Luận văn Kỹ năng hoạt động nhóm trong học tập của sinh viên trường đại học Sài Gòn

Tài liệu Luận văn Kỹ năng hoạt động nhóm trong học tập của sinh viên trường đại học Sài Gòn: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Lê Ngọc Huyền KỸ NĂNG HOẠT ĐỘNG NHÓM TRONG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN Chuyên ngành: Tâm lý học Mã số: 60 31 80 LUẬN VĂN THẠC SỸ TÂM LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN THỊ TỨ Thành phố Hồ Chí Minh - 2010 LỜI CẢM ƠN Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến Tiến sỹ Nguyễn Thị Tứ, người đã luôn tận tình hướng dẫn, động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Tôi xin chân thành cảm ơn: - Ban Giám Hiệu, các Phòng ban, các Khoa, quý Thầy Cô, các đồng nghiệp và các bạn sinh viên trường Đại học Sài Gòn đã tạo điều kiện, nhiệt tình hỗ trợ và tích cực tham gia cùng chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài. - Quý Thầy, Cô đã giảng dạy, hướng dẫn, góp ý khoa học cho lớp cao học tâm lý K. 18 và các anh chị cùng khóa học, người thân đã động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập cũng như khi thực hiện luận văn này. Lê Ngọc Huyền ...

pdf85 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1627 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Kỹ năng hoạt động nhóm trong học tập của sinh viên trường đại học Sài Gòn, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Lê Ngọc Huyền KỸ NĂNG HOẠT ĐỘNG NHÓM TRONG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN Chuyên ngành: Tâm lý học Mã số: 60 31 80 LUẬN VĂN THẠC SỸ TÂM LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN THỊ TỨ Thành phố Hồ Chí Minh - 2010 LỜI CẢM ƠN Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến Tiến sỹ Nguyễn Thị Tứ, người đã luôn tận tình hướng dẫn, động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Tôi xin chân thành cảm ơn: - Ban Giám Hiệu, các Phòng ban, các Khoa, quý Thầy Cô, các đồng nghiệp và các bạn sinh viên trường Đại học Sài Gòn đã tạo điều kiện, nhiệt tình hỗ trợ và tích cực tham gia cùng chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài. - Quý Thầy, Cô đã giảng dạy, hướng dẫn, góp ý khoa học cho lớp cao học tâm lý K. 18 và các anh chị cùng khóa học, người thân đã động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập cũng như khi thực hiện luận văn này. Lê Ngọc Huyền DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT ĐHSG : Đại học Sài Gòn ĐLC : Độ lệch chuẩn ĐTB : Điểm trung bình GV : Giáo viên HĐN : Hoạt động nhóm KN : Kỹ năng P. : Mức ý nghĩa T – Test : Trị số kiểm nghiệm T SV : Sinh viên MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong xã hội hiện nay, với sự toàn cầu hóa ngày càng gia tăng, khoa học kỹ thuật phát triển, khối lượng kiến thức của nhân loại càng gia tăng thì yêu cầu làm việc theo nhóm là một xu thế làm việc rất phát triển và hiệu quả trong mọi lĩnh vực hoạt động. Bởi lẽ ngày nay không ai có thể tự mình nắm vững tất cả các thông tin của mọi lĩnh vực, điều đó có nghĩa không phải công việc nào, vấn đề nào hay tình huống nào…chúng ta đều có thể tự mình giải quyết hiệu quả. Vì vậy, làm việc theo nhóm hay hoạt động cùng nhau trong nhóm giúp ta tập trung sức mạnh của nhiều người nhằm đảm bảo tính hiệu quả của công việc, phát huy tối đa năng lực của cá nhân, tìm ra giải pháp để giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng…Nhóm không chỉ là môi trường giúp cho cá nhân phát triển mà nó còn là công cụ đổi mới và phát triển xã hội. Giáo sư Viện sĩ Phạm Minh Hạc đã nói: “ Nhà trường hiện đại ngày nay là nhà trường hoạt động, dùng phương pháp hoạt động… Hoạt động cùng nhau, hoạt động hợp tác giữa thầy và trò, giữa trò và trò…có tác dụng rất lớn”. Nhà trường hiện nay phải coi trọng việc tổ chức cho học sinh – sinh viên hoạt động độc lập theo nhóm. HĐN trong và ngoài giờ học là hoạt động thiết thực, giúp SV tham gia tích cực vào quá trình học tập, giúp họ nắm vững và đào sâu tri thức, biết lắng nghe và học cách suy nghĩ về những ý kiến, quan điểm khác nhau của mọi người, biết chia sẻ kinh nghiệm, đưa ra ý kiến và cùng nhau giải quyết những vấn đề chung. HĐN là nơi mọi người thỏa mãn nhu cầu học hỏi, khuyến khích sự độc lập, tự chủ, thái độ có trách nhiệm, kích thích tinh thần hợp tác, giúp SV nâng cao và chia sẻ nhận thức của mình. HĐN còn phát huy sức mạnh tập thể: công việc được hoàn thành nhanh hơn, tốt hơn, sáng tạo hơn và phong phú hơn, nâng cao khả năng làm việc của từng cá nhân, phát huy tối đa ưu thế của mỗi người. Với quan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm: phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học nghĩa là phải thay đổi vai trò của người thầy và cách học của SV. Nếu trước kia, vai trò chính của thầy là truyền đạt kiến thức còn trò là người tiếp thu kiến thức chủ yếu từ thầy một cách thụ động, thì ngày nay vai trò chủ yếu của thầy là tổ chức, hướng dẫn SV học, người học phải là chủ thể tự giác tích cực, chủ động để chiếm lĩnh tri thức, hình thành KN. Chính người học phải tự thể hiện mình và hợp tác với bạn, học từ bạn và xã hội hóa việc học của mình. Ngày này, dạy học quan trọng không phải là truyền đạt cho SV bao nhiêu kiến thức, mà là trang bị cho SV khả năng tự thu nhận kiến thức, hình thành cho họ các KN thực hành, tư duy phê phán và sáng tạo, năng lực tự giải quyết vấn đề, KN giao tiếp, KN làm việc nhóm…Vì thế, dạy học phải thông qua các tổ chức hoạt động của người học. Hơn nữa, trong học tập, không phải mọi tri thức kỹ năng thái độ đều được hình thành bằng con đường hoạt động thuần túy cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp giữa thầy – trò, trò – trò tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường đi tới chân lý. Hoạt động học tập được tiến hành theo nhóm sẽ làm cho từng thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội, tính cách của mỗi cá nhân được bộc lộ, được uốn nắn; phát triển tình bạn, ý thức kỹ luật, tinh thần tương trợ, ý thức cộng đồng…nhờ đó mà hiệu quả học tập sẽ tăng lên, bài học vận dụng được vốn hiểu biết và kinh nghiệm của mỗi cá nhân và của cả lớp. Hiệu quả của “HĐN trong học tập” là không thể phủ nhận, nhưng không phải SV nào cũng đạt kết quả cao khi học và làm việc theo nhóm, thậm chí ít hiệu quả hơn so với làm việc cá nhân. Vì chất lượng HĐN còn phụ thuộc bởi nhiều yếu tố như: môi trường học tập, vốn sống, kinh nghiệm, trình độ nhận thức và kiến thức về HĐN…của bản thân SV, song quan trọng nhất là SV phải có KN HĐN. KN HĐN sẽ giúp SV biết cách học và cách làm việc theo nhóm, nâng cao chất lượng học tập và hình thành các KN xã hội cần thiết. Vì vậy, SV cần được trang bị KN HĐN khi bắt đầu bước chân vào Đại học, điều này hoàn toàn phù hợp với xu hướng dạy học hiện nay là dạy học theo nhóm. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy tại các trường đại học dường như chưa quan tâm đúng mức đến việc hình thành và rèn luyện KN HĐN cho SV, điều này ảnh hưởng nhất định đến chất lượng đào tạo và kết quả học tập của SV. Trong những năm gần đây, mặc dù đã có một số công trình nghiên cứu về KN học tập của SV như “Nghiên cứu kỹ năng tự học trên lớp của sinh viên sư phạm” của Nguyễn Thị Bích Hạnh, “Khảo sát và đánh giá một số kỹ năng tương tác trong tổ chức của sinh viên khoa sư phạm trường Đại học Tiền Giang” của Lê Tấn Huỳnh Cẩm Giang…nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể về KN HĐN trong học tập của SV. Từ cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Kỹ năng hoạt động nhóm trong học tập của sinh viên trường Đại học Sài Gòn”. 2. Mục đích nghiên cứu Khảo sát thực trạng biểu hiện KN HĐN trong học tập của SV trường Đại học Sài Gòn, qua đó đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao KN HĐN trong học tập của SV. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Hệ thống hóa những vấn đề về lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu. 3.2 Khảo sát mức độ nhận thức của SV về KN HĐN trong học tập. 3.3 Khảo sát mức độ biểu hiện của SV về KN HĐN trong học tập. 3.4 Tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành KN HĐN trong học tập, trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao KN HĐN cho SV. 4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu: Biểu hiện KN HĐN trong học tập của SV trường ĐHSG. 4.2 Khách thể nghiên cứu: Khách thể nghiên cứu chính là 287 SV trường ĐHSG. 5. Giả thuyết nghiên cứu - Mức độ nhận thức của SV về KN HĐN chưa cao. - Mức độ biểu hiện giữa các KN bộ phận của KN HĐN trong học tập của SV có sự khác biệt. - Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến KN HĐN của SV, trong đó chủ yếu là do cách học của SV còn mang tính đối phó, thụ động…và cách dạy của GV. 6. Phạm vi nghiên cứu 6.1 Phạm vi về nội dung : Khi tham gia HĐN trong học tập, SV phải vận dụng nhiều KN bộ phận. Trong đề tài này, chúng tôi chỉ nghiên cứu thực trạng nhận thức và mức độ biểu hiện của 5 kỹ năng sau: - Kỹ năng lắng nghe - Kỹ năng thuyết trình - Kỹ năng thảo luận - Kỹ năng giải quyết vấn đề - Kỹ năng hợp tác, chia sẻ 6.2 Phạm vi về khách thể nghiên cứu Khách thể nghiên cứu là 287 sinh viên năm 1 và năm 3 khối Sư phạm thuộc khoa Tự nhiên và khoa Xã hội trường ĐHSG được chọn ngẫu nhiên. 7. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng hệ thống phương pháp sau: 7.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận: chủ yếu là phương pháp nghiên cứu tài liệu. 7.2 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi - Phương pháp quan sát - Phương pháp phỏng vấn - Phương pháp thống kê toán học 8. Đóng góp mới của đề tài - Luận văn góp phần làm sáng tỏ lý luận và thực tiễn KN HĐN của SV. - Là cơ sở để đưa ra các biện pháp nhằm phát nâng cao KN HĐN cho SV trong nhà trường. NỘI DUNG Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề 1.1.1 Lịch sử nghiên cứu kỹ năng KN là một trong những yếu tố giúp cho con người hoạt động có hiệu quả. Do đó, vấn đề nghiên cứu KN đã được các nhà tâm lý học nghiên cứu từ lâu dưới nhiều góc độ khác nhau. - Nhà triết học Hy lạp cổ đại Aristot (384-322) đã xem KN như một phẩm chất, một phần phẩm hạnh của con người. Ông cho rằng nội dung phẩm hạnh là “biết định hướng, biết làm việc, biết tìm tòi”. - Thế kỷ 19, các nhà giáo dục học nổi tiếng như J.J Rutxo (Pháp), K.D.Usinxki (Nga), I.A.Kômenxki (Tiệp khắc) cũng đã đề cập đến kỹ năng trí tuệ của học sinh và con đường hình thành KN này. Tuy nhiên, từ thế kỷ 19 trở về trước, vấn đề này chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống. Chỉ bắt đầu từ thế kỷ 20, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật trên toàn thế giới, KN trở thành một trong những lĩnh vực nghiên cứu quan trọng mang ý nghĩa thực tiễn cao. Nhưng nhìn chung, việc nghiên cứu KN xuất phát từ hai quan điểm: - Nghiên cứu KN trên cơ sở của tâm lý học hành vi mà đại diện là các tác giả: J.B. Oatson, B.F.Skiner, E.L.Toocđai, E.Tomen… - Nghiên cứu KN trên cơ sở tâm lý học hoạt động mà đại diên là các nhà tâm lý học Liên xô (cũ). Điểm qua lịch sử nghiên cứu KN của các nhà tâm lý học, giáo dục học Xô viết cho thấy có 2 hướng chính sau: + Hướng thứ nhất: nghiên cứu KN ở mức độ khái quát. Đại diện cho hướng nghiên cứu này có các tác giả: P.Ia.Galperin, P.V.Petropxki, V.X.Cudin, K.K.Platonov…Các tác giả đã đi sâu nghiên cứu bản chất khái niệm KN, các qui luật hình thành và mối liên hệ giữa KN và kỹ xảo. + Hướng thứ hai: nghiên cứu KN ở mức độ cụ thể trong các lĩnh vực khác nhau, như: * Trong lĩnh vực lao động công nghiệp: V.V.Tsebbuseva (1973), V.G.Look (1980), E.A.Milerian (1979)…Các tác giả nghiên cứu KN trong mối quan hệ giữa con người với máy móc, công cụ, phương tiện lao động. * Trong lĩnh vực hoạt động sư phạm: N.D.Lêvitov (1970), X.I. Kixegof (1976), G.X. Kaxchuc (1978), N.A. Menchinxcaia (1978)… * Trong lĩnh vực hoạt động tổ chức: N.V. Cudomina (1976), L.T. Tiuptia (1987)… Mặc dù nghiên cứu KN ở các hướng khác nhau nhưng các tác giả không có những quann điểm trái ngược nhau về khái niệm KN mà những quan điểm đó thường bổ sung cho nhau. 1.1.2 Lịch sử nghiên cứu kỹ năng hoạt động nhóm Trong những thập kỷ gần đây, có nhiều công trình nghiên cứu về KN thuộc các lĩnh vực hoạt động cụ thể được các nhà tâm lý học và giáo dục học Việt Nam quan tâm. Về KN lao động có Trần Trọng Thủy, Nguyễn Tiến Dũng, Đỗ Huân…Về KN sư phạm có Nguyễn Như An, Nguyễn Ngọc Bảo…Về KN giao tiếp có Nguyễn Thạc, Hoàng Anh…Về KN học tập của SV có Hà Thị Đức, Trần Quốc Thành… Cùng với sự thay đổi hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ, vai trò của người học được phát huy tích cực tối đa. Học theo nhóm là một trong những hình thức học tập phát huy tính tích cực của người học, dạy học hướng về người học. Vì thế, học theo nhóm trở nên rất phổ biến, đóng vai trò quan trọng không thể thiếu ở trường đại học. Ngoài những tác phẩm, bài báo nghiên cứu về vấn đề này như: “Phương pháp học tập theo nhóm” của TS. Trần Thị Thu Mai, trường Đại học sư phạm tp.Hồ Chí Minh, “Làm việc theo nhóm – một phương pháp học tập phát huy sức mạnh tập thể” của Phạm Thị Huyền, luận văn thạc sĩ của Lê Tấn Huỳnh Cẩm Giang “Khảo sát và đánh giá một số kỹ năng tương tác trong tổ chức của sinh viên khoa sư phạm trường Đại học Tiền Giang” (2006) và luận văn thạc sĩ của Kiều Ngọc Quý “Tổ chức học hợp tác nhằm nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học theo nhóm” (2009). Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu về KN HĐN trong học tập của SV. Vì thế, việc nghiên cứu vấn đề này càng trở nên cần thiết, góp phần vào việc rèn luyện KN cho SV, đáp ứng được xu hướng giáo dục đào tạo ở bậc đại học hiện nay. 1.2 Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài 1.2.1 Hoạt động 1.2.1.1 Khái niệm về hoạt động Hoạt động là một trong những khái niệm cơ bản nhất trong tâm lý học. Có nhiều định nghĩa khác nhau về hoạt động tùy theo góc độ xem xét. - Hoạt động là mối quan hệ tác động qua lại giữa con người (chủ thể) và thế giới (khách thể) để tạo ra sản phẩm cả về phía thế giới, cả về phía con người [45, tr.55]. Trong mối qua lại biện chứng đó, con người vừa tạo ra sản phẩm về phía thế giới, vừa tạo ra tâm lý của mình. Hay nói khác đi, tâm lý - ý thức - nhân cách của con người được bộc lộ và hình thành trong hoạt động. - Hoạt động là sự tương tác tích cực giữa chủ thể và đối tượng, nhằm biến đổi đối tượng theo mục tiêu mà chủ thể đã đặt ra. Quá trình chủ thể tác động vào đối tượng nhằm tạo ra sản phẩm [34, tr 6]. - Hoạt động là quá trình con người thực hiện các quan hệ giữa mình và thế giới chung quanh, thế giới tự nhiên và thế giới xã hội. Trong sự tác động này ở con người sẽ diễn ra hai quá trình, đó là quá trình khách thể hóa và quá trình chủ thể hóa. Có thể giải thích rằng trong hoạt động, nghĩa là trong quan hệ giữa con người và thế giới bên ngoài, con người vừa thay đổi thế giới bên ngoài vừa thay đổi bản thân mình, con người vừa tạo ra sản phẩm lao động, vừa tạo ra nhân cách bản thân [12, tr19]. Như vậy có thể nói hoạt động là quá trình tác động qua lại giữa con người và thế giới để tạo ra sản phẩm từ cả hai phía. Trong quá trình hoạt động, tâm lý nhân cách được bộc lộ và hình thành. 1.2.1.2 Đặc điểm của hoạt động Hoạt động bao giờ cũng là hoạt động có đối tượng “Đối tượng của hoạt động là cái ta tác động vào nhằm thay đổi hoặc chiếm lĩnh. Nó có thể là sự vật hiện tượng, khái niệm, con người hoặc các mối quan hệ…có khả năng thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người, thúc đẩy con người hoạt động” [45, tr 56]. Hoạt động bao giờ cũng có chủ thể. Chủ thể của hoạt động có thể là một hoặc nhiều người. Hoạt động bao giờ cũng có mục đích. Hoạt động của con người luôn luôn xuất phát từ những mục đích đã được xác định. Mục đích là biểu tượng về sản phẩm hoạt động có khả năng thỏa mãn nhu cầu nào đó của chủ thể. Để đạt được mục đích, con người phải sử dụng các điều kiện, phương tiện cần thiết. Hoạt động có tính gián tiếp “Trong hoạt động, con người bao giờ cũng phải sử dụng những công cụ nhất định” [45, tr 57]. Công cụ tâm lý, ngôn ngữ và công cụ lao động giữ chức năng trung gian giữa chủ thể và khách thể tạo ra tính gián tiếp của hoạt động. Chính tính mục đích và tính gián tiếp tạo nên sự khác nhau căn bản giữa hoạt động của con người với hành vi bản năng của con vật. 1.2.1.3 Cấu trúc của hoạt động Phân tích, mô tả cấu trúc của hoạt động là vấn đề nhiều nhà tâm lý quan tâm. Khi phê phán công thức S – R của chủ nghĩa hành vi, A.N. Leonchev khẳng định, hành động (hoạt động) không phải là phản ứng hay tổ hợp của phản ứng mà là một hệ thống có cấu trúc, có sự chuyển hóa của các đơn vị cấu thành cấu trúc và có sự phát triển của nó. Từ nhận định đó, tác giả đã đưa ra cấu trúc hoạt động nổi tiếng. Có thể khái quát cấu trúc của hoạt động qua sơ đồ sau: Hoạt động Động cơ Hành động Mục đích Thao tác Phương tiện Cấu trúc trên cho thấy, hoạt động được thúc đẩy bởi động cơ nhất định, nó được hợp thành bởi các hành động theo một mục đích nhất định. Hành động do các thao tác hợp thành tùy theo các phương tiện cụ thể. Sáu thành tố trên có mối quan hệ mật thiết qua lại, chuyển hóa cho nhau trong hoàn cảnh cụ thể, đặc biệt là yếu tố hành động – mục đích. Cấu trúc chung của hoạt động có ý nghĩa quan trọng, nó làm cơ sở cho việc nghiên cứu tâm lý học, giáo dục học trong đó có việc nghiên cứu về KN. 1.2.1.4 Hoạt động học tập Chúng ta cần làm rõ khái niệm học và hoạt động học: Trong cuộc sống đời thường, con người luôn luôn có quá trình tiếp thu tích lũy kinh nghiệm sống, trên cơ sở đó tạo nên những tri thức tiền khoa học, làm cơ sở tiếp thu những khái niệm khoa học trong nhà trường. Đó chính là việc học, là cách học theo phương pháp của cuộc sống thường ngày. Một đứa trẻ từ khi mới sinh ra cho đến lúc trưởng thành, trở thành một nhân cách nhất định, trẻ phải học nhiều thứ “Học ăn, học nói, học gói, học mở”: trẻ có thể học ở nhiều nơi, học bằng mọi cách và học ở nhiều thời điểm khác nhau. Hoạt động học tập là khái niệm dùng để chỉ việc học diễn ra theo phương thức đặc thù (phương thức nhà trường) nhằm lĩnh hội các tri thức mới, KN, kỹ xảo mới. Có nhiều định nghĩa khác nhau về hoạt động học tập: - L.B.Enconhin cho rằng việc lĩnh hội tri thức là nội dung cơ bản của hoạt động học tập, được xác định bởi cấu trúc và mức độ học tập. - I.B.Intenxon xác định học tập là hoạt động đặc biệt của con người nhằm mục đích nắm vững tri thức, KN kỹ xảo và hành vi. - A.N.Leonchiev, P. La. Ganperin, N.Ph.Taludina xem quá trình học tập xuất phát từ mục đích của hành vi. - A. V. Petrovxki nêu lên tâm lý hoạt động học tập là vấn đề phẩm chất tư duy, kết hợp các loại hoạt động trong việc thực hiện mục đích và nhiệm vụ giảng dạy…[38, tr.118]. Mặc dù chưa có sự thống nhất hoàn toàn trong quan niệm về hoạt động học tập, nhưng các nhà nghiên cứu vẫn đưa ra những điểm chung của hoạt động học tập như: có mục đích, tự giác, có ý thức về động cơ và trong hoạt động học tập có diễn ra các quá trình nhận thức, đặc biệt là quá trình tư duy. Bản chất của hoạt động học tập được biểu hiện trong 4 vấn đề sau: - Đối tượng của hoạt động học tập là tri thức và những KN, kỹ xảo tương ứng với nó. - Hoạt động học tập là hoạt động hướng vào làm thay đổi chính chủ thể của hoạt động. - Hoạt động học tập là hoạt động được điều khiển một cách có ý thức. Hoạt động này diễn ra dưới sự tổ chức điều khiển và hướng dẫn của GV, người học ý thức, tự giác tích cực để lĩnh hội tri thức, KN, kỹ xảo. - Hoạt động học tập không phải là hoạt động chỉ hướng vào tiếp thu những tri thức, KN, kỹ xảo mà còn hướng vào tiếp thu những tri thức của bản thân hoạt động, nói cách khác, là tiếp thu cả phương pháp học cách học [38, tr.119]. 1.2.2 Nhóm, Hoạt động nhóm 1.2.2.1 Khái niệm nhóm Khi nghiên cứu về nhóm, các tác giả đưa ra quan điểm như sau: - Theo từ điển Tâm lý học của Vũ Dũng “nhóm là cộng đồng có từ hai người trở lên, giữa các thành viên có chung lợi ích và mục đích, có sự tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau trong quá trình hoạt động chung” [11, tr.561]. - Theo A.V.Petrovxki thì “nhóm là một cộng đồng người thống nhất với nhau trên cơ sở một hay một số dấu hiệu chung có quan hệ với việc thực hiện hoạt động chung và giao tiếp của họ” [40, tr.76]. - Với Marvin Shaw, nhà tâm lý học phương Tây, ông cho rằng “nhóm là cộng đồng người có từ ba người trở lên, giữa họ có sự tác động tương hỗ và ảnh hưởng lẫn nhau, tồn tại trong một thời gian nhất định, cùng nhau thực hiện hoạt động chung” [40, tr.76]. - Theo Trần Hiệp: “nhóm là một cộng đồng có từ hai người trở lên, giữa họ có một sự tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau trong qua trình thực hiện hoạt động chung” [18, tr.68]. - Ngoài ra, còn một số quan điểm khác về nhóm như “Nhóm là một tổ chức bao gồm những thành viên, được thành lập và tồn tại vì một mục đích chung” [36, tr.330] hay “Nhóm là tập hợp những cá nhân có các KN bổ sung cho nhau, cùng nhau cam kết chịu trách nhiệm thực hiện một mục tiêu chung” [25, tr.13]. Như vậy, chúng tôi quan niệm nhóm là tập hợp từ hai người trở lên, giữa học có sự tương tác lẫn nhau trong quá trình thực hiện hoạt động chung, nhằm đạt được mục tiêu chung của nhóm. 1.2.2.2 Các đặc tính cơ bản của nhóm - Theo tâm lý học Xô viết, tính thống nhất của nhóm dựa trên những dấu hiệu: đặc điểm hoạt động chung, thuộc tính xã hội hoặc giai cấp, đặc điểm tổ chức, mức độ phát triển…đặc biệt là “Sự tồn tại của nhóm không tách rời hoạt động” [18, tr 67]. - Theo tác giả Nguyễn Thị Oanh, nhóm phải có đủ 4 yếu tố: a. Chia sẻ mục tiêu Một tập hợp người không thể được xem như một nhóm nếu họ không có cùng mục tiêu và cùng chia sẻ trách nhiệm để đạt được mục tiêu đó. Khi trong tập thể người ta không cùng chia sẻ mục tiêu thì lại có sự phân hóa thành nhiều nhóm. Mục tiêu chung là điểm qui tụ các thành viên trong nhóm, mục tiêu cũng chính là động lực, là kim chỉ nam cho nhóm hoạt động. Mục tiêu giúp các thành viên giải quyết mâu thuẫn và xác định cách làm việc của nhóm. Khi tham gia xây dựng mục tiêu chung, các thành viên trong nhóm sẽ cảm thấy hứng thú và họ đều cố gắng để đạt được. b. Sự tương tác giữa các thành viên Đây là yếu tố cơ bản của HĐN. Để trở thành một nhóm, các thành viên cần có mối quan hệ “mặt giáp mặt” kéo dài trong một thời gian nhất định. Họ giao tiếp và ảnh hưởng lẫn nhau. Họ giao tiếp với nhau bằng lời nói hay ngôn ngữ cơ thể. Sự tham gia tích cực của nhóm viên sẽ đem lại sự thỏa mãn và gắn bó với nhóm. Tương tác phải hai chiều, chính tương tác là yếu tố chủ yếu làm thay đổi hành vi con người. Trong tiếp xúc, họ càng gắn kết với nhau thì nhóm càng dễ dàng đạt được mục đích chung. Chất lượng của tương tác mang ý nghĩa rất lớn vì nó làm tăng cường hiệu quả HĐN. c. Có các qui tắc chung “ Những qui định chung của nhóm là đặc tính quan trọng nhất trong việc giúp cho nhóm ổn định và vận hành một cách có hiệu quả” [36, tr.335]. Tập thể nào khi làm việc chung cũng cần xây dựng nội qui để mọi người tuân theo. Qui tắc là các luật lệ hướng dẫn hành vi mà nhóm đặt ra. Những qui tắc này có thể được thông báo, xác định một cách chính thức hoặc có khi được nhóm viên mặc nhiên chấp nhận không cần hình thức. Đối với các qui tắc này thì không thể áp đặt mà qua quá trình gắn bó với nhau, các thành viên sẽ phát hiện và tuân thủ. d. Vai trò của từng thành viên Mỗi cá nhân của nhóm có những vai trò riêng góp phần giúp nhóm hoạt động hiệu quả. Thường thì các vai trò là kết quả của quá trình phân chia trách nhiệm dựa vào khả năng chuyên môn cũng như những điều kiện khác. Vai trò là khuôn mẫu các hành vi quen thuộc mà cá nhân phát triển để phục vụ nhóm. Các vai trò này từ từ có thể thành nếp tùy đặc tính nhân cách của nhóm viên và nhu cầu chung của nhóm. Vì thế vai trò không luôn ở thế tĩnh mà ở thế động tùy vào các tình huống khác nhau. Một thành viên cùng một lúc có thể giữ nhiều vai trò. Rõ ràng, nếu chỉ tập hợp một số lượng người nào đó mà giữa họ không có mục tiêu chung, không có sự tương tác, không có sự chia sẻ… nghĩa là “giữa họ không có hoạt động chung thì đó không phải là nhóm, mà là đám đông” [40, tr 77]. HĐN tạo nên sự liên kết, thúc đẩy tinh thần hợp tác, phụ thuộc giữa các thành viên; mỗi người cố gắng thể hiện tốt vai trò của mình: cùng chia sẻ trách nhiệm, cùng nhau hỗ trợ và cam kết giải quyết vấn đề chung của nhóm. Điều này không có nghĩa vai trò của mỗi cá nhân không còn quan trọng nữa mà tính hiệu quả của nhóm dựa vào thành quả của từng thành viên trong nhóm. Khi cả nhóm hoạt động hiệu quả nhất là khi các cá nhân cùng đồng lòng phối hợp ăn ý hướng về một mục đích. Vì vậy, làm việc nhóm không hẳn chỉ là làm việc với nhiều người, làm việc nhóm khác với làm việc đông người. Chúng ta so sánh sự khác biệt đó sau đây: NHÓM ĐÁM ĐÔNG 1. Các thành viên làm việc tương tác lẫn nhau. Họ hiểu rõ mục tiêu của nhóm chỉ đạt kết quả tốt nhất bằng cách hỗ trợ cho nhau. 2. Các thành viên cam kết chịu trách nhiệm phần việc của mình trong nhóm. 3. Họ đóng góp kinh nghiệm tài năng của mình vào sự thành công của cả nhóm. 4. Các thành viên trung thực, mạnh dạn bộc lộ ý kiến, tôn trọng lắng 1. Các thành viên làm việc độc lập và thường không có mục tiêu chung theo kiểu “mạnh ai nấy làm”. 2. Các thành viên chỉ tập trung vào công việc của bản thân, họ không liên quan đến mục tiêu của đám đông đó. 3. Họ chỉ hoàn thành nhiệm vụ của mình, không biết hoặc không để ý đến người khác. 4. Các thành viên không tin tưởng nhau. Nếu có ý tưởng, họ thường giữ nghe người khác, đặt câu hỏi và sẵn sàng thay đổi quan điểm. 5. Các thành viên bình đẳng trong việc bàn bạc đưa ra cách giải quyết vấn đề. Mọi thành viên đều mong muốn cùng nhau giải quyết vấn đề đó. riêng cho mình, không chia sẻ, không đón nhận sự gợi ý của người khác. 5. Họ cảm thấy phiền lòng khi bất đồng quan điểm, họ không tham gia vào việc giải quyết vấn đề và không hề có sự ủng hộ nào để giúp họ giải quyết vấn đề. “Làm việc nhóm không phải là sự cộng lại hay sự kết hợp một cách đơn giản bằng số đông, bằng sức mạnh trong quá trình làm việc. Làm việc nhóm đòi hỏi có sự đầu tư, phải có sự phối hợp một cách rất ăn ý hoặc phải có sự tương tác đúng nghĩa dựa trên phương diện tâm lý giữa các cá nhân với nhau để thực hiện một mục tiêu chung” [37, tr.57]. 1.2.2.3 Hoạt động nhóm Theo Từ điển Tâm lý học của Vũ Dũng, hoạt động của một nhóm người có những đặc điểm sau [11, tr. 320] - Cùng tham gia về phương diện không gian và thời gian của các thành viên tạo ra khả năng tiếp xúc cá nhân trực tiếp giữa họ với nhau, trong đó có sự trao đổi hành động, thông tin, cũng như khả năng nhận thức lẫn nhau. - Có mục tiêu chung, trong đó kết quả hoạt động được dự đoán trước phù hợp với lợi ích chung, góp phần thoả mãn những nhu cầu của mỗi thành viên. Như vậy, chúng tôi quan niệm rằng hoạt động nhóm là hoạt động ở đó có sự tương tác qua lại giữa các thành viên. Qua đó, các thành viên có cơ hội hợp tác, chia sẻ và hỗ trợ nhau nhằm đạt được mục tiêu chung của nhóm. Nhóm chỉ hoạt động hữu hiệu khi: - Mục tiêu rõ ràng đối với mọi người và được mọi người chấp nhận. - Truyền thông hai chiều, ý tưởng cũng như cảm xúc được bộc lộ. - Tiến trình lãnh đạo được chia sẻ, phân phối cho nhiều người, từ đó có sự tham gia cao. - Thủ tục lấy quyết định phù hợp với tình huống. - Trọng tâm đặt ở con người và các mối quan hệ đoàn kết giữa họ, sự đoàn kết có được nhờ sự chấp nhận. - Khả năng giải quyết vấn đề cao. - Hiệu quả được cả nhóm đánh giá. - Có sự tương tác giữa các thành viên [30, tr 114]. 1.2.3 Hoạt động học tập theo nhóm Khi nghiên cứu về hoạt động học tập theo nhóm, có các định nghĩa sau: - A.T. Francisco (1993): hoạt động học tập nhóm là một phương pháp học tập mà theo phương pháp đó học viên trong nhóm trao đổi, giúp đỡ và hợp tác với nhau trong học tập. Người học trao đổi ý tưởng và kiến thức với các thành viên khác của nhóm…các thành viên tham gia tích cực và hợp tác với nhau để lĩnh hội kiến thức và kỹ năng mới [23] - Theo Slavin “nhóm học tập là một nhóm nhỏ bao gồm năm bảy học sinh…Sau khi GV hướng dẫn, nêu ra mục đích của đề tài và phân phát các tài liệu…sau khi đọc tài liệu và thay nhau đặt câu hỏi để bạn trả lời, cả nhóm đưa ra ý kiến và nhận định về nội dung và mục đích của đề tài” [32, tr.384]. - Hoạt động học tập theo nhóm là hình thức người học cùng nhau hợp tác trong nhóm để hoàn thành công việc chung. Học tập theo nhóm không đơn thuần là chia người học thành từng nhóm để cùng giải quyết một câu hỏi khó mà một học sinh bình thường không thể giải quyết được, mà người học phải cùng nhau hợp tác trong học tập để hoàn thành công việc chung [50]. Như vậy, qua quan điểm của các tác giả về hoạt động học tập theo nhóm, có thể thấy “hoạt động học tập theo nhóm cũng là hình thức học hợp tác”. Học hợp tác (Cooperative Learning) là một quan điểm học tập rất phổ biến và đem lại hiệu quả giáo dục cao. Quan điểm học tập này yêu cầu sự tham gia, đóng góp trực tiếp của người học vào quá trình học tập, đồng thời yêu cầu họ phải làm việc cùng nhau để đạt được kết quả học tập chung. Học hợp tác theo David Johnson và Roger Johnson (1999) phải hội đủ các yếu tố sau [47, tr.115] a. Sự phụ thuộc lẫn nhau một cách tích cực: các thành viên trong nhóm phải cùng nhau làm việc để hoàn thành mục tiêu chung. Yếu tố này giúp các thành viên hiểu rằng đóng góp của mỗi cá nhân là một trong những yếu tố góp phần làm nên thành công của nhóm. Mỗi người phải có trách nhiệm hoàn thành nhiệm vụ được giao để cả nhóm hoàn thành nhiệm vụ chung. Kết quả học tập của cả nhóm là công sức đóng góp của mỗi thành viên. Mỗi thành viên không chỉ hoàn thành nhiệm vụ của mình mà còn phải tham gia giúp đỡ các thành viên khác để cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ chung của nhóm. “Sự phụ thuộc lẫn nhau” tồn tại khi các thành viên trong nhóm gắn kết với nhau theo kiểu một cá nhân không thể thành công khi các thành viên khác thất bại. Trong thực tế, khi yếu tố này không tồn tại, các thành viên trong nhóm không có cảm giác rằng họ đang làm việc chung, nên dễ dẫn đến cạnh tranh hay làm việc riêng lẻ. Ngoài ra, “sự phụ thuộc” này còn giúp các thành viên biết quan tâm đến ý kiến của nhau nhiều hơn và giao tiếp hiệu quả hơn. Nếu một người trong nhóm không hoàn thành trách nhiệm của mình, cả nhóm phải cùng chịu trách nhiệm. b. Sự tiếp xúc trực tiếp thúc đẩy sự hợp tác: giúp đỡ nhau học tập, ủng hộ những thành công và cố gắng của nhau. Các thành viên trong nhóm phải gặp nhau thường xuyên để thảo luận nhiệm vụ chung của nhóm. Trong các buổi thảo luận này, mọi người khuyến khích, động viên nhau cùng tham gia, cùng chia sẻ, giúp nhau cải thiện kết quả học tập hoặc tìm ra các nguồn tài liệu cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ chung. Đây là cơ hội để các thành viên tiếp xúc với nhau nhiều hơn, lắng nghe người khác và đóng góp ý kiến của mình. c. Trách nhiệm với tư cách “tôi” và tư cách “chúng ta”: mỗi thành viên phấn đấu cho mình và nhóm. Mỗi cá nhân phải hiểu họ được tính điểm dựa trên đóng góp của mình cho nhóm, điều này giúp các thành viên chia đều trách nhiệm cùng nhau mà không đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. Khi các thành viên có trách nhiệm với nhau, họ sẽ cùng nhau tạo nên động lực khuyến khích nhau học tốt hơn. Mỗi thành viên trong nhóm chỉ được công nhận khi có đóng góp cho nhóm. Khi thành tích cá nhân được nhóm công nhận, họ sẽ nỗ lực hơn và phấn đấu nhiều hơn cho thành công chung của nhóm. d. Các KN trong nhóm nhỏ: bao gồm KN giao tiếp và KN học nhóm như cách trình bày một quan điểm, biết chia sẻ nguồn thông tin, tài liệu hay thuyết phục người khác hòa giải các ý kiến bất đồng, cùng nhau đưa ra quyết định và giải quyết vấn đề chung của nhóm. Để đạt được lợi ích khi học nhóm, người học buộc phải có những KN này. Nhiều nghiên cứu cho thấy khi người học có đủ các KN trên, họ luôn có tinh thần hợp tác và sẵn sàng giúp đỡ người khác. Ngược lại, khi không có KN giao tiếp thích hợp, họ thường gặp khó khăn trong quá trình làm việc chung, thiếu tự tin và luôn tạo ra những bất đồng. Một trong những lý do khiến cá nhân bị đẩy ra khỏi nhóm là do họ thiếu KN giao tiếp [50]. Những KN giúp cá nhân giao tiếp và làm việc hiệu quả trong nhóm: * KN cá nhân - Nghe chủ động (nghe và góp ý kiến). - Nhận xét công bằng. - Có trách nhiệm với hành vi của mình. - Biết phê bình, giải quyết bất đồng trên tinh thần xây dựng. * KN nhóm nhỏ - Biết thay phiên nhau khi thảo luận. - Biết chia sẻ công việc. - Biết tham gia các quyết định dân chủ. - Biết hiểu quan điểm của người khác. - Biết phân biệt ý kiến đóng góp khác nhau của các thành viên [50]. Đây là những KN không thể thiếu được và giúp người học thành công khi làm việc nhóm, nếu không sẽ dễ xảy ra tình trạng người học chỉ đơn giản là ngồi cạnh nhau, làm việc cá nhân chứ không cùng nhau học và làm việc hợp tác. Ngoài ra, khi hợp tác để hoàn thành mục tiêu chung mọi thành viên của nhóm cần phải: - Tìm hiểu và tin tưởng nhau. - Trao đổi thông tin chính xác. - Cho và nhận sự giúp đỡ của nhau. - Giải quyết bất đồng trên tinh thần xây dựng. SV chỉ thật sự hợp tác cùng nhau trong học tập và thành công khi họ được dạy, trải qua quá trình luyện tập và được khuyến khích áp dụng những KN này trong học nhóm. e. Đánh giá quá trình làm việc nhóm: đây là yếu tố quan trọng trong quá trình làm việc nhóm vì dựa vào đó nhóm biết được họ đang làm việc như thế nào và làm sao để duy trì cách làm việc hiệu quả. Khi các thành viên tham gia đánh giá đóng góp của cá nhân cho hoạt động chung của nhóm, nó sẽ thúc đẩy các thành viên phát huy năng lực cao hơn; khi các thành viên được đánh giá thường xuyên họ sẽ phải chú ý để giao tiếp hiệu quả hơn. Ngoài ra, quá trình đánh giá nhóm còn giúp các thành viên duy trì các quan hệ làm việc hiệu quả và phát triển các KN học nhóm. Như vậy, học theo nhóm chỉ mang tính hợp tác khi người học tham gia vào các hoạt động chung của nhóm. Việc học tập của nhóm mang tính hợp tác hơn là tranh đua. Mục đích học tập là lý do chính cho sự tồn tại của nhóm. Công việc của nhóm sẽ không hoàn thành nếu không có sự đóng góp tích cực của từng cá nhân. Thành viên trong nhóm phải nhận thức rằng nổ lực của mỗi cá nhân là điều kiện thiết yếu cho sự thành công của nhóm và của chính họ. Vì thế họ phải dựa vào nhau, hỗ trợ nhau, cùng nhau bàn bạc trao đổi thông tin cũng như quan điểm riêng của mình và biết vận dụng các KN phân tích, tổng hợp, đánh giá để giải quyết vấn đề, hoàn thành công việc được giao. Trong học tập hợp tác, mục tiêu hoạt động là chung của toàn nhóm nhưng mỗi cá nhân được phân công một nhiệm vụ cụ thể, mỗi người đều có trách nhiệm riêng của mình. HĐN phải được tổ chức sao cho mỗi người đều đóng góp tích cực vào hoạt động chung của nhóm. Phân công nhiệm vụ phù hợp với khả năng của từng thành viên sẽ tạo điều kiện tối đa cho họ phát huy khả năng của mình, sự hoàn thiện của mỗi cá nhân sẽ đóng góp cho thành công của nhóm. Người học chỉ học tốt hơn và đạt thành tích cao hơn khi làm việc trong nhóm được tổ chức với đầy đủ các yếu tố trên. Trên cơ sở lý luận đã phân tích về nhóm, hoạt động nhóm và hình thức học tập theo nhóm, chúng tôi xác định: Hoạt động nhóm trong học tập chính là hình thức học tập theo nhóm mà ở đó các thành viên trong nhóm phải hợp tác cùng nhau để hoàn thành nhiệm vụ học tập. HĐN trong học tập chỉ đạt hiệu quả khi các thành viên trong nhóm biết: - Xác định mục tiêu chung của nhóm. - Lắng nghe và chấp nhận người khác. - Trình bày quan điểm của mình. - Thảo luận và giải quyết vấn đề chung của nhóm. - Hợp tác và chia sẻ. 1.2.4 Kỹ năng 1.2.4.1 Định nghĩa kỹ năng Trong lịch sử nghiên cứu các vấn đề về KN, có nhiều tác giả trong và ngoài nước đã đưa ra những quan niệm khác nhau về KN. Có hai khuynh hướng cơ bản sau: - Khuynh hướng thứ nhất: xem xét KN nghiêng về mặt kỹ thuật của thao tác, của hành động hay hoạt động. Có các tác giả như: V.A.Kruchetxki, A.V.Petrovxki, V.S.Cudin, A.G.Covaliop, Trần Trọng Thuỷ… V.A.Kruchetxki cho rằng “KN là phương thức thực hiện hành động đã được con người nắm vững từ trước” [20, tr.78]. Theo ông, KN được hình thành bằng con đường luyện tập, KN tạo khả năng cho con người thực hiện hành động không chỉ trong điều kiện quen thuộc mà trong cả những điều kiện đã thay đổi. V.S.Cudin và A.G.Covaliop cho rằng “KN là phương thức thực hiện hành động thích hợp với mục đích và điều kiện hành động [22, tr.13]. Theo các tác giả, kết quả của hành động phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó quan trọng hơn cả là năng lực của con người chứ không đơn giản là cứ nắm vững cách thức hành động thì đem lại kết quả tương ứng. Khi bàn về KN, tác giả Trần Trọng Thuỷ cũng cho rằng “KN là mặt kỹ thuật của hành động, con người nắm được các hành động tức là có kỹ thuật hành động, có KN” [39]. - Khuynh hướng thứ hai: xem xét KN nghiêng về mặt năng lực hành động của của con người. Theo quan niệm này, KN vừa có tính ổn định, vừa có tính mềm dẻo, tính linh hoạt, sáng tạo và có mục đích. Đại diện cho khuynh hướng này có các tác giả như N.D. Levitov, X.I. Kixegov, K.K. Platanov, G.G. Golubev, Nguyễn Quang Uẩn, Trần Quốc Thành… N.D.Levitov quan niệm “KN là sự thực hiện có kết quả một động tác nào đó hay một hành động phức tạp bằng cách lựa chọn và áp dụng những cách thức đúng đắn, có tính đến những điều kiện nhất định” [15, tr.29]. Theo ông, người có KN hành động là người phải nắm được và vận dụng đúng đắn các cách thức hành động nhằm thực hiện hành động có kết quả. Levitov cho rằng, để hình thành KN, con người không chỉ nắm lý thuyết về hành động mà phải biết vận dụng vào thực tiễn. Các tác giả K.K.Platanov và G.G.Golubev quan niệm “KN là năng lực của người thực hiện công việc có kết quả với một chất lượng cần thiết trong những điều kiện mới và trong những khoảng thời gian tương ứng” [9, tr.41]. Theo các tác giả, KN không mâu thuẫn với vốn tri thức mà KN được hình thành trên cơ sở của chúng. Tương tự X.I.Kixegov cho rằng “KN là khả năng thực hiện có hiệu quả hệ thống hành động phù hợp với mục đích và điều kiện thực hiện hệ thống này” [15, tr.30]. Theo ông, các KN bao giờ cũng diễn ra dưới sự kiểm tra của ý thức nhiều hay ít. KN đòi hỏi việc sử dụng những kinh nghiệm đã thu được trước đây và những tri thức nhất định nào đó trong các hành động, mà thiếu những điều này không thể có KN. - Từ điển tiếng Việt (1992) định nghĩa “KN là khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế” [33, tr.157]. - Theo từ điển Giáo dục học “KN là khả năng thực hiện đúng hành động, hoạt động phù hợp với những mục tiêu và điều kiện cụ thể tiến hành hành động ấy cho dù đó là hành động cụ thể hay hành động trí tuệ” [17, tr.220]. - Tác giả Huỳnh Văn Sơn cho rằng “KN là khả năng thực hiện có kết quả một hành động nào đó bằng cách vận dụng những tri thức, những kinh nghiệm đã có để hành động phù hợp với những điều kiện cho phép” [37, tr.6]. Như vậy, người có KN phải nắm tri thức về hành động và có các kinh nghiệm cần thiết. Song bản thân tri thức kinh nghiệm không phải là KN, muốn có KN con người phải vận dụng vốn tri thức và kinh nghiệm đó vào hành động và đạt kết quả. Khi xem xét KN cần lưu ý những điểm sau: - KN trước hết phải được hiểu là mặt kỹ thuật của hành động, KN bao giờ cũng gắn với một hành động cụ thể. - Tính đúng đắn, sự thành thạo, linh hoạt, mềm dẻo là tiêu chuẩn quan trọng để xác định sự hình thành và phát triển KN. Một hành động chưa thể gọi là KN nếu còn mắc nhiều lỗi và các thao tác diễn ra vụng về theo một khuôn mẫu cứng nhắc. - KN không phải là cái bẩm sinh của mỗi cá nhân, đó là quá trình con người vận dụng tri thức và kinh nghiệm vào hoạt động thực tiễn để đạt được mục đích đề ra. KN là kết quả của một quá trình luyện tập. Từ những quan niệm trên ta thấy KN vừa là mặt kỹ thuật của hành động hay còn gọi là cách thức thực hiện hành động hay công việc cụ thể nào đó, vừa là biểu hiện năng lực của con người. Cơ sở của KN là tri thức, kinh nghiệm đã có từ trước. KN hình thành do luyện tập. Trên cơ sở những quan niệm về KN của các tác giả, chúng tôi quan niệm rằng: KN là khả năng của con người thực hiện có kết quả một hành động nào đó trên cơ sở vận dụng những tri thức và kinh nghiệm tương ứng. KN được hình thành do luyện tập. 1.2.4.2 Các mức độ và quá trình hình thành kỹ năng Theo K.K. Platonov và G.G. Golubev, KN hình thành qua 5 giai đoạn: - Mức 1: có KN sơ đẳng, hành động được thực hiện theo cách thử và sai, dựa trên vốn hiểu biết và kinh nghiệm. - Mức 2: biết cách thực hiện hành động nhưng không đầy đủ. - Mức 3: có những KN chung nhưng còn mang tính rời rạc, riêng lẻ. - Mức 4: có những KN chuyên biệt để hành động. - Mức 5: vận dụng sáng tạo những KN đó trong các tình huống khác nhau [9, tr 51]. Các tác giả A.V. Petrovxki, N.D. Levitov, V.A Kruchexki, Trần Quốc Thành…quá trình hình thành kỹ năng chia làm ba bước: - Bước 1: Nhận thức đầy đủ về mục đích, cách thức và điều kiện hành động. - Bước 2: Quan sát mẫu và làm thử mẫu. - Bước 3: Luyện tập để tiến hành các hành động theo đúng yêu cầu, điều kiện hành động nhằm đạt được mục đích đề ra [15, tr.32]. Mục đích là kết quả của hành động, định hướng cho hành động. Nếu chỉ dừng lại ở đây thì chưa có KN, chỉ là lý thuyết tri thức về hành động. Giai đoạn làm thử theo mẫu tiến tới hình thành KN, giúp con người đối chiếu với tri thức, tiến hành thao tác để giảm bớt sai sót trong quá trình hành động để đạt kết quả. Cuối cùng muốn có KN con người phải luyện tập. Giai đoạn này, các tri thức được củng cố nhiều lần, các thao tác được ôn luyện có hệ thống, kết quả của hành động đạt được một cách chắc chắn hơn. KN chỉ thực sự ổn định khi người ta hành động có kết quả trong những điều kiện khác nhau. Việc luyện tập đạt được kết quả cao hay thấp phụ thuộc vào điều kiện luyện tập, đặc biệt là sự nỗ lực của cá nhân. Vấn đề hình thành KN được các tác giả trong và ngoài nước quan tâm. Mỗi tác giả có những ý kiến khác nhau, song đều thống nhất KN được hình thành trong hoạt động. Như vậy, quá trình hình thành KN là quá trình tiến hành hành động và luyện tập hành động trong thực tiễn đa dạng. 1.2.5 Kỹ năng hoạt động nhóm trong học tập 1.2.5.1 Khái niệm Từ định nghĩa về KN và HĐN trong học tập nêu trên, chúng tôi định nghĩa KN HĐN trong học tập như sau: Kỹ năng hoạt động nhóm trong học tập là khả năng vận dụng những tri thức và những kinh nghiệm đã có về hoạt động nhóm nhằm hoàn thành nhiệm vụ học tập do nhóm đề ra. KN HĐN trong học tập được hình thành trước hết từ việc nhận thức đúng đắn về HĐN trong học tập, các thao tác kỹ thuật để thực hiện công việc, sau đó là phải thực hành và rèn luyện trong thực tiễn. 1.2.5.2 Cấu trúc của KN HĐN trong học tập Trên cơ sở nghiên cứu lý luận các vấn đề liên quan đến KN, nhóm và HĐN trong học tập, cũng như xuất phát từ mục đích và yêu cầu HĐN, chúng tôi cho rằng KN HĐN trong học tập của SV là một hệ thống cấu trúc, bao gồm các KN bộ phận sau: a. Kỹ năng lắng nghe Khi làm việc theo nhóm, truyền thông được xem là một trong những hoạt động quan trọng nhất. Bởi nó đóng vai trò của một cơ quan tuần hoàn, chuyển tải thông tin đến mỗi thành viên và giữa các thành viên với nhau [18, tr. 78]. Truyền thông là truyền báo cho người khác những tin tức, tài liệu liên hệ đến họ trong tổ chức nhóm. Nhiều người nghĩ rằng muốn truyền thông tốt phải có “thuật ăn nói”, nhưng nếu chỉ nói mà không biết “nghe” thì chỉ thành công nửa vời hay thậm chí không thành công vì “truyền thông là quá trình hai chiều: truyền và nhận”. Sẽ thiếu sót nếu nghĩ truyền thông là hoạt động một chiều (từ người truyền đến người nhận tin) mà phải hiểu đây là hoạt động hai chiều (chiều phản hồi trở lại từ phía người nhận) [18, tr.78]. Đối với người nhận tin, để phản hồi chính xác điều quan trọng là phải biết lắng nghe để hiểu được mục đích nội dung của thông tin truyền đến. Việc tiếp nhận thông tin một cách chính xác đầy đủ là điều kiện quyết định để thực hiện tốt thông tin đó. Ngược lại, khi tiếp nhận các thông tin phản hồi từ phía người nhận, thì “người truyền” lúc này cũng cần phải biết lắng nghe, ghi nhận, tránh thái độ chỉ trích ngắt lời. Lắng nghe chính là chìa khóa của truyền thông khi tham gia HĐN. Biết lắng nghe, nghĩa là chú tâm vào ý kiến của các thành viên trong nhóm, chúng ta mới hiểu rõ tại sao và do đâu có những quan điểm khác biệt cũng như những hạn chế, qua đó chúng ta mới có thể đóng góp ý kiến xây dựng để các ý kiến trong nhóm được hoàn thiện hơn. Lắng nghe cũng giúp ta thu thập được nhiều thông tin hơn, là cơ sở để ra quyết định và giải quyết vấn đề của nhóm một cách khoa học, khách quan. Thực tế cho thấy, có nhiều vấn đề, nhiều mâu thuẫn của nhóm không giải quyết được chỉ vì các thành viên trong nhóm không chịu lắng nghe nhau. Bằng sự cởi mở của mình và biết cách khuyến khích người khác nói, chúng ta sẽ phát hiện ra những nguyên nhân gây mâu thuẫn và cùng nhau đưa ra cách giải quyết. Lắng nghe còn giúp các thành viên trong nhóm hiểu nhau hơn, giúp việc đưa ra quyết định trở nên dễ dàng, nhanh chóng; nhờ vậy mà nhiệm vụ học tập của nhóm sẽ hiệu quả hơn. Lắng nghe là biết tập trung chú ý, hướng hoạt động của các giác quan của bản thân để nghe, hiểu được thông tin trong quá trình tương tác nhóm. Đó không đơn thuần là tiếp thu âm thanh bằng tai mà phải hiểu được ý nghĩa của điều được nói, nhất là tiếp nhận được cảm xúc của họ. Lắng nghe không chỉ là tiếp nhận thông tin từ người nói, mà người nghe còn phân tích theo hướng tích cực, phản hồi bằng thái độ tôn trọng ý kiến của người nói dù đó là ý kiến trái ngược với quan điểm của bản thân, không phê phán mà trái lại phải biết khuyến khích, khơi dậy sự tự tin phát biểu ý kiến của người khác. Như vậy, biểu hiện của người có KN lắng nghe: - Ngừng nói. - Biết chờ đến lượt. - Thể hiện cho người nói thấy rằng bạn muốn nghe. - Tránh những việc làm gây mất tập trung. - Đồng cảm với người nói. - Kiên nhẫn, giữ bình tĩnh. - Tránh tranh cãi hoặc phê phán. - Đặt câu hỏi đúng lúc [4, tr.172]. b. Kỹ năng thuyết trình KN thuyết trình đóng vai trò quan trọng trong quá trình học tập theo nhóm cũng như làm việc sau này của SV, đặc biệt là đối với SV sư phạm. Theo Wikipedia, thuyết trình là quá trình trình bày nội dung của một chủ đề cho người nghe nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Thuyết trình cũng là một bài nói ngắn gọn của một người hoặc một nhóm người về một chủ đề cụ thể nào đó để trình bày một nhận định, một quan điểm…nhằm thuyết phục người nghe chấp nhận quan điểm và có cùng suy nghĩ với mình. Với sự phân công của nhóm, các thành viên sẽ chuẩn bị đề tài, chủ động tìm kiếm tài liệu liên quan… để trình bày trước nhóm hoặc lớp. Thuyết trình thành công khi người nói có khả năng diễn đạt ý tưởng của mình, biết cách trình bày ý kiến của mình về một vấn đề, phân tích vấn đề cho mọi người hiểu đúng, biết cách chứng minh và bảo vệ ý kiến của mình. Ngoài ra, bài thuyết trình thành công sẽ tác động mạnh mẽ làm thay đổi nhận thức, tình cảm, ý chí và hành động của người nghe. Để thuyết trình thành công, người trình bày phải: - Xác định mục tiêu, đề tài trình bày. Điều này giúp người thuyết trình xác định nội dung thông điệp mà ta cần truyền đạt đến người nghe. Vì thuyết trình không phải là trình bày những điều ta muốn nói mà trình bày những điều người khác muốn nghe. - Nội dung thuyết trình được chuẩn bị kỹ lưỡng chu đáo, các thông tin khoa học chính xác, có ví dụ liên hệ thực tiễn… giúp người nói tự tin hơn khi trình bày. - Lập dàn ý tóm tắt, sắp xếp ý tưởng một cách logic cũng là một phần không thể thiếu để thuyết trình đạt hiệu quả cao. Việc lập dàn ý giúp người thuyết trình kiểm soát được nội dung trình bày, tránh nói dài dòng hay thiếu thiếu sót những ý cơ bản và biết nói những gì cần thiết quan trọng trong khoảng thời gian cho phép. - Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, đơn giản, ngắn gọn nhưng thuyết phục người nghe. Với âm lượng vừa đủ nghe, tốc độ nói vừa phải, từ ngữ phong phú đa, dạng nhưng gần gũi…sẽ giúp bài thuyết trình thêm sinh động, lôi cuốn và hấp dẫn người nghe. - Biết đặt câu hỏi đúng lúc là cách người thuyết trình gây sự chú ý đối với người nghe, kích thích họ tư duy, tránh hiện tượng tiếp thu một cách thụ động, tạo cơ hội cho người khác trình bày ý kiến của mình đồng thời lấy thêm thông tin từ các thành viên trong nhóm giúp họ điều chỉnh cách trình bày của mình phù hợp hơn. - Có sự giao tiếp với người nghe thông qua ánh mắt, nét mặt, điệu bộ cử chỉ…phù hợp với nội dung thuyết trình. Thuyết trình không chỉ là truyền đạt thông tin đến người nghe mà còn là sự giao tiếp, tương tác giữa người nói và người nghe. Như vậy, biểu hiện của người có KN thuyết trình: - Xác định mục tiêu trình bày. - Chuẩn bị nội dung đầy đủ. - Lập dàn ý tóm tắt. - Chuẩn bị các câu hỏi có liên quan. - Luôn giao tiếp với người nghe thông qua hệ thống phi ngôn ngữ. c. Kỹ năng thảo luận Thảo luận là phần tất yếu tạo nên hoạt động học tập theo nhóm , là hình thức các thành viên trong nhóm cộng tác với nhau để trao đổi ý tưởng, quan điểm, chia sẻ nguồn thông tin để cùng nhau hình thành cách giải quyết vấn đề, kiểm tra giả thuyết và đi đến kết luận. Thảo luận nhóm khắc phục tình trạng thụ động, lười suy nghĩ và thiếu hẳn sự phản hồi từ phía người học. Khi những vấn đề được nhóm đưa ra thảo luận, bàn bạc đòi hỏi các thành viên phải tự sưu tầm tài liệu, phải động não cố gắng tìm hiểu và đưa ra ý kiến của mình, cùng nhau giải quyết nhiệm vụ học tập. Qua đó, hình thành ở SV khả năng tìm tòi, quan sát, so sánh, nghiên cứu tài liệu, nhận xét, đánh giá, tổng hợp và sáng tạo. Ngoài ra, tinh thần hợp tác, thông cảm, chia sẻ và hỗ trợ lẫn nhau cũng được phát huy giữa các thành viên trong nhóm. Nhờ không khí thảo luận cởi mở, sôi nổi sẽ tạo cơ hội cho các thành viên nhút nhát mạnh dạn hơn khi trình bày ý kiến của mình, học được cách tôn trọng và lắng nghe người khác, tạo cho SV sự tự tin hứng thú trong học tập. Hơn nữa, thảo luận nhóm sẽ làm cho kiến thức của SV bớt phần chủ quan, phiến diện, ngược lại sẽ tăng tính khách quan và khoa học, kiến thức trở nên sâu sắc bền vững, dễ nhớ và nhớ lâu hơn. Tuy nhiên, thảo luận chỉ phát huy vai trò của nó khi các thành viên trong nhóm có những biểu hiện sau: - Xác định mục tiêu rõ ràng và cụ thể. - Chuẩn bị nội dung, thu thập dữ kiện liên quan đến nội dung thảo luận. - Thái độ lắng nghe, tôn trọng các ý kiến. - Có sự bình đẳng và chấp nhận lẫn nhau của nhóm viên. - Biết khai thác nội dung bằng cách đặt câu hỏi phù hợp kích thích sự suy nghĩ của mọi người. - Biết điều động sự tham gia tích cực của các thành viên trong nhóm. - Biết chia sẻ thông tin, kinh nghiệm mình có cho các thành viên khác. - Phát hiện những khác biệt, mâu thuẫn trong các ý kiến, quan điểm và cùng nhau giải quyết. - Nối kết các ý kiến rời rạc thành hệ thống. - Mục tiêu phải được giải quyết sau buổi thảo luận. d. Kỹ năng giải quyết vấn đề Giải quyết vấn đề là khâu cuối cùng khi hoàn tất hoạt động chung của nhóm, “Giải pháp cho một vấn đề do nhóm đề ra luôn tốt hơn giải pháp chỉ do một cá nhân nghĩ ra” [31, tr 25]. Nhiệm vụ học tập được đưa ra để nhóm thảo luận, sau đó mọi người phải đi đến quyết định cuối cùng và giải quyết chúng theo hướng tối ưu nhất. Nhiều người trong nhóm với những kiến thức, kinh nghiệm khác nhau sẽ đưa ra quan điểm, giải pháp khác nhau thậm chí trái ngược nhau. Nhưng khi vấn đề của nhóm được đem ra thảo luận sẽ đem lại nhiều kiến thức bổ ích, thông tin đa dạng, giúp các thành viên học cách suy nghĩ, xem xét lại kiến thức của mình, giải quyết những khúc mắc chưa rõ và chấp nhận, phát triển thêm kiến thức mới. Do đó, các thành viên của nhóm đồng lòng đi đến quyết định cuối cùng, sẵn sàng thực hiện giải pháp chung do nhóm đưa ra. Để ra quyết định và giải quyết vấn đề được nhanh chóng, hiệu quả các thành viên trong nhóm cần phải: - Nhận diện vấn đề một cách rõ ràng. - Biết cách phát hiện vấn đề. - Phân tích vấn đề dưới nhiều góc độ khác nhau trên cơ sở khoa học, khách quan. - Lắng nghe ý kiến của tất cả thành viên. - Bám sát mục tiêu cần giải quyết. - Đưa ra nhiều giải pháp và chọn giải pháp phù hợp với mục tiêu làm việc của nhóm. - Nhận thức những mặt hạn chế của vấn đề chưa giải quyết được. - Các thành viên đều tham gia và thỏa mãn với cách giải quyết vấn đề của nhóm. e. Kỹ năng hợp tác, chia sẻ Với cách dạy và học hiện nay trong nhà trường, người học sẽ thu nhận nhiều kết quả hơn nếu họ hợp tác, kết quả học tập cao hơn nếu họ biết làm việc với một người khác. SV không chỉ hợp tác, chia sẻ với các thành viên khác bằng nỗ lực của mình để nắm rõ các vấn đề cần giải quyết của nhóm mà họ còn có thể nuôi dưỡng một mối quan hệ ổn định, điều đó thật sự quan trọng cho việc phát triển xã hội và sự phát triển về mặt tâm lý. Khi SV có ý thức hợp tác chia sẻ cùng người khác, họ dường như có khả năng biểu lộ những hành vi mang tính xã hội, chấp nhận nhiệm vụ, bày tỏ sự nhiệt tình với các hoạt động của nhóm, lớp và ngày càng tiến bộ hơn. Biết chia sẻ và hợp tác là KN không thể thiếu nếu chúng ta muốn nhóm tồn tại và hoạt động hiệu quả. Một nhóm được đánh giá là thành công khi kết quả hợp tác của nhóm hoàn toàn vượt xa về tính hiệu quả và khối lượng công việc hoàn thành, khi so sánh với kết quả được thực hiện chỉ bởi một cá nhân. Nhưng nếu kết quả “ngược lại” có nghĩa là việc hợp tác, chia sẻ của nhóm đã thất bại. Nếu không có sự chuẩn bị, SV sẽ không quen với cách học theo nhóm, họ cho rằng rất khó làm việc với bạn đó vì sự khác biệt trong cách suy nghĩ, trình độ nhận thức, hay kiểu “9 người 10 ý”…hoặc có thành viên trong nhóm ỷ lại, đùn đẩy trách nhiệm cho người khác, không tôn trọng ý kiến của nhau, chỉ thích làm theo ý mình, thờ ơ với những vấn đề khó khăn của nhóm…Với cách làm việc như vậy, hiệu quả học nhóm không cao, thậm chí dẫn đến tan rã nhóm. “Khi đã là một thành viên của nhóm, không nên có quan niệm rằng tôi chỉ làm theo sự phân công hay tôi chỉ làm theo những giá trị mà tôi được thừa nhận” [37, tr 58]. Ngoài ra, hợp tác chia sẻ với nhau không thể tồn tại những thói quen xấu như: không biết chấp nhận người khác, không ý thức được trách nhiệm và quyền hạn của mình, không thoải mái khi nghe lời phê bình hay góp ý…Những thói quen này phải được đẩy lùi để tinh thần đồng đội thật sự thống trị [10; tr 54-60]. Sự phối hợp và tương tác giữa các thành viên trong nhóm chỉ diễn ra một cách hiệu quả khi các thành viên trong nhóm hiểu mình và hiểu người, cùng chia sẻ mục tiêu và trách nhiệm, mong muốn được lắng nghe người khác và tôn trọng sự nỗ lực của mọi thành viên, nhất là luôn tin rằng mỗi thành viên đều có một đóng góp quan trọng trong HĐN. Như vậy, biểu hiện của người biết hợp tác - chia sẻ khi làm việc nhóm là: - Ý thức được vai trò của mình trong nhóm. - Tôn trọng các thành viên. - Biết chấp nhận và lắng nghe người khác. - Hòa đồng, thân thiện và cởi mở. - Quan tâm giúp đỡ các thành viên. - Tuân theo các nội qui của nhóm. - Hoàn thành công việc được giao. Quá trình hình thành và rèn luyện các KN bộ phận của HĐN trong học tập của SV cũng qua ba giai đoạn: - Giai đoạn nhận thức: SV lĩnh hội tri thức về các KN HĐN trong học tập đầy đủ và hệ thống. - Giai đoạn làm thử: SV thực hiện hành động dựa trên kiến thức đã được trang bị và kinh nghiệm vốn có. - Giai đoạn luyện tập: giúp SV hình thành những KN HĐN chuyên biệt, biết vận dụng sáng tạo trong những tình huống khác nhau. Tóm lại: HĐN trong học tập chỉ mang lại hiệu quả cao khi người học có được các KN cần thiết. KN HĐN trong học tập bao gồm các KN bộ phận KN lắng nghe, KN thuyết trình, KN thảo luận, KN giải quyết vấn đề và KN hợp tác, chia sẻ. Các KN này quan hệ mật thiết với nhau và qui định lẫn nhau. SV được xem là có KN HĐN trong học tập khi họ: - Nắm vững tri thức về các KN HĐN trong học tập. - Vận dụng tri thức và kinh nghiệm đã có đó để hành động và hành động có kết quả một cách ổn định, thường xuyên trong các điều kiện, hoàn cảnh khác nhau. Do đó, để đánh giá KN HĐN trong học tập của SV phải dựa trên mức độ nhận thức của SV về KN HĐN, mức độ thực hiện từng KN bộ phận trong quá trình HĐN. Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi xác định biểu hiện KN HĐN trong học tập của SV theo 5 mức độ sau: + Mức 1 – mức rất thấp: hầu như không thực hiện các thao tác, hành động cần có khi HĐN. + Mức độ 2 – mức thấp: chưa thực hiện đầy đủ chính xác phần lớn các thao tác, hành động khi HĐN. + Mức độ 3 – mức trung bình: thực hiện tương đối đầy đủ, chính xác và ổn định các thao tác hành động khi HĐN. + Mức 4 – mức cao: thực hiện khá đầy đủ, chính xác và ổn định các thao tác, hành động khi HĐN, có thiếu sót nhưng không đáng kể. + Mức 5 – mức rất cao: thực hiện đầy đủ, chính xác, thành thạo một cách ổn định và thường xuyên các thao tác hành động khi HĐN. 1.3 Đặc điểm hoạt động học tập của SV 1.3.1 Đặc điểm phát triển tâm lý của SV * Đặc điểm về thể chất Sự phát triển cơ thể của SV trong thời kỳ này đã hoàn thành và ổn định sau những biến động sâu sắc của tuổi dậy thì. Đây là giai đoạn phát triển ổn định, đồng đều về hệ xương, cơ bắp, hệ tim mạch, hệ thần kinh, trọng lượng não. Các tố chất về thể lực đều phát triển mạnh như sức nhanh, sức bền bỉ, dẻo dai, linh hoạt…nhờ sự phát triển ổn định của các tuyến nội tiết cũng như sự tăng trưởng của các hoocmon. * Một số nét nhân cách nổi bật + Thế giới quan - SV bắt đầu hình thành hệ thống quan điểm về tự nhiên và xã hội. Thế giới quan của SV phát triển ở mức độ cao, sâu sắc và toàn vẹn. Họ nhận thức rõ ràng muốn thành đạt trong sự nghiệp phải thông qua nỗ lực, ý chí, trí tuệ của bản thân (tài - đức thật sự). Điều này thể hiện xu hướng sống tích cực ở SV, tạo ra những con người năng động, ham học hỏi, giàu ý chí. - Định hướng giá trị phát triển mạnh khi SV phải đứng trước việc lựa chọn nghề, chọn cách chuyên ngành khác nhau. SV đánh giá cao các giá trị: hòa bình, tự do, tình yêu, công lý, việc làm, niềm tin, gia đình, nghề nghiệp, sống có mục đích…Định hướng giá trị của SV liên quan mật thiết với xu hướng nhân cách của họ. + Tự đánh giá phát triển cao - Tự đánh giá là một trong những phẩm chất quan trọng, một trình độ phát triển cao của nhân cách. Tự đánh giá có ý nghĩa định hướng, điều chỉnh hoạt động hành vi của chủ thể nhằm đạt được mục đích, lý tưởng sống. - Tự đánh giá ở SV mang tính chất toàn diện và sâu sắc. SV không chỉ đánh giá hình thức bản thân bên ngoài, mà còn đi sâu vào các phẩm chất, giá trị của nhân cách. Việc tự đánh giá của SV vừa là tự ý thức vừa là tự giáo dục, tự hoàn thiện bản thân theo hướng tích cực. + Tính cách Tinh thần làm chủ tập thể, thái độ đối với lao động, tinh thần tự giác, kỹ luật, trách nhiệm, tự kiềm chế, kiên trì và nhẫn nại…đang dần phát triển. SV biết khắc phục khó khăn thiếu sót trong hành vi, phát huy những phẩm chất tốt riêng biệt, hướng vào việc hình thành nhân cách. + Tình cảm Tuổi SV là thời kỳ phát triển tích cực nhất của những loại tình cảm cao cấp như: tình cảm trí tuệ, tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ. Những tình cảm này biểu hiện rất phong phú trong hoạt động và đời sống của SV. Lứa tuổi này cũng bắt đầu xuất hiện tình yêu nam nữ đích thực, đạt đến hình thái chuẩn mực, rất đẹp, đầy lãng mạn. * Đặc điểm về hoạt động nhận thức Bản chất hoạt động nhận thức của SV là đi sâu vào tìm hiểu các môn học chuyên ngành, kế thừa hệ thống tri thức đã có, đồng thời phải luôn tiếp cận với những thành tựu của khoa học đương đại. Hoạt động nhận thức của SV gắn liền với nghiên cứu khoa học, chuyên môn và nghề nghiệp. Hoạt động nhận thức của SV có tính chất mở rộng theo năng lực và sở trường, luôn phối hợp nhiều thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, so sánh…nhưng các thao tác trí tuệ đã phát triển ở trình độ cao, có sự phối hợp nhẹ nhàng, tinh tế, linh động trong quá trình lĩnh hội tri thức. Tóm lại: Một số đặc điểm tâm lý nổi bật của SV là trình độ nhận thức cao, tư duy nhạy bén, nhân cách phát triển rõ nét, nhu cầu tự đánh giá, tự ý thức phát triển mạnh mẽ…tạo điều kiện cho SV có thói quen tự học, tự nghiên cứu và hợp tác với người khác. 1.3.2 Đặc điểm hoạt động học tập của SV Hoạt động học tập tiếp tục giữ vị trí quan trọng ở tuổi thanh niên SV, nhưng hoạt hoạt động này mang tính chuyên ngành, phạm vi hẹp nhưng sâu sắc hơn. SV học tập để tiếp thu các tri thức khoa học, hình thành KN, kỹ xảo nghề nghiệp, phát triển những phẩm chất nhân cách. SV không những phải nắm vững tri thức, KN, kỹ xảo…mà SV phải có khả năng phát hiện và giải quyết vấn đề, khả năng diễn đạt ý tưởng, biết cách tổ chức và xử lý thông tin...Điều này đòi hỏi hoạt động học tập của SV phải tăng cường tính chủ động, tự giác, tích cực, độc lập và sáng tạo nhiều hơn trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Vì vậy, tự học và nghiên cứu khoa học là hoạt động đặc trưng ở bậc đại học. Ngoài ra, hình thức tổ chức dạy và học của nhà trường, phương pháp giảng dạy của GV linh động, mềm dẻo… nhằm hình thành và rèn luyện cho SV các KN tự học. Trong đó, dạy và học theo nhóm là một trong những hoạt động học tập giúp SV rèn luyện KN tự học thông qua HĐN. 1.3.3 Vai trò của hoạt động nhóm trong học tập - Đào tạo theo tín chỉ đang dần được áp dụng ở một số trường Đại học Việt Nam và bước đầu đã chứng tỏ được ưu thế so với phương thức đào tạo theo niên chế. Trong phương thức đào tạo theo tín chỉ, việc tự học – tự nghiên cứu của SV được coi trọng, được tính vào nội dung và thời lượng của chương trình. Đây là phương thức đưa giáo dục đại học về đúng nghĩa của nó: người học tự học, tự nghiên cứu, giảm sự nhồi nhét kiến thức của người dạy, do đó phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học. Đào tạo theo hệ thống tín chỉ đòi hỏi SV phải tiếp cận với phương pháp tự học và phương pháp học nhóm làm chính. - Đáp ứng xu thế “Dạy và học thông qua các tổ chức hoạt động của người học”, người học được cuốn hút vào các hoạt động học tập do GV tổ chức và chỉ đạo, qua đó họ tự khám phá những điều mình chưa biết, chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được GV sắp đặt. Người học được đặt vào những tình huống cụ thể, quan sát trực tiếp, thảo luận, giải quyết vấn đề…từ đó tự mình lĩnh hội tri thức mới, hình thành các KN cần thiết mà không bị rập khuôn theo mẫu có sẵn, do đó người học có cơ hội bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo. - Tất cả các thành viên trong nhóm hợp tác, trao đổi và giúp đỡ lẫn nhau. Điều đó tạo nên môi trường học tập thoải mái, cởi mở và sôi nổi, người học cảm thấy không bị căng thẳng như lúc làm việc một mình, khó khăn thường vượt qua. Các thành viên của nhóm cảm thấy tự do trình bày những suy nghĩ, kinh nghiệm của bản thân, hỏi nhau những vấn đề mình còn chưa hiểu, chưa biết…Do đó, bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải chỉ là sự tiếp nhận thụ động từ GV, nhiệm vụ học tập được giải quyết dễ dàng hơn. - HĐN giúp thỏa mãn nhu cầu học tập của mỗi cá nhân: người học tự do lựa chọn cách học riêng cho mình, khuyến khích họ đưa ra cách giải quyết đầy sáng tạo, hình thành tinh thần trách nhiệm đối với tập thể, tránh được tính ỷ lại, lười biếng sao nhãng nhiệm vụ được giao, khơi dậy tinh thần tập thể, vì lợi ích chung của nhóm, của cộng đồng và xã hội, phát triển tư duy linh hoạt, mềm dẻo, sáng tạo, khả năng phân tích tổng hợp và giải quyết vấn đề. Khi tham gia học nhóm, SV phải tự mình giải quyết nhiệm vụ học tập, đòi hỏi sự tham gia tích cực của các thành viên…vì thế sẽ hình thành ở họ thói quen làm việc độc lập, tự giác, tích cực và tự tin, có nghĩa là việc học của họ sẽ đạt kết quả cao hơn. - Phát triển năng lực giao tiếp: học tập theo nhóm sẽ tạo tình huống giao tiếp đòi hỏi người học phải thể hiện quan điểm của mình thông qua thuyết trình, thảo luận…biết cách trình bày và bảo vệ quan điểm của mình; biết cách thuyết phục và thương lượng trong việc giải quyết vấn đề; biết lắng và chấp nhận những quan điểm của người khác để giải quyết những bất đồng ý kiến theo hướng xây dựng để đi đến quyết định thống nhất. - Phát triển năng lực cộng tác làm việc, tăng cường khả năng học hợp tác: người Việt nam có câu: “học thầy không tày học bạn”, cộng tác trong học tập tạo cơ hội cho mỗi thành viên chia sẻ những gì mình đã học với bạn bè, tự hào về những gì mình làm được cũng như học hỏi những điều mình chưa biết, nhờ đó mà SV thấm nhuần tinh thần đồng đội, khắc phục sự thô bạo cộc cằn, biết khoan dung và quan tâm đến người khác. Học tập theo nhóm tạo cơ hội cho SV chủ động tham gia, chia sẻ kiến thức và cùng nhau đưa ra quyết định, điều đó khiến họ cảm thấy mình là chủ, là người điều khiển quá trình học, đây là động lực tích cực giúp sinh viên hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập của mình. Đối với nhiều SV, nhất là SV năm nhất, HĐN sẽ tạo cơ hội cho họ tiếp xúc, gặp gỡ quen biết lẫn nhau, giao lưu với bạn bè, trao đổi các vấn đề liên quan gián tiếp đến bài học như khó khăn hay thuận lợi trong học tập. 1.3.4 Sơ nét về trường Đại học Sài gòn Tháng 4 năm 2007, căn cứ theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, trường Đại học Sài gòn được thành lập trên cơ sở nâng cấp trường Cao đẳng Sư phạm TP. Hồ Chí Minh. Trường ĐHSG là trường đào tạo đa ngành, đa cấp, đa lĩnh vực. Trường đào tạo từ trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học và sau đại học, đào tạo theo hai hình thức: chính quy và không chính quy. Hiện trường có 17 khoa đào tạo với 30 chuyên ngành cấp độ đại học, cao đẳng; 4 chuyên ngành cấp độ trung cấp thuộc các lĩnh vực: Kinh tế - Kỹ thuật; Văn hóa – Xã hội; Chính trị - Nghệ thuật; Luật và Sư phạm. Chương trình đào tạo của nhà trường phù hợp với mục tiêu giáo dục và chức năng, nhiệm vụ của nhà trường, đồng thời đáp ứng được nhu cầu học tập của người học, nhu cầu nguồn nhân lực của thị trường lao động của thành phố Hồ Chí Minh và cả nước. Từ chỗ liên kết với Đại học Huế đào tạo ở bậc Đại học, Trường đã được Ủy Ban Nhân Dân TP.Hồ Chí Minh cho phép thực hiện liên kết đào tạo với các cơ sở GD khác như Đại học Vinh, các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp tại Tây Nguyên, duyên hải miền Trung và các tỉnh miền Tây và Đông Nam bộ. Nhà trường chú trọng đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng phát triển năng lực tự học, tự đào tạo, tự nghiên cứu và làm việc tập thể của người học. Ngoài ra, trường đã có kế hoạch và lộ trình tổ chức đào tạo theo học chế tín chỉ cho tất cả các hệ, bậc đào tạo kể từ năm 2008 nhằm đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của người học. Đội ngũ Cán bộ quản lý, giáo viên của trường ngày càng được trẻ hóa và có trình độ cao, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học của trường. Cùng với xu hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, dạy học bằng chính hoạt động của người học, dạy học trong hoạt động hợp tác giữa người dạy – người học và giữa những người học với nhau, dạy học thông qua việc phát huy khả năng tự học, tạo mọi điều kiện để người học tham gia vào quá trình dạy học, đặc biệt là với hình thức đào tạo theo tín chỉ…thì việc tổ chức dạy và học theo nhóm là một trong những hình thức dạy học được Ban giám hiệu nhà trường, GV và SV quan tâm và áp dụng trong những năm gần đây nhằm thực hiện mục tiêu đổi mới dạy và học nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường. 1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến KN HĐN trong học tập của SV 1.4.1 Nhà trường Một trong những mục tiêu đào tạo của trường đại học là dạy KN cho SV. Với sự thay đổi hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ trong các trường đại học, nhà trường đổi mới nội dung, giáo trình, tổ chức dạy và học, thời gian đào tạo linh hoạt, vận dụng linh hoạt phương pháp dạy và học thể hiện sự tương tác giữa thầy và trò…đã giúp SV hình thành những KN cần thiết để nhanh chóng hòa nhập và thích nghi với môi trường hoàn toàn mới, trong đó có KN HĐN. SV học theo nhóm là hoạt động không thể thiếu trong nhà trường hiện nay. Tuy nhiên, để học nhóm mang lại hiệu quà cao, ngoài việc tổ chức chương trình học phù hợp, nhà trường phải có cơ sở vật chất kỹ thuật đảm bảo cho hoạt động dạy và học của GV và SV, xây dựng hệ thống thư viện cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết để SV có thể tự học và học theo nhóm. Ngoài ra, các hoạt động ngoại khóa phong phú đa dạng góp phần để SV rèn luyện và nâng cao KN HĐN. 1.4.2 Giáo viên GV là người ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành và phát triển KN HĐN cho SV thông qua việc tổ chức dạy và học. GV là người hướng dẫn SV cách học nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo của mình. Với phương pháp dạy học theo nhóm mang tính tương tác và khám phá, GV là người tổ chức hướng dẫn SV cách học, tạo điểu kiện để SV sẵn sàng hợp tác, giúp đỡ nhau khi giải quyết nhiệm vụ học tập. Hơn nữa, GV thường xuyên quan tâm đến việc kiểm tra, nhận xét đánh giá thái độ làm việc, tinh thần trách nhiệm cũng như kết quả học tập của SV sau khi tham gia HĐN tạo cơ hội cho SV thấy rõ ưu và nhược điểm của mình, giúp họ nỗ lực hơn để rèn luyện và hoàn thiện KN HĐN. 1.4.3 Sinh viên Trước tiên, KN HĐN trong học tập được hình thành trên cơ sở hiểu biết của SV về HĐN. Với phương pháp dạy học tích cực, SV phải thay đổi suy nghĩ và cách học của mình. SV phải ý thức làm chủ bản thân trong quá trình học tập, năng động sáng tạo, linh hoạt và thích nghi nhanh chóng với cách học mới, hình thành thói quen tự học, tự nghiên cứu, có năng lực tìm kiếm và xử lý thông tin, chịu trách nhiệm với kết quả học tập của mình … đây là những yếu tố góp phần hình thành KN HĐN cho SV. Bên cạnh đó, SV học tập với niềm say mê hứng thú, khát khao tìm tòi khám phá, học trong môi trường tương tác, thân thiện, cùng nhau giải quyết nhiệm vụ học tập…đều ảnh hưởng đến việc hình thành các KN HĐN cho SV. Tiểu kết chương 1 Trong phần cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu, chúng tôi đã tập trung làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản sau: 1. Các khái niệm: hoạt động, nhóm, HĐN, hình thức hoạt động tập theo nhóm, KN và KN HĐN trong học tập. 2. KN HĐN trong học tập của SV là một hệ thống gồm nhiều KN bộ phận cụ thể là KN lắng nghe, KN thuyết trình, KN thảo luận, KN giải quyết vấn đề và KN hợp tác – chia sẻ. 3. KN HĐN trong học tập của SV chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố khách quan bên ngoài là nhà trường, GV và một số yếu tố chủ quan thuộc về bản thân SV. Chương 2: TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Tổ chức nghiên cứu 2.1.1 Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu thực trạng nhận thức và biểu hiện các KN HĐN trong học tập của SV trường ĐHSG. Qua đó, biết được mức độ hiểu biết, thái độ và biểu hiện của SV về các KN HĐN trong học tập. 2.1.2 Mẫu nghiên cứu Mẫu nghiên cứu được chọn ngẫu nhiên bao gồm 287 SV năm I và SV năm III khối Sư phạm thuộc khoa Tự nhiên và khoa Xã hội. Bảng 2.1 Phân bố mẫu nghiên cứu theo khoa, năm học và giới tính Tiêu chí phân loại SV Số lượng Tỷ lệ (%) Tổng Tự nhiên 162 56.4 Khoa Xã hội 125 43.6 287 Năm I 134 46.7 Năm học Năm III 153 53.3 287 Nam 137 47.7 Giới tính Nữ 150 52.3 287 2.1.3 Tổ chức quá trình nghiên cứu - Từ tháng 5/2009 đến tháng 9/2009: xây dựng và bảo vệ đề cương. - Từ tháng 10/2009 đến tháng 12/2009: viết lý luận của đề tài và xây dựng phiếu điều tra. - Từ tháng 1/2010 đến tháng 3/2010: điều tra trên khách thể nghiên cứu và xử lý số liệu. - Từ tháng 4/2010 đến tháng 5/2010: phân tích thực trạng vấn đề nghiên cứu. - Từ tháng 6/2010 đến tháng 7/2010: hoàn thành luận văn. 2.2 Phương pháp nghiên cứu 2.2.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận 2.2.1.1 Mục đích: Xác lập cơ sở phương pháp luận cho qui trình và phương pháp nghiên cứu của đề tài. 2.2.1.2 Nội dung: + Khái quát, hệ thống hóa những vấn đề lý luận về KN HĐN, làm sáng tỏ các khái niệm công cụ trong việc nghiên cứu thực trạng KN HĐN trong học tập của SV. + Phân tích, tổng hợp và đánh giá các công trình nghiên cứu trước, từ đó chỉ ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. + Xác lập cơ sở lý luận cho việc chọn lựa và thiết lập công cụ nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu của đề tài. 2.2.1.3 Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp này được thực hiện thông qua các quá trình như phân tích, tổng hợp, phân loại và hệ thống hóa các tài liệu nhằm sắp xếp những tri thức về nhóm, hoạt động nhóm, KN, KN HĐN…để xác định những cơ sở lý luận cần thiết cho đề tài. 2.2.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn 2.2.2.1 Mục đích nghiên cứu: + Tìm hiểu KN HĐN trong học tập của SV biểu hiện ở các mặt nhận thức, thái độ và mức độ thực hiện. + Những yếu tố ảnh hưởng đến KN HĐN trong học tập của SV. 2.2.2.2 Nội dung nghiên cứu: Xây dựng hệ thống câu hỏi để thu thập vấn đề nghiên cứu: + Khảo sát mức độ nhận thức của SV về KN HĐN. + Khảo sát mức độ biểu hiện của SV về các KN bộ phận của KN HĐN. + Các yếu tố ảnh hưởng đến KN HĐN trong học tập của SV 2.2.2.3 Các phương pháp nghiên cứu Sử dụng phối hợp nhiều phương pháp khác nghiên cứu khác nhau, trong đó phương pháp điều tra bằng bảng hỏi là phương pháp quan trọng nhất. Các phương pháp còn lại là phương pháp hỗ trợ. + Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi * Mục đích: - Thu thập một số thông tin về bản thân khách thể nghiên cứu. - Điều tra nhận thức, thái độ, ý thức rèn luyện và mức độ biểu hiện của SV đối với KN HĐN trong học tập. - Thu thập thông tin về các yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành và phát triển KN HĐN của SV. * Cách tiến hành: - Quá trình điều tra được tổ chức chặt chẽ có trình tự, đảm bảo sự chuẩn bị chu đáo về phương tiện, điều kiện không gian và thời gian. - Trước khi lấy ý kiến, chúng tôi thông báo đầy đủ rõ ràng mục đích, yêu cầu của việc điều tra, hướng dẫn cụ thể chi tiết, đồng thời đảm bảo sự khéo léo, tế nhị tạo cảm giác thoải mái cho SV để có thể thu được số liệu khách quan nhất. Qui trình phát phiếu điều tra gồm 3 giai đoạn sau: Giai đoạn 1: - Bảng hỏi số 1: Dựa trên những biểu hiện của thực trạng HĐN trong học tập, cơ sở lý luận của đề tài, người nghiên cứu đưa ra bảng thăm dò mở nhằm trưng cầu ý kiến của khách thể về KN HĐN trong học tập. Nội dung phiếu là những câu hỏi nhằm trưng cầu ý kiến của SV về KN HĐN, sau đó phân tích và xử lý phiếu câu hỏi mở. (Phụ lục 1) * Cách tiến hành: Chúng tôi điều tra trên mẫu gồm 70 SV trường ĐHSG. Sau đó, phân tích và xử lý phiếu câu hỏi mở. Trên cơ sở kết quả của phiếu điều tra câu hỏi mở, kết hợp với những vấn đề lý luận về KN HĐN trong học tập, chúng tôi xây dựng phiếu điều tra chính thức, nội dung nhằm đánh giá thực trạng KN HĐN trong học tập của SV. Giai đoạn 2: - Bảng hỏi số 2: trên cơ sở kết quả của phiếu điều tra bằng câu hỏi mở, kết hợp với những vấn đề lý luận về KN HĐN trong học tập, chúng tôi xây dựng phiếu điều tra, nội dung nhằm đánh giá mức độ biểu hiện KN HĐN của SV trong học tập. (Phụ lục 2) Hệ thống các câu hỏi trong phiếu điều tra gồm 2 phần: + Phần I: phần thông tin cá nhân của người trả lời: giới tính, khoa và năm học của khách thể nghiên cứu. + Phần II: phần nội dung chính, gồm 2 phần Phần A: tìm hiểu về mức độ nhận thức, thái độ và ý thức rèn luyện KN HĐN trong học tập của SV nói chung. Mỗi câu có 5 mức độ lựa chọn và cách cho điểm như sau: - Câu 1 và 4: khảo sát nhận thức của SV về KN HĐN được chia thành 5 mức độ: hoàn toàn không biết (1 điểm), không biết (2 điểm), biết một chút (3 điểm), biết nhiều (4 điểm) và biết rất nhiều (5 điểm). - Câu 2: đánh giá thái độ của SV đối với KN HĐN được chia thành 5 mức độ: hoàn toàn không quan trọng (1 điểm), không quan trọng (2 điểm), bình thường (3 điểm), quan trọng (4 điểm) và rất quan trọng (5 điểm). - Câu 3: khảo sát mức độ rèn luyện KN HĐN của SV trong học tập được chia thành 5 mức độ: hoàn toàn không quan tâm (1 điểm), không quan tâm (2 điểm), đôi khi (3 điểm), quan tâm (4 điểm) và rất quan tâm (5 điểm). Phần B: tìm hiểu về mức độ biểu hiện của SV về các KN bộ phận của KN HĐN trong học tập gồm 94 câu chia thành 5 KN. Trong đó: + KN lắng nghe: gồm 15 câu (B1 đến B15) + KN thuyết trình: 20 câu (B16 đến B35) + KN thảo luận: 20 câu (B36 đến B55) + KN giải quyết vấn đề: 14 câu (B56 đến B69) + KN hợp tác, chia sẻ: 25 câu (B70 đến B94 ) *Cách cho điểm Mỗi câu có 5 mức độ lựa chọn: rất thường xuyên (5 điểm), thường xuyên (4 điểm), đôi khi (3 điểm), không bao giờ (2 điểm) và hoàn toàn không bao giờ (1 điểm). Riêng đối với các câu có ý nghĩa tiêu cực: 12, 24, 27, 45, 49, 50, 51, 52, 63, 76, 81, 84, 86, 91 số điểm cho ngược lại để phù hợp với thang đo. *Thang đánh giá: - Mức rất cao (4.51đ - 5đ) : thực hiện đầy đủ, chính xác, thành thạo một cách ổn định và thường xuyên các thao tác hành động trong quá trình tham gia HĐN. - Mức cao (3.51đ - 4.5đ) : thực hiện khá đầy đủ, chính xác và ổn định các thao tác hành động trong quá trình tham gia HĐN, còn thiếu sót nhưng không đáng kể. - Mức trung bình (2.51đ - 3.5đ) : thực hiện tương đối đầy đủ, chính xác và ổn định các thao tác hành động trong quá trình tham gia HĐN. - Mức thấp (1.51đ - 2.5đ) : chưa thực hiện đầy đủ chính xác phần lớn các thao tác, hành động trong quá trình tham gia HĐN. - Mức rất thấp (1đ - 1.5đ) : hầu như không thực hiện các thao tác, hành động cần có khi tham gia HĐN. Giai đoạn 3: - Bảng hỏi số 3: khảo sát mức độ ảnh hưởng của một số yếu tố đến việc hình thành KN HĐN trong học tập của sinh viên gồm 25 câu (Phụ lục 3) + Nhà trường: các câu 1, 2, 3, 4 + Giáo viên: các câu 5 đến 16 + Sinh viên: các câu 17 đến 24 * Cách cho điểm: Mỗi câu có 3 mức độ lựa chọn: ảnh hưởng “nhiều” (3 điểm), ảnh hưởng “vừa” (2 điểm) và ảnh hưởng “ít” (1 điểm). * Thang đánh giá: - 2.51đ - 3đ : mức độ ảnh hưởng nhiều - 1.51đ - 2.5đ : mức độ ảnh hưởng vừa - 1đ - 1.5đ : mức độ ảnh hưởng ít * Cách tiến hành: đối với bảng câu hỏi số 2 và 3, chúng tôi tiến hành điều tra qua 2 bước: - Khách thể điều tra thử: chúng tôi tiến hành điều tra trên 60 SV trường ĐHSG để đảm bảo độ tin cậy của phiếu điều tra. Trên cơ sở kết quả điều tra thử, chúng tôi hoàn chỉnh và bổ sung lại phiếu điều tra để tiến hành điều tra chính thức. - Khách thể điều tra chính thức: chúng tôi tiến hành điều tra chính thức trên 287 SV của khối Sư phạm thuộc khoa Tự nhiên và khoa Xã hội trường ĐHSG. + Phương pháp phỏng vấn * Mục đích: Nhằm thu thập thêm thông tin, giải thích và đánh giá về sự hiểu biết cũng như thái độ của SV về KN HĐN, nhận xét của GV về biểu hiện của KN HĐN trong học tập và rèn luyện của SV hiện nay. * Cách tiến hành: Trò chuyện, trao đổi trực tiếp với SV, GV đang giảng dạy tại các lớp được chọn làm khách thể nghiên cứu, nhằm làm rõ thêm những thông tin thu được từ những phương pháp khác. + Phương pháp quan sát * Mục đích: Nhằm làm rõ, phát hiện thêm thái độ, ý thức rèn luyện và mức độ biểu hiện các KN HĐN của SV khi tham gia học theo nhóm. Trên cơ sở đó, đánh giá một cách khách quan đầy đủ mức độ biểu hiện của SV về các KN HĐN. * Cách tiến hành: Trực tiếp giảng dạy, dự giờ một số tiết của GV khác trong những buổi học có sử dụng hình thức học theo nhóm để quan sát mức độ biểu hiện của SV đối với các KN HĐN. Ngoài ra, chúng tôi cũng quan sát thái độ, hành vi của SV trong và ngoài giờ học để tìm hiểu một số mức độ biểu hiện và rèn luyện KN HĐN của SV. + Phương pháp thống kê Sử dụng phương pháp xử lý thống kê bằng phần mềm SPSS for window 11.5 để tính: - Tỷ tỷ lệ phần trăm, thống kê tần số - Điểm trung bình Mean, xếp thứ hạng - Kiểm nghiệm T – test, kiểm nghiệm ANOVA, hệ số tương quan Pearson… Mức ý nghĩa thống kê: khoảng tin cậy 95%, α = 0.05 Chương 3: KẾT QUẢ THỰC TRẠNG KỸ NĂNG HOẠT ĐỘNG NHÓM TRONG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN 3.1 Mức độ nhận thức của SV về KN HĐN trong học tập 3.1.1 Mức độ hiểu biết chung của SV về KN HĐN trong học tập Nhận thức rõ ràng đầy đủ về KN HĐN sẽ giúp SV chủ động tích cực tham gia và học nhóm hiệu quả. Bảng 3.1 Mức độ hiểu biết của SV về KN HĐN Stt Mứ c độ Tần số Tỷ lệ (%) 1 Hoàn toàn không biết 1 0.3 2 Không biết 5 1.7 3 Biết một chút 160 55.7 4 Biết nhiều 109 38.0 5 Biết rất nhiều 12 4.2 ĐTB = 3.44 0.3 1.7 55.7 38 4.2 0 10 20 30 40 50 60Tỷ lệ % Hoàn toàn không biết không biết biết một chút Biết nhiều Biết rất nhiều Biểu đồ 3.1 Mức độ hiểu biết của SV về KN HĐN Kết quả khảo sát ở bảng 3.1 cho thấy có 42.2 % SV chọn mức biết nhiều và biết rất nhiều về KN HĐN. Mức độ biết một chút được 160 SV lựa chọn, chiếm 55.7%. Số SV không biết hoặc hoàn toàn không biết chiếm rất ít 2%. Như vậy, đa số SV đã có hiểu biết về KN HĐN trong học tập nhưng chỉ ở mức trung bình. Với môi trường học tập khác hẳn bậc phổ thông, môi trường học tập ở đại học phát huy tối đa năng lực tự học, tự nghiên cứu, khả năng ứng xử giao tiếp của người học, SV bắt đầu làm quen với cách làm việc theo nhóm, một trong những cách thức dạy và học đặc trưng ở đại học. Học nhóm khhông đơn thuần là ngồi cạnh nhau rồi tự mỗi người giải quyết nhiệm vụ học tập của riêng mình, mà SV phải tự trang bị cho mình một số KN cần thiết như KN làm việc chung với người khác, KN trình bày, KN lắng nghe, KN tìm kiếm và xử lý thông tin... Khi mỗi thành viên đã có KN, học nhóm trở thành môi trường học tập hợp tác, năng động, tích cực và hiệu quả. Việc tổ chức dạy học trên lớp trong đào tạo tín chỉ buộc SV phải làm việc nhóm, vì vậy SV phải có sự hiểu biết nhất định về KN này. Nhưng với mức độ hiểu biết về KN HĐN chỉ đạt mức trung bình, điều này sẽ ảnh hưởng đến tính tự giác, tích cực và độc lập của SV trong quá trình tham gia HĐN, do đó KN HĐN sẽ không được rèn luyện thường xuyên và kết quả học tập của SV cũng hạn chế. 3.1.2 Mức độ hiểu biết của SV đối với các KN bộ phận của KN HĐN trong học tập Nhẳm tìm hiểu sâu hơn về mức độ hiểu biết của SV về từng KN HĐN trong học tập, chúng tôi đưa ra hệ thống gồm 5 KN cơ bản và đề nghị SV tự đánh giá theo 5 mức độ biểu hiện. Dưới đây là kết quả tự đánh về mức độ hiểu biết của SV đối với các KN bộ phận của KN HĐN. Bảng 3.2 Mức độ hiểu biết của SV đối với các KN bộ phận của KN HĐN Stt Kỹ năng Hoạt động nhóm ĐTB ĐLTC Thứ hạng 1 KN Lắng nghe 3.68 0.682 1 2 KN Thuyết trình 3.34 0.725 4 3 KN Thảo luận 3.48 0.694 3 4 KN Giải quyết vấn đề 3.23 0.659 5 5 KN Hợp tác, chia sẻ 3.50 0.743 2 ĐTB = 3.44 3.68 3.34 3.48 3.23 3.5 3 3.1 3.2 3.3 3.4 3.5 3.6 3.7 Đ iểm trung bình KN Lắng nghe KN Thuyết trình KN Thảo luận KN Giải quyết vấn đề KN Hợp tác, chia sẻ Biểu đồ 3.2 Mức độ hiểu biết của SV đối với các KN bộ phận của KN HĐN Kết quả ở bảng 3.2 cho thấy ĐTB của từng KN HĐN do SV tự đánh giá từ 3.23 đến 3.68, ĐTB chung của 5 KN là 3.44. Kết quả này tương đương với kết quả điều tra ở trên về mức độ nhận thức chung về KN HĐN là 3.44. Như vậy, nhận thức các KN bộ phận của KN HĐN của SV cũng chỉ ở mức trung bình. Đối với các KN bộ phận của HĐN, KN lắng nghe được SV chọn có ĐTB cao nhất là 3.68, nghĩa là SV biết tương đối nhiều về KN lắng nghe. Lắng nghe không chỉ là KN cần có khi HĐN mà lắng nghe còn là KN cơ bản trong quá trình giao tiếp, vì vậy SV đã có hiểu biết và tích lũy kinh nghiệm về cách lắng nghe từ cuộc sống. Kế đến là KN hợp tác chia sẻ ĐTB = 3.50 và KN thảo luận ĐTB = 3.48, KN thuyết trình có ĐTB = 3.34 và KN có ĐTB thấp nhất là KN giải quyết vấn đề 3.23. Mức độ lựa chọn của SV đối với các KN này chỉ ở mức trung bình, SV có hiểu biết về các KN này nhưng chưa sâu sắc, hoàn thiện. Điều này cho thấy, tuy môi trường giáo dục đã thay đổi nhưng SV chưa được “dạy cách học – học cách học” nhứ thế nào để môi trường đại học thật sự là nơi hình thành cho SV phong cách năng động, độc lập, sáng tạo, linh hoạt trong nhận thức và hành động; biết mềm hóa tư duy để giải quyết các tình huống đa chiều. Khi được hỏi về các KN HĐN này, SV cho rằng có nghe nói, có biết về các KN này nhưng không được trang bị một cách “bài bản” mà chủ yếu các em tự học hỏi trong quá trình học tập của mình. SV cũng cho rằng, GV ít tổ chức cho SV làm việc nhóm, nội dung chương trình học nặng nề... không đủ thời gian để thầy và trò cùng chia sẻ, để SV tự rút ra kết luận, tự mình phân tích và giải quyết vấn đề, SV ít có cơ hội được trình bày quan điểm, ý kiến của mình trước lớp. Phải chăng phương pháp dạy học theo lối áp đặt “ thầy đọc trò chép, thầy cô nói hết…”, SV chỉ nghe, ghi nhớ và tái hiện nên họ không có nhiều cơ hội tự mình tìm hiểu, trình bày vấn đề theo quan điểm riêng, khám phá và giải quyết nhiệm vụ học tập theo cách của mình. 3.1.3 Mức độ đánh giá của SV về vai trò KN HĐN trong học tập Kết quả cho thấy ở bảng 3.3 cho thấy tỷ lệ SV đánh giá cao tầm quan trọng của KN HĐN trong học tập, cụ thể như sau: Bảng 3.3. Mức độ đánh giá của SV về vai trò KN HĐN Stt Vai trò của KN HĐN Tần số Tỷ lệ (%) 1 Hoàn toàn không quan trọng 1 0.3 2 Không quan trọng 1 0.3 3 Bình thường 22 7.7 4 Quan trọng 146 50.9 5 Rất quan trọng 117 40.8 ĐTB = 4.38 0.3 0.3 7.7 50.9 40.8 0 10 20 30 40 50 60Tỷ lệ % Hoàn toàn không quan trọng Không quan trọng Bình thường Quan trọng Rất quan trọng Biểu đồ 3.3. Mức độ đánh giá của SV về vai trò KN HĐN Có 263 SV chọn mức rất quan trọng và quan trọng chiếm 91.7 %. Khi tham gia học theo nhóm, SV đã nhận thức rõ nếu không có KN, mọi người khó có thể làm việc chung với nhau. Vì để giải quyết nhiệm vụ học tập của nhóm, mỗi người phải ý thức được vai trò và trách nhiệm của mình là gì? Nếu không, học nhóm chỉ là “hình thức”, kết quả là không hoàn thành được nhiệm vụ học tập và nhóm cũng có nguy cơ “ tan rã ”. Có ít SV chọn mức độ bình thường chiếm 7.7% và rất ít SV cho rằng KN HĐN không quan trọng chiếm 1%, có nghĩa hầu như SV đã khẳng định muốn HĐN hiệu quả thì bản thân họ cần phải có KN HĐN. Qua phỏng vấn, SV cũng cho rằng ngày nay khi phương pháp dạy học thay đổi nhằm nâng cao tính chủ động, sáng tạo, nâng cao năng lực tự học, tự nghiên cứu...thì học nhóm đối với SV là điều tất yếu. Nhưng nếu học theo nhóm, mà bản thân SV lại không biết cách hòa nhập với mọi người, không biết cách trình bày ý tưởng hay không biết chấp nhận và lắng nghe người khác…thì cũng không thể phát huy tối đa vai trò chủ động tích cực của mình. SV cần được dạy về các KN HĐN trong học tập. 3.1.4 Ý thức của SV đối với việc rèn luyện KN HĐN Chúng tôi tìm hiểu mức độ quan tâm của SV đến việ rèn luyện KN HĐN trong học tập, các lựa chọn được thiết lập trên thang đo 5 mức độ. Kết quả được biểu hiện ở bảng 3.4 Bảng 3.4 Mức độ quan tâm rèn luyện của SV đối với KN HĐN Stt Mức độ Số lượng Tỷ lệ % 1 Rất quan tâm 45 15.7 2 Quan tâm 183 63.8 3 Đôi khi 53 18.5 4 Không quan tâm 6 2.1 5 Hoàn toàn không quan tâm 0 0 ĐTB = 3.93 Kết quả khảo sát ở bảng 3.4 chứng tỏ SV rất tích cực trong việc rèn luyện KN cần thiết để tham gia học nhóm hiệu quả. Có 79.5% SV được hỏi đã rất quan tâm và quan tâm đến việc rèn luyện KN, chỉ có 28.5% đôi khi quan tâm và 2.1% SV cho rằng mình không quan tâm đến việc rèn luyện KN HĐN. ĐTB của thang đo là 3.93, điều này khẳng định SV quan tâm đến việc rèn luyện KN HĐN ở mức cao. Qua trò chuyện, một số SV cho biết rất lúng túng và khó khăn khi lần đầu tham gia học theo nhóm, do không biết phải bắt đầu như thế nào, tiến hành ra sao? làm gì và làm như thế nào? Trong quá trình làm việc chung, có không ít trường hợp mang tiếng “học theo nhóm” nhưng chỉ có duy nhất một thành viên làm việc, hay không ai chịu nghe ai, các thành viên đùn đẩy trách nhiệm…khiến cho HĐN trở nên phản tác dụng. Vì vậy, SV quan tâm đến việc rèn luyện KN HĐN là điều tất yếu, bởi chính KN là yếu tố cần thiết để HĐN trong học tập trở nên chất lượng và hiệu quả. Ngoài ra, SV cũng cho rằng rèn luyện KN HĐN còn giúp họ phát triển các KN mềm, nâng cao tinh thần tự giác và trách nhiệm bản thân, phát triển quan hệ bạn bè…Có được các KN này sẽ giúp SV khẳng định vị trí của mình trong giao tiếp với mọi người, đồng thời giúp SV tự tin vào bản thân, duy trì tính tích cực nhận thức trong học tập. 3.1.5 Mức độ hiểu biết của SV đối với KN HĐN trong học tập giữa các khoa, năm và giới tính 3.1.5.1 Mức độ hiểu biết của SV đối với KN HĐN nói chung theo khoa, năm và giới tính Bảng 3.5 Mức độ hiểu biết của SV đối với KN HĐN nói chung Khoa Năm Giới tính Nhóm SV Tự nhiên Xã hội I III Nam Nữ ĐTB 3.44 3.43 3.38 3.49 3.42 3.46 T-test -1.492 0.168 -0.597 P. 0.09 0.420 0.478 Kết quả kiểm nghiệm T-test ở bảng 3.5 cho thấy không có sự khác biệt giữa SV khoa Tự nhiên và khoa Xã hội, giữa SV năm I và SV năm III, giữa SV nam và SV nữ về mức độ hiểu biết đối với KN HĐN nói chung. Không có sự khác biệt về mức độ hiểu biết về KN HĐN giữa SV năm I và SV năm III là điều đáng quan tâm. Qua tìm hiểu, SV năm III cho rằng họ chưa được tiếp cận nhiều với hình thức dạy và học theo nhóm, SV chưa được tham gia các lớp bồi dưỡng về KN này. SV chia sẻ thêm, nếu GV tổ chức cho các em học nhóm, hầu như thầy cô không hướng dẫn học nhóm như thế nào, phân công nhiệm vụ cụ thể ra sao? tìm kiếm tài liệu tham khảo, xử lý thông tin sao cho hiệu quả ? Vì vậy, khi HĐN, SV chủ yếu dựa vào nhận thức và kinh nghiệm của bản thân, nên không phải học theo nhóm lúc nào cũng chất lượng và hiệu quả. Ngoài ra, nhà trường cũng chưa có nhiều hoạt động ngoại khóa thật sự bổ ích nhằm giúp SV có cơ hội trau dồi và rèn luyện KN HĐN. 3.1.5.2 Mức độ hiểu biết của SV đối với các KN bộ phận của KN HĐN trong học tập theo khoa, năm và giới tính a. So sánh theo khoa Bảng 3.6 Mức độ hiểu biết của SV đối với các KN bộ phận của HĐN theo khoa Khoa Tự nhiên Khoa Xã hội Stt Các Kỹ năng HĐN ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC T P. 1 Lắng nghe 3.63 0.686 3.74 0.674 -1.313 0.562 2 Thuyết trình 3.36 0.744 3.31 0.700 0.533 0.429 3 Thảo luận 3.46 0.706 3.51 0.679 -0.596 0.944 4 Giải quyết vấn đề 3.28 0.698 3.16 0.614 1.504 0.014* 5 Hợp tác, chia sẻ 3.51 0.758 3.49 0.725 0.275 0.533 (*: có sự khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê với mức α = 0.05) Kết quả kiểm nghiệm T - test: có sự khác biệt giữa SV khoa Tự nhiên và khoa Xã hội về mức độ hiểu biết của KN giải quyết vấn đề. ĐTB của KN giải quyết vấn đề cho thấy mức độ hiểu biết về KN giải quyết vấn đề của SV khoa TN cao hơn SV khoa XH. b. So sánh theo năm học Bảng 3.7 Mức độ hiểu biết của SV đối với các KN bộ phận của KN HĐN theo năm học Năm I Năm III Stt Các Kỹ năng HĐN ĐTB ĐLTC ĐTB ĐLTC T P. 1 Lắng nghe 3.63 0.679 3.72 0.683 -1.143 0.398 2 Thuyết trình 3.20 0.691 3.46 0.734 -3.028 0.007* 3 Thảo luận 3.51 0.691 3.46 0.698 0.528 0.954 4 Giải quyết vấn đề 3.18 0.647 3.27 0.669 -1.140 0.338 5 Hợp tác, chia sẻ 3.43 0.699 3.56 0.777 -1.474 0.143 (* : có sự khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê với mức α = 0.05) Kiểm nghiệm T – test cho thấy có sự khác biệt về mức độ hiểu biết giữa SV năm I và SV năm III đối với KN thuyết trình. Dựa vào ĐTB của SV năm III (ĐTB=3.46) cao hơn SV năm I (ĐTB=3.20), có nghĩa SV năm III biết nhiều về KN thuyết trình. Đối với SV năm III, các em có khoảng thời gian tương đối dài học tập ở môi trường đại học, điều đó giúp các em có hiểu biết nhất định về KN thuyết trình. Hơn nữa, các em phải chuẩn bị cho đợt thực tập sư phạm đầu tiên để trở thành giáo viên thực sư, vì thế SV năm III ý thức cần phải trang bị kiến thức và rèn luyện KN giảng bài làm sao cho học sinh dễ hiểu, chủ động và tự tin khi đứng trước tập thể... Điều này phù hợp với kết quả khảo sát ý thức rèn luyện KN HĐN trong học tập của SV. c. So sánh theo giới tính Bảng 3.8 Mức độ hiểu biết của SV đối với các KN bộ phận của KN HĐN theo giới tính Nam Nữ Stt Các Kỹ năng HĐN ĐTB ĐLTC ĐTB ĐLTC T P. 1 Lắng nghe 3.72 0.675 3.64 0.688 0.935 0.316 2 Thuyết trình 3.39 0.780 3.29 0.669 1.256 0.050 3 Thảo luận 3.55 0.717 3.42 0.668 1.648 0.279 4 Giải quyết vấn đề 3.29 0.719 3.17 0.595 1.613 0.001* 5 Hợp tác, chia sẻ 3.53 0.805 3.48 0.683 0.518 0.077 (*: có sự khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê với mức α = 0.05) Kiểm nghiệm T – test ở bảng 3.8 cho thấy có sự khác biệt giữa SV nam và SV nữ về mức độ nhận thức của KN giải quyết vấn đề. ĐTB của KN giải quyết vấn đề của nam (3.29) cao hơn nữ (3.17), nói lên mức độ hiểu biết của SV nam về KN giải quyết vấn đề cao hơn nữ. Qua trò chuyện với các SV nữ, các em có phần thận trọng hơn, hay e dè ngại ngùng, vẫn còn tâm lý cả nể, sợ người khác không hài lòng nếu phải đưa ra quyết định cuối cùng để giải quyết nhiệm vụ chung của nhóm nên hay tìm cách tránh né. Khác với SV nữ, các bạn nam luôn nhìn nhận vấn đề đơn giản và mạnh dạn đưa ra quyết định của mình khi cần giải quyết nhiệm vụ học tập của nhóm. Như vậy: - Nhìn chung, mức độ hiểu biết của SV về KN HĐN nói chung và mức độ hiểu biết các KN bộ phận của KN HĐN ở mức trung bình. - Có sự khác biệt về mức độ hiểu biết giữa SV khoa Tự nhiên và SV khoa Xã hội, giữa SV nam và SV nữ đối với KN giải quyết vấn đề. - Đối với KN thuyết trình, có sự khác biệt mức độ hiểu biết giữa SV năm I và SV năm III. 3.2 Thực trạng mức độ biểu hiện của SV đối với các KN bộ phận của KN HĐN trong học tập 3.2.1 Mức độ biểu hiện của SV đối với các KN bộ phận của KN HĐN trong học tập Để tìm hiểu mức độ biểu hiện của SV đối các KN bộ phận của KN HĐN trong học tập, chúng tôi yêu cầu SV tự đánh giá mức độ biểu hiện thích hợp của mình khi tham gia HĐN. Kết quả khảo sát ở bảng 3.9 cho thấy: Đối với các KN bộ phận của KN HĐN trong học tập, SV có khuynh hướng biểu hiện ở mức cao, tuy còn một vài hạn chế nhất định. KN hợp tác chia sẻ được SV biểu hiện tốt nhất trong các KN bộ phận của KNHĐN, xếp thứ hai là KN giải quyết vấn đề, mức độ biểu hiện KN lắng nghe của SV xếp thứ ba, xếp thứ tư là KN thảo luận. KN thuyết trình của SV có mức độ biểu hiện thấp nhất trong các KN HĐN. Bảng 3.9 Mức độ biểu hiện của SV đối với các KN bộ phận của KN HĐN Stt Các KN HĐN ĐTB Thứ hạng 1 Lắng nghe 3.71 3 2 Thuyết trình 3.57 5 3 Thảo luận 3.60 4 4 Giải quyết vấn đề 3.75 2 5 Hợp tác chia sẻ 3.79 1 ĐTB ĐH = 3.68 3.71 3.57 3.6 3.75 3.79 3.45 3.5 3.55 3.6 3.65 3.7 3.75 3.8Đ iểm trung bình Lắng nghe Thuyết trình Thảo luận Giải quyết vấn đề Hợp tác chia sẻ Biểu đồ 3.9 Mức độ biểu hiện của SV đối với các KN bộ phận của KN HĐN Nhằm làm rõ và giải thích nguyên nhân mức độ biểu hiện của các KN HĐN của SV, chúng ta phân tích kết quả cụ thể biểu hiện từng KN bộ phận của KN HĐN trong học tập dưới đây: a. Kỹ năng lắng nghe Bảng 3.10 Mức độ biểu hiện KN Lắng nghe của SV Biểu hiện ĐTB ĐLTC Thứ hạng 1. Tôi nhìn người nói 4.16 0.727 1 2. Tôi hướng về phía người nói 4.11 0.772 2 3. Tôi nghe với tư thế thoải mái, không gò bó hay bắt buộc 4.11 0.801 3 4. Tôi ngừng nói 4.06 0.690 4 5. Tôi suy nghĩ về những điều đã nghe được 3.78 0.699 5 6. Tôi chú ý đến ngôn ngữ không lời (cảm xúc, cử chỉ, điệu bộ…) của người nói 3.71 0.858 6 7. Tôi làm việc riêng (đọc báo, nói chuyện…)* 3.70 0.795 7 8. Tôi nhớ những thông tin cơ bản, cần thiết 3.67 0.727 8 Biểu hiện ĐTB ĐLTC Thứ hạng 9. Tôi thể hiện sự chú ý bằng cách “gật đầu” hoặc nói “vâng, đúng rồi, tôi hiểu, ừm…” 3.65 1.016 9 10. Tôi không đưa ra ý kiến, nhận xét của mình khi chưa nghe hết thông tin 3.56 0.902 10 11. Tôi biểu hiện nét mặt thích hợp thể hiện sự đồng cảm với người nói 3.55 0.902 11 12. Tôi chỉ đặt câu hỏi làm rõ ý khi cần thiết 3.54 0.756 12 13. Tôi tập trung chú ý ngay cả khi tôi bất đồng quan điểm với họ 3.52 0.884 13 14. Tôi không ngắt lời người nói nếu họ nói quá dài hay nhàm chán 3.31 0.989 14 15. Tôi ghi lại những thông tin cơ bản 3.25 0.868 15 ĐTB điều hòa của thang đo KN lắng nghe 3.71 Ghi chú: * Là những câu có điểm được mã hóa lại cho phù hợp với thang đo. Kết quả bảng 3.10 cho thấy mức độ biểu hiện về KN lắng nghe của SV tương đối cao với ĐTB điều hòa là 3.71. Trong quá trình học nhóm, SV đã có khuynh hướng thường xuyên thể hiện sự lắng nghe của mình đối với các thành viên của nhóm. Kết quả này cho thấy có sự phù hợp với nhận thức về KN lắng nghe của SV (ĐTB = 3.68), SV cho rằng mình biết nhiều về KN lắng nghe và qua khảo sát thực tế, các em đã có biểu hiện khá tốt. Trong KN lắng nghe, biểu hiện có ĐTB cao nhất là “tôi nhìn người nói”, “tôi hướng về phía người nói”, “tôi nghe với tư thế thoải mái, không gò bó hay bắt buộc” (ĐTB từ 4.11 đến 4.16). Khi các thành viên của nhóm trình bày, SV có khuynh hướng thường xuyên hướng về phía người nói. Mặt khác, SV cho rằng nếu miễn cưỡng ngồi nghe người khác nói, các em sẽ nghe một cách thờ ơ, giả vờ, nghe nhưng mà không hiểu người khác nói gì, không nắm bắt thông tin và có thái độ bất hợp tác với nhóm. Tiếp đến là biểu hiện “tôi ngừng nói” chỉ xếp thứ 4 (ĐTB = 4.06), đây lại là biểu hiện đầu tiên, quan trọng nhất thể hiện mình là người biết lắng nghe. Vì việc đầu tiên khi bắt đầu lắng nghe là chúng ta phải ngừng nói. Chúng ta không thể lắng nghe trong khi chúng ta đang nói, đây là biểu hiện rất khó thực hiện vì chúng ta thường có khuynh hướng thích “nói nhiều hơn nghe”. Các yếu tố “tôi suy nghĩ về những điều đã nghe được”, “tôi chú ý đến ngôn ngữ không lời của người nói”, “tôi nhớ những thông tin cơ bản, cần thiết”, “tôi thể hiện sự chú ý bằng cách gật đầu..”, “tôi không đưa ra ý kiến nhận xét của mình khi chưa nghe hết thông tin”, “tôi biểu hiện nét mặt thích hợp thể hiện sự đồng cảm với người nói”, “tôi chỉ đặt câu hỏi làm rõ khi cần thiết” và biểu hiện “tôi tập trung chú ý ngay cả khi tôi bất đồng quan điểm với họ” đều được SV lựa chọn trên mức trung bình, cho thấy SV thực hiện khá thường xuyên các yếu tố trên khi tham gia hoạt động nhóm. Khi lắng nghe, SV đã biết chú ý quan sát cử chỉ, điệu bộ của người nói để hiểu chính xác thông điệp của họ, thể hiện sự đồng cảm với người nói, từ đó đưa ra những phản hồi chính xác. “Tôi làm việc riêng” có ĐTB là 3.70, nghĩa là SV có khuynh hướng thường xuyên không làm việc riêng khi tham gia HĐN, SV có thái độ tôn trọng các thành viên trong nhóm. Biểu hiện có điểm trung bình thấp nhất trong thang đo KN lắng nghe là “tôi ghi lại những thông tin cơ bản” (ĐTB = 3.25). Như vậy, khi lắng nghe, SV chưa có thói quen cần phải ghi lại những thông tin cơ bản, đây là biểu hiện khá quan trọng khi lắng nghe người khác. Lắng nghe là để nắm bắt và hiểu được thông điệp của người khác, nhưng khi lượng thông tin quá lớn và không đủ thời gian ..thì việc ghi chú lại các thông tin là rất cần thiết. Biểu hiện “không ngắt lời người nói nếu họ nói quá dài hay nhàm chán” (ĐTB=3.31) cũng được SV chọn ở mức trung bình, nghĩa là thỉnh thoảng SV mới thực hiện. Biết lắng nghe đã khó, nhưng tỏ thái độ tôn trọng người nói bằng cách không ngắt lời họ thì càng khó hơn, đòi hỏi chúng ta phải kiên nhẫn và thường xuyên luyện tập. b. Kỹ năng thuyết trình Bảng 3.11 Mức độ biểu hiện KN thuyết trình của SV Biểu hiện ĐTB ĐLTC Thứ hạng 1. Tôi xác định rõ mục đích, nội dung 4.13 0.693 1 2. Tôi thu thập thông tin, tài liệu có liên quan 4.10 0.736 2 3. Tôi đi thẳng vào nội dung chính, không lan man dài dòng 3.83 0.700 3 4. Tôi nói với âm lượng vừa đủ để các thành viên có thể nghe rõ 3.79 0.690 4 5. Tôi phát âm rõ ràng, chính xác 3.76 0.781 5 6. Tôi sử dụng ngôn ngữ không lời phù hợp (nét mặt, nụ cười, cử chỉ, trang phục…) 3.71 0.866 6 7. Tôi nhấn mạnh các ý quan trọng 3.67 0.855 7 8. Tôi khái quát nội dung trình bày 3.65 0.787 8 9. Tôi chọn vị trí thích hợp để các thành viên có thể nghe và nhìn thấy tôi 3.62 0.911 9 10. Tôi lập dàn ý chi tiết 3.54 0.831 10 11. Tôi đưa ra nhiều chứng cứ, ví dụ minh họa 3.49 0.761 11 12. Tôi trình bày nội dung một cách logic, mạch lạc 3.48 0.704 12 13. Tôi tóm tắt lại ý chính trước khi kết thúc 3.47 0.852 13 14. Tôi nhìn vào giấy và đọc một mạch mà không chú ý đến thái độ của người nghe* 3.44 0.854 14 15. Tôi trình bày tự nhiên, thoải mái, cởi mở… 3.43 0.862 15 16. Tôi tiếp xúc bằng mắt với người nghe 3.39 0.916 16 17. Tôi chuẩn bị sẵn các câu hỏi sẽ hỏi hoặc có thể được hỏi 3.36 0.840 17 18. Tôi nói với giọng đều đều, tẻ nhạt* 3.26 0.827 18 19. Tôi trình bày một cách sinh động, biểu cảm 3.23 0.801 19 20. Tôi dừng lại đặt câu hỏi một cách hợp lý 3.05 0.855 20 ĐTB điều hòa của thang đo KN thuyết trình 3.57 Ghi chú: *Là những câu có điểm được mã hóa cho phù hợp với thang đo. Kết quả khảo sát cho thấy mức độ biểu hiện của KN thuyết trình của SV ở mức cao (ĐTB ĐH = 3.57). Như vậy, SV có chiều hướng tích cực, thực hiện thường xuyên và đầy đủ các thao tác cần thiết khi được phân công thuyết trình. So với mức độ đánh giá hiểu biết của mình về KN thuyết trình (ĐTB=3.34), khi tham gia HĐN, SV có khuynh hướng trình bày tốt hơn. Hai biểu hiện có ĐTB cao nhất là “tôi xác định rõ mục đích nội dung” (1) và “tôi thu thập thông tin, tài liệu có liên quan” (2), cho thấy SV thường xuyên chuẩn bị cho phần thuyết trình. Qua trò chuyện, SV chia sẻ kinh nghiệm, nếu không xác định mục đích rõ ràng ngay từ đầu sẽ không biết phải chuẩn bị như thế nào, do đó dễ rơi vào tình trạng nói lan man, dài dòng nhưng không đi vào trọng tâm nội dung cần trình bày trước nhóm. Kế đến là các biểu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVTLH019.pdf