Tài liệu Luận văn Kỹ năng hoạt động nhóm trong học tập của sinh viên trường đại học Sài Gòn: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Lê Ngọc Huyền
KỸ NĂNG HOẠT ĐỘNG NHÓM
TRONG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60 31 80
LUẬN VĂN THẠC SỸ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THỊ TỨ
Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến Tiến sỹ Nguyễn Thị Tứ, người
đã luôn tận tình hướng dẫn, động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn:
- Ban Giám Hiệu, các Phòng ban, các Khoa, quý Thầy Cô, các đồng nghiệp và các bạn
sinh viên trường Đại học Sài Gòn đã tạo điều kiện, nhiệt tình hỗ trợ và tích cực tham gia cùng
chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
- Quý Thầy, Cô đã giảng dạy, hướng dẫn, góp ý khoa học cho lớp cao học tâm lý K. 18 và
các anh chị cùng khóa học, người thân đã động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập cũng
như khi thực hiện luận văn này.
Lê Ngọc Huyền
...
85 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1627 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Kỹ năng hoạt động nhóm trong học tập của sinh viên trường đại học Sài Gòn, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Lê Ngọc Huyền
KỸ NĂNG HOẠT ĐỘNG NHÓM
TRONG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60 31 80
LUẬN VĂN THẠC SỸ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THỊ TỨ
Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến Tiến sỹ Nguyễn Thị Tứ, người
đã luôn tận tình hướng dẫn, động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn:
- Ban Giám Hiệu, các Phòng ban, các Khoa, quý Thầy Cô, các đồng nghiệp và các bạn
sinh viên trường Đại học Sài Gòn đã tạo điều kiện, nhiệt tình hỗ trợ và tích cực tham gia cùng
chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
- Quý Thầy, Cô đã giảng dạy, hướng dẫn, góp ý khoa học cho lớp cao học tâm lý K. 18 và
các anh chị cùng khóa học, người thân đã động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập cũng
như khi thực hiện luận văn này.
Lê Ngọc Huyền
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐHSG : Đại học Sài Gòn
ĐLC : Độ lệch chuẩn
ĐTB : Điểm trung bình
GV : Giáo viên
HĐN : Hoạt động nhóm
KN : Kỹ năng
P. : Mức ý nghĩa
T – Test : Trị số kiểm nghiệm T
SV : Sinh viên
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xã hội hiện nay, với sự toàn cầu hóa ngày càng gia tăng, khoa học kỹ thuật phát
triển, khối lượng kiến thức của nhân loại càng gia tăng thì yêu cầu làm việc theo nhóm là một
xu thế làm việc rất phát triển và hiệu quả trong mọi lĩnh vực hoạt động. Bởi lẽ ngày nay không
ai có thể tự mình nắm vững tất cả các thông tin của mọi lĩnh vực, điều đó có nghĩa không phải
công việc nào, vấn đề nào hay tình huống nào…chúng ta đều có thể tự mình giải quyết hiệu
quả. Vì vậy, làm việc theo nhóm hay hoạt động cùng nhau trong nhóm giúp ta tập trung sức
mạnh của nhiều người nhằm đảm bảo tính hiệu quả của công việc, phát huy tối đa năng lực của
cá nhân, tìm ra giải pháp để giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng…Nhóm không chỉ là môi
trường giúp cho cá nhân phát triển mà nó còn là công cụ đổi mới và phát triển xã hội.
Giáo sư Viện sĩ Phạm Minh Hạc đã nói: “ Nhà trường hiện đại ngày nay là nhà trường
hoạt động, dùng phương pháp hoạt động… Hoạt động cùng nhau, hoạt động hợp tác giữa thầy
và trò, giữa trò và trò…có tác dụng rất lớn”. Nhà trường hiện nay phải coi trọng việc tổ chức
cho học sinh – sinh viên hoạt động độc lập theo nhóm. HĐN trong và ngoài giờ học là hoạt
động thiết thực, giúp SV tham gia tích cực vào quá trình học tập, giúp họ nắm vững và đào sâu
tri thức, biết lắng nghe và học cách suy nghĩ về những ý kiến, quan điểm khác nhau của mọi
người, biết chia sẻ kinh nghiệm, đưa ra ý kiến và cùng nhau giải quyết những vấn đề chung.
HĐN là nơi mọi người thỏa mãn nhu cầu học hỏi, khuyến khích sự độc lập, tự chủ, thái độ có
trách nhiệm, kích thích tinh thần hợp tác, giúp SV nâng cao và chia sẻ nhận thức của mình.
HĐN còn phát huy sức mạnh tập thể: công việc được hoàn thành nhanh hơn, tốt hơn, sáng tạo
hơn và phong phú hơn, nâng cao khả năng làm việc của từng cá nhân, phát huy tối đa ưu thế
của mỗi người.
Với quan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm: phát huy tính tích cực, chủ động sáng
tạo của người học nghĩa là phải thay đổi vai trò của người thầy và cách học của SV. Nếu trước
kia, vai trò chính của thầy là truyền đạt kiến thức còn trò là người tiếp thu kiến thức chủ yếu từ
thầy một cách thụ động, thì ngày nay vai trò chủ yếu của thầy là tổ chức, hướng dẫn SV học,
người học phải là chủ thể tự giác tích cực, chủ động để chiếm lĩnh tri thức, hình thành KN.
Chính người học phải tự thể hiện mình và hợp tác với bạn, học từ bạn và xã hội hóa việc học
của mình. Ngày này, dạy học quan trọng không phải là truyền đạt cho SV bao nhiêu kiến thức,
mà là trang bị cho SV khả năng tự thu nhận kiến thức, hình thành cho họ các KN thực hành, tư
duy phê phán và sáng tạo, năng lực tự giải quyết vấn đề, KN giao tiếp, KN làm việc nhóm…Vì
thế, dạy học phải thông qua các tổ chức hoạt động của người học. Hơn nữa, trong học tập,
không phải mọi tri thức kỹ năng thái độ đều được hình thành bằng con đường hoạt động thuần
túy cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp giữa thầy – trò, trò – trò tạo nên mối quan hệ hợp
tác giữa các cá nhân trên con đường đi tới chân lý. Hoạt động học tập được tiến hành theo
nhóm sẽ làm cho từng thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội, tính
cách của mỗi cá nhân được bộc lộ, được uốn nắn; phát triển tình bạn, ý thức kỹ luật, tinh thần
tương trợ, ý thức cộng đồng…nhờ đó mà hiệu quả học tập sẽ tăng lên, bài học vận dụng được
vốn hiểu biết và kinh nghiệm của mỗi cá nhân và của cả lớp.
Hiệu quả của “HĐN trong học tập” là không thể phủ nhận, nhưng không phải SV nào cũng
đạt kết quả cao khi học và làm việc theo nhóm, thậm chí ít hiệu quả hơn so với làm việc cá
nhân. Vì chất lượng HĐN còn phụ thuộc bởi nhiều yếu tố như: môi trường học tập, vốn sống,
kinh nghiệm, trình độ nhận thức và kiến thức về HĐN…của bản thân SV, song quan trọng nhất
là SV phải có KN HĐN. KN HĐN sẽ giúp SV biết cách học và cách làm việc theo nhóm, nâng
cao chất lượng học tập và hình thành các KN xã hội cần thiết.
Vì vậy, SV cần được trang bị KN HĐN khi bắt đầu bước chân vào Đại học, điều này hoàn
toàn phù hợp với xu hướng dạy học hiện nay là dạy học theo nhóm. Tuy nhiên, thực tiễn cho
thấy tại các trường đại học dường như chưa quan tâm đúng mức đến việc hình thành và rèn
luyện KN HĐN cho SV, điều này ảnh hưởng nhất định đến chất lượng đào tạo và kết quả học
tập của SV. Trong những năm gần đây, mặc dù đã có một số công trình nghiên cứu về KN học
tập của SV như “Nghiên cứu kỹ năng tự học trên lớp của sinh viên sư phạm” của Nguyễn Thị
Bích Hạnh, “Khảo sát và đánh giá một số kỹ năng tương tác trong tổ chức của sinh viên khoa
sư phạm trường Đại học Tiền Giang” của Lê Tấn Huỳnh Cẩm Giang…nhưng chưa có công
trình nào nghiên cứu một cách cụ thể về KN HĐN trong học tập của SV.
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Kỹ năng
hoạt động nhóm trong học tập của sinh viên trường Đại học Sài Gòn”.
2. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát thực trạng biểu hiện KN HĐN trong học tập của SV trường Đại học Sài Gòn,
qua đó đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao KN HĐN trong học tập của SV.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Hệ thống hóa những vấn đề về lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu.
3.2 Khảo sát mức độ nhận thức của SV về KN HĐN trong học tập.
3.3 Khảo sát mức độ biểu hiện của SV về KN HĐN trong học tập.
3.4 Tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành KN HĐN trong học tập, trên cơ sở
đó đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao KN HĐN cho SV.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu:
Biểu hiện KN HĐN trong học tập của SV trường ĐHSG.
4.2 Khách thể nghiên cứu:
Khách thể nghiên cứu chính là 287 SV trường ĐHSG.
5. Giả thuyết nghiên cứu
- Mức độ nhận thức của SV về KN HĐN chưa cao.
- Mức độ biểu hiện giữa các KN bộ phận của KN HĐN trong học tập của SV có sự khác
biệt.
- Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến KN HĐN của SV, trong đó chủ yếu là do cách học của
SV còn mang tính đối phó, thụ động…và cách dạy của GV.
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1 Phạm vi về nội dung :
Khi tham gia HĐN trong học tập, SV phải vận dụng nhiều KN bộ phận. Trong đề tài này,
chúng tôi chỉ nghiên cứu thực trạng nhận thức và mức độ biểu hiện của 5 kỹ năng sau:
- Kỹ năng lắng nghe
- Kỹ năng thuyết trình
- Kỹ năng thảo luận
- Kỹ năng giải quyết vấn đề
- Kỹ năng hợp tác, chia sẻ
6.2 Phạm vi về khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu là 287 sinh viên năm 1 và năm 3 khối Sư phạm thuộc khoa Tự nhiên
và khoa Xã hội trường ĐHSG được chọn ngẫu nhiên.
7. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng hệ thống phương pháp sau:
7.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận: chủ yếu là phương pháp nghiên cứu tài liệu.
7.2 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp phỏng vấn
- Phương pháp thống kê toán học
8. Đóng góp mới của đề tài
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ lý luận và thực tiễn KN HĐN của SV.
- Là cơ sở để đưa ra các biện pháp nhằm phát nâng cao KN HĐN cho SV trong nhà
trường.
NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1 Lịch sử nghiên cứu kỹ năng
KN là một trong những yếu tố giúp cho con người hoạt động có hiệu quả. Do đó, vấn đề
nghiên cứu KN đã được các nhà tâm lý học nghiên cứu từ lâu dưới nhiều góc độ khác nhau.
- Nhà triết học Hy lạp cổ đại Aristot (384-322) đã xem KN như một phẩm chất, một phần
phẩm hạnh của con người. Ông cho rằng nội dung phẩm hạnh là “biết định hướng, biết làm
việc, biết tìm tòi”.
- Thế kỷ 19, các nhà giáo dục học nổi tiếng như J.J Rutxo (Pháp), K.D.Usinxki (Nga),
I.A.Kômenxki (Tiệp khắc) cũng đã đề cập đến kỹ năng trí tuệ của học sinh và con đường hình
thành KN này.
Tuy nhiên, từ thế kỷ 19 trở về trước, vấn đề này chưa được nghiên cứu một cách có hệ
thống. Chỉ bắt đầu từ thế kỷ 20, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật trên toàn
thế giới, KN trở thành một trong những lĩnh vực nghiên cứu quan trọng mang ý nghĩa thực tiễn
cao.
Nhưng nhìn chung, việc nghiên cứu KN xuất phát từ hai quan điểm:
- Nghiên cứu KN trên cơ sở của tâm lý học hành vi mà đại diện là các tác giả: J.B. Oatson,
B.F.Skiner, E.L.Toocđai, E.Tomen…
- Nghiên cứu KN trên cơ sở tâm lý học hoạt động mà đại diên là các nhà tâm lý học Liên
xô (cũ). Điểm qua lịch sử nghiên cứu KN của các nhà tâm lý học, giáo dục học Xô viết cho
thấy có 2 hướng chính sau:
+ Hướng thứ nhất: nghiên cứu KN ở mức độ khái quát. Đại diện cho hướng nghiên cứu
này có các tác giả: P.Ia.Galperin, P.V.Petropxki, V.X.Cudin, K.K.Platonov…Các tác giả đã đi
sâu nghiên cứu bản chất khái niệm KN, các qui luật hình thành và mối liên hệ giữa KN và kỹ
xảo.
+ Hướng thứ hai: nghiên cứu KN ở mức độ cụ thể trong các lĩnh vực khác nhau, như:
* Trong lĩnh vực lao động công nghiệp: V.V.Tsebbuseva (1973), V.G.Look (1980),
E.A.Milerian (1979)…Các tác giả nghiên cứu KN trong mối quan hệ giữa con người với máy
móc, công cụ, phương tiện lao động.
* Trong lĩnh vực hoạt động sư phạm: N.D.Lêvitov (1970), X.I. Kixegof (1976), G.X.
Kaxchuc (1978), N.A. Menchinxcaia (1978)…
* Trong lĩnh vực hoạt động tổ chức: N.V. Cudomina (1976), L.T. Tiuptia (1987)…
Mặc dù nghiên cứu KN ở các hướng khác nhau nhưng các tác giả không có những quann
điểm trái ngược nhau về khái niệm KN mà những quan điểm đó thường bổ sung cho nhau.
1.1.2 Lịch sử nghiên cứu kỹ năng hoạt động nhóm
Trong những thập kỷ gần đây, có nhiều công trình nghiên cứu về KN thuộc các lĩnh vực
hoạt động cụ thể được các nhà tâm lý học và giáo dục học Việt Nam quan tâm. Về KN lao động
có Trần Trọng Thủy, Nguyễn Tiến Dũng, Đỗ Huân…Về KN sư phạm có Nguyễn Như An,
Nguyễn Ngọc Bảo…Về KN giao tiếp có Nguyễn Thạc, Hoàng Anh…Về KN học tập của SV có
Hà Thị Đức, Trần Quốc Thành…
Cùng với sự thay đổi hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ, vai trò của người học được
phát huy tích cực tối đa. Học theo nhóm là một trong những hình thức học tập phát huy tính tích
cực của người học, dạy học hướng về người học. Vì thế, học theo nhóm trở nên rất phổ biến,
đóng vai trò quan trọng không thể thiếu ở trường đại học.
Ngoài những tác phẩm, bài báo nghiên cứu về vấn đề này như: “Phương pháp học tập theo
nhóm” của TS. Trần Thị Thu Mai, trường Đại học sư phạm tp.Hồ Chí Minh, “Làm việc theo
nhóm – một phương pháp học tập phát huy sức mạnh tập thể” của Phạm Thị Huyền, luận văn
thạc sĩ của Lê Tấn Huỳnh Cẩm Giang “Khảo sát và đánh giá một số kỹ năng tương tác trong tổ
chức của sinh viên khoa sư phạm trường Đại học Tiền Giang” (2006) và luận văn thạc sĩ của
Kiều Ngọc Quý “Tổ chức học hợp tác nhằm nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học theo
nhóm” (2009).
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu về KN HĐN trong học tập của SV. Vì thế,
việc nghiên cứu vấn đề này càng trở nên cần thiết, góp phần vào việc rèn luyện KN cho SV,
đáp ứng được xu hướng giáo dục đào tạo ở bậc đại học hiện nay.
1.2 Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.2.1 Hoạt động
1.2.1.1 Khái niệm về hoạt động
Hoạt động là một trong những khái niệm cơ bản nhất trong tâm lý học. Có nhiều định
nghĩa khác nhau về hoạt động tùy theo góc độ xem xét.
- Hoạt động là mối quan hệ tác động qua lại giữa con người (chủ thể) và thế giới (khách
thể) để tạo ra sản phẩm cả về phía thế giới, cả về phía con người [45, tr.55]. Trong mối qua lại
biện chứng đó, con người vừa tạo ra sản phẩm về phía thế giới, vừa tạo ra tâm lý của mình. Hay
nói khác đi, tâm lý - ý thức - nhân cách của con người được bộc lộ và hình thành trong hoạt
động.
- Hoạt động là sự tương tác tích cực giữa chủ thể và đối tượng, nhằm biến đổi đối tượng
theo mục tiêu mà chủ thể đã đặt ra. Quá trình chủ thể tác động vào đối tượng nhằm tạo ra sản
phẩm [34, tr 6].
- Hoạt động là quá trình con người thực hiện các quan hệ giữa mình và thế giới chung
quanh, thế giới tự nhiên và thế giới xã hội. Trong sự tác động này ở con người sẽ diễn ra hai
quá trình, đó là quá trình khách thể hóa và quá trình chủ thể hóa. Có thể giải thích rằng trong
hoạt động, nghĩa là trong quan hệ giữa con người và thế giới bên ngoài, con người vừa thay đổi
thế giới bên ngoài vừa thay đổi bản thân mình, con người vừa tạo ra sản phẩm lao động, vừa tạo
ra nhân cách bản thân [12, tr19].
Như vậy có thể nói hoạt động là quá trình tác động qua lại giữa con người và thế giới để
tạo ra sản phẩm từ cả hai phía. Trong quá trình hoạt động, tâm lý nhân cách được bộc lộ và
hình thành.
1.2.1.2 Đặc điểm của hoạt động
Hoạt động bao giờ cũng là hoạt động có đối tượng “Đối tượng của hoạt động là cái ta tác
động vào nhằm thay đổi hoặc chiếm lĩnh. Nó có thể là sự vật hiện tượng, khái niệm, con người
hoặc các mối quan hệ…có khả năng thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người, thúc đẩy con
người hoạt động” [45, tr 56].
Hoạt động bao giờ cũng có chủ thể. Chủ thể của hoạt động có thể là một hoặc nhiều người.
Hoạt động bao giờ cũng có mục đích. Hoạt động của con người luôn luôn xuất phát từ
những mục đích đã được xác định. Mục đích là biểu tượng về sản phẩm hoạt động có khả năng
thỏa mãn nhu cầu nào đó của chủ thể. Để đạt được mục đích, con người phải sử dụng các điều
kiện, phương tiện cần thiết.
Hoạt động có tính gián tiếp “Trong hoạt động, con người bao giờ cũng phải sử dụng những
công cụ nhất định” [45, tr 57]. Công cụ tâm lý, ngôn ngữ và công cụ lao động giữ chức năng
trung gian giữa chủ thể và khách thể tạo ra tính gián tiếp của hoạt động.
Chính tính mục đích và tính gián tiếp tạo nên sự khác nhau căn bản giữa hoạt động của con
người với hành vi bản năng của con vật.
1.2.1.3 Cấu trúc của hoạt động
Phân tích, mô tả cấu trúc của hoạt động là vấn đề nhiều nhà tâm lý quan tâm. Khi phê phán
công thức S – R của chủ nghĩa hành vi, A.N. Leonchev khẳng định, hành động (hoạt động)
không phải là phản ứng hay tổ hợp của phản ứng mà là một hệ thống có cấu trúc, có sự chuyển
hóa của các đơn vị cấu thành cấu trúc và có sự phát triển của nó. Từ nhận định đó, tác giả đã
đưa ra cấu trúc hoạt động nổi tiếng.
Có thể khái quát cấu trúc của hoạt động qua sơ đồ sau:
Hoạt động Động cơ
Hành động Mục đích
Thao tác Phương tiện
Cấu trúc trên cho thấy, hoạt động được thúc đẩy bởi động cơ nhất định, nó được hợp thành
bởi các hành động theo một mục đích nhất định. Hành động do các thao tác hợp thành tùy theo
các phương tiện cụ thể. Sáu thành tố trên có mối quan hệ mật thiết qua lại, chuyển hóa cho nhau
trong hoàn cảnh cụ thể, đặc biệt là yếu tố hành động – mục đích.
Cấu trúc chung của hoạt động có ý nghĩa quan trọng, nó làm cơ sở cho việc nghiên cứu
tâm lý học, giáo dục học trong đó có việc nghiên cứu về KN.
1.2.1.4 Hoạt động học tập
Chúng ta cần làm rõ khái niệm học và hoạt động học:
Trong cuộc sống đời thường, con người luôn luôn có quá trình tiếp thu tích lũy kinh
nghiệm sống, trên cơ sở đó tạo nên những tri thức tiền khoa học, làm cơ sở tiếp thu những khái
niệm khoa học trong nhà trường. Đó chính là việc học, là cách học theo phương pháp của cuộc
sống thường ngày. Một đứa trẻ từ khi mới sinh ra cho đến lúc trưởng thành, trở thành một nhân
cách nhất định, trẻ phải học nhiều thứ “Học ăn, học nói, học gói, học mở”: trẻ có thể học ở
nhiều nơi, học bằng mọi cách và học ở nhiều thời điểm khác nhau.
Hoạt động học tập là khái niệm dùng để chỉ việc học diễn ra theo phương thức đặc thù
(phương thức nhà trường) nhằm lĩnh hội các tri thức mới, KN, kỹ xảo mới.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về hoạt động học tập:
- L.B.Enconhin cho rằng việc lĩnh hội tri thức là nội dung cơ bản của hoạt động học tập,
được xác định bởi cấu trúc và mức độ học tập.
- I.B.Intenxon xác định học tập là hoạt động đặc biệt của con người nhằm mục đích nắm
vững tri thức, KN kỹ xảo và hành vi.
- A.N.Leonchiev, P. La. Ganperin, N.Ph.Taludina xem quá trình học tập xuất phát từ mục
đích của hành vi.
- A. V. Petrovxki nêu lên tâm lý hoạt động học tập là vấn đề phẩm chất tư duy, kết hợp các
loại hoạt động trong việc thực hiện mục đích và nhiệm vụ giảng dạy…[38, tr.118].
Mặc dù chưa có sự thống nhất hoàn toàn trong quan niệm về hoạt động học tập, nhưng các
nhà nghiên cứu vẫn đưa ra những điểm chung của hoạt động học tập như: có mục đích, tự giác,
có ý thức về động cơ và trong hoạt động học tập có diễn ra các quá trình nhận thức, đặc biệt là
quá trình tư duy.
Bản chất của hoạt động học tập được biểu hiện trong 4 vấn đề sau:
- Đối tượng của hoạt động học tập là tri thức và những KN, kỹ xảo tương ứng với nó.
- Hoạt động học tập là hoạt động hướng vào làm thay đổi chính chủ thể của hoạt động.
- Hoạt động học tập là hoạt động được điều khiển một cách có ý thức. Hoạt động này diễn
ra dưới sự tổ chức điều khiển và hướng dẫn của GV, người học ý thức, tự giác tích cực để lĩnh
hội tri thức, KN, kỹ xảo.
- Hoạt động học tập không phải là hoạt động chỉ hướng vào tiếp thu những tri thức, KN, kỹ
xảo mà còn hướng vào tiếp thu những tri thức của bản thân hoạt động, nói cách khác, là tiếp thu
cả phương pháp học cách học [38, tr.119].
1.2.2 Nhóm, Hoạt động nhóm
1.2.2.1 Khái niệm nhóm
Khi nghiên cứu về nhóm, các tác giả đưa ra quan điểm như sau:
- Theo từ điển Tâm lý học của Vũ Dũng “nhóm là cộng đồng có từ hai người trở lên, giữa
các thành viên có chung lợi ích và mục đích, có sự tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau trong quá
trình hoạt động chung” [11, tr.561].
- Theo A.V.Petrovxki thì “nhóm là một cộng đồng người thống nhất với nhau trên cơ sở
một hay một số dấu hiệu chung có quan hệ với việc thực hiện hoạt động chung và giao tiếp của
họ” [40, tr.76].
- Với Marvin Shaw, nhà tâm lý học phương Tây, ông cho rằng “nhóm là cộng đồng người
có từ ba người trở lên, giữa họ có sự tác động tương hỗ và ảnh hưởng lẫn nhau, tồn tại trong
một thời gian nhất định, cùng nhau thực hiện hoạt động chung” [40, tr.76].
- Theo Trần Hiệp: “nhóm là một cộng đồng có từ hai người trở lên, giữa họ có một sự
tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau trong qua trình thực hiện hoạt động chung” [18, tr.68].
- Ngoài ra, còn một số quan điểm khác về nhóm như “Nhóm là một tổ chức bao gồm
những thành viên, được thành lập và tồn tại vì một mục đích chung” [36, tr.330] hay “Nhóm là
tập hợp những cá nhân có các KN bổ sung cho nhau, cùng nhau cam kết chịu trách nhiệm thực
hiện một mục tiêu chung” [25, tr.13].
Như vậy, chúng tôi quan niệm nhóm là tập hợp từ hai người trở lên, giữa học có sự tương
tác lẫn nhau trong quá trình thực hiện hoạt động chung, nhằm đạt được mục tiêu chung của
nhóm.
1.2.2.2 Các đặc tính cơ bản của nhóm
- Theo tâm lý học Xô viết, tính thống nhất của nhóm dựa trên những dấu hiệu: đặc điểm
hoạt động chung, thuộc tính xã hội hoặc giai cấp, đặc điểm tổ chức, mức độ phát triển…đặc
biệt là “Sự tồn tại của nhóm không tách rời hoạt động” [18, tr 67].
- Theo tác giả Nguyễn Thị Oanh, nhóm phải có đủ 4 yếu tố:
a. Chia sẻ mục tiêu
Một tập hợp người không thể được xem như một nhóm nếu họ không có cùng mục tiêu và
cùng chia sẻ trách nhiệm để đạt được mục tiêu đó. Khi trong tập thể người ta không cùng chia
sẻ mục tiêu thì lại có sự phân hóa thành nhiều nhóm. Mục tiêu chung là điểm qui tụ các thành
viên trong nhóm, mục tiêu cũng chính là động lực, là kim chỉ nam cho nhóm hoạt động. Mục
tiêu giúp các thành viên giải quyết mâu thuẫn và xác định cách làm việc của nhóm. Khi tham
gia xây dựng mục tiêu chung, các thành viên trong nhóm sẽ cảm thấy hứng thú và họ đều cố
gắng để đạt được.
b. Sự tương tác giữa các thành viên
Đây là yếu tố cơ bản của HĐN. Để trở thành một nhóm, các thành viên cần có mối quan hệ
“mặt giáp mặt” kéo dài trong một thời gian nhất định. Họ giao tiếp và ảnh hưởng lẫn nhau. Họ
giao tiếp với nhau bằng lời nói hay ngôn ngữ cơ thể. Sự tham gia tích cực của nhóm viên sẽ
đem lại sự thỏa mãn và gắn bó với nhóm. Tương tác phải hai chiều, chính tương tác là yếu tố
chủ yếu làm thay đổi hành vi con người. Trong tiếp xúc, họ càng gắn kết với nhau thì nhóm
càng dễ dàng đạt được mục đích chung. Chất lượng của tương tác mang ý nghĩa rất lớn vì nó
làm tăng cường hiệu quả HĐN.
c. Có các qui tắc chung
“ Những qui định chung của nhóm là đặc tính quan trọng nhất trong việc giúp cho nhóm
ổn định và vận hành một cách có hiệu quả” [36, tr.335]. Tập thể nào khi làm việc chung cũng
cần xây dựng nội qui để mọi người tuân theo.
Qui tắc là các luật lệ hướng dẫn hành vi mà nhóm đặt ra. Những qui tắc này có thể được
thông báo, xác định một cách chính thức hoặc có khi được nhóm viên mặc nhiên chấp nhận
không cần hình thức. Đối với các qui tắc này thì không thể áp đặt mà qua quá trình gắn bó với
nhau, các thành viên sẽ phát hiện và tuân thủ.
d. Vai trò của từng thành viên
Mỗi cá nhân của nhóm có những vai trò riêng góp phần giúp nhóm hoạt động hiệu quả.
Thường thì các vai trò là kết quả của quá trình phân chia trách nhiệm dựa vào khả năng chuyên
môn cũng như những điều kiện khác. Vai trò là khuôn mẫu các hành vi quen thuộc mà cá nhân
phát triển để phục vụ nhóm. Các vai trò này từ từ có thể thành nếp tùy đặc tính nhân cách của
nhóm viên và nhu cầu chung của nhóm. Vì thế vai trò không luôn ở thế tĩnh mà ở thế động tùy
vào các tình huống khác nhau. Một thành viên cùng một lúc có thể giữ nhiều vai trò.
Rõ ràng, nếu chỉ tập hợp một số lượng người nào đó mà giữa họ không có mục tiêu chung,
không có sự tương tác, không có sự chia sẻ… nghĩa là “giữa họ không có hoạt động chung thì
đó không phải là nhóm, mà là đám đông” [40, tr 77]. HĐN tạo nên sự liên kết, thúc đẩy tinh
thần hợp tác, phụ thuộc giữa các thành viên; mỗi người cố gắng thể hiện tốt vai trò của mình:
cùng chia sẻ trách nhiệm, cùng nhau hỗ trợ và cam kết giải quyết vấn đề chung của nhóm. Điều
này không có nghĩa vai trò của mỗi cá nhân không còn quan trọng nữa mà tính hiệu quả của
nhóm dựa vào thành quả của từng thành viên trong nhóm. Khi cả nhóm hoạt động hiệu quả nhất
là khi các cá nhân cùng đồng lòng phối hợp ăn ý hướng về một mục đích.
Vì vậy, làm việc nhóm không hẳn chỉ là làm việc với nhiều người, làm việc nhóm khác với
làm việc đông người. Chúng ta so sánh sự khác biệt đó sau đây:
NHÓM ĐÁM ĐÔNG
1. Các thành viên làm việc tương tác
lẫn nhau. Họ hiểu rõ mục tiêu của
nhóm chỉ đạt kết quả tốt nhất bằng
cách hỗ trợ cho nhau.
2. Các thành viên cam kết chịu trách
nhiệm phần việc của mình trong
nhóm.
3. Họ đóng góp kinh nghiệm tài năng
của mình vào sự thành công của cả
nhóm.
4. Các thành viên trung thực, mạnh
dạn bộc lộ ý kiến, tôn trọng lắng
1. Các thành viên làm việc độc lập và
thường không có mục tiêu chung theo
kiểu “mạnh ai nấy làm”.
2. Các thành viên chỉ tập trung vào
công việc của bản thân, họ không liên
quan đến mục tiêu của đám đông đó.
3. Họ chỉ hoàn thành nhiệm vụ của
mình, không biết hoặc không để ý
đến người khác.
4. Các thành viên không tin tưởng
nhau. Nếu có ý tưởng, họ thường giữ
nghe người khác, đặt câu hỏi và sẵn
sàng thay đổi quan điểm.
5. Các thành viên bình đẳng trong
việc bàn bạc đưa ra cách giải quyết
vấn đề. Mọi thành viên đều mong
muốn cùng nhau giải quyết vấn đề
đó.
riêng cho mình, không chia sẻ, không
đón nhận sự gợi ý của người khác.
5. Họ cảm thấy phiền lòng khi bất
đồng quan điểm, họ không tham gia
vào việc giải quyết vấn đề và không
hề có sự ủng hộ nào để giúp họ giải
quyết vấn đề.
“Làm việc nhóm không phải là sự cộng lại hay sự kết hợp một cách đơn giản bằng số
đông, bằng sức mạnh trong quá trình làm việc. Làm việc nhóm đòi hỏi có sự đầu tư, phải có sự
phối hợp một cách rất ăn ý hoặc phải có sự tương tác đúng nghĩa dựa trên phương diện tâm lý
giữa các cá nhân với nhau để thực hiện một mục tiêu chung” [37, tr.57].
1.2.2.3 Hoạt động nhóm
Theo Từ điển Tâm lý học của Vũ Dũng, hoạt động của một nhóm người có những đặc
điểm sau [11, tr. 320]
- Cùng tham gia về phương diện không gian và thời gian của các thành viên tạo ra khả
năng tiếp xúc cá nhân trực tiếp giữa họ với nhau, trong đó có sự trao đổi hành động, thông tin,
cũng như khả năng nhận thức lẫn nhau.
- Có mục tiêu chung, trong đó kết quả hoạt động được dự đoán trước phù hợp với lợi ích
chung, góp phần thoả mãn những nhu cầu của mỗi thành viên.
Như vậy, chúng tôi quan niệm rằng hoạt động nhóm là hoạt động ở đó có sự tương tác
qua lại giữa các thành viên. Qua đó, các thành viên có cơ hội hợp tác, chia sẻ và hỗ trợ nhau
nhằm đạt được mục tiêu chung của nhóm.
Nhóm chỉ hoạt động hữu hiệu khi:
- Mục tiêu rõ ràng đối với mọi người và được mọi người chấp nhận.
- Truyền thông hai chiều, ý tưởng cũng như cảm xúc được bộc lộ.
- Tiến trình lãnh đạo được chia sẻ, phân phối cho nhiều người, từ đó có sự tham gia cao.
- Thủ tục lấy quyết định phù hợp với tình huống.
- Trọng tâm đặt ở con người và các mối quan hệ đoàn kết giữa họ, sự đoàn kết có được nhờ
sự chấp nhận.
- Khả năng giải quyết vấn đề cao.
- Hiệu quả được cả nhóm đánh giá.
- Có sự tương tác giữa các thành viên [30, tr 114].
1.2.3 Hoạt động học tập theo nhóm
Khi nghiên cứu về hoạt động học tập theo nhóm, có các định nghĩa sau:
- A.T. Francisco (1993): hoạt động học tập nhóm là một phương pháp học tập mà theo
phương pháp đó học viên trong nhóm trao đổi, giúp đỡ và hợp tác với nhau trong học tập.
Người học trao đổi ý tưởng và kiến thức với các thành viên khác của nhóm…các thành viên
tham gia tích cực và hợp tác với nhau để lĩnh hội kiến thức và kỹ năng mới [23]
- Theo Slavin “nhóm học tập là một nhóm nhỏ bao gồm năm bảy học sinh…Sau khi GV
hướng dẫn, nêu ra mục đích của đề tài và phân phát các tài liệu…sau khi đọc tài liệu và thay
nhau đặt câu hỏi để bạn trả lời, cả nhóm đưa ra ý kiến và nhận định về nội dung và mục đích
của đề tài” [32, tr.384].
- Hoạt động học tập theo nhóm là hình thức người học cùng nhau hợp tác trong nhóm để
hoàn thành công việc chung. Học tập theo nhóm không đơn thuần là chia người học thành từng
nhóm để cùng giải quyết một câu hỏi khó mà một học sinh bình thường không thể giải quyết
được, mà người học phải cùng nhau hợp tác trong học tập để hoàn thành công việc chung [50].
Như vậy, qua quan điểm của các tác giả về hoạt động học tập theo nhóm, có thể thấy “hoạt
động học tập theo nhóm cũng là hình thức học hợp tác”. Học hợp tác (Cooperative Learning) là
một quan điểm học tập rất phổ biến và đem lại hiệu quả giáo dục cao. Quan điểm học tập này
yêu cầu sự tham gia, đóng góp trực tiếp của người học vào quá trình học tập, đồng thời yêu cầu
họ phải làm việc cùng nhau để đạt được kết quả học tập chung.
Học hợp tác theo David Johnson và Roger Johnson (1999) phải hội đủ các yếu tố sau [47,
tr.115]
a. Sự phụ thuộc lẫn nhau một cách tích cực: các thành viên trong nhóm phải cùng nhau làm
việc để hoàn thành mục tiêu chung. Yếu tố này giúp các thành viên hiểu rằng đóng góp của mỗi
cá nhân là một trong những yếu tố góp phần làm nên thành công của nhóm. Mỗi người phải có
trách nhiệm hoàn thành nhiệm vụ được giao để cả nhóm hoàn thành nhiệm vụ chung. Kết quả
học tập của cả nhóm là công sức đóng góp của mỗi thành viên. Mỗi thành viên không chỉ hoàn
thành nhiệm vụ của mình mà còn phải tham gia giúp đỡ các thành viên khác để cùng nhau hoàn
thành nhiệm vụ chung của nhóm. “Sự phụ thuộc lẫn nhau” tồn tại khi các thành viên trong
nhóm gắn kết với nhau theo kiểu một cá nhân không thể thành công khi các thành viên khác
thất bại. Trong thực tế, khi yếu tố này không tồn tại, các thành viên trong nhóm không có cảm
giác rằng họ đang làm việc chung, nên dễ dẫn đến cạnh tranh hay làm việc riêng lẻ. Ngoài ra,
“sự phụ thuộc” này còn giúp các thành viên biết quan tâm đến ý kiến của nhau nhiều hơn và
giao tiếp hiệu quả hơn. Nếu một người trong nhóm không hoàn thành trách nhiệm của mình, cả
nhóm phải cùng chịu trách nhiệm.
b. Sự tiếp xúc trực tiếp thúc đẩy sự hợp tác: giúp đỡ nhau học tập, ủng hộ những thành
công và cố gắng của nhau. Các thành viên trong nhóm phải gặp nhau thường xuyên để thảo
luận nhiệm vụ chung của nhóm. Trong các buổi thảo luận này, mọi người khuyến khích, động
viên nhau cùng tham gia, cùng chia sẻ, giúp nhau cải thiện kết quả học tập hoặc tìm ra các
nguồn tài liệu cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ chung. Đây là cơ hội để các thành viên tiếp xúc
với nhau nhiều hơn, lắng nghe người khác và đóng góp ý kiến của mình.
c. Trách nhiệm với tư cách “tôi” và tư cách “chúng ta”: mỗi thành viên phấn đấu cho mình
và nhóm. Mỗi cá nhân phải hiểu họ được tính điểm dựa trên đóng góp của mình cho nhóm, điều
này giúp các thành viên chia đều trách nhiệm cùng nhau mà không đùn đẩy trách nhiệm cho
nhau. Khi các thành viên có trách nhiệm với nhau, họ sẽ cùng nhau tạo nên động lực khuyến
khích nhau học tốt hơn. Mỗi thành viên trong nhóm chỉ được công nhận khi có đóng góp cho
nhóm. Khi thành tích cá nhân được nhóm công nhận, họ sẽ nỗ lực hơn và phấn đấu nhiều hơn
cho thành công chung của nhóm.
d. Các KN trong nhóm nhỏ: bao gồm KN giao tiếp và KN học nhóm như cách trình bày
một quan điểm, biết chia sẻ nguồn thông tin, tài liệu hay thuyết phục người khác hòa giải các ý
kiến bất đồng, cùng nhau đưa ra quyết định và giải quyết vấn đề chung của nhóm. Để đạt được
lợi ích khi học nhóm, người học buộc phải có những KN này. Nhiều nghiên cứu cho thấy khi
người học có đủ các KN trên, họ luôn có tinh thần hợp tác và sẵn sàng giúp đỡ người khác.
Ngược lại, khi không có KN giao tiếp thích hợp, họ thường gặp khó khăn trong quá trình làm
việc chung, thiếu tự tin và luôn tạo ra những bất đồng. Một trong những lý do khiến cá nhân bị
đẩy ra khỏi nhóm là do họ thiếu KN giao tiếp [50].
Những KN giúp cá nhân giao tiếp và làm việc hiệu quả trong nhóm:
* KN cá nhân
- Nghe chủ động (nghe và góp ý kiến).
- Nhận xét công bằng.
- Có trách nhiệm với hành vi của mình.
- Biết phê bình, giải quyết bất đồng trên tinh thần xây dựng.
* KN nhóm nhỏ
- Biết thay phiên nhau khi thảo luận.
- Biết chia sẻ công việc.
- Biết tham gia các quyết định dân chủ.
- Biết hiểu quan điểm của người khác.
- Biết phân biệt ý kiến đóng góp khác nhau của các thành viên [50].
Đây là những KN không thể thiếu được và giúp người học thành công khi làm việc nhóm,
nếu không sẽ dễ xảy ra tình trạng người học chỉ đơn giản là ngồi cạnh nhau, làm việc cá nhân
chứ không cùng nhau học và làm việc hợp tác.
Ngoài ra, khi hợp tác để hoàn thành mục tiêu chung mọi thành viên của nhóm cần phải:
- Tìm hiểu và tin tưởng nhau.
- Trao đổi thông tin chính xác.
- Cho và nhận sự giúp đỡ của nhau.
- Giải quyết bất đồng trên tinh thần xây dựng.
SV chỉ thật sự hợp tác cùng nhau trong học tập và thành công khi họ được dạy, trải qua
quá trình luyện tập và được khuyến khích áp dụng những KN này trong học nhóm.
e. Đánh giá quá trình làm việc nhóm: đây là yếu tố quan trọng trong quá trình làm việc
nhóm vì dựa vào đó nhóm biết được họ đang làm việc như thế nào và làm sao để duy trì cách
làm việc hiệu quả. Khi các thành viên tham gia đánh giá đóng góp của cá nhân cho hoạt động
chung của nhóm, nó sẽ thúc đẩy các thành viên phát huy năng lực cao hơn; khi các thành viên
được đánh giá thường xuyên họ sẽ phải chú ý để giao tiếp hiệu quả hơn. Ngoài ra, quá trình
đánh giá nhóm còn giúp các thành viên duy trì các quan hệ làm việc hiệu quả và phát triển các
KN học nhóm.
Như vậy, học theo nhóm chỉ mang tính hợp tác khi người học tham gia vào các hoạt động
chung của nhóm. Việc học tập của nhóm mang tính hợp tác hơn là tranh đua. Mục đích học tập
là lý do chính cho sự tồn tại của nhóm. Công việc của nhóm sẽ không hoàn thành nếu không có
sự đóng góp tích cực của từng cá nhân. Thành viên trong nhóm phải nhận thức rằng nổ lực của
mỗi cá nhân là điều kiện thiết yếu cho sự thành công của nhóm và của chính họ. Vì thế họ phải
dựa vào nhau, hỗ trợ nhau, cùng nhau bàn bạc trao đổi thông tin cũng như quan điểm riêng của
mình và biết vận dụng các KN phân tích, tổng hợp, đánh giá để giải quyết vấn đề, hoàn thành
công việc được giao.
Trong học tập hợp tác, mục tiêu hoạt động là chung của toàn nhóm nhưng mỗi cá nhân
được phân công một nhiệm vụ cụ thể, mỗi người đều có trách nhiệm riêng của mình. HĐN phải
được tổ chức sao cho mỗi người đều đóng góp tích cực vào hoạt động chung của nhóm. Phân
công nhiệm vụ phù hợp với khả năng của từng thành viên sẽ tạo điều kiện tối đa cho họ phát
huy khả năng của mình, sự hoàn thiện của mỗi cá nhân sẽ đóng góp cho thành công của nhóm.
Người học chỉ học tốt hơn và đạt thành tích cao hơn khi làm việc trong nhóm được tổ chức với
đầy đủ các yếu tố trên.
Trên cơ sở lý luận đã phân tích về nhóm, hoạt động nhóm và hình thức học tập theo nhóm,
chúng tôi xác định:
Hoạt động nhóm trong học tập chính là hình thức học tập theo nhóm mà ở đó các thành
viên trong nhóm phải hợp tác cùng nhau để hoàn thành nhiệm vụ học tập.
HĐN trong học tập chỉ đạt hiệu quả khi các thành viên trong nhóm biết:
- Xác định mục tiêu chung của nhóm.
- Lắng nghe và chấp nhận người khác.
- Trình bày quan điểm của mình.
- Thảo luận và giải quyết vấn đề chung của nhóm.
- Hợp tác và chia sẻ.
1.2.4 Kỹ năng
1.2.4.1 Định nghĩa kỹ năng
Trong lịch sử nghiên cứu các vấn đề về KN, có nhiều tác giả trong và ngoài nước đã đưa ra
những quan niệm khác nhau về KN. Có hai khuynh hướng cơ bản sau:
- Khuynh hướng thứ nhất: xem xét KN nghiêng về mặt kỹ thuật của thao tác, của hành
động hay hoạt động. Có các tác giả như: V.A.Kruchetxki, A.V.Petrovxki, V.S.Cudin,
A.G.Covaliop, Trần Trọng Thuỷ…
V.A.Kruchetxki cho rằng “KN là phương thức thực hiện hành động đã được con người
nắm vững từ trước” [20, tr.78]. Theo ông, KN được hình thành bằng con đường luyện tập, KN
tạo khả năng cho con người thực hiện hành động không chỉ trong điều kiện quen thuộc mà
trong cả những điều kiện đã thay đổi.
V.S.Cudin và A.G.Covaliop cho rằng “KN là phương thức thực hiện hành động thích hợp
với mục đích và điều kiện hành động [22, tr.13]. Theo các tác giả, kết quả của hành động phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó quan trọng hơn cả là năng lực của con người chứ không đơn
giản là cứ nắm vững cách thức hành động thì đem lại kết quả tương ứng.
Khi bàn về KN, tác giả Trần Trọng Thuỷ cũng cho rằng “KN là mặt kỹ thuật của hành
động, con người nắm được các hành động tức là có kỹ thuật hành động, có KN” [39].
- Khuynh hướng thứ hai: xem xét KN nghiêng về mặt năng lực hành động của của con
người. Theo quan niệm này, KN vừa có tính ổn định, vừa có tính mềm dẻo, tính linh hoạt, sáng
tạo và có mục đích. Đại diện cho khuynh hướng này có các tác giả như N.D. Levitov, X.I.
Kixegov, K.K. Platanov, G.G. Golubev, Nguyễn Quang Uẩn, Trần Quốc Thành…
N.D.Levitov quan niệm “KN là sự thực hiện có kết quả một động tác nào đó hay một hành
động phức tạp bằng cách lựa chọn và áp dụng những cách thức đúng đắn, có tính đến những
điều kiện nhất định” [15, tr.29]. Theo ông, người có KN hành động là người phải nắm được và
vận dụng đúng đắn các cách thức hành động nhằm thực hiện hành động có kết quả. Levitov cho
rằng, để hình thành KN, con người không chỉ nắm lý thuyết về hành động mà phải biết vận
dụng vào thực tiễn.
Các tác giả K.K.Platanov và G.G.Golubev quan niệm “KN là năng lực của người thực hiện
công việc có kết quả với một chất lượng cần thiết trong những điều kiện mới và trong những
khoảng thời gian tương ứng” [9, tr.41]. Theo các tác giả, KN không mâu thuẫn với vốn tri thức
mà KN được hình thành trên cơ sở của chúng.
Tương tự X.I.Kixegov cho rằng “KN là khả năng thực hiện có hiệu quả hệ thống hành
động phù hợp với mục đích và điều kiện thực hiện hệ thống này” [15, tr.30]. Theo ông, các KN
bao giờ cũng diễn ra dưới sự kiểm tra của ý thức nhiều hay ít. KN đòi hỏi việc sử dụng những
kinh nghiệm đã thu được trước đây và những tri thức nhất định nào đó trong các hành động, mà
thiếu những điều này không thể có KN.
- Từ điển tiếng Việt (1992) định nghĩa “KN là khả năng vận dụng những kiến thức thu
nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế” [33, tr.157].
- Theo từ điển Giáo dục học “KN là khả năng thực hiện đúng hành động, hoạt động phù
hợp với những mục tiêu và điều kiện cụ thể tiến hành hành động ấy cho dù đó là hành động cụ
thể hay hành động trí tuệ” [17, tr.220].
- Tác giả Huỳnh Văn Sơn cho rằng “KN là khả năng thực hiện có kết quả một hành động
nào đó bằng cách vận dụng những tri thức, những kinh nghiệm đã có để hành động phù hợp với
những điều kiện cho phép” [37, tr.6].
Như vậy, người có KN phải nắm tri thức về hành động và có các kinh nghiệm cần thiết.
Song bản thân tri thức kinh nghiệm không phải là KN, muốn có KN con người phải vận dụng
vốn tri thức và kinh nghiệm đó vào hành động và đạt kết quả.
Khi xem xét KN cần lưu ý những điểm sau:
- KN trước hết phải được hiểu là mặt kỹ thuật của hành động, KN bao giờ cũng gắn với
một hành động cụ thể.
- Tính đúng đắn, sự thành thạo, linh hoạt, mềm dẻo là tiêu chuẩn quan trọng để xác định sự
hình thành và phát triển KN. Một hành động chưa thể gọi là KN nếu còn mắc nhiều lỗi và các
thao tác diễn ra vụng về theo một khuôn mẫu cứng nhắc.
- KN không phải là cái bẩm sinh của mỗi cá nhân, đó là quá trình con người vận dụng tri
thức và kinh nghiệm vào hoạt động thực tiễn để đạt được mục đích đề ra. KN là kết quả của
một quá trình luyện tập.
Từ những quan niệm trên ta thấy KN vừa là mặt kỹ thuật của hành động hay còn gọi là
cách thức thực hiện hành động hay công việc cụ thể nào đó, vừa là biểu hiện năng lực của con
người. Cơ sở của KN là tri thức, kinh nghiệm đã có từ trước. KN hình thành do luyện tập.
Trên cơ sở những quan niệm về KN của các tác giả, chúng tôi quan niệm rằng: KN là khả
năng của con người thực hiện có kết quả một hành động nào đó trên cơ sở vận dụng những tri
thức và kinh nghiệm tương ứng. KN được hình thành do luyện tập.
1.2.4.2 Các mức độ và quá trình hình thành kỹ năng
Theo K.K. Platonov và G.G. Golubev, KN hình thành qua 5 giai đoạn:
- Mức 1: có KN sơ đẳng, hành động được thực hiện theo cách thử và sai, dựa trên vốn hiểu
biết và kinh nghiệm.
- Mức 2: biết cách thực hiện hành động nhưng không đầy đủ.
- Mức 3: có những KN chung nhưng còn mang tính rời rạc, riêng lẻ.
- Mức 4: có những KN chuyên biệt để hành động.
- Mức 5: vận dụng sáng tạo những KN đó trong các tình huống khác nhau [9, tr 51].
Các tác giả A.V. Petrovxki, N.D. Levitov, V.A Kruchexki, Trần Quốc Thành…quá trình
hình thành kỹ năng chia làm ba bước:
- Bước 1: Nhận thức đầy đủ về mục đích, cách thức và điều kiện hành động.
- Bước 2: Quan sát mẫu và làm thử mẫu.
- Bước 3: Luyện tập để tiến hành các hành động theo đúng yêu cầu, điều kiện hành động
nhằm đạt được mục đích đề ra [15, tr.32].
Mục đích là kết quả của hành động, định hướng cho hành động. Nếu chỉ dừng lại ở đây thì
chưa có KN, chỉ là lý thuyết tri thức về hành động.
Giai đoạn làm thử theo mẫu tiến tới hình thành KN, giúp con người đối chiếu với tri thức,
tiến hành thao tác để giảm bớt sai sót trong quá trình hành động để đạt kết quả.
Cuối cùng muốn có KN con người phải luyện tập. Giai đoạn này, các tri thức được củng cố
nhiều lần, các thao tác được ôn luyện có hệ thống, kết quả của hành động đạt được một cách
chắc chắn hơn. KN chỉ thực sự ổn định khi người ta hành động có kết quả trong những điều
kiện khác nhau. Việc luyện tập đạt được kết quả cao hay thấp phụ thuộc vào điều kiện luyện
tập, đặc biệt là sự nỗ lực của cá nhân.
Vấn đề hình thành KN được các tác giả trong và ngoài nước quan tâm. Mỗi tác giả có
những ý kiến khác nhau, song đều thống nhất KN được hình thành trong hoạt động.
Như vậy, quá trình hình thành KN là quá trình tiến hành hành động và luyện tập hành
động trong thực tiễn đa dạng.
1.2.5 Kỹ năng hoạt động nhóm trong học tập
1.2.5.1 Khái niệm
Từ định nghĩa về KN và HĐN trong học tập nêu trên, chúng tôi định nghĩa KN HĐN trong
học tập như sau:
Kỹ năng hoạt động nhóm trong học tập là khả năng vận dụng những tri thức và những
kinh nghiệm đã có về hoạt động nhóm nhằm hoàn thành nhiệm vụ học tập do nhóm đề ra.
KN HĐN trong học tập được hình thành trước hết từ việc nhận thức đúng đắn về HĐN
trong học tập, các thao tác kỹ thuật để thực hiện công việc, sau đó là phải thực hành và rèn
luyện trong thực tiễn.
1.2.5.2 Cấu trúc của KN HĐN trong học tập
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận các vấn đề liên quan đến KN, nhóm và HĐN trong học tập,
cũng như xuất phát từ mục đích và yêu cầu HĐN, chúng tôi cho rằng KN HĐN trong học tập
của SV là một hệ thống cấu trúc, bao gồm các KN bộ phận sau:
a. Kỹ năng lắng nghe
Khi làm việc theo nhóm, truyền thông được xem là một trong những hoạt động quan trọng
nhất. Bởi nó đóng vai trò của một cơ quan tuần hoàn, chuyển tải thông tin đến mỗi thành viên
và giữa các thành viên với nhau [18, tr. 78]. Truyền thông là truyền báo cho người khác những
tin tức, tài liệu liên hệ đến họ trong tổ chức nhóm.
Nhiều người nghĩ rằng muốn truyền thông tốt phải có “thuật ăn nói”, nhưng nếu chỉ nói mà
không biết “nghe” thì chỉ thành công nửa vời hay thậm chí không thành công vì “truyền thông
là quá trình hai chiều: truyền và nhận”. Sẽ thiếu sót nếu nghĩ truyền thông là hoạt động một
chiều (từ người truyền đến người nhận tin) mà phải hiểu đây là hoạt động hai chiều (chiều phản
hồi trở lại từ phía người nhận) [18, tr.78].
Đối với người nhận tin, để phản hồi chính xác điều quan trọng là phải biết lắng nghe để
hiểu được mục đích nội dung của thông tin truyền đến. Việc tiếp nhận thông tin một cách chính
xác đầy đủ là điều kiện quyết định để thực hiện tốt thông tin đó. Ngược lại, khi tiếp nhận các
thông tin phản hồi từ phía người nhận, thì “người truyền” lúc này cũng cần phải biết lắng nghe,
ghi nhận, tránh thái độ chỉ trích ngắt lời.
Lắng nghe chính là chìa khóa của truyền thông khi tham gia HĐN. Biết lắng nghe, nghĩa là
chú tâm vào ý kiến của các thành viên trong nhóm, chúng ta mới hiểu rõ tại sao và do đâu có
những quan điểm khác biệt cũng như những hạn chế, qua đó chúng ta mới có thể đóng góp ý
kiến xây dựng để các ý kiến trong nhóm được hoàn thiện hơn. Lắng nghe cũng giúp ta thu thập
được nhiều thông tin hơn, là cơ sở để ra quyết định và giải quyết vấn đề của nhóm một cách
khoa học, khách quan. Thực tế cho thấy, có nhiều vấn đề, nhiều mâu thuẫn của nhóm không
giải quyết được chỉ vì các thành viên trong nhóm không chịu lắng nghe nhau. Bằng sự cởi mở
của mình và biết cách khuyến khích người khác nói, chúng ta sẽ phát hiện ra những nguyên
nhân gây mâu thuẫn và cùng nhau đưa ra cách giải quyết. Lắng nghe còn giúp các thành viên
trong nhóm hiểu nhau hơn, giúp việc đưa ra quyết định trở nên dễ dàng, nhanh chóng; nhờ vậy
mà nhiệm vụ học tập của nhóm sẽ hiệu quả hơn.
Lắng nghe là biết tập trung chú ý, hướng hoạt động của các giác quan của bản thân để
nghe, hiểu được thông tin trong quá trình tương tác nhóm. Đó không đơn thuần là tiếp thu âm
thanh bằng tai mà phải hiểu được ý nghĩa của điều được nói, nhất là tiếp nhận được cảm xúc
của họ. Lắng nghe không chỉ là tiếp nhận thông tin từ người nói, mà người nghe còn phân tích
theo hướng tích cực, phản hồi bằng thái độ tôn trọng ý kiến của người nói dù đó là ý kiến trái
ngược với quan điểm của bản thân, không phê phán mà trái lại phải biết khuyến khích, khơi dậy
sự tự tin phát biểu ý kiến của người khác.
Như vậy, biểu hiện của người có KN lắng nghe:
- Ngừng nói.
- Biết chờ đến lượt.
- Thể hiện cho người nói thấy rằng bạn muốn nghe.
- Tránh những việc làm gây mất tập trung.
- Đồng cảm với người nói.
- Kiên nhẫn, giữ bình tĩnh.
- Tránh tranh cãi hoặc phê phán.
- Đặt câu hỏi đúng lúc [4, tr.172].
b. Kỹ năng thuyết trình
KN thuyết trình đóng vai trò quan trọng trong quá trình học tập theo nhóm cũng như làm
việc sau này của SV, đặc biệt là đối với SV sư phạm.
Theo Wikipedia, thuyết trình là quá trình trình bày nội dung của một chủ đề cho người
nghe nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Thuyết trình cũng là một bài nói ngắn gọn của một
người hoặc một nhóm người về một chủ đề cụ thể nào đó để trình bày một nhận định, một quan
điểm…nhằm thuyết phục người nghe chấp nhận quan điểm và có cùng suy nghĩ với mình.
Với sự phân công của nhóm, các thành viên sẽ chuẩn bị đề tài, chủ động tìm kiếm tài liệu
liên quan… để trình bày trước nhóm hoặc lớp. Thuyết trình thành công khi người nói có khả
năng diễn đạt ý tưởng của mình, biết cách trình bày ý kiến của mình về một vấn đề, phân tích
vấn đề cho mọi người hiểu đúng, biết cách chứng minh và bảo vệ ý kiến của mình. Ngoài ra,
bài thuyết trình thành công sẽ tác động mạnh mẽ làm thay đổi nhận thức, tình cảm, ý chí và
hành động của người nghe.
Để thuyết trình thành công, người trình bày phải:
- Xác định mục tiêu, đề tài trình bày. Điều này giúp người thuyết trình xác định nội dung
thông điệp mà ta cần truyền đạt đến người nghe. Vì thuyết trình không phải là trình bày những
điều ta muốn nói mà trình bày những điều người khác muốn nghe.
- Nội dung thuyết trình được chuẩn bị kỹ lưỡng chu đáo, các thông tin khoa học chính xác,
có ví dụ liên hệ thực tiễn… giúp người nói tự tin hơn khi trình bày.
- Lập dàn ý tóm tắt, sắp xếp ý tưởng một cách logic cũng là một phần không thể thiếu để
thuyết trình đạt hiệu quả cao. Việc lập dàn ý giúp người thuyết trình kiểm soát được nội dung
trình bày, tránh nói dài dòng hay thiếu thiếu sót những ý cơ bản và biết nói những gì cần thiết
quan trọng trong khoảng thời gian cho phép.
- Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, đơn giản, ngắn gọn nhưng thuyết phục người nghe. Với âm
lượng vừa đủ nghe, tốc độ nói vừa phải, từ ngữ phong phú đa, dạng nhưng gần gũi…sẽ giúp bài
thuyết trình thêm sinh động, lôi cuốn và hấp dẫn người nghe.
- Biết đặt câu hỏi đúng lúc là cách người thuyết trình gây sự chú ý đối với người nghe,
kích thích họ tư duy, tránh hiện tượng tiếp thu một cách thụ động, tạo cơ hội cho người khác
trình bày ý kiến của mình đồng thời lấy thêm thông tin từ các thành viên trong nhóm giúp họ
điều chỉnh cách trình bày của mình phù hợp hơn.
- Có sự giao tiếp với người nghe thông qua ánh mắt, nét mặt, điệu bộ cử chỉ…phù hợp với
nội dung thuyết trình. Thuyết trình không chỉ là truyền đạt thông tin đến người nghe mà còn là
sự giao tiếp, tương tác giữa người nói và người nghe.
Như vậy, biểu hiện của người có KN thuyết trình:
- Xác định mục tiêu trình bày.
- Chuẩn bị nội dung đầy đủ.
- Lập dàn ý tóm tắt.
- Chuẩn bị các câu hỏi có liên quan.
- Luôn giao tiếp với người nghe thông qua hệ thống phi ngôn ngữ.
c. Kỹ năng thảo luận
Thảo luận là phần tất yếu tạo nên hoạt động học tập theo nhóm , là hình thức các thành
viên trong nhóm cộng tác với nhau để trao đổi ý tưởng, quan điểm, chia sẻ nguồn thông tin để
cùng nhau hình thành cách giải quyết vấn đề, kiểm tra giả thuyết và đi đến kết luận.
Thảo luận nhóm khắc phục tình trạng thụ động, lười suy nghĩ và thiếu hẳn sự phản hồi từ
phía người học. Khi những vấn đề được nhóm đưa ra thảo luận, bàn bạc đòi hỏi các thành viên
phải tự sưu tầm tài liệu, phải động não cố gắng tìm hiểu và đưa ra ý kiến của mình, cùng nhau
giải quyết nhiệm vụ học tập. Qua đó, hình thành ở SV khả năng tìm tòi, quan sát, so sánh,
nghiên cứu tài liệu, nhận xét, đánh giá, tổng hợp và sáng tạo. Ngoài ra, tinh thần hợp tác, thông
cảm, chia sẻ và hỗ trợ lẫn nhau cũng được phát huy giữa các thành viên trong nhóm.
Nhờ không khí thảo luận cởi mở, sôi nổi sẽ tạo cơ hội cho các thành viên nhút nhát mạnh
dạn hơn khi trình bày ý kiến của mình, học được cách tôn trọng và lắng nghe người khác, tạo
cho SV sự tự tin hứng thú trong học tập. Hơn nữa, thảo luận nhóm sẽ làm cho kiến thức của SV
bớt phần chủ quan, phiến diện, ngược lại sẽ tăng tính khách quan và khoa học, kiến thức trở nên
sâu sắc bền vững, dễ nhớ và nhớ lâu hơn.
Tuy nhiên, thảo luận chỉ phát huy vai trò của nó khi các thành viên trong nhóm có những
biểu hiện sau:
- Xác định mục tiêu rõ ràng và cụ thể.
- Chuẩn bị nội dung, thu thập dữ kiện liên quan đến nội dung thảo luận.
- Thái độ lắng nghe, tôn trọng các ý kiến.
- Có sự bình đẳng và chấp nhận lẫn nhau của nhóm viên.
- Biết khai thác nội dung bằng cách đặt câu hỏi phù hợp kích thích sự suy nghĩ của mọi
người.
- Biết điều động sự tham gia tích cực của các thành viên trong nhóm.
- Biết chia sẻ thông tin, kinh nghiệm mình có cho các thành viên khác.
- Phát hiện những khác biệt, mâu thuẫn trong các ý kiến, quan điểm và cùng nhau giải
quyết.
- Nối kết các ý kiến rời rạc thành hệ thống.
- Mục tiêu phải được giải quyết sau buổi thảo luận.
d. Kỹ năng giải quyết vấn đề
Giải quyết vấn đề là khâu cuối cùng khi hoàn tất hoạt động chung của nhóm, “Giải pháp
cho một vấn đề do nhóm đề ra luôn tốt hơn giải pháp chỉ do một cá nhân nghĩ ra” [31, tr 25].
Nhiệm vụ học tập được đưa ra để nhóm thảo luận, sau đó mọi người phải đi đến quyết định cuối
cùng và giải quyết chúng theo hướng tối ưu nhất.
Nhiều người trong nhóm với những kiến thức, kinh nghiệm khác nhau sẽ đưa ra quan
điểm, giải pháp khác nhau thậm chí trái ngược nhau. Nhưng khi vấn đề của nhóm được đem ra
thảo luận sẽ đem lại nhiều kiến thức bổ ích, thông tin đa dạng, giúp các thành viên học cách
suy nghĩ, xem xét lại kiến thức của mình, giải quyết những khúc mắc chưa rõ và chấp nhận,
phát triển thêm kiến thức mới. Do đó, các thành viên của nhóm đồng lòng đi đến quyết định
cuối cùng, sẵn sàng thực hiện giải pháp chung do nhóm đưa ra.
Để ra quyết định và giải quyết vấn đề được nhanh chóng, hiệu quả các thành viên trong
nhóm cần phải:
- Nhận diện vấn đề một cách rõ ràng.
- Biết cách phát hiện vấn đề.
- Phân tích vấn đề dưới nhiều góc độ khác nhau trên cơ sở khoa học, khách quan.
- Lắng nghe ý kiến của tất cả thành viên.
- Bám sát mục tiêu cần giải quyết.
- Đưa ra nhiều giải pháp và chọn giải pháp phù hợp với mục tiêu làm việc của nhóm.
- Nhận thức những mặt hạn chế của vấn đề chưa giải quyết được.
- Các thành viên đều tham gia và thỏa mãn với cách giải quyết vấn đề của nhóm.
e. Kỹ năng hợp tác, chia sẻ
Với cách dạy và học hiện nay trong nhà trường, người học sẽ thu nhận nhiều kết quả hơn
nếu họ hợp tác, kết quả học tập cao hơn nếu họ biết làm việc với một người khác. SV không chỉ
hợp tác, chia sẻ với các thành viên khác bằng nỗ lực của mình để nắm rõ các vấn đề cần giải
quyết của nhóm mà họ còn có thể nuôi dưỡng một mối quan hệ ổn định, điều đó thật sự quan
trọng cho việc phát triển xã hội và sự phát triển về mặt tâm lý.
Khi SV có ý thức hợp tác chia sẻ cùng người khác, họ dường như có khả năng biểu lộ
những hành vi mang tính xã hội, chấp nhận nhiệm vụ, bày tỏ sự nhiệt tình với các hoạt động
của nhóm, lớp và ngày càng tiến bộ hơn. Biết chia sẻ và hợp tác là KN không thể thiếu nếu
chúng ta muốn nhóm tồn tại và hoạt động hiệu quả. Một nhóm được đánh giá là thành công khi
kết quả hợp tác của nhóm hoàn toàn vượt xa về tính hiệu quả và khối lượng công việc hoàn
thành, khi so sánh với kết quả được thực hiện chỉ bởi một cá nhân. Nhưng nếu kết quả “ngược
lại” có nghĩa là việc hợp tác, chia sẻ của nhóm đã thất bại.
Nếu không có sự chuẩn bị, SV sẽ không quen với cách học theo nhóm, họ cho rằng rất khó
làm việc với bạn đó vì sự khác biệt trong cách suy nghĩ, trình độ nhận thức, hay kiểu “9 người
10 ý”…hoặc có thành viên trong nhóm ỷ lại, đùn đẩy trách nhiệm cho người khác, không tôn
trọng ý kiến của nhau, chỉ thích làm theo ý mình, thờ ơ với những vấn đề khó khăn của
nhóm…Với cách làm việc như vậy, hiệu quả học nhóm không cao, thậm chí dẫn đến tan rã
nhóm. “Khi đã là một thành viên của nhóm, không nên có quan niệm rằng tôi chỉ làm theo sự
phân công hay tôi chỉ làm theo những giá trị mà tôi được thừa nhận” [37, tr 58]. Ngoài ra, hợp
tác chia sẻ với nhau không thể tồn tại những thói quen xấu như: không biết chấp nhận người
khác, không ý thức được trách nhiệm và quyền hạn của mình, không thoải mái khi nghe lời phê
bình hay góp ý…Những thói quen này phải được đẩy lùi để tinh thần đồng đội thật sự thống trị
[10; tr 54-60]. Sự phối hợp và tương tác giữa các thành viên trong nhóm chỉ diễn ra một cách
hiệu quả khi các thành viên trong nhóm hiểu mình và hiểu người, cùng chia sẻ mục tiêu và
trách nhiệm, mong muốn được lắng nghe người khác và tôn trọng sự nỗ lực của mọi thành viên,
nhất là luôn tin rằng mỗi thành viên đều có một đóng góp quan trọng trong HĐN.
Như vậy, biểu hiện của người biết hợp tác - chia sẻ khi làm việc nhóm là:
- Ý thức được vai trò của mình trong nhóm.
- Tôn trọng các thành viên.
- Biết chấp nhận và lắng nghe người khác.
- Hòa đồng, thân thiện và cởi mở.
- Quan tâm giúp đỡ các thành viên.
- Tuân theo các nội qui của nhóm.
- Hoàn thành công việc được giao.
Quá trình hình thành và rèn luyện các KN bộ phận của HĐN trong học tập của SV cũng
qua ba giai đoạn:
- Giai đoạn nhận thức: SV lĩnh hội tri thức về các KN HĐN trong học tập đầy đủ và hệ
thống.
- Giai đoạn làm thử: SV thực hiện hành động dựa trên kiến thức đã được trang bị và kinh
nghiệm vốn có.
- Giai đoạn luyện tập: giúp SV hình thành những KN HĐN chuyên biệt, biết vận dụng
sáng tạo trong những tình huống khác nhau.
Tóm lại: HĐN trong học tập chỉ mang lại hiệu quả cao khi người học có được các KN cần
thiết. KN HĐN trong học tập bao gồm các KN bộ phận KN lắng nghe, KN thuyết trình, KN
thảo luận, KN giải quyết vấn đề và KN hợp tác, chia sẻ. Các KN này quan hệ mật thiết với nhau
và qui định lẫn nhau.
SV được xem là có KN HĐN trong học tập khi họ:
- Nắm vững tri thức về các KN HĐN trong học tập.
- Vận dụng tri thức và kinh nghiệm đã có đó để hành động và hành động có kết quả một
cách ổn định, thường xuyên trong các điều kiện, hoàn cảnh khác nhau.
Do đó, để đánh giá KN HĐN trong học tập của SV phải dựa trên mức độ nhận thức của SV
về KN HĐN, mức độ thực hiện từng KN bộ phận trong quá trình HĐN. Trong phạm vi đề tài
này, chúng tôi xác định biểu hiện KN HĐN trong học tập của SV theo 5 mức độ sau:
+ Mức 1 – mức rất thấp: hầu như không thực hiện các thao tác, hành động cần có khi
HĐN.
+ Mức độ 2 – mức thấp: chưa thực hiện đầy đủ chính xác phần lớn các thao tác, hành động
khi HĐN.
+ Mức độ 3 – mức trung bình: thực hiện tương đối đầy đủ, chính xác và ổn định các thao
tác hành động khi HĐN.
+ Mức 4 – mức cao: thực hiện khá đầy đủ, chính xác và ổn định các thao tác, hành động
khi HĐN, có thiếu sót nhưng không đáng kể.
+ Mức 5 – mức rất cao: thực hiện đầy đủ, chính xác, thành thạo một cách ổn định và
thường xuyên các thao tác hành động khi HĐN.
1.3 Đặc điểm hoạt động học tập của SV
1.3.1 Đặc điểm phát triển tâm lý của SV
* Đặc điểm về thể chất
Sự phát triển cơ thể của SV trong thời kỳ này đã hoàn thành và ổn định sau những biến
động sâu sắc của tuổi dậy thì. Đây là giai đoạn phát triển ổn định, đồng đều về hệ xương, cơ
bắp, hệ tim mạch, hệ thần kinh, trọng lượng não. Các tố chất về thể lực đều phát triển mạnh như
sức nhanh, sức bền bỉ, dẻo dai, linh hoạt…nhờ sự phát triển ổn định của các tuyến nội tiết cũng
như sự tăng trưởng của các hoocmon.
* Một số nét nhân cách nổi bật
+ Thế giới quan
- SV bắt đầu hình thành hệ thống quan điểm về tự nhiên và xã hội. Thế giới quan của SV
phát triển ở mức độ cao, sâu sắc và toàn vẹn. Họ nhận thức rõ ràng muốn thành đạt trong sự
nghiệp phải thông qua nỗ lực, ý chí, trí tuệ của bản thân (tài - đức thật sự). Điều này thể hiện
xu hướng sống tích cực ở SV, tạo ra những con người năng động, ham học hỏi, giàu ý chí.
- Định hướng giá trị phát triển mạnh khi SV phải đứng trước việc lựa chọn nghề, chọn
cách chuyên ngành khác nhau. SV đánh giá cao các giá trị: hòa bình, tự do, tình yêu, công lý,
việc làm, niềm tin, gia đình, nghề nghiệp, sống có mục đích…Định hướng giá trị của SV liên
quan mật thiết với xu hướng nhân cách của họ.
+ Tự đánh giá phát triển cao
- Tự đánh giá là một trong những phẩm chất quan trọng, một trình độ phát triển cao của
nhân cách. Tự đánh giá có ý nghĩa định hướng, điều chỉnh hoạt động hành vi của chủ thể nhằm
đạt được mục đích, lý tưởng sống.
- Tự đánh giá ở SV mang tính chất toàn diện và sâu sắc. SV không chỉ đánh giá hình thức
bản thân bên ngoài, mà còn đi sâu vào các phẩm chất, giá trị của nhân cách. Việc tự đánh giá
của SV vừa là tự ý thức vừa là tự giáo dục, tự hoàn thiện bản thân theo hướng tích cực.
+ Tính cách
Tinh thần làm chủ tập thể, thái độ đối với lao động, tinh thần tự giác, kỹ luật, trách nhiệm,
tự kiềm chế, kiên trì và nhẫn nại…đang dần phát triển. SV biết khắc phục khó khăn thiếu sót
trong hành vi, phát huy những phẩm chất tốt riêng biệt, hướng vào việc hình thành nhân cách.
+ Tình cảm
Tuổi SV là thời kỳ phát triển tích cực nhất của những loại tình cảm cao cấp như: tình cảm
trí tuệ, tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ. Những tình cảm này biểu hiện rất phong phú trong
hoạt động và đời sống của SV. Lứa tuổi này cũng bắt đầu xuất hiện tình yêu nam nữ đích thực,
đạt đến hình thái chuẩn mực, rất đẹp, đầy lãng mạn.
* Đặc điểm về hoạt động nhận thức
Bản chất hoạt động nhận thức của SV là đi sâu vào tìm hiểu các môn học chuyên ngành, kế
thừa hệ thống tri thức đã có, đồng thời phải luôn tiếp cận với những thành tựu của khoa học
đương đại. Hoạt động nhận thức của SV gắn liền với nghiên cứu khoa học, chuyên môn và
nghề nghiệp. Hoạt động nhận thức của SV có tính chất mở rộng theo năng lực và sở trường,
luôn phối hợp nhiều thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, so sánh…nhưng các thao tác trí
tuệ đã phát triển ở trình độ cao, có sự phối hợp nhẹ nhàng, tinh tế, linh động trong quá trình
lĩnh hội tri thức.
Tóm lại:
Một số đặc điểm tâm lý nổi bật của SV là trình độ nhận thức cao, tư duy nhạy bén, nhân
cách phát triển rõ nét, nhu cầu tự đánh giá, tự ý thức phát triển mạnh mẽ…tạo điều kiện cho SV
có thói quen tự học, tự nghiên cứu và hợp tác với người khác.
1.3.2 Đặc điểm hoạt động học tập của SV
Hoạt động học tập tiếp tục giữ vị trí quan trọng ở tuổi thanh niên SV, nhưng hoạt hoạt
động này mang tính chuyên ngành, phạm vi hẹp nhưng sâu sắc hơn. SV học tập để tiếp thu các
tri thức khoa học, hình thành KN, kỹ xảo nghề nghiệp, phát triển những phẩm chất nhân cách.
SV không những phải nắm vững tri thức, KN, kỹ xảo…mà SV phải có khả năng phát hiện
và giải quyết vấn đề, khả năng diễn đạt ý tưởng, biết cách tổ chức và xử lý thông tin...Điều này
đòi hỏi hoạt động học tập của SV phải tăng cường tính chủ động, tự giác, tích cực, độc lập và
sáng tạo nhiều hơn trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Vì vậy, tự học và nghiên cứu khoa học là
hoạt động đặc trưng ở bậc đại học.
Ngoài ra, hình thức tổ chức dạy và học của nhà trường, phương pháp giảng dạy của GV
linh động, mềm dẻo… nhằm hình thành và rèn luyện cho SV các KN tự học. Trong đó, dạy và
học theo nhóm là một trong những hoạt động học tập giúp SV rèn luyện KN tự học thông qua
HĐN.
1.3.3 Vai trò của hoạt động nhóm trong học tập
- Đào tạo theo tín chỉ đang dần được áp dụng ở một số trường Đại học Việt Nam và bước
đầu đã chứng tỏ được ưu thế so với phương thức đào tạo theo niên chế. Trong phương thức đào
tạo theo tín chỉ, việc tự học – tự nghiên cứu của SV được coi trọng, được tính vào nội dung và
thời lượng của chương trình. Đây là phương thức đưa giáo dục đại học về đúng nghĩa của nó:
người học tự học, tự nghiên cứu, giảm sự nhồi nhét kiến thức của người dạy, do đó phát huy
được tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học. Đào tạo theo hệ thống tín chỉ đòi hỏi SV
phải tiếp cận với phương pháp tự học và phương pháp học nhóm làm chính.
- Đáp ứng xu thế “Dạy và học thông qua các tổ chức hoạt động của người học”, người học
được cuốn hút vào các hoạt động học tập do GV tổ chức và chỉ đạo, qua đó họ tự khám phá
những điều mình chưa biết, chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được
GV sắp đặt. Người học được đặt vào những tình huống cụ thể, quan sát trực tiếp, thảo luận, giải
quyết vấn đề…từ đó tự mình lĩnh hội tri thức mới, hình thành các KN cần thiết mà không bị rập
khuôn theo mẫu có sẵn, do đó người học có cơ hội bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo.
- Tất cả các thành viên trong nhóm hợp tác, trao đổi và giúp đỡ lẫn nhau. Điều đó tạo nên
môi trường học tập thoải mái, cởi mở và sôi nổi, người học cảm thấy không bị căng thẳng như
lúc làm việc một mình, khó khăn thường vượt qua. Các thành viên của nhóm cảm thấy tự do
trình bày những suy nghĩ, kinh nghiệm của bản thân, hỏi nhau những vấn đề mình còn chưa
hiểu, chưa biết…Do đó, bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải chỉ là sự
tiếp nhận thụ động từ GV, nhiệm vụ học tập được giải quyết dễ dàng hơn.
- HĐN giúp thỏa mãn nhu cầu học tập của mỗi cá nhân: người học tự do lựa chọn cách
học riêng cho mình, khuyến khích họ đưa ra cách giải quyết đầy sáng tạo, hình thành tinh thần
trách nhiệm đối với tập thể, tránh được tính ỷ lại, lười biếng sao nhãng nhiệm vụ được giao,
khơi dậy tinh thần tập thể, vì lợi ích chung của nhóm, của cộng đồng và xã hội, phát triển tư
duy linh hoạt, mềm dẻo, sáng tạo, khả năng phân tích tổng hợp và giải quyết vấn đề. Khi tham
gia học nhóm, SV phải tự mình giải quyết nhiệm vụ học tập, đòi hỏi sự tham gia tích cực của
các thành viên…vì thế sẽ hình thành ở họ thói quen làm việc độc lập, tự giác, tích cực và tự tin,
có nghĩa là việc học của họ sẽ đạt kết quả cao hơn.
- Phát triển năng lực giao tiếp: học tập theo nhóm sẽ tạo tình huống giao tiếp đòi hỏi người
học phải thể hiện quan điểm của mình thông qua thuyết trình, thảo luận…biết cách trình bày và
bảo vệ quan điểm của mình; biết cách thuyết phục và thương lượng trong việc giải quyết vấn
đề; biết lắng và chấp nhận những quan điểm của người khác để giải quyết những bất đồng ý
kiến theo hướng xây dựng để đi đến quyết định thống nhất.
- Phát triển năng lực cộng tác làm việc, tăng cường khả năng học hợp tác: người Việt nam
có câu: “học thầy không tày học bạn”, cộng tác trong học tập tạo cơ hội cho mỗi thành viên
chia sẻ những gì mình đã học với bạn bè, tự hào về những gì mình làm được cũng như học hỏi
những điều mình chưa biết, nhờ đó mà SV thấm nhuần tinh thần đồng đội, khắc phục sự thô
bạo cộc cằn, biết khoan dung và quan tâm đến người khác. Học tập theo nhóm tạo cơ hội cho
SV chủ động tham gia, chia sẻ kiến thức và cùng nhau đưa ra quyết định, điều đó khiến họ cảm
thấy mình là chủ, là người điều khiển quá trình học, đây là động lực tích cực giúp sinh viên
hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập của mình. Đối với nhiều SV, nhất là SV năm nhất, HĐN sẽ tạo
cơ hội cho họ tiếp xúc, gặp gỡ quen biết lẫn nhau, giao lưu với bạn bè, trao đổi các vấn đề liên
quan gián tiếp đến bài học như khó khăn hay thuận lợi trong học tập.
1.3.4 Sơ nét về trường Đại học Sài gòn
Tháng 4 năm 2007, căn cứ theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, trường Đại học Sài
gòn được thành lập trên cơ sở nâng cấp trường Cao đẳng Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
Trường ĐHSG là trường đào tạo đa ngành, đa cấp, đa lĩnh vực. Trường đào tạo từ trình độ
trung cấp, cao đẳng, đại học và sau đại học, đào tạo theo hai hình thức: chính quy và không
chính quy. Hiện trường có 17 khoa đào tạo với 30 chuyên ngành cấp độ đại học, cao đẳng; 4
chuyên ngành cấp độ trung cấp thuộc các lĩnh vực: Kinh tế - Kỹ thuật; Văn hóa – Xã hội; Chính
trị - Nghệ thuật; Luật và Sư phạm.
Chương trình đào tạo của nhà trường phù hợp với mục tiêu giáo dục và chức năng, nhiệm
vụ của nhà trường, đồng thời đáp ứng được nhu cầu học tập của người học, nhu cầu nguồn
nhân lực của thị trường lao động của thành phố Hồ Chí Minh và cả nước. Từ chỗ liên kết với
Đại học Huế đào tạo ở bậc Đại học, Trường đã được Ủy Ban Nhân Dân TP.Hồ Chí Minh cho
phép thực hiện liên kết đào tạo với các cơ sở GD khác như Đại học Vinh, các trường Đại học,
Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp tại Tây Nguyên, duyên hải miền Trung và các tỉnh miền
Tây và Đông Nam bộ.
Nhà trường chú trọng đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng phát triển năng lực tự
học, tự đào tạo, tự nghiên cứu và làm việc tập thể của người học. Ngoài ra, trường đã có kế
hoạch và lộ trình tổ chức đào tạo theo học chế tín chỉ cho tất cả các hệ, bậc đào tạo kể từ năm
2008 nhằm đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của người học. Đội ngũ Cán bộ quản lý, giáo viên
của trường ngày càng được trẻ hóa và có trình độ cao, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của
công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học của trường.
Cùng với xu hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, dạy học bằng chính hoạt động
của người học, dạy học trong hoạt động hợp tác giữa người dạy – người học và giữa những
người học với nhau, dạy học thông qua việc phát huy khả năng tự học, tạo mọi điều kiện để
người học tham gia vào quá trình dạy học, đặc biệt là với hình thức đào tạo theo tín chỉ…thì
việc tổ chức dạy và học theo nhóm là một trong những hình thức dạy học được Ban giám hiệu
nhà trường, GV và SV quan tâm và áp dụng trong những năm gần đây nhằm thực hiện mục tiêu
đổi mới dạy và học nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.
1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến KN HĐN trong học tập của SV
1.4.1 Nhà trường
Một trong những mục tiêu đào tạo của trường đại học là dạy KN cho SV. Với sự thay đổi
hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ trong các trường đại học, nhà trường đổi mới nội dung,
giáo trình, tổ chức dạy và học, thời gian đào tạo linh hoạt, vận dụng linh hoạt phương pháp dạy
và học thể hiện sự tương tác giữa thầy và trò…đã giúp SV hình thành những KN cần thiết để
nhanh chóng hòa nhập và thích nghi với môi trường hoàn toàn mới, trong đó có KN HĐN.
SV học theo nhóm là hoạt động không thể thiếu trong nhà trường hiện nay. Tuy nhiên, để
học nhóm mang lại hiệu quà cao, ngoài việc tổ chức chương trình học phù hợp, nhà trường phải
có cơ sở vật chất kỹ thuật đảm bảo cho hoạt động dạy và học của GV và SV, xây dựng hệ thống
thư viện cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết để SV có thể tự học và học theo nhóm.
Ngoài ra, các hoạt động ngoại khóa phong phú đa dạng góp phần để SV rèn luyện và nâng
cao KN HĐN.
1.4.2 Giáo viên
GV là người ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành và phát triển KN HĐN cho SV thông
qua việc tổ chức dạy và học.
GV là người hướng dẫn SV cách học nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo của mình. Với
phương pháp dạy học theo nhóm mang tính tương tác và khám phá, GV là người tổ chức hướng
dẫn SV cách học, tạo điểu kiện để SV sẵn sàng hợp tác, giúp đỡ nhau khi giải quyết nhiệm vụ
học tập. Hơn nữa, GV thường xuyên quan tâm đến việc kiểm tra, nhận xét đánh giá thái độ làm
việc, tinh thần trách nhiệm cũng như kết quả học tập của SV sau khi tham gia HĐN tạo cơ hội
cho SV thấy rõ ưu và nhược điểm của mình, giúp họ nỗ lực hơn để rèn luyện và hoàn thiện KN
HĐN.
1.4.3 Sinh viên
Trước tiên, KN HĐN trong học tập được hình thành trên cơ sở hiểu biết của SV về HĐN.
Với phương pháp dạy học tích cực, SV phải thay đổi suy nghĩ và cách học của mình. SV
phải ý thức làm chủ bản thân trong quá trình học tập, năng động sáng tạo, linh hoạt và thích
nghi nhanh chóng với cách học mới, hình thành thói quen tự học, tự nghiên cứu, có năng lực
tìm kiếm và xử lý thông tin, chịu trách nhiệm với kết quả học tập của mình … đây là những yếu
tố góp phần hình thành KN HĐN cho SV.
Bên cạnh đó, SV học tập với niềm say mê hứng thú, khát khao tìm tòi khám phá, học trong
môi trường tương tác, thân thiện, cùng nhau giải quyết nhiệm vụ học tập…đều ảnh hưởng đến
việc hình thành các KN HĐN cho SV.
Tiểu kết chương 1
Trong phần cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu, chúng tôi đã tập trung làm sáng tỏ các vấn
đề cơ bản sau:
1. Các khái niệm: hoạt động, nhóm, HĐN, hình thức hoạt động tập theo nhóm, KN và KN
HĐN trong học tập.
2. KN HĐN trong học tập của SV là một hệ thống gồm nhiều KN bộ phận cụ thể là KN
lắng nghe, KN thuyết trình, KN thảo luận, KN giải quyết vấn đề và KN hợp tác – chia sẻ.
3. KN HĐN trong học tập của SV chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố khách quan bên ngoài là
nhà trường, GV và một số yếu tố chủ quan thuộc về bản thân SV.
Chương 2: TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Tổ chức nghiên cứu
2.1.1 Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng nhận thức và biểu hiện các KN HĐN trong học tập của SV trường
ĐHSG. Qua đó, biết được mức độ hiểu biết, thái độ và biểu hiện của SV về các KN HĐN trong
học tập.
2.1.2 Mẫu nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu được chọn ngẫu nhiên bao gồm 287 SV năm I và SV năm III khối Sư
phạm thuộc khoa Tự nhiên và khoa Xã hội.
Bảng 2.1 Phân bố mẫu nghiên cứu theo khoa, năm học và giới tính
Tiêu chí phân loại SV Số lượng Tỷ lệ (%) Tổng
Tự nhiên 162 56.4
Khoa
Xã hội 125 43.6
287
Năm I 134 46.7
Năm học
Năm III 153 53.3
287
Nam 137 47.7
Giới tính
Nữ 150 52.3
287
2.1.3 Tổ chức quá trình nghiên cứu
- Từ tháng 5/2009 đến tháng 9/2009: xây dựng và bảo vệ đề cương.
- Từ tháng 10/2009 đến tháng 12/2009: viết lý luận của đề tài và xây dựng phiếu điều tra.
- Từ tháng 1/2010 đến tháng 3/2010: điều tra trên khách thể nghiên cứu và xử lý số liệu.
- Từ tháng 4/2010 đến tháng 5/2010: phân tích thực trạng vấn đề nghiên cứu.
- Từ tháng 6/2010 đến tháng 7/2010: hoàn thành luận văn.
2.2 Phương pháp nghiên cứu
2.2.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận
2.2.1.1 Mục đích:
Xác lập cơ sở phương pháp luận cho qui trình và phương pháp nghiên cứu của đề tài.
2.2.1.2 Nội dung:
+ Khái quát, hệ thống hóa những vấn đề lý luận về KN HĐN, làm sáng tỏ các khái niệm
công cụ trong việc nghiên cứu thực trạng KN HĐN trong học tập của SV.
+ Phân tích, tổng hợp và đánh giá các công trình nghiên cứu trước, từ đó chỉ ra những vấn
đề cần tiếp tục nghiên cứu.
+ Xác lập cơ sở lý luận cho việc chọn lựa và thiết lập công cụ nghiên cứu và phương pháp
nghiên cứu của đề tài.
2.2.1.3 Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp này được thực hiện thông qua các quá trình như phân tích, tổng hợp, phân
loại và hệ thống hóa các tài liệu nhằm sắp xếp những tri thức về nhóm, hoạt động nhóm, KN,
KN HĐN…để xác định những cơ sở lý luận cần thiết cho đề tài.
2.2.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
2.2.2.1 Mục đích nghiên cứu:
+ Tìm hiểu KN HĐN trong học tập của SV biểu hiện ở các mặt nhận thức, thái độ và mức
độ thực hiện.
+ Những yếu tố ảnh hưởng đến KN HĐN trong học tập của SV.
2.2.2.2 Nội dung nghiên cứu:
Xây dựng hệ thống câu hỏi để thu thập vấn đề nghiên cứu:
+ Khảo sát mức độ nhận thức của SV về KN HĐN.
+ Khảo sát mức độ biểu hiện của SV về các KN bộ phận của KN HĐN.
+ Các yếu tố ảnh hưởng đến KN HĐN trong học tập của SV
2.2.2.3 Các phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phối hợp nhiều phương pháp khác nghiên cứu khác nhau, trong đó phương pháp
điều tra bằng bảng hỏi là phương pháp quan trọng nhất. Các phương pháp còn lại là phương
pháp hỗ trợ.
+ Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
* Mục đích:
- Thu thập một số thông tin về bản thân khách thể nghiên cứu.
- Điều tra nhận thức, thái độ, ý thức rèn luyện và mức độ biểu hiện của SV đối với KN
HĐN trong học tập.
- Thu thập thông tin về các yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành và phát triển KN HĐN
của SV.
* Cách tiến hành:
- Quá trình điều tra được tổ chức chặt chẽ có trình tự, đảm bảo sự chuẩn bị chu đáo về
phương tiện, điều kiện không gian và thời gian.
- Trước khi lấy ý kiến, chúng tôi thông báo đầy đủ rõ ràng mục đích, yêu cầu của việc
điều tra, hướng dẫn cụ thể chi tiết, đồng thời đảm bảo sự khéo léo, tế nhị tạo cảm giác thoải mái
cho SV để có thể thu được số liệu khách quan nhất.
Qui trình phát phiếu điều tra gồm 3 giai đoạn sau:
Giai đoạn 1:
- Bảng hỏi số 1: Dựa trên những biểu hiện của thực trạng HĐN trong học tập, cơ sở lý
luận của đề tài, người nghiên cứu đưa ra bảng thăm dò mở nhằm trưng cầu ý kiến của khách
thể về KN HĐN trong học tập. Nội dung phiếu là những câu hỏi nhằm trưng cầu ý kiến của SV
về KN HĐN, sau đó phân tích và xử lý phiếu câu hỏi mở. (Phụ lục 1)
* Cách tiến hành:
Chúng tôi điều tra trên mẫu gồm 70 SV trường ĐHSG. Sau đó, phân tích và xử lý phiếu
câu hỏi mở.
Trên cơ sở kết quả của phiếu điều tra câu hỏi mở, kết hợp với những vấn đề lý luận về KN
HĐN trong học tập, chúng tôi xây dựng phiếu điều tra chính thức, nội dung nhằm đánh giá thực
trạng KN HĐN trong học tập của SV.
Giai đoạn 2:
- Bảng hỏi số 2: trên cơ sở kết quả của phiếu điều tra bằng câu hỏi mở, kết hợp với những
vấn đề lý luận về KN HĐN trong học tập, chúng tôi xây dựng phiếu điều tra, nội dung nhằm
đánh giá mức độ biểu hiện KN HĐN của SV trong học tập. (Phụ lục 2)
Hệ thống các câu hỏi trong phiếu điều tra gồm 2 phần:
+ Phần I: phần thông tin cá nhân của người trả lời: giới tính, khoa và năm học của khách
thể nghiên cứu.
+ Phần II: phần nội dung chính, gồm 2 phần
Phần A: tìm hiểu về mức độ nhận thức, thái độ và ý thức rèn luyện KN HĐN trong học
tập của SV nói chung. Mỗi câu có 5 mức độ lựa chọn và cách cho điểm như sau:
- Câu 1 và 4: khảo sát nhận thức của SV về KN HĐN được chia thành 5 mức độ: hoàn toàn
không biết (1 điểm), không biết (2 điểm), biết một chút (3 điểm), biết nhiều (4 điểm) và biết rất
nhiều (5 điểm).
- Câu 2: đánh giá thái độ của SV đối với KN HĐN được chia thành 5 mức độ: hoàn toàn
không quan trọng (1 điểm), không quan trọng (2 điểm), bình thường (3 điểm), quan trọng (4
điểm) và rất quan trọng (5 điểm).
- Câu 3: khảo sát mức độ rèn luyện KN HĐN của SV trong học tập được chia thành 5 mức
độ: hoàn toàn không quan tâm (1 điểm), không quan tâm (2 điểm), đôi khi (3 điểm), quan tâm
(4 điểm) và rất quan tâm (5 điểm).
Phần B: tìm hiểu về mức độ biểu hiện của SV về các KN bộ phận của KN HĐN trong học
tập gồm 94 câu chia thành 5 KN. Trong đó:
+ KN lắng nghe: gồm 15 câu (B1 đến B15)
+ KN thuyết trình: 20 câu (B16 đến B35)
+ KN thảo luận: 20 câu (B36 đến B55)
+ KN giải quyết vấn đề: 14 câu (B56 đến B69)
+ KN hợp tác, chia sẻ: 25 câu (B70 đến B94 )
*Cách cho điểm
Mỗi câu có 5 mức độ lựa chọn: rất thường xuyên (5 điểm), thường xuyên (4 điểm), đôi khi
(3 điểm), không bao giờ (2 điểm) và hoàn toàn không bao giờ (1 điểm).
Riêng đối với các câu có ý nghĩa tiêu cực: 12, 24, 27, 45, 49, 50, 51, 52, 63, 76, 81, 84, 86,
91 số điểm cho ngược lại để phù hợp với thang đo.
*Thang đánh giá:
- Mức rất cao (4.51đ - 5đ) : thực hiện đầy đủ, chính xác, thành thạo một cách ổn định và
thường xuyên các thao tác hành động trong quá trình tham gia HĐN.
- Mức cao (3.51đ - 4.5đ) : thực hiện khá đầy đủ, chính xác và ổn định các thao tác hành
động trong quá trình tham gia HĐN, còn thiếu sót nhưng không đáng kể.
- Mức trung bình (2.51đ - 3.5đ) : thực hiện tương đối đầy đủ, chính xác và ổn định các
thao tác hành động trong quá trình tham gia HĐN.
- Mức thấp (1.51đ - 2.5đ) : chưa thực hiện đầy đủ chính xác phần lớn các thao tác, hành
động trong quá trình tham gia HĐN.
- Mức rất thấp (1đ - 1.5đ) : hầu như không thực hiện các thao tác, hành động cần có khi
tham gia HĐN.
Giai đoạn 3:
- Bảng hỏi số 3: khảo sát mức độ ảnh hưởng của một số yếu tố đến việc hình thành KN
HĐN trong học tập của sinh viên gồm 25 câu (Phụ lục 3)
+ Nhà trường: các câu 1, 2, 3, 4
+ Giáo viên: các câu 5 đến 16
+ Sinh viên: các câu 17 đến 24
* Cách cho điểm:
Mỗi câu có 3 mức độ lựa chọn: ảnh hưởng “nhiều” (3 điểm), ảnh hưởng “vừa” (2 điểm) và
ảnh hưởng “ít” (1 điểm).
* Thang đánh giá:
- 2.51đ - 3đ : mức độ ảnh hưởng nhiều
- 1.51đ - 2.5đ : mức độ ảnh hưởng vừa
- 1đ - 1.5đ : mức độ ảnh hưởng ít
* Cách tiến hành: đối với bảng câu hỏi số 2 và 3, chúng tôi tiến hành điều tra qua 2 bước:
- Khách thể điều tra thử: chúng tôi tiến hành điều tra trên 60 SV trường ĐHSG để đảm bảo
độ tin cậy của phiếu điều tra. Trên cơ sở kết quả điều tra thử, chúng tôi hoàn chỉnh và bổ sung
lại phiếu điều tra để tiến hành điều tra chính thức.
- Khách thể điều tra chính thức: chúng tôi tiến hành điều tra chính thức trên 287 SV của
khối Sư phạm thuộc khoa Tự nhiên và khoa Xã hội trường ĐHSG.
+ Phương pháp phỏng vấn
* Mục đích:
Nhằm thu thập thêm thông tin, giải thích và đánh giá về sự hiểu biết cũng như thái độ của
SV về KN HĐN, nhận xét của GV về biểu hiện của KN HĐN trong học tập và rèn luyện của
SV hiện nay.
* Cách tiến hành:
Trò chuyện, trao đổi trực tiếp với SV, GV đang giảng dạy tại các lớp được chọn làm khách
thể nghiên cứu, nhằm làm rõ thêm những thông tin thu được từ những phương pháp khác.
+ Phương pháp quan sát
* Mục đích:
Nhằm làm rõ, phát hiện thêm thái độ, ý thức rèn luyện và mức độ biểu hiện các KN HĐN
của SV khi tham gia học theo nhóm. Trên cơ sở đó, đánh giá một cách khách quan đầy đủ mức
độ biểu hiện của SV về các KN HĐN.
* Cách tiến hành:
Trực tiếp giảng dạy, dự giờ một số tiết của GV khác trong những buổi học có sử dụng hình
thức học theo nhóm để quan sát mức độ biểu hiện của SV đối với các KN HĐN. Ngoài ra,
chúng tôi cũng quan sát thái độ, hành vi của SV trong và ngoài giờ học để tìm hiểu một số mức
độ biểu hiện và rèn luyện KN HĐN của SV.
+ Phương pháp thống kê
Sử dụng phương pháp xử lý thống kê bằng phần mềm SPSS for window 11.5 để tính:
- Tỷ tỷ lệ phần trăm, thống kê tần số
- Điểm trung bình Mean, xếp thứ hạng
- Kiểm nghiệm T – test, kiểm nghiệm ANOVA, hệ số tương quan Pearson…
Mức ý nghĩa thống kê: khoảng tin cậy 95%, α = 0.05
Chương 3: KẾT QUẢ THỰC TRẠNG KỸ NĂNG HOẠT ĐỘNG NHÓM
TRONG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
3.1 Mức độ nhận thức của SV về KN HĐN trong học tập
3.1.1 Mức độ hiểu biết chung của SV về KN HĐN trong học tập
Nhận thức rõ ràng đầy đủ về KN HĐN sẽ giúp SV chủ động tích cực tham gia và học
nhóm hiệu quả.
Bảng 3.1 Mức độ hiểu biết của SV về KN HĐN
Stt Mứ c độ Tần số Tỷ lệ (%)
1 Hoàn toàn không biết 1 0.3
2 Không biết 5 1.7
3 Biết một chút 160 55.7
4 Biết nhiều 109 38.0
5 Biết rất nhiều 12 4.2
ĐTB = 3.44
0.3 1.7
55.7
38
4.2
0
10
20
30
40
50
60Tỷ lệ %
Hoàn toàn
không biết
không biết biết một chút Biết nhiều Biết rất nhiều
Biểu đồ 3.1 Mức độ hiểu biết của SV về KN HĐN
Kết quả khảo sát ở bảng 3.1 cho thấy có 42.2 % SV chọn mức biết nhiều và biết rất nhiều
về KN HĐN. Mức độ biết một chút được 160 SV lựa chọn, chiếm 55.7%. Số SV không biết
hoặc hoàn toàn không biết chiếm rất ít 2%.
Như vậy, đa số SV đã có hiểu biết về KN HĐN trong học tập nhưng chỉ ở mức trung bình.
Với môi trường học tập khác hẳn bậc phổ thông, môi trường học tập ở đại học phát huy tối đa
năng lực tự học, tự nghiên cứu, khả năng ứng xử giao tiếp của người học, SV bắt đầu làm quen
với cách làm việc theo nhóm, một trong những cách thức dạy và học đặc trưng ở đại học. Học
nhóm khhông đơn thuần là ngồi cạnh nhau rồi tự mỗi người giải quyết nhiệm vụ học tập của
riêng mình, mà SV phải tự trang bị cho mình một số KN cần thiết như KN làm việc chung với
người khác, KN trình bày, KN lắng nghe, KN tìm kiếm và xử lý thông tin... Khi mỗi thành viên
đã có KN, học nhóm trở thành môi trường học tập hợp tác, năng động, tích cực và hiệu quả.
Việc tổ chức dạy học trên lớp trong đào tạo tín chỉ buộc SV phải làm việc nhóm, vì vậy SV
phải có sự hiểu biết nhất định về KN này. Nhưng với mức độ hiểu biết về KN HĐN chỉ đạt mức
trung bình, điều này sẽ ảnh hưởng đến tính tự giác, tích cực và độc lập của SV trong quá trình
tham gia HĐN, do đó KN HĐN sẽ không được rèn luyện thường xuyên và kết quả học tập của
SV cũng hạn chế.
3.1.2 Mức độ hiểu biết của SV đối với các KN bộ phận của KN HĐN trong học tập
Nhẳm tìm hiểu sâu hơn về mức độ hiểu biết của SV về từng KN HĐN trong học tập, chúng
tôi đưa ra hệ thống gồm 5 KN cơ bản và đề nghị SV tự đánh giá theo 5 mức độ biểu hiện.
Dưới đây là kết quả tự đánh về mức độ hiểu biết của SV đối với các KN bộ phận của KN
HĐN.
Bảng 3.2 Mức độ hiểu biết của SV đối với các KN bộ phận của KN HĐN
Stt Kỹ năng Hoạt động nhóm ĐTB ĐLTC Thứ hạng
1 KN Lắng nghe 3.68 0.682 1
2 KN Thuyết trình 3.34 0.725 4
3 KN Thảo luận 3.48 0.694 3
4 KN Giải quyết vấn đề 3.23 0.659 5
5 KN Hợp tác, chia sẻ 3.50 0.743 2
ĐTB = 3.44
3.68
3.34
3.48
3.23
3.5
3
3.1
3.2
3.3
3.4
3.5
3.6
3.7
Đ
iểm
trung bình
KN Lắng
nghe
KN Thuyết
trình
KN Thảo luận KN Giải quyết
vấn đề
KN Hợp tác,
chia sẻ
Biểu đồ 3.2 Mức độ hiểu biết của SV đối với các KN bộ phận của KN HĐN
Kết quả ở bảng 3.2 cho thấy ĐTB của từng KN HĐN do SV tự đánh giá từ 3.23 đến 3.68,
ĐTB chung của 5 KN là 3.44. Kết quả này tương đương với kết quả điều tra ở trên về mức độ
nhận thức chung về KN HĐN là 3.44. Như vậy, nhận thức các KN bộ phận của KN HĐN của
SV cũng chỉ ở mức trung bình.
Đối với các KN bộ phận của HĐN, KN lắng nghe được SV chọn có ĐTB cao nhất là 3.68,
nghĩa là SV biết tương đối nhiều về KN lắng nghe. Lắng nghe không chỉ là KN cần có khi
HĐN mà lắng nghe còn là KN cơ bản trong quá trình giao tiếp, vì vậy SV đã có hiểu biết và
tích lũy kinh nghiệm về cách lắng nghe từ cuộc sống.
Kế đến là KN hợp tác chia sẻ ĐTB = 3.50 và KN thảo luận ĐTB = 3.48, KN thuyết trình
có ĐTB = 3.34 và KN có ĐTB thấp nhất là KN giải quyết vấn đề 3.23. Mức độ lựa chọn của
SV đối với các KN này chỉ ở mức trung bình, SV có hiểu biết về các KN này nhưng chưa sâu
sắc, hoàn thiện. Điều này cho thấy, tuy môi trường giáo dục đã thay đổi nhưng SV chưa được
“dạy cách học – học cách học” nhứ thế nào để môi trường đại học thật sự là nơi hình thành cho
SV phong cách năng động, độc lập, sáng tạo, linh hoạt trong nhận thức và hành động; biết mềm
hóa tư duy để giải quyết các tình huống đa chiều.
Khi được hỏi về các KN HĐN này, SV cho rằng có nghe nói, có biết về các KN này nhưng
không được trang bị một cách “bài bản” mà chủ yếu các em tự học hỏi trong quá trình học tập
của mình. SV cũng cho rằng, GV ít tổ chức cho SV làm việc nhóm, nội dung chương trình học
nặng nề... không đủ thời gian để thầy và trò cùng chia sẻ, để SV tự rút ra kết luận, tự mình phân
tích và giải quyết vấn đề, SV ít có cơ hội được trình bày quan điểm, ý kiến của mình trước lớp.
Phải chăng phương pháp dạy học theo lối áp đặt “ thầy đọc trò chép, thầy cô nói hết…”, SV chỉ
nghe, ghi nhớ và tái hiện nên họ không có nhiều cơ hội tự mình tìm hiểu, trình bày vấn đề theo
quan điểm riêng, khám phá và giải quyết nhiệm vụ học tập theo cách của mình.
3.1.3 Mức độ đánh giá của SV về vai trò KN HĐN trong học tập
Kết quả cho thấy ở bảng 3.3 cho thấy tỷ lệ SV đánh giá cao tầm quan trọng của KN HĐN
trong học tập, cụ thể như sau:
Bảng 3.3. Mức độ đánh giá của SV về vai trò KN HĐN
Stt Vai trò của KN HĐN Tần số Tỷ lệ (%)
1 Hoàn toàn không quan trọng 1 0.3
2 Không quan trọng 1 0.3
3 Bình thường 22 7.7
4 Quan trọng 146 50.9
5 Rất quan trọng 117 40.8
ĐTB = 4.38
0.3 0.3
7.7
50.9
40.8
0
10
20
30
40
50
60Tỷ lệ %
Hoàn toàn
không quan
trọng
Không quan
trọng
Bình thường Quan trọng Rất quan
trọng
Biểu đồ 3.3. Mức độ đánh giá của SV về vai trò KN HĐN
Có 263 SV chọn mức rất quan trọng và quan trọng chiếm 91.7 %. Khi tham gia học theo
nhóm, SV đã nhận thức rõ nếu không có KN, mọi người khó có thể làm việc chung với nhau.
Vì để giải quyết nhiệm vụ học tập của nhóm, mỗi người phải ý thức được vai trò và trách nhiệm
của mình là gì? Nếu không, học nhóm chỉ là “hình thức”, kết quả là không hoàn thành được
nhiệm vụ học tập và nhóm cũng có nguy cơ “ tan rã ”.
Có ít SV chọn mức độ bình thường chiếm 7.7% và rất ít SV cho rằng KN HĐN không
quan trọng chiếm 1%, có nghĩa hầu như SV đã khẳng định muốn HĐN hiệu quả thì bản thân
họ cần phải có KN HĐN.
Qua phỏng vấn, SV cũng cho rằng ngày nay khi phương pháp dạy học thay đổi nhằm nâng
cao tính chủ động, sáng tạo, nâng cao năng lực tự học, tự nghiên cứu...thì học nhóm đối với SV
là điều tất yếu. Nhưng nếu học theo nhóm, mà bản thân SV lại không biết cách hòa nhập với
mọi người, không biết cách trình bày ý tưởng hay không biết chấp nhận và lắng nghe người
khác…thì cũng không thể phát huy tối đa vai trò chủ động tích cực của mình. SV cần được dạy
về các KN HĐN trong học tập.
3.1.4 Ý thức của SV đối với việc rèn luyện KN HĐN
Chúng tôi tìm hiểu mức độ quan tâm của SV đến việ rèn luyện KN HĐN trong học tập, các
lựa chọn được thiết lập trên thang đo 5 mức độ. Kết quả được biểu hiện ở bảng 3.4
Bảng 3.4 Mức độ quan tâm rèn luyện của SV đối với KN HĐN
Stt Mức độ Số lượng Tỷ lệ %
1 Rất quan tâm 45 15.7
2 Quan tâm 183 63.8
3 Đôi khi 53 18.5
4 Không quan tâm 6 2.1
5 Hoàn toàn không quan tâm 0 0
ĐTB = 3.93
Kết quả khảo sát ở bảng 3.4 chứng tỏ SV rất tích cực trong việc rèn luyện KN cần thiết để
tham gia học nhóm hiệu quả. Có 79.5% SV được hỏi đã rất quan tâm và quan tâm đến việc rèn
luyện KN, chỉ có 28.5% đôi khi quan tâm và 2.1% SV cho rằng mình không quan tâm đến việc
rèn luyện KN HĐN. ĐTB của thang đo là 3.93, điều này khẳng định SV quan tâm đến việc rèn
luyện KN HĐN ở mức cao.
Qua trò chuyện, một số SV cho biết rất lúng túng và khó khăn khi lần đầu tham gia học
theo nhóm, do không biết phải bắt đầu như thế nào, tiến hành ra sao? làm gì và làm như thế
nào? Trong quá trình làm việc chung, có không ít trường hợp mang tiếng “học theo nhóm”
nhưng chỉ có duy nhất một thành viên làm việc, hay không ai chịu nghe ai, các thành viên đùn
đẩy trách nhiệm…khiến cho HĐN trở nên phản tác dụng. Vì vậy, SV quan tâm đến việc rèn
luyện KN HĐN là điều tất yếu, bởi chính KN là yếu tố cần thiết để HĐN trong học tập trở nên
chất lượng và hiệu quả.
Ngoài ra, SV cũng cho rằng rèn luyện KN HĐN còn giúp họ phát triển các KN mềm, nâng
cao tinh thần tự giác và trách nhiệm bản thân, phát triển quan hệ bạn bè…Có được các KN này
sẽ giúp SV khẳng định vị trí của mình trong giao tiếp với mọi người, đồng thời giúp SV tự tin
vào bản thân, duy trì tính tích cực nhận thức trong học tập.
3.1.5 Mức độ hiểu biết của SV đối với KN HĐN trong học tập giữa các khoa, năm và
giới tính
3.1.5.1 Mức độ hiểu biết của SV đối với KN HĐN nói chung theo khoa, năm và giới
tính
Bảng 3.5 Mức độ hiểu biết của SV đối với KN HĐN nói chung
Khoa Năm Giới tính Nhóm SV
Tự nhiên Xã hội I III Nam Nữ
ĐTB 3.44 3.43 3.38 3.49 3.42 3.46
T-test -1.492 0.168 -0.597
P. 0.09 0.420 0.478
Kết quả kiểm nghiệm T-test ở bảng 3.5 cho thấy không có sự khác biệt giữa SV khoa Tự
nhiên và khoa Xã hội, giữa SV năm I và SV năm III, giữa SV nam và SV nữ về mức độ hiểu
biết đối với KN HĐN nói chung.
Không có sự khác biệt về mức độ hiểu biết về KN HĐN giữa SV năm I và SV năm III là
điều đáng quan tâm. Qua tìm hiểu, SV năm III cho rằng họ chưa được tiếp cận nhiều với hình
thức dạy và học theo nhóm, SV chưa được tham gia các lớp bồi dưỡng về KN này. SV chia sẻ
thêm, nếu GV tổ chức cho các em học nhóm, hầu như thầy cô không hướng dẫn học nhóm như
thế nào, phân công nhiệm vụ cụ thể ra sao? tìm kiếm tài liệu tham khảo, xử lý thông tin sao cho
hiệu quả ? Vì vậy, khi HĐN, SV chủ yếu dựa vào nhận thức và kinh nghiệm của bản thân, nên
không phải học theo nhóm lúc nào cũng chất lượng và hiệu quả. Ngoài ra, nhà trường cũng
chưa có nhiều hoạt động ngoại khóa thật sự bổ ích nhằm giúp SV có cơ hội trau dồi và rèn
luyện KN HĐN.
3.1.5.2 Mức độ hiểu biết của SV đối với các KN bộ phận của KN HĐN trong học tập
theo khoa, năm và giới tính
a. So sánh theo khoa
Bảng 3.6 Mức độ hiểu biết của SV đối với các KN bộ phận của HĐN theo khoa
Khoa Tự nhiên Khoa Xã hội
Stt Các Kỹ năng HĐN ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC T P.
1 Lắng nghe 3.63 0.686 3.74 0.674 -1.313 0.562
2 Thuyết trình 3.36 0.744 3.31 0.700 0.533 0.429
3 Thảo luận 3.46 0.706 3.51 0.679 -0.596 0.944
4 Giải quyết vấn đề 3.28 0.698 3.16 0.614 1.504 0.014*
5 Hợp tác, chia sẻ 3.51 0.758 3.49 0.725 0.275 0.533
(*: có sự khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê với mức α = 0.05)
Kết quả kiểm nghiệm T - test: có sự khác biệt giữa SV khoa Tự nhiên và khoa Xã hội về
mức độ hiểu biết của KN giải quyết vấn đề. ĐTB của KN giải quyết vấn đề cho thấy mức độ
hiểu biết về KN giải quyết vấn đề của SV khoa TN cao hơn SV khoa XH.
b. So sánh theo năm học
Bảng 3.7 Mức độ hiểu biết của SV đối với các KN bộ phận của KN HĐN theo năm học
Năm I Năm III
Stt Các Kỹ năng HĐN ĐTB ĐLTC ĐTB ĐLTC T P.
1 Lắng nghe 3.63 0.679 3.72 0.683 -1.143 0.398
2 Thuyết trình 3.20 0.691 3.46 0.734 -3.028 0.007*
3 Thảo luận 3.51 0.691 3.46 0.698 0.528 0.954
4 Giải quyết vấn đề 3.18 0.647 3.27 0.669 -1.140 0.338
5 Hợp tác, chia sẻ 3.43 0.699 3.56 0.777 -1.474 0.143
(* : có sự khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê với mức α = 0.05)
Kiểm nghiệm T – test cho thấy có sự khác biệt về mức độ hiểu biết giữa SV năm I và SV
năm III đối với KN thuyết trình.
Dựa vào ĐTB của SV năm III (ĐTB=3.46) cao hơn SV năm I (ĐTB=3.20), có nghĩa SV
năm III biết nhiều về KN thuyết trình. Đối với SV năm III, các em có khoảng thời gian tương
đối dài học tập ở môi trường đại học, điều đó giúp các em có hiểu biết nhất định về KN thuyết
trình.
Hơn nữa, các em phải chuẩn bị cho đợt thực tập sư phạm đầu tiên để trở thành giáo viên
thực sư, vì thế SV năm III ý thức cần phải trang bị kiến thức và rèn luyện KN giảng bài làm sao
cho học sinh dễ hiểu, chủ động và tự tin khi đứng trước tập thể... Điều này phù hợp với kết quả
khảo sát ý thức rèn luyện KN HĐN trong học tập của SV.
c. So sánh theo giới tính
Bảng 3.8 Mức độ hiểu biết của SV đối với các KN bộ phận của KN HĐN theo giới tính
Nam Nữ
Stt Các Kỹ năng HĐN ĐTB ĐLTC ĐTB ĐLTC T P.
1 Lắng nghe 3.72 0.675 3.64 0.688 0.935 0.316
2 Thuyết trình 3.39 0.780 3.29 0.669 1.256 0.050
3 Thảo luận 3.55 0.717 3.42 0.668 1.648 0.279
4 Giải quyết vấn đề 3.29 0.719 3.17 0.595 1.613 0.001*
5 Hợp tác, chia sẻ 3.53 0.805 3.48 0.683 0.518 0.077
(*: có sự khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê với mức α = 0.05)
Kiểm nghiệm T – test ở bảng 3.8 cho thấy có sự khác biệt giữa SV nam và SV nữ về mức
độ nhận thức của KN giải quyết vấn đề. ĐTB của KN giải quyết vấn đề của nam (3.29) cao hơn
nữ (3.17), nói lên mức độ hiểu biết của SV nam về KN giải quyết vấn đề cao hơn nữ. Qua trò
chuyện với các SV nữ, các em có phần thận trọng hơn, hay e dè ngại ngùng, vẫn còn tâm lý cả
nể, sợ người khác không hài lòng nếu phải đưa ra quyết định cuối cùng để giải quyết nhiệm vụ
chung của nhóm nên hay tìm cách tránh né. Khác với SV nữ, các bạn nam luôn nhìn nhận vấn
đề đơn giản và mạnh dạn đưa ra quyết định của mình khi cần giải quyết nhiệm vụ học tập của
nhóm.
Như vậy:
- Nhìn chung, mức độ hiểu biết của SV về KN HĐN nói chung và mức độ hiểu biết các
KN bộ phận của KN HĐN ở mức trung bình.
- Có sự khác biệt về mức độ hiểu biết giữa SV khoa Tự nhiên và SV khoa Xã hội, giữa SV
nam và SV nữ đối với KN giải quyết vấn đề.
- Đối với KN thuyết trình, có sự khác biệt mức độ hiểu biết giữa SV năm I và SV năm III.
3.2 Thực trạng mức độ biểu hiện của SV đối với các KN bộ phận của KN HĐN trong
học tập
3.2.1 Mức độ biểu hiện của SV đối với các KN bộ phận của KN HĐN trong học tập
Để tìm hiểu mức độ biểu hiện của SV đối các KN bộ phận của KN HĐN trong học tập,
chúng tôi yêu cầu SV tự đánh giá mức độ biểu hiện thích hợp của mình khi tham gia HĐN.
Kết quả khảo sát ở bảng 3.9 cho thấy:
Đối với các KN bộ phận của KN HĐN trong học tập, SV có khuynh hướng biểu hiện ở
mức cao, tuy còn một vài hạn chế nhất định.
KN hợp tác chia sẻ được SV biểu hiện tốt nhất trong các KN bộ phận của KNHĐN, xếp
thứ hai là KN giải quyết vấn đề, mức độ biểu hiện KN lắng nghe của SV xếp thứ ba, xếp thứ tư
là KN thảo luận. KN thuyết trình của SV có mức độ biểu hiện thấp nhất trong các KN HĐN.
Bảng 3.9 Mức độ biểu hiện của SV đối với các KN bộ phận của KN HĐN
Stt Các KN HĐN ĐTB Thứ hạng
1 Lắng nghe 3.71 3
2 Thuyết trình 3.57 5
3 Thảo luận 3.60 4
4 Giải quyết vấn đề 3.75 2
5 Hợp tác chia sẻ 3.79 1
ĐTB ĐH = 3.68
3.71
3.57
3.6
3.75
3.79
3.45
3.5
3.55
3.6
3.65
3.7
3.75
3.8Đ
iểm
trung bình
Lắng nghe Thuyết trình Thảo luận Giải quyết
vấn đề
Hợp tác chia
sẻ
Biểu đồ 3.9 Mức độ biểu hiện của SV đối với các KN bộ phận của KN HĐN
Nhằm làm rõ và giải thích nguyên nhân mức độ biểu hiện của các KN HĐN của SV, chúng
ta phân tích kết quả cụ thể biểu hiện từng KN bộ phận của KN HĐN trong học tập dưới đây:
a. Kỹ năng lắng nghe
Bảng 3.10 Mức độ biểu hiện KN Lắng nghe của SV
Biểu hiện ĐTB ĐLTC Thứ hạng
1. Tôi nhìn người nói 4.16 0.727 1
2. Tôi hướng về phía người nói 4.11 0.772 2
3. Tôi nghe với tư thế thoải mái, không gò bó hay
bắt buộc 4.11 0.801 3
4. Tôi ngừng nói 4.06 0.690 4
5. Tôi suy nghĩ về những điều đã nghe được 3.78 0.699 5
6. Tôi chú ý đến ngôn ngữ không lời (cảm xúc, cử
chỉ, điệu bộ…) của người nói 3.71 0.858 6
7. Tôi làm việc riêng (đọc báo, nói chuyện…)* 3.70 0.795 7
8. Tôi nhớ những thông tin cơ bản, cần thiết 3.67 0.727 8
Biểu hiện ĐTB ĐLTC Thứ hạng
9. Tôi thể hiện sự chú ý bằng cách “gật đầu” hoặc
nói “vâng, đúng rồi, tôi hiểu, ừm…” 3.65 1.016 9
10. Tôi không đưa ra ý kiến, nhận xét của mình khi
chưa nghe hết thông tin 3.56 0.902 10
11. Tôi biểu hiện nét mặt thích hợp thể hiện sự
đồng cảm với người nói 3.55 0.902 11
12. Tôi chỉ đặt câu hỏi làm rõ ý khi cần thiết 3.54 0.756 12
13. Tôi tập trung chú ý ngay cả khi tôi bất đồng
quan điểm với họ 3.52 0.884 13
14. Tôi không ngắt lời người nói nếu họ nói quá dài
hay nhàm chán 3.31 0.989 14
15. Tôi ghi lại những thông tin cơ bản 3.25 0.868 15
ĐTB điều hòa của thang đo KN lắng nghe 3.71
Ghi chú: * Là những câu có điểm được mã hóa lại cho phù hợp với thang đo.
Kết quả bảng 3.10 cho thấy mức độ biểu hiện về KN lắng nghe của SV tương đối cao với
ĐTB điều hòa là 3.71. Trong quá trình học nhóm, SV đã có khuynh hướng thường xuyên thể
hiện sự lắng nghe của mình đối với các thành viên của nhóm. Kết quả này cho thấy có sự phù
hợp với nhận thức về KN lắng nghe của SV (ĐTB = 3.68), SV cho rằng mình biết nhiều về KN
lắng nghe và qua khảo sát thực tế, các em đã có biểu hiện khá tốt.
Trong KN lắng nghe, biểu hiện có ĐTB cao nhất là “tôi nhìn người nói”, “tôi hướng về
phía người nói”, “tôi nghe với tư thế thoải mái, không gò bó hay bắt buộc” (ĐTB từ 4.11 đến
4.16). Khi các thành viên của nhóm trình bày, SV có khuynh hướng thường xuyên hướng về
phía người nói. Mặt khác, SV cho rằng nếu miễn cưỡng ngồi nghe người khác nói, các em sẽ
nghe một cách thờ ơ, giả vờ, nghe nhưng mà không hiểu người khác nói gì, không nắm bắt
thông tin và có thái độ bất hợp tác với nhóm.
Tiếp đến là biểu hiện “tôi ngừng nói” chỉ xếp thứ 4 (ĐTB = 4.06), đây lại là biểu hiện đầu
tiên, quan trọng nhất thể hiện mình là người biết lắng nghe. Vì việc đầu tiên khi bắt đầu lắng
nghe là chúng ta phải ngừng nói. Chúng ta không thể lắng nghe trong khi chúng ta đang nói,
đây là biểu hiện rất khó thực hiện vì chúng ta thường có khuynh hướng thích “nói nhiều hơn
nghe”.
Các yếu tố “tôi suy nghĩ về những điều đã nghe được”, “tôi chú ý đến ngôn ngữ không lời
của người nói”, “tôi nhớ những thông tin cơ bản, cần thiết”, “tôi thể hiện sự chú ý bằng cách gật
đầu..”, “tôi không đưa ra ý kiến nhận xét của mình khi chưa nghe hết thông tin”, “tôi biểu hiện
nét mặt thích hợp thể hiện sự đồng cảm với người nói”, “tôi chỉ đặt câu hỏi làm rõ khi cần
thiết” và biểu hiện “tôi tập trung chú ý ngay cả khi tôi bất đồng quan điểm với họ” đều được
SV lựa chọn trên mức trung bình, cho thấy SV thực hiện khá thường xuyên các yếu tố trên khi
tham gia hoạt động nhóm. Khi lắng nghe, SV đã biết chú ý quan sát cử chỉ, điệu bộ của người
nói để hiểu chính xác thông điệp của họ, thể hiện sự đồng cảm với người nói, từ đó đưa ra
những phản hồi chính xác.
“Tôi làm việc riêng” có ĐTB là 3.70, nghĩa là SV có khuynh hướng thường xuyên không
làm việc riêng khi tham gia HĐN, SV có thái độ tôn trọng các thành viên trong nhóm.
Biểu hiện có điểm trung bình thấp nhất trong thang đo KN lắng nghe là “tôi ghi lại những
thông tin cơ bản” (ĐTB = 3.25). Như vậy, khi lắng nghe, SV chưa có thói quen cần phải ghi lại
những thông tin cơ bản, đây là biểu hiện khá quan trọng khi lắng nghe người khác. Lắng nghe
là để nắm bắt và hiểu được thông điệp của người khác, nhưng khi lượng thông tin quá lớn và
không đủ thời gian ..thì việc ghi chú lại các thông tin là rất cần thiết. Biểu hiện “không ngắt lời
người nói nếu họ nói quá dài hay nhàm chán” (ĐTB=3.31) cũng được SV chọn ở mức trung
bình, nghĩa là thỉnh thoảng SV mới thực hiện. Biết lắng nghe đã khó, nhưng tỏ thái độ tôn trọng
người nói bằng cách không ngắt lời họ thì càng khó hơn, đòi hỏi chúng ta phải kiên nhẫn và
thường xuyên luyện tập.
b. Kỹ năng thuyết trình
Bảng 3.11 Mức độ biểu hiện KN thuyết trình của SV
Biểu hiện ĐTB ĐLTC Thứ hạng
1. Tôi xác định rõ mục đích, nội dung 4.13 0.693 1
2. Tôi thu thập thông tin, tài liệu có liên quan 4.10 0.736 2
3. Tôi đi thẳng vào nội dung chính, không lan man
dài dòng 3.83 0.700 3
4. Tôi nói với âm lượng vừa đủ để các thành viên
có thể nghe rõ 3.79 0.690 4
5. Tôi phát âm rõ ràng, chính xác 3.76 0.781 5
6. Tôi sử dụng ngôn ngữ không lời phù hợp (nét
mặt, nụ cười, cử chỉ, trang phục…) 3.71 0.866 6
7. Tôi nhấn mạnh các ý quan trọng 3.67 0.855 7
8. Tôi khái quát nội dung trình bày 3.65 0.787 8
9. Tôi chọn vị trí thích hợp để các thành viên có thể
nghe và nhìn thấy tôi 3.62 0.911 9
10. Tôi lập dàn ý chi tiết 3.54 0.831 10
11. Tôi đưa ra nhiều chứng cứ, ví dụ minh họa 3.49 0.761 11
12. Tôi trình bày nội dung một cách logic, mạch lạc 3.48 0.704 12
13. Tôi tóm tắt lại ý chính trước khi kết thúc 3.47 0.852 13
14. Tôi nhìn vào giấy và đọc một mạch mà không
chú ý đến thái độ của người nghe* 3.44 0.854 14
15. Tôi trình bày tự nhiên, thoải mái, cởi mở… 3.43 0.862 15
16. Tôi tiếp xúc bằng mắt với người nghe 3.39 0.916 16
17. Tôi chuẩn bị sẵn các câu hỏi sẽ hỏi hoặc có thể
được hỏi 3.36 0.840 17
18. Tôi nói với giọng đều đều, tẻ nhạt* 3.26 0.827 18
19. Tôi trình bày một cách sinh động, biểu cảm 3.23 0.801 19
20. Tôi dừng lại đặt câu hỏi một cách hợp lý 3.05 0.855 20
ĐTB điều hòa của thang đo KN thuyết trình 3.57
Ghi chú: *Là những câu có điểm được mã hóa cho phù hợp với thang đo.
Kết quả khảo sát cho thấy mức độ biểu hiện của KN thuyết trình của SV ở mức cao (ĐTB
ĐH = 3.57). Như vậy, SV có chiều hướng tích cực, thực hiện thường xuyên và đầy đủ các thao
tác cần thiết khi được phân công thuyết trình. So với mức độ đánh giá hiểu biết của mình về
KN thuyết trình (ĐTB=3.34), khi tham gia HĐN, SV có khuynh hướng trình bày tốt hơn.
Hai biểu hiện có ĐTB cao nhất là “tôi xác định rõ mục đích nội dung” (1) và “tôi thu thập
thông tin, tài liệu có liên quan” (2), cho thấy SV thường xuyên chuẩn bị cho phần thuyết trình.
Qua trò chuyện, SV chia sẻ kinh nghiệm, nếu không xác định mục đích rõ ràng ngay từ đầu sẽ
không biết phải chuẩn bị như thế nào, do đó dễ rơi vào tình trạng nói lan man, dài dòng nhưng
không đi vào trọng tâm nội dung cần trình bày trước nhóm.
Kế đến là các biểu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVTLH019.pdf