Tài liệu Luận văn Kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ta hiện nay: LUẬN VĂN:
Kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của nó
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam ta hiện nay
Lời mở đầu
Vào các thập kỷ 80 kinh tế thế giới lâm vào tình trạng khủng hoảng có tính chu kỳ.
Nền kinh tế đóng nước ta với cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp đã biểu hiên rõ
những khuyết nhược điểm của nó. Chính điều này đã làm cho nhiều người nghi ngờ về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhà nước ta đã lựa chọn.
Trước tình hình đó, tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI( tháng 12 năm 1986)
Đảng ta đã đề ra chủ trương đổi mới nền kinh tế một cách toàn diện, chuyển nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Lý luận
kinh tế về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội lúc này đã có những thay đổi cơ bản. Đó
là thừa nhận sự tồn tại khách quan của năm thành phần kinh tế và xác định rõ vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước trong cơ cấu nền kinh tế đa thnàh phần.
Tron...
47 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1027 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ta hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của nó
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam ta hiện nay
Lời mở đầu
Vào các thập kỷ 80 kinh tế thế giới lâm vào tình trạng khủng hoảng có tính chu kỳ.
Nền kinh tế đóng nước ta với cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp đã biểu hiên rõ
những khuyết nhược điểm của nó. Chính điều này đã làm cho nhiều người nghi ngờ về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhà nước ta đã lựa chọn.
Trước tình hình đó, tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI( tháng 12 năm 1986)
Đảng ta đã đề ra chủ trương đổi mới nền kinh tế một cách toàn diện, chuyển nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Lý luận
kinh tế về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội lúc này đã có những thay đổi cơ bản. Đó
là thừa nhận sự tồn tại khách quan của năm thành phần kinh tế và xác định rõ vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước trong cơ cấu nền kinh tế đa thnàh phần.
Trong hơn 10 năm đổi mới, nước ta đã thu được nhiều thành tựu đáng ghi nhận,
nhất là sự phát triển về kinh tế, chứng tỏ đường lối của Đảng và nhà nước ta đề ra là
đúng đắn. Việc phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa rất cần có
sự điều tiết của nhà nước, để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển đúng hướng.
Do đó tại các kỳ đại hội VII, VIII, XI Đảng ta đã không ngừng khẳng định, bổ sung
và nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước-một công cụ điều tiết vĩ mô đắc lực
của nhà nước, để nó thực sự có thể đảm nhận vai trò con trưởng trong một gia đình đông
con.
Để đi sâu tìm hiểu vấn đề này, qua một năm học tập và nghiên cứu, dưới sự hướng
dẫn giảng dạy của thầy Mai Hữu Thực em đã chọn đề tài “Kinh tế nhà nước và vai trò
chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam ta hiện nay”. Do trình độ có hạn, bài viết còn nhiều sai sót, em mong thầy giáo
giúp đỡ em sửa chữa cho bài viết hoàn chỉnh.
.
Kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của nó
trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta hiện nay.
I.Tính tất yếu tồn tại thành phần kinh tế nhà nước.
1.Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có nhiều đặc điểm, nhưng đặc điểm nổi bật là
cơ cấu của nền kinh tế có kinh tế nhiều thành phần. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần tồn
tại không phải do ý kiến chủ quan của nhà nước; nó xuất hiện, tồn tại và phát triển phụ
thuộc vào những tiền đề kinh tế và chính trị khách quan của nền kinh tế. Trong cơ cấu
này, mỗi thành phần kinh tế luôn có vai trò, vị trí và vận động, phát triển theo một xu
hướng nhất định. Xuất phát từ qui luật vốn có của nền kinh tế thị trưòng có thể thấy các
thành phần kinh tế đều vận động hướng tới mục tiêu lợi ích. Sự vận động này cũng có
thể khác hướng, thậm chí ngược chiều nhau tuỳ theo mục tiêu ấy là gì, ai là chủ thể của
lợi ích được tạo ra, việc phân chia và sử dụng lợi ích đó như thế nào.
Trong suốt 15 năm qua, nhất là từ Đại Hội VI đến nay, trên cơ sở tư duy ngày càng
rõ hơn về thực tiễn của đất nước và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã
không ngừng đổi mới quan điểm, chính sách về chế độ sở hữu và thành phần kinh tế.
Điều này được thể hiện tóm tắt trên 6 điểm lớn:
Thực hiện phát triển nền kinh tế nhiều thành phần: mỗi thành phần đều có vị
trí quan trọng trong cơ cấu của nền kinh tế, mỗi doanh nghiệp cũng đan xen nhiều
hình thức sở hữu, thực hiện sự bình đẳng về cạnh tranh để phát triển.
Sở hữu nhà nước có thể tồn tại ở nhiều hình thức tổ chức kinh tế, kinh tế nhà
nước có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế vì nó chiếm lĩnh một số ngành, lĩnh vực
rất cơ bản. Do đó nó có thể làm đòn bẩy thúc đẩy nhanh chóng tăng trưởng kinh tế
và giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh
tế khác cùng phát triển, làm chỗ dựa để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và
quản lý vĩ mô, tạo nề tảng cho chế độ kinh tế xã hội.
Hợp tác là tổ chức kinh tế đựơc hình thành trên cơ sở người lao động tự
nguyện đóng góp sức, vốn và quản lý dân chủ, với mọi qui mô và mức độ tập thể
hoá tư liệu sản xuất khác nhau, phát huy vai trò tự chủ của các hộ xã viên.
Kinh tế cá thể có thể có vai trò quan trọng, có thể tham gia nhiều hình thức
liên kết, hợp tác khác nhau để có thể tiếp tục lớn hơn.
Kinh tế tư bản tư nhân là một bộ phận trong cơ cấu của nền kinh tế quốc dân,
có khả năng góp phần xây dựng đất nước, được phát triển không hạn chế trong
những ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, được khuyến khích đầu tư như mọi
thành phần kinh tế khác.
Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao độnh là
hiệu quả kinh tế, phân phối dựa trên mức đóng góp của các nguồn lực khác vào sản
xuất, kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội.
Việc tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần là một tất yếu khách quan, nó khắc phục
được những yếu nhược điểm của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, nó phù hợp với sự
phát triển của xã hội, phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển, cho phép tận dụng tối đa mọi nguồn lực hiện có của đất
nước một cách hiệu quả nhất. Nhưng để phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước ta
ngày nay không phải bằng bất kỳ cách nào, mà Đảng chủ trương phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần phải định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại Hội VIII của Đảng, kinh tế nhà
nước đựơc giao giữ vai trò chủ đạo trong việc thực hiện trọng trách này.
Tuy nhiên việc xác định rõ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước không rõ ràng chút
nào, bởi vì nó còn nằm trong sự tác động qua lại giữa các thành phần kinh tế khác. Do
đó đòi hỏi chúng ta cần đi sâu nghiên cứu tính chủ đạo của kinh tế nhà nước dựa trên cơ
sở thực tiễn và đổi mới tư duy đúng đắn.
2.Kinh tế nhà nước.
Mọi nhà nước đều có chức năng kinh tế, chức năng này được thể hiện với mức độ
khác nhau tuỳ theo từng giai đoạn phát triển. ở bất kỳ nước nào dù kém phát triển, đang
phát triển hay phát triển thì chức năng kinh tế của nhà nước luôn gắn liền và thể hiện
thông qua các hoạt động kinh tế của nhà nước trên cơ sở tiềm lực vật chất của nhà nước.
Nhà nước còn có lực lượng vật chất mạnh trong tay để chi phối, hướng dẫn, điều tiết sự
phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Lực lượng vật chất này cùng với luật pháp, kế hoạch,
chính sách tạo cho nhà nước một sức mạnh làm cho nền kinh tế phát triển theo đúng
định hướng đã định.
ở nước ta, sau khi đất nước giành được độc lập, chúng ta đã phiến diện và giản đơn
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp
ngày càng tỏ ra không phù hợp, đã bộc lộ rất rõ nét những nhược điểm căn bản làm thui
chột tính năng động sáng tạo, không phát huy tối đa được các tiềm lực tồn tại trong nền
kinh tế.
Trước tình hình đó tại Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng tađã đề ra chủ
trương đối với nền kinh tế một cách toàn diện, chuyển nền kinh tế tập trung sang nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thừa nhận sự tồn tại khách quan
của 5 thành phần kinh tế, mỗi thành phần kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất
định.
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu toàn dân về tư liệu
sản xuất. Vệc tổ chức kinh doanh tiến hành theo nguyên tắc hạch toán kinh tế và
tiến hành phân phối theo lao động. Đây là thành phần kinh tế đại diện cho quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Kinh tế tập thể là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tập thể. Nó bao gồm
những đơn vị do những người lao động góp vốn, góp sức sản xuất kinh doanh theo
nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi. Nó được phát triển dưới nhiều hình
thức đa dạng từ thấp tới cao, từ tổ nhóm hợp tác đến hợp tác xã.
Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa và sử dụng lao động làm thuê, trả lương như các công ty trách nhiệm hữu
hạn, các doanh nghiệp tư nhân các công ty cổ phần không có vốn của nhà nước.
Kinh tế cả thể tiểu chủ là thành phần kinh tế dựa trên cơ sở tư hữu nhỏ và lao
động của bản thân người sở hữu. Tức là hoàn toàn dựa vào vốn và lao động của bản
thân và các thành viên trong gia đình. Kinh tế tiểu chủ cũng dựa trên tư hữu nhỏ
nhưng có sử ụng lao động làm thuê, tuy nhiên thu nhập chủ yếu vẫn dựa vào lao
động của bản thân và các thành viên trong gia đình
Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu hỗn hợp giữa
nhà nước và tư nhân. Nó bao gồm các hình thức hợp tác kinh doanh giữa tư bản nhà
nước với tư bản tư nhân trong và ngoài nước.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: là thành phần kinh tế mới được Đảng và
nhà nước ta công nhận tại Đại Hội IX, nó là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam
bao gồm vốn do người Việt Nam ở nước ngoài về nước đầu tư kinh doanh. Nhà
nước cần tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi
hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng, gắn với thu hút công nghệ hiện đại.
Hiện nay cần tiếp tục cải thiện môi trường kinh tế, pháp lý để thu hút, tận dụng triệt
để các nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Sự tồn tại của kinh tế nhà nước ở hầu hết các nước trên thế giới chứng tỏ sự cần
thiết khách quan của khu vực này trong bối cảnh phát triển kinh tế hiện đại, khi các hoạt
động vĩ mô đòi hỏi nhà nước phải đóng vai trò ngày càng to lớn trong nền kinh tế. Có
thể nói khu vực kinh tế nhầ nước giữ vai trò như một công cụ kinh tế của nhà nước vừa
thực hiện chức năng kinh tế, vừa làm một phần chức năng xã hội, góp phần thực hiện sự
tăng trưởng và ổn định kinh tế mỗi nước.
Trên thực tế, không một nước nào phát triển nền kinh tế thị trường lại không sử
dụng các xí nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực quan trọng nhằm thực hiện chức năng
kinh tế vĩ mô, đặc biệt vì lợi ích của toàn xã hội như:
Những ngành thuộc cơ sở hạ tầng của nền kinh tế: năng lượng, giao thông,
bưu điện, ngân hàng, bảo hiểm… nhằm đảm bảo ổn định xã hội và tạo ra quá trình
liên tục trong tái sản xuất xã hội.
Những ngành kinh tế chiến lược bảo đảm đẩy nhanh tiến bộ khoa học kỹ
thuật như: kỹ thuật hàng không vũ trụ, năng lượng nguyên tử, chế tạo ô tô…
Những ngành thuộc về sản xuất và dịch vụ các loại hàng hoá công cộng cần
thiết cho sinh hoạt xã hội được nhà nước trợ cấp hoặc bù lỗ như: giáo dục, y tế, văn
hoá, bảo vệ môi trường…
Như vậy, dù phát triển theo định hướng nào mỗi nước đều phải có khu vực kinh
tế nhà nước. Sự khác nhau chủ yếu ở mức độ chiếm giữ của sở hữu nhà nước trong các
ngành, các lĩnh vực cũng như mục tiêu và cách thức hoạt động của các doanh
nghiệp nhà nước.
3.Các bộ phận cấu thành kinh tế nhà nước.
Kinh tế nhà nước được thể hiện dưới nhiều hình thức hoạt động khác nhau với các
tổ chức tương ứng như hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, các hoạt động
đảm bảo cho quá trình tái sản xuất xã hội mà ở đó nhà nước được biểu hiện như một chủ
sở hữu, chủ thể kinh doanh, người tham gia. Nghĩa là kinh tế nhà nước có nhiều bộ phận
hợp thành, mỗi bộ phận hợp thành kinh tế nhà nước có chức năng và nhiệm vụ khác
nhau.
a.Nếu xét theo lĩnh vực hoạt động thì kinh tế nhà nước bao gồm các hoạt động kinh
tế của nhà nước trong việc:
Quản lý, khai thác, bảo tồn và phát triển các nguồn tài nguyên tự nhiên nhằm mục
dích phát triển kinh tế xã hội.
Đầu tư, quản lý và khai thác các công trình hạ tầng kỹ thuật như: bến bãi, cảng,
đường xá, các khu công nghiệp tập trung…nhằm tạo điều kiện chung thuận lợi cho nền
kinh tế phát triển.
Các hoạt động kinh tế trong công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, dịch vụ; trong
lĩnh vực tín dụng, tài chính, ngân hàng, dự trữ quốc gia…
Hoạt động bảo hiểm cũng là một lĩnh vực hoạt động quan trọng của khu vực kinh
tế nhà nước, thực hiện chế độ bảo hiểm do nhà nước quy định đối với kinh tế
nhà nước và các thành phần kinh tế khác nhằm đảm bảo hoạt động kinh tế
xã hội bình thường trong những điều kiện bị tổn thất do rủi ro khách quan.
Tất cả các lĩnh vực hoạt động trên có thể gộp thành hai nhóm lớn:
Hoạt động trực tiếp trong sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ.
Hoạt động nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất xã hội.
b.Xét theo hình thức tổ chức.
Kinh tế nhà nước bao gồm nhiều bộ phận hoạt động trong các lĩnh vực then chốt,
thiết yếu của nền kinh tế quốc dân. Mỗi bộ phận có chức năng nhiệm vụ khác nhau
nhưng đều nhằm thực hiện vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước ở một mức độ nhất
định. Cụ thể là:
Ngân sách nhà nước: thực hiện chức năng thu chi ngân sách và có nhiệm vụ điều
chỉnh, quản lý, kiểm soát các hoạt động của kinh tế nhà nước và các thành phần kinh tế
khác theo mục tiêu kinh tế xã hội đã định.
Ngân hàng nhà nước: có tác dụng điều chỉnh, quản lý, kiểm soát các hoạt động kinh
doanh tiền tệ, đặc biệt là xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ để phát triển
kinh tế xã hội.
Kho bạc nhà nước: với chức năng quản lý quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước, đồng
thời kiểm soát quá trình chi tiêu ngân sách cho những mục đích khác nhau.
Các quỹ dự trữ quốc gia: là một bộ phận của khu vực kinh tế nhà nước, nhân dân
bảo đảm cho khu vực này hoạt động bình thường trong mọi tình huống, là lực lượng vật
chất để nhà nước điều tiết, quản lý, bình ổn giá cả thị trường, bảo đảm kinh tế xã hội.
Các tổ chức sự nghiệp có thu: hoạt động gần giống như doanh nghiệp nhà nước
trong cung ứng một số dịch vụ công, đặc biệt trong giáo dục, y tế, dịch vụ hành chính
công.
Hệ thống doanh nghiệp nhà nước: theo luật doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam
năm 1995, doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập
và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc công ích, nhằm thực hiện mục tiêu kinh
tế xã hội do nhà nước giao cho. Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các
quyền và nghĩa vụ dân sự. Đây là một bộ phận chính yếu của kinh tế nhà nước, đóng vai
trò then chốt là một lực lượng vất chất cơ bản, đảm bảo cho viêc thực hiện các mặt trân
kinh tế xã hội của đất nước.
c.Xét theo mục tiêu hoạt động.
Các doanh nghiệp nhà nước được chia làm ba nhóm với những tiêu chí tương ứng
để đánh giá kết quả hoạt động:
Nhóm I: Nhóm các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích. Các doanh nghiệp
này hoạt động theo các chính sách xã hội của nhà nước phục vụ cho lợi ích của toàn xã
hội hay lợi ích công cộng, chuyên sản xuất hàng quốc phòng, an ninh, y tế, văn
hoá…Mục đích hoạt động của nhóm này không phải vì lợi nhuận mục tiêu phát triển của
nó là sự ổn định và an toàn xã hội gắn với môi trường kinh tế-xã hội-chính trị.
Nhóm II: nhóm các doanh nghiệp hoạt động bán công ích. Về thực chất, hoạt động
của nhóm này là bán kinh doanh, là loại doanh nghiệp nửa bao cấp nửa kinh doanh. Loại
doanh nghiệp này được nhà nước hỗ trợ một phần.
Nhóm III: nhóm các doanh nghiệp thuần tuý kinh tế. Mục đích hoạ động của nhóm
này là sản xuất và kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận. Nếu như nhóm II chỉ trong chừng
mực nào đó chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế thị trường thì nhóm này hoàn toàn
bình đẳng với các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác nhau trong cạnh tranh trên
thị trường.
Xuất phát từ những yếu tố trên, đối với mỗi nhóm hay đối với mỗi loại hình doanh
nghiệp cần phải xác định một cơ chế quản lý mang tính đặc thù riêng.
4.Vị trí, vai trò của kinh tế nhà nước đối với các thành phần kinh tế khác.
a.Giai đoạn trước năm 1986.
ở nước ta, sau khi miền Bắc giải phóng (1954) và thống nhất đất nước (1975), trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội do nhận thức giản đơn phiến diện đã đồng nhất sở
hữu nhà nước với chủ nghĩa xã hội, công hữu ngày càng hiều thì chủ nghĩa xã hội càng
nhiều. Chúng ta đã coi kinh tế quốc doanh chủ yếu bó hẹp trong phạm vi các xí nghiệp
quốc doanh. Các xí nghiệp quốc doanh ở thời kỳ này được quản lý theo kiểu kế hoạch
hoá tập trung của Liên Xô. Các xí nghiệp quốc doanh hoạt động dựa trên cơ sở các
nguồn lực được nhà nước phân bổ một cách trực tiếp, chỉ có nhiệm vụ sản xuất và kinh
doanh theo kế hoạch đã được định trước, lỗ thì được bù còn lãi thì phải nộp ngân sách.
Cơ chế này đã có tác dụng kích thích huy động một cách tích cực các nguồn lực của đất
nước đáp ứng yêu cầu giải phóng miền Nam và bảo vệ miền Bắc trong giai đoạn 1954-
1975. Xong trong điều kiện mới khi đất nước đã thống nhất, nền kinh tế thế giới phát
triển với tốc độ chóng mặt thì những yếu nhược điểm căn bản của cơ chế quản lý tập
trung, quan liêu bao cấp đã bộc lộ rõ nét, làm thui chột tính năng động sáng tạo của các
xí nghiệp vì sản xuất kinh doanh không tính đến hiệu quả, đặc biệt là thiếu vắng môi
trường cạnh tranh…
Thêm vào đó số lượng xí nghiệp quốc doanh quá nhiều, dàn trải chồng chéo, trình
độ kỹ thuật công nghệ lạc hậu, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp đã đẩy đất nước lâm
vào tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng.
b.Giai đoạn từ 1986 đến nay.
Đứng bên bờ vực thẳm của chủ nghĩa xã hội trong tình hình hệ thống các nước xã
hội chủ nghĩa đang theo chiều hướng tan rã, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
bị giao động mạnh. Trước tình hình đó, với phương châm nhìn thẳng vào sự thật, tại Đại
Hội Đại Biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) Đảng ta đã đề ra chủ trương đổi mới nền kinh
tế một cách toàn diện. Lý luận kinh tế về thời kỳ quá độ trong thời kỳ này đã có những
thay đổi cơ bản. Trước hết là sự thừa nhận sự tồn tại khách quan của năm thành phần
kinh tế, kinh tế quốc doanh đựơc thừa nhận là thành phần kinh tế nhà nước trong cơ cấu
nền kinh tế đa thành phần.
Nền kinh tế nhiều thành phần tồn tại với tư cách là một chỉnh thể thống nhất, trong
đó mỗi thành phần kinh tế là một bộ phận không thể tách rời, vì nó đều nằm trong tổng
thể của nền kinh tế quốc dân. Các thành phần kinh tế không tồn tại độc lập mà đan xen
nhau, giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ thông qua liên doanh, liên kết và tác động qua
lại lẫn nhau, vừa thống nhất vừa mâu thuẫn. Tính thống nhất thể hiện ở chỗ các thành
phần kinh tế đều nằm trong cơ cấu thống nhất, luôn biến đổi, phát triển và đều chịu sự
điều tiết vĩ mô của nhà nước. Các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh, vừa hợp tác để
nâng cao hiệu quả kinh tế của các nguồn lực, huy động tối đa sức mạnh và lợi thế của
từng thành phần vào việc giải quyết các nhiệm vụ kinh tế xã hội của đất nước.
Các thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu đặc thù và mục tiêu, lợi ích riêng
mà nó hình thành. Do đó tất yếu sẽ tồn tại những mâu thuẫn, điển hình là mâu thuẫn
giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Tuy nhiên mỗi chế độ xã hội bao giờ cũng có một
phương thức sản xuất thống trị. Đó là một sự thật đã từng và sẽ tồn tại trong lịch sử.
Trên cơ sở kinh tế đó mà dựng lên kiến thức thượng tầng, quan trọng nhất là chế độ
chính trị thích ứng với nó, chúng ta đã lựa chọn chế độ chính trị là chế độ xã hội chủ
nghĩa thì tất yếu chúng ta phải có một cơ sở kinh tế đảm bảo cho định hướng đã lựa
chọn.
Chủ nghĩa xã hội vươn tới là sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, thích ứng với nó
chỉ có kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể mới có thể tạo được một nền tảng vững
chắc cho cơ sở kinh tế xây dựng lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, sự phát triển kinh tế
nhiều thành phần không phải là phát triển theo bất kỳ xu hướng nào mà phải có định
hướng cụ thể phù hợp với mục tiêu chính trị xã hội mà Đảng và nhà nước ta đã lựa chọn.
Xét trên giác độ này thì kinh tế nhà nước có thể nói là một công cụ đắc lực để nhà nước
thông qua nó hỗ trợ, hướng dẫn định hướng cho các thành phần kinh tế khác cũng phát
triển theo con đường mà Đảng và nhà nước ta đã đề ra.
Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (năm 2001) đã nêu lên sáu thành phần kinh
tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể và tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân,
kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong nền kinh tế đó, kinh tế
nhà nước và kinh tế tập thể là nền tảng của kinh tế quốc dân và kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo.
II. Kinh tế nhà nước và vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân hiện nay ở
nước ta.
1.Cơ sở lý luận cho tính chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Tại các đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, VI, VII, VIII, IX Đảng ta đã xác định:
“ chủ động hội nhập, đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế
tập thể. Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể dần trở
thành nền tảng”.
Tuy nhiên hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, vấn đề đặt ra là trong nền kinh
tế nước ta hiện nay có hay không có mặt thành phần kinh tế nào đó đóng vai trò chủ đạo.
Nếu có thì căn cứ nào để xác định tính chất chủ đạo của một thành phần kinh tế, và vì
sao vai trò chủ đạo đó lại được giao cho thành phần kinh tế này chứ không phải thành
phần kinh tế khác.
Từ sau đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đến nay Việt Nam chủ trương phát
triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy nền kinh tế thi trường
ở Việt Nam được xây dựng trên cơ sở đa dạng hoá sở hữu, đa dạng hoá thành phần kinh
tế. Trong nền kinh tế này có nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại.
Ai cũng biết rằng, trong một gia đình nếu chỉ có một con thì không thể có con
trưởng, con thứ. Nhưng với một gia đình đông con thì sự phân định con trưởng con thứ
là tất yếu. Trong nền kinh tế nhiều thành phần cũng vậy, sự tồn tại của nhiều thành phần
kinh tế dựa trên các hình thức sở hữu đặc thù làm cho vai trò vị trí của chúng khác nhau
và tất yếu sẽ có một sự phân vai, đó là thành phần kinh tế chủ đạo cùng với các thành
phần còn lại. Vấn đề nằm ở chỗ thế nào là chủ đạo và ai là chủ đạo?. Căn cứ vào đâu đế
xác định tính chất chủ đạo này?.
Trước đây chúng ta lý giải vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế được thể hiện ở
phạm vi của nó chiếm hữu trong nền kinh tế, ở tính hiệu quả hơn, ưu việt hơn hẳn của
nó so với các thành phần kinh tế khác. Nhưng qua quá trình thực tiễn cùng với đổi mưói
tư duy thì thành phần kinh tế chủ đạo phải là thành phần kinh tế chi phối, làm thay đổi
và xác định phương hướng hoạt động của các thành phần kinh tế khác, hướng tới mục
tiêu kinh tế-chính trị-xã hội mà Đảng và nhà nước đã chọn. Vì bản chất cốt lõi của một
chế độ xã hội sẽ quyết định tính chất chủ đạo của nền kinh tế.
Đối với một nước đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội như nước ta thì
kinh tế nhà nước cần và có thể giữ vai trò chủ đạo vì những lý do sau đây:
Thứ nhất: kinh tế nhà nước dựa trên chế độ công cộng về tư liệu sản xuất, là
chế độ sở hữu phù hợp với xu hướng xã hội hoá của lực lượng sản xuất.
Thứ hai: kinh tế nhà nước đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến trong
nền kinh tế, tạo ra cơ sở kinh tế cho chế độ xã hội mới- xã hội xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba: kinh tế nhà nước nắm giữ những vị trí then chốt, xương sống của nền
kinh tế, do đó nó có khả năng, có điều kiện chi phối hoạt động của các thành phần
kinh tế khác, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo hướng đã định.
Thứ tư: kinh tế nhà nước là lực lượng bảo đảm cho sự phát triển ổn định của
nền kinh tế, là lực lượng có khả năng can thiệp, điều tiết, hướng dẫn giúp đỡ và liên
kết, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
Thứ năm: kinh tế nhà nước có thể tác động tới các thành phần kinh tế khác
không chỉ bằng các công cụ và đòn bẩy kinh tế mà còn bằng con đường gián tiếp,
thông qua những thiết chế và hoạt động của kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa.
Thứ sáu: kinh tế nhà nước dẫn đầu trong việc ứng dụng khoa học công nghệ
hiện đại, tiên tiến. Do đó nó có nhịp độ phát triển nhanh, đóng góp phần lớn cho
ngân sách nhà nước và sự tích tụ để có thể không ngừng tái sản xuất mở rộng.
Thứ bảy: kinh tế nhà nước là lực lượng nòng cốt hình thành các trung tâm
kinh tế, đô thị mới, là lực lượng có khả năng đầu tư vào những lĩnh vực có vị trí
quan trọng sống còn nhưng ít ai dám đàu tư vì đòi hỏi vốn quá nhiều mà thời gian
thu hồi vốn quá chậm.
Trong xã hội tư bản, một xã hội dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thì hoạt
động kinh doanh sinh lợi là cái chi phối các nhà kinh doanh. Do vậy tính chất chủ đạo
của nền kinh tế này thể hịên ở hiệu quả kinh tế, là lợi nhuận. Nhưng con đường mà
chúng ta đang đi là quá độ lên một xã hội mà ở đó bản chất của nó là bình đẳng-xã hội
xã hội chủ nghĩa, vì vậy tính chất chủ đạo của nó phải thể hiện được quan hệ sản xuất
đặc thù của xã hội đó. Đáp ứng với nó kinh tế nhà nước với hình thức sở hữu toàn dân
giữ vai trò chủ đạo là một tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần trong quá trình quá
độ lên chủ nghĩa xã hội.
2.Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Cùng với tíên trình lịch sử, xã hội đã trải qua các hình thái kinh tế xã hội khác nhau.
Nhưng đến nay trên thế giới vẫn song song tồn tại hai hệ thống đại diện cho hai hình
thái kinh tế xã hội là hệ thống tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Lực lượng sản xuất
phát triển không ngừng, cùng với nó quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ
tư hữu về tư liệu sản xuất đã bộc lộ rõ những khuyết tật kìm hãm lực lượng sản xuất
như:
Về kinh tế: phân hoá giàu nghèo, bóc lột, phân phối không cân bằng, thất
nghiệp, tình trạng vô chính phủ trong sản xuất, sự phá hoại môi trường tự nhiên….
Về chính trị: áp bức, bất bình đẳng, không dân chủ, quyền lợi cá nhân không
được đảm bảo, thiếu tự do, mối đe dạo về chiến tranh…
Về tinh thần: trống rỗng, suy đồi, sa đoạ…và suy cho cùng tất cả đều bắt
nguồn từ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Bởi vậy, để đạt được mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội là dân chủ, công
bằng, xã hội phải xoá bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữu. Chế độ công hữu và
chế độ tư hữu vì thế cũng trở thành hai tiêu chí cơ bản để phân biệt chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa tư bản.
Thiết lập chế độ công hữu là quá trình lâu dài, không thể tiến hành bằng những biện
pháp chủ quan duy ý trí như trước đây đã từng tiến hành. Nước ta đang trong thời kỳ
quá độ tiến lên xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần.
Định hướng trong kinh tế đòi hỏi phải có vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Với tiềm lực vật chất to lớn, gồm nhiều bộ phận hợp thành mà không một thành
phần kinh tế nào có được và trên nền tảng sở hữu toàn dân và quyền lực chính trị của
nhà nước, kinh tế nhà nước của chúng ta có đầy đủ tiền đề để thực hiện vai trò chủ đạo.
Tuy nhiên trong thực tế, để thực hiện được vai trò chủ đạo, bản thân khu vực kinh tế nhà
nước phải đủ mạnh, có thực lực thật sự. Bởi vì: “lực lượng vật chất chỉ có thể đánh đổ
bằng lực lượng vật chất”, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước phải được thông qua lực
lượng vật chất để cải tạo các thành phần kinh tế khác đi theo quỹ đạo chung, không thể
lấy ý muốn chủ quan hay ý trí chính trị áp dụng cho nó. ý chí dó phải được đảm bảo bởi
lực lượng vật chất đủ sức tác động, định hướng, chi phối trực tiếp tới nền kinh tế. Do
vậy, vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước được thể hiện ở các nội dung sau:
Thứ nhất: kinh tế nhà nước trở thành lực lượng vật chất và là công cụ sắc bén
để nhà nước thực hiện chức năng định hướng, điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế.
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước với tư cách là một yếu tố, một chủ thể đặc
biệt của nền kinh tế đất nước. Nó có vai trò vĩ mô điều hành trên phạm vi toàn bộ
nền kinh tế, làm cho nền kinh tế được hoạt động thông suốt, tạo lập những cân đối
lớn theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà thị trường không tự điều chỉnh được. Đây
là một trong những vai trò cực kỳ quan trọng của kinh tế nhà nước. Bởi là trong nền
kinh tế thị trường mặc dù sự can thiệp của nhà nước là cần thiết và đúng đắn nhưng
nếu không có một lực lượng kinh tế mạnh làm hậu thuẫn thì trong nhiều trường hợp
sự can thiệp đó có thể bị cơ chế thị trường vô hiệu hoá. Mặt khác, trong cơ chế thị
trường nhà nước thường xuất hiện như một chủ thể kinh tế có lợi ích độc lập với các
chủ thể kinh tế khác và trong một số trường hợp lợi ích của nhà nước có thể mâu
thuẫn với lợi ích cục bộ của các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là thành phần kinh
tế tư bản tư nhân. Chính vì vậy, trong nhiều trường hợp sự điều tiết của nhà nước có
thể không thuận chiều với động cơ lợi nhuận và lợi ích cá nhân của các chủ thể kinh
tế khác. Để đảm bảo hiệu lực điều tiết, nhà nước cần một tiềm lực kinh tế đủ để
hoặc đền bù xứng đáng cho sự thua thiệt về lợi ích của các chủ thể kinh tế hướng họ
hành động theo mục tiêu nhà nước định ra, hoặc đủ sức cạnh tranh thắng thế các
thành phần kinh tế khác. Tiềm lực kinh tế ấy do khu vực kinh tế nhà nước cung cấp
phần rất cơ bản.
Thứ hai: hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước là nhằm mở đường, hướng
dẫn, hỗ trợ, thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế khác( chức năng tạo
lập môi trường). Tức là nó phải tạo được tiền đề thuận lợi để khai thông và tận dụng
mọi nguồn lực ở tất cả các thành phần kinh tế khác nhau vì sự tăng trưởng chung
của nền kinh tế, nền kinh tế phát triển theo đúng mục tiêu đã chọn.
Thứ ba: kinh tế nhà nước là lực lượng xung kích chủ yếu thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mặc dù quan điểm công nghiệp hoá, hiện đại hoá
là sự nghiệp của toàn dân, của các thành phần kinh tế đã được khẳng định. Nhưng
trong bối cảnh tiềm lực của khu vực dân doanh còn chưa đủ mạnh để đảm đương
nhiệm vụ nặng nề do quá trình công nghiệp hoá đất nước đặt ra nên trong giai đoạn
hiện nay kinh tế nhà nước đặc biệt là đầu tư mới của nhà nước vẫn là lực lượng chủ
chốt đi đầu trong quá trình chuyển nước ta thành nước công nghiệp hiện đại, văn
minh, tiến bộ. Để đảm đương được nhiệm vụ này kinh tế nhà nước phải huy động
tổng lực, trước hết là chiến lược đầu tư đúng đắn, trong đó bao hàm cả đầu tư trực
tiếp của nhà nước lẫn chính sách khuyến khích để tập thể và tư nhân tập trung vào
các ngành mũi nhọn, tạo đà tăng trưởng nhanh cho nền kinh tế. Tiếp nữa là nỗ lực
về tài chính và ngoại giao, chính trị để thực thi chiến lược chuyển giao công nghệ có
hiệu quả với phương châm kế thừa tích cực tiến bộ kỹ thuật mà loài người đã đạt
được. Đồng thời với các nỗ lực trên là chiến lược về đào tạo, chiến lược tranh thủ
chất xám của thế giới, là nỗ lực chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tìm kiếm thị trường.
Điểm mới ở đây là kinh tế nhà nước không tiến hành công nghiệp hoá một cách đơn
độc như trước kia mà trở thành hạt nhân tổ chức, thu hút và định hướng để lôi kéo
các thành phần kinh tế khác cùng tham gia vào quỹ đạo công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Thứ tư: kinh tế nhà nước nắm giữ các vị trí then chốt trong nền kinh tế nhằm
đảm bảo cân đối vĩ mô của nền kinh tế cũng như tạo đà tăng trưởng lâu dài, bền
vững và hiệu quả cho nền kinh tế. Đó là các khu vực như công nghiệp sản xuất tư
liệu sản xuất quan trọng, các ngành công nghiệp mũi nhọn, kết cấu hạ tầng vật chất
cho nên kinh tế(giao thông, bưu chính, năng lượng…). Các ngành có ảnh hưởng to
lớn đến kinh tế đối ngoại như các liên doanh lớn, xuất nhập khẩu quy mô lớn, hoặc
các lĩnh vực có liên quan đến an ninh quốc phòng và trật tự xã hội. Tuy nhiên quan
điểm nắm giữ vị trí then chốt được hiểu theo một cách linh động, có nghĩa là nhà
nước không độc quyền cứng nhắc trong các lĩnh vực ấy mà cần có hợp tác liên
doanh hợp lý với các thành phần kinh tế khác, nhất là trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng,
xuất nhập khẩu và công nghiệp. Hơn nữa, sự cần thiết để nhà nước kiểm soát từng
lĩnh vực cụ thể cũng được xem xét theo từng thời kỳ, đặc biệt là trong lĩnh vực công
nghiệp mũi nhọn. Khi mới thành lập thì đầu tư của nhà nước sẽ là chủ yếu, khi
ngành sản xuất mới đã đi vào ổn định thì không nhất thiết cần đầu tư nhà nước mà
có thể chuyển giao cho các thành phần kinh tế khác đảm nhiệm. Ngược lại cũng có
những lĩnh vực lúc đầu không cần đầu tư nhưng đến lúc nào đó rất cần đầu tư trực
tiếp của nhà nước thì có thể chuyển những cơ sở kinh tế đó sang hình thức sở hữu
nhà nước bằng cách nhà nước đứng ra mua cổ phiếu hoặc quốc hữu hoá có đền bú
cơ sở sản xuất tư nhân đó. Kinh tế nhà nước phải tạo ra lượng hàng hoá và dịch vụ
khả dĩ chi phối được giá cả thị trường, dẫn dắt giá cả thị trường bằng chất lượng và
giá cả sản phẩm dịch vụ do mình cung cấp. Mặt khác trong điều kiện toàn cầu hoá
nền kinh tế, cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, để giữ
vững độc lập dân tộc và sự ổn định về kinh tế xã hội, kinh tế nhà nước càng phải
vững mạnh và giữ vững vị trí then chốt tong nền kinh tế.
Thứ năm: kinh tế nhà nước trực tiép tham gia khắc phục mặt trái của cơ chế
thị trường, điều chỉnh các biến động trong quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ do
cơ chế thị trường tạo ra. Trong các lĩnh vực hoạt động cần thiết cho sự phát triển
kinh tế xã hội, nhưng khả năng sinh lời cấp thiết, không hấp dẫn tư nhân đầu tư vào
như cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi xã hội và bảo vệ môi trường… thường
kinh tế nhà nước phải trực tiếp đảm nhiệm.
Thứ sáu: kinh tế nhà nước phải là hình mẫu về ứng dụng tiến bộ khoa học
công nghệ, về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp
luật, quan điểm hiện tại của Đảng ta, chế dộ xã hội mới chỉ có thể dựa trên nền tảng
là công hữu(sở hữu nhà nước và tập thể), cũng có nghĩa là kinh tế nhà nước và kinh
tế hợp tác là yếu tố tiến bộ hơn chủ nghĩa tư bản về năng suất, chất lượng và hiệu
quả. Đây thực chất là sự lựa chon chủ nghĩa xã hội. Trên thực tế kinh tế nhà nước
tiềm tàng các yếu tố cho phép nó ưu việt hơn như quy mô hữu lớn và khả năng tập
trung cao cho nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ, triển khai công nghệ
mới…Tuy nhiên để tất cả các yếu tố tiềm tàng trở thành hiện thực cần phải có mô
hình và cơ chể tổ chức quản lý phf hợp thì mới phát huy được thế mạnh.
Thứ bảy: thực hiện dự trữ quốc gia nhằm đảm bảo hành lang an toàn cho nền
kinh tế. Nền kinh tế thị trường chứa đựng trong nó rất nhiều biến động, đặc biệt là
từ những thập kỷ 80 trở lại đây, kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng có chu kỳ.
Trong khi nước ta là một nước đang phát triển, nếu không thực hiện dự trữ thì khó
laòng có thể giải quyết được các hậu quả khi có biến động. Công việc này các thành
phần kinh tế khác không đảm bảo được.
Thứ tám: Giải quyết các vấn đề xã hội. ở một nước kinh tế còn chưa phát
triển, lại trải qua thời kỳ chiến tranh kéo dài như Việt Nam, giải quyết các vấn đề xã
hội, nhất là vấn đề đền ơn đáp nghĩa với người có công với nước là nhiệm vụ phức
tạp khó khăn nhưng lại có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội rất quan trọng, thể hiện
bản chất ưu việt của chế độ chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế
nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, việc giải quyết các vấn đề xã
hội không thể một lực lượng tư nhân nào có thể đảm nhiệm được. Chính thực tế đó
đòi hỏi nhà nước với trách nhiệm là người đảm bảo ổn định xã hội, tạo tiền đề để
mỗi người có thể phát triển toàn diện, phải là lực lượng chính trong việc giải quyết
các vấn đề xã hội, kinh tế nhà nước sẽ là lực lượng vật chất và công cụ để nhà nước
thực hiện, hoàn thành nhiệm vụ nói trên.
Thứ chín: kinh tế nhà nước tạo nền tảng cho xã hội mới. Khu vực kinh tế nhà
nước gồm nhiều bộ phận cấu thành, trong đó hệ thống doanh nghiệp nhà nước là bộ
phận cơ bản nhất. Tuy nhiên, điều cần phải luận kỹ ở đây là vai trò cụ thể của doanh
nghiệp nhà nước trong từng giai đoạn phát triển, để trên cơ sở đó có giải pháp tổ
chức quản lý đúng, vừa đảm bảo vai trò của khu vực kinh tế quan trọng này, vừa
đáp ứng mối quan hệ chung với các bộ phận cấu thành khác của hệ thống kinh tế-
chính trị-xã hội.
Trong nền kinh tế bao gồm tổng hợp nhiều ngành nghề khác nhau, tuỳ theo đặc
điểm của từng ngành mà vai trò của các thành phần kinh tế đối với nó cũng khác nhau.
Vậy vai trò của kinh tế nhà nước đối với các ngành cụ thể như thế nào. Chúng ta sẽ xem
xét một số nội dung để làm rõ vấn đề này:
_Trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội như đường sắt, vận tải biển, hàng
không sân bay, cảng biển, mạng lưới điện quốc gia, các khâu quan trọng của bưu chính
viễn thông, hệ thống thuỷ lợi lớn tưới tiêu cho nông nghiệp và phòng chống thiên tai,
cung cấp nước sạch…thì kinh tế nhà nước phải là nòng cốt, có vai trò quyết định, tạo
điều kiện mở đường cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời phát huy sức
mạnh cùng tham gia, nhất là ở những khâu có khả năng thu hồi vốn tương đối nhanh và
có lãi. ở các đô thị và liên tỉnh, nhà nước cần đầu tư tổ chức một bộ phận vận tải hành
khách hiện đại, văn minh và an toàn dưới hình thức công ty cổ phần có vốn nhà nước
chi phối làm nòng cốt cho lực lượng vận tải hành khách của các thành phần kinh tế.
_Trong công nghiệp, kinh tế nhà nước phải đi đầu và làm nòng cốt cho một số
ngành mà nền kinh tế nước ta nhất thiết phải có để tạo cơ sở cho công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước như: luyện kim, cơ khí, chế tạo máy, hoá chất cơ bản, phân bón, hai
thác khoáng sản có trữ lượng lớn, quý hiếm, sản xuất một số vật liệu xây dựng và linh
kiện quan trọng, những ngành công nghệ cao như công nghệ điện tử, công nghệ tin
học(trước mắt là phát triển phần mềm), công nghệ sinh học. Đồng thời phải quan tâm
đáp ứng có chọn lọc một số nhu cầu thiết yếu của nhân dân và cả cho xuất khẩu với chất
lượng cao, mẫu mã và giá cả phù hợp với thị hiếu và sức mua của các tầng lớp dân cư.
_Kinh tế nhà nước trong nông lâm, ngư nghiệp phải hỗ trợ kinh tế hợp tác và kinh tế
hộ sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, phải làm đòn bẩy trong xây dựng kết cấu hạ tầng
nông thôn, đưa công nghệ mới vào sản xuất, phát triển công nghiệp chế biến, phát huy
vai trò là trung tâm công nghiệp dịch vụ, trung tâm chuyển giao công nghệ, trung tâm
văn hoá trên địa bàn. Thương nghiệp nhà nước liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế khác, thu hút và hướng dẫn họ trong mạng lưới đại lý của
hệ thống thương mại nông thôn, nắm đại bộ phận lực lượng buôn bán, chi phối bán lẻ
những mặt hàng chủ lực, thiết yếu cho sản xuất và đời sống, điều tiết và bình ổn giá cả
có lợi cho nông dân.
_Thương nghiệp nhà nước phải giữ vai trò nòng cốt, chi phối trong lĩnh vực lưu
thông hàng hoá đối với khâu xuất nhập khẩu những ngành hàng và địa bàn quan trọng,
chi phối bán buôn và tổ chức dự trữ lưu thông những mặt hàng thiết yếu cho cả sản xuất
và đời sống, cần phải thăm dò thị trường để nắm bắt được nhu cầu thị hiếu của khách
hàng.
_Kinh tế nhà nước giữ vai trò chi phối để đảm bảo sự tăng trưởng của đất nước
trong các lĩnh vực tài chính, dịch vụ kiểm toán, ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn pháp lý,
thông tin thị trường.
Như vậy, xét một cách tổng thể kinh tế nhà nước có vai trò rất tích cực đối với nền
kinh tế, sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế đã đạt được những thành tựu đáng kể,
khắc phục được một cách thuyết phục các nhược điểm trong nền kinh tế cũ. Đặc biệt là
vai trò của kinh tế nhà nước ngày càng được nhận thức rõ ràng hơn trong tiến trình phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của nhà
nước.
3.Vị trí then chốt của hệ thống doanh nghiệp nhà nước.
Mặc dù đã được thông qua các kỳ đại hội Đảng nhưng cho đến nay vẫn tồn tại
không ít sự tranh cãi xung quanh vấn đề: “nên đặt vai trò chủ đạo cho hệ thống doanh
nghiệp nhà nước hay là cho kinh tế nhà nước”. Bây giờ chúng ta thử phân tích xem nên
quan niệm như thế nào?. Tuy hệ thống doanh nghiệp nhà nước là bộ phận chính yếu tạo
ra tiềm lực vật chất nhà nước, là nơi trực tiếp hình thành và nuôi dưỡng quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa, là lực lượng kinh tế đồng thời cũng là một công cụ điều tiết vĩ mô của
nhà nước, nhưng bên cạnh nó còn nhiều bộ phận khác của kinh tế nhà nước như: ngân
hàng nhà nước, kho bạc nhà nước, ngân sách nhà nước…mà khả năng điều tiết kinh tế
vĩ mô(định hướng, thúc đẩy…) của chúng rất to lớn.
Mặt khác, khi nói đến kinh tế nhà nước là nói tới tất cả các bộ phận của kinh tế nhà
nước với các thuộc tính tiến bộ của thành phần kinh tế đại diện cho phương thức sản
xuất mới-phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa. Là thành phần kinh tế tiến bộ có sứ
mệnh tự khẳng định bản chất ưu việt của mình, kinh tế nhà nước cùng các thành phần
kinh tế khác cải biến các sai lệch không phù hợp trong phương thức sản xuất cũ để mở
đường cho phương thức sản xuất mới phát triển. Như vậy qua phân tích ở trên chúng ta
có thể thấy rằng xét vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước mang tầm bao quát đầy đủ hơn
so với xét vai trò chủ đạo của hệ thống doanh nghiệp nhà nước.
Hệ thống các doanh nghiệp nhà nước có vị trí rất then chốt trong nền kinh tế, nó vừa
là chủ thể tham gia kinh doanh, vừa là lực lượng kinh tế nòng cốt để nhà nước dẫn dắt,
mở đường cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Như vậy, hệ thống các
doanh nghiệp do nhà nước thành lập và làm chủ sở hữu vừa là các đơn vị kinh tế tự chủ,
độc lập, vừa là lực lượng kinh tế vĩ mô của nhà nước. Là chủ thể kinh tế, các doanh
nghiệp nhà nước phải hoạt động có hiêu quả để đóng góp tích cực cho ngân sách nhà
nước, đảm bảo và gia tăng nguồn lực kinh tế mà nhà nước đã đầu tư cho các doanh
nghiệp này. Là lực lượng kinh tế vĩ mô các doanh nghiệp nhà nước phải góp phần tạo ra
môi trường, tiền đề thuận lợi cho sản xuất kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp
khác, lôi cuốn các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác vào quỹ đạo đi lên
chủ nghĩa xã hội. Vi phạm hai chức năng trên, hệ thống doanh nghiệp nhà nước chẳng
những không góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước mà còn làm suy yếu
lực lượng kinh tế và làm giảm vai trò quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước.
Vai trò của hệ thống doanh nghiệp nhà nước gắn liền với việc nó tham gia vào hoạt
động kinh tế cuả nhà nước. Vai trò này thể hiện trên ba phía cạnh: kinh tế, chính trị và
xã hội. Nội dung của vai trò này được thể hiện như sau:
Là công cụ chủ yếu tạo ra sức mạnh vật chất để nhà nước giữ vững sự ổn
định xã hội, điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Mở đường, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển, thúc đẩy sự tăng
trưởng nhanh và bền lâu của toàn bộ nền kinh tế.
Đảm nhận các lĩnh vực hoạt động mang tính chiến lược đối với sự phát triển
kinh tế xã hội, cung ứng các hàng hoá, dịch vụ thiết yếu, nhất là trong lĩnh vực kết
cấu hạ tầng( giao thông, thuỷ lợi, điện nước, thông tin liên lạc…), xã hội( giáo dục,
y tế…) và an ninh quốc phòng.
Góp phần quan trọng khắc phục những khuyết điểm của cơ chế thị trường.
Những lĩnh vực mới, các kết cấu hạ tầng, công trình lớn đòi hỏi vốn lớn, thu hồi
chậm, rủi ro cao, lợi nhuận thấp và là những ngành cần thiết và tạo điều kiện cho
phát triển sản xuất, các thành phần kinh tế khác không muôn đầu tư, hoặc chưa có
khả năng, điều kiện làm thì các doanh nghiệp nhà nước cần phải đi đầu, mở đường
và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển.
Là lực lượng xung kích tạo ra sự thay đổi cơ cấu kinh tế, thúc đẩy nhanh việc
ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ nhằm thực hiện công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Là lực lượng đối trọng trong cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước,
chống sự lệ thuộc vào nước ngoài về kinh tế trong điều kiện mở cửa, hội nhập với
khu vực và thế giới.
Thực hiện một số chính sách xã hội, như tạo việc làm cho các nhóm xã hội
dễ bị tổn thương, ở những khu vực khó khăn, kém phát triển như biên giới, hải đảo,
miền núi…
Là lực lượng tạo nền tảng cho xã hội mới.
Tóm lại, thành phần kinh tế nhà nước và hệ thống doanh nghiệp nhà nước là những
phạm trù kinh tế cùng bản chất, tuy có khác nhau về cấp độ, do đó vai trò và nhiệm vụ
của chúng có nội dung cơ bản giống nhau, nhưng cũng có nhiều điểm khác nhau. Tách
biệt rạch ròi vai trò của khu vực kinh tế nhà nước và vai trò của hệ thống doanh nghiệp
nhà nước là một việc khó, nhưng rất cần thiết cả trong nhận thức và trong hoạt động
thực tiễn. Vai trò của khu vực kinh tế nhà nước rộng hơn và bao hàm cả vai trò quan
trọng của hệ thống doanh nghiệp nhà nước. Nói đến vai trò chủ đạo là nối đến vai trò
của cả hệ thống kinh tế nhà nước, trong đó các doanh nghiệp nhà nước là bộ phận chính
yếu, là phương tiện, công cụ, lực lượng đi đầu mở đường cho sự phát triển kinh tế. Việc
xác định vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước và vai trò của hệ thống doanh
nghiệp nhà nước theo nội dung nêu trên sẽ giúp chúng ta định hướng đúng việc sắp xếp
lại các tổ chức kinh tế nhà nước hiện có, đề ra cơ chế, chính sách phù hợp, biện pháp
quản lý hữu hiệu đối với thành phần kinh tế nhà nước nói chung và các doanh nghiệp
nhà nước nói riêng, đồng thời thiết lập các chế định yểm trợ phát triển nõi chung.
III. Đánh giá vai trò của kinh tế nhà nước trong thực tiễn.
1. Quan điểm đánh giá.
a.Quan điểm lịch sử.
Sau khi giành độc lập, thông nhất đất nước(1975), nước ta bước vào thời kỳ xây
dựng khôi phục đất nước sau chiến tranh. Để khắc phục những hậu quả của chiến tranh,
thấm nhuần chủ nghĩa Mác-LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và nhà nước ta đã đề ra
cơ chế quản lý kinh tế bằng kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp; toàn bộ nền kinh
tế do nhà nước quản lý, cấp phát theo chế độ tem phiếu. Cơ chế quản lý này đã tỏ ra phù
hợp trong một thời gian sau đó khi mà nền kinh tế cần huy động tổng thể các nguồn lực.
Nhưng đến đầu thập kỷ 80 với sự biến động có chu kỳ của nền kinh tế thế giới thì nền
kinh tế đóng của nước ta đã bộc lộ những yếu nhược điểm, nếu cứ tiếp diễn nền kinh tế
sẽ đi vào tụt hậu.
Trước tình hình đó tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI(1986) Đảng ta đã đề ra
chr trương đổi mới toàn diện nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị
trường với sự tồn tại của năm thành phần kinh tế. Trong đó kinh tế nhà nước cùng kinh
tế tập thể dần tạo nền tảng và kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế
đa thành phần.
Tại các kỳ đại hội VII, VIII, IX Đảng ta không ngừng đổi mới tư duy, nhìn nhận
ngày một rõ nét vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, mặc dù trong quá trình đổi mới
kinh tế nhà nước phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, thách thức. Nhưng nhìn chung
tỷ trọng của kinh tế nhà nước luôn chiếm một phần lớn trong cơ cấu GDP. Điều này
được thể hiện thông qua bảng số liệu sau:
Năm 1986 1990 1995 2000
Kinh tế nhà nước. 39,7 31,8 40,2 39,0
Ngoài nhà nước 60,3 68,2 53,5 43,7
Đầu tư nước ngoài 0,0 0,0 6,3 13,3
Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế.
(% theo giá hiện hành)
NXB Thống Kê-Hà Nội 2001.
Do kinh tế nhà nước nắm giữ các vị trí then chốt quan trọng của nền kinh tế, đòi hỏi
cấp nhà nước cần phải có chính sách hợp lý để giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước đối với nền kinh tế.
b. Quan điểm toàn diện.
Để hiểu rõ vai trò của kinh tế nhà nước cần phải có quan điểm toàn diện. Đó là phải
thấy được cả các mặt tích cực, các mặt tiêu cực, các mặt đã đạt được và các mặt chưa
đạt được, các mặt quan trọng và các mặt thứ yếu…để từ đó có biện pháp khắc phục
những mặt còn tồn tại, phát huy hơn nữa các mặt đã đạt được.
Mặt khác, trong đánh giá, không chỉ chú ý đến mặt hiệu quả kinh tế mà phải xem
xét cả hiệu quả xã hội. Quan điểm phát triển kinh tế của Đảng ta là: “phát triển nhanh,
hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội
và bảo vệ môi trường”. Đó chính là định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế thị
trường mà chúng ta đang xây dựng và phát triển.
Trong nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần kinh tế, đòi hỏi nhà nước cần phải
xem xét kĩ tác động qua lại giữa các thành phần kinh tế một cách toàn diện để từ đó mới
xác định được cơ cấu kinh tế hợp lý, tạo tiền đề thuận lợi cho kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo cùng với các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa mà Đảng và nhà nước đã đề ra.
2.Những mặt tích cực đã đạt được.
Nghị quyết hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành trung ương khoá IX đã khẳng định:
“Trong bối cảnh thế giới có nhiều diễn biến phức tạp và nền kinh tế còn nhiều khó khăn
gay gắt, doanh nghiệp nhà nước đã vượt qua nhiều khó khăn thử thách, đứng vứng và
không ngừng phát triển, góp phần quan trọng vào thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi
mới và phát triển đất nước, đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, chuyển sang
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Cụ
thể như sau:
Thứ nhất: kinh tế nhà nước, cụ thể là các doanh nghiệp nhà nước đã chi phối
được các ngành, lĩnh vực then chốt và ssản phẩm thiết yếu của nền kinh tế, góp
phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát
triển kinh tế xã hội, tăng thế và lực của đất nước.
Thứ hai: kinh tế nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm quốc nội,
trong tổng thu ngân sách, kin ngạch xuất khẩu và công trình hợp tác đầu tư với nước
ngoài. Đây là cố gắng to lớn của hệ thống các doanh nghiệp nhà nước và một số bộ
phận khác. Năm 2000, các doanh nghiệp nhà nước đã đóng góp 39,9% tổng sản
phẩm, 39,2% tổng thu ngân sách và hơn 50% kim ngạch xuất khẩu; các doanh
nghiệp đã chiếm 98% các dự án liên doanh với nước ngoài. Từ năm 1991 đến 2000,
các doanh nghiệp nhà nước đã nộp thuế thu nhập gần 64 nghìn tỷ đồng.
Thứ ba: kinh tế nhà nước đã khẳng định vai trò chủ đạo của mình thông qua
việc thực hiện các chính sách xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai và bảo đảm đưa
nhiều sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng, an ninh.
Thứ tư: mặc dù có sự thu gọn đầu mối đáng kể hệ thống doanh nghiệp nhưng
tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế nhà nước vẫn cao hơn tốc độ tăng trưởng của
khu vực tư nhân và đạt bình quan trong 10 năm 11%/năm(1991-2000).
Thứ năm, kinh tế nhà nước ngày càng thích ứng với cơ chế thị trường, năng
lực sản xuất tiếp tục tăng, cơ cấu ngày càng hợp lý hơn, trình độ công nghệ và quản
lý có nhiều tiến bộ, hiệu quả và sức cạnh tranh từng bước được nâng lên, đời sống
người lao động từng bước được cải thiện. Vốn tư tích luỹ bố sung từ chỗ không
đáng kể, đên snay chiếm 27,8% tổng vốn sản xuất kinh doanh.
Thứ sáu: sự chiếm lĩnh của kinh tế nhà nước trong các lĩnh vực kết cấu hạ
tầng, đầu tư mới, công nghiệp lớn và liên doanh, hợp tác với nước ngoài đã đóng
góp rất lớn vào thành công của Việt Nam trong kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá
hối đoái, đối phó với ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng tài chính tiền tệ thế giới,
cũng như ổn định và cải thiện đời sống cho người dân.
Thứ bảy: nhờ có đầu tư, tín dụng nhà nước nên nhiều vùng núi, vùng xa và
đồng bào khó khăn nước ta đã được tạo điều kiện mở mang ngành nghề, tìm kiếm
thu nhập, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân bố lại dân cư theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển, hình thành các trung tâm
văn hoá mới…. Nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn phát đạt, lợi nhuận cao, được
phong tặng đơn vị anh hùng và là tấm gương cho các thành phần kinh tế khác.
Thứ tám: kinh tế nhà nước đã có sự đổi mới tích cực trong quá trình đổi mới
phương thức quản lý doanh nghiệp nhà nước theo hướng cổ phần hoá. Tính đến
tháng 11-2001 cả nước đã cổ phần hoá được trên 700 doanh nghiệp và bộ phận
doanh nghiệp, bằng khoảng 13% tổng số doanh nghiệp hiện có. Theo báo cáo của
các doanh nghiệp cổ phần hoá có thời gian hoạt động trên một năm, đại đa số sản
xuất phát triển. Tính chung doanh thu tăng 1,4 lần, lợi nhuân tăng 2 lần, nộp ngân
sách tăng 1,2 lần, thu nhập của người lao động tăng 22%, số lượng công nhân viên
tăng 5,1%.
Như vậy, nhìn chung kinh tế nhà nước được đánh giá cao ở giác độ làm nền tảng
cho công cuộc chuyển đổi thành công ở Việt Nam. Vậy nguyên nhân nào dẫn tới thành
tựu trên? Tại nghị quyết trung ương ba Ban chấp hành trung ương khoá IX đã khẳng
định: “Đạt được những kết quả trên là nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng và
nhà nước; sự chỉ đạo thực hiện kiên trì của chính phủ và các cấp, các ngành; sự cố gắng
phấn đấu vượt qua khó khăn, thử thách để vươn lên của các doanh nghiệp nhà nước, của
đội ngũ cán bộ quản lý và người lao động trong cơ chế mới.
3.Những mặt yếu kém còn hạn chế.
Bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, so với nhiệm vụ mà kinh tế nhà nước
phải gánh vác thì hiện tại ở khu vực này vẫn còn nhiều yếu kém:
Thứ nhất: năng lực cạnh tranh, hiệu quả chung cua kinh tếnhà nước chưa cao và gần
đây có xu hướng giảm mạnh. Quy mô của các doanh nghiệp nhà nước còn nhỏ, tình
trạng không hiệu quả của số lớn doanh nghiệp nhà nước đã làm thất thoát mất vốn nhà
nước, mặt khác tạo ra ấn tượng không tốt về khu vực này.
Đến nay cả nước có 5.655 doanh nghiệp nhà nước với tổng số vốn trên
126.000 tỷ đồng, số doanh nghiệp có tổng vốn dưới 5 tỷ chiếm 59,8%(trong đó dưới
1 tỷ chiếm 18,2%), số doanh nghiệp có vốn từ 5 tỷ đến 10 tỷ chiếm 15,2%, số doanh
ngiệp có vốn trên 10 tỷ chiếm 25%.
Năm 1998, khi phân loại hiệu quả doanh nghiệp, có 40% doanh nghiệp làm
ăn hiệu quả, 40% doanh nghiệp khi lỗ khi lãi, 20% lỗ liên tục không có hiệu quả.
Năm 2000,số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả cũng chỉ trên 40%, số doanh
nghiệp khi lỗ khi lãi còn 31%, số doanh nghiệp lỗ liên tục chiếm 29%.
Sức cạnh tranh của hàng hoá rất yếu, có những mặt hàng như phân bón, xi
măng, sắt thép, kính xây dựng…giá sản xuất cao hơn giá nhập khẩu từ 10-20%, cá
biệt có mặt hàng giá sản xuất cao hơn giá nhập khẩu 40%, đường thô giá sản xuất
cao hơn giá nhập khẩu tới 70%.
Thứ hai: cơ cấu kinh tế nhà nước còn nhiều bất hợp lý, chưa thể hiện rõ là hạt nhân
của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Mặc dù khu vực kinh tế nhà nước và hệ thống doanh nghiệp nhà nước được
giao đảm đương vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa của chúng ta, nhưng trên thực tế, cho đến nay cơ cấu kinh tế nhà
nước, cơ chế vận hành nền kinh tế, vấn đề thể chế hoá sở hữu nhà nước như thế nào
để nó đam lại hiệu quả hơn hẳn các thành phần kinh tế khác vẫn còn nhiều vấn đề
chưa rõ, phạm vi hoạt động của kinh tế nhà nước thế nào vẫn còn gây tranh luận,
việc xác định vai trò vĩ mô của kinh tế nhà nước chưa đủ thuyết phục, vẫn có sự
đồng nhất giữa kinh tế nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Chính điều đó đã làm
cho doanh nghiệp nhà nước rất lúng túng, chậm chạp và chưa phát huy đầy đủ vai
trò của nó với tư cách là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô.
Do vẫn chưa xác định được cụ thể những ngành, lĩnh vực mũi nhọn mà các
doanh nghiệp nhà nước cần nắm giữ và ở những lĩnh vực nào doanh nghiệp nhà
nước cần phải đi trước, thực hiện trước những việc xã hội đang cần để sau đó
chuyển giao cho khu vực tư nhân nên các doanh nghiệp nhà nước phân bố dàn trải,
không chỉ ở các ngành công ích mà còn ở một số lĩnh vực kinh doanh khác.
Công nghệ trong khu vực kinh tế nhà nước đa phần lạc hậu, tốc độ đổi mới chậm,
tình trạng thiếu vốn, trình độ tổ chức quản lý yếu kém, chưa quen với hoạt dộng kinh tế
theo kiểu mới phổ biến trong các doanh nghiệp nhà nước.
Theo thông báo của bộ khoa học công nghệ và môi trường, qua khảo sát các
thiết bị dây truyền sản xuất trong doanh nghiệp nhà nước đã đưa ra kết luận: “công
nghệ của chúng ta lạc hậu so với các nước từ 10 đến 20 năm”, mà congnghệ là yếu
tố quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh.
Cần lưu ý thêm yêu cầu về phẩm chất của cán bộ quản lý trong khu vực kinh
tế nhà nước. Một mặt đòi hỏi cán bộ ở đây phải là những người trung thành với lợi
ích của nhà nước, do đó phải có cơ chế đào tạo, bổ nhiệm thích hợp. Mặt khác,
những cán bộ này lại là những người có quyền lực, luôn là tiêu điểm tấn công của
các thế lực kinh tế không lành mạnh. Do vậy ngoài trang bị tinh thần, đạo đức, ý chí
cũng cần một chế độ chu cấp xứng đáng để họ toàn tâm toàn ý lo cho sự nghiệp
chung.
Thứ tư: tình trạng khá biệt lập của khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế dân
doanh. Đến nay vẫn chủ yếu tôn vinh, ưu ái cho khu vực kinh tế nhà nước nói chung và
doanh nghiệp nhà nước nói riêng. Hơn nữa còn tình trạng độc quyền và đặc quyền trong
một số doanh nghiệp nhà nước. Ngay cả tín dụng đầu tư cũng không cân xứng giữa kinh
tế nhà nước và kinh tế dân doanh. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm yếu đi
sức mạnh và vai trò của sở hữu nhà nước trong nền kinh tế quốc dân, ngăn cản quá trình
bình đẳng trong nền kinh tế nhiều thành phần và đóng góp của các thành phần kinh tế
vào sự phát triển chung của đất nước….Việc bảo hộ các doanh nghiệp nhà nước, nhất là
các doanh nghiệp kém hiệu quả sẽ dẫn đến sự phân bổ nguồn lực sai và lãng phí. Chính
sách bảo hộ không chỉ tác động tiêu cực đến hiệu quả kinh tế của sản xuất trong nước
mà còn đưa ra những tín hiệu sai lệch đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư
nước ngoài đổ xô tìm kiếm siêu lợi nhuận ở những ngành được bảo hộ cao này, góp
phần vào tình trạng dư cung, ứ đọng sản phẩm, thiểu phát. Mặt khác, trong điều kiện
nguồn lực Việt Nam có hạn, việc bảo hộ các ngành sản xuất công nghiệp kém hiệu quả
sẽ tác động xấu, trước hết là sản xuất nông nghiệp và đời sống người dân.
Thứ năm: trong quản lý khu vực kinh tế nhà nước, sự trở lại của cơ chế cũ ngày
càng rõ. Nhà nước chưa thúc đẩy sự phát triển đồng bộ các loại thị trường, chưa điều tiết
thị trường và hướng dẫn doanh nghiệp với công cụ kinh tế là chính. Những năm gần
đây, cùng với sự tập trung nguồn tài chính trong tay nhà nước đã khôi phục cơ chế “xin-
cho” với vốn ngân sách và tín dụng. Từ đó kéo theo bất công trong phân phối và nạn
tham nhũng càng lộng hành. Cung với cơ chế “xin-cho” về tài chính, cơ chế xử lý tổ
chức và nhân sự, tiền lương hầu như là cơ chế cũ: tổ chức cán bộ kinh doanh do trên sắp
đặt, đánh giá, xét xử. Chính điều này đã làm cho hiện tượng kết nối bè phái trong bộ
máy hành chính gia tăng, trong đó các doanh nghiệp nhà nước đều phải lo quan hệ tốt
với cấp trên và nạn chạy vạy lo lót cơ quan và viên chức cấp trên, trước hết là cấp trên
chủ quản đã thành việc làm bình thường mà hầu như mọi chủ doanh nghiệp đều phải
làm. Mặt khác, cấp trên cấp vốn nhưng không có quy định rõ ràng buộc trách nhiệm cho
đồng vốn chảy vào đúng mục tiêu, đây là cơ hội kiếm lời do tham những của một số cá
nhân khi tiếp nhận đồng vốn để thực hiện mục tiêu, góp phân fkhông nhỏ vào tình trạng
gây thất thoát nguồn vốn, làm cho đồng vốn kém hiệu quả về mặt kinh tế-chính trị-xã
hội.
Thứ sáu: hệ thống ngân hàng tài chính là lĩnh vực quan trọng nhất của kinh tế nhà
nước vẫn còn lạc hậu so với yêu cầu đổi mới cũng như so với các nước trong khu vực và
đang tiềm ẩn nhiều thách thức.
Hệ thống ngân hàng tài chính của Việt Nam tuy đã có sự đổi mới nhanh về
hình thức theo hướng thị trường, nhưng thành tích chống lạm phát do tổng thể cuộc
đổi mới đem lại đã che giấu những yếu kém. Cùng với tình hình đó, bộ máy quản lý
nhà nước về kinh tế chưa có sự đổi mới, cải cách nào đáng kể, phương pháp quản lý
của các cơ quan quản lý kinh tế vẫn còn thiên về kiểm soát và chi phối chặt hơn là
nuôi dưỡng và tạo điều kiện cho doanh nghiệp, thậm chí còn chưa tìm cách khởi
động cuộc cải cách hành chính. Các chính sách nhiều khi không nhất quán, đặc biệt
còn thiếu chính sách tài chính dài hạn.
Khi hệ thống tài chính ngân hàng còn nắm quyền định đoạt và đánh giá tài
sản công, quyền thu hồi và cấp vốn; khi bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế còn
nắm quá nhiều quyền cho phép, xét duyệt, thu phát, xét…thì doanh nghiệp nhà nước
không thể tự chủ, tự chịu trách nhiệm và đương nhiên các doanh nghiệp này vẫn
hoạt động trong vòng tay của tài chính, ngân hàng và bộ máy nhà nước. Điều này có
thể tốt, cũng có thể xấu khi họ liên minh bớt xén của công. Chính thực tế này đã cản
trở quá trình đổi mới kinh tế nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh đó, chúng ta gặp một kho khăn rất lớn, đó là sự kém phát triển của
chính hệ thống an ninh xã hội, sự kém phát triển ngay từ trong cơ chế, chính sách.
Hệ quả của nó là nguồn lực bên trong bị kìm hãm và lãng phí, các doanh nghiệp yếu
kém tham những, hối lộ, móc nối với các quan chức nhà nước và ngân hàng nhà
nước.
Như vậy, xoá bỏ cơ chế cũ về quản lý của nhà nước đối với doanh nghiệp, trong đó
sự đổi mới về hệ thông kế hoạch hoá, tài chính nhà nước và ngân hàng nhà nước là rất
quan trọng.
Tóm lại, khu vực kinh tế nhà nước cùng với bộ máy quản ký nhà nước về kinh tế
đang là nơi khu trú những cái còn lại của cơ chế cũ. Trong điều kiện thị trường sơ khai,
sự tồn tại của cơ chế cũ như vậy sẽ làm tăng tham nhũng tới mức độ nguy hiểm. Thị
trường, cơ bản chưa được tạo lập đủ để làm chức năng đánh giá, định giá, kích thích,
huy động, cân đối, điều tiết như vốn có của nó. Tính kém hiệu quả đó làm cho khu vực
kinh tế nhà nước chưa thực sự đóng vai trò chủ đạo, chưa đủ sức dẫn dắt các thành phần
kinh tế khác phát triển theo đúng mục tiêu của Đảng và Nhà nước.
Đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước là khâu khó khăn, phức tạp nhất
trong sự nghiệp đổi mới kinh tế, là một thử thách lớn đối với chúng ta. Hiện nay nhiệm
vụ thúc đẩy cuộc đổi mới đã trở nên bức xúc như một thách thức mất còn với nhà nước:
hoặc sớm tạo được sự nhất quán về chính sách và cơ chế theo quan điểm mới, thúc đẩy
cuộc đổi mới mở đường tạo lập hệ thống thị trường với đội quân các loại hình doanh
nghiệp hoạt động ngày càng lành mạnh, đồng hành với một nhà nước ngày càng vững
mạnh. Ngược lại, tiếp tục giành quyền đặc lợi cho khu vực kinh tế nhà nước, tiếp tục sa
lầy vào cơ chế tạp trung, quan liêu, tham nhũng, kìm hãm các nguồn lực nhà nước, tạo
ra thị trường tự phát, ngầm và rối loạn. Tất cả nguy cơ đều nằm trong khu vực nhà nước,
mọi chìa khoá mở lối ra cũng nằm trong tay nhà nước, sự nhất quán về chính sách và
phù hợp với thực tiễn sẽ tạo ra khả năng làm mạnh khu vực kinh tế nhà nước và hệ
thống lãnh đạo quản lý nền kinh tế nước ta hiện nay.
Như vậy, nếu không giải quyết thoả đáng các vấn đề nêu trên đối với khu vực kinh
tế nhà nước thì chẳng những nó không thể đảm đương được vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa mà còn là trở ngại lớn trong việc thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước, chủ dộng nhội nhập
quốc tế và khu vực.
Tại hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành trung ương khoá IX cũng đã chỉ rõ những mặt
hạn chế, yếu kém của kinh tế nhà nước, có nguyên nhân khách quan cũng có nguyên
nhân chủ quan:
Một là chưa có thống nhất cao trong nhận thức về vai trò, vị trí của kinh tế
nhà nước và doanh nghiệp nhà nước,về yêu cầu và giải pháp sắp xếp, đổi mới, phát
triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước có nhiều vấn đề chưa rõ ràng,
còn nhiều ý kiến khác nhau, chưa được tổng kết thực tiễn để kết luận.
Hai là quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước còn nhiều yếu kém,
vướng mắc, cải cách hành chính chậm, chưa phân định rõ ràng các quyền cơ bản
cho doanh nghiệp.
Ba là cơ chế chính sách còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ, còn nhiều điểm
chưa phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chưa tạo được
động lực mạnh mẽ thúc đẩy cán bộ và người lao động trong doanh nghiệp nâng cao
năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh.
Bốn là sự lãnh đạo của Đảng và sự chỉ đạo của chính phủ đối với việc sửa đổi
và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước chưa tương xứng với nhiệm vụ quan
trọng và phức tạp này.
Năm là tổ chức và phương thức hoạt động của Đảng tại doanh nghiệp nhà
nước chậm được đổi mới.
IV.Quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ.
1.Quan điểm chỉ đạo:
Kinh tế nhà nước có vai trò quyết định tronh việc giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Doanh nghiệp nhà
nước phải không ngừng được đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vị trí then
chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều
tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai
trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong
hội nhập kinh tế quốc tế. Việc xem xét, đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước
phải có quan điểm toàn diện về cả kinh tế, chính trị, xã hội.
Để kinh tế nhà nước giữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, đòi hỏi các cấp
quản lý cần phải đánh giá một cách toàn diện trên cơ sở thực tiễn, cần phải thấy được
các mặt tích cực và các mặt còn yếu kém, để từ đó tiếp thu, bổ sung, sửa đổi, đổi mới
các mặt còn yếu kém, phát huy hơn nữa các mặt đã đạt được.
Kiên quyết điều chỉnh lại cơ cấu kinh tế nhà nước cho hợp lý, tập trung vào những
ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn đối với các sản
phẩm và dịch vụ chủ yếu, không nhất thiết phải giữ tỷ trọng trong tất cả các ngành, lĩnh
vực, sản phẩm của nền kinh tế. Đại bộ phận doanh nghiệp nhà nước phải có qui mô lớn,
công nghệ tiên tiến, một bộ phận cần thiết có qui mô nhỏ để kinh doanh những sản
phẩm, dịch vụ thiết yếu, nhất là ở vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Chuyển
doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động theo chế độ công ty, đẩy mạnh cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước.
Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần kinh tế. Do đó khi
đưa ra mộ quyết định, chính sách nào đó cần phải xem xét mối tác động qua lại lẫn nhau
giữa các thành phần kinh tế. Không nên quá coi trọng khu vực kinh tế nhà nước mà
buông lỏng khu vực kinh tế dân doanh. Nhưng cũng không được xem nhẹ vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước, vì mục tiêu của chúng ta là định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà
nước là nhiệm vụ cấp bách và cũng là nhiệm vụ chiến lược, lâu dài với nhiều khó khăn,
phức tạp, mới mẻ. Cần phải có một cơ chế quản lý phù hợp để doanh nghiệp nhà nước
kinh doanh tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo pháp luật. Tuỳ theo từng ngành,từng lĩnh
vực mà có chính sách bảo hộ, độc quyền nhà nước, xoá bao cấp…cho phù hợp.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở tất cả các cấp, các ngành đối với việc sắp xếp,
đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Đổi mới phương thức
lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng, phát huy quyền làm chủ của người lao động và vai trò
của các đoàn thể quần chúng tại doanh nghiệp.
Một đòi hỏi nữa với các cấp lãnh đạo đó là việc ra và thực hiện các chính sách phải
được nhìn nhận thông qua thực tiễn, phù hợp với tình hình đất nước, không được có thái
độ chủ quan duy ý chí, dập khuôn máy móc…Đối với những vấn đề đã rõ, đã có nghị
quyết thì phải khẩn trương, kiên quyết triển khai thực hiện, những vấn đề chưa đủ rõ thì
phải tổ chức thí điểm, vừa làm vừa rút ra kinh nghiệm, kịp thời uốn nắn các sai sót, lệch
lạc để có bước đi thích hợp, tích cực và vững chắc.
2.Mục tiêu 10 năm 2001 – 2010.
Sắp xếp, đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp
nhà nước để doanh nghiệp nhà nước góp phần quan trọng bảo đảm các sản phẩm, dịch
vụ công ích thiết yếu của xã hội và nhu cầu cần thiết của quốc phòng–an ninh, là lực
lượng nòng cốt đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể làm nền tảng cho nền kinh tế quốc dân và
kinh tế nhà nước thực sự thể hiện được vai trò chủ đạo của mình, dẫn dắt, hướng dẫn,
gương mẫu cho các thành phần kinh tế khác nhìn vào và định hướng chúng theo mục
tiêu của Đảng và nhà nước trong chiến lược lâu dài.
Thiết lập hệ thống ngân hàng, tài chính một cách gọn nhẹ, chặt chẽ, tạo điều kiện tối
đa cho huy động các nguồn lực phục vụ sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Mặt khác,
nó góp phần ổn định thị trường tiền tệ, ổn định tỷ giá hối đoái, kiềm chế lạm phát một
cách hiệu quả, tạo bước đi vững chắc cho nền kinh tế phát triển.
3.Nhiêm vụ 5 năm 2001 – 2005 .
Hoàn thành cơ bản việc sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu doanh nghiệp nhà nước hiện có,
cổ phần hoá những doanh nghiệp mà nhà nước không cần giữ 10% vốn, sáp nhập, giải
thể, phá sản những doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả, giao bán, khoán kinh
doanh, cho thuê các doanh nghiệp vừa và nhỏ không cổ phần hoá được và nhà nước
không cần nắm giữ.
Thực hiện chế độ công ty trách nhiệm hữu hạn đối với doanh nghiệp nhà nước giữ
100% vốn. Sửa đổi, bổ xung cơ chế, chính sách, hình thành khung pháp lý đồng bộ bảo
đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
nhà nước.
Đổi mới và lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp, giải quyết cơ bản nợ không có
khả năng thanh toán, lao động dôi dư và có giải pháp ngăn chặn các tình trạng trên tái
phát.
Đổi mới và nâng cao hiệu quả của các tổng công ty nhà nước, xây dựng một số tập
đoàn kinh tế mạnh.
Đầu tư phát triển và thành lập mới doanh nghiệp nhà nước cần thiết và có đủ điều
kiện ở những ngành, lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng.
Đổi mới và hiện đại hóa một bước quan trọng công nghệ và quản lý của đại bộ phận
doanh nghiệp nhà nước.
Cải tổ lại bộ máy hành chính, tạo lập sự đồng bộ giữa các cơ quan quản lý nhà nước
về kinh tế, nhất là trong lĩnh vực ngân hàng , tài chính giúp cho quá trình tái sản xuất xã
hội được thông suốt, góp phần ổn định kinh tế-chính trị xã hội.
V.Phương hướng – giải pháp điều chỉnh, tăng cường vai trò chủ đạo của kinh
tế nhà nước.
1.Phương hướng chung.
Vị trí , vai trò, sự tác động qua lại, sự vận động của các thành phần kinh tế như thế
nào để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường
nước ta là vấn đề bức xúc trong thực tiễn và trăn trở trong lý luận. Kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là quan niệm nhất quán của Đảng. Nếu như
cương lĩnh 1991 hoạch định rằng kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng, Đại hội VIII nhận thức kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể dần dần
trở thành nền tảng, thì Đại hội IX có bước phát triển khi chỉ ra rằng : kinh tế nhà nước
cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Nói như vâỵ, một mặt khẳng định ngay từ bây giờ kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập
thể đã phải giữ vai trò nền tảng để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, mặt khác phản
ánh tình trạng còn bất cập của kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, động thời đòi hỏi
phấn đấu củng cố vững chắc nền tảng đó. Với nền tảng ngày càng vững chắc như thế, thì
một quan niệm đặc biệt quan trọng của Đại hội IX rất được lòng dân, là tất cả các thành
phần kinh tế đều là những bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc dân định hướng xã hội
chủ nghĩa của chúng ta.
Hiện nay trên giới, xu hướng toàn cầu hoá, mở cửa nền kinh tế ngày càng diễn ra
nhanh chóng. Một mặt nó tạo điều kiện cho tất cả các quốc gia (trong đó có Việt Nam)
có thể hội nhập vào kinh tế thế giới. Nhưng đa số các quốc gia bây giờ đều theo CNTB,
nước ta theo CNXH, đó là vấn đề rất bất cập, đòi hỏi Đảng và nhà nước ta cần phải xác
định rõ vấn đề là “hội nhập chứ không hoà tan”. Điều này đặt cho kinh tế nhà nước một
gánh nặng tiềm ẩn rất nhiều thách thức. Mặt khác cùng với quá trình hội nhập, mở cửa
thì các vấn đề xã hội theo nó mà nảy sinh, rất có thể làm lệch hướng con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhà nước ta đã chọn. Để điều chỉnh, giải quyết tốt các vấn
đề đó thì kinh tế nhà nước sẽ là một công cụ sắc bén để nhà nước thể chế các chính sách
và thông qua nó mà định hướng cho các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác phải
vào đúng mục tiêu phát triển của đất nước.
Như vậy, xét tính chiến lược, chúng ta cần phải đưa ra các giải pháp nhằm tăng
cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nứơc để nó thực sự trở thành một lực lượng vật
chất mạnh để nhà nước thực hiện các mục tiêu đáp ứng yêu cầu phát triển, hội nhập kinh
tế thế giới của nước ta. Đặc biệt nó luôn phải định hướng đi lên xã hội chủ nghiã, một xã
hội mà đại đa số nhân dân lao động trên thế giới mong đợi.
2.Một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Trên cơ sở lý luận về kinh tế nhà nước và vai trò của nó hiện nay, để vừa xác lập và
nâng cao tính chủ đạo, vừa thúc đẩy được tất cả các thành phần kinh tế khác phát triển
theo đúng đường lối của Đảng và nhà nước, chúng ta cần thực hiện khẩn trương và đồng
bộ các giải pháp cơ bản sau đây:
Thứ nhất: phải nhận thức đúng đắn về kinh tế nhà nước và định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Đối với nước ta hiện nay và nhiều chục năm nữa cần đồng thời khuyến khích phát
triển bốn khu vực kinh tế dựa trên các hình thức sở hữu cơ bản: kinh tế nhà nước, kinh
tế tập thể, kinh tế cá thể và tiểu chủ, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản, kinh tế có vốn đầu
nước ngoài. Các hình thành phần kinh tế được xác định trên các hình thức sở hữu đặc
thù. Các hình thức sở hữu cơ bản đó đan xen hỗn hợp trong nhiều hình thức tổ chức sản
xuất, kinh doanh đa dạng và thúc đẩy nhau cùng phát triển trong suốt quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Mọi hoạt động kinh tế do nhà nước và nhân dân đầu tư, kinh doanh
theo pháp luật đều được xem là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, đều phải được coi trọng. Thực hiện đại đoàn kết dân tộc,
phát huy mọi tiềm năng của đất nước, không phân chia máy móc thành các khu vực hay
thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa và phi xã hội chủ nghĩa, không định kiến quy một
bộ phận kinh doanh của nhân dân là kinh tế tư bản chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước đóng vai
trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc
dân, nhưng việc thực hiện phải luôn xuất phát từ yêu cầu thực tế của sản xuất và đời
sống. Khuyến khích đầu tư, chuyển giao công nghệ tiên tiến và tạo điều kiện đối với
kinh tế thuộc sở hữu nước ngoài.
Cần có sự phân định về khái niệm giữa chế độ sở hữu và hình thức thực hiện chế độ
sở hữu. Mỗi hình thức sở hữu được thực hiện dưới nhiều hình thức sở hữu khác nhau và
thường đan xen, hỗn hợp với nhau. Cần tìm tòi các hình thức để thực hiện hiệu quả các
hình thức sở hữu:
_Sở hữu nhà nước có thể tồn tại dưới hình thức doanh nghiệp 100% vốn nhà nước,
doanh nghiệp nhà nước có cổ phần chi phối hoặc cổ phần không chi phối .
_Sở hữu tư nhân có thể tồn tại dưới hình thức 100% vốn của một tư nhân, công ty
cổ phần hoặc công ty hợp doanh của các tư nhân hoặc công ty có vốn nhà nước tham
gia.
_Sở hữu tập thể tồn tại chủ yếu trong các hợp tác xã, bao gồm là vốn góp cổ phần
của các xã viên, các quỹ tích luỹ của hợp tác xã và sở hữu về tư liệu sản xuất của các hộ
xã viên.
_Trong một đơn vị kinh tế có tư cách pháp nhân cũng có thể có nhiều loại hình sở
hữu: trong một công ty có thể là hỗn hợp sở hữu nhà nước, sở hữu của cá nhân người
lao động, sở hữu của tư nhân trong và ngoài nước.
Tìm tòi hình thức thực hiện chế độ sở hữuđể thu hút, tập hợp và sử dụng có hiệu quả
các nguồn vốn trong xã hội, tạo động lực cho sự phát triển. Đối với sở hữu, các hình
thức thực hiện đa dạng phù hợp chính là để phát huy được vai trò chủ đạo,theo nghĩa chi
phối, dẫn dắt của kinh tế nhà nước.
Chế độ sở hữu gắn với định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ trương kinh tế nhà nước là
chủ đạo,kinh tế nhà nước và tập thể dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Mức độ chủ đạo, định hướng của kinh tế nhà nước là đưa nền kinh tế đạt được các tiêu
chí : dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Về lực lượng sản xuất
đó là: khai thác tối đa mọi nguồn lực, nội lực là quyết định, thu hút và sử dụng có hiệu
quả nước ngoài, phát triển bền vững bảo vệ môi trường. Về quan hệ sản xuất đó là : phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Về tiến bộ và công bằng xã hội đó
là : đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được nâng cao, khuyến khích làm giàu đi
đôi với xoá đói giảm nghèo, phát huy tương thân tưong ái trong xã hội.
Thứ hai : đẩy mạnh phát triển nền kinh tế thị trường.
Tạo môi trường kinh tế vĩ mô thông thoáng, thuận lợi để khu vực ngoài quốc doanh
có điều kiện phát triển nhằm xây dựng một nền kinh tế đa thành phần, mang tính cạnh
tranh, bình đẳng giữa khu vực quốc doanh và khu vực dân doanh. Kinh tế nhà nước là
công cụ sắc bén để nhà nước định hướng các thành phần kinh tế khác phát triển theo
mục tiêu mà đất nước đã chọn.
Thứ ba : cải cách hệ thống ngân hàng, tài chính.
Từng bước hình thành thị trường tài chính với các thể chế, chế tài hợp lý, nhằm đạt
môi trường kinh doanh của mọi loại hình doanh nghiệp dưới sự điều tiết và kiểm soát có
hiệu lực của nhà nước về mặt tài chính. Nhanh chóng cải cách hệ thống ngân hàng, nhất
là việc phân biệt ngân hàng thương mại của nhà nước với ngân hàng nhà nước, sớm tạo
ra hệ thống ngân hàng thương mại cạnh tranh từ đó tạo ra lãi xuất thị trường mà nhà
nước có thể điều tiết chứ không làm thay.
Về tài chính,phải sớm cải cách hệ thống thuế đối doanh nghiệp, cải cách chế độ
kiểm toán, kế toán… tạo khả năng cho Nhà nước và xã hội kiểm soát được tài chính của
tất cả các loại doanh nghiệp.
Thứ tư : sắp xếp và đổi mới tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nước.
Trong việc sắp xếp loài này, điều quan trọng là phải xác định rõ nhiệm vụ, những
lĩnh vực, qui mô và địa bàn hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, qua đó thực hiện sự
phân công lĩnh vực hoạt động giữa các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh. Quá trình sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước phải góp phần thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước theo yêu cầu công nghiệp , hiện đại hoá đất nước. Cụ
thể là, việc sắp xếp lại các doanh nghiệp phải góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các
nguồn lực khan hiếm của nền kinh tế quốc dân, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh. Từ đó, doanh nghiệp nhà nước cùng với
các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế khác tạo ra tiềm lực kinh tế nhà
nước đủ mạnh để định hướng xã hội chủ nghĩa .
Thứ năm : nâng cao phẩm chất và năng lực quản lý kinh tế của các cán bộ lãnh đạo
chủ chốt hoạt động trong khu vực kinh tế nhà nứơc.
Phải xây dựng đội ngũ giám đốc kinh doanh và quản trị nhà nghề, hoạt động theo
chế độ hợp đồng làm thuê theo luật, tức là phải tạo lập thị trường giám đốc trong thị
trường lao động. Cán bộ quản lý kinh tế phải được sử dụng chuyên sâu, đồng thời phải
tạo lập các cơ sở vật chất và kỹ thuật cần thiết cho hoạt động của họ, đặc biệt là hệ
thống đảm bảo thông tin và chế độ kế toán thống kê chuẩn mực, có tính khoa học.
Thứ sáu : xây dựng cơ chế hợp tác có hiệu quả giữa các doanh nghiệp nhà nước và
doanh nghiệp khu vực dân doanh.
Tổ chức các hiệp hội kinh doanh, hợp đồng gia công, thầu phụ và các hình thức hỗ
trợ công nghệ, đào tạo… trong những lĩnh vực hoạt động có liên quan giữa các doanh
nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Mở rộng việc
hợp doanh, liên doanh giữa các doanh nghiệp nhà nước với các thành phần kinh tế khác
nhằm nâng cao tỷ trọng thành phần “tư bản nhà nước” trong cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần.
Thứ bảy : gắn cải cách hành chính với cải cách kinh tế.
Tiến hành cải cách thể chế hành chính (bổ xung, sửa đổi, ban hành mới) đồng thời
với cải cách kinh tế, đặc biệt là thể chế liên quan đến thị trường và doanh nghiệp. Trước
mắt, tập trung cải cách thủ tục hành chính trong mối quan hệ giữa bộ máy nhà nước và
các doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước.
Thứ tám : nhanh chóng hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho xã hội, vừa dựa trên nền
kinh tế thị trường, vừa bảo đảm vai trò quản lý của nhà nước.
Một mặt phân định rõ các quan hệ giao dịch dân sự với quan hệ hành chính và hình
sự, trên cơ sở đó đưa ra các chế tài dân sự vào vận hành trong đời sống, đặc biệt là các
toà án giải quyết tranh chấp kinh tế. Mặt khác, tách biệt một cách hợp lý vai trò của nhà
nước với tư cách chủ thể kinh tế, với nhà nước là cơ quan thay mặt xã hội đưa ra pháp
luật và tiến hành giám sát việc thực thi theo pháp luật.
Thứ chín : xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội, làm tốt công tác an sinh xã hội.
Đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi cải cách doanh nghiệp nhà nước.
Bố trí, sắp xếp thoả đáng người lao động nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ và giữ
vững ổn định chính trị – xã hội trong quá trình sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước.
Thực hiện tất các chính sách xã hội,đặc biệt quan tâm đến các đối tượng người có công
đối với đất nước.
Thứ mười : tập trung nguồn lực để phát triển kinh tế nhà nước trong những ngành,
lĩnh vực trọng yếu mà các thành phần kinh tế khác không đủ điều kiện hoặc không
muốn đầu tư kinh doanh như : kết cấu hạ tầng, giao thông, thuỷ lợi, bảo hiểm…
Kết luận
Tính chất nhiều thành phần kinh tế là nét đặc trưng có tính quy luật của nền knh tế
quá độ nên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quá độ
luôn luôn vận động, phát triển trong mối quan hệ tác động qua lại,đan xen lẫn nhau
trong cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất, trên cơ sở vừa hợp tác, bổ xung cho nhau, vừa
cạnh tranh với nhau và bình đẳng trước pháp luật.
Tuy nhiên các thành phần kinh tế không phát triển theo mọi chiều đều được, như thế
sẽ tạo ra một nền kinh tế hỗn độn mà chúng phải được định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong đó kinh tế nhà nước sẽ giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Một mặt
kinh tế nhà nước được hình thành dựa trên hình thức sở hữu toàn dân, đại diện cho quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. Mặt khác, kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất, công cụ sắc bén để nhà nước
thực hiện các chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế của mình. Kinh tế nhà nước được
coi là gương mẫu, làm nhiệm vụ hướng dẫn, tạo điều kiện và định hướng cho các thành
phần kinh tế khác cùng phát triển theo đúng mục tiêu mà Đảng và nhà nước đã đề ra.
Trong xu thế phát triển hiện nay, nền kinh tế thế giới chứa đầy biến động, quá trình hội
nhập đã mang theo nó rất nhiều bất cập, đòi hỏi Đảng và nhà nước ta phải luôn luôn đổi
mới tư duy lý luận đồng thời nhìn nhận thực tiễn để ngày một nâng cao thêm vai trò
chủ đạo của kinh tế nhà nuớc trong cơ cấu kinh tế đa thành phần để nó xứng đáng là
con chim đầu đàn, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo định hướng
xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhà nước ta đã xác định.
Mục lục
Lời mở đầu
Kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
Tính tất yếu tồn tại thành phần kinh tế nhà nước
Kinh tế nhà nước và vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân hiện nay ở nước ta
Đánh giá vai trò của kinh tế nhà nước trong thực tiễn
Quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ
Phương hướng – giải pháp điều chỉnh, tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước
Tài liệu tham khảo
1.Giáo trình kinh tế chính trị-Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân
NXB Giáo Dục
2.Văn kiện Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX.
3.Nghị quyết hội nghị lần thứ ba ban chấp hành TƯ khoá IX.
4. Lênin toàn tập-tập 39 (trang 309-321)
Kinh tế và chính trị trong thời kỳ đại chuyên chính vô sản.
5.Lênin.
Bàn về thuế-lương thực.
6.Nông Đức Mạnh.
Việc sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước phải hướng tới hiệu quả
cao để doanh nghiệp nhà nước giữ vững vai trò chủ dạo trong nền kinh tế nhiều thành
phần.
Tạp trí cộng sản số 13 (tháng 9/2001).
7.Ngô Quang Minh.
Kinh tế nhà nước và quá trình đổi mới doanh ngiệp nhà nước.
NXB chính trị Quốc gia.
8.Trần Xuân Giá.
Về chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010 và kế hoạch 5 năm 2001-2005 của
nước ta.
9.Nguyễn Tấn Hùng.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: mâu thuẫn và phương hướng giải
quyết.
Nghiên cứu lý luận (số 8/2000).
10.Phạm Thị Quý.
Chuyển đổi mô hình kinh tế ở Việt Nam trong 15 năm qua: thành tựu và kinh nghiệm.
Tạp chí kinh tế và phát triển.
11.Mai Ngọc Cường.
Về vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế doanh nghiệp nhà nước.
Tạp chí kinh tế và phát triển.
12.Đỗ Đức Bình.
Hoàn thiện cơ cấu các thành phần kinh tế ở nước ta.
Tạp chí kinh tế và phát triển.
13.Khu vực kinh tế nhà nước trong hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô.
Những vấn đề kinh tế thế giới (số 2/2002).
14.Nguyễn Ngọc Quang.
Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần.
Nghiên cứu kinh tế (số 225/1996).
15.Những vấn đề chủ yếu trong văn kiện đại hội IX của Đảng.
Tạp chí cộng sản số 8 (tháng 3/2002).
16.Tiếp tục đẩy nhanh, mạnh cổ phần hoá doanhnghiệp nhà nước.
Tạp chí cộng sản số 1( tháng 1/2002).
17.Vũ Văn Phúc.
Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần.
18.Đoàn Duy Thành.
Để doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò then chốt trong kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Tạp chí cộng sản số 3 (tháng 1/2002).
19.Lê Xuân.
Kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể là nền tảng của nền kinh tế nước ta.
Tạp chí cộng sản số 14 (tháng 3/2002).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ta hiện nay.pdf