Luận văn Lạm phát ở Việt Nam từ năm 2010 đến nay

Tài liệu Luận văn Lạm phát ở Việt Nam từ năm 2010 đến nay: —&œ– Luận văn Đề tài: Lạm phát ở Việt Nam từ năm 2010 đến nay Mục lục DANH SÁCH NHÓM: 1. Phạm Trung Hiếu    - NT  - 01649.727.456 2. Phạm Trí Trung    3. Nguyễn Văn Hải 4. Phạm Bùi Việt Phương           5. Nguyễn Tiến Lâm                   6. Nguyễn Hoàng Long   7. Lê Đức Hoàng                      8. Lê Phương Toan   9. Hồ mậu Lượng                     TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT 1. Khái niệm về lạm phát Quan điểm phổ thông cho rằng: Lạm phát là hiện tượng tăng lên của mức giá chung tại một thời điểm. Chúng ta có thể hiểu theo quan điểm này thì giá tăng là lạm phát. Tất nhiên là không hẳn như vậy. Chúng ta thử nghĩ xem vào dịp Tết tất cả các mặt hàng hầu như đều tăng, phải chăng đó là lạm phát. Không! Đó chỉ là biến động cung cầu tạm thời, hay nói cách khác nếu giá tăng trong thời gian ngắn thì không phải cứ coi là lạm phát, chúng ta không nên cường điệu hóa. Nhà kinh tế học Milton Fridmen đã định nghĩa: Lạm phát là hiện tượng giá cả tăng nhanh và kéo dài liên tục tr...

doc23 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1337 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Lạm phát ở Việt Nam từ năm 2010 đến nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
—&œ– Luận văn Đề tài: Lạm phát ở Việt Nam từ năm 2010 đến nay Mục lục DANH SÁCH NHÓM: 1. Phạm Trung Hiếu    - NT  - 01649.727.456 2. Phạm Trí Trung    3. Nguyễn Văn Hải 4. Phạm Bùi Việt Phương           5. Nguyễn Tiến Lâm                   6. Nguyễn Hoàng Long   7. Lê Đức Hoàng                      8. Lê Phương Toan   9. Hồ mậu Lượng                     TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT 1. Khái niệm về lạm phát Quan điểm phổ thông cho rằng: Lạm phát là hiện tượng tăng lên của mức giá chung tại một thời điểm. Chúng ta có thể hiểu theo quan điểm này thì giá tăng là lạm phát. Tất nhiên là không hẳn như vậy. Chúng ta thử nghĩ xem vào dịp Tết tất cả các mặt hàng hầu như đều tăng, phải chăng đó là lạm phát. Không! Đó chỉ là biến động cung cầu tạm thời, hay nói cách khác nếu giá tăng trong thời gian ngắn thì không phải cứ coi là lạm phát, chúng ta không nên cường điệu hóa. Nhà kinh tế học Milton Fridmen đã định nghĩa: Lạm phát là hiện tượng giá cả tăng nhanh và kéo dài liên tục trong một thời gian dài. Như vậy với việc hình thành lạm phát theo quan điểm này, bản chất lạm phát được thể hiện ở tính chất sự tăng giá, với một tốc độ cao và thời gian dài, đó là đặc thù riêng có của lạm phát. Định nghĩa này cũng được Keynes ủng hộ, phù hợp với mục tiêu ổn định giá cả trong thời gian dài của các NHTW. 1.2. Các phương pháp đo lường lạm phát 1.2.1. Chỉ số giá tiêu dùng CPI CPI được sử dụng một cách phổ biến trong việc đánh giá mức lạm phát . CPI đo lường mức giá trung bình của 1 nhóm hàng hoá và dịch vụ cần cho tiêu dùng của các hộ gia đình trong 1 giai đoạn nhất định. Chỉ số CPI được tính bằng cách so sánh giá trị hiện tại và giá trị tại kỳ gốc của rổ hang hoá đã được chọn theo quy định: Ưu điểm: Cho phép so sánh sự biến động mức giá tiêu dùng theo thời gian. Nhược điểm: Không phản ánh được sự thay đổi trong cơ cầu tiêu dùng , đồng thời cũng không phản ánh được sự thay đổi về chất lượng của hàng hoá dịch vụ. Ở Việt Nam , CPI được tính cho toàn quốc và cho từng địa phương, chỉ số giá bình quân được thông báo hàng tháng, tổ hợp của nhiều tháng và cho cả năm và được công bố cùng chỉ số giá vàng và chỉ số đô la Mỹ. 1.2.2. Chỉ số giảm phát tổng sản phẩm quốc nội Chỉ số giảm phát GDP là chỉ số tính theo phần trăm phản ánh mức giá chung của tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ sản xuất trong nước. Chỉ số điều chỉnh GDP cho biết một đơn vị GDP điển hình của kỳ nghiên cứu có mức giá bằng bao nhiêu phần trăm so với mức giá của năm cơ sở. Ưu điểm: Phản ánh được sự thay thế giữa các hàng hoá, dịch vụ với nhau. Nhược điểm: Chỉ phản ánh mức giá của những hàng hoá sản xuất trong nước (vì GDP chỉ tính sản phẩm trong nước) , không phản ánh được sự giảm sút phúc lợi của người tiêu dùng trong trường hợp phải tiêu dùng ít hơn một loại hàng nào đó. 1.2.3. Chỉ số lạm phát cơ bản Chỉ số lạm phát cơ bản có cách tính tương tự như chỉ số CPI nhưng loại trừ một số mặt hàng dễ thay đổi giá như lương thực và năng lượng.Hiện nay trên thế giới có nhiều phương pháp đo lường lạm phát cơ bản nhưng có thể cho chúng vào 3 nhóm chính: Nhóm phương pháp cơ học: Việc tính toán theo phương pháp này được thực hiện bằng cách loại bỏ 1 số mặt hàng khỏi rổ CPI với nguyên tắc loại bỏ những hàng hoá đặc trưng bởi những cú sốc mạnh ( có tính mùa vụ hay liên quan tới cung và giá cả không được hình thành bởi thị trường). Nhóm phương pháp thống kê: Loại bỏ tác động của những thay đổi thái quá của giá cả ảnh hưởng tới tỷ lệ lạm phát chung. Nhóm mặt hàng bị loại trừ thay đổi theo từng tháng và phụ thuộc vào độ biến động giá cả của hàng hoá đó. Các phương pháp thống kê phổ biến nhất bao gồm pp bình quân thu gọn và pp bình quân gia quyền cộng dồn. Phương pháp hồi quy: Sử dụng mô hình hồi quy trong kinh tế lượng để đưa các số liệu thực tế của các biến số vào đánh giá lạm phát cơ bản. 1.3. Nguyên ngân của lạm phát 1.3.1. Lạm phát do cầu kéo Nguyên nhân do tổng cầu AD – tổng chi tiêu của xã hội tăng lên – vượt quá mức cung ứng hàng hóa của xã hội dẫn đến áp lực làm tăng giá cả. Nói cách khác, bất kỳ lí do nào làm cho tổng cầu tăng lên đều dẫn đến lạm phát về ngắn hạn. Giải thích bằng mô hình AS AD1 AD0 O Tổng cầu phản ánh nhu cầu có khả năng thanh toán về hàng hóa và dịch vụ của xã hội. Vậy các lý do làm tổng cầu tăng lên là: Chi tiêu Chính phủ tăng: Tổng cầu tăng trực tiếp thông qua các khoản đầu tư thuộc lĩnh vực Chính phủ quản lý hoặc có thể gián tiếp thông qua các khoản chi phúc lợi xã hội tăng và kết quả là giá cả hàng hóa tăng lên. Khi nhu cầu Chính phủ tăng lên dẫn đến bội chi thì việc phát hành tiền và đi vay từ các ngân hàng thương mại để bù đắp thiếu hụt rất dễ gây ra lạm phát cao, kéo dài. Chi tiêu hộ gia đình tăng lên: do mức thu nhập thực tế tăng lên, lãi suất giảm, do điều kiện vay tiêu dùng thuận lợi… thúc đẩy AD dịch phải => tạo áp lực lên lạm phát. Nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp tăng lên: xuất phát từ việc dự đoán về triển vọng phát triển kinh tế, khả năng mở rộng thị trường, do lãi suất đầu tư giảm, điều kiện vay vốn đầu tư dễ dàng hơn… Nhu cầu của nước ngoài: Các yếu tố như tỷ giá, giá cả hàng hóa nước ngòa so với trong nước và thu nhập bình quân của thị trường nước ngoài có những ảnh hưởng quan trọng đến nhu cầu hàng hóa nhập khẩu và do đó ảnh hưởng đến tổng cầu cũng như mức giá chung nội địa. Thuế giảm:dẫn đến thu nhập của dân chúng tăng, kích thích tiêu dùng Cung tiền tăng: Làm cho lãi suất thực giảm, kích thích đầu tư và xuất khẩu ròng, tăng cầu. 1.3.2. Lạm phát do chi phí đẩy Đặc điểm quan trọng của lạm phát chi phí đầy là áp lực tăng giá cả xuất phát từ sự tăng lên cảu chi phí sản xuất vượt quá mức tăng của năng suất lao động và làm giảm mức cung ứng hàng hóa của xã hội. Do một số nguyên nhân sau: Mức tăng tiền lương tiền lương vượt quá mức tăng của năng suất lao động (thị trường lao động khan hiếm, yêu cầu tăng lương của công đoàn, lạm phát dự tính tăng). Sự tăng lên của mức lợi nhuận ròng của người sản xuất đẩy giá cả hàng hóa tăng lên. Do giá cả nội địa của hàng nhập khẩu tăng lên. Tăng thuế và các nghĩa vụ đối với Ngân sách Nhà nước II. DIỄN BIẾN LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM TỪ ĐẦU NĂM 2010 ĐẾN NAY 1. Diễn biến lạm phát trong năm 2010 Năm 2010, lạm phát cả nước ở mức 11,75%:Chỉ số tiêu dùng (CPI) tháng 12/2010 của cả nước tăng 1,98%, qua đó đẩy mức lạm phát  năm của cả nước 2010 lên 11,75% so với năm 2009. Con số này vượt gần 5% so với chỉ tiêu được Quốc hội đề ra hồi đầu năm (khoảng 8%). Trong khi đó, nếu tính bình quân theo từng tháng (cách tính mới của Tổng cục thống kê) thì lạm phát năm 2010 tăng 9.19% so với năm 2009. DIỄN BIẾN TỐC ĐỘ TĂNG CPI 2010 Ta có thể thấy lạm phát tăng cao trong các tháng đầu năm và cuối năm, mức tăng có độ vênh lớn, tháng cao nhất so với tháng thấp nhất lệch nhau đến hơn 1,5%. 3 tháng đầu năm CPI tăng cao nhưng ngay sau đó có liền 5 tháng tăng thấp về gần mức 0%, sau đó lại vượt lên trên 1% vào 4 tháng còn lại của năm. Các tháng từ tháng 9 đến tháng 11, mức tăng đều đạt mức kỉ lục của 15 năm trở lại đây. Tính chung CPI năm 2010, CPI giáo dục tăng mạnh nhất gần 20%. Tiếp đó là hàng ăn (16,18%), nhà ở - vật liệu xây dựng (15,74%). Các ngành Giao thông, hàng hóa & dịch vụ khác, thực phẩm đều có mức tăng trên 10%. Bưu chính viễn thông là nhóm duy nhất giảm giá với mức giảm gần 6% trong năm 2010. Chỉ số giá vàng tăng 36,72%, chỉ giá USD tăng 7,63%.Về CPI của các vùng miền, đáng chú ý là chỉ số CPI khu vực nông thôn tháng 12 tăng 2,04%;  cao hơn 1,87% của khu vực thành thị. 2. Diễn biến lạm phát 9 tháng đầu năm 2011 Tính chung từ đầu năm, lạm phát của cả nước đã tăng 15,68% so với thời điểm cuối năm 2010. So với cùng kỳ năm ngoái, mặt bằng giá hiện tại đã cao hơn 23,02%. Nhìn chung lạm phát nước ta đã có xu hướng tăng đáng kể từ đầu năm. Chỉ số giá tiêu dùng CPI tăng mạnh từ tháng 1 với 1,78% so với tháng trước và đỉnh điểm mức 3,32 ở tháng 4. Thời gian tiếp theo chỉ số CPI có xu hướng giảm khi các thời điểm tháng 5, 6, 7 có giá trị lần lượt so với tháng trước là 2,21%, 1,09%, 1,17%. Đặc biệt với 2 tháng 8, 9 con số này đã giảm xuống dưới 1% hạn chế sự tăng trưởng của lạm phát. Đỉnh cao của lạm phát 9 tháng đầu năm 2011 rơi vào tháng 4 với tỷ lệ 9,64% so với cuối năm 2010, vượt xa ngưỡng 7% mà chính phủ đặt làm mục tiêu cho cả năm vào thời điểm đó. Nếu so với cùng kỳ năm ngoái, lạm phát đã lên tới 17,51%, cao hơn mức đỉnh lạm phát 16% mà Ngân hàng Phát triển Á châu đưa ra cho Việt Nam.Nhóm hàng và dịch vụ giao thông tăng giá mạnh, tới 6,04%. Chỉ số giá tiêu dùng cả nước sau tháng 4 đã có xu hướng giảm xuống và tăng 2,21% trong tháng 5. Tuy tốc độ tăng có chậm lại so với tháng 4 nhưng mặt bằng giá hiện tại, so với đầu năm và cùng kỳ 2010, đã cao hơn lần lượt là 12,07% và 19,78%. Đến tháng 6 CPI tăng 1,09 so với tháng 5, nâng tổng mức lạm phát từ đầu năm đến thời điểm đó lên 13,29% và cùng kỳ năm 2010 là 20,82. Sang tháng 7 CPI tăng nhẹ có giá trị 1,17 so với tháng 6. Tháng 8 chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cả nước chỉ tăng 0,93% nhờ sự giảm nhiệt đáng kể của nhóm hàng ăn – dịch vụ ăn uống. Lạm phát tăng thấp nhất kể từ đầu năm là tháng 9 với chỉ số tiêu dùng CPI tăng chỉ là 0,82 so với tháng trước. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, đà tăng giá tại nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tiếp giảm tốc khi chỉ tăng 0,28% trong tháng 9 (con số tương ứng của 2 tháng trước đó là 2,12% và 1,35%). Với quyền số khoảng 40% trong rổ hàng hóa tính CPI, nhóm này đã có tác động lớn đến việc kiềm chế đà tăng của chỉ số giá (tăng tổng cộng 16,63% kể từ đầu năm). Chỉ số giá ở nhóm giáo dục tăng rất mạnh, lên tới 8,62% trong tháng 9. Tuy nhiên, con số này vẫn thấp hơn so với mức 12% của cùng kỳ 2010. Bên cạnh bưu chính - viễn thông có xu hướng giảm khá đều trong nhiều tháng qua, giao thông là nhóm hàng thứ 2 giảm giá trong tháng này do tác động của quyết định giảm giá xăng vào cuối tháng 8. Mức giảm tại 2 nhóm này lần lượt là 0,07% và 0,24%. Ngoài các mặt hàng nói trên, tất cả các nhóm còn lại trong rổ hàng hóa đều có xu hướng tăng nhẹ. Nhóm duy nhất tăng giá trên 1% là hàng hóa - dịch vụ khác (do có sự góp mặt của các mặt hàng trang sức, vốn chịu tác động mạnh của giá vàng). III. NGUYÊN NHÂN CỦA LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TỪ ĐẦU NĂM 2010 ĐẾN NAY 1. Nguyên nhân khách quan Năm 2010 và 9 tháng đầu năm 2011, lạm phát trong nước vẫn nối đà tăng cao của các năm trước đó. Không thể phủ nhận, lạm phát tăng cao như vậy một phần là do những nguyên nhân khách quan đến từ thị trường thế giới cũng như trong nước: Giá nhiều loại hàng hóa nguyên, nhiên vật liệu chủ chốt như xăng dầu, phôi thép, khí dầu mỏ... trên thị trường thế giới tăng cao đã tác động đến giá xăng dầu, thép xây dựng, gas, phân bón... trong nước tăng cao, điều này ảnh hưởng đến cho chi phí sản xuất, hay còn gọi là “chi phí đẩy”. Giá vàng trên thị trường thế giới tăng đột biến cũng khiến giá vàng trong nước tăng mạnh gây tâm lý tăng giá lan tỏa sang các hàng hóa tiêu dùng khác trên thị trường.  Dịch bệnh trên vật nuôi lan rộng và kéo dài (có thời kỳ cả nước có 30/63 tỉnh thành có dịch bệnh) làm giảm mạnh nguồn cung thực phẩm và gia tăng chi phí chăn nuôi. Ngoài ra, tình hình thời tiết khắc nghiệt trong một số giai đoạn cũng ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất nông nghiệp và vì vậy ảnh hưởng đến nguồn cung nông sản thực phẩm tại một số thời điểm gây tăng giá hàng hóa.  Sức hút từ thị trường các nước lân cận (Trung Quốc, Lào, Campuchia) do chênh lệch giá một số mặt hàng khi trong nước thực hiện các chính sách bình ổn giá. Thời gian qua, nhiều mặt hàng, nhất là ở các mặt hàng lương thực, xăng dầu, thực phẩm như thịt lợn, thủy sản, đã bị thu gom và xuất khẩu qua biên giới cũng góp phần làm mất cân đối nguồn cung hàng hóa trong nước. Việc điều chỉnh lương cơ bản làm chi phí sản xuất bị đẩy lên gây ra lạm phát Tuy nhiên, nếu lập luận cho rằng đây là những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng lạm phát cao thì hoàn toàn sai toàn sai lầm, do: Thứ nhất, khi so sánh lạm phát của Việt Nam với lạm phát của các nền kinh tế khác, ta có số liệu ở bảng dưới: Tính đến tháng 9 năm 2011, tốc độ tăng CPI của Việt Nam đã lên đến 16,63%, tiệm cận mục tiêu 18% đặt ra cho cả năm, cũng là cao hơn các nước khác rất nhiều. Các nước trên thế giới đều chịu tác động tiêu cực đến từ các thị trường xăng dầu hay thị trường vàng, vậy tại sao lạm phát của Việt Nam cao hơn một cách đáng xấu hổ như vậy? Thứ hai, bão lũ, dịch bệnh đúng là có khắc nghiệt hơn trong những năm gần đây. Nhưng đây đã là những yếu tố cố hữu ở Việt Nam, năm nào cũng có, không thế vì lý do này mà lạm phát lại tăng cao đột biến như vậy. Thứ ba, việc điều chỉnh tăng lương cơ bản cũng không phải là việc mà trong giai đoạn 2010 – 2011 mới thực hiện: Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 CPI 0,8 4,0 3,0 9,5 8,4 6,6 12,6 19,9 6,52 11,75 9,64 (4 tháng) GDP 6,79 6,89 7,08 7,34 7,79 8,44 8,23 8,46 6,18 6,32 6,78 Lương tối thiểu 210 210 290 290 350 450 450 540 650 730 830 Có thể thấy, lương cơ bản vẫn tăng đều trong các năm từ năm 2002 đến năm 2011, vậy tại sao chỉ trong các năm từ năm 2007 trở lại đây, lạm phát mới cao lên đột biến Từ những lý do trên, rõ ràng không thể nói những nguyên nhân khách quan là yếu tố chính làm nên tình hình lạm phát căng thẳng như hiện nay, mà nguyên nhân chính phải nằm ở những yếu tố nội tại của nền kinh tế. 2. Nguyên nhân chủ quan Lạm phát luôn có nguyên nhân từ tiền tệ, ở Việt Nam, không khó để nhận ra chính sách tiền tệ đã có sự nới lỏng quá mức trong các giai đoạn trước đó, và hệ luỵ của nó là tỷ lệ lạm phát cao trong giai đoạn cuối năm 2010 và đầu năm 2011. Nhưng rõ ràng NHNN không ngây thơ khi thấy tình hình lạm phát căng thẳng mà vẫn tiếp tục “phải” bơm tiền cho nền kinh tế. Nguồn gốc sâu xa của lạm phát chính là đến từ chính sách tài khoá mở rộng của Chính phủ, mà cụ thể là sự tập trung quá nhiều vốn cho hoạt động chi tiêu công kém hiệu quả, yếu tố này cùng với sự thiếu độc lập của NHNN đã tạo sức đẩy cho mức giả cả chung của nền kinh tế. Cộng thêm nữa, sự thiếu bài bản trong chính sách điều hành nền kinh tế như: tăng giá đồng loạt nhiều hàng hoá quan trọng, phá giá tiền tệ một cách giật cục đã góp phần khuếch đại tình trạng lạm phát của Việt Nam. 2.1. Chi tiêu công và sự độc lập của NHNN Chi tiêu công mà cụ thể là những khoản chi tiêu và đầu tư kém hiệu quả của Chính phủ thông qua các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) chính là nguyên nhân chủ quan quan trọng nhất: Các DNNN này không chỉ được ưu tiên trong việc sử dụng các nguồn tài nguyên của đất nước, mà còn được phép sử dụng nguồn ngân sách Nhà nước một cách dễ dãi hoặc nhận được rất nhiều ưu tiên, trợ giúp của Nhà nước thông qua các hoạt động tín dụng cả trong và ngoài nước. Những ưu tiên về nguồn vốn và việc trả nợ này đã khiến các DNNN không còn nhạy cảm với lợi nhuận, tiết kiệm, tăng năng suất lao động. Từ đó đã dẫn tới hành vi sản xuất kinh doanh thiếu trách nhiệm, đầu tư một cách tràn lan; tới khi thua lỗ, thậm chí chỉ kêu lỗ là Nhà nước lại “bơm tiền” để giải cứu. Trong khi những thông tin về tình hình hoạt động của các DNNN, việc sử dụng nguồn vốn Nhà nước cấp hoặc ưu đãi cho vay còn quá bưng bít, thì chỉ khi các DN này rơi vào tình trạng thua lỗ quá nặng, gẫn như vô phương cứu chữa, thì thông tin mới được truyền ra, trường hợp tiêu biểu nhất có lẽ là của tổng công ty đóng tàu Việt Nam (VINASHIN) vào năm 2010. Những khoản đầu tư thua lỗ, việc sử dụng đồng tiền một cách lãng phí khu vực kinh tế Nhà nước đã dẫn đến tình trạng mặc dù là khu vực được tập trung nhiều vốn nhất nhưng chỉ đóng góp khoảng 10% vào nguồn thu của Ngân sách Nhà nước mỗi năm, góp một phần không nhỏ cho tình trạng thâm hụt ngân sách triền miên của Việt Nam: Ngân sách không dư thừa, nhưng thời gian qua, đặc biệt là trong năm 2010 để phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng, Chính phủ lại tiếp tục hùn vốn cho chi tiêu công, cho khu vực hoạt động kém hiệu quả của nền kinh tế. Tuy nhiên nếu các DN này đi vay một cách công bằng trên thị trường tài chính, hiển nhiên theo lý luận kinh tế sẽ làm tăng cầu quỹ cho vay, đẩy lãi suất lên từ đó có ảnh hưởng tích cực đến lạm phát, nhưng ở đây lại nổi lên vấn đề về tính độc lập của NHNN. Chính sách tiền tệ của NHNN đưa ra trong các năm qua luôn gắn kèm hai mục tiêu gần chẳng thế nào thực hiện được cùng lúc: tăng trưởng kinh tế, đi đôi với kiềm chế lạm phát; thế là khi Chính phủ đánh tiếng thiếu vốn để tăng trưởng kinh tế, NHNN lại phải đi mua các trái phiếu đã bán từ hệ thống NHTM, đưa thêm tiền vào hệ thống này, việc liên tục tung tiền ra lưu thông trong khi lạm phát vẫn tăng cao là kịch bản lặp đi lặp lại trong nhiều năm trở lại đây: Với các ưu đãi của mình, các DN thuộc khu vực kinh tế Nhà nước lại vay được vốn, vòng xoáy thiếu hiệu quả lặp lại, tiền đưa ra nhiều trong khi sản lượng chẳng tăng lên là bao thì một kết quả tất yếu là lạm phát. Như vậy có thể nói, lạm phát tăng cao trong giai đoạn cuối năm 2010 và đầu năm 2011 là kết quả của chính sách tiền tệ nới lỏng trong thời gian trước đó, mà một phần rất lớn lượng tiền đó là để phân bổ cho các hoạt động chi tiêu công. 2.2. Khả năng điều hành nền kinh tế Chính sách tài khoá mở rộng là nguyên nhân chính làm nảy sinh lạm phát, nhưng để có được mức lạm phát cao như trong giai đoạn cuối năm 2010 và đầu năm 2011, một phần trách nhiệm thuộc về chính sách điều hành nền kinh tế một cách thiếu bài bản của Chính phủ, cụ thể gồm: Liên tục phá giá đồng tiền Việt. Tăng gíá đồng loạt và đột ngột 2 hàng hoá quan trọng là điện và xăng dầu. + Phá giá tiền tệ đột ngột Tính từ thời điểm năm 2010 đến nay, NHNN đã có tổng cộng 3 lần phá giá đồng VND, trong đó lần phá giá vào tháng 2/2011 là có mức điều chỉnh sốc nhất, khi điều chỉnh giảm giá VND tới 9.3% Thời gian Tỷ giá USD/VND trước khi phá giá Tỷ giá USD/VND sau khi phá giá Biên độ giao dịch Tỷ lệ % VND bị phá giá 11/2/2010 17.941 18.544 +/-3% 3,36% 18/8/2010 18.544 18.932 +/- 3% 2,09% 11/2/2011 18.932 20.693 +/- 1% 9,3% Nhìn chung, nguyên nhân của các lần phá giá đều đến từ việc giữ cố định tỷ giá bình quân liên ngân hàng trong một thời gian dài, trong khi tỷ giá giao dịch trên thị trường tự do liên tục lên cao, đến khi chênh lệch giữa 2 thị trường đã lên tới mức cao thì NHNN mới điều chỉnh giảm giá một cách đột ngột. Việc điều chỉnh tỷ giá một cách bất ngờ như trên đã có ảnh hưởng rất tiêu cực đến mức giá cả nền kinh tế, đặc biệt với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, việc giảm giá đồng tiền làm chi phí đầu vào tăng lên đáng kể, kết quả là tình trạng lạm phát leo thang do chi phí đẩy như thời gian vừa qua. + Điều chỉnh tăng giá đồng loạt điện và xăng dầu Điện và xăng dầu là 2 yếu tố đầu vào quan trọng đối với bất kì ngành sản xuất nào, việc điều chỉnh giá 2 mặt hàng này đòi hỏi phải xem xét dẫn thận trọng và có một thời gian tách biệt nhất định để tránh ảnh hưởng đến mức giá cả chung. Trong năm 2010 và 2011, cả 2 mặt hàng này đều được điều chỉnh tăng giá nhiều lần: Giá xăng dầu liên tục được điều chỉnh, giá điện thì “đến hẹn lại lên”, đặc biệt, trong quý I năm 2011, cả điện và xăng dầu đều tăng giá rất mạnh. Lý do mà EVN hay PVG đưa ra trong mỗi lần tăng giá đều là để bù lỗ cho việc phải bán với giá thấp. Nhưng một điều dễ nhận thấy là trong khi PVG là độc quyền trong lĩnh vực xăng dầu, thì EVN cũng gần như một mình một sân trên thị trường điện, nếu đã độc quyền như vậy thì làm sao có thể thua lỗ được? Trong khi việc lỗ lãi vẫn còn mập mờ thì hậu quả tăng giá đã thấy rõ , việc tăng giá đồng loạt trong tháng 3 đã dẫn tới hậu quả ngay sau đó là mức lạm phát cao ngất ngưởng trong tháng 4 năm 2011. IV. CÁC GIẢI PHÁP Đà ĐƯỢC CHÍNH PHỦ ĐƯA RA Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng nhấn mạnh kiềm chế lạm phát là ưu tiên số 1 hiện nay, ưu tiên nhất quán của Chính phủ, kiềm chế được lạm phát sẽ mang lại hiệu quả cho đời sống, cho tăng trưởng, cho ổn định kinh tế vĩ mô, cho phát triển bền vững… Đường biểu diễn chỉ số CPI 6 tháng như một trò chơi lao dốc, bò lên chậm chạp ở sườn bên này nhưng lại cắm đầu lao dốc rất nhanh ở sườn bên kia. Mỗi dao động ở giai đoạn này đều gắn với những thay đổi chính sách chóng mặt thời gian gần đây. Cùng lúc chính phủ tung ra một loạt chính sách điều chỉnh giá xăng dầu, than, điên… sau một thời gian dài kìm nén, CPI tháng 4 tăng đột biến hơn cả tháng Tết nguyên đán trước đó. Ngay lập tức các giải pháp thắt chặt tiền tệ, tài khóa đã được sử dụng để kiềm chế lạm phát. Để đối phó với lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô, Chính phủ đã ban hành và thực thi Nghị quyết số 11/2010/NQ-CP ngày 24 tháng 2 năm 2011 về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội + Chính sách tiền tệ thắt chặt Tổng phương tiện thanh toán M2 là chỉ tiêu đầu tiên được soi kỹ, theo công bố mới nhất thì tính đến 10/6 tăng trưởng M2 đạt 2.33%, tương đương khoảng 1/5 con số cùng kỳ năn 2010, dù nửa đầu năm trước cũng là giai đoạn thực thi chính sách tiền tệ thận trọng. Tăng trưởng tín dụng cũng mới chỉ đạt 7.05% bằng 2/3 so với cùng kỳ năm ngoái. Phía cung chịu ảnh hưởng mạnh của loạt điều chỉnh này. Một con số tham khảo là gần 79 tỷ đồng đã được Ngân hàng Nhà nước hút thông qua OMO trong khoảng thời gian mà tổng cục thống kê thu thập số liệu tính CPI tháng 6. Nhìn vào tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng thì tốc độ tăng loại trừ yếu tố giá mấy tháng gần đây đã giảm so với cùng kỳ các năm trước. Mới đây NHNN đã áp dụng một số biện pháp để giảm bớt hiện tượng dollar hóa thị trường bằng cách kiểm soát chợ đen, tăng tỉ lệ dự trữ USD từ 4% lên đến 6%, và giới hạn lãi suất dành cho tiền USD ký quỹ xuống còn 3%.  6 tháng đầu năm 2011, Ngân hàng Nhà nước hút ròng hơn 54 tỷ đồng qua OMO. Nửa đầu năm 2011, SBV đã điều chỉnh 3 lần lãi suất chiết khấu, 4 lần lãi suất tái cấp vốn, 5 lần lãi suất OMO. Theo thống kê của Blomberg, 6 tháng đầu năm 2011, SBV đã bơm ra thị trường 2.239.264 tỷ đồng và hút về 2.293.500 tỷ đồng. tức hút ròng 54,235 tỷ đồng. Nguồn: Báo cáo thống kê CafeF + Chính sách tài khóa thắt chặt Nhà nước đã phải giảm chỉ tiêu phát triển 1% từ 7%-7.5% xuống 6.5% cho năm 2011, ngừng, đình hoãn, giãn tiến độ thực hiện một số dự án đầu tư của nhà nước. Đánh giá hiệu quả các chính sách thời gian qua: Các giải pháp nói trên đã đạt được những kết quả ban đầu như tỷ giá có xu hướng ổn định dần; thị trường ngoại tệ phi chính thức giảm về quy mô và mức độ hoạt động; cung-cầu ngoại tệ bớt căng thẳng hơn; quy mô thị trường vàng tự do được thu hẹp đáng kể, nhất là vàng miếng; việc sử dụng vàng làm phương tiện đầu cơ, làm phương tiện thanh toán cũng giảm hẳn,.v.v… Tuy vậy, việc triển khai Nghị quyết số 11/2011/NQ-CP và Kết Luận số 02-KL/TW cho đến nay còn có một số khiếm khuyết sau đây: Các giải pháp về tiền tệ đã được thực hiện khá quyết liệt, bám sát nội dung và tinh thần Nghị quyết số 11/2011/NQ-CP và Kết luận số 02-KL/TW của Bộ Chính trị. Nhưng, một số giải pháp, nhất là giải pháp về lãi suất đã tỏ ra là chưa thật hợp lý. Khác với chính sách tiền tệ, các giải pháp về tài khóa chưa được thực hiện đúng theo yêu cầu của Nghị quyết số 11/2011/NQ-CP và Kết luận số 02-KL/TW của Bộ Chính trị; và chưa có tác dụng đáng kể. Các địa phương, các ngành vẫn khởi công mới hơn 5000 dự án mới với số vốn được phân bố hơn 22 nghìn tỷ đồng. Vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước 4 tháng đầu năm vẫn tăng hơn 18% so với cùng kỳ năm ngoái. Số vốn đầu tư được báo cáo là sẽ cắt giảm, đình hoãn và điều chuyển vẫn còn thấp hoặc chưa đủ độ tin cậy. Danh mục cụ thể các dự án được cắt giảm vẫn chưa được xác định cụ thể và công bố công khai. Cũng tương tự như vậy đối với danh mục các dự án sẽ được bổ sung thêm vốn từ việc điều chuyển vốn từ các dự án bị cắt giảm. Một lần nữa, có sự thiếu hụt đáng kể trong phối hợp cần có giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong cuộc chiến chống lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Các giải pháp được thực hiện cho đến nay còn mang nặng tính hành chính, ngắn hạn và tình thế; chưa đặt trong tổng thể các giải pháp đổi mới mô hình tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu kinh tế; nên chưa hướng đến giải quyết nguyên nhân cơ bản của lạm phát và bất ổn kinh tế vĩ mô ở nước ta. Nghị quyết số 11/2011/NQ-CP của Chính phủ và Kết luận số 02-KL/TW của Bộ chính trị được đánh giá là phù hợp để kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Thực hiện các biện pháp chống lạm phát, bên cạnh các kết quả bước đầu, cũng đã gây ra một số khó khăn ngắn hạn đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, như lãi suất vay vốn cao, khó tiếp cận vốn tín dụng, tiêu thụ hàng hóa khó khăn, tốc độ tăng trưởng năm nay sẽ thấp hơn so với chỉ tiêu kế hoạch..v.v….. V. MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ Dựa trên cơ sở phân tích những nguyên nhân dẫn tới tình trạng lạm phát cao ở Việt Nam trong giai đoạn 2010 -2011, một phân tích đã đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục tình trạng trên: Thứ nhất, đối với hoạt động chi tiêu công và độ độc lập của NHNN: Xoá bỏ cơ chế bao cấp, xin cho, ràng buộc ngân sách lỏng lẻo đối với các DNNN, từ đó nâng cao hiệu quả của hoạt động chi tiêu công. Tất nhiên, khu vực công là khu vực cần có những ưu tiên nhất định để đảm bảo lợi ích xã hội, nhưng ưu tiên cũng cần có mức độ để đảm bảo trách nhiệm của các DN trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Minh bạch hoá, công khai hoá tình trạng sử dụng vốn, tình hình tài chính của các DNNN. Nâng cao tính độc lập của NHTW trong việc hoạch định chính sách tiền tệ, xác định mức cung tiền cho nền kinh tế. Hơn nữa, chính sách tiền tệ nên ưu tiên mục tiêu rõ ràng trong từng giai đoạn, không nên theo đuổi cùng lúc các mục tiêu mâu thuẫn với nhau, cụ thể trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế đã có dấu hiệu tăng trưởng quá nóng nhiều năm liền, lạm phát tăng cao, thì nên ưu tiên hơn cho mục tiêu kiềm chế lạm phát và để mục tiêu tăng trưởng lại phía sau. Thứ hai, đối với việc điều hành nền kinh tế của Nhà nước: Đối với vấn đề tỷ giá, tỷ giá bình quân liên Ngân hàng nên được điều chỉnh một cách linh hoạt ( như cách đã áp dụng từ tháng 2/2011) để tránh những cú sốc cho nền kinh tế khi đột ngột phá giá. Việc điều hành giá điện, giá xăng dầu đòi hòi nhiều hơn sự thận trọng, không đề cập đến lý do tăng giá có là hợp lý hay không, nhưng các lần điều chỉnh cần có một khoảng cách nhất định về mặt thời gian để nền kinh tế có thời gian đề thích nghi, tránh tình trạng tăng giá ồ ạt, đồng loạt như thời gian vừa qua, tạo sức ép đẩy lạm phát lên cao. VI. DỰ BÁO TÌNH HÌNH LẠM PHÁT TRONG THỜI GIAN TỚI Việc dự đoán diễn biến tình hình kinh tế vĩ mô, đặc biệt là các chỉ tiêu lạm phát từ nay đến cuối năm có ý nghĩa sống còn với các hoạt động đầu tư, thương mại, tài chính trong thời gian tới. Nguyên nhân lạm phát đã được xác định, nhiều biện pháp kiềm chế đã đưa ra, song câu hỏi lớn nhất vẫn là: lạm phát sẽ dừng lại ở mức nào. Sáng 23/9 trong cuộc hội thảo bàn về kinh tế VN, các chuyên gia đưa ra hai kịch bản lạm phát cho năm 2011, đều e ngại khả năng lạm phát cuối năm có thể lên 24% trước chính sách bơm tiền mạnh, giá vàng cao... Trong hội thảo kinh tế Việt Nam 2011 - triển vọng năm 2012 diễn ra ở TP HCM sáng 23/9, tiến sĩ Phạm Đỗ Chí, chuyên viên cấp cao chương trình Star Plus đưa ra hai kịch bản lạm phát năm 2011: Một là: Lạm phát có thể tăng tốc nhanh trong hai tháng cuối năm, ở mức 19-20%. Theo số liệu của Tổng Cục thống kê, lạm phát 8 tháng đầu năm đã là 15,68%.Dự báo này dựa trên nhiều yếu tố. Trước hết là do nhu cầu tiêu dùng cao trong mùa lễ tết sắp tới. Cùng với đó là chính sách thắt chặt tiền tệ làm giảm nhu cầu khu vực tư nhân, nhưng không đủ để làm giảm tổng cầu trong nền kinh tế. Hai là: Lạm phát có thể lên tới 24% vào cuối năm nay, do giá vàng trong nước thời gian qua cao hơn thế giới nhưng người ta vẫn đổ xô mua vào, cho thấy tâm lý lo ngại lạm phát vẫn rất nặng nề trong lòng người dân. Bên cạnh đó, tỷ giá và việc điều chỉnh lương tối thiểu, giá xăng, dầu, điện... có thể tác động tiêu cực lên chỉ số giá tiêu dùng những tháng cuối năm do tâm lý "tát nước theo mưa". Kịch bản 2 về lạm phát 4 tháng cuối 2011 Tháng 9 22,64% Tháng 10 23,31% Tháng 11 23,48% Tháng12 24,11% Câu hỏi “ Việt Nam nên chọn cái nào giữa lạm phát và tăng trưởng”. Việc ưu tiên cái nào và hi sinh giữa cái gì và cái gì cần phải rất linh hoạt. Lạm phát cao, dẫn đến áp dụng biện pháp kích cầu để kiềm chế lạm phát, và một tất yếu là tăng trưởng bị chậm lại. Theo một số nghiên cứu trước đây thì ngưỡng lạm phát Việt Nam nên là 5-6%. Khi chọn mức lạm phát 5-6% làm ngưỡng, thì nếu lạm phát Việt Nam ở dưới mức này để tăng tốc độ tăng trưởng, Chính phủ có thể thực hiện các giải pháp tăng lạm phát và việc tăng lạm phát cho đến ngưỡng 6% không quá nguy hại đến kinh tế. Nếu lạm phát trên ngưỡng 6%, để tăng trưởng kinh tế, Chính phủ lại phải điều tiết giảm lạm phát. 2.5. Dự báo lạm phát thời gian tới Việc dự đoán diễn biến tình hình kinh tế vĩ mô, đặc biệt là các chỉ tiêu lạm phát từ nay đến cuối năm có ý nghĩa sống còn với các hoạt động đầu tư, thương mại, tài chính trong thời gian tới. Nguyên nhân lạm phát đã được xác định, nhiều biện pháp kiềm chế đã đưa ra, song câu hỏi lớn nhất vẫn là: lạm phát sẽ dừng lại ở mức nào. Sáng 23/9 trong cuộc hội thảo bàn về kinh tế VN, các chuyên gia đưa ra hai kịch bản lạm phát cho năm 2011, đều e ngại khả năng lạm phát cuối năm có thể lên 24% trước chính sách bơm tiền mạnh, giá vàng cao... Trong hội thảo kinh tế Việt Nam 2011 - triển vọng năm 2012 diễn ra ở TP HCM sáng 23/9, tiến sĩ Phạm Đỗ Chí, chuyên viên cấp cao chương trình Star Plus đưa ra hai kịch bản lạm phát năm 2011: Một là: Lạm phát có thể tăng tốc nhanh trong hai tháng cuối năm, ở mức 19-20%. Theo số liệu của Tổng Cục thống kê, lạm phát 8 tháng đầu năm đã là 15,68%.Dự báo này dựa trên nhiều yếu tố. Trước hết là do nhu cầu tiêu dùng cao trong mùa lễ tết sắp tới. Cùng với đó là chính sách thắt chặt tiền tệ làm giảm nhu cầu khu vực tư nhân, nhưng không đủ để làm giảm tổng cầu trong nền kinh tế. Hai là: Lạm phát có thể lên tới 24% vào cuối năm nay, do giá vàng trong nước thời gian qua cao hơn thế giới nhưng người ta vẫn đổ xô mua vào, cho thấy tâm lý lo ngại lạm phát vẫn rất nặng nề trong lòng người dân. Bên cạnh đó, tỷ giá và việc điều chỉnh lương tối thiểu, giá xăng, dầu, điện... có thể tác động tiêu cực lên chỉ số giá tiêu dùng những tháng cuối năm do tâm lý "tát nước theo mưa". Kịch bản 2 về lạm phát 4 tháng cuối 2011 Tháng 9 22,64% Tháng 10 23,31% Tháng 11 23,48% Tháng12 24,11% Câu hỏi “ Việt Nam nên chọn cái nào giữa lạm phát và tăng trưởng”. Việc ưu tiên cái nào và hi sinh giữa cái gì và cái gì cần phải rất linh hoạt. Lạm phát cao, dẫn đến áp dụng biện pháp kích cầu để kiềm chế lạm phát, và một tất yếu là tăng trưởng bị chậm lại. Theo một số nghiên cứu trước đây thì ngưỡng lạm phát Việt Nam nên là 5-6%. Khi chọn mức lạm phát 5-6% làm ngưỡng, thì nếu lạm phát Việt Nam ở dưới mức này để tăng tốc độ tăng trưởng, Chính phủ có thể thực hiện các giải pháp tăng lạm phát và việc tăng lạm phát cho đến ngưỡng 6% không quá nguy hại đến kinh tế. Nếu lạm phát trên ngưỡng 6%, để tăng trưởng kinh tế, Chính phủ lại phải điều tiết giảm lạm phát. Kết luận: Giảm thiểu các tác động tiêu cực của lạm phát là một vấn đề mang tính chất vĩ mô, đặc biệt với nền kinh tế Việt Nam khi mà tỷ lệ lạm phát cao hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực. Trong thời gian tới, vấn đề lạm phát còn diễn biến khó lường. Thiết nghĩ giữa Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cần có sự phối hợp đồng bộ hơn nữa nhằm đạt được mục tiêu đề ra, ngăn chặn sự tăng lên quá tầm kiểm soát của lạm phát, ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế, cũng như đời sống người dân.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiểu luận Lạm phát ở Việt Nam từ năm 2010 đến nay.doc
Tài liệu liên quan