Tài liệu Luận văn Lí thuyết H- O và việc vận dụng vào các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam: Luận văn
Lí thuyết H- O và việc vận
dụng vào các mặt hàng
nhập khẩu của Việt Nam
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của để tài
Trong thời đại ngày nay hội nhập kinh tế quốc là một yếu tố không thể
thiếu. Một trong những cơ sở quan trọng của việc hình thành và phát triển các
quan hệ kinh tế quốc tế là hợp tác, phân công lao động quốc tế. Mỗi quốc gia
đều có lợi thế riêng về vị trí địa lý, về vốn, lao động, công nghệ, ngoài ra
những đặc điểm về kinh tế, văn hoá, xã hội cũng rất khác biệt. Cho nên họ chỉ
thuận lợi để phát triển một số ngành kinh tế nhất định. Do đó chỉ nên chuyên
môn hoá vào sản xuất một số sản phẩm nhất định và xuất khẩu những hàng
hoá của mình để đổi lấy hàng nhập khẩu từ nước khác. Như vậy nhập khẩu
hàng hóa và dịch vụ là yếu tố không thể thiếu trong cơ cấu kinh tế của một
quốc gia. Tuy nhiên nhập khẩu mặt hàng gì, khối lượng bao nhiêu lại không
phải vấn đề đơn giản. Để xác định được cơ cấu hàng nhập khẩu phù hợp đòi
hỏi việc nắm vững v...
51 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1425 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Lí thuyết H- O và việc vận dụng vào các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Lí thuyết H- O và việc vận
dụng vào các mặt hàng
nhập khẩu của Việt Nam
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của để tài
Trong thời đại ngày nay hội nhập kinh tế quốc là một yếu tố không thể
thiếu. Một trong những cơ sở quan trọng của việc hình thành và phát triển các
quan hệ kinh tế quốc tế là hợp tác, phân công lao động quốc tế. Mỗi quốc gia
đều có lợi thế riêng về vị trí địa lý, về vốn, lao động, công nghệ, ngoài ra
những đặc điểm về kinh tế, văn hoá, xã hội cũng rất khác biệt. Cho nên họ chỉ
thuận lợi để phát triển một số ngành kinh tế nhất định. Do đó chỉ nên chuyên
môn hoá vào sản xuất một số sản phẩm nhất định và xuất khẩu những hàng
hoá của mình để đổi lấy hàng nhập khẩu từ nước khác. Như vậy nhập khẩu
hàng hóa và dịch vụ là yếu tố không thể thiếu trong cơ cấu kinh tế của một
quốc gia. Tuy nhiên nhập khẩu mặt hàng gì, khối lượng bao nhiêu lại không
phải vấn đề đơn giản. Để xác định được cơ cấu hàng nhập khẩu phù hợp đòi
hỏi việc nắm vững và vận dụng một cách đúng đắn các học thuyết kinh tế liên
quan vào thực tiễn nền kinh tế của mỗi quốc gia . Đối với Việt Nam, mục tiêu
đặt ra là thực hiện thành công quá trình CNH- HĐH đất nước, phấn đấu đến
năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Do đó việc xác
định cơ cấu nhập khẩu hợp lí là sao cho có hiệu quả, phù hợp với mục tiêu và
định hướng phát triển đất nước là một yêu cầu tất yếu.
Chính vì những lí do kể trên, chúng em quyết định nghiên cứu đề tài:
“Lí thuyết H- O và việc vận dụng vào các mặt hàng nhập khẩu của Việt
Nam”.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: lý thuyết H- O và việc vận dụng vào thực
tiễn các mặt hàng NK của Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Việc vận dụng lý thuyết H- O vào các mặt
hàng XK cuả Việt Nam từ năm 2000 đến nay.
2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích lý thuyết H-O và thực
trạng các mặt hàng NK của Việt Nam trong thời gian, rút ra các nhận xét,
đánh giá về việc vận dụng lý thuyết H-O trong thực tiễn của Việt Nam, từ đó
đưa ra định hướng cho hoạt động NK của Việt Nam.
Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu nội dung lý thuyết H- O
- Xem xét thực trạng hoạt động NK hàng hóa của Việt Nam trong thời
gian vừa qua
- Đưa ra các kiến nghị, biện pháp nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu
quả hoạt động NK của Việt Nam trong thời gian sắp tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện các nhiệm vụ của mình
nhóm chúng em có sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
Phương pháp biện chứng
Phương pháp phân tích
Phương pháp thống kê toán
Phương pháp chuyên gia, điều tra khảo nghiệm tổng kết thực tiễn
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được kết cấu theo 3 chương
chính:
Chương I: Tổng quan về lí thuyết H-O
Chương II: Thực trạng nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam thời gian qua
(giai đoạn từ 2000 đến nay)
Chương III: Vận dụng lí thuyết H-O vào xác định cơ cấu hàng nhập
khẩu của Việt Nam
3
6. Đóng góp của đề tài
Với ý nghĩa thực tiễn, kết quả nghiên cứu cho thấy cái nhìn toàn diện
về thực trạng cũng như việc áp dụng lý thuyết H- O vào thực tiễn hoạt động
NK của Việt Nam thời gian vừa qua. Đồng thời bài nghiên cứu cũng nêu ra
định hướng phát triển cho chính hoạt động này thời gian tới. Bài nghiên cứu
là nguồn tham khảo cho những người lập kế hoạch vĩ mô và những người
muốn tìm hiểu các vấn đề liên quan tới lý thuyết H-O cũng như hoạt động NK
của Việt Nam thời gian vừa qua.
7. Hướng phát triển của đề tài
Từ kết quả nghiên cứu, đề tài còn tạo tiền đề cho những nghiên cứu
chuyên sâu hơn về xác định cơ cấu NK hợp lý, nâng cao hiệu quả hoạt động
XNK, các vấn đề cơ chế, chính sách NK tại Việt Nam..
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ LÝ THUYẾT H –O
1.1 Cơ sở hình thành lý thuyết H- O
Mô hình Heckscher-Ohlin, nhiều khi được gọi tắt là Mô hình H-O, là
một mô hình toán cân bằng tổng thể trong lý thuyết thương mại quốc tế và
phân công lao động quốc tế dùng để dự báo xem quốc gia nào sẽ sản xuất mặt
hàng nào trên cơ sở những yếu tố sản xuất sẵn có của quốc gia. Eli Heckscher
và Bertil Ohlin của Thụy Điển là hai người đầu tiên xây dựng mô hình này,
4
nên mô hình mang tên họ, dù sau này có nhiều người khác tham gia phát triển
mô hình. Mô hình dựa vào lý luận về lợi thế so sánh của David Ricardo.
1.1.1 Lí thuyết về lợi thế so sánh của D.Ricacrdo
David Ricardo (1772-1823) là nhà duy vật, nhà kinh tế học người Anh,
ông được C. Mác đánh giá là người “đạt tới đỉnh cao nhất của kinh tế chính trị
tư sản cổ điển”. Năm 1817 Ricardo xuất bản cuốn “Những nguyên tắc kinh tế
chính trị và thuế”. Trong tác phẩm này ông đã trình bày lí thuyết về lợi thế so
sánh và coi đó là cơ sở để các quốc gia giao thương với nhau. Qui luật lợi thế
so sánh là một trong những qui luật quan trọng của kinh tế học nói chung và
của kinh tế quốc tế nói riêng. Qui luật này được áp dụng rất nhiều trong thực
tiễn và cho đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị.
Để xây dựng qui luật lợi thế so sánh, Ricardo đã đưa ra một số giả thiết
làm đơn giản hoá mô hình trao đổi mậu dịch, các giả thiết đó là:
Thế giới chỉ có 2 quốc gia và chỉ sản xuất 2 loại sản phẩm.
Mậu dịch tự do.
Lao động có thể di chuyển tự do chỉ trong một quốc gia nhưng
không có khả năng di chuyển giữa các quốc gia.
Chi phí sản xuất là cố định.
Không có chi phí vận chuyển.
Chi phí sản xuất được đồng nhất với tiền lương.
Tư tưởng chính của David Ricardo về mậu dịch quốc tế là:
Mọi quốc gia luôn có thể và rất có lợi khi tham gia vào quá trình
phân công lao động quốc tế. Bởi vì phát triển ngoại thương cho phép mở rộng
khả năng tiêu dùng của một nước: chỉ chuyên môn hoá vào sản xuất một số
mặt hàng nhất định và xuất khẩu hàng hoá của mình để đổi lấy hàng nhập
khẩu từ các nước khác.
5
Những nước có lợi thế tuyệt đối hoàn toàn hơn các nước khác hoặc
bị kém lợi thế tuyệt đối so với các nước khác trong sản xuất mọi sản phẩm, thì
vẫn có thể và vẫn có lợi khi tham gia và phân công lao động và thương mại
quốc tế bởi vì mỗi nước có một lợi thế so sánh nhất định về một số mặt hàng
và một số kém thế so sánh nhất định về các mặt hàng khác.
Chúng ta hãy xem xét ví dụ sau đây của Ricardo, ông đã chứng minh
mọi nước đều có lợi thông qua phân công lao động và thương mại quốc tế, và
lời kêu gọi sự tự do mậu dịch quốc tế, phá bỏ mọi trở ngại cho quá trình này.
Bảng 1.1 Lợi thế so sánh của Mỹ và châu Âu trong sản xuất lương
thực và quần áo
Qua bảng 1.1 ta thấy: ở Mỹ sản xuất 1 đơn vị lương thực hết 1 giờ lao
động và sản xuất 1 đơn vị quần áo hết 2 giờ lao động. Còn ở Châu Âu sản
xuất 1 đơn vị quần áo hết 4 giờ lao động.
Nếu căn cứ vào học thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith thì quá
trình phân công lao động quốc tế sẽ không diễn ra và sẽ không có trao đổi
quốc tế bời vì Mỹ có lợi thế tuyệt đối hoàn toàn hơn so với Châu Âu, cho nên
sản xuất quần áo và lương thực đều với chi phí thấp hơn Châu Âu.
Nhưng theo Ricardo cả Mỹ và Châu Âu đều có lợi thế nếu 2 nước thực
hiện phân công lao động và trao đổi buôn bán với nhau: Mỹ chuyên vào sản
Quốc gia
Sản phẩm
Mỹ
Châu Âu
Lương thực (kg/giờ)
1
0,1875
Quần áo (bộ/giờ)
0,5
0,25
6
xuất lương thực và Châu Âu chuyên vào sản xuất quần áo. Sự chuyên môn
hoá này dựa vào lợi thế so sánh của mỗi nước:
Theo nguyên tắc trao đổi nguyên giá thì:
Ở Mỹ : 1 lương thực = 0,5 quần áo
1 quần áo = 2 lương thực
Còn ở Châu Âu: 1 lương thực = ¾ quần áo
1 quần áo = 1,33 lương thực
Qua tỷ lệ trao đổi này ở 2 khu vực ta thấy: ở Mỹ có giá lương thực
tương đối rẻ hơn so với giá quần áo và giá quần áo tương đối đắt hơn so với
gía lương thực. Còn ngược lại ở Châu Âu giá lương thực tương đối đắt hơn so
giá quần áo. Gỉa định xoá bỏ hàng rào bảo hộ mậu dịch, thực hiện sự tự do
thương mại và chi phí vận tải không đáng kể thì khi thương mại diễn ra: Mỹ
chuyên môn hoá vào sản xuất lương thực và mang một phần lương thực sang
Châu Âu , nơi đó có giá lương thực tương đối cao hơn và giá quần áo tương
đối rẻ hơn ở Mỹ. Và Châu Âu thì ngược lại. Như vậy cả 2 khu vực đều có lợi
thông qua thương mại.
Ngoài ra sau khi có thương mại , một giờ công lao động của công nhân
Mỹ mua được nhiều quần áo nhập khẩu hơn và công nhân Châu Âu mua được
nhiều lương thực nhập khẩu hơn.
Theo qui luật này, ngay cả một quốc gia không có lợi thế tuyệt đối để
sản xuẩt cả hai loại sản phẩm vẫn có lợi khi giao thương với một quốc gia
khác được coi là có lợi thế tuyệt đối để sản xuất cả hai loại sản phẩm. Trong
điều kiện đó, quốc qia thứ hai lại càng có lợi hơn so với khi họ không giao
thương. Trong trường hợp này, nếu một quốc gia bất lợi hoàn toàn trong sản
xuất tất cả các sản phẩm thì họ vẫn có thể chuyên môn hóa sản xuất và xuất
khẩu sản phẩm bất lợi là nhỏ nhất thì họ vẫn có lợi. Còn quốc gia có lợi hoàn
toàn trong sản xuất tất cả các sản phẩm sẽ tập trung chuyên môn hóa trong
việc sản xuất và xuất khẩu sản phẩm có lợi là lớn nhất thì họ vẫn luôn có lợi.
Tóm lại phát triển thương mại quốc tế có lợi cho tất cả các nước tham gia vào
quá trình phân công lao động quốc tế
7
1.1.2 Những hạn chế trong của lí thuyết của D. Ricacrdo dẫn tới sự
hình thành của lí thuyết H-O
Qui luật lợi thế so sánh được xem là một trong những lí thuyết kinh tế
quốc tế quan trọng. Tuy nhiên lí thuyết của Ricardo vẫn còn những hạn chế
cơ bản như sau:
Các phân tích của Ricardo không tính đến cơ cấu về nhu cầu tiêu
dùng của mỗi nước, cho nên dựa vào lí thuyết của ông người ta không thể xác
định giá tương đối mà các nước dùng trao đổi sản phẩm.
Các phân tích của Ricardo không đề cập tới chi phí vận tải, bảo
hiểm hàng hoá và hàng raò bảo hộ mậu dịch mà các nước dựng lên. Các yếu
tố này ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả của thương mại quốc tế.
Lý thuyết của Ricardo không giải thích được nguồn gốc phát sinh
thuận lợi của một nước đối với một loại sản phẩm nào đó, cho nên không giải
thích triệt để được nguyên nhân sâu xa của quá trình thương mại quốc tế.
Để khắc phục những hạn chế của Ricardo, E. Hecksher (1949) và
B.Ohlin trong tác phẩm “Thương mại liên khu vực và quốc tế” xuất bản năm
1933 đã cố gắng giải thích nguyên nhân làm nên lợi thế so sánh trong quan hệ
thương mại quốc tế.
1.2 Nội dung lí thuyết H- O
1.2.1 Các giả thiết của Heckescher - Ohlin
Mô hình ban đầu do Heckscher và Ohlin xây dựng chưa phải là mô
hình toán, chỉ giới hạn với hai quốc gia, hai loại hàng hóa có thể đem trao đổi
quốc tế và hai loại yếu tố sản xuất (đây là hai biến nội sinh). Vì thế mô hình
ban đầu còn được gọi là Mô hình 2 x 2 x 2.
Về sau, mô hình được Paul Samuelson là người đầu tiên áp dụng toán
học vào, nên có khi được gọi là Mô hình Heckscher-Ohlin-Samuelson hay
Mô hình H-O-S. Jaroslav Vanek mở rộng để áp dụng cho nhiều quốc gia và
nhiều sản phẩm, nên cũng thường được gọi là Mô hình Heckscher-Ohlin-
Vanek.
8
Mô hình Heckscher-Ohlin dựa trên các giả thiết sau:
Thế giới chỉ có 2 quốc gia chỉ có 2 loại hàng hóa (X và Y) và chỉ có
2 yếu tố sản xuất là lao động và tư bản.
Hai quốc gia sử dụng công nghệ sản xuất hàng hóa giống nhau và
thị hiếu của các dân tộc như nhau.
Hàng hóa X chứa đựng nhiều lao động, còn hàng hóa Y chứa đựng
nhiều tư bản.
Tỷ lệ giữa đầu tư và sản lượng của 2 loại hàng hóa trong 2 quốc gia
là một hằng số. Cả hai quốc gia đều chuyên môn hóa sản xuất ở mức không
hoàn toàn.
Cạnh tranh hoàn hảo ở thị trường hàng hóa và thị trường các yếu tố
đầu vào ở cả 2 quốc gia.
Công nghệ sản xuất cố định ở mỗi quốc gia và như nhau giữa các
quốc gia
Công nghệ đó ở mỗi quốc gia đều có lợi tức theo quy mô cố định.
Lao động và vốn có thể di chuyển tự do trong biên giới mỗi quốc
gia, nhưng bị cản trở trong phạm vi quốc tế.
Không có chi phí vận tải, không có hàng rào thuế quan và các trở
ngại khác trong thương mại giữa hai nước.
1.2.2 Hàm lượng các yếu tố sản xuất trong các hàng hóa và
đường giới hạn khả năng sản xuất
Mô hình Heckscher-Ohlin phiên bản 2 x 2 x 2 sử dụng hàm Cobb-
Douglass vì nó phù hợp với giả thiết về lợi tức theo quy mô không đổi.
Chúng ta nói rằng hàng hóa Y là hàng hóa chứa đựng nhiều tư bản nếu
tỷ số tư bản/ lao động (K/L) được sử dụng để sản xuất hàng hóa Y lớn hơn
hàng hóa X trong cả 2 quốc gia.
Chúng ta cũng nói rằng quốc gia thứ II là quốc gia có sẵn tư bản với
quốc gia thứ I nếu tỷ giá giữa tiền thuê tư bản lãi suất trên tiền lương (r/w) ở
quốc gia này thấp hơn so với quốc gia thứ I. Như vậy, đường giới hạn khả
9
năng sản xuất của quốc gia thứ II sẽ nghiêng về OY và của quốc gia thứ I sẽ
nghiêng về phía OX.
Hình 1.2 Đường giới hạn khả năng sản xuất
Xét ví dụ quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nga. Ta giả thiết, để
sản xuất mặt hàng quần áo cần nhiều lao động, còn mặt hàng thép cần nhiều
vốn hơn. Việt Nam là nước tương đối sẵn có về lao động hơn nên họ sẽ sản
xuất và nhập khẩu hàng dệt may. Còn Nga có nhiều tư bản nên họ sản xuất
và xuất khẩu thép.
1.2.3. Cấu trúc cân bằng chung của học thuyết Heckscher- Ohlin
Cấu trúc cân bằng chung của học thuyết Hẹkscher- Ohlin được tóm tắt
trong sơ đồ hình 1.2. Bắt đầu tại góc phải phía dưới cuả sơ đồ ta thấy rằng sở
thích và sự phân phối theo quyền sở hữu các yếu tố sản xuất ( nghĩa là theo
phân phối thu nhập) xác định nhu cầu hàng hóa. Nhu cầu hàng hóa xác định
nhu cầu dẫn xuất về yếu tố cầu để sản xuất chung. Lượng cầu về các yếu tố
sản xuất, cùng với lượng cung xẽ xác định giá cả và yếu tố sản xuất trong điều
kiện cạnh tranh hoàn hảo. Giá cả các yếu tố sản xuất cùng với công nghệ sẽ
OY
O
OX
10
xác định giá cả hàng hóa cuối cùng. Sự khác biệt về giá tương đối cuối cùng
của hàng hóa giữa các nước quyết định lợi thế so sánh và mô hình thương mại
( nghĩa là nước nào sản xuất hàng hóa gì?).
Hình 1.3 Quá trình hình thành giá cả sản phẩm- khung cân bằng
tổng quát của lý thuyết Hecksher- Ohlin
11
Sơ đồ trên hình 1.3 cho thấy tất cả các lực lượng sản xuất cùng với
nhau quyết định giá cả hàng hóa cuối cùng như thế nào. Đây chính là cái mà
chúng ta nói rằng mô hình Heckscher- Ohlin là mô hình cân bằng chung. Tuy
nhiên, trong số tất cả các lực lượng tương tác này, định lí Heckscher- Ohlin
tách riêng sự khác biệt khả năng vật chất hay khả năng cung cấp các yếu tố
sản xuất giữa các nước ( với sở thích và công nghệ như nhau) để giải thích sự
khác biệt về giá tương đối của hàng hóa và thương mại giữa các nước. Đặc
biệt, Ohlin giải thích sở thích ( và phân phối thu nhập) giống nhau giữa các
nước. Điều này dẫn đến nhu cầu giống nhau về hàng hóa cuối cùng và yếu tố
sản xuất ở các nước khác nhau. Do đó, sự khác biệt về cung các yếu tố sản
xuất ở các nước khác nhau là nguyên nhân của sụ khác biệt yếu tố khác nhau
dẫn đến giá tương đối của hàng hóa khác nhau và diễn ra thương mại giữa các
nước. Sự khác biệt về khả năng cung cấp tương đối các yếu tố dẫn đến sự
Cầu sản phẩm cuối
cùng
Cầu yếu tố sản xuất
Mô
hình
mậu
dịch
Giá cả sản
phẩm so sánh
cân bằng nội
địa
Giá cả yếu tố sản xuất Giá cả sản phẩm
Phân
phối
thu
nhập
Thị hiếu
hay sở
thích
người tiêu
dùng
Cung
yếu tố
sản xuất
Kỹ
thuật
công
nghệ
12
khác biệt về giá cả tương đối của các yếu tố sản xuất và giá cả hàng hóa mà
chúng được chỉ ra bởi đường đậm trong hình 1.3.
Mô hình đưa ra những kết luận sau: Trong một nền kinh tế mở cửa, mỗi
nước đều hướng đến chuyên môn hoá các ngành sản xuất mà cho phép sử
dụng nhiều yếu tố sản xuất đối với nước đó là thuận lợi nhất. Nói cách khác
bằng cách thừa nhận là mỗi sản phẩm đòi hỏi một sự liên kết khác nhau các
yếu tố sản xuất (vốn, lao động, tài nguyên, đất đai…) và có sự chênh lệch
giữa các nước về các yếu tố này, mỗi nước sẽ chuyên môn hoá trong những
ngành sản xuất cho phép sử dụng các yếu tố với chi phí rẻ hơn, chất lượng tốt
hơn so với các nước khác đồng thời nhập khẩu các sản phẩm thâm dụng yếu
tố đầu vào kia. Kết luận này được kinh tế học gọi là Định lý Heckscher-Ohlin.
1.2 Kiểm nghiệm mô hình H-O
Do lý thuyết thương mại tỷ lệ các yếu tố sản xuất là một trong những lý
thuyết có ảnh hưởng nhất trong kinh tế học quốc tế, nó đã và đang là một chủ
đề được đem ra kiểm nghiệm rộng rãi bằng các dẫn chứng thực tế. Kết quả
những cuộc kiểm nghiệm đó không thuận: các nước trong thực tế không xuất
khẩu những hàng hoá mà lý thuyết này phán đoán. Do đó, câu hỏi đặt ra là
liệu lý thuyết tỷ lệ các yếu tố sản xuất có còn phù hợp với suy nghĩ về thương
mại quốc tế không ???
1.3.1 Kiểm định với nền kinh tế Mỹ
Kiểm nghiệm trên các số liệu của Mỹ cho thấy trước đây, và ở mức độ
nào đó thậm chí hiện nay, Hoa Kỳ vẫn là một trường hợp đặc biệt trong số các
nước trên thế giới. Cách đây không lâu, Hoa Kỳ vẫn là nước giàu có hơn các
nước khác, công nhân Mỹ rõ ràng có số vốn theo đầu người nhiều hơn công
nhân ở các nước khác. Ngay cả hiện nay, mặc dù một số nước Tây Âu và
Nhật gần như đuổi kịp, Mỹ tiếp tục đứng hàng đầu trong số các nước có tỷ lệ
vốn – lao động cao.
13
Trên cơ sở đó, chúng ta có thể cho rằng Hoa Kỳ sẽ là nước xuất khẩu
hàng hoá sử dụng nhiều vốn, và là nước nhập khẩu hàng hoá cần tập trung
nhiều lao động. Tuy nhiên, điều đáng ngạc nhiên là điều đó lại không diễn ra
trong suốt 25 năm từ sau chiến tranh thế giới thứ 2. Trong một công trình
nghiên cứu nổi tiếng xuất bản năm 1953, nhà kinh tế Wassily Leontief (người
được giải thưởng Nobel năm 1973) thấy rằng hàng xuất khẩu của Mỹ lại sử
dụng ít vốn hơn hàng nhập khẩu. Kết quả đó được gọi là nghịch lý Leontief.
Đây là một dẫn chứng giá trị nhất chống lại lý thuyết tỷ lệ các yếu tố sản xuất.
Bảng 1.3 minh hoạ nghịch lý Leotief và một số thông tin khác về mô
thức thương mại của Mỹ. Chúng ta so sánh các yếu tố sản xuất sử dụng để
làm ra một triệu đô la hàng hoá xuất khẩu của Mỹ 1962 với các yếu tố dùng
để sản xuất một giá trị như trên hàng nhập khẩu của Mỹ năm 1962. Như ta đã
thấy ở hai hàng đầu trong bảng, nghịch lý Leotief vẫn xuất hiện trong năm dó;
hàng hoá xuất khẩu cảu Mỹ vẫn được sản xuất bằng một tỷ lệ vốn – lao động
thấp hơn so với hàng hoá nhập khẩu. Tuy nhiên, như phần còn lại của bảng
này cho thấy, những so sánh khác cảu hàng nhập khẩu và hàng xuất khẩu
trùng hợp hơn với suy nghĩ thông thường. Mỹ xuất khẩu những sản phẩm cần
tập trung nhiều lao động tay nghề cao hơn so với hàng hoá Mỹ nhập khẩu. Mỹ
cũng có xu hướng xuất khẩu những sản phẩm cần nhiều “công nghệ cao”, đòi
hỏi lao động của nhiều nhà khoa học và kỹ sư trên mỗi đơn vị sản phảm bán
ra. Những nhận xét đó phù hợp với vị trí của Mỹ là một nước có tay nghề lao
động cao, và có lợi thế so sánh ở các sản phẩm tinh vi.
Nhưng tại sao lại có nghịch lý Leontief ??? Không ai có thể trả lời 1
cách chắc chắn cả. Tuy nhiên, một cách giải thích có thể chấp nhận được sẽ
như sau: Mỹ có một lợi thế đặc biệt trong việc snả xuất những sản phẩm hoặc
hàng hoá sử dụng những công nghệ mới phát minh. Nhưng sản phẩm này có
thể cần sự tập trung vốn ít hơn so với những sản phẩm mà kỹ thuật có đủ thời
gian chin muồi và trở nên phù hợp cho việc sản xuất hàng loạt. Vì vậy, Mỹ có
14
thể sẽ xuất khẩu những hàng hoá sử dụng nhiều lao động có tay nghề cao và
kỹ năng kinh doanh đổi mới, trong khi nhập khẩu hàng công nghiệp nặng sử
dụng khối lượng vốn lớn.
Bảng 1.4 Nội dung các yếu tố trong hàng xuất khẩu và nhập khẩu
của Mỹ năm 1962.
Các yếu tố Hàng nhập khẩu Hàng xuất khẩu
Vốn 2.132.000$ 1.876.000$
Lao động (người-năm) 119 131
Số năm giáo dục trung bình 9.9 10,1
Tỷ lệ kỹ sư và nhà KH 0.0189 0.0255
1.3.2 Kiểm nghiệm số liệu trên thế giới
Gần đây hơn, các nhà kinh tế đã tiến hành kiểm nghiệm mô hình H-O
trên số liệu của nhiều nước. Một công trình nghiên cứu quan trọng của Harry
P.Bowen, Edward E.Leamer và Leo Sveikauskas dựa trên ý tưởng đã nói trên
đây rằng việc trao đổi, buôn bán hàng hoá là một cách buôn bán gián tiếp các
yếu tố sản xuất. Vì thế nếu ta muốn tính toán các yếu tố sản xuất hàm chứa
trong những hàng hoá xuất khẩu và nhập khẩu của một nước, chúng ta nên
tìm ra xem nước đó xuất khẩu ròng những yếu tố sản xuất nào mà nó có nhiều
một cách tương đối và nhập khẩu ròng những yếu tố nào mà nó có tương đối
ít.
Bảng 1.4 cho thấy một trong những kết quả kiểm nghiệm của Bowen
và các đồng nghiệp. Với một mẫu gồm 27 nước và 12 yếu tố sản xuất, các tác
giả đã tính toán tỷ lệ của từng mà mỗi quốc gia có so với sự cung cấp của thế
giới. Sau đó họ so sánh những tỷ lệ này với phần của từng nước trong tổng
thu nhập thế giới. Nếu như lý thuyết tỷ lệ các yếu tố mà đúng, một nước luôn
luôn xuất khẩu các yếu tố có tỷ phần lớn hơn tỷ phần thu nhập và nhập khẩu
15
các yếu tố có tỷ phần nhỏ hơn. Trong thực tế, đối với 2/3 các yếu tố sản xuất,
thương mại diễn ra theo xu hướng phán doán ở mức độ thấp hơn 70%. Kết
quả này khẳng định nghịch lý Leontief ở mức độ rộng hơn: thương mại không
diễn ra theo hướng mà mô hình H-O phán đoán.
1.3.3 Ý nghĩa của các kiểm nghiệm
Kết quả tiêu cực của các kiểm nghiệm lý thuyết tỷ lệ các yếu tố sản
xuất đã đặt các nhà kinh tế học quốc tế vào tình thế khó khăn. Chúng ta đã
thấy các bằng chứng thực tế phần lớn đều ủng hộ sự phán đoán của mô hình
Ricardo: các nước sẽ xuất khẩu hàng hoá mà nước đó có năng suất lao động
đặc biệt cao. Tuy nhiên, hầu hết các nhà kinh tế học quốc tế đều coi mô hình
Ricardo quá hạn chế để có thể trở thành mô hình cơ bản của thương mại quốc
tế. Ngược lại, mô hình H-O từ lâu đã chiếm một vị trí trung tâm trong lý
thuyết thương mại,bởi vì nó cho phép xử lý cùng một lúc các vấn đề về phân
phối thu nhập và mô thức thương mại. Do đó, một mô hình phán đoán một
cách tốt nhất chiều hướng thương mại cũng bị hạn chế đối với các mục đích
khác, trong khi đến thời điểm này đã có những bằng chứng mạnh mẽ chống
lại mô hình H-O.
Câu trả lời tốt nhất vào lúc này dường như là phải quay trở về với ý
tưởng của Ricardo rằng mô thức thương mại phần lớn được thúc đẩy bởi
những khác biệt quốc tế về trình độ công nghệ hơn là những khác biệt về
nguồn lực. Ví dụ, ở Mỹ xuất khẩu máy vi tính và máy bay, không phải do các
nguồn lực của Mỹ đặc biệt thích hợp với những hoạt động này, mà là do Mỹ
sản xuất những hàng hoá này một cách có hiệu quả hơn so với sản xuất ôtô
hoặc thép. Điều này vẫn bỏ qua các lý do chưa được giải thích về sự khác biệt
công nghệ.
Vì thế hiểu được nguồn gốc của những khác biệt về công nghệ giữa các
nước là một chủ đề cơ bản của công nghệ giữa các nước là một chủ đề cơ bản
của công việc nghiên cứu hiện nay.
Bảng 1.5 Kiểm nghiệm mô hình Heckscher – Ohlin
16
Yếu tố sản xuất Mức độ thành công của phán đoán*
Vốn 0,52
Lao động 0,67
Công chức chuyên nghiệp 0,78
Nhân viên quản lý 0,22
Nhân viên văn phòng 0,59
Nhân viên bán hàng 0,67
Công nhân dịch vụ 0,67
Công nhân nông nghiệp 0,63
Công nhân sản xuất(công nghiệp) 0,70
Đất trồng hoa màu 0,70
Đất trồng cỏ 0,52
Rừng 0,70
(*Tỷ lệ của các nước có xuất khẩu ròng yếu tố sản xuất diễn ra theo
hướng đã phán đoán).
Tuy nhiên, khi quay về với sự giải thích của Ricardo về thương mại,
chúng ta không quay lại với quan điểm với quan điểm cho rằng thương mại
không gây tác động đến sự phân phối thu nhập.
Chừng nào mà có trên một yếu tố sản xuất được sử dụng, thương mại
sẽ có những tác động quan trọng đến sự phân phối thu nhập. Vì thế, vẫn rất
cần phải đặt câu hỏi những yếu tố nào hàm chứa trong hàng hoá xuất khẩu và
nhập khẩu của một nước. Mỹ xuất khẩu những sản phẩm cần tập trung nhiều
lao động có tay nghề cao, và nhập khẩu những sản phẩm cần tập trung nhiều
lao động có tay nghề thấp.
Do đó, thương mại có xu hướng đem lại lợi ích cho công nhân có tay
nghề cao ở Mỹ trước những thiệt hại của công nhân có tay nghề thấp, mặc dù
việc có nhiều hay ít các yếu tố sản xuất này không giúp gì được nhiều cho
việc phán đoán mô thức thương mại.
17
Mô hình Heckscher – Ohlin vì vầy vẫn được sử dụng một cách hạn chế
để phán đoán tác động của thương mại và chính sách thương mại đến sự phân
phối thu nhập .
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM
2.1 Vai trò và nhiệm vụ của nhập khẩu đối với Việt Nam
2.1.1 Vai trò của nhập khẩu
Nhập khẩu có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế của Việt
Nam trên các mặt như sau:
Thứ nhất, nhập khẩu có tác động trực tiếp đến sản xuất và kinh doanh
thương mại vì thông qua hoạt động nhập khẩu cung cấp cho nền kinh tế 60-
100% nguyên, nhiên vật liệu chính phục vụ cho sản xuất. Trong điều kiện sản
xuất nguyên liệu trong nước chưa phát triển, việc nhập khẩu những nguyên
liệu cao cấp như sợi cho ngành dệt, vải cho ngành may, phân bón cho nông
nghiệp, các linh kiện cho ngành lắp ráp xe hơi, điện tử…Hoạt động nhập khẩu
đã và đang góp phần quan trọng trong việc thực hiện chiến lược công nghiệp
hóa- hiện đại hóa đất nước hướng về xuất khẩu.
18
Thứ hai, nhập khẩu tác động mạnh vào quá trình đổi mới công nghệ,
trang thiết bị sản xuất. Qua đó nâng cao trình độ sản xuất và năng suất lao
động trong nước.
Thứ ba, nhập khẩu có vai trò nhất định trong việc nâng cao mức sống,
mở rộng nhu cầu trong nước của người dân. Bởi vì không chỉ cải thiện đồng
lương của đội ngũ nhân viên hoạt động trong lĩnh vực nhập khẩu mà hoạt
động này còn cung cấp các yếu tố đầu vào ( khoa học công nghê, máy móc
thiết bị, nguyên vật liệu…) qua đó thúc đẩy hoạt động sản xuất, giải quyết
công ăn, việc làm cho người lao động. Mặt khác, việc nhập khẩu hàng hóa
tiêu dùng, sách báo, văn hóa phẩm đã góp phần nâng cao trình độ dân trí , cải
thiện đời sống của người dân.
2.1.2 Nhiệm vụ của công tác nhập khẩu
Đảm bảo kịp thời đầy đủ và đồng bộ nhu cầu về tư liệu sản xuất
trong nước.
Góp phần thúc đẩy cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
Bổ sung kịp thời những nhu cầu đời sống trong nước mà hoạt động
sản xuất trong nước chưa đáp ứng kịp.
Trong suốt hơn 20 năm đổi mới kinh tế thì Việt Nam luôn trong tình
trạng nhập siêu, cùng với tiến trình mở cửa theo lộ trình AFTA và WTO thì
nhập siêu ngày càng lớn: năm 2005 nhập siêu 4,5 tỷ USD; năm 2006: 4,8 tỷ
USD; năm 2007 đã lên đến 12,44 tỷ USD. Kim ngạch nhập khẩu năm 2008
của Việt Nam đạt 84 tỷ USD, tăng 34% so với năm 2007. Trong đó, kim
ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 28,5 tỷ
USD, chiếm 33,9% tổng kim ngạch nhập khẩu và tăng 31,3% so với năm
2007. Kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp 100% vốn trong nước ước
đạt 55,5 tỷ USD, chiếm 66,1 % tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước và tăng
19
35,3% so với năm 2007. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu vẫn là máy móc,
thiết bị, phụ tùng, xăng dầu, thép…Năm 2008, nhập khẩu máy móc thiết bị
tăng 21,4% so với năm 2007, trong đó xăng dầu: 8,9%, thép thành phẩm:
2,2% , phôi thép: 16,1%, bông các loại: 42,9%, đặc biệt ô tô nguyên chiếc:
64,9%.
Thị trường nhập khẩu năm 2008 chủ yếu tập trung vào châu Á, trong
đó nổi bật từ các thị trường Trung Quốc, Singapo, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái
Lan… Trong đó nhập siêu từ thị trường Trung Quốc đạt khoảng từ 13 tỷ
USD. Với việc thực hiện tích cực các biện pháp kiềm chế nhập khẩu như tăng
thuế nhập khẩu với một số mặt hàng như ô tô và linh kiện ô tô, vàng, kiểm
soát nguồn ngoại tệ cho nhập khẩu và giảm nhập siêu một cách hiệu quả. Tỉ lệ
nhập siêu trong quí I là 62,4%, quí II giảm xuống 34%. Bắt đầu từ tháng 8 tốc
độ tăng kim ngạch nhập khẩu đã nhanh chóng giảm mạnh. Đặc biệt kim
ngạch nhập khẩu trong tháng 11 và tháng 12 còn giảm mạnh so với cùng kỳ
năm 2007. Tuy nhập khẩu và tỷ lệ nhập siêu đang được kiềm chế, nhưng vẫn
ở mức cao. Con số nhập siêu cả năm 2008 của Việt Nam là 19 tỷ USD, bằng
29,2% kim ngạch xuất khẩu, tăng 10% so với năm 2007, gần bằng cả thời kì
2001-2005 và vượt xa con số kế hoạch( 10,8-10,9 tỷ USD).
Nhưng qua thống kê có thể thấy, kim ngạch nhập khẩu trong năm 2008
tăng chủ yếu là do giá tăng mạnh trong khi khối lượng nhập khẩu tăng không
đáng kể. Điều đáng nói là ở một số mặt hàng khối lượng hàng nhập về tăng
mạnh lại đúng vào thời điểm giá trên thị trường thế giới lên đến đỉnh, điển
hình ở một số mặt hàng như xăng dầu, thức ăn chăn nuôi, giấy… Chính điều
này đã cản trở cho việc giảm giá bán lẻ ở trong nước, gây thiệt hại cho nền
kinh tế, cho người tiêu dùng và cho chính bản thân doanh nghiệp.
Năm 2009 kim ngạch nhập khẩu đạt 69.95 tỷ USD, tăng 16% so với
năm 2008. Trong đó kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp FDI đạt
26.07 tỷ USD, trong đó các doanh nghiệp (DN) trong nước tăng 15,1% và các
20
DN có vốn đầu tư nước ngoài tăng 14,9%. Nhóm mặt hàng máy móc, thiết bị
phụ tùng, nguyên, nhiên vật liệu phục vụ cho đầu vào sản xuất xuất khẩu sẽ
tiếp tục gia tăng, chiếm tỷ trọng 76% với 53.162 tỷ USD. Nhóm mặt hàng bị
kiểm soát nhập khẩu bao gồm giấy, dầu mỡ động thực vật, sản phẩm dầu gốc,
gas..., chiếm tỷ trọng 16,7% với 11.68 tỷ USD. Nhóm hàng hạn chế nhập
khẩu bao gồm nguyên phụ liệu thuốc lá, ô tô và phụ tùng ô tô dưới 12 chỗ
ngồi, linh kiện xe gắn máy... sẽ chiếm 7,2%, khoảng 5 tỷ USD. Châu Á vẫn là
thị trường nhập khẩu chính của Việt Nam, với tỷ trọng khoảng 75-85%, tiếp
theo là EU và châu Mỹ. Trong năm 2009, các biện pháp kiểm soát nhập khẩu
thông qua các biện pháp thuế quan và phi thuế quan đã được áp dụng mạnh để
giảm nhập siêu.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 4/2010 ước tính đạt gần 7 tỷ USD,
tăng 3% so với tháng trước và tăng 25% so với cùng kỳ năm trước. Tính
chung 4 tháng đầu năm, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước tính đạt 24,8 tỷ
USD, tăng 35,6% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Khu vực kinh tế trong
nước đạt 14,6 tỷ USD, tăng 24,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt
10,2 tỷ USD, tăng 55,6%. Kim ngạch nhập khẩu của hầu hết các mặt hàng
máy móc, nguyên liệu phục vụ sản xuất đều tăng so với cùng kỳ năm trước,
trong đó máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 4 tỷ USD, tăng 14,8%; xăng
dầu đạt 2,2 tỷ USD, tăng 19,6%; vải đạt 1,5 tỷ USD, tăng 19%; sắt thép đạt
1,6 tỷ USD, tăng 33,9%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 1,4 tỷ USD, tăng
43,7%; chất dẻo đạt 1,1 tỷ USD, tăng 54,7%; ô tô đạt 825 triệu USD, tăng
57%, trong đó ô tô nguyên chiếc 227 triệu USD, giảm 0,3%; nguyên phụ liệu
dệt, may, giày dép đạt 737 triệu USD, tăng 24,8%; hóa chất đạt 584 triệu
USD, tăng 44,9%;
Nhập siêu tháng 4/2010 ước tính 1,3 tỷ USD, tăng 8,2% so với tháng trước và
bằng 21,9% tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu. Nhập siêu 4 tháng đầu năm
đạt 4,7 tỷ USD, bằng 23,1% tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu.
Hình 2.1 Kim ngạch NK của Việt Nam giai đoạn 2000-2009
ĐVT: Tỷ đồng
21
50
60
70
80
90
(Nguồn:tổng cục thống kê)
2.2.2 Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu.
2.2.2.1 Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng:
Trong năm 2009 trị giá nhập khẩu nhóm hàng này là 12,67 tỷ USD
tăng 14,4% so với năm trước , nâng tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2009 lên
69,95 tỷ USD, tăng 17,9% so với năm 2008.
Nhóm hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng nhập khẩu vào Việt
Nam trong năm 2009 có xuất xứ chủ yếu từ Trung Quốc với 2,1 tỷ USD,
giảm 6,2%; Nhật Bản: 1,26 tỷ USD, giảm 21,9%; Hàn Quốc: 439 triệu USD;
giảm 22,7%; Hoa Kỳ: 395 triệu USD, tăng 9,5%,... so với cùng kỳ năm 2008.
2.2.2.2 Sắt thép các loại:
Năm 2009, cả nước nhập khẩu hơn 9.7 triệu tấn thép các loại, tăng
13,8% so với năm trước với trị giá là 5.4 tỷUSD. Lượng phôi thép nhập khẩu
vào Việt Nam trong năm là 2.4 triêu tấn, tăng 22% so với năm trước, trị giá
trên 1tỷ USD.
Hình 2.2.2.2: Nhập khẩu sắt thép từ các thị trường chính
7 tháng 2009 so với 7 tháng 2008
22
2.2.2.3 Thức ăn gia súc và nguyên liệu:
Trong năm 2009, trị giá nhập khẩu nhóm hàng này 1.76 tỷ USD, cao
hơn nhiều so với năm 2008.
Trong đó, nhập khẩu từ Achentina là: 294 triệu USD, tăng 202,6%; Ấn
Độ : 285 triệu USD, giảm 52%; Trung Quốc: 98 triệu USD, tăng 32,4%; và
Hoa Kỳ: 97,6 triệu USD, giảm 6,9% so với 7 tháng 2008.
2.2.2.4 Nhóm hàng nguyên liệu ngành dệt may, da giày:
Trong năm 2009 nhập khẩu 17.4 tỷ USD, tổng kim ngạch nhập khẩu
của nhóm hàng này giảm 8.62% so với năm 2008.
Bảng 2.2.2.4 : Lượng, trị giá nhập khẩu các mặt hàng nguyên liệu
ngành dệt may, da, giày năm 2009 và năm 2008
Tên hàng
2008 2009
Lượng
( tấn)
Trị gía giá
(1000
USD)
Lượng
( tấn)
Trịgiá
(1000 USD)
Bông 299563 467011 303093 392271
Xơ, sợi dệt 414055 775377 503069 810782
23
NPL dệt may, da, giày 2355102 1931907
Vải 4457807 4226364
Tổng cộng 8055297 7361324
Năm 2009, Việt Nam nhập khẩu nhóm mặt hàng này chủ yếu từ các
nước: Trung Quốc dẫn đầu với 1,14 tỷ USD, Đài Loan: 840 triệu USD, Hàn
Quốc: 801 triệu USD, Hồng Kông: 234 triệu USD, Nhật Bản: 266 triệu
USD,…
2.2.2.5. Xăng dầu:
Trong năm 2009 nhập khẩu 12.7triệu tấn, giảm 1.6% so với năm 2008
với gia tri 10.9 tỷ USD
Xăng dầu các loại nhập khẩu vào Việt Nam trong năm 2009 chủ yếu có
xuất xứ từ Singapore với hơn 6,1 triệu tấn, tiếp theo là Đài Loan: 2,6 triệu tấn,
Trung Quốc: 1,41 triệu tấn, Hàn Quốc: 1.4 triệu tấn, Thái Lan: 880 nghìn tấn,
...
2.2.2.6. Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện:
Nhập khẩu trong năm 2009 là 3.95 tỷ USD, tăng 6.5% so với năm
2008.
Tính đến hết năm 2009, Nhật Bản là thị trường dẫn đầu về cung cấp
nhóm hàng này cho nước ta với 928 triệu USD. Tiếp theo là Singapo với
815triệu USD, Trung Quốc : 654 triệu USD; ...
2.2.2.7. Chất dẻo nguyên liệu:
Hết năm 2009, tổng lượng nhập khẩu chất dẻo nguyên liệu của cả nước
là 2,2 triệu tấn, tăng 29.4% so với cùng kỳ năm trước và đạt trị giá là 2.8 tỷ
USD.
Năm 2009, chất dẻo nguyên liệu được nhập khẩu vào Việt Nam chủ
yếu có xuất xứ từ: Hàn quốc : 291 nghìn tấn, tăng 44,0% so với cùng kỳ 2008;
Đài Loan: 319 nghìn tấn, giảm 3,9%; Thái Lan: 270 nghìn tấn, tăng 7,1%.
24
2.2.2.8 Phân bón:
Trong năm 2009 nhập khẩu 4.5 triêu tấn, tăng 50% so với năm 2008
với trị giá đạt trên 1.4 tỷUSD.
Lượng phân Urê nhập khẩu vào Việt Nam trong năm 2009 qua là 1.4
triêu tấn, phân SA là 1.1 triệu tấn, phân DAP là 981 tấn, phân Kali là 481
nghìn tấn, phân NPK là 334 nghìn tấn.
Mặt hàng phân bón các loại được nhập khẩu vào Việt Nam chủ yếu có
xuất xứ từ Trung Quốc với 1.5 triệu tấn. Tiếp theo là 346 nghìn tấn,Nhật Bản:
199 nghìn tấn, Hàn Quốc: 161 nghìn tấn, Hoa Kỳ: 102 nghìn tấn, Đài Loan:
102 nghìn tấn,…
2.2.2.9. Ôtô nguyên chiếc các loại và linh kiện, phụ tùng ôtô: trong
năm 2009, lượng ôtô nguyên chiếc nhập khẩu là hơn 80 nghìn chiếc, với giá
trị 1.3tỷ USD tăng 57.85% so với năm 2008, trong đó loại xe từ 9 chỗ ngồi trở
xuống là hơn 47 nghìn chiếc
Biểu đồ 2.2.2.9: Lượng nhập khẩu ô tô từ tháng 1 đến tháng 7 năm 2009
Ô tô nguyên chiếc nhập khẩu vào Việt Nam có xuất xứ chủ yếu từ Hàn
Quốc với 24 nghìn chiếc, chiếm 64% tổng lượng ôtô nhập khẩu của cả nước
trong 7 tháng 2009. Nguồn hàng lớn tiếp theo là từ Mỹ: 9.8 nghìn chiếc,
Trung Quốc: 7.8 nghìn chiếc, …
Trị giá nhập khẩu linh kiện & phụ tùng ô tô trong năm đạt 1.7 tỷ USD,
giảm 11.7% so với năm 2008.
25
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhập siêu ở mức cao trong thời gian
vừa qua trước hết là do sản xuất trong nước còn phụ thuộc quá lớn vào nguồn
nguyên liệu, vật liệu, thiết bị nhập khẩu, tính gia công của sản xuất, nhập
khẩu còn lớn.
Thứ hai, do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu giá nhiều
loại hàng hóa trên thế giới tăng mạnh, nhất là các loại sản phẩm nhập khẩu
làm giá trị nhập khẩu của Việt Nam tăng lên. Thêm vào đó do nhu cầu đầu tư
mở rộng sản xuất và đầu tư phát triển tăng mạnh cùng với đầu tư trực tiếp
nước ngoài tăng mạnh tăng liên tục đã dẫn tới lượng hàng hóa nhập khẩu tăng
nhanh.
Thứ ba, khi Việt Nam tiếp tục cắt giảm thuế theo cam kết với ASEAN
và WTO và khu vực các doanh nghiệp trong nước không tận dụng được cơ
hội và không nâng cao được khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu thì
hàng hóa nhập khẩu tràn vào Việt Nam tiếp tục tăng là khó tránh khỏi. Theo
đó cán cân thương mại hàng hóa sẽ tiếp tục thâm hụt trong giai đoạn tới.
Thứ tư, do chính các ngành, các doanh nghiệp chưa đẩy mạnh sản xuất
trong nước nhóm hàng tư liệu sản xuất phục vụ xây dựng cơ bản, mở rộng sản
xuất và phục vụ xuất khẩu hiện có nhu cầu rất lớn và sản xuất nhữn mặt hàng
có hàng rào thuế quan nhập khẩu đã và sẽ giảm mạnh trong thời gian tới do
cam kết hội nhập. Điều này cũng là do chính sách bảo hộ sản xuất đối với một
số ngành duy trì quá lâu ở nước ta làm cho các doanh nghiệp không tự vươn
lên trong cơ chế thị trường.
Thứ năm, do buông lỏng quản lí nhập khẩu một số mặt hàng chưa thật
cần thiết ( vàng, mĩ phẩm, rượu ngoại, điện thoại, mặt hàng ô tô cao cấp…),
thêm vào đó là khả năng cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp trong nước còn
yếu góp phần làm tăng kim ngạch nhập khẩu và đẩy tỉ lệ nhập siêu lên cao.
26
2.3 Đánh giá
Việt Nam đã có những thành công nhất định trong việc xác định cơ cấu
hàng nhập. Tuy nhiên tình trạng nhập siêu vẫn ở mức cao. Năm 2009, nhập
siêu là 12,874 tỷ USD, vượt chỉ tiêu đề ra cho năm 2009 gần 900 triệu USD,
tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu khoảng 21%. Nhưng nếu trừ doanh số tái xuất
khẩu vàng lên hơn 2 tỷ USD đột biến của năm 2009 thì tỷ lệ nhập siêu năm
2009 so với xuất khẩu sẽ không hề thua kỷ lục gần 30% của năm 2008. Xuất
khẩu 2010 tiếp tục khó khăn và nguy cơ nhập siêu tăng cao vẫn còn rất lớn.
Vì thế, Chính phủ đã phải chỉ đạo Bộ Công thương và các bộ ngành
kiểm soát nhập siêu năm 2010 thông qua việc áp dụng các biện pháp hạn chế
nhập khẩu. Dự kiến, kim ngạch nhập khẩu năm 2010 đạt 74,4 tỷ USD, nhập
siêu khoảng 14,5 tỷ USD, tỷ trọng nhập siêu/xuất khẩu ở mức 24,3%.
Có thể thấy, phương án này không có gì mới, đối tượng tập trung chủ
yếu vẫn là hàng hóa tiêu dùng và xa xỉ phẩm. Tuy nhiên, Bộ Công thương
thừa nhận, tỷ trọng của nhóm này rất thấp, 8,8% trong tổng kim ngạch nhập
khẩu, doanh số nhập khẩu hơn 6 tỷ USD. Trong khi đó nhóm 1 chiếm tỷ trọng
82,6%, gấp gần 10 lần nhóm 3 lại khó áp dụng các biện pháp hạn chế. Nên
việc áp dụng các biện pháp giảm nhập siêu chưa đem lại kết quả.
Trong khi đó, do phải thực hiện các cam kết hội nhập, các biện pháp để
giảm nhập khẩu ngày càng hạn chế. Việc tăng thuế, sử dụng hạn ngạch là
dường như không thể. Ví dụ, ô tô là hàng tiêu dùng năm 2009 nhập khẩu tới
1,2 tỷ USD nhưng năm 2010 Bộ Tài chính vẫn phải giảm thuế nhập khẩu dù
rất muốn hạn chế. Đây cũng là tình trạng chung của nhiều hàng hóa tiêu dùng
khác. Vì thế việc chống nhập siêu đối với mặt hàng này chỉ trông chờ những
biện pháp hành chính hay kỹ thuật.
Hiện nay, các biện pháp chống nhập khẩu chủ yếu vẫn là hạn chế cấp
ngoại tệ và cho vay VNĐ để nhập; hạn chế cho vay tiêu dùng mua ô tô, hàng
tiêu dùng; quản lý nhập khẩu bằng giấy phép tự động. Thậm chí có thể gây
khó khăn bằng cách nâng thời hạn cấp phép nhập khẩu tự động lên trên 5
27
ngày và kiểm soát thanh toán qua ngân hàng. Hoặc tăng cường kiểm tra chất
lượng và sử dụng hàng rào kỹ thuật.
Tuy nhiên, qua thực tế 2009 thì cách làm này không có nhiều hiệu quả.
Với thực tế này việc chống nhập siêu như hiện nay thì dường như
chúng ta mới chỉ đi được loanh quanh vòng ngoài và tỏ ra bất lực, khó tạo ra
đột biến trong cán cân thương mại.
Theo các chuyên gia Bộ Công thương, ngoài những biện pháp lập hàng
rào để ngăn hàng nhập khẩu thì cách chủ động nhất giảm nhập siêu là tăng
xuất khẩu, tăng năng lực sản xuất trong nước thay thế nhập khẩu.
Hiện nay, Chính phủ đã đàm phán và ký kết Hiệp định song phương và
đa phương thiết lập các khu vực mậu dịch tự do để tạo thuận lợi cho xuất
khẩu, qua đó làm giảm nhập siêu. Đây là cách làm dài hạn và phù hợp cam
kết WTO trong việc khuyến khích việc các thành viên có quyền yêu cầu cân
bằng thương mại lẫn nhau.
Tuy nhiên, chính sách đã có nhưng việc tận dụng để xuất khẩu của các
DN lại chưa được như mong muốn.
Chính Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng đã cho rằng, trong
các hiệp định thương mại song phương và đa phương, DN của Việt Nam vẫn
chưa tận dụng tốt lợi thế từ những hiệp định.
2010 là năm được kỳ vọng rất nhiều vào khả năng thay đổi của cán cân
ngoại tệ sẽ bớt căng thẳng thông qua việc nội lực sản xuất trong nước tăng lên
mạnh mẽ. Giới chuyên môn kỳ vọng với việc nhà máy lọc dầu Dung Quất
hoạt động ổn định sẽ cung cấp khoảng 4,5 triệu tấn xăng dầu. So với nhu cầu
nhập khẩu xăng dầu 2009 hơn 12 triệu tấn với doanh số 6,2 tỷ USD thì có thể
giảm được l/3; phân đạm cơ bản đáp ứng nhu cầu trong nước, doanh số nhập
khẩu 1,3 tỷ USD năm 2009 sẽ giảm mạnh trong năm 2010; xi măng cũng bắt
đầu dư thừa và tham gia xuất khẩu...
Trung Quốc sau 13 năm đổi mới đã xuất siêu và dần tích lũy một khối
lượng dự trữ ngoại tệ khổng lồ lên đến gần 1.000 tỷ USD và đủ sức tuyên bố
28
phá giá đồng nội tệ vào năm 1994 để cân đối. Tuy nhiên, Việt Nam sau 23
năm đổi mới vẫn nhập siêu và nhập siêu ngày càng nhiều.
Trong khi đó, việc nâng cao nội lực sản xuất trong nước lại luôn chậm
so với mong đợi. Rất nhiều kế hoạch về nội địa hóa, tăng năng lực sản xuất
trong nước chưa bao giờ được thực hiện đúng. Nhà máy lọc dầu Dung Quất
chậm gần 8 năm so với kế hoạch, các chương trình như: nâng cao tỷ lệ nội địa
hóa lắp ráp ô tô bị phá sản, phát triển cơ khí trọng điểm không được như
mong muốn... khiến cho việc nhập khẩu vẫn tiếp tục tăng cao và bài toán nhập
siêu là thách thức lớn.
CHƯƠNG III
VIỆC VẬN DỤNG LÝ THUYẾT H- O VÀO VIỆC XÁC ĐỊNH
CÁC MẶT HÀNG NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM
3.1. Những lợi thế và hạn chế về nguồn lưc sản xuất của Việt Nam
Việc đánh giá các nguồn lực phải đứng trên quan điểm toàn diện và
thực tiễn. Cụ thể là phải xem xét cả yếu tố hữu hình và vô hình, đồng thời
phải xem xét trong trạng thái vận động, trong mối quan hệ với các quốc gia
khác. Tuy nhiên phải đánh giá chúng trên các mặt thuận lợi và khó khăn để
xác định rõ những điều kiện cần có khi khai thác và sử dụng chúng.
3.1.1 Thuận lợi
3.1.1.1 Về vị trí địa lý
Việt Nam nằm ở vùng đông nam châu Á, là vùng mà từ khi có
khủng hoảng tài chính tiền tệ (1996-1998) tốc độ tăng trưởng kinh tế có giảm
sút, nhưng vẫn là vùng có tốc độ phát triển khả quan so với sự trì trệ chung
của kinh tế thế giới.
29
Vị trí của Việt Nam rất thuận lợi để trở thành trung tâm giao nhận
vận tải biển quốc tế. Nằm trên tuyến đường giao lưu hàng hải quốc tế từ các
nước thuộc Liên Xô cũ, Trung Quốc, Nhật Bản, Nam Triều Tiên sang các
nước Nam Á, Trung Đông và châu Phi. Ven biển Việt Nam, nhất là từ Phan
Thiết trở vào có nhiều cảng nước sâu, khí hậu tốt, không có bão, sương mù.
Điều này cho phép tàu bè nước ngoài có thể thực hiện chuyển tải hàng hóa,
sửa chữa, tiếp nhiên liệu vật liệu an toàn quanh năm.
Việt Nam nằm trên trục đường bộ và đường sắt từ châu Âu sang
Trung Quốc qua Campuchia, Lào, Thái Lan, Mianma, Pakistan, Ấn Độ… Đặc
biệt con đường bộ xuyên Á được đưa vào sử dụng từ năm 2003; dự kiến đến
năm 2010, xây dựng tuyến đường sắt xuyên Đông Dương sẽ thúc đẩy phát
triển quan hệ kinh hệ quốc tế toàn diện giữa Việt Nam với các nước Asean.
Vận tải hàng không nước ta có nhiều sân bay đặc biệt: sân bay Tân
Sơn Nhất nằm ở vị trí rất lý tưởng, cách đều thủ đô các thành phố quan trọng
trong vùng ( Băng Cốc, Giacacta, Manila, Singapore…) .
Ví trí địa lí thuận lợi của Việt Nam tạo khả năng phát triển các hoạt
động trung chuyển, tái xuất khẩu, và chuyển hàng hóa qua các khu vực lân
cận. Đây chính là nguồn tài nguyên vô hình vô hình rất quan trọng.
3.1.1.2 Tài nguyên thiên nhiên
So với các nước khác thì nước ta thuộc loại tài nguyên đa dạng và
phong phú.
Thứ nhất, tài nguyên đất đai: Diện tích đất đai cả nước khoảng 330.363
km2 trong đó có tới 50% là đất dùng vào nông nghiệp và ngư nghiệp. Cộng
thêm khí hậu nhiệt đới mưa nắng điều hòa cho phép chúng ta phát triển nông
sản và lâm sản xuất khẩu có hiệu quả kinh tế cao như : gạo, cao su, và các
nông sản nhiệt đới.
30
Thêm vào đó, chúng ta có đường bờ biển dài 3.260km, có 2860 sông
ngòi, với diện tích 63.566 ha. Với tài nguyên này cho phép chúng ta phát triển
ngành thủy sản xuất khẩu và phát triển thủy lợi, vận tải biển và du lịch.
Thứ hai, tài nguyên khoáng sản. Tài nguyên có tiềm năng nhất đem lại
ngoại tệ xuất khẩu cho đất nước, đó là dầu khí. Trữ lượng cho phép đạt 35-38
triệu tấn quy dầu/ năm, trên 2800 tỷ m3 trữ lượng khí đốt. Việt Nam là nước
đứng thứ 31 trên thế giớ về trữ lượng dầu mỏ. Ngành dầu khí đóng góp 20%
GDP của cả nước, là ngành hàng đầu mang lại kim ngạch xuất khẩu cho đất
nước.
Tài nguyên khoáng sản đứng thứ hai là than đá. Với trữ lượng khoảng
3,6 tỷ tấn, với mức xuất khẩu năm 2006 xấp xỉ 30 triệu tấn thì với tài nguyên
đó cho phép chúng ta khai thác hàng thế kỷ với hết. Ngoài ra ta còn có nguồn
than bùn ở đồng bằng sông Cửu Long ước chừng trữ lượng 500 triệu tấn, than
nâu ở vùng đồng bằng sông Hồng khoảng 128 tỷ tấn.
Về khoáng sản kim loại, chúng ta có mỏ sắt với trữ lượng vài trăm triệu
tấn ở vùng Thái Nguyên, Cao Bằng, Thạch Khuê, quặng bô xít ở Tây Nguyên
trữ lượng 6 tỷ tấn. Ngoài ra đất nước còn có hàng chục loại khoáng sản kim
loại tuy trữ lượng không nhiều như đồng, chì, kẽm, thiếc… Nguồn tài nguyên
khoáng sản trên là lực hấp dẫn các chủ đầu tư trong và ngoài nước bỏ vốn
phát triển ngành công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản.
Về khoáng sản xây dựng: Ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam đều có nguồn
Clanh-ke để sản xuất xi măng tương đối dồi dào. Ngoài ra cát ở vùng miền
Trung cho phép xuất khẩu, được các bạn hàng nước ngoài ưa chuộng như mỏ
cát ở Nha Trang.
2.1.1.3 Nguồn lao động
Đây cũng là một lợi thế quan trọng của Việt Nam. Tính đến hết năm
2009 Việt Nam có khoảng 86,1 triệu người, trong đó có gần 46 triệu người
đang trong độ tuổi lao động. Hằng năm tốc độ tăng dân số bình quân 1,5%, dự
31
báo năm 2010 dân số Việt Nam lên đến 100 triệu người. Với nguồn lao động
dồi dào, giá nhân công rẻ; tư chất con người Việt Nam cần cù, sáng tạo, tiếp
thu nhanh công nghệ mới, có thể tham gia vào phân công lao động quốc tế.
Chính điều này đã tạo ra lợi thế cho Việt Nam trong việc phát triển các ngành
nghề đòi hỏi hàm lượng lao động cao như: dệt may, sản xuất giày dép, sản
phẩm thủ công mỹ nghệ, lắp ráp hàng điện tử…
3.1.2 Hạn chế
Thứ nhất, nguồn tài nguyên của Việt Nam tuy đa dạng, phong phú
nhưng lại phân bố rải rác, điều kiện khai thác khó khăn, khối lượng không
lớn, tài nguyên rừng và biển bị xói mòn và hiệu quả sử dụng thấp.
Thứ hai, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, lao động Việt Nam bị
hạn chế về thể lực, trình độ và ý thức kỉ luật trong lao động, còn thiếu nhiều
việc làm, thiếu tác phong công nghiệp và chuyên nghiệp, tâm lí hẹp hòi, tản
mạn nên hiệu quả công việc chưa cao.
Thứ ba, cơ cấu kinh tế còn mang tính lạc hậu, trình độ công nghệ thấp,
vẫn là một nền kinh tế ở giai đoạn khai thác tài nguyên và khai thác sức lao
động, hàm lượng khoa học- công nghệ và hàm lượng vốn trong sản phẩm còn
thấp, hệ thống hạ tầng yếu kém. Điều này gây khó khăn cho việc tham gia vào
phân công lao động quốc tế và thương mại quốc tế.
Mặt khác còn có sự chênh lệch đáng kể giữa mặt bằng giá cả trong
nước với mặt bằng giá cả quốc tế: giá một số hàng hóa và dịch vụ trong nước
cao hơn mức giá quốc tế( giá cước bưu điện, giá điện năng, giá thuê đất...)
nhưng cũng có khá nhiều hàng hóa và dịch vụ trong nước có mức giá thấp
hơn mặt bằng giá cả quốc tế( giá một số thực phẩm, một số dịch vụ sinh hoạt,
một số hàng tiêu dung…). Điều đó chứng tỏ mức độ mở cửa và hội nhập kinh
tế của Việt Nam chưa cao, chưa khai thác triệt để lợi thế và những nguồn lực
của nền kinh tế trong nước.
32
Như vậy việc vận dụng lý thuyết H-O vào điều kiện cụ thế của Việt
Nam cho thấy Việt Nam cần ưu tiên phát triển các ngành sản xuất đòi hỏi
nhiều lao động, những lĩnh vực tận dụng tối đa lợi thế của nước ta về tài
nguyên thiên nhiên… Ngược lại, đối với những lĩnh vực hàng hóa khả năng
cạnh tranh với hàng ngoại nhập yếu thì nên nhập khẩu.
3.2 Những nguyên tắc cơ bản trong chính sách nhập khẩu của Việt
Nam
3.2.1 Hoạch định chính sách nhập khẩu phải phù hợp với những
nguyên tắc chung về chính sách bảo hộ mậu dịch của các tổ chức quốc tế
Nền công nghiệp của Việt Nam còn non trẻ rất cần thiết phải có sự bảo
hộ của Nhà nước thông qua chính sách hạn chế nhập khẩu. Tuy nhiên Việt
Nam gia nhập Asean, tham gia vào Afta, Apec và đã ký trên 100 hiệp định
song phương và đa phương. Đầu năm 2007 đã gia nhập WTO, chúng ta đã
cam kết mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ, đầu tư tạo điều kiện cho các nhà
kinh doanh quốc tế vào Việt Nam. Chúng ta đang trong tình trạng nhập siêu
lớn. Năm 2008, nhập siêu trên 20 tỷ USD. Nhưng không vì thế chúng ta xây
dựng các chính sách hạn chế nhập khẩu, đi ngược lại với các cam kết quốc tế
mà Việt Nam đã ký. Thay vào đó chúng ta phải áp dụng các biện pháp tích
cực: tăng tốc độ xuất khẩu cao hơn nhập khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh
của hàng nội ngay tại thị trường trong nước, có chính sách khuyến khích các
ngành sản xuất nguyên vật liệu, chế tạo mấy móc, linh kiện thay thế hàng
nhập khẩu.
3.2.2 Ưu tiên nhập khẩu tư liệu sản xuất đồng thời chú ý thích đáng
cho hàng tiêu dùng thiết yếu cho đời sống của nhân dân
Do nguồn ngoại tệ của chúng ta còn hạn chế nên phải sử dụng tiết
kiệm, trên nguyên tác ưu tiên sử dụng mua máy móc thiết bị, khoa học công
nghệ, nguyên vật liệu từ nước ngoài để đáp ứng nhu cầu trong nước. Nhưng
bên cạnh đó, chúng ta phải chú ý thích đáng nhập khẩu hàng tiêu dùng, như
33
vậy mới góp phần duy trì và phát triển sức lao động. Như vậy, bên cạnh việc
nhập khẩu xăng dầu, phân bón, sắt thép, máy móc thiết bị cần quan tâm nhập
khẩu thuốc, dụng cụ y tế, các loại thực phẩm và phương tiện, đồ dùng sinh
hoạt mà sản xuất trong nước chửa đáp ứng được.
3.2.3 Xây dựng cơ chế chính sách nhập khẩu phải có tác dụng bảo
vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước
Một mặt chúng ta cần xây dựng chính sách nhập khẩu cởi mở mang
tính hội nhập, mặt khác các cơ chế chính sách nhập khẩu phải tham gia bảo vệ
và thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. Hai yêu cầu này dường như mâu
thuẫn nhau, nhưng thực tế có những điểm mang tính thống nhất, hỗ trợ lẫn
nhau. Thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi nhà nước phải nghiên cứu thêm đưa
vào áp dụng những biện pháp bảo hộ thị trường nội địa như : luật chống bán
phá giá, thuế hạn ngạch, thuế gây ô nhiễm môi trường, thuế nhập khẩu tính
trên khối lượng hàng nhập…Ngoài ra, nhà nước phải tăng cường hoạt động
chống buôn lậu, chống gian lận trong hoạt động nhập khẩu …để xây dựng
môi trường kinh doanh bình đằng giữa các hàng hóa sản xuất trong nước và
hàng nhập khẩu. Có như vậy, sản xuất và thương mại nội địa mới phát triển
thuận lợi, có khả năng cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu.
3.2.4 Kết hợp giữa hàng hóa nhập khẩu và xuất khẩu
Xuất khẩu và nhập khẩu là hai bộ phận của một quá trình buôn bán
quốc tế, chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Do đó cần gắn bó chặt
chẽ hai hoạt động này với nhau trêm các mặt sau đây:
Ưu tiên nhập khẩu nguyên vật liệu, máy móc phục vụ sản xuất hàng
xuất khẩu. Đất nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại hóa, tuy
nhiên nguyên vật liệu trong nước phục vụ sản xuất hàng hóa chưa đáp ứng
được cả về số lượng và chất lượng. Do đó, nhiều ngành kinh tế chủ lực của
Việt Nam như dệt may, giày da, sản phẩm điện tử, máy tính… vẫn phải sử
34
dụng nguyên liệu nhập khẩu. Để nâng cao hiệu quả cạnh tranh, trong thời gian
tới chính phủ xây dựng các chính sách khuyến khích phát triển các ngành sản
xuất nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nước thay cho nguyên vật liệu nhập
khẩu
Ở những thị trường mà Việt Nam nhập khẩu với giá trị lớn và ổn
định thì Chính phủ cần tăng cường hoạt động ngoại giao, thông qua đàm phán
khuyên khích họ mở cửa thị trường tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa Việt
Nam thâm nhập.
3.3 Cơ cấu nhập khẩu và phương hướng nhập khẩu giai đoạn 2000-
2010
Cơ cấu nhập khẩu là tỷ lệ tương quan giữa các nhóm hàng trong toàn
bộ kim ngạch nhập khẩu. Bộ Công thương đã chia hàng hóa nhập khẩu làm 3
nhóm.
Nhóm I, hàng cần thiết nhập khẩu: hàng thiết yếu, đầu vào cho sản
xuất và xuất khẩu. Nhóm hàng này có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy
tốc độ tăng trưởng kinh tế và cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật ở nước ta, do
đó phải đảm bảo và tạo thuận lợi cho nhập khẩu để sản xuất, không áp dụng
các biện pháp quản lý
Nhóm 2, hàng cần kiểm soát nhập khẩu là: sản phẩm từ thép, đá
quý, kim loại quý, hàng hóa khác...
Nhóm 3, hàng hạn chế nhập khẩu như hàng tiêu dùng, ô tô nguyên
chiếc dưới 9 chỗ và linh kiện...
3.3.1 Hàng cần thiết nhập khẩu
Nhóm hàng này bao gồm thiết bị toàn bộ, thiết bị máy móc lẻ và dụng
cụ, phụ tùng…
Kim ngạch nhập khẩu năm 2008 của nhóm mặt hàng này đạt 64,1 tỉ
USD, tăng 28,4% so với năm 2007, chiếm tỉ trọng 77,3% tổng kim ngạch
35
nhập khẩu cả nước. Phấn đấu đến năm 2010 tốc độ tăng trưởng nhóm này
giảm xuống còn 5,9% ( giảm mạnh chủ yếu do lượng xăng dầu nhập khẩu
giảm), đạt kim ngạch 71,5 tỉ USD.
Đây là nhóm hàng thiết yếu, là đầu vào cho sản xuất và xuất khẩu, do đó phải
đảm bảo và tạo thuận lợi cho nhập khẩu để ổn định sản xuất không áp dụng
các biện pháp hành chính và kinh tế để quản lý. Tuy nhiên vẫn phải tính đến
khả năng giảm hợp lý nhập khẩu ở nhóm này thì mới có khả năng giảm nhập
siêu vì tỉ trọng khối này chiếm tới gần 4/5 tổng giá trị nhập khẩu.
3.3.1.1 Thiết bị toàn bộ
Gồm máy móc, nguyên vật liệu, công nghệ được nhập khẩu đảm bảo sự
hoạt động hoàn chỉnh của một công trình. Trong nhiều trường hợp nhập khẩu
thiết bị toàn bộ người ta nhập khẩu luôn cả bí quyết công nghệ và có chuyên
gia lắp đặt và hướng dẫn sử dụng. Đối với một nước như nước ta khi lực
lượng lao động còn ở trình độ thấp thì nhóm thiết bị toàn bộ trong cơ cấu
nhập khẩu nên chiếm tỷ lệ thích đáng và ngày càng tăng. Tuy nhiên khi nhập
khẩu nhóm hàng này cần chú trọng một số yêu cầu như sau:
Kỹ thuật tiên tiến, chất lượng tốt
Cho phép sản xuất sản phẩm xuất khẩu với khả năng cạnh tranh cao
Giá cả phải chăng
Phù hợp với trình độ sản xuất và tay nghề của người lao động
Mang lại hiệu quả kinh tế cao
3.3.1.2 Thiết bị máy móc lẻ
Mục đích nhập khẩu về để lắp đặt mới hoặc thay thế máy móc hao mòn
vô hình hoặc hữu hình. Khi nhập khẩu nhóm hàng này cần phải lưu ý:
Phải phù hợp với công suất hoạt động của Nhà máy
Đảm bảo tính đồng bộ của máy móc
Máy móc phải phù hợp với với điều kiện sản xuất của Việt Nam
36
Giá cả phải chăng với điều kiện thanh toán phù hợp
Đặc biệt phải chú ý đến hiệu quả kinh tế của máy móc nhập khẩu,
hạn chế nhập khẩu máy móc đã sản xuất được trong nước mà chất lượng
không thua kém hàng ngoại nhập.
3.3.1.3 Dụng cụ, phụ tùng
Chủ yếu là phụ tùng thay thế để thực hiện bảo trì, bảo dưỡng, sửa chữa
những máy móc thiết bị nhập khẩu mà ta chưa có điều kiện sản xuất. Trong
thời gian tới chúng ta nên có biện pháp khuyến khích sản xuất những mặt
hàng này ở trong nước nhằm từng bước giảm tỷ trọng nhập khẩu dụng cụ, phụ
tùng.
3.3.2 Nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu
Nhóm mặt hàng nhập khẩu tuy cần thiết nhưng vẫn cần phải kiểm soát.
Nhóm này gồm các mặt hàng: sản phẩm chế tạo từ gang thép, sản phẩm dầu
gốc, gas, đá quý, kim loại quý, chiếm tỉ trọng 16% trên tổng kim ngạch nhập
khẩu. Năm 2008, kim ngạch nhập khẩu nhóm này ước đạt khoảng 13,4 tỉ
USD, tăng 37,4% so với năm 2007. Với việc triển khai các biện pháp kiểm
soát và hạn chế nhập khẩu, dự kiến tốc độ nhập khẩu nhóm này sẽ giảm
xuống còn 12,9% vào năm 2010 với kim ngạch nhập khẩu khoảng 17,5 tỉ
USD. Trong nhóm hàng hoá này thì mặt hàng vàng cần phải được kiểm soát
chặt và không cấp thêm hạn ngạch nhập khẩu. Trong khi đó nguyên vật liệụ là
mặt hàng có tỷ trọng nhập khẩu cao nhất. Theo thống kê, nguyên vật liệu
nhập khẩu thỏa mãn 49- 90% nhu cầu nguyên liệu trong nước: trên 90% sản
phẩm xăng dầu; 60-70% nguyên liệu hàng dệt may; 70-80% nguyên liệu sản
xuất giày dép; 60-70% nguyên liệu gỗ…
Việt Nam là một quốc gia có nguồn tài nguyên phong phú. Chính vì
vậy cần tận dụng lợi thế này để sản xuất nguyên vật liệu phục vụ sản xuất,
giảm tình trạng nhập siêu cho nhóm hàng này. Từ năm 2008, khi nhà máy lọc
37
dầu Dung Quất đi vào hoạt động đã góp phần hỗ trợ tích cực cho chiến lược
giảm nhập siêu nguyên vật liệu. Tuy nhiên để giảm đáng kể sự phụ thuộc các
ngành sản xuất trong nước vào nguyên vật liệu nước ngoài, giảm chi phí kinh
doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa sản xuất tại Việt Nam thì
Nhà nước cần xây dựng chính sách khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước
vào các ngành sản xuất nguyên vật liêu ở ngành sản xuất dệt may; giày dép;
linh kiện, bán sản phẩm của ngành điện tử, cơ khí…
3.3.3 Nhóm hàng hạn chế nhập khẩu
Nhóm mặt hàng hạn chế nhập khẩu gồm: nguyên phụ liệu thuốc lá,
hàng tiêu dùng, ôtô nguyên chiếc dưới 12 chỗ, linh kiện ôtô dưới 12 chỗ, linh
kiện và phụ tùng xe gắn máy. Tỉ trọng nhóm này ở mức thấp nhất so với 2
nhóm trên, chiếm 6,6% trên tăng kim ngạch nhập khẩu.
Qua triển khai một số giải pháp như tăng thuế nhập khẩu, hạn chế tiếp cận
ngoại tệ… kim ngạch nhóm này đã giảm. Năm 2008 kim ngạch đạt 5,46 tỉ
USD, tăng 40,7% so với năm 2007. Năm 2009 con số này là 6,5 tỷ và dự kiến
sẽ là 7,2% trong năm 2010 với tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2008-2010 đạt
23,5%/năm. Hai mặt hàng có tốc độ giảm nhiều nhất là ôtô nguyên chiếc và
linh kiện dưới 12 chỗ ngồi, phụ tùng ôtô
Bộ Công Thương cũng cho biết trong năm 2010, cơ quan chức năng
sẽ tiếp tục kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu các sản phẩm từ thép, đá quý,
kim loại quý, hàng hóa khác…, với kim ngạch nhập khẩu dự kiến khoảng
6,3 tỷ USD, tăng 7,2% so với năm 2009.
Các mặt hàng tiêu dùng, ô tô nguyên chiếc dưới 9 chỗ, linh kiện ô tô
dưới 9 chỗ, linh kiện và phụ tùng xe gắn máy cũng sẽ tiếp tục hạn chế nhập
khẩu. Hiện tỷ trọng nhóm này ở hiện chiếm 8,8% tổng kim ngạch nhập khẩu.
Dự kiến, kim ngạch nhập khẩu nhóm này đạt 6,32 tỷ năm 2010, tăng 5% so
với năm 2009 và tỷ trọng giảm xuống còn 8,5%.
38
Khi xây dựng chính sách nhập khẩu hàng tiêu dùng cần phải cân nhắc
kỹ lưỡng những vấn đề cơ bản sau đây:
Cơ cấu hàng tiêu dùng trong toàn bộ kim ngạch nhập khẩu phải ở
mức độ vừa phải.
Khuyến khích sản xuất “lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng”
là chiến lược kinh tế cơ bản của Nhà nước Việt Nam. Do đó nhập khẩu phải
có tác dụng khuyến khích và bảo vệ sản xuất hàng tiêu dùng trong nước.
3.4 Các giải pháp kiềm chế nhập siêu của Việt Nam trong thời gian tới
3.4.1 Giải pháp ngắn hạn:
Năm 2010 chúng ta nên tiếp tục thực hiện các giải pháp hạn chế nhập
khẩu đã triển khai trong năm 2009 như sau:
3.4.1.1 Kiểm soát chặt các mặt hàng nhập khẩu.
Thứ nhất, yêu cầu các ngân hàng ngừng cho vay nhập khẩu các mặt
hàng xa xỉ
Ngoài 13 nhóm mặt hàng, chủ yếu là các nhu cầu nhập khẩu phục vụ
quốc tế, dân sinh và sản xuất như xăng dầu, phân bón, thuốc chữa bệnh...
được ưu tiên cấp tín dụng nhập khẩu, các ngân hàng thương mại, trước mắt,
sẽ dừng các khoản cho vay mới phục vụ nhập khẩu, đặc biệt đối với các mặt
hàng xa xỉ như ôtô, mỹ phẩm, rượu bia...
Theo Ngân hàng Nhà nước, điều chỉnh này của các ngân hàng được
thực hiện theo đề xuất của Bộ Công Thương đã được Thủ tướng phê duyệt
nhằm kiềm chế nhập siêu trong năm 2009. Ngân hàng Nhà nước giữ vai trò
chỉ đạo thực hiện đối với hệ thống ngân hàng thương mại.
Theo đó đầu tiên vụ Xuất nhập khẩu sẽ phải rà soát lại tất cả các mặt
hàng nhập khẩu, xem lại danh mục các mặt hàng tiêu dùng do nhà nước quản
lý bởi danh mục này đã được ban hành 3 năm, hiện đã có nhiều thay đổi. Qua
đó xác định những mặt hàng không quan trọng, nhất là những mặt hàng xa xỉ
39
như ôtô dưới 9 chỗ ngồi, điện thoại di động, mỹ phẩm, rượu ngoại, kể cả rau
quả và thực phẩm để kiểm soát chặt chẽ.
Tiếp đến là yêu cầu hệ thống các ngân hàng thương mại xem xét kỹ
hoặc tạm dừng từ tháng 12/2009 không cho vay tiền nhập khẩu, dứt khoát hạn
chế nhập khẩu những mặt hàng xa xỉ. Cuối cùng là sử dụng các biện pháp
hành chính như nhập khẩu về phải kiểm tra kiểm soát chặt chẽ, kéo dài thời
gian thông quan để các doanh nghiệp nhập khẩu phải cân nhắc bài toán lợi
nhuận.
Lý do khiến Bộ Công Thương phải đề xuất các biện pháp kể trên là
nhằm đảm bảo thực hiện Nghị quyết tháng 1/2009 của Chính phủ, theo đó
khống chế tỷ lệ nhập siêu trong năm 2009 ở mức 20% so với giá trị xuất khẩu.
Chỉ đạo này nhận được khá nhiều ủng hộ từ phía các ngân hàng vì
ngoài tác dụng kiểm soát nhập siêu, việc hạn chế cho vay nhập khẩu còn giúp
các ngân hàng hạn chế các khoản vay mới trong giai đoạn tín dụng căng thẳng
hiện nay.
Thứ hai, cần tiếp tục thực hiện các biện pháp bình ổn thị trường, cân
đối cung cầu các mặt hàng cơ bản của nền kinh tế. Trong đó, đặc biệt quan
tâm việc nâng cao chất lượng công tác dự báo, cảnh báo xu hướng giá cả và
thị trường thế giới trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động, qua đó đề xuất
những giải pháp bình ổn thị trường, cân đối cung cầu hiệu quả.
Ví dụ: đối với xăng dầu là mặt hàng mà Nhà máy lọc dầu Dung Quất đã
sản xuất được, từ nay đến hết năm, Vụ Xuất nhập khẩu Bộ Công Thương, Vụ
Thị trường trong nước, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN - chủ đầu tư nhà
máy lọc dầu Dung Quất), Tổng Công tỷ Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) và
11 đầu mối tiêu thụ xăng dầu cần hợp tác chặt chẽ, cân đối cung cầu để ưu
tiên tiêu thụ hết khoảng 800 nghìn tấn sản phẩm của nhà máy lọc dầu Dung
Quất; đồng thời giảm bớt hoặc ngừng lượng xăng dầu nhập khẩu, góp phần
giảm nhập siêu.
40
Thứ ba, Bộ Công Thương sẽ tăng cường các biện pháp hành chính đối
với hàng hóa nhập khẩu như kiểm tra kiểm soát chặt chẽ, kéo dài thời gian
thông quan… để các doanh nghiệp nhập khẩu phải cân nhắc có lợi hay không
trong việc nhập khẩu. Cụ thể như sau:
Quản lý nhập khẩu bằng giấy phép tự động để kiểm soát nhập khẩu
đối với các mặt hàng tiêu dùng. Mở rộng danh mục mặt hàng nhập khẩu phải
nộp thuế ngay trước khi thông quan đối với một số mặt hàng cần hạn chế
nhập khẩu.
Tăng cường công tác kiểm tra chất lượng hàng hoá nhập khẩu và sử
dụng hàng rào kỹ thuật để hạn chế nhập khẩu: rà soát, ban hành các quy định
chặt chẽ về hoá chất, chất phụ gia, chất hỗ trợ chế biến trong bảo quản hàng
thực phẩm…
Riêng đối với mặt hàng vàng trong trường hợp cần thiết có thể sử
dụng hạn ngạch nhập khẩu để khống chế mức nhập khẩu
3.4.1.2 Điều chỉnh thuế nhiều mặt hàng xuất nhập khẩu
Bộ Tài chính đã tiến hành điều chỉnh thuế nhiều mặt hàng xuất nhập
khẩu, trong đó ban hành biểu thuế ưu đãi cho một số mặt hàng ưu tiên nhập
khẩu
Năm 2008 chứng kiến một tần suất hiếm thấy trong điều chỉnh thuế
xuất nhập khẩu đối với nhiều mặt hàng. Một mặt, những điều chỉnh này được
thực hiện theo các cam kết thuế quan giữa các nước thành viên khối ASEAN
và theo lộ trình gia nhập WTO; mặt khác, đây cũng là ứng xử của nhà điều
hành chính sách trước những biến động mạnh và bất thường trên thị trường
thế giới nhằm hỗ trợ cho sản xuất, bình ổn thị trường trong nước, cũng như hỗ
trợ các ngành hàng xuất khẩu. Thuế một loạt các mặt hàng nông sản, đồ gỗ,
sắt thép, xăng dầu, gas, ôtô, giấy, nguyên vật liệu cho sản xuất… liên tục
được điều chỉnh; điển hình như thuế xuất khẩu thép, thuế nhập khẩu xăng
dầu.
41
Một điểm đáng chú ý là tần suất điều chỉnh chính sách thuế xuất nhập
khẩu tập trung từ tháng 9 về cuối năm 2009, giảm phổ biến ở nhiều mặt hàng
(riêng thuế nhập khẩu xăng dầu liên tục tăng), như một giải pháp để hỗ trợ
cho các doanh nghiệp, ngành hàng trong bối cảnh suy giảm kinh tế trong và
ngoài nước.
Ngày 16/8/2006 Bộ Tài chính ban hành nhiều Biểu thuế xuất nhập khẩu
ưu đãi mới áp dụng cho các mặt hàng nhập khẩu vào VN. Theo biểu thuế ưu
đãi này thì động vật sống, gia cầm sống chỉ phải chịu mức thuế nhập khẩu 5%
(trừ con giống là 0%). Trong khi đó, các sản phẩm như thịt động vật (nhóm
0201 và 0202) phải chịu mức thuế 20%, thịt lợn 30%, thịt và phụ phẩm gia
cầm 30%. Mức thuế nhập khẩu 30% cũng được áp dụng cho các sản phẩm từ
cá và các động vật thuỷ sinh. Trong khi máy sử dụng cho nghành công nghiệp
da giày, cơ khí (nhóm 8461, 8462) chủ yếu được hưởng thuế nhập khẩu 0%,
thì máy móc sử dụng cho nghành công nghiệp may phải chịu nhiều mức thuế
suất thuế nhập khẩu khác nhau như 0%, 3%, 10%,30% thậm chí là 50%.
Tương tự, nếu như tất cả các loại máy móc sử dụng cho nghành công nghiệp
xây dựng (trừ xe lăn đường có trọng lượng dưới 20 tấn phải chịu thuế 5%) chỉ
phải chịu thuế nhập khẩu 0% thì các loại máy sử dụng trong nông nghiệp và
lâm nghiệp (từ nhóm 8432 đến nhóm 8437 phải chịu nhiều mức thuế suất
khác nhau (0%, 5%, 20%). Tính chung, có hàng trăm ngàn mặt hàng nhập
khẩu có thuế suất 0%.
3.4.2 Các giải pháp trung và dài hạn
3.4.2.1 Phát triển sản xuất các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh,
thay thế hàng nhập khẩu
Bên cạnh việc thúc đẩy phát triển xuất khẩu, việc đẩy mạnh sản xuất
hàng hóa, các loại nguyên liệu, các mặt hàng phụ trợ cho sản xuất tiêu dùng,
42
sản xuất hàng xuất khẩu thay thế hàng nhập khẩu cũng là một biện pháp quan
trọng hạn chế nhập siêu. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, các tập đoàn, các Tổng công tỷ Nhà nước, các doanh nghiệp
đẩy nhanh tiến độ xây dựng, sớm đưa các dự án đầu tư về điện, phân bón,
thép, cơ khí, dệt may vào sản xuất nhằm thay thế các mặt hàng nhập khẩu,
góp phần giảm nhập siêu.
Thứ hai, triển khai mạnh và tích cực đầu tư vào sản xuất trong ngành
công nghiệp phụ trợ. Một số ngành ưu tiên phát triển công nghiệp phụ trợ
trong thời gian tới là: cơ khí, dệt may, da giày, điện tử.
Thứ ba, rà soát lại các cơ sở sản xuất các ngành phụ trợ tại công tỷ nhà
nước, ưu tiên cấp vốn và tạo điều kiện khác để đổi mới thiết bị, thay đổi công
nghệ tại những cơ sở đã có quy mô tương đối lớn. Lập chế độ tư vấn kỹ thuật
và quản lý để mời các chuyên gia nước ngoài vào giúp thay đổi công nghệ và
cơ chế quản lý tại các doanh nghiệp. Một số nước đã phát triển, đặc biệt nhất
là Nhật, có chương trình xúc tiến chuyển giao công nghệ cho các doanh
nghiệp nhỏ và vừa tại các nước đang phát triển. Việt nam nên tiếp nhận nhanh
sự hỗ trợ này để nhanh chóng tăng khả năng cung cấp các mặt hàng công
nghiệp phụ trợ hiện có, nhất là các mặt hàng đang sản xuất tại các doanh
nghiệp nhà nước. Song song với việc này Việt Nam cũng nên kêu gọi doanh
nghiệp nước ngoài đầu tư vào việc sản xuất trong các ngành công nghiệp phụ
trợ.
Đặc biệt chúng ta nên khuyến khích tư nhân đầu tư vào lĩnh vực sản
xuất các ngành công nghiệp phụ trợ, với sự hỗ trợ đặc biệt về vốn, và những
ưu đãi đặc biệt về thuế (miễn thuế nhập khẩu thiết bị và công nghệ, miễn thuế
doanh thu…)
3.4.2.2 Thúc đẩy để sớm ký kết các Hiệp định song phương và đa
phương
43
Việc sớm ký kết các Hiệp định song phương và đa phương thiết lập các
khu vực mậu dịch tự do sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu, qua đó giảm
nhập siêu (Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản, Hiệp định hợp tác
kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản, Hiệp định khu vực mậu dịch tự do
ASEAN – Autralia-New Zeland, và ASEAN – Ấn Độ). Trao đổi với các đối
tác thương mại mà Việt Nam nhập siêu (trước hết là Trung Quốc, ASEAN,
Hàn Quốc…) để phối hợp tìm giải pháp giảm nhập vào Việt Nam và tăng
xuất từ Việt Nam. Điều này cũng phù hợp với các quy tắc của WTO, theo đó
khuyến khích việc các thành viên có quyền yêu cầu cân bằng thương mại lẫn
nhau.
3.4.2.3 Bảo vệ sản phẩm trong nước khỏi sự cạnh tranh không
công bằng trên thị trường trong nước
Thứ nhất, Việt Nam cần đầy mạnh việc nghiên cứu xây dựng các biện
pháp và tiêu chuẩn kỹ thuật áp dụng đối với các ngành, sản phẩm công nghiệp
nhằm bảo vệ sản phẩm trong nước khỏi sự cạnh tranh không công bằng trên
thị trường trong nước, phù hợp với các quy định của WTO và các Hiệp định
quốc tế mà Việt Nam ký kết.
Thứ hai, hoàn thiện hoặc ban hành các tiêu chuẩn kỹ thuật đối với
hàng hoá lưu thông trên thị trường nói chung cũng như đối với hàng hoá
nhập khẩu, trước mắt là đối với những mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu lớn,
có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất, tiêu dùng, sức khoẻ cộng đồng và bảo vệ
môi trường.
Thứ ba, chủ động rà soát những mặt hàng nhập khẩu tăng mạnh do việc
cắt giảm thuế quan theo cam kết WTO và AFTA mà trong nước có khả năng
sản xuất để có biện pháp hạn chế nhập khẩu và khuyến khích sản xuất trong
nước.
3.4.2.4. Chống lãng phí
44
Để tránh tránh thất thoát nguồn lực chúng ta cần chủ động, tích cực hơn
trong đầu tư xây dựng cơ bản, trong tiêu dùng và sử dụng hợp lý nguồn tài
nguyên trong nước. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động người dân và
doanh nghiệp sử dụng hàng Việt Nam và tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu
trong sản xuất và tiêu dùng.
45
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế này nay xuất nhập khẩu hàng
hóa là một hoạt động không thể thiếu của một quốc gia. Việc xác định cơ cấu
nhập khẩu của các nền kinh tế được dựa trên cơ sở lợi thế về nguồn lực sản
xuất. Sau khi triển khai nghiên cứu đề tài “ Lí thuyết H - O và việc vận dụng
vào các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam” nhóm nhận thấy đây thực sự
là một đề tài hay và cần thiết. Nắm vững và vận dụng lý thuyết H- O rất có ý
nghiã đôí với việc xác định cơ cấu nhập khẩu.
Trong những năm qua, Việt Nam đã có những bước đi khá đúng đắn
trong việc xác định cơ cấu nhập khẩu, góp phần không nhỏ vào thành tựu tăng
trưởng và ổn định kinh tế. Tuy nhiên, khi thực tiễn thay đổi nhanh chóng như
hiện nay, không một chính sách nào có thể tồn tại mãi mà không có những
điểm bất cập. Vì vậy chính phủ cần đóng vai trò tích cực trong việc định
hướng cho các bộ ngành, các địa phương và doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực nhập khẩu hàng hóa để xác định cơ cấu nhập khẩu hợp lý.
Trong khuôn khổ bài viết ngắn này, người thực hiện không có tham
vọng gì hơn ngoài việc tìm hiểu lý thuyết H- O, từ đó đưa ra một số ý kiến
xây dựng nhằm góp phần nhỏ bé, hoàn thiện cơ cấu nhập khẩu của đất nước.
Với những thành công ban đầu của hơn 20 năm đổi mới và từ kinh nghiệm
của các nước đi trước, chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng Việt Nam sẽ thành
công trong việc xác lập cơ cấu hàng nhập khẩu phù hợp nhất, góp phần đưa
đất nước tăng trưởng bền vững và nâng cao vị thế trên trường thế giới.
Chúng ta có thể tiếp tục triển khai một số đề tài để nghiên cứu sâu hơn
vấn đề này, như: “Nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhập
khẩu Việt Nam thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế”; “Nâng cao năng lực quản lý
của Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu”; “ Cơ cấu nhập khẩu và vấn
đề phát triển kinh tế” ...
46
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế quốc tế, GS.TS Đỗ Đức Bình, PGS. TS Nguyễn
Thường Lạng. Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội 2008.
2. Giáo trình Quan hệ kinh tế quốc tế,
3. Giáo trình Kinh tế đối ngoại Việt Nam, Học viện quan hệ kinh tế
quốc tế.
4. Việt Nam với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhà xuất bản
Thống kê, 2003
5. Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 3 năm 2009
6. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế
7. www.vnneconomy.com.vn
8. www.thuongmai.vn
9. www.xuatnhapkhau.foxpage.net
10. www.infotv.vn
11. www. Mofa.gov.vn
12. Niên gián thống kê 2008, nhà xuất bản Thống kê Hà Nội 2008
13. www.gso.gov.vn
47
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Số TT Kí hiệu Nội dung
1 H-O Heckescher –Ohlin
2 NK Nhập khẩu
3 WTO Tổ chức thương mại thế giới
4 DN Doanh nghiệp
5 VNĐ Việt Nam đồng
6 USD Đồng đôla Mỹ
7 Nhà KH Nhà khoa học
8 AFTA Khu vực mậu dịch tự do Asean
48
DANH MỤC BẢNG, BIỂU VÀ ĐỒ THỊ
Bảng 1.1 Lợi thế so sánh của Mỹ và châu Âu trong sản xuất lương
thực và quần áo
Hình 1.2 Đường giới hạn khả năng sản xuất
Hình 1.3 Quá trình hình thành giá cả sản phẩm- khung cân bằng
tổng quát của lý thuyết Hecksher- Ohlin.
Bảng 1.4 Nội dung các yếu tố trong hàng xuất khẩu và nhập khẩu
của Mỹ năm 1962
Bảng 1.5 Kiểm nghiệm mô hình Heckscher – Ohlin
Hình 2.1 Kim ngạch NK của Việt Nam giai đoạn 2000-2009
Hình 2.2.2.2: Nhập khẩu sắt thép từ các thị trường chính
7 tháng 2009 so với 7 tháng 2008
Bảng 2.2.2.4 : Lượng, trị giá nhập khẩu các mặt hàng nguyên liệu
ngành dệt may, da, giày năm 2009 và năm 2008
Biểu đồ 2.2.2.9: Lượng nhập khẩu ô tô từ tháng 1 đến tháng 7 năm
2009
49
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG, BIỂU VÀ ĐỒ THỊ
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................ 0
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ LÝ THUYẾT H –O ................................. 3
1.1 Cơ sở hình thành lý thuyết H- O .......................................................... 3
1.1.1 Lí thuyết về lợi thế so sánh của D.Ricacrdo .............................. 4
1.1.2 Những hạn chế trong của lí thuyết của D. Ricacrdo dẫn tới sự
hình thành của lí thuyết H-O .............................................................. 7
1.2 Nội dung lí thuyết H- O ......................................................................... 7
1.2.1 Các giả thiết của Heckescher - Ohlin ...................................... 7
1.2.2 Hàm lượng các yếu tố sản xuất trong các hàng hóa và đường
giới hạn khả năng sản xuất ................................................................ 8
1.2.3. Cấu trúc cân bằng chung của học thuyết Heckscher- Ohlin ..... 9
1.2 Kiểm nghiệm mô hình H-O ..................................................................12
1.3.1 Kiểm định với nền kinh tế Mỹ ...................................................12
1.3.2 Kiểm nghiệm số liệu trên thế giới ............................................14
1.3.3 Ý nghĩa của các kiểm nghiệm ...................................................15
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM .............17
2.1 Vai trò và nhiệm vụ của nhập khẩu đối với Việt Nam ........................17
2.1.1 Vai trò của nhập khẩu ..............................................................17
2.1.2 Nhiệm vụ của công tác nhập khẩu ...........................................18
2.2.2 Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu. .......................................21
50
2.3 Đánh giá ..............................................................................................26
CHƯƠNG III: VIỆC VẬN DỤNG LÝ THUYẾT H- O VÀO VIỆC XÁC
ĐỊNH CÁC MẶT HÀNG NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM ............28
3.1. Những lợi thế và hạn chế về nguồn lưc sản xuất của Việt Nam ........28
3.1.1 Thuận lợi ..........................................................................................28
3.1.2 Hạn chế ............................................................................................31
3.2 Những nguyên tắc cơ bản trong chính sách nhập khẩu của Việt Nam ....... 32
3.2.1 Hoạch định chính sách nhập khẩu phải phù hợp với những
nguyên tắc chung về chính sách bảo hộ mậu dịch của các tổ chức
quốc tế ..............................................................................................32
3.2.2 Ưu tiên nhập khẩu tư liệu sản xuất đồng thời chú ý thích đáng
cho hàng tiêu dùng thiết yếu cho đời sống của nhân dân ..................32
3.2.3 Xây dựng cơ chế chính sách nhập khẩu phải có tác dụng bảo vệ
và thúc đẩy sản xuất trong nước .......................................................33
3.2.4 Kết hợp giữa hàng hóa nhập khẩu và xuất khẩu .......................33
3.3 Cơ cấu nhập khẩu và phương hướng nhập khẩu giai đoạn 2000-2010 34
3.3.1 Hàng cần thiết nhập khẩu ........................................................34
3.3.2 Nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu .......................................36
3.3.3 Nhóm hàng hạn chế nhập khẩu ................................................37
3.4 Các giải pháp kiềm chế nhập siêu của Việt Nam trong thời gian tới .38
3.4.1 Giải pháp ngắn hạn: ................................................................38
3.4.2 Các giải pháp trung và dài hạn ................................................41
KẾT LUẬN ...............................................................................................45
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................46
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Lí thuyết H- O và việc vận dụng vào các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam.pdf