, vững như đồng.
Đêm ngày gìn giữ cho ai đó?
Non nước đầy vơi có biết không?
Bài thơ này có cách hài thanh theo mô hình sau:
Tiếng
Niêm và đối
1
2
3
4
5
6
7
Đối
Dòng 1 T B T
Dòng 2 B T B Vần
Đối
Dòng 3 B T B
Dòng 4 T B T Vần
Bài thơ Qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan lại thuộc thể thơ thất ngôn bát cú. Nó
cũng có sự liên kết về ngữ âm rất chặt chẽ.
Bước tới đèo ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng, con cuốc cuốc,
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.
Dừng chân đứng lại, trời non nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
Mô hình hài thanh của bài thơ này như sau:
Tiếng
Niêm và đối
1
2
3
4
5
6
7
Dòng 1 T B T Vần
Dòng 2 B T B Vần
Đối
Dòng 3 B T B
Dòng 4 T B T Vần
Đối
Dòng 5 T B T
Dòng 6 B T B Vần
Dòng 7 B T B
Dòng 8 T B T Vần
Luật thơ thất ngôn bát cú rất chặt chẽ; một mặt là luật hài thanh, đối xứng giữa các tiếng hai,
bốn, sáu (có thể theo thể trắc hoặc theo thể bằng); mặt khác, đòi hỏi phải niêm giữa các dòng 2 – 3,
4 – 5, 6 – 7 và 1 – 8. Đây là những quy định giúp ta có thể dễ dàng nhận diện sự liên kết về hình
thức. Về mặt nội dung ý nghĩa, bài thơ chia bố cục thành bốn cặp: hai dòng đầu là đề để vào bài, hai
dòng tiếp theo là thực để giải thích rõ đề, hai dòng kế tiếp nữa là luận để bàn luận, hai dòng cuối là
Niêm Niêm
Niêm
Niêm
Niêm
Niêm
kết để kết bài. Như vậy, thơ Đường luật hết sức chặt chẽ, cũng vì vậy mà rất gò bó cả về mặt hình
thức, nội dung lẫn diễn đạt.
Các thể thơ hiện đại Việt Nam đã tiếp nhận ảnh hưởng của thơ Pháp và đổi mới thơ cũ. Vì
thế, chúng rất đa dạng và phong phú. Chúng vừa tiếp nối thơ truyền thống, vừa có sự cách tân. Thơ
hiện đại gồm có các thể loại như: năm tiếng, bảy tiếng, tám tiếng, hỗn hợp, tự do, thơ – văn xuôi,…
Như đã nói ở trên, khi nói đến liên kết trong thơ là người ta nghĩ ngay đến liên kết về mặt
hình thức, đặc biệt là về mặt ngữ âm. Đó là loại liên kết có thể tìm thấy ở tất cả các bài thơ, các thể
thơ. Sự liên kết này là liên kết “bề nổi” rất dễ nhận thấy. Nhưng liên kết trong thơ không chỉ thuần
hình thức như vậy. Vì thế khi nghiên cứu liên kết trong thơ, phải chú trọng cả về hình thức lẫn nội
dung. Và có thể nói liên kết liên tưởng là một trong những vấn đề quan trọng và thú vị khi nghiên
cứu về liên kết trong thơ ca.
Ở mục 1.2, khi nói về liên kết liên tưởng, chúng tôi đã kế thừa những thành tựu nghiên cứu
của Trần Ngọc Thêm. Chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các ví dụ mà Trần Ngọc Thêm sử dụng để
minh họa là các ví dụ được trích dẫn từ các tác phẩm văn xuôi hiện đại Việt Nam.
Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy rằng, thơ ca Việt Nam có chứa
đựng hầu hết các kiểu liên kết liên tưởng theo sự phân loại của Trần Ngọc Thêm. Chúng tôi xin
phép được sử dụng các tác phẩm thơ ca Việt Nam trong Sách giáo khoa môn Ngữ văn 12 – Ban cơ
bản của chương trình THPT – tài liệu mà chúng tôi thường xuyên tiếp xúc trong quá trình giảng dạy
– để làm ví dụ minh họa cho các kiểu liên kết liên tưởng ấy.
Trước tiên là một đoạn trích trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi…..
(Quang Dũng, Tây Tiến)
Trong đoạn thơ trên, ta thấy có sự vận dụng liên kết liên tưởng theo nhiều kiểu khác nhau.
Tây Tiến là đơn vị quân đội hoạt động ở địa bàn rừng núi Tây Bắc cheo leo, hiểm trở. Như vậy, khi
nhắc đến Tây Tiến là nhắc đến rừng núi, sông Mã. Liên kết liên tưởng trong hai dòng thơ này là liên
kết liên tưởng định vị. Các địa danh Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông lần lượt xuất hiện trong các
dòng thơ là các yếu tố của phương thức liên kết liên tưởng định vị, vì nó chính là nơi mà đoàn quân
Tây Tiến đã từng gắn bó, đồng thời giữa chúng có mối quan hệ ngang hàng với nhau nên chúng
cũng có liên tưởng đồng loại. Vùng đất gắn bó với Tây Tiến lúc nào cũng như ẩn hiện trong sương
mờ, với địa hình rừng núi đầy vẻ hoang sơ, hùng vĩ nhưng cũng không kém phần lãng mạn. Quang
Dũng là nhà thơ có phong cách độc đáo, đọc thơ ông, người ta có thể thấy cảnh vật hiển hiện lên
ngay trước mắt. Và trong đoạn thơ này, Quang Dũng cũng đã phác họa những nét đặc thù nơi đây.
Nhắc đến Tây Tiến là nhắc đến những hình ảnh mang tính đặc trưng của nơi này đêm hơi, dốc khúc
khuỷu, dốc thăm thẳm, cồn mây, mưa xa khơi,…. Như vậy, bên cạnh liên tưởng định vị, liên tưởng
đồng loại, đoạn thơ trên còn có cả liên tưởng đặc trưng.
Ví dụ thứ hai là đoạn thơ của Tố Hữu trích trong bài Việt Bắc:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
(Tố Hữu, Việt Bắc)
Đây được xem là một trong những đoạn thơ hay trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Đoạn
thơ đã miêu tả vẻ đẹp của Việt Bắc vào các mùa trong năm. Nó có thể được xem như là bức tranh tứ
bình về thiên nhiên nơi này. Tất nhiên, trong đoạn thơ này, Tố Hữu cũng đã vận dụng sự liên tưởng,
đã dùng phép liên kết liên tưởng để liên kết các dòng thơ với nhau. Mối quan hệ dễ nhìn thấy nhất ở
đây là quan hệ ngang hàng của các sự vật, các đối tượng được nhắc đến, nên giữa các dòng thơ chứa
chúng có sự liên tưởng đồng loại. Có thể có hai chùm liên tưởng là chùm hoa chuối (đỏ) – (hoa)
mơ (trắng) – rừng phách (vàng) và chùm liên tưởng gồm những con người với lao động đặc thù
hoặc với đặc trưng (người) dao gài thắt lưng, người đan nón, cô em gái hái măng, (người – cất)
tiếng hát.
Kiểu liên tưởng tiếp theo trong đoạn thơ trên là liên tưởng định vị. Vì căn cứ địa Việt Bắc
gắn liền với vùng rừng núi, nên khi miêu tả vẻ đẹp của Việt Bắc, nhà thơ đã miêu tả vẻ đẹp của
rừng vào bốn mùa trong năm rừng xanh, mơ nở trắng rừng, rừng phách, rừng thu. Theo chúng tôi,
ta có thể xem đó là liên tưởng định vị mà cũng có thể xem đây là liên tưởng đặc trưng, vì vẻ đẹp đặc
trưng của Việt Bắc cũng đồng thời là vẻ đẹp của những cánh rừng.
Nếu như liên tưởng đặc trưng mà chúng tôi mà chúng vừa nhắc đến ở trên là đặc trưng chung
của Việt Bắc, thì ở kiểu liên tưởng đặc trưng tiếp theo, chúng tôi muốn nói đến đặc trưng riêng của
các mùa trong năm. Vậy, các chùm liên tưởng đặc trưng ở đây là mùa xuân – mơ, người đan nón;
mùa hè – ve kêu, rừng phách đổ vàng, cô em gái hái măng; mùa thu – ánh trăng, tiếng hát và dùng
phép loại suy, ta cũng có thể nhận biết chùm liên tưởng thứ tư là mùa đông – hoa chuối đỏ tươi,
nắng ánh dao gài thắt lưng. Mỗi mùa được tác giả miêu tả bằng mĩ cảm của riêng mình, và bằng vẻ
đẹp đặc trưng của nó. Vẻ đẹp đặc trưng của mỗi mùa chính là vẻ đẹp hài hòa giữa thiên nhiên và
con người.
Ví dụ thứ ba là một đoạn thơ Đất nước trích từ trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn
Khoa Điềm:
Đất là nơi em đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Phép liên kết liên tưởng mà ta có thể dễ dàng nhận thấy ở khổ thơ này là liên tưởng bao hàm.
Theo Trần Ngọc Thêm, trong liên tưởng bao hàm, trật tự giữa từ chỉ cái riêng và cái chung không cố
định, nhưng thứ tự chung – riêng có tần số xuất hiện cao hơn so với thứ tự riêng – chung. Chúng tôi
nhận thấy, trật tự của từ chỉ cái riêng và cái chung ở đây được sắp xếp theo cả hai kiểu riêng –
chung và cả chung – riêng. Ở ba dòng đầu của đoạn trích trên, Nguyễn Khoa Điềm định nghĩa hai
cái riêng là đất và nước trước, sau đó mới đi đến định nghĩa về cái chung là đất nước. Bốn dòng
tiếp theo thì nhà thơ lại định nghĩa theo trình tự ngược lại. Tức là, định nghĩa cái chung là đất nước
trước, sau đó mới tách ra định nghĩa từng cái riêng là đất và nước.
Kiểu liên tưởng thứ hai ở đây là kiểu liên tưởng định vị. Nhà thơ đã định nghĩa đất nước bằng
cách nêu lên những không gian gần gũi, quen thuộc đối với tất cả mọi người. Dấu hiệu để chúng ta
có thể nhận biết kiểu liên tưởng này là căn cứ vào phép điệp là nơi mà tác giả đã sử dụng trong đoạn
thơ đó.
Kiểu liên tưởng thứ ba, theo chúng tôi là liên tưởng đồng loại. Trong hai dòng cuối, để định
nghĩa đất và nước tác giả đã dùng hai hình ảnh được xem có mối quan hệ ngang hàng nhau là con
chim phượng hoàng và con cá ngư ông trong cùng một câu hò của Bình - Trị - Thiên. Nguyên văn
của câu hò này là “Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc/ Con cá ngư ông móng nước
ngoài khơi/ Gặp nhau đây xin phân tỏ đôi lời/ Kẻo mai kia con cá về sông vịnh, con chim nọ đổi dời
về non xanh”.
Đoạn thơ sau trong bài Dọn về làng của Nông Quốc Chấn cũng là một ví dụ cho liên kết liên
tưởng trong thơ:
Mặt trời lên! Sáng rõ rồi mẹ ạ!
Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà
Giặc Pháp, Mĩ còn giết người, cướp của trên đất ta
Đuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ.
(Nông Quốc Chấn, Dọn về làng)
Kiểu liên tưởng thứ nhất trong đoạn thơ trên là kiểu liên tưởng đặc trưng. Ta thấy ở ngay
dòng đầu, có sự xuất hiện của dấu câu (!). Như vậy, ta có thể xem dòng thơ này có hai phát ngôn.
Phát ngôn thứ nhất có hình tượng mặt trời và phát ngôn thứ hai có dấu hiệu đặc trưng của hình
tượng này là sáng rõ rồi. Kiểu liên tưởng thứ hai trong đoạn thơ trên là liên tưởng sự kiện – nguyên
nhân, một biến thể của liên tưởng nhân quả. Nguyên nhân là giặc Pháp, Mĩ còn giết người, cướp
của trên đất ta, còn kết quả là con đi bộ đội. Kết cấu chỉ nguyên nhân xuất hiện sau kết cấu chỉ kết
quả chứ không theo trật tự thông thường. Kiểu liên tưởng thứ ba là liên tưởng định chức. Đây là sự
liên tưởng giữa bộ đội với chức năng điển hình của bộ đội là đuổi hết nó đi (nó ở đây là giặc Pháp
và giặc Mĩ).
Bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi cũng là một ví dụ cho phép liên kết liên tưởng.
Chúng tôi chỉ trích dẫn đoạn mở đầu của bài thơ này:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
(Nguyễn Đình Thi, Đất nước)
Kiểu liên tưởng mà nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã vận dụng trong đoạn thơ trên là liên tưởng
đặc trưng. Đối tượng cụ thể ở đây là mùa thu với những dấu hiệu đặc trưng của nó như sáng mát
trong, gió thổi, hương cốm mới. Kiểu liên tưởng thứ hai là liên tưởng nhân quả. Những dấu hiệu
trên là dấu hiệu của mùa thu trong hiện tại. Nó chính là nguyên nhân khiến cho tác giả nhớ những
ngày thu đã xa.
Chế Lan Viên cũng là nhà thơ lớn của thơ ca cách mạng Việt Nam. Bài thơ khá tiêu biểu của
ông trong thơ ca cách mạng là Tiếng hát con tàu.
Con nhớ anh con, người anh du kích
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con.
Con nhớ em con, thằng em liên lạc
Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ
Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc
Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư.
Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau mế thức một mùa dài
Con với mế không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi.
(Chế Lan Viên, Tiếng hát con tàu)
Đoạn trích gồm có ba khổ thơ nói lên nỗi nhớ của tác giả, mỗi khổ nói lên nỗi nhớ về một
nhân vật. Khổ một, nhân vật được nhắc đến trong nỗi nhớ của tác giả là anh con, khổ hai – thằng em
liên lạc, khổ ba – mế. Xét về mặt ngôn ngữ, ba nhân vật này có mối quan hệ ngang hàng nhau. Vì
thế, liên tưởng giữa ba khổ thơ này là liên tưởng đồng loại.
Kiểu liên tưởng thứ hai trong đoạn thơ trên là liên tưởng đặc trưng. Mỗi khổ gồm có bốn
dòng thơ. Dòng đầu, nhắc đến nhân vật, các dòng sau là dấu hiệu đặc trưng để nhận biết nhân vật
đó. Như vậy, ta có ba chùm liên tưởng đặc trưng là: người anh du kích với các dấu hiệu đặc trưng
chiếc áo nâu; thằng em liên lạc – phong thư; mế - tóc bạc. Trong khổ một, chúng tôi nhận thấy có
cả liên tưởng định chức. Cụ thể là người anh du kích – công đồn. Trong khổ hai, còn có liên tưởng
định vị. Những từ chỉ không gian hoạt động của thằng em liên lạc như rừng thưa, rừng rậm, bản
Na, bản Bắc.
Ví dụ tiếp theo là một đoạn trích trong bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy:
Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng
(Nguyễn Duy, Đò Lèn)
Trong đoạn thơ trên có phép liên tưởng đồng loại (giữa hai đối tượng đền Cây Thị và đền
Sòng) và liên tưởng đặc trưng. Các cụm từ cho phép ta nghĩ đến liên tưởng đặc trưng là các cụm từ
chỉ rõ dấu hiệu nhận biết ở các ngôi đền như mùi huệ trắng, khói trầm, điệu hát văn, bóng cô đồng.
Trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, có đoạn mở đầu như sau:
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
(Xuân Quỳnh, Sóng)
Ở đây, ta có thể dễ dàng thấy được liên tưởng đặc trưng và liên tưởng nhân quả. Liên tưởng
đặc trưng ở đây là giữa con sóng với những dấu hiệu của nó dữ dội và dịu êm, ồn ào và lặng lẽ. Còn
liên tưởng nhân quả được thể hiện qua nguyên nhân sông không hiểu nổi mình nên dẫn đến kết quả
là sóng tìm ra tận bể.
Sau khi xem xét các ví dụ được trích từ các tác phẩm thơ trong chương trình sách giáo khoa
Ngữ văn 12, chúng tôi nhận thấy rằng các tác giả đều đã vận dụng hầu hết các kiểu liên kết liên
tưởng – liên tưởng bao hàm, liên tưởng đồng loại, liên tưởng định vị, liên tưởng định chức, liên
tưởng đặc trưng, liên tưởng nhân quả. Theo cách phân loại của Trần Ngọc Thêm, có tất cả bảy kiểu
liên kết liên tưởng. Nhưng trong các tác phẩm thơ ca trong Sách giáo khoa Ngữ văn 12, chúng tôi
không tìm thấy bài thơ hoặc đoạn thơ nào có sử dụng phép liên kết liên tưởng thứ bảy là liên tưởng
định lượng. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn có thể tìm thấy kiểu liên tưởng này trong tác phẩm thơ ca
khác. Chẳng hạn như trong bài thơ Cô hàng xóm của Nguyễn Bính.
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái dậu mồng tơi xanh rờn
Hai người sống giữa cô đơn
Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi.
Như vậy, tất cả các kiểu liên kết liên tưởng theo cách phân loại của Trần Ngọc Thêm đều
hiện diện trong các tác phẩm thơ ca. Tất nhiên là không phải mỗi một tác phẩm đều có sự hiện diện
của cả bảy kiểu liên tưởng, và cũng không phải mỗi một tác phẩm đều chỉ có một kiểu liên tưởng
mà thôi. Điều dễ dàng nhận thấy nhất là liên kết phức là hiện tượng khá phổ biến.
Tuy nhiên, chúng tôi không mong muốn đề tài nghiên cứu của mình dừng lại ở việc tìm ra
các kiểu liên tưởng theo quan niệm của Trần Ngọc Thêm trong một số tác phẩm thơ ca Việt Nam,
mà hy vọng rằng, sau khi nghiên cứu thơ ca của một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu trong thời kì văn
học trung đại và hiện đại, chúng tôi sẽ có những phát hiện mới mẻ, thú vị khác về phong cách cá
nhân của các tác giả ở phương diện này.
Đó chính là những nội dung mà chúng tôi sẽ trình bày trong hai chương còn lại của luận văn
này.
Chương 2
KHẢO SÁT LIÊN KẾT LIÊN TƯỞNG TRONG THƠ
CỦA MỘT SỐ TÁC GIA VĂN HỌC VIỆT NAM
TRUNG ĐẠI TIÊU BIỂU
Văn học Việt Nam trung đại có rất nhiều nhà thơ tiêu biểu. Trong số đó, chúng tôi chỉ chọn
Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương và Nguyễn Khuyến vì nhiều lí do. Trước hết, Nguyễn Trãi là cây đại
thụ trong nền văn học nước nhà. Cuộc đời chịu nhiều oan khiên thảm khốc, nhưng thơ ông vẫn chan
hòa tình cảm, đặc biệt, lòng yêu nước thương dân là vẻ đẹp trong tâm hồn ông. Vẻ đẹp đó là sự kết
hợp hài hòa giữa người anh hùng vĩ đại và con người trần thế. Ông đau nỗi đau con người và yêu
tình yêu của con người. Tư tưởng Nguyễn Trãi là đỉnh cao kết tinh tư tưởng Việt Nam thời trung
đại. Ông là một tác gia xuất sắc ở nhiều thể loại văn học, trong sáng tác chữ Hán hay chữ Nôm, văn
chính luận hay thơ trữ tình đều có những thành tựu nghệ thuật to lớn. Văn chương Nguyễn Trãi là
thành tựu nghệ thuật mang ý nghĩa kết tinh trên cả hai bình diện cơ bản nhất là thể loại và ngôn ngữ.
Có thể nói, Nguyễn Trãi là người mở đường cho sự phát triển của thơ ca tiếng Việt. Tiếp theo, Hồ
Xuân Hương là một hiện tượng thơ đặc biệt trong xã hội phong kiến nước ta. Cá tính của bà, những
tư tưởng, những cách diễn đạt trong thơ bà dường như đối chọi với xã hội phong kiến đương thời.
Hồ Xuân Hương là tác giả của những bài thơ Nôm hết sức độc đáo và sắc sảo. Đặc biệt về phương
diện ngôn ngữ, bà có những sáng tạo và thành công đáng kể trong việc sử dụng ngôn ngữ hằng ngày
để sáng tác thơ, trong việc học tập ca dao, tục ngữ, thành ngữ. Hồ Xuân Hương đã khai thác triệt để
khả năng tu từ phong phú của ngôn ngữ dân tộc và đã mài sắc ngôn ngữ dân tộc của thời đại mình.
Bà là một hiện tượng có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam. Và Nguyễn Khuyến, nhà
thơ sống và sáng tác trong thời kì đặc biệt của nước nhà. Sáng tác của Nguyễn Khuyến gồm cả chữ
Hán và chữ Nôm với số lượng lớn. Thơ ông nói lên tình yêu quê hương đất nước, gia đình, bè bạn;
phản ánh cuộc sống của những con người khổ cực, thuần hậu, chất phác; châm biếm, đả kích thực
dân xâm lược, tầng lớp thống trị, đồng thời bộc lộ tấm lòng ưu ái đối với dân, với nước. Trong số
các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nguyễn Khuyến được mệnh danh là nhà thơ của quê hương làng
cảnh Việt Nam. Điều đó không chỉ được thể hiện ở tình yêu của nhà thơ đối với cảnh vật, mà còn ở
nghệ thuật bậc thầy trong việc tả cảnh, tả tình với ngôn ngữ và hình ảnh thơ mang đậm tính dân tộc.
Mỗi một nhà thơ mà chúng tôi lựa chọn đều có dấu ấn riêng độc đáo và có nhiều đóng góp
hết sức quan trọng cho thơ ca Việt Nam trung đại qua các giai đoạn phát triển. Đó là những lí do cơ
bản nhất để chúng tôi lựa chọn tác phẩm của ba tác gia này làm đối tượng khảo sát.
2.1. Liên kết liên tưởng trong thơ Nguyễn Trãi
2.1.1. Thơ chữ Nôm
Trong số các sáng tác bằng chữ Nôm, Nguyễn Trãi đã gộp nhiều bài vào một chùm thơ cùng
chung một tựa đề. Chúng ta có thể thấy được những chùm thơ có cùng các tựa đề như sau: Ngôn
chí, Mạn thuật, Trần tình, Thuật hứng, Tự thán, Tự thuật, Tức sự, Bảo kính cảnh giới và Tự giới.
Các bài thơ trong cùng một tựa đề như thế đã được những nhà soạn dịch đánh số thứ tự. Trong
khuôn khổ bài viết của mình, chúng tôi sẽ chọn ngẫu nhiên một bài bất kì trong cùng một chùm thơ để
khảo sát.
Trước tiên là bài Ngôn chí II.
Chân mềm ngại bước dặm mây xanh,
Quê cũ tìm về, cảnh cũ thanh.
Hương cách gác vân, thu lành lạnh,
Thuyền kề bãi tuyết, nguyệt chênh chênh.
Ân tư là ấy yêu đường chúa,
Lỗi thác là nơi lụy bởi danh.
Bui có một niềm trung hiếu cũ,
Chẳng nằm, thức dậy nẻo ba canh.
Thoạt nhìn, ta cứ ngỡ đây là bài thơ tả cảnh, nhưng càng về cuối bài, ta thấy tác giả đã gửi
gắm tâm trạng, gửi gắm nỗi lòng mình. Tâm ấy xuất phát từ cảnh, tả cảnh là để ngụ tình. Những chi
tiết, những sự vật được miêu tả là cảnh cũ, gói trọn trong không gian quê cũ. Như vậy không gian
nghệ thuật của bài thơ đã được định vị nơi quê cũ. Trong không gian ấy, hiện lên những hình ảnh,
sự vật cũng rất đỗi quen thuộc nhưng cũng rất thi vị. Đó là gác, thuyền, bãi, nguyệt. Nhưng gác ở
đây không là gác bình thường mà là gác vân, bãi ở đây cũng là bãi đặc biệt, bãi tuyết. Tuy nhiên,
trong phạm vi bài viết của mình, chúng tôi không đi sâu vào khai thác điều này, chúng tôi chỉ xem
xét cơ sở nào mà các câu thơ liên kết được với nhau, và liên kết theo kiểu liên tưởng nào. Theo đó,
các hình ảnh, sự vật tồn tại trong không gian đã được định vị ấy là những sự vật có quan hệ ngang
hàng nhau, không cái nào là cái chung của những cái riêng nào. Do đó, những câu thơ chứa chúng
liên kết với nhau theo kiểu liên kết liên tưởng đồng loại. Thêm nữa, ở câu thơ thứ ba và thứ tư, ta
thấy sở dĩ chúng liên kết được với nhau cũng là nhờ hai yếu tố là thu lành lạnh và nguyệt chênh
chênh. Ta cũng dễ dàng biết được rằng trăng là hình ảnh, là dấu hiệu đặc trưng của mùa thu, vậy
nên, ta cũng có thêm phương thức liên kết liên tưởng đặc trưng. Không gian nghệ thuật của quê cũ
đã khiến cho nhà thơ bày tỏ nỗi lòng của mình ở bốn câu thơ tiếp theo. Từ đó, ta cũng có thể xem
các câu thơ đầu tả cảnh là nguyên nhân của tâm trạng ở những câu thơ tiếp theo. Mối quan hệ bao
trùm là quan hệ nhân quả. Và cách thức chúng liên kết được với nhau là liên kết liên tưởng nhân
quả.
Tiếp theo là bài Mạn thuật VIII:
Quê cũ nhà ta thiếu của nào?
Rau trong nội, cá trong ao.
Cách song, mai tỉnh hồn Cô Dịch,
Kề nước, cầm đưa tiếng cửu cao.
Khách đến, vườn còn hoa lác
Thơ nên, cửa thấy nguyệt vào.
Cảnh thanh nhường ấy chăng về nghỉ?
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào?
Ở bài thơ này, không gian nghệ thuật cũng lại là quê cũ. Trong không gian đó tồn tại nhiều
sự vật, loài vật; chúng tạo nên phương thức liên kết liên tưởng đồng loại. Những sự vật đó gồm rau,
cá, cầm, khách, hoa, vườn, song, cửa, nguyệt. Giữa chúng có mối quan hệ ngang hàng với nhau,
không sự vật nào bao hàm sự vật nào. Trong bài thơ này, chúng có cùng chung một nhiệm vụ là làm
cho bức tranh thiên nhiên thêm sinh động, thêm trữ tình và vì thế lòng người lại thêm thư thái, như
hòa quyện cùng thiên nhiên. Âu đó cũng là thú vui lúc sinh bình của bậc tao nhân vậy.
Bây giờ, chúng ta hãy đến với một bài thơ trong chùm thơ Trần tình (bài số IV).
Lồng lộng trời, tư chút đâu?
Nào ai chẳng đội ở trên đầu?
Song cửa ngọc, vân yên cách
Dãi lòng đan, nhật nguyệt thâu.
Chim đến cây cao chim nghỉ đỗ,
Quạt hay thu lạnh, quạt sơ thu
Ngoài năm mươi tuổi, ngoài chưng thế
Ắt đã tròn bằng nước ở bầu.
Cũng như trong hai bài thơ vừa phân tích ở trên, trong bài thơ này ta lại thấy có phương thức
liên kết liên tưởng đồng loại. Tác giả đã miêu tả bức tranh thật nên thơ với những hình ảnh thật
trong sáng, sống động và như có linh hồn. Chúng là song cửa ngọc, mây (vân), khói (yên), nhật,
nguyệt. Chúng có quan hệ ngang hàng nhau, không phụ thuộc, bao hàm trong nhau, chúng đã tạo
nên phương thức liên kết liên tưởng đồng loại. Tất cả như tạo thành một bức tranh hữu tình nhưng
ẩn đằng sau đó là cả nỗi lòng mà nhà thơ gửi gắm. Khói mây như chia cách với đời, nhưng nhật
nguyệt thì lại như thấu suốt nỗi lòng tác giả. Lại thêm nữa, hình ảnh của cánh chim và chiếc quạt
như nói hộ nỗi lòng thi nhân. Chim thì nghỉ đỗ, quạt thì xếp lại. Có phải chăng, đó là hình ảnh mang
ý nghĩa biểu tượng, tượng trưng cho nhà thơ? Ông đã lui về quê ở ẩn, như cánh chim bằng mỏi cánh
đã dừng chân, như chiếc quạt đang thu mình lại. Nguyễn Trãi đã tự xem mình như là người ngoài
thế cuộc, và như thế đã là như nước ở bầu rồi. Nói đến những liên tưởng trong bài thơ này thì không
chỉ có một, nhưng nói đến liên kết liên tưởng trong bài thơ thì theo chúng tôi, chỉ có liên kết liên
tưởng đồng loại.
Trong bài thơ Thuật hứng II, ta cũng có thể thấy liên kết liên tưởng đồng loại như thế:
Một cày một cuốc, thú nhà quê,
Áng cúc lan chen vãi đậu kê.
Khách đến chim mừng hoa xảy động,
Chè tiên nước kín nguyệt đeo về.
Bá Di người rặng thanh là thú
Nhan Tử ta xem ngặt ấy lề
Kệ tiếng dữ lành tai quản lấp
Cầu ai khen mấy lệ ai chê?
Đọc bài thơ ta thấy có nhiều chùm sự vật, sự việc hay người có quan hệ ngang hàng nhau tạo
nên liên kết liên tưởng đồng loại. Chùm liên tưởng thứ nhất là chim, hoa và nguyệt. Ba yếu tố này
như ba nhân vật trữ tình cùng làm bạn với thi nhân đang say sưa vui thú nhà quê. Chùm liên tưởng
thứ hai là người và ta, Bá Di và Nhan Tử. Đây là hai nhân vật khá nổi tiếng trong sử sách Trung
Hoa. Bá Di được biết đến như một người có lối sống thanh tao và xem đó như là thú ở đời, còn
Nhan Tử lại được biết đến như một người nghèo khó nhưng học hành giỏi giang. Hai câu thơ đối
nhau, nếu như người bảo rằng sống thanh tao như Bá Di là thú, thì ta lại xem cái nghèo của Nhan
Tử như là khuôn phép. Như vậy triết lí sống của Nguyễn Trãi trong bài thơ này là mặc dù sống
trong nghèo khó nhưng vẫn giữ được tâm hồn thanh cao trong sáng. Xem ra, triết lí ấy, bài học ấy
vẫn còn có giá trị trong xã hội hiện nay.
Phương thức liên kết liên tưởng thứ hai mà chúng tôi nhận thấy được trong bài thơ này là liên
tưởng định chức. Đối tượng được định chức ở đây là một cày, một cuốc. Chức năng điển hình cuốc,
cày, vun, xới của nó đã tạo ra áng cúc lan chen vãi đậu kê. Nói như thế thì ta cũng có thể cho rằng
liên kết giữa câu một và câu hai là liên kết liên tưởng nhân quả. Hình ảnh mà câu hai có được là kết
quả hoạt động của những công cụ đã xuất hiện ở câu một. Đây là bài thơ có hiện tượng liên kết phức
gồm liên kết liên tưởng đồng loại, liên kết liên tưởng định chức và liên kết liên tưởng nhân quả.
Bài thơ Tự thán VII cũng có phương thức liên kết liên tưởng đồng loại.
Lọ chi tiên bụt, nhọc tầm phương?
Được thú an nhàn ngày tháng trường.
Song có hoa mai, trì có nguyệt,
Án còn phiến sách, triện còn hương.
Tôi ngươi một tiết bền bằng đá,
Biên tóc mười phân chịu những sương.
Chữ học ngày xưa quên hết dạng,
Chẳng quên có một chữ cương thường.
Các chùm liên tưởng đồng loại trong bài thơ này lần lượt là song, trì, án, triện; hoa mai,
nguyệt, sách, hương. Giữa chúng có quan hệ ngang hàng nhau, liên kết nhau theo kiểu liên tưởng
đồng loại. Những hình ảnh trên giúp ta có thể liên tưởng đến một nhà nho với phong thái ung dung,
tự tại, an nhàn, sống thanh cao. Nhà nho ấy không ai khác hơn chính tác giả Nguyễn Trãi, nhà nho
ấy vừa là tác giả, vừa là nhân vật trữ tình của bài thơ. Như vậy, có thể nói, những sự vật có quan hệ
ngang hàng nhau mà chúng tôi vừa kể ở trên, là những dấu hiệu đặc trưng để “nhận diện” một tao
nhân mặc khách. Do đó, bài thơ này có cả liên kết liên tưởng đặc trưng.
Ta lại bắt gặp lối sống thanh cao, không màng thế cuộc nhưng vẫn nặng lòng với dân với
nước trong bài thơ Tự thuật IV.
Khó khăn là của thế gian yêm,
Huống mỗ già dại dột thêm.
Cúc đợt đến thu hương chỉn muộn,
Mai sinh phải tuyết, lạnh chăng hiềm.
Gia sơn đường cách muôn dặm,
Ưu ái lòng phiền nửa đêm.
Biển hiểm nhân gian ai kẻ biết?
Ghê thay thế nước vị qua mềm!
Dường như phương thức liên kết liên tưởng đồng loại là phương thức liên kết phổ biến trong
thơ của Nguyễn Trãi. Trong bài thơ trên, chúng tôi nhận thấy cũng có sự hiện diện của phương thức
liên kết này. Hai sự vật được xem là có quan hệ ngang hàng nhau tạo nên liên kết liên tưởng đồng
loại là cúc và mai. Hoa cúc tượng trưng cho mùa thu, nhưng hoa cúc trong bài thơ này dường như
nở sớm, nên phải đợi đến thu thì muộn màng mất rồi, còn đâu hương sắc. Hoa mai tượng trưng cho
mùa xuân, nhưng mai ở đây cũng dường như nở sớm khi đông chưa tàn, mai gặp hoàn cảnh khắc
nghiệt, bị dập vùi trong gió tuyết. Hai loài hoa đẹp, tượng trưng cho những mùa đẹp trong năm,
nhưng khốn thay lại nở không đúng thời điểm. Có phải chăng, Nguyễn Trãi mượn hai hình ảnh ấy để
tự nhận mình là kẻ sinh bất phùng thời?
Ở câu năm và sáu, ta thấy có hai từ đặc biệt là gia sơn và ưu ái. Gia sơn là ở quê nhà, hay nói
khác hơn, nhà thơ dùng từ này để nói lên nỗi lòng nhớ nhà, nhớ quê. Còn ưu ái ở đây có thể hiểu là
tấm lòng ưu dân ái quốc của tác giả. Hai nỗi lòng, hai tâm trạng nhưng thật ra chỉ là một. Đấy chính
là dấu hiệu đặc trưng để nhận biết thi nhân Nguyễn Trãi, mặc dù rời chốn quan trường, về Côn Sơn
ẩn dật nhưng vẫn nặng lòng với dân với nước. Vậy nên, bài thơ này còn có cả liên kết liên tưởng đặc
trưng.
Chúng ta cũng lại bắt gặp một Nguyễn Trãi với một triết lí sống, một phong thái thanh nhàn
hài hòa với thiên nhiên trong bài thơ Tức sự II.
Giậu thưa thưa hai khóm trúc,
Giường thấp thấp một nồi hương.
Vượn chim kết bạn non nước quạnh,
Cầm sách cùng nhau ngày tháng trường.
Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh,
Áo bồ quen cật vận xênh xang.
Bốn dân nghiệp có cao cùng thấp,
Đều hết làm tôi thánh thượng hoàng.
Liên kết liên tưởng đồng loại và liên tưởng bao hàm được thể hiện ở hai câu thơ đầu. Giậu
thưa thưa và giường thấp thấp là hai bộ phận thường thấy của nhà tranh vách đất ở làng quê, chúng
có quan hệ ngang hàng nhau, nên liên kết liên tưởng ở đây vừa là liên tưởng đồng loại, vừa là liên
kết liên tưởng bao hàm.
Nhân vật trữ tình trong bài thơ này không ai khác ngoài Nguyễn Trãi. Hình ảnh của nhân vật
ấy thấp thoáng ẩn hiện trong câu năm và câu sáu của bài thơ thông qua hai sự vật là hài cỏ và áo bồ.
Hai sự vật ấy có quan hệ ngang hàng nhau nên giữa chúng có sự liên kết theo kiểu liên tưởng đồng
loại. Đồng thời hai sự vật này cũng có thể xem là bộ phận của con người, của nhân vật trữ tình.
Chúng vừa là bộ phận, vừa là dấu hiệu đặc trưng cho một con người sống thanh nhàn và hài hòa với
thiên nhiên, cây cỏ. Cho nên kiểu liên tưởng ở đây cũng có thể là liên tưởng bao hàm, đồng thời
cũng có thể là liên tưởng đặc trưng.
Điểm đặc biệt của bài thơ này nằm ở hai câu thơ cuối. Ở câu bảy, tác giả có nói đến bốn dân.
Ta có thể hiểu bốn dân ở đây là sĩ, nông, công, thương. Dù cho thuộc tầng lớp cao hay thấp đi chăng
nữa, trong hoàn cảnh này đều có thể được xem là thánh thượng hoàng. Mối quan hệ giữa bốn dân
và đều là mối quan hệ của liên tưởng định lượng. Cụ thể là liên tưởng định lượng hợp – phân. Từ
đều để chỉ từng số lượng bộ phận, danh từ đi kèm theo nó đã được lược bỏ, nhưng ta có thể hiểu là
từng tầng lớp khác nhau trong xã hội. Vậy, ở hai câu thơ này, có phương thức liên kết liên tưởng
định lượng.
Trong mảng thơ triết lí, đạo đức còn có chùm Bảo kính cảnh giới. Chúng tôi chỉ chọn bài số
VI để làm ngữ liệu cho luận văn của mình.
Một yên, một sách, một con lều,
Song viết bao nhiêu mặc bấy nhiêu.
Giậu cúc thu vàng nẩy lác
Sân mai tuyết bạc che đều.
Có con mới biết ơn cha nặng,
Dành lộc thì hay nghĩa chúa nhiều.
Gẫm trong nhàn, nào thửa được?
Đầy song hoa nở, tiếng chim kêu.
Liên kết liên tưởng đầu tiên mà chúng tôi nhận thấy là liên kết lên tưởng định chức. Đối
tượng được định chức là yên, là sách, chức năng điển hình của nó là dùng để viết. Mối quan hệ định
chức ở đây là mối quan hệ giữa công cụ – hành động. Ngoài ra ở hai câu thơ này còn có cả liên kết
liên tưởng định vị. Không gian được định vị ở đây là con lều, hành động được định vị trong không
gian đó là hành động viết. Trong hai câu thơ tiếp theo, ta thấy có phương thức liên kết liên tưởng
đồng loại. Những sự vật có quan hệ ngang hàng nhau là giậu và sân, cúc và mai. Những sự vật ấy,
mặc dù xét về ngữ nghĩa, chúng không phụ thuộc vào nhau, không cái nào bao hàm cái nào, nhưng
giữa chúng lại có sự kết hợp hài hòa với nhau tạo nên một hình ảnh đẹp cho bức tranh thiên nhiên
nơi thôn dã.
Cũng như bài thơ vừa phân tích phía trên, bài thơ này cũng có điểm đặc biệt ở hai câu cuối.
Theo chúng tôi, hai câu cuối này đặc biệt là vì giữa chúng có liên kết liên tưởng nhân quả. Tuy
nhiên, trật tự sắp xếp ở đây không phải là trật tự thông thường nhân trước – quả sau, mà nó được sắp
xếp theo một trật tự ngược lại, quả trước – nhân sau. Câu bảy có hình thức là một câu hỏi nhưng đó
là câu hỏi tu từ, được dùng để khẳng định. Tác giả khẳng định không nơi nào nhàn được như ở đây.
Chúng tôi xem đây như là kết quả, và nguyên nhân khiến nhà thơ có thể khẳng định được điều đó là
đầy song hoa nở, tiếng chim kêu.
Như vậy, bài thơ này cũng là bài thơ có hiện tượng liên kết phức. Nó có liên tưởng định
chức, liên tưởng định vị, liên tưởng đồng loại và liên tưởng nhân quả.
Cuối cùng ở mảng đề tài này, chúng tôi sẽ tìm hiểu một trong số các bài thơ Tự giới. Đó là
bài Tự giới XI:
Giàu người hợp, khó người tan,
Hai ấy hằng lề sự thế gian.
Những kẻ ân cần khi phú quí,
Họa ai bao bọc thủa gian nan.
Lều không, con cái hằng tình phụ,
Bếp lạnh, anh tam biếng hỏi han.
Lòng thế bạc đen dầu nó biến
Ta thìn nhân nghĩa, chớ loàn đơn.
Ở hai câu đầu, ta thấy có liên kết liên tưởng định lượng. Chúng có chứa hai yếu tố liên kết
mà một trong hai yếu tố liên kết là một từ chỉ số lượng chung hai (ở câu hai) và yếu tố liên kết kia là
từ chỉ số lượng bộ phận (ở câu một). Liên kết liên tưởng thứ hai là liên kết liên tưởng bao hàm.
Quan hệ bao hàm được thể hiện ở hai sự vật là lều và bếp. Lều là yếu tố chỉ cái toàn thể, bếp là yếu
tố chỉ một bộ phận nằm trong cái toàn thể ấy. Liên kết liên tưởng thứ ba là liên kết liên tưởng đồng
loại. Những đối tượng tạo nên liên kết liên tưởng này là con cái, anh tam (anh em). Giữa chúng có
mối quan hệ ngang hàng nhau, không phân biệt được cái nào bao hàm trong cái nào, chúng đều là
những cái riêng của cùng một cái chung là gia đình.
Bài thơ này cũng có liên kết liên tưởng đặc biệt ở hai câu cuối. Theo nhận định của chúng tôi
thì mối quan hệ giữa hai câu này là quan hệ nghịch nhân quả. Nguyên nhân là lòng thế bạc đen dầu
nó biến nhưng kết quả lòng người vẫn không thay đổi, vẫn ta thìn nhân nghĩa, chớ loàn đơn (chớ
lăng loàn, đơn sai).
Đến đây, chúng tôi xin phép tạm dừng việc phân tích các liên kết liên tưởng trong thơ Nôm
của Nguyễn Trãi để chuyển sang thơ ông viết bằng chữ Hán.
2.1.2. Thơ chữ Hán
Khi tìm hiểu các bài thơ Nguyễn Trãi viết bằng chữ Hán, chúng tôi không tiếp cận ở các bản
nguyên tác, mà chúng tôi tiếp cận thông qua các bản dịch và dựa vào các bản dịch để phân tích các
phương thức liên kết liên tưởng. Tuy nhiên, chúng tôi cũng không thể tìm hiểu tất cả mà chỉ có thể
tìm hiểu khoảng mười bài thơ được chọn lựa ngẫu nhiên.
Trên dải Yên Sơn đỉnh tuyệt vời,
Đầu canh năm đã sáng trưng rồi
Mắt ngoài biển cả ôm trời đất,
Người giữa mây xanh vẳng nói cười.
Giáo ngọc quanh nhà giăng vạn khách,
Dải châu treo đá rủ lưng trời.
Nhân Tông còn miếu thời nao đó,
Thấy rõ đôi ngươi giữa ánh ngời.
Bài thơ trên có tựa đề là Đề chùa Hoa Yên, núi Yên Tử (Khương Hữu Dụng dịch). Nhắc đến
Yên Tử là nhắc đến cái nôi của thiền phái Trúc Lâm do vị vua anh minh Trần Nhân Tông sáng lập.
Tương truyền rằng, trong mắt vị vua này có hai con ngươi. Có lẽ vì thế nên hai câu thơ cuối của bài
thơ đã gợi cho người đọc nhớ lại tích cũ. Ở hai câu này, ta thấy có phương thức liên kết liên tưởng
theo kiểu liên tưởng đặc trưng. Nhân vật của phương thức liên kết liên tưởng này là vua Trần Nhân
Tông, với dấu hiệu đặc trưng của ngài là thấy rõ hai ngươi giữa ánh ngời. Thứ hai, tựa đề bài thơ
như thế thì ta cũng có thể thấy toàn bộ bài thơ được gói trọn trong phương thức liên tưởng định vị,
không gian được định vị ở đây đã được nói đến trong tựa đề. Những sự vật được định vị là biển cả,
mây xanh. Phương thức liên kết liên tưởng thứ ba là phương thức liên kết liên tưởng bao hàm.
Những từ có quan hệ bao hàm nhau là mắt và người. Vậy, bài thơ này có ba phương thức liên kết
liên tưởng là liên tưởng định vị, liên tưởng, bao hàm.
Tiếp theo là bài Đêm đậu thuyền ở cửa Lâm (Ngô Linh Ngọc dịch):
Xem triều, cửa biển neo buông tạm,
Văng vẳng bờ bên chuông vọng đưa.
Thuyền khách ba canh mưa lạnh gõ,
Sóng eo mười trượng gió thu lùa.
Ngán vòng thế tục thân danh hão,
Quẳng cái phù sinh giấc mộng hờ.
Tính khí một đời nguyên nếp cũ,
Lênh đênh há giảm chí hào xưa!
Trong bài thơ này cũng có phương thức liên kết liên tưởng định vị. Không gian được định vị
là cửa biển. Những sự vật được định vị trong không gian này là thuyền, sóng; những hiện tượng
được định vị trong không gian đó là gió, mưa. Tuy nhiên, nếu xét những sự vật theo mối quan hệ bất
khả li thì ta cũng có thể xem chúng như là những cái riêng của cùng một cái chung, nên giữa chúng
có sự liên kết theo phương thức liên tưởng bao hàm. Quan hệ bao hàm còn được thể hiện ở hai câu
cuối, qua từ ngữ tính khí, chí hào; chí hào có thể được xem như là một bộ phận riêng của cái chung
là tính khí.
Dưới đây là bài thơ mang tựa đề Cửa biển Bạch Đằng (Nguyễn Đình Hổ dịch):
Biển rung gió bấc thế bừng bừng,
Nhẹ cất buồm thơ lướt Bạch Đằng.
Kình ngạc bằm vằm non mấy khúc,
Giáo gươm chìm gãy bãi bao tầng.
Quan hà hiểm yếu trời kia đặt,
Hào kiệt công danh đất ấy từng.
Việc trước quay đầu, ôi đã vắng,
Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng.
Không gian được định vị trong bài thơ này là biển Bạch Đằng. Trong không gian ấy có tồn
tại gió, buồm, non, bãi. Không gian ấy còn được miêu tả bằng dấu hiệu đặc trưng quan hà hiểm yếu,
hào kiệt công danh. Ai cũng biết cửa biển Bạch Đằng xưa kia chính là chiến địa, là nơi ghi dấu bao
chiến công lừng lẫy của dân tộc, nhắc đến Bạch Đằng không thể không nhắc đến những dấu hiệu
đặc trưng ấy. Cửa biển Bạch Đằng được miêu tả bằng những chiến công, những dấu hiệu đặc trưng
như thế nên bài thơ này có phương thức liên kết liên tưởng đặc trưng. Ngoài ra, trong bài thơ này
còn có phương thức liên kết liên tưởng nhân quả. Những cảnh vật hiện có của Bạch Đằng khiến tác
giả hồi tưởng lại thời quá khứ hào hùng đã từng diễn ra nơi đây. Và cũng điều này đã khiến cho tác
giả cũng như người đọc mang trong lòng một chút bâng khuâng xa vắng, tác giả đã kết thúc bài thơ
bằng tâm trạng như vậy.
Bài thơ Bến Vọng Doanh (Ngô Linh Ngọc dịch) cũng là bài thơ có sử dụng phương thức liên
kết liên tưởng định vị. Không gian được định vị ở đây là bến Vọng Doanh, thời gian được định vị là
buổi chiều. Trong không gian, thời gian ấy tồn tại những sự vật làm nên cảnh vật và tồn tại cả tâm
trạng của con người.
Vọng Doanh chiều đến thuyền thơ buộc,
Cảnh ghẹo hồn thơ, hứng giục người.
Dục Thúy, mưa tan, non tựa ngọc,
Đại An, triều dậy, nước ngang trời.
Lờ mờ khói phủ hàng cây biếc,
Hun hút âu bay bãi cát bồi.
Ba chục năm xưa hồ hải khắp,
Chuyến này hơn hẳn bác Tô rồi.
Chúng ta cũng nhận thấy rằng, cảnh được miêu tả bằng những sự vật, hiện tượng như thuyền
thơ, mưa, triều, non, nước, khói phủ hàng cây, hải âu bay, bãi cát bồi. Những sự vật, hiện tượng ấy
đang tồn tại trong không gian, thời gian, được định vị ngay trong câu thơ đầu tiên. Phương thức liên
kết liên tưởng ở đây là phương thức liên kết liên tưởng định vị. Không chỉ thế, tô điểm thêm cho vẻ
đẹp của bến Vọng Doanh còn là Dục Thúy và Đại An. Chúng tôi cho rằng, Dục Thúy và Đại An là
những cái riêng, cái bộ phận của Vọng Doanh, nên chúng tôi cũng cho rằng trong bài thơ này có cả
liên kết liên tưởng bao hàm.
Trong bài thơ Nghe mưa (Xuân Diệu dịch) cũng có phương thức liên kết liên tưởng định vị,
định vị trong không gian và cả thời gian. Không gian là phòng trai tối, thời gian là đêm tịch mịch.
Tịch mịch phòng trai tối,
Suốt đêm nghe tiếng mưa.
Não nùng ghê gối khách,
Thánh thót điểm canh mờ,
Qua trúc khua bên cửa,
Hòa chuông vang trong mơ,
Ngâm rồi vẫn chẳng ngủ,
Đứt nối đến tinh mơ.
Trong không gian và thời gian ấy, tồn tại những âm thanh, hình ảnh và tâm trạng. Đó là tiếng
mưa thánh thót, trúc bên cửa, tiếng chuông vang, và tâm trạng của một người đang thao thức. Tuy
nhiên, bài thơ này cũng khó để mà xác định được những sự vật, những tâm trạng tồn tại theo cách
thức nào. Đôi khi, sự tồn tại của nó vừa hư vừa thực, vừa như trong mơ vừa như ở thực tại. Nhà thơ
đã bày tỏ tâm trạng của một người nặng lòng với non song với đất nước.
Có lẽ, trong những bài thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi mà chúng tôi phân tích, thì bài Gửi bạn
(Ngô Văn Triện dịch) là một trong những bài thơ không có phương thức liên kết liên tưởng định vị.
Phương thức liên kết liên tưởng nhân quả là phương thức dùng để liên kết câu một và câu hai.
Truân chuyên từng ngán bước đường đời,
Muôn việc đành thôi phó mặc trời.
Tấc lưỡi còn đây thường tự tín,
Thân nghèo mãi thế đáng thương thôi.
Lạnh lùng khách xá đêm dài mấy,
Vùn vụt quang âm bóng xế rồi.
Đọc sách mười năm nghèo đến tủy,
Ăn không rau đậu, chẳng chiên ngồi.
Theo chúng tôi, câu một là nguyên nhân còn câu hai là kết quả. Vì đã quá truân chuyên, đã
quá ngán bước đường đời cho nên muôn việc đành thôi phó mặc trời. Về ngôn từ thì chúng ta có thể
suy luận như vậy, nhưng trên thực tế, không phải nhà thơ đành phó thác mọi việc cho số phận mà là
qua bao biến động của thời cuộc, nhà thơ đã quá chán ngán trước những bon chen, xô bồ của chốn
quan trường, nên ông tạm thời lui về quê nhà ở ẩn. Mặc dù ở ẩn, ông vẫn nặng lòng với giang sơn
chứ không hề phó thác mọi việc cho số phận. Phương thức liên kết liên tưởng thứ hai là liên kết liên
tưởng đồng loại. Những yếu tố xuất hiện trong bài thơ như tấc lưỡi, thân nghèo, xét ở khía cạnh nào
đó, có thể xem như là bộ phận của cơ thể người, chúng có quan hệ ngang hàng nhau, là những cái
bộ phận của cùng một cái toàn thể. Phương thức liên kết liên tưởng thứ ba là phương thức liên kết
liên tưởng định chức. Là một nhà thơ, một nhà văn hóa lớn, việc đọc sách cũng có thể xem như là
chức năng điển hình. Phương thức liên kết liên tưởng thứ tư là liên kết liên tưởng đặc trưng. Tác giả
tự nhận mình là thân nghèo, thậm chí là nghèo đến tủy, và dấu hiệu đặc trưng của cái nghèo đó là ăn
không rau đậu, chẳng chiên ngồi. Thật vậy, cuộc sống của Nguyễn Trãi khi về quê ở ẩn là cuộc
sống nghèo khó, thanh đạm nhưng cao khiết.
Bài thơ Sau loạn đến Côn Sơn cảm tác (Huy Cận dịch) cũng là một bài thơ đặc biệt thể hiện
phong thái của nhà thơ.
Núi quê từ giã mười năm trọn,
Tùng cúc nay về nửa xác xơ.
Trót hẹn suối rừng đâu nỡ phụ?
Cúi đầu cát bụi chỉ thương ta.
Xóm làng rảo bước như trong mộng,
Thân hãy còn binh lửa chưa qua.
Mây núi bao giờ nhà dựng được?
Đá êm gối phủ, suối pha trà.
Trong bài thơ này, ta thấy có những sự vật, những chi tiết như núi quê, tùng cúc, suối rừng,
cát bụi, xóm làng, mây núi, đá êm, suối. Chúng tôi sẽ xác định mối quan hệ giữa các yếu tố này để
từ đó nhận xét về các phương thức liên kết liên tưởng đã được sử dụng trong bài thơ. Trước tiên là
mối quan hệ giữa núi quê và tùng cúc. Theo chúng tôi, liên kết liên tưởng ở đây là liên kết liên
tưởng định vị. Không gian được định vị là núi quê, đối tượng được định vị trong không gian đó là
tùng cúc. Những sự vật, hiện tượng còn lại như suối rừng, cát bụi, xóm làng, mây núi, đá êm, suối,
theo chúng tôi là những yếu tố có mối quan hệ ngang hàng nhau, không xác định được yếu tố nào
bao hàm yếu tố nào nên liên kết liên tưởng giữa chúng là liên tưởng đồng loại.
Bài thơ Mạn hứng (Khương Hữu Dụng dịch) cũng là một bài thơ cho chúng ta thấy rõ quan
niệm, triết lí sống của nhà thơ Nguyễn Trãi.
Cưỡi gió lên cao chín vạn tầng,
Xưa kia từng ví với chim bằng.
Hão huyền danh ấy làm chi hỡi?
Mực thước người sau học nữa chăng?
Một tấm son hừng như lửa luyện,
Mười năm quan sạch tựa hồ băng,
Thảnh thơi ta vẫn rằng ta thích,
Cúi ngửa theo người: thiếu khả năng.
Phương thức liên kết liên tưởng bao trùm trong bài thơ này là liên kết liên tưởng đặc trưng.
Dấu hiệu đặc trưng cho tác giả là những dấu hiệu thể hiện nhân cách, phẩm chất, lối sống và quan
niệm sống: mực thước, một tấm son hừng như lửa luyện, mười năm quan sạch tựa hồ băng, thích
thảnh thơi, thiếu khả năng cúi ngửa theo người. Theo chúng tôi, bài thơ này chỉ có phương thức liên
kết liên tưởng đặc trưng mà thôi.
Bài thơ Cửa bể (Hưởng Triều dịch) cũng có thể xem như là một bài thơ triết lí về lẽ đời, về
vận nước.
Lớp lớp cọc ngăn giữa sóng nhồi,
Thêm ngầm dây sắt, uổng công thôi!
Lật thuyền thắm thía: dân như nước,
Cậy hiểm mong manh: mệnh ở trời.
Họa phúc có nguồn, đâu bỗng chốc?
Anh hùng để hận, dễ gì nguôi?
Xưa nay đất trời vô cùng ý,
Nơi sóng xanh cây khói tuyệt vời…
Liên kết liên tưởng thứ nhất là liên kết liên tưởng định vị. Không gian được định vị là cửa bể.
Những sự vật tồn tại trong không gian đã được định vị ấy là cọc, dây sắt, thuyền. Ngoài ra, còn có
phương thức liên kết liên tưởng bao hàm. Mối quan hệ bao hàm ở đây là mối quan hệ giữa cửa bể
với sóng, thuyền. Chúng có quan hệ bao hàm thuộc vào loại bất khả li.
Dưới đây là bài Hứng buổi chiều (bản dịch của Trường ĐHSP Hà Nội):
Xóm ngõ âm thầm cảnh vắng teo,
Khăn đen gậy trúc dạo trời chiều.
Thôn hoang ác lặn cây treo ráng,
Đường vắng người thưa nước ngập cầu.
Kim cổ không cùng, sông phẳng lặng,
Anh hùng tuôn hận, lá xao xao.
Chơi về một bóng ngồi bên triện,
Trời biếc trăng trong một mảnh treo.
Trong bài thơ này, ta thấy không gian hiện lên ở ngay câu đầu của bài thơ là xóm nhỏ, thời
gian là trời chiều. Liên kết liên tưởng bao trùm trong bài thơ này là liên kết liên tưởng định vị, định
vị cả trong không gian và thời gian. Trong không gian, thời gian ấy có sự tồn tại của một vị khách,
vị khách ấy không ai khác tác giả, vị khách ấy lại có những dấu hiệu đặc trưng là khăn đen, gậy
trúc. Cũng lại có một dấu hiệu đặc trưng khác được thể hiện trong mối quan hệ giữa trời chiều và ác
lặn. Trời trở về chiều thì dấu hiệu đặc trưng nhất, dễ nhận thấy nhất là mặt trời lặn. Vậy, liên kết
liên tưởng thứ hai là liên kết liên tưởng đặc trưng. Liên kết liên tưởng thứ ba là liên kết liên tưởng
nhân quả. Nguyên nhân là trời chiều, vì trời chiều cho nên mới dẫn đến những kết quả là đường
vắng, người thưa. Theo chúng tôi thì bài thơ này có phương thức liên kết liên tưởng định vị, liên kết
liên tưởng đặc trưng và liên kết liên tưởng nhân quả.
Trong quá trình phân tích các phương thức liên kết liên tưởng trong thơ Nguyễn Trãi, chúng
tôi đã khảo sát cả những bài thơ viết bằng chữ Nôm và những bài thơ viết bằng chữ Hán (trên cơ sở
bản dịch). Ở mỗi loại, chúng tôi chọn ra mười bài thơ bất kì và xem chúng như từng văn bản riêng
lẻ để phân tích các phương thức liên kết liên tưởng. Kết quả khảo sát được thể hiện trong bảng 2
dưới đây.
Bảng 2: Thống kê phương thức liên kết liên tưởng trong thơ Nguyễn Trãi
Kiểu liên tưởng Thơ chữ Nôm Thơ chữ Hán Tổng cộng
LT bao hàm 3 5 8 – 15,1%
LT đồng loại 10 2 12 – 22,5%
LT định lượng 2 0 2 – 3,8%
LT định chức 2 1 3 – 5,7%
LT định vị 2 8 10 – 18,9%
LT đặc trưng 4 7 11 – 20,8%
LT nhân quả 4 3 7 – 13,2%
53
Từ bảng thống kê trên đây, chúng tôi nhận thấy rằng, trong thơ Nguyễn Trãi, phương thức
liên kết liên tưởng đồng loại có ưu thế nhất với tần số xuất hiện là 12/53, chiếm tỉ lệ 22,5% trên tổng
số các phương thức liên kết liên tưởng; tiếp theo lần lượt là các phương thức liên kết liên tưởng sau:
liên tưởng đặc trưng (11 – 20,8%), liên tưởng định vị (10 – 18,9%), liên tưởng bao hàm (8 –
15,1%), liên tưởng nhân quả (7 – 13,2%), liên tưởng định chức (3 – 5,7%) và cuối cùng là liên
tưởng định lượng (2 – 3,8%).
Thơ Nguyễn Trãi thể hiện một tình yêu đằm thắm với cảnh sắc thiên nhiên của Tổ quốc, một
tấm lòng yêu nước thiết tha. Có thể nói những bài thơ thiên nhiên của Nguyễn Trãi là những bức
tranh chấm phá nét thanh tươi với ngòi bút tả thực bình dị mà vẫn bay bổng phóng khoáng và hàm
súc với những phát hiện mới mẻ. Nhà thơ đã có cách nhìn, cách cảm nghĩ sâu sắc và tinh tế. Dường
như thiên nhiên bao giờ cũng làm dịu nhẹ lại tâm hồn ông, đem đến cho ông sự yên tĩnh và thanh
thản. Cuộc đời ông có nhiều buồn đau nhưng thiên nhiên trong thơ ông bao giờ cũng đẹp mà không
gợn chút buồn.
Tư tưởng yêu nước trong thơ Nguyễn Trãi gắn liền với thương dân, thương dân cũng có
nghĩa là yêu nước. Yêu nước thương dân, suốt đời lo nghĩ thực hiện một phương sách để trị nước
yên dân là một nét lớn trong tư tưởng chính trị của Nguyễn Trãi. Phong cách thơ Nguyễn Trãi có
một nét riêng là mang màu sắc triết lí, là sự hài hòa giữa các phạm trù đối lập. Ở đây là sự hài hòa
giữa nét thanh và nét đậm, giữa hiện thực và hư ảo; giữa cái bay bổng, kì diệu với cái chân chất,
bình thường; cái hùng vĩ và cái thanh nhẹ, cái đang lụi tàn và cái đang phát triển.
Ngoài ra, còn có thể thấy nhiều nét đặc sắc, mới mẻ của Nguyễn Trãi ở ngay những vấn đề,
đề tài dường như rất quen thuộc, rất chung của các nhà Nho nhiều thế hệ, đó là thú ẩn dật thanh
nhàn, thói đời đen bạc, nhân tình thế thái,…. Qua thơ, ta có thể hình dung khá rõ Nguyễn Trãi là
một con người đằm thắm trong tình cảm gia đình, bè bạn; sâu nặng trong nghĩa nước tình dân; hào
hoa phóng khoáng với thiên nhiên,… Những hình ảnh, những yếu tố của các phương thức liên kết
liên tưởng mà chúng tôi vừa phân tích cũng đã góp phần không nhỏ trong việc tạo nên phong cách
nghệ thuật thơ Nguyễn Trãi.
2.2. Liên kết liên tưởng trong thơ Hồ Xuân Hương
Nhắc đến thơ Hồ Xuân Hương là nhắc đến thơ mang hơi thở ấm nóng của cuộc đời. Phong
cách riêng của Hồ Xuân Hương là hình ảnh thơ của bà có rất nhiều tầng ý nghĩa. Đọc từng bài thơ ta
thấy ở tác giả những tâm sự, những nỗi niềm của người phụ nữ sống trong xã hội phong kiến chịu
nhiều bất hạnh. Tuy nhiên, khi tìm hiểu thơ Hồ Xuân Hương, chúng tôi không đi vào phương diện
đó mà chú ý nhiều đến các phương thức liên kết liên tưởng trong thơ.
Trước tiên, chúng ta cùng tìm hiểu bài thơ Mời trầu.
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,
Này của Xuân Hương mới quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm,
Đừng xanh như lá bạc như vôi.
Trong phong tục tập quán của người Việt Nam ta, miếng trầu là đầu câu chuyện, miếng trầu
còn là hình tượng gắn kết đôi lứa trong tình yêu, hôn nhân. Hồ Xuân Hương đã mời trầu, có phải
chăng, bà cũng đã ngầm gợi ý về tình duyên? Ta thử đi vào từng câu chữ, từng hình ảnh trong bài
thơ này. Từng hình ảnh trong bài thơ, gợi cho chúng ta những ý niệm về tình duyên cau nhỏ, trầu
hôi, có phải duyên nhau. Trầu cau là dấu hiệu đặc trưng cho tình duyên. Vậy hai câu thơ đầu liên
kết được với câu ba là nhờ mối quan hệ ấy, là nhờ phương thức liên kết liên tưởng đặc trưng. Liên
tưởng đặc trưng còn được thể hiện ở mối quan hệ khác. Đó là trầu cau có những dấu hiệu đặc trưng
riêng của nó như màu đỏ thắm hòa quyện giữa trầu cau, màu xanh của lá, màu bạc của vôi. Những
tính từ đó vừa là dấu hiệu đặc trưng của trầu cau, vừa là dấu hiệu, là biểu hiện của những sắc thái
khác nhau trong tình yêu. Bà băn khoăn, lo lắng cho tình duyên của mình.
Thật vậy, cả cuộc đời bà chưa một lần có hạnh phúc trọn vẹn trong tình duyên, bao lần lấy
chồng đều là làm lẽ. Vì thế cho nên cái cách khóc chồng của bà cũng đặc biệt hơn so với người
khác. Bài thơ Khóc tổng Cóc là một ví dụ như thế
Chàng Cóc ôi! Chàng Cóc ôi!
Thiếp bén duyên chàng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVNNH027.pdf