Tài liệu Luận văn Kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: LUẬN VĂN:
Kinh tế Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam
Đặt vấn đề.
Qua 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được những
thành tựu quan trọng trong mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội. Có thể nói, nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) đã được xác lập và phát huy hiệu quả.
Trong những thành công này có đóng góp một phần không nhỏ của bộ phận kinh tế
Nhà nước (KTNN) với vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là công cụ hữu hiệu để
Nhà nước điều tiết nền kinh tế. Không còn nghi ngờ gì nữa KTNN là lực lượng đảm
bảo cho mục tiêu XHCN ở nước ta.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, sự phát triển của KTNN có những biểu
hiện suy giảm. Trong khi các thành phần kinh tế khác có những biểu hiện phát triển
vượt bậc, đặc biệt là kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tốc độ cải cách tiến hành
chậm, nhiều cơ chế chính sách còn vướng mắc chưa được tháo bỏ triệt để, tàn dư
của chế độ quan liêu bao cấp vẫn còn nặng nề, vấn đề n...
58 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1153 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Kinh tế Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam
Đặt vấn đề.
Qua 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được những
thành tựu quan trọng trong mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội. Có thể nói, nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) đã được xác lập và phát huy hiệu quả.
Trong những thành công này có đóng góp một phần không nhỏ của bộ phận kinh tế
Nhà nước (KTNN) với vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là công cụ hữu hiệu để
Nhà nước điều tiết nền kinh tế. Không còn nghi ngờ gì nữa KTNN là lực lượng đảm
bảo cho mục tiêu XHCN ở nước ta.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, sự phát triển của KTNN có những biểu
hiện suy giảm. Trong khi các thành phần kinh tế khác có những biểu hiện phát triển
vượt bậc, đặc biệt là kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tốc độ cải cách tiến hành
chậm, nhiều cơ chế chính sách còn vướng mắc chưa được tháo bỏ triệt để, tàn dư
của chế độ quan liêu bao cấp vẫn còn nặng nề, vấn đề nợ đọng, lao động dôi dư
chưa được giải quyết thoả đáng, còn những tranh cãi về mặt lí luận, nhiều ý kiến
khác nhau chưa được tổng kết thực tiễn kết luận.
Phát triển KTNN là đòi hỏi sống còn với nền kinh tế và định hướng XHCN ở
Việt Nam. Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã nhấn mạnh sự cần thiết “
tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước để thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế quốc dân” ( Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nhà xuất
bản chính trị quốc gia 2001, Tr 189); Nghị quyết Hội nghị lần thức 3, Ban chấp
hành Trung ương Đảng khoá IX (gọi tắt là Nghị quyết Trung ương 3) đã đề ra các
giải pháp cơ bản về vấn đề này theo hướng tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, phát
triển và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước. Để có thể thành công còn
rất nhiều những khó khăn cần giải quyết. Đây là một vấn đề nghiên cứu rộng và thu
hút sự quan tâm của nhiều nhà kinh tế trong và ngoài nước.
Xuất phát từ những thực tiễn trên, tác giả của đề án đã chọn đề tài “Kinh tế
Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam” làm nội
dung nghiên cứu với hy vọng tìm hiểu sâu hơn về KTNN và đưa ra các kiến giải của
nhiều nhà kinh tế giúp chúng ta có một cái nhìn tổng quát về vấn đề này, đồng thời
trong khả năng có thể đưa một vài tham luận của cá nhân đóng góp vào các giải
pháp phát triển KTNN hiện nay.
Đề án tập trung giải quyết những vấn đề sau :
- Làm rõ khái niệm KTNN, cơ sở lý luận, sự cần thiết của vai trò chủ đạo của
KTNN.
- Mô tả thực trạng của KTNN, thực trạng sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp Nhà
nước, những vấn đề còn tồn tại, nguyên nhân.
- Đưa ra và phân tích các giải pháp, đóng góp ý kiến nhằm phát triển KTNN.
Phần thứ nhất: Kinh tế nhà nước và vai trò của nó trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN.
I. Khái quát lí luận về thời kì quá độ, Sự tồn tại khách quan nền kinh tế
nhiều thành phần trong thời kì quá độ.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc
trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra những tiền đề vật chất và tinh
thần cần thiết để hình thành một xã hội mà trong đó, những nguyên tắc cơ bản của
xã hội XHCN được thực hiện.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu lịch sử bởi vì CNXH – giai đoạn
đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa không thể tự phát ra đời trong
lòng xã hội cũ. Hơn nữa, sự phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa
đòi hỏi một thời kỳ lâu dài.
Khái niệm quá độ lên chủ nghĩa xã hội được vận dụng trong mọi lĩnh vực
của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng, tập quán trong xã hội. Trong đó,
về kinh tế trong thời kỳ quá độ, theo Lê-nin, là nền kinh tế nhiều thành phần, bên
cạnh các thành phần kinh tế XHCN, còn có những thành phần kinh tế khác như tư
bản nhà nước, tư bản tư nhân, cá thể v.v; về chính trị, đó là sự lãnh đạo của Nhà
nước chuyên chính vô sản.
- Việc tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ là một tất yếu
khách quan. V.I . Lê-nin chỉ ra: danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh
tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay, có những thành phần, những bộ
phận, những mảng của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội hay không? Bất cứ ai
cũng thừa nhận là có. Thực vậy, đối với mỗi hình thái kinh tế xã hội có nhiều
phương thức sản xuất biểu hiện thành các thành phần kinh tế. Trong thời kì quá độ,
chưa có thành phần kinh tế nào giữ vai trò thống trị, chi phối các thành phần kinh tế
khác, mà chúng chỉ là những mảnh, những bộ phận hợp thành kết cấu kinh tế xã hội
trong một thể thống nhất biện chứng. Mỗi thành phần có kiểu tổ chức sản xuất kinh
doanh của nó hợp thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Điều này phản ánh
đúng yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất. Trên thực tế, cách mạng vô sản đã thành công ở những nước
tư bản trung bình và những nước kém phát triển (trong đó có Việt Nam). Để xây
dựng xã hội XHCN với trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất, phải có thời
gian tăng năng suất lao động, xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, xây
dựng kiểu xã hội mới. Việc áp dụng những quan hệ sản xuất XHCN, khi sự phát
triển của lực lượng sản xuất chưa theo kịp, nóng vội cải tạo các quan hệ sở hữu như
trước đây ở các nước XHCN là phi lịch sử. Chỉ có phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần mới tạo động lực phát huy mọi nguồn lực, mọi tiềm năng của các
thành phần kinh tế để phát triển, từ đó mà xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH.
- Sự lãnh đạo của Nhà nước chuyên chính vô sản sẽ đảm bảo dẫn dắt xã hội
phát triển tiến lên CNXH. Trong hệ thống chuyên chính vô sản bộ phận quan trọng
nhất là Nhà nước. Giai cấp vô sản phải nắm lấy chính quyền, từng bước cải tạo xã
hội, chống các thế lực thù địch dù đã mất đi vị thế chính trị song vẫn còn rất mạnh,
từng bước xây dựng xã hội mới. Xét theo khía cạnh kinh tế, tầm quan trọng của
Nhà nước trong hệ thống chuyên chính vô sản biểu hiện ở vai trò và chức năng kinh
tế của Nhà nước. Trong xã hội tư bản, vai trò của Nhà nước không chỉ dừng lại ở
thuế khoá (nhằm nuôi sống bộ máy cai trị ), với sự xuất hiện sở hữu Nhà nước đã
làm cho nhà nước bắt đầu can thiệp vào quá trình sản xuất. Một mình thị trường
không làm nổi chức năng điều tiết nền kinh tế, cần phải có bàn tay của Nhà nước
đảm bảo cho nền kinh tế phát triển vững chắc (Lí thuyết “hai bàn tay”của
P.Samuelson ). Vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nước xã hội XHCN được Lê-
nin phát triển và áp dụng trong công cuộc xây dựng nhà nước Xô-viết. Lê-nin cho
rằng Nhà nước có chức năng tổ chức quản lí nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt trong hệ
thống chuyên chính vô sản hiện nay Nhà nước có vai trò bà đỡ-vai trò tạo điều kiện
cho sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Vậy, ta có thể tóm tắt công thức của thời kì quá độ là: nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần dưới sự lãnh đạo của Nhà nước vô sản. Sản xuất hàng hoá là tất
yếu nó không đối lập với tính kế hoạch XHCN, vấn đề là phải áp dụng tính trội của
mỗi tính về mặt tích cực mà xã hội mong muốn. Sản xuất hàng hoá và tính hàng hoá
với tư cách là kiểu sản xuất tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất khác nhau
không những nhông mất đi mà còn cần phát triển cùng với tính kế hoạch định
hướng phát triển từ thấp đến cao. Hay có thể gọi là nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN mà chúng ta đang phát triển hiện nay. Trong đó để thực hiện, nhất
thiết phải có vai trò quản lí kinh tế của Nhà nước. Bởi sự cải biến kinh tế – xã hội
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tất yếu phải gắn vói sự cải biến về chính
trị. Không thể cải biến kinh tế – xã hội nếu thiếu vai trò kinh tế của Nhà nước. Theo
Mác và Ănghen, sự ra đời của vai trò kinh tế của nhà nước thúc đẩy các điều kiện
kinh tế – xã hội của xã hội mới phát triển và hoàn thiện. Đó chính là khởi nguyên
của tư tưởng về vai trò chủ đạo của KTNN.
Xét trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, nền kinh tế của chúng ta nhỏ bé và
lạc hậu việc áp dụng một nền kinh tế quan liêu bao cấp theo mô hình kinh tế chỉ huy
như vừa qua là chưa phù hợp. Để tiến lên CNXH tất yếu phải trải qua thời kì quá độ
với việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Chúng ta quá độ thẳng lên chủ
nghĩa xã hội song tiếp thu những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chủ
nghĩa tư bản để phát triển kinh tế và KTNN phải giữ vai trò chủ đạo. Đó chính là
những nội dung cơ bản mà Việt Nam đã phát triển tư chủ nghĩa Mác-Lênin áp dụng
vào thời kì đổi mới.
II. Quan niệm về KTNN
KTNN là một thuật ngữ bao hàm một nội dung khá rộng, được xác định theo
ý nghĩa khác nhau tuỳ theo góc độ nghiên cứu. ở Việt Nam, thuật ngữ KTNN được
sử dụng rộng rãi từ sau Đại hội VIII thay cho thuật ngữ kinh tế quốc doanh. Theo
cách hiểu chung nhất hiện nay, KTNN là thuật ngữ chỉ phần tài sản thuộc sỏ hữu
Nhà nước. Phần tài sản đó bao gồm :
1. Tài nguyên khoáng sản, đất đai, .v.v. là tài sản quốc gia do Nhà nước làm
chủ sở hữu.
2. Hệ thống các quỹ bảo hiểm do Nhà nước đảm nhiệm và các quỹ dự trữ
quốc gia.
3. Ngân hàng Nhà nước, kho bạc nhà nước, tài chính nhà nước.
4. Các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước ở tất cả các ngành, các lĩnh vực.
5. Phần vốn Nhà nước đầu tư vào các thành phần kinh tế khác dưới dạng
công ty cổ phần.
Xét về vị trí, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, KTNN giữ vai
trò chủ đạo.
Về hình thức thể hiện KTNN bao gồm hai hệ thống: hệ thống doanh nghiệp
và hệ thống phi doanh nghiệp. Hệ thống doanh nghiệp bao gồm các doanh nghiệp
thực hiện các hoạt động kinh doanh và các doanh nghiệp công ích. Hệ thống phi
doanh nghiệp bao gồm ngân sách Nhà nước, các quỹ quốc gia, tài nguyên thuộc sở
hữu nhà nước, v.v…
III. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Vận dụng lí luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, ta có thể khái quát đặc điểm của
thời kì quá độ là: nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần dưới sự lãnh đạo của nhà
nước chuyên chính vô sản hay có thể nói đó là nền KTTT định hướng XHCN ở Việt
Nam hiện nay. Trong hệ thống này đặc biệt nổi lên vai trò kinh tế của Nhà nước.
Mọi người đều biết rằng sự cải biến kinh tế – xã hội trong thời kì quá độ lên CNXH,
tất yếu phải gắn với cải biến về chính trị. hay không thể cải biến kinh tế xã hội nếu
thiếu vai trò kinh tế của Nhà nước. Nhà nước bằng những công cụ, chíng sách kinh
tế vĩ mô điều tiết hạn chế những tiêu cực, mặt trái của kinh tế thị trường. Nhà nước
XHCN không đứng ở bên ngoài mà trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất với tư
cách là thành phần kinh tế đại diện cho phương thức sản xuát của hình thái xã hội
tương lai. Muốn vậy, KTNN phải giữ vai trò chủ đạo. Thực vậy, nếu KTNN không
có ảnh hưởng chi phối được các thành phần kinh tế khác, không làm cho các mối
quan hệ kinh tế diễn ra theo tính chất của phương thức sản xuất XHCN thì việc xây
dựng CNXH chỉ là ảo tưởng.
- Thứ nhất, KTNN dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, là
chế độ phù hợp với xu thế xã hội hoá của lực lượng sản xuất.
- Thứ hai, KTNN nắm giữ những vị trí then chốt, yết hầu xương sống của
nền kinh tế, do đó nó có khả năng, có điều kiện chi phối hoạt động của các thành
phần kinh tế khác, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển theo hướng đã định
- Thứ ba, KTNN là lượng đảm bảo cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế:
là lượng có khả năng can thiệp, điều tiết, hướng dẫn, giúp đỡ, liên kết tạo điều kiện
cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
- Thứ tư, KTNN có thể tác động các thành phần kinh tế khác không chỉ bằng
các công cụ và đòn bẩy kinh tế mà còn bằng con đường gián tiếp, thông qua các thể
chế và hoạt động của kiến trúc thượng tầng XHCN.
- Thứ năm, KTNN dẫn đầu trong việc ứng dụng khoa học công nghệ hiện
đại, tiên tiến; do đó nó có nhịp độ phát triển nhanh đóng góp phần lớn cho ngân
sách Nhà nước và tích tụ để có thể không ngừng tái sản xuất mở rộng.
- Thứ sáu, KTNN là lực lượng nòng cốt hình thành các trung tâm kinh tế, đô
thị mới; là lực lượng có khả năng đầu tư vào những lĩnh vực có vị trí quan trọng
sống còn nhưng lại ít ai giám đầu tư vì nó đòi hỏi vốn quá nhiều mà thời gian thu
hồi vốn chậm.
Nghị quyết đại hội IX của Đảng ta đã chỉ rõ: KTNN phát huy vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định
hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. DNNN giữ những vị trí then chốt; đi đầu tiến
bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế –
xã hội và chấp hành pháp luật.
Phần thứ hai: Thực trạng phát triển
và đổi mới KTNN
I. Tổng quan sự phát triển của KTNN trong 15 năm đổi mới, phát triển.
Trong 15 năm qua, KTNN đã có những chuyển biến đáng kể: KTNN giữ vai
trò chủ đạo, DNNN giữ những vị trí then chốt nắm trong tay những nguồn lực cơ
bản của xã hội, là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh
tế.Trong đó nổi bật có những nét đáng chú ý sau:
- Chúng ta đã chuyển đổi thành công từ chế độ quản lý quan liêu bao cấp
sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
- Tiến hành sắp xếp, đổi mới DNNN và đã thu được những kết quả bước đầu
đáng khích lệ.
- Tốc độ tăng trưởng của KTNN khá đều đặn, hàng năm đóng góp từ 40-46%
cho GDP.
Bên cạnh đó, KTNN vẫn còn tồn tại những mặt yếu kém như : chưa được
củng cố tương xứng vai trò chủ đạo, chưa có những chuyển biến đáng kể trong sắp
xếp và đổi mới DNNN… và còn nhiều vấn đề phức tạp mà bài viết sẽ đề cập cụ thể
trong các phần sau.
1. Thực trạng phát triển.
Trong những năm vừa qua, hoạt động của các DNNN giữ một vị trí quan
trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Nó là một bộ phận nắm giữ cơ sở vật
chất chủ yếu, huyết mạch chính của nền kinh tế quốc dân; nơi tập trung chủ yếu
giai cấp công nhân và cán bộ kĩ thuật, cán bộ quản lý của đất nước, nơi đưa lại
nguồn thu đáng kể cho ngân sách Nhà nước. Hiện nay ở nước ta có khoảng 5280
DNNN với tổng số vốn gần 116 ngàn tỉ đồng. Xét về mặt số lượng chỉ chiếm
khoảng 17% tổng số doanh nghiệp và hàng năm đóng góp từ 40-46% trong tỉ trọng
GDP của cả nước. Các DNNN là lực lượng chủ yếu nắm hầu hết các nguồn lực cơ
bản trong xã hội: 86,6% tổng vốn, 85% tài sản cố định, 100% mỏ, 80% rừng, 90%
lao động được đào tạo có hệ thống và được nhận hầu hết các ưu đãi của Nhà nước
so với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Nhìn chung lực lượng
DNNN đang chiếm giữ một vị trí then chốt trong các ngành kinh tế quan trọng của
đất nước.
Thời gian qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, từ năm 1991 đến nay
Chính phủ đã đẩy mạnh công cuộc đổi mới và sắp xếp lại các DNNN. Đây là một
chủ trương lớn, còn nhiều vấn đề phải bàn đến, người viết xin đề cập chi tiết trong
những phần sau.
Nhìn chung, hiện nay các DNNN vẫn làm ăn thua lỗ, hiệu quả kinh tế đạt
thấp, tồn tại nhiều bất cập, mức tiết kiệm của DNNN còn hạn chế. Theo báo cáo của
tổng cục quản lí vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp năm 1998 chỉ có 37% số
DNNN làm ăn có hiệu quả, số còn lại thua lỗ nặng. Theo báo cáo của Bộ trưởng Tài
chính tại Quốc hội thì cuối năm 1999 chỉ có 20% số DNNN kinh doanh có hiệu quả.
Tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của DNNN giảm dần năm 1996: 11,2%,
1997: 9,7%, 1998: 9,1%, 1999: 9,2%. Con số trên chứng tỏ khả năng sinh lợi của
các DNNN thấp và có xu hướng ngày càng giảm. ở các DNNN tình trạng phổ biến
là ứ đọng hàng hoá, khả năng mở rộng sản xuất và đổi mới công nghệ để sản xuất ra
các mặt hàng có giá trị cao hơn, có khả năng xuất khẩu hơn rất ít. Sản phẩm giá
thành còn cao, giá xuất xưởng của nhiều loại sản phẩm chủ yếu của ta cao hơn hẳn
giá sản phẩm nhập khẩu.
Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sản xuất kinh
doanh của các DNNN sau một thời gian liên tục đạt 13% đến năm 1999đã giảm
xuống còn khoảng 8-9%. Hiệu quả sử dụng vốn giảm, năm 1995: 1 đồng vốn tạo ra
được 3,16 đồng doanh thu và 0,19 đồng lợi nhuận, đến năm 1998 chỉ tạo ra được
2,9 đồng doanh thu và 0,14 đồng lợi nhuận. Nợ nần trong các doanh nghiệp còn rất
cao, năm 1996 tổng số nợ của các DNNN là 174.797 tỉ đồng, năm 1999 đã lên tới
199.060 tỷ đồng, trong đó nợ phải trả bằng 109% vốn nhà nước trong các doanh
nghiệp và khả năng thanh toán nợ của các doanh nghiệp lại rất thấp. Trong khu vực
công nghiệp hoạt động của các DNNN cũng đem lại hiệu quả thấp; Năm 1997
(không kể các ngành khai khoáng là than và dầu khí) tỷ trong xuất khẩu trên tổng
giá trị sản xuất công nghiệp của: DNNN là 17,2%, đầu tư nước ngoài 46,2%, ngoài
quốc donah 46,6%. 5 tháng đầu năm 2000, giá trị sản xuất công nghiệp tăng khoảng
14,3% so với cùng kỳ năm 1999, trong đó khu vực DNNN tăng 12,5% (Trung ương
quản lý tăng 11,8%, đại phương quản lý tăng 13,9%); khu vực ngoài quốc doanh
tăng 18,8%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 13,9%. Những số liệu trên đây
cho thấy hiệu quả hoạt động của khu vực quốc doanh thấp hơn nhiều so với khu vực
liên doanh và ngoài quốc doanh.
Từ hoạt động sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, mức đóng góp cho ngân
sách Nhà nước của các DNNN cũng ít hơn các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác. Năm 1998, công nghiệp Nhà nước chiếm 47,4% vốn, 28,5% lao động
và sản xuất ra 48% tổng giá trị sản xuất toàn nghành, nhưng chỉ đóng góp 40,7%
thu ngân sách trong lĩnh vực công nghiệp. Trong khi đó khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài với 46,7% vốn, 8,2% lao động đã sản xuất ra 31,8% tổng giá trị sản xuất và
đóng góp 56,8% tổng số nộp ngân sách toàn ngành. Đặc biệt tổng giá trị sản xuất
của khu vực DNNN ngày càng thấp so với tốc độ toàn ngành công nghiệp vốn đã
chậm dần.
Theo số liệu của Bộ tài chính, tổng thu ngân sách Nhà nước 6 tháng đầu năm
2000 ước tính đạt 41,2% dự toán cả năm và tăng 6,4% so với cùng kỳ năm trước,
trong đó thu từ khu vực KTNN chiếm 20,8% tổng số thu, đạt 40,2% và giảm 9,0%,
thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 28,7% đạt 46,9% và tăng
68,7%.
2. Thực trạng đổi mới và sắp xếp lại DNNN.
Ngay từ đại hội VI, Đảng ta đã đề xuất chủ trương thực hiện đổi mới sắp xếp
lại DNNN như là một bộ phận quan trọng trong đường lối đổi mới toàn diện đất
nước, đáp ứng yêu cầu thực hiện vai trò chủ đạo của KTNN. Từ đó đến nay qua các
thời kì chủ trương này lại được bổ xung và phát triển.
2.1. Sự cần thiết phải đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước.
Cải cách DNNN là quá trình tất yếu, khách quan. Nó xuất phát từ những yêu
cầu cấp thiết đặt ra ở trong nước cũng như trên thế giới.
Hiện nay, trong bối cảnh thế giới, xu hướng toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh
mẽ. Đây là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Đây là
một cơ hội giúp chúng ta phát triển, đồng thời nó cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ, mặt
tiêu cực như sự phân hoá giàu nghèo, ô nhiễm môi trường sinh thái. Điều này đặt ra
cho chúng ta những yêu cầu và thách thức phải đổi mới để hội nhập. Muốn vậy
phải cải cách nền kinh tế, tăng cường nội lực, để phát triển đón nhận những thời cơ
mà thời đại đem lại. Mà một trong những việc phải làm đầu tiên là cải cách hệ
thống DNNN làm cho nó thích nghi một cách toàn vện với cơ chế mới, tạo đòn bẩy
cho sự tăng trưởng. Điều này khẳng định tính tiên phong của thành phần kinh tế
XHCN.
Thời đại ngày nay ghi nhận những phát triển vượt bậc của khoa học kĩ thuật
và công nghệ mà những ứng dụng của chúng đem lại những biến đổi lớn lao trong
đời sống xã hội. Thế giới đang chuyển sang nền kinh tế trí thức. Việt Nam cũng
chuyển mình đón nhận những thành tựu do khoa học kĩ thuật đem lại. Hệ thống các
DNNN phải đi đầu cải tiến, đổi mới sản xuất, áp dụng công nghệ kỹ thuật hiện đại,
là tấm gương tiêu biểu trong sự nghiệp phát triển kinh tế.
Thực tiễn những năm vừa qua cho thấy, việc áp dụng quá lâu cơ chế quản lý
quan liêu bao cấp đã gây ra sự khủng hoảng trong đời sống kinh tế – xã hội. Suốt
mộ thời gian dài Nhà nước là người đứng ra quyết định tất cả các vấn đề về sản
xuất cũng như tiêu thụ trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp chỉ thụ động sản xuất
theo kế hoạch đề ra, chúng chỉ như những phân xưởng trong xí nghiệp kinh tế quốc
dân. Lối quản lý này làm sơ cứng nền kinh tế, mất đi động lực phát triển, phí phạm
tài nguyên và các vấn đề lợi ích khác không được giải quyết thoả đáng. Đại hội
Đảng VI đã đề ra đường lối đổi mới kinh tế, chuyển đổi cơ chế quan liêu bao cấp
sang thực hiện cơ chế thị trường. Cùng với nó là quá trình cải tổ sâu sắc trong hệ
thống DNNN đáp ứng đòi hỏi của cơ chế mới thời kỳ mới.
Cơ chế quản lý không phù hợp, cùng với những nguyên nhân khách quan
như chiến tranh cấm vận để lại di chứng rất nặng nề cho nền kinh tế. Đó là tình
trạng yếu kém của hầu hết cácDNNN, sản xuất đình trệ. Hiện tại, các doanh nghiệp
có những khó khăn chủ yếu sau trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu, máy móc nhà
xưởng cũ kỹ, năng kực đội ngũ cán bộ không đáp ứng được những yêu cầu đặt ra,
sử dụng vốn kém hiệu quả, làm ăn thua lỗ kéo dài, nợ nần chồng chất gây gánh
nặng cho nền kinh tế. Cải cách DNNN làm cho chúng phát triển là một trong những
yêu cầu cấp bách đặt ra trong hiện tại cũng như tương lai.
Việc sắp xếp, đổi mới DNNN phải theo hướng tập trung nắm giữ những đầu
mối chính, tạo sự năng động tự chủ của các doanh nghệp. Nhà nước chỉ nắm giữ
những ngành, lĩnh vực chủ chốt làm tăng tính hiệu quả của hoạt động Nhà nước.
Điều này không hề làm giảm sút sức mạnh của KTNN mà còn tạo cho Nhà nước
một công cụ hữu hiệu để điều tiết nền kinh tế. Từ đó mà định hướng XHCN ngày
càng được xác lập
2.2. Phương hướng chung, đường lối chỉ đạo, mục tiêu nguyên tắc
Trên tinh thần Đại hội IX, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã họp và ra
nghị quyết TW3 về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu
quảDNNN. Nghị quyết nêu rõ :
* Quan điểm chỉ đạo.
- KTNN có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. DNNN (gồm
DNNN giữ 100% vốn và DNNN giữ cổ phần chi phối) phải không ngừng được đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công
cụ vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lượng nòng
cốt, góp phần chủ yếu để KTNN thực hiên vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, là chủ lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việc
xem xét, đánh giá hiệu quả của DNNN phải có quan điểm toàn diện cả về kinh tế,
chinh trị, xã hội; trong đó, lấy lãi suất sinh lời trên vốn làm một trong những tiêu
chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp kinh doanh, lấy kết quả thực
hiện các chính sách xã hội làm kết quả chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh
nghiệp công ích.
- Kiên quyết điều chỉnh cơ cấu để DNNN có cơ cấu hợp lý, tập trung vào
những nghành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn đói
với các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu; không nhất thiết phải giữ tỉ trong lớn trong tất
cả các ngành, lĩnh vực, sản phẩm của nền kinh tế. Đại bộ phận DNNN, cho phá sản
DNNN yếu kém, thua lỗ kéo dài mà Nhà nước không cần nắm giữ. Qua 3 đợt,
DNNN đã giảm từ 12 300 doanh nghiệp còn 5 571 ( giảm 55% về số lượng, chủ yếu
là doanh nghiệp nhỏ và do địa phương quản lý ). Cơ cấu DNNN bắt đầu được điều
chỉnh hợp lý, có tác động tích cực đến quá trình tích tụ và tập trung vốn, hình thành
và phát triển một số doanh nghiệp mới có trình độ công nghệ cao và có sức cạnh
tranh. Số doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng giảm từ 50% năm 1994 xuống còn
26% năm 1999 ; số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỉ đồng tăng tương ứng, từ 10% lên
20% ; vốn bình quân của một doanh nghiệp tăng từ 3,3 tỷ đồng lên 21 tỉ đồng.
Trong quá trình sắp xếp lại các doanh nghiệp, Nhà nước đã giải quyết trợ cấp thôi
việc một lần cho 72 vạn lao động.
Ba là, tổ chức, củng cố và phát triển các tổng công ty nhà nước ( TCTNN )
nhằm tập trung nguồn lực của Nhà nước vào các ngành then chốt mà Nhà nước cần
chi phối… Thời gian qua, đã sắp xếp lại 250 liên hiệp xí nghiệp và Tổng công ty.
Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập 17 tổng công ty 91 và uỷ quyền cho các
bộ, uỷ ban nhân dân các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương quản lý 77 tổng công
ty 90. Các TCTNN có 1 534 doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập, chiếm
27,5% tổng số doanh nghiệp cả nước, 61% về lao động ( riêng 17 tổng công ty 91
có 491 doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập, chiếm 8,8% số lượng DNNN,
35% lao động ). Nhìn chung, các TCTNN đã chi phối được các ngành, các lĩnh vực
then chốt của nền kinh tế và đã trở thành công cụ quan trọngđể Nhà nước điều tiết
quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm các cân đối lớn
của nền kinh tế. Các TCTNN đã bảo toàn và tích tụ được vốn ngày càng tăng, huy
động nhiều nguồn lực đầu tư, đổi mới công nghệ,tăng nhanh năng suất lao động,
hiệu quả và sức mạnh cạnh tranh ( năm 1999, riêng 17 tổng công ty 91 đã bổ sung
thêm nguồn vốn 15 850 tỷ đồng, chiếm 22,5% tổng số vốn, doanh thu tăng 12%, lợi
nhuận tăng 23%, nộp ngân sách tăng 29% ).
Bốn là, cổ phần hoá một bộ phận DNNN mà Nhà nước không cần nắm giữ
100% vốn để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh
phát triển. Tính đến hết tháng 11/2001, cả nước đã có 771 doanh nghiệp được cổ
phần hoá và chuyển đổi sở hữu (trong đó có 698 doanh nghiệp được cổ phần hoá,
41 doanh nghiệp được giao và 32 doanh nghiệp được bán), bằng 13% số doanh
nghiệp hiện có, với số vốn gần 3.000tỷ đồng, bằng hơn 2% tổng vốn nhà nước trong
DNNN. Sau khi cổ phần hoá và chuyển đổi sở hữu, các doanh nghiệp đã huy động
được thêm hơn 2.000 tỷ đồng của các cá nhân pháp nhân, đồng thời thông qua bán
cổ phiếu, Nhà nước đã thu thêm hơn 1150 tỷ đồng để đầu tư và giải quyết chính
sách cho người lao động. Bên cạnh đó, phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp sau
khi chuyển đổi không mất đi mà lại tăng thêm từ 10 – 15% so với giá trị trên sổ
sách. Cùng với quá trình cổ phần hoá, Đảng, Chính phủ chủ trương để một số
DNNN đầu tư một phần vốn thành lập công ty cổ phần mới. Đến ngày 18-5-2000,
DNNN đã đầu tư vốn thành lập 279 công ty cổ phần mới với tổng số vốn Nhà nước
là 868,8 tỷ đồng, chiếm 46% vốn điều lệ. Kết quả sản xuất kinh doanh cho thấy :
267 công ty (96,4%) có lãi, 12 công ty còn lại (3,6%) hoà vốn.
Năm là, thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê những DNNN có
quy mô nhỏ, thua lỗ kéo dài để sử dụng có hiệu quả tài sản Nhà nước, bảo đảm việc
làm và thu nhập của người lao động. Theo báo cáo chưa đầy đủ, đến ngày
31/1/2001, số DNNN thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê theo Nghị
định 103/1999/NĐ-CP là 105 doanh nghiệp. Hình thức doanh nghiệp sau khi
chuyển đổi chủ yếu là công ty cổ phần, cổ đông chủ yếu là số lao động làm việc tại
doanh nghiệp, ngoài ra cũng có một số trường hợp bán cho người ngoài doanh
nghiệp. Phần lớn các địa phương và doanh nghiệp lựa chọn hình thức giao và bán
(chuyển đổi sở hữu), chiếm tương ứng 37% và 47,5%; thực hiện thuê và khoán kinh
doanh (chuyển đổi phương tức quản lý) chỉ chiếm tương ứng 2% và 15,2%. Đánh
giá một cách tổng quát, sau khi chuyển đổi, nhiều doanh nghiệp đã ổn định tổ chức,
vốn kinh doanh có xu thế tăng, doanh thu và lợi nhuận tăng, thực hiện đầy đủ nghĩa
vụ với Nhà nước, đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Cụ thể, so với trước khi
chuyển đổi, vốn kinh doanh tăng 67,3 %; doanh thu tăng 42,5%; nộp ngân sách Nhà
nước tăng 44,5%; số lao động tăng 12,8%; thu nhập bình quân của người lao động
tăng 38,7% ( từ 280.000 lên 388.000 đồng/người/tháng)… Từ đó cho thấy việc
thực hiện giao, bán, khoán, cho thuê các doanh nghiệp đã khắc phục được tình trạng
giải thể, phá sản doanh nghiệp, bán phát mại tài sản của Nhà nước; khắc phục được
tình trạng người lao động mất việc làm, năng lực sản xuất của DNNN được phát
huy, xoá được bao cấp, bù lỗ của Nhà nước, tăng khả năng huy động nguồn vốn
trong dân.
Trong các nội dung trên, cổ phần hoá các DNNN và đổi mới cơ chế chính
sách là hai xu thế chủ đạo của tiến trình này người viết xin đề cập chi tiết trong
những phần sau.
*Về mặt thành tựu, có thể khái quát mặt được của DNNN sau quá trình sắp
xếp đổi mới như sau :
- Hầu hết các DNNN đều có những chuyển biến tích cực: cơ cấu và quy mô
bước đầu được điều chỉnh theo hướng phù hợp hơn; thích ứng được với cơ chế thị
trường; trình độ công nghệ và quản lý có nhiều tiến bộ; vốn được bảo toàn và tăng
thêm; vốn tích luỹ, tự bổ sung từ chỗ không đáng kể đã tăng lên 27% tổng vốn sản
suất kinh doanh; hiệu quả hoạt động từng bước tăng lên.
- DNNN đã góp phần rất quan trọng để KTNN thực hiện vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế nhiều thành phần; chi phối được các ngành và lĩnh vực then chốt; thực
sự là nòng cốt tăng trưởng kinh tế, trong xuất khẩu và đóng góp cho ngân sách Nhà
nước; bảo đảm cân đối lớn và góp phần quan trọng trong ổn định kinh tế vĩ mô; là
lượng chính trong việc bảo đảm các sản phẩm và dịch vụ công ích chủ yếu của xã
hội.
- Số DNNN giảm mạnh nhưng tốc độ tăng trưởng của khu vực DNNN vẫn duy
trì mức khá cao, bình quân tăng 11%/năm trong 10 năm (1991 –1999). Năm 2000
các DNNN đóng góp 39 % GDP.
II. Vấn đề đặt ra.
Như vậy, qua các phần phân tích ở trên, chúng ta đã hiểu phần nào về thực
trạng của các DNNN, bên cạnh đó còn rất nhiều tồn tại và vướng mắc cần giải
quyết. Trong phạm vi bài viết chỉ xin đưa ra những vấn đề cơ bản nhất:
Thứ nhất, về mặt nhận thức quan điểm, chưa có sự thống nhất cao trong nhận
thức về vai trò, vị trí của KTNN và DNNN, về yêu cầu và giải pháp sắp xếp, đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN; nhiều vấn đề chưa rõ, còn nhiều ý kiến
khác nhau nhưng chưa được tổng kết thực tiễn để kết luận. Từ đó dẫn đến cơ chế
chính sách còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ.
Thứ hai, hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của các DNNN còn
thấp, chưa tương xứng với điều kiện và lợi thế có được; tốc độ tăng trưởng của
DNNN có biểu hiện giảm dần; nợ khó đòi ngày càng lớn; tính năng động của một
bộ phận không nhỏ DNNN còn hạn chế. Theo đánh giá chung, năm 1998 số DNNN
thực sự kinh doanh có hiệu quả chỉ chiếm khoảng 40%, số doanh nghiệp kinh doanh
không có hiệu quả liên tục bị thua lỗ chiếm 20%, còn lại 40% doanh nghiệp kinh
doanh chưa hiệu quả khi lỗ khi lãi. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn nhà nước
của DNNN không cao và có xu hướng giảm dần (Năm 1996 là 11,2 %, năm 1997 là
9,3%, năm 1998 là 9,1%, năm 1999 là 9,2%). Không ít doanh nghiệp xây dựng dư
án, kế hoạch không phù hợp với định hướng phát triển chung của ngành, thiếu tính
khả thi; việc bảo toàn vốn của không ít doanh nghiệp chưa tốt, còn có tình trạng ăn
vào vốn, mất vốn.
Thứ ba, đầu tư đổi mới công nghệ chậm, trình độ công nghệ lạc hậu đang là
cản trở lớn đối với khả năng cạnh tranh và quá trình hội nhập. Theo số liệu của Bộ
Khoa học, Công nghệ và Môi trường, thì trừ một số doanh nghiệp có trình độ khoa
học và công nghệ hiện đại hoặc trung bình của thế giới và khu vực ( sản xuất thiết
bị đo điện, sản xuất điện tử, sản xuất sợi dệt …) còn lại máy móc thiết bị, dây
chuyền sản xuất của các doanh nghiệp của ta lạc hậu so với thế giới và khu vực từ
10 đến 20 năm, thậm chí 30 năm (cơ khí, sản xuất phôi); trình độ cơ khí tự động hoá
dưới 10%, mức độ hao mòn hữu hình từ 30% đến 50%. Hậu quả trực tiếp của tình
trạng trên là một số mặt hàng sản xuất trong nước như sắt thép, phân bón, xi măng,
kính xây dựng…có mức giá cao hơn giá nhập khẩu từ 20% đến 40%, riêng đường
thô cao hơn 70% - 80%. Đến tháng 10/2000 cả nước mới có 236 doanhy nghiệp
được cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn ISO/9000, trong đó chỉ có 97 DNNN.
Thứ tư, quy mô của DNNN vẫn còn nhỏ, dàn trải, chồng chéo về ngành nghề
và tổ chức quản lý. Đến nay cả nước có 5771 doanh nghiệp với tổng số vốn khoảng
116 000 tỷ đồng, bình quân mỗi doanh nghiệp có gần 21 tỷ đồng; số doanh nghiệp
có vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm tới 65,4%. DNNN tập trung vào những ngành những
lĩnh vực then chốt, trọng yếu của nền kinh tế mà DNNN nhất thiết phải chi phối.
Thứ năm, lao dộng thiếu việc làm và dôi dư có xu hướng ngày càng tăng là
khó khăn lớn, ảnh hưởng đến quá trình đổi mới và phát triển DNNN. Theo số liệu
của bộ Lao động Thương binh - Xã hội, hiện nay, số lao độnh không có việc làm
thường xuyên và mất việc làm ở các doanh nghiệp khoảng 20%, có doanh nghiệp
lên tới 40%. Đây là một thực trạng bức xúc mà người viết xin đề cậpcụ thể trong
những phần sau.
Thứ sáu, trình độ quản lý của DNNN phần lớn còn yếu kém chưa đáp ứng
yêu cầu của cơ chế thị trường; nhiều cán bộ quản lý chưa được đào tạo, đào tạo lại,
chưa đáp ứng được yêu cầu chuyên môn, còn lúng túng trước cơ chế thị trường.
Thứ bảy, cơ chế chính sách quản lý kinh tế, quản lý DNNN còn nhiều tồn tại
vướng mắc cần tháo gỡ.
- Chính sách tài chính, tín dụng tuy đã được sửa đổi, bổ sung, nhưng vẫn còn
nhều điểm chưa phù hợp với loại hình DNNN hoạt động công ích và hoạt động kinh
doanh trong cơ chế thị trường. Nhà nước chưa đủ điều kiện và chưa đòi hỏi đúng
mức để DNNN tự chủ tự tạo trách nhiệm, năng độnh trong sản xuất kinh doanh, tích
tụ vốn đầu tư và đổi mới công nghệ; chưa xây dựng và phát triển được đồng bộ thị
trường vốn để tạo ra sự chu chuyển thông suốt vốn trong toàn xã hội, đáp ứng nhu
cầu vốn của doanh nghiệp. Chính sách thuế tuy đã được sửa đổi, bổ sung, nhưng
vẫn còn nhiều bất hợp lý, chưa ổn định, chưa chú trọng đầy đủ đến việc nuôi dưỡng
nguồn thu và phát triển sản xuất kinh doanh , tạo điều kiện cho tích luỹ vốn. Chế độ
kế toán chưa tạo điều kiện và buộc DNNN hạch toán đúng kết quả kinh doanh; phân
phối thu nhập chưa tạo động lực mạnh mẽ cả đối với người quản lý và người lao
động. Chính sách tiền lương và phân phối lợi nhuận để lại doanh nghiệp chưa
gắnchặt với hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhiều cơ chế, chính sách tài chính không
còn phù hợp với cơ chế thị trường nhưng chưa được sửa đổi chẳng hạn như : Quỹ
dự phòng rủi ro, Quỹ dự phòng thất nghiệp (lấy từ lợi nhuận để lại cho doanh
nghiệp), tiền thu sử dụng vốn…
- Về đầu tư , việc phân cấp giao quyền quyết định cho doanh nghiệp chưa rõ
ràng và không đầy đủ, không chịu trách nhiệm khi phương án đầu tư không hiệu
quả và chưa có cơ chế kiểm soát đầu tư.
- Về quản lý Nhà nước, chưa phân định rõ các loại quyền như :quyền quản
lý của Nhà nước đối với DNNN; quyền của cơ quan Nhà nước với tư cách là chủ sở
hữu ; quyền của đại diện chủ sở hữu trực tiếp với doanh nghiệp ; quyền sử dụng vốn
và quyền chủ động kinh doanh của doanh nghiệp ; còn quá nhiều văn bản pháp qui
chồng chéo, thiếu khả thi ; cơ chế phá sản của doanh nghiệp còn chưa được thực
hiện theo luật phá sản doanh nghiệp (Đại diện ngân hàng sợ mất vốn; đại diện công
nhân viên chức sơ không giải quyết được chế độ với công nhân; lãnh đạo doanh
nghiệp sợ mất quyền lợi và truy cứu trách nhiệm).
* Những khó khăn gặp phải trong quá trình cải cách doanh nghiệp.
Cải cách doanh nghiệp là một chủ trương lớn hiện nay nó có tính chất quyết
định tới sự thành công của sự nghiệp đổi mới. Song hiện nay tiến trình này vẫn chưa
phát huy hiệu quả. Vấn đề là do đâu? Bài viết xin đề cập đến những vướng mắc còn
tồn tại trong quá trình này với mong muốn góp phần tìm ra giải pháp.
+ Đầu tiên, xin đề cập tới việc thành lập các tổng công ty 90, 91 . Qua thực
trạng hoạt động cho thấy ở không ít tổng công ty hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp thành viên còn rời rạc, chưa tạo lập được thực thể kinh tế thống
nhất bằng cơ chế tổ chức và điều hành. Mặc dù có nhiều lợi thế, song một số tổng
công ty chưa thực hiện tốt vai trò của mình trong việc bảo đảm cân đối kịp thời nhu
cầu về một số mặt hàng thiết yếu trong sản xuất và đời sống. Một số tổng công ty tổ
chức bộ máy cán bộ quá công kềnh, chưa có chính sách phù hợp, cơ chế quyết định
nhân sự hiện hành chưa phát huy được trách nhiệm và hiệu lực điều hành quản lý
của tổng giám đốc. Tổng giám đốc không có quyền bổ nhiệm giám đốc thành viên,
giám đốc có quyền tuyển dụng lao động không hạn chế, nhưng không có quyền sa
thải; tổng giám đốc, giám đốc, hội đồng quản trị không được chủ động bố trí bộ
máy doanh nghiệp. Việc quy định chức năng và nhiệm vụ của tổng giám đốc và của
hội đồng quản trị chưa rõ ràng; mối quan hệ của nhiều công ty với các đơn vị thành
viên vẫn là hành chính, chưa dựa trên quan hệ tài chính, trách nhiệm và quyền lợi;
quan hệ giữa các đơn vị thành viên với nhau còn mang tính ghép nối cơ học. Một
số tổng công ty vin vào độc quyền để bắt nghẹt người tiêu dùng. Nhiều tổng công ty
chưa làm tốt chức năng thị trường, phó mặc cho các đơn vị thành viên.
+ Thứ hai, quá trình cổ phần hoá hiện nay còn nhiều vướng mắc. Trước hết,
vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hoá, phưong pháp xác định chưa
thể hiện rõ xu thế phát triển của doanh nghiệp, còn bỏ sót yếu tố cấu thành quan
trọng là quyền sử dụng đất. Việc đánh giá còn mang tính cảm quan, thoả hiệp giữa
hội đồng doanh nghiệp và doanh nghiệp được định giá. Thủ tục còn rườm rà, phức
tạp. Khi tiến hành cổ phần hoá, vẫn chưa tách bạch được người đại diện chủ sở hữu
và người quản lý trực tiếp phần vốn tại doanh nghiệp cổ phần hoá, nên xảy ra tình
trạng doanh nghiệp vừa là người mua vừa là người bán, vừa tham gia định giá, vừa
tổ chức bán cổ phần của Nhà nước… dẫn đến tình trạng chỉ bán nội bộ, hoặc cố tình
không bán ra ngoài để giảm giá hoặc trì hoãn thực hiện cổ phần hoá. Chưa có cơ
chế xử lý những công nợ dây dưa và tài sản không cần dùng ở các doanh nghiệp cổ
phần hoá nên đã làm chậm tiến trình gây tổn thất cho Nhà nước. Một vấn đề nữa là
chính sách đối với người lao động chưa bình đẳng khi thực hiện khống chế tỷ lệ giá
trị ưu đãi trên vốn Nhà nước nên gây thiệt thòi cho người lao động có ít vốn nhà
nước . NGoài ra, việc giải quyết chính sách lao độnh mất việc, thôi việc còn mang
nặng tính bao cấp, dồn hết gánh nặng cho ngân sách nhà nước. CHủ trương là tạo
điều kiện cho người lao động làm chủ doanh nghiệp thông qua mua cổ phiếu nhưng
đa số hội đồng quản trị không có thành viên nào là đại diện của người lao động.
+ Thứ ba là vấn đề xử lý nợ và tài sản tồn đọng của DNNN. Theo kết quả
kiểm kê đến ngày 1/1/2000, tổng số nợ tồn đọng ở các DNNN lên tới 31.935 tỷ
đồng. Trong đó, nợ phải thu quá hạn là 21.218 tỷ đồng và nợ quá hạn là 10.717 tỷ
đồng. Với tình trạng trên, nhiều doanh nghiệp nhà nước đã rơi vào tình trạng “lãi
không đủ trả nợ”. Đó là chưa kể đến tổng giá trị tài sản không cần dùng, chờ thanh
lý ở các DNNN hiện lên tới 3285 tỷ đồng, và trên 300 tỷ đồng nợ khó đòi và tài sản
không cần dùng, chờ thanh lý đã được loại trừ khi thực hiẹn chuyên đổi sở hữu hơn
700 doanh nghiệp và bộ phận DNNN chưa được xử lý triệt để đang giao cho các
công ty cổ phần giữ hộ. Tình trạng trên khiến cho một khối lượng không nhỏ của
cải vật chất của xã hội không được khai thác, sử dụng là nguy cơ tiềm ẩn cho nền
kinh tế.
+ Cuối cùng là vấn đề lao động dôi dư trong sắp xếp DNNN. Theo số liệu của
Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, hiện nay cả nước có khoảng 100.000 lao
động dôi dư từ quá trình đổi mới, sắp xếp lại DNNN, nhưng không thể bố trí được
việc làm, cũng như vẫn chưa được hưởng theo chế độ quy định hiện hành. Hiện nay
số lao động trong các DNNN là 1,7 triệu người xấp xỉ bằng con số của năm 1991
(trong khi số lượng DNNN đã giảm hơn một nửa). Theo lộ trình sắp xếp DNNN từ
nay đến năm 2003, số lao động bố trí được việc làm là khoảng 150.000 người. Đó là
chưa kể số lao động dư thừa còn khoảng 200.000 ở các doanh nghiệp vẫn giữ 100%
vốn Nhà nước. Đây là một gánh nặng cho sự phát triển cả trong hiện tại lẫn tương
lai.
III. Nguyên nhân.
Để phân tích nguyên nhân hoạt động kém hiệu quả của DNNN hiện nay
chúng ta phải nhìn nhận toàn diện. Về đại thể có thể chia làm hai nhóm nguyên
nhân:
1. Nguyên nhân khách quan - Sự kìm hãm của những di sản lịch sử.
Các DNNN của nước ta hiện nay, trừ phần nhỏ được thành lập mới trong giai
đoạn cải cách, đa phần là doanh nghiệp cũ dế thừa từ thời bao cấp với các đặc trưng
như công nghệ kỹ thuật lạc hậu không có nguồn thay thế. Theo thống kê của bộ
công nghiệp thì thiết bị của DNNN hiện nay có 26% của Liên Xô (cũ), 24% của các
nước Đông Âu, 20% của các nước ASEAN và Bắc Âu, trên 18% là của các nước
khác, còn trong nước chỉ chế tạo chưa đến 12%; nguồn vốn khấu hao để tái sản xuất
giản đơn cũng chưa đủ do chế độ trích nộp khấu hao vào ngân sách Nhà nước
những năm trước; lao động vừa thiếu ( thiếu lao động lành nghề) vừa thừa ( lao
động không đáp ứng yêu cầu của công việc) song chưa có cơ chế giải quyết; cơ cấu
DNNN không hợp lý, không có khả năng tự đổi mới công nghệ cũng như ngành
nghề v.v. Gánh nặng lịch sử đó không phải chúng ta có thể khắc phục trong ngày
một ngày hai. Để thoát ra khỏi tình thế quẫn bách đó, chúng ta cũng không thể dùng
giải pháp phá đi làm lại bởi năng lực sản xuất của đất nước và đời sống của nhiều
con người trong cậy vào đây. Chúng ta chỉ có thể gỡ rối dần dần, vừa cải tổ vừa giữ
ổn định kinh tế và xã hội. Chính vì thế hiệu quả của hệ thống DNNN chưa thể cải
thiện nhanh.
2. Những nguyên nhân chủ quan bao gồm :
- Về mặt quan điểm nhận thức, chưa có sự thống nhất trong nhận thức về
những chủ trương đường lối của Đảng dẫn đến khi thực hiện hiệu quả còn thấp, đặc
biệt là tình trạng trên thông nhưng dưới không thông. Nhiều vấn đề chưa rõ, còn
nhiều ý kiến khác nhau đang gây tranh cãi.
- Liên quan đến mức độ chưa hoàn thiện của cơ chế quản lý DNNN. Những
cải tổ cơ chế quản lý DNNN từ năm 1981 đến nay có thể coi là một bước cách
mạng trong mô hình tổ chức kinh tế-xã hội của nền kinh tế. Chúng ta đã cơ bản
chuyển được các DNNN từ chỗ là một phân xưởng trong xí nghiệp kinh tế quốc dân
sang vai trò một pháp nhân có quyền tổ chức sản xuất và kinh doanh hàng hoá độc
lập. Tuy nhiên cơ chế quản lý mới còn vướng ở mốt số điểm như cơ chế thực thi sở
hữu Nhà nước vẫn tỏ ra chưa hiệu quả do vẫn tồn tại các mảnh của chế độ chủ quản
hành chính trước kia( như duyệt dự án đầu tư mới , bổ nhiệm cán bộ chủ chốt, kiểm
tra theo chức năng của cơ quan chủ quản v.v.) đồng thời lại buộc phải thừa nhần
quyền tư chủ khá rộng rãi của doanh ghiệp, do đó dẫn đến doanh nghiệp vừa làm
vừa lo, còn cơ quan quản lý Nhà nước vẫn thích can thiệp trực tiếp quá nhiều vào
công việc của doang nghiệp mà không phải chịu trách nhiệm. Ví dụ điển hình cho
tình trạng này là vụ việc của Công ty dệt Nam Định. Một phần hoạt động sai
nguyên tắc tài chính của dệt Nam Định là đầu tư vào 26 dự án không hiệu quả. Song
cả 26 dự án náy đều được Bộ Công nghiệp ký duyệt; các cơ quan quản lý Nhà nước
có chức năng kiểm tra thanh tra vừa phân tán, vừa chồng chéo (do các văn bản pháp
quy mới cũ mâu thuẫn với nhau song không được sàn lọc) nhưng đồng thời lại
không có một cơ quan Nhà nước nào chịu trách nhiệm cho sự còn mất của tài sản
Nhà nước , cuối cùng phó mặc cho doanh nghiệp phải tự bảo toàn vốn. Song chúng
ta quên rằng trong nền kinh tế thị trường mỗi doanh nghiệp, dù là DNNN đi chăng
nữa, đều đại diện cho một lợi ích độc lập , đó là lợi ích doanh nghiệp. Nếu Nhà
nước không kiểm soát tốt (mà điều này khó làm được nếu không có những tiêu
chuẩn tốt về kế toán, thống kê, kiểm toán) thì doanh nghiệp sẵn sàng biến lợi nhuận
thành chi phí hợp pháp dưới dạng lương thưởng cho cán bộ và công nhân. Ngoài ra
còn có những khó khăn trong việc phân định thua lỗ do rủi ro hay do sự thiếu trách
nhiệm của những người liên quan. Chính vì thế có thể thấy tình trạng tài chính
không rõ ràng và cực kỳ bê bối của DNNN hiện nay thể hiện qua nợ khó đòi trở
thành phổ biến, doanh nghiệp không thể phá sản vì chủ nợ không đệ đơn v.v. là hậu
quả của chính tình trạng thể chế hoá sở hữu Nhà nước chưa tìm được hình thức hợp
lý.
- Liên quan đến những thách thức chung của nền kinh tế nước ta. Tình
trạng chung của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là kém hiêu quả và sức cạnh
tranh thấp . Tại sao? Bởi vì tiềm năng tư đổi nới công nghệ của nước ta rất thấp.
Phần GDP giành cho nghiên cứu rất ít và lại chủ yếu chi dùng cho những lĩnh vực
lý thuyết, ít tính ứng dụng. Chiến lược chuyển giao công nghệ chưa được nhận thức
đúng để vạch ra và thực hiện một cách kiên quyết. Dẫn đến chiến lược đầu tư thể
hiện khá nhiều sai lầm (như xi măng lò đứng, nhà máy sản xuất đường, sản xuất
gạch tuy nen v.v) Nền kinh tế chưa hình thành, các ngành mũi nhọn đủ sức nâng các
doanh nghiệp nói riêng, và kinh tế nói chung rời bệ phóng để cất cánh. Ngoài ra các
giám đốc DNNN.cũng như mọi người dân Việt Nam khác còn rất bỡ ngỡ với cung
cách làm ăn thị trường, cạnh tranh khốc liết do vậy nhiều khi còn bị lường gạt,
Ngoài ra tệ nạm tham ô, tham nhũng có xu hướng tăng trong nền kinh tế cũng là
những căn nguyên làm giảm thiệu quả DNNN.
- Ngoài ra còn một nhóm các nguyên nhân cũng ảnh hưởng rất lớn tới tiến
trình cải cách doanh nghiệp. Thứ nhất, chưa có người chủ thực sự tư liệu sản xuất.
Chính phủ ở xa, giám đốc trên danh nghĩa được nhà nước bổ nhiệm thay mặt Chính
phủ để điều hành quản lý sản xuất kinh doanh song chưa thực sự là ông chủ, còn
công nhân thực chất vẫn không phải là chủ. Thực chất không có ai chăm lo bảo tồn
và phát triển nguồn vốn không có ai chịu trách nhiệm khi mất mát thua lỗ. Hai là,
Nhà nước ít vốn song đầu tư còn dàn trải, chủ yếu đủ để giữ cho các doanh nghiệp
tồn tại chứ không đủ sức cạnh tranh và phát triển trong thị trường sôi động. Ba là,
tình trạng phân phối trong các doanh nghiệp không phù hợp với kết quả sản xuất
kinh doanh, không khuyến khích được sản xuất, chưa khơi dậy được lòng tin trong
quần chúng , để họ tự giác gắn bó và cùng chịu trách nhiệm. Bốn là, cán bộ quản lý
chưa thực sự có đủ tiêu chuẩn trí tuệ tâm huyết với nhà nước chưa thực sự dũng
cảm tự chịu trách nhiệm.
Tóm lại, chúng ta cần nhìn nhận thực trạng yếu kém hiện nay của DNNN
một cách thẳng thắn, khách quan, toàn diện có như vậy những giải pháp chúng ta
đặt ra mới thiết thực và có khả năng đi vào cuộc sống. Nên tránh cách nhìn quá bi
quan quy mọi sai lầm yếu kém về cho doanh nghiệp. Cũng không buông trôi coi
hiệu quả thấp như căn bệnh cố hữu của DNNN để từ đó không tích cực tìm giải
pháp khắc phục. Đây là yêu cầu việc phát huy vai trò chủ đạo của KTNN cũng như
của công cuộc đổi mới hiện nay.
Phần thứ ba: Những giải pháp nhăm tăng cường vai trò chủ đạo của
KTNN.
Hiện nay, để củng cố, phát huy vai trò chủ đạo của KTNN không còn cách
nào hơn là phải thực hiện cải cách triệt để DNNN. Sau đây, người viết xin trình bày
những giải pháp cơ bản nhất đã và đang được đề ra cho tiến trình sắp xếp, đổi mới,
phát triển DNNN.
I. Về quan điểm nhận thức
Để phát triển KTNN làm cho nó trở nên vững mạnh không còn cách nào hơn
là phải sắp xếp, đổi mới phát triển DNNN. Tiến trình cải DNNN đã được thực hiện
hơn 10 năm qua song vẫn còn rất chậm. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là
chưa có sự nhận thức sâu sắc của không ít cán bộ quản lý Nhà nước, quản lý doanh
nghiệp và người lao động về các chủ trương, chính sách đổi mới DNNN; chưa có sự
thống nhất trong nhận thức, nhiều vấn đề gây chưa được thực tiễn tổng kết chứng
minh. Vì vậy bài viết xin đưa ra một số ý kiến về mặt lý luận nhằm làm sáng tỏ, giải
thích rõ hơn về những chủ trương chính sách của Đảng.
Thông qua các nghị quyết của Đảng và chính phủ có thể tóm gọn chủ trương
sắp xếp cải cách DNNN thành những điểm cơ bản sau: Nhà nước giảm sự quản lý
hành chính với các DNNN, thu gọn đầu mối quản lý, chỉ nắm giữ những ngành
những lĩnh vực then chốt bằng việc thành lập và tập trung nguồn lực vàp các tổng
công ty nhà nước, cổ phần hoá một bộ phận DNNN mà Nhà nước không cần nắm
giữ 100% vốn, giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê những DNNN có quy mô
nhỏ, thua lỗ kéo dài, sáp nhập, giải thể, cho phá sản những doanh nghiệp làm ăn
thua lỗ kéo dài mà Nhà nước không cần nắm giữ.
Những chủ trương này là hoàn toàn đúng đắn, chúng mang tính tất yếu khách
quan phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Việc thành
lập các tổng công ty là nhằm nắm giữ những ngành những lĩnh vực then chốt và tạo
ra vai trò chủ đạo của KTNN. Thực vậy, kinh nghiệm của tiến trình lịch sử cho
thấy, vai trò chủ đạo của một thành phần kinh tế nào đó không phải ở chỗ quy mô
của nó to hay nhỏ, lực lượng của nó nhiều hay ít, mà là ở chỗ nó có chi phối được
các thành phần kinh tế khác hay không, có làm cho các mối quan hệ kinh tễ diễn ra
theo tính chất của phương thức sản xuất thống trị hay không. Nhà nước chỉ nắm giữ
nhũng đầu mối chủ chốt góp phần làm gọn nhẹ bộ máy hành chính, làm giảm gánh
nặng cho Nhà nước, từ đó khả năng quản lý điều tiết nền kinh tế có hiệu quả hơn,
phù hợp với yêu cầu của KTTT.Việc giao, bán, khoán, cho thuê, cổ phần hoá thực
chất là quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu một bộ phận các DNNN cỡ vừa và
nhỏ không nắm vai trò chủ đạo, để cho những doanh nghiệp đó trở về đúng vị trí và
phát huy được những vai trò vốn có của nó. Hay thực chất đó là quá trình phi quốc
hữu hoá những doanh nghiệp vừa và nhỏ. ở đây, phi quốc hữu hoá không có nghĩa
là tư hữu hoá. Mục đích của phi quốc hữu hoá là tìm ra những hình thức thực hiện
mới cho chế độ công hữu, hình thức mới này không còn là hình thức thực hiện chế
độ công hữu như chế độ quốc hữu nữa mà là hình thức thực hiện chế độ công hữu
khác phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mô hình đầu của tiến trình
này là cổ phần hoá để cho người lao động chi phối tài sản của xí nghiệp tương tư
như mô hình “khoán ruộng đất cho nông dân” .
Một trong những nguyên nhân làm cho cải cách DNNN không tiến triển
được là chủ thể lợi ích của cải cách không rõ ràng, cải cách bị thiếu động lực thúc
đẩy. Cải cách ở nông thôn có chủ thể rất rõ ràng, nông dân tích cực yêu cầu cải cách
và nông dân là người được lợi trong cải cách. Cải cách xí nghiệp phải dựa vào đông
đảo công nhân viên chức của xí nghiệp, nhưng tính tích cực của công nhân viên
chức không cao. Bởi vì trong thể chế cũ công nhân vẫn được bao cấp ổn định và là
người chủ trên danh nghĩa, trong thể chế cũ, người công nhân có nhiều lợi ích hơn
so với nông dân. Sau khi chuyển đổi cơ chế, xoá bỏ chế độ bao cấp, người công
nhân phải chịu thiệt rủi ro hơn. Phải làm cho công nhân trở thầnh người được lợi
trong cải cách, làm cho họ thấy cải cách sẽ đem lại cho họ nhiều lợi ích hơn nữa.
Nếu như cải cách ở nông thôn thực hiện “người cầy có ruộng” thì cải cách ở
thành thị phải thực hiện “người lao động có cổ phần”. Bán cổ phần cho công nhân,
công nhân trở thành những cổ đông.
Làm như thế có phải là tư hữu hoá không? Câu trả lời là không, vì:
Một là, tư hữu hoá có nghĩa là đem tất cả quyền sở hữu, quyền chiếm hữu,
quyền sử dụng, quyền chi phối quy vào một chủ thể. Điều này không thích ứng với
quá trình xã hội hoá sản xuất. Sự ra đời của nền sản xuất xã hội tạo điều kiện cho
việc huỷ bỏ chế độ tư hữu hoá. Để giải quyết vấn đề tập trung vốn và tư liệu sản
xuất ngày càng mở rộng mang tính xã hội hoá. Chủ nghĩa tư bản đã phát triển từ chế
độ nghiệp chủ sang chế độ hợp tác hoá và cuối cùng là chế độ cổ phần, đây chính là
quá trình xã hội hoá phương thức chiếm hữu tư liệu sản xuất mà Mác đã từng nói.
Sự phát triển không ngừng của nền sản xuất xã hội hoá đã làm cho nhân tố XHCN
trong lòng của chủ nghĩa tư bản ngày càng nhiều lên.
Hai là, việc đông đảo nhân viên cùng chi phối tài sản doanh nghiệp chứng tỏ
đây là quá trình xã hội hoá chứ không phải là tư hữu hoá. Trước đây chúng ta coi
chế độ quốc hữu là sở hữu toàn dân, trên danh nghĩa thì đó là sở hữu toàn dân
nhưng trên thực tế giữa tư liệu sản xuất và người lao động không hề có mối liên hệ
nào cả. Loại sở hữu toàn dân này thực chất là một hình thức sở hữu ngành mang
tính đóng kín, bị chia cắt thành nhiều mảnh và chỉ một số ít người có tiến nói quyết
định. Việc giao tài sản doanh nghiệp cho công nhân viên chức sẽ làm cho mối quan
hệ giữa công nhân viên chức và tài sản doanh nghiệp từ chỗ danh nghĩa chuyển
sang thực chất. Đây là sự tiến bộ của quá trình xã hội hoá sản xuất chứ không phải
quá trình tư hữu hoá.
Ba là, Người lao động có tài sản không phải là tư hữu hoá, bởi vì trong chế
độ cổ phần, quyền sở hữu và quyền tài sản pháp nhân doanh nghiệp đã được tách ra.
Sau khi tài sản được đưa vào doanh nghiệp thì nó biến thành tài sản chung của tập
thể. Bất luận đầu tư vào đâu nó cũng biến thành tài sản đã được xã hội hoá do mọi
người cùng chiếm hưũ, cùng chi phối, cùng sử dụng, cùng hưởng lợi nhuận và cùng
phải chịu rủi ro. Cho nên trong doanh nghiệp hiện đại việc cá nhân có tài sản không
có nghĩa là tư hữu hoá.
Vậy chủ trương cải cách hiện nay không đi ngược lại với quan điểm của Mác
khi ông cho rằng phải xoá bỏ tư hữu “những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận
của mình thành công thức duy nhất là: ” xoá bỏ chế độ tư hữu”. Sắp xếp, đổi mới
doanh nghiệp chính là tìm một hướng đi mới phù hợp với trình độ của lượng sản
xuất, một con đường mới tiến lên CNXH. Chính Các Mác cho rằng sự chuyển dịch
biến đổi từ sở hữu tư nhân sang sở hữu xã hội, sở hữu hỗn hợp là sở hữu theo nghĩa
các tư liệu sản xuất được sử dụng có tính xã hội, hoặc ở mức cao hơn là tư liệu sản
xuất thuộc về xã hội. Những biến đổi đó phải được coi là quá trình phát triển lịch sử
tự nhiên, do tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất quyết định.
II. Những giải pháp cụ thể .
1. Sửa đổi, bổ xung cơ chế, chính sách .
1.1. Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh .
Doanh nghiệp tự chủ quyết định kinh doanh theo quan hệ cung cầu trên thị
trường phù hợp với mục tiêu thành lập và điều lệ hoạt động. Xoá bỏ bao cấp đối với
doanh nghiệp. Thực hiện chính sách ưu đãi đối với các ngành, vùng, các sản phẩm
và dịch vụ cần ưu tiên hoặc khuyến khích phát triển, không phân biệt thành phần
kinh tế. Ban hành Luật cạnh tranh để bảo vệ và khuyến khích các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh, hợp tác bình đẳng trong khuôn khổ pháp
luật chung. Đối với DNNN hoạt động trong lĩnh vực độc quyền cần có quy định
kiểm soát giá và điều tiết lợi nhuận và cần tổ chức một số DNNN cùng cạnh tranh
bình đẳng.
Nhà nước ban hành tiêu chí đánh giá hiệu quả và cơ chế giám sát DNNN.
Đổi mới chế độ kế toán, kiểm toán, chế độ báo cáo, thông tin, thực hiện công
khai hoạt động kinh doanh và tài chính doanh nghiệp.
- Về vốn: doanh nghiệp được tiếp cận và thu hút các nguồn vốn trên thị
trường để phát triển kinh doanh, được chủ động giải quyết các tài sản dư thừa, vật
tư hàng hoá ứ đọng.
Nhà nước có cơ chế để trong 5 năm 2001-2005 cơ bản tạo đủ vốn điều lệ
cho doanh nghiệp. Không thu tiền sử dụng vốn ngân sách đi đôi với việc chuyển
hình thức cấp vốn sang đầu tư vốn. Thí điểm thành lập công ty đầu tư tài chính nhà
nước để thực hiện đầu tư và quản lí vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Nghiên cứu ban
hành Luật sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào kinh doanh.
Doanh nghiệp được tự chủ trong việc phân phối và trích lập các quỹ từ lợi
nhuận để lại theo khung quy định chung. Nhà nước có chính sách đối với những tài
sản do doanh nghiệp đầu tư bằng vốn vay và đã trả hết nợ bằng nguồn khấu hao cơ
bản và lợi nhuận do chính tài sản đó làm ra theo hướng thực hiện hài hoà các lợi
ích, phù hợp với đặc điểm của từng ngành nghề, lĩnh vực cụ thể, khuyến khích
doanh nghiệp tiếp tục tái đầu tư phát triển.
- Về đầu tư: tăng thêm quyền và trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước
trong quyết định đầu tư trên cơ sở đầu tư chiến lược, quy hoạch phát triển được phê
duyệt.
- Về đổi mới, hiện đại hoá công nghệ: doanh nghiệp được áp dụng chế độ ưu
đãi đối với người có đóng góp vào đổi mới công nghệ mang lại hiệu quả thiết thực
cho doanh nghiệp; chi phí này được hạch toán vaò giá thành sản phẩm. Nhà nước có
chính sách khuyến khích, hỗ trợ đoanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ.
- Về lao động, tiền lương: doanh nghiệp quyết định việc tuyển chọn lao động
và chịu trách nhiệm giải quyết chế độ đối với người lao động do mình tuyển dụng
không có việc làm bằng các nguồn kinh phí của doanh nghiệp; được tự chủ trong
việc trả tiền lương và tiền thưởng trên cơ sở năng suất lao động và hiệu quả sản suất
kinh doanh của doanh nghiệp.
- Về cán bộ quản lí doanh nghiệp: doanh nghiệp chủ động lựa chọn và bố trí
cán bộ quản lý theo hướng chủ yếu là thi tuyển; cơ quan Nhà nước và tổ chức có
thẩm quyền ra quyết định bổ nhiệm cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp. Nhà nước có
cơ chế khuyến khích vật chất, tinh thần, đồng thời nâng cao trách nhiệm của cán bộ
quản lý doanh nghiệp .
-Về thanh tra, kiểm tra: hàng năm doanh nghiệp phải được kiểm toán, kết quả
kiểm toán là căn cứ pháp lý về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Các cơ quan
quản lý Nhà nước phải có trương trình thanh tra, kiểm tra định kỳ đối với doanh
nghiệp và thông báo trước cho doanh nghiệp. Cơ quan bảo vệ pháp luật chỉ kiểm
tra, thanh tra khi doanh nghiệp đã có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Các cơ quan thanh
tra, kiểm tra phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả thanh tra kiểm tra.
1.2 Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích.
Căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ mà Nhà nước ra quyết định quy mô tổ chức,
chính sách tài chính đối với doanh nghiệp công ích.
Chuyển từ cơ chế cấp vốn, giao nhiệm vụ sang cơ chế đặt hàng hoặc đấu thầu
thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích. Nhà nước có chính sách ưu đãi
đối với các sản phẩm và dịch vụ công ích, không phân biệt loại hình doanh nghiệp,
thành phần kinh tế. Nhà nước cấp đủ vốn điều lệ cho doanh nghiệp nhà nước hoạt
động công ích. Thực hiện cơ chế quản lý doanh nghiệp, tiền lương và thu nhập trên
cơ sở khối lượng, chất lương sản phẩm, dịch vụ mà Nhà nước giao hoặc đặt hàng.
Doanh nghiệp công ích cũng phải thực hiện hạch toán.
1.3 Giải quyết lao động dôi dư và nợ không thanh toán được.
- Bổ xung cơ chế, chính sách đối với lao động dôi dư trong sắp xếp, cơ cấu lại
DNNN.
Doanh nghiệp phải rà soát và xây dựng đúng định mức để xác định số lượng
lao động cần thiết. Lao động dôi dư được doanh nghiệp tạo điều kiện đào tạo lại
hoặc nghỉ việc hưởng nguyên lương một thời gian để tìm việc; nếu không tìm được
việc thì được nghỉ chế độ mất việc theo quy định của Bộ Luật Lao Động. Bổ sung
sửa đổi một số chính sách cụ thể đối với người lao động dôi dư có nguyện vọng
nghỉ hưu trước tuổi. Chính phủ bố trí nguồn kinh phí để giải quyết chính sách cho
số lao động dôi dư.
Sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động theo hướng cho phép áp dụng chế độ mất
việc đối với số lao động dôi dư tại thời điểm giao, bán, khoán kinh doanh và cho
thuê DNNN. Khẩn trương bổ sung chính sách bảo hiểm xã hội; ban hành chính sách
bảo hiểm thất nghiệp theo hướng Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động cùng
đóng góp.
- Xin xử lý nợ không thanh toán được .
Chính phủ quy định biện pháp giải quyết dứt điểm các khoản nợ không có khả
năng thanh toán cuả doanh nghiệp đối với ngân sách Nhà nước và ngân hàng, đồng
thời có giải pháp để ngăn ngừa sự tái phát. Thành lập công ty mua bán nợ và tài sản
của doanh nghiệp nhà nước để xử lý nợ và tài sản không cần dùng, tạo điều kiện
lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp.
2. Tiếp tục thực hiện các hình thức đổi mới và sắp xếp lại DNNN.
Trong thời gian trước mắt cần tiếp tục kiện toàn và nâng cao hiệu quả của
các tổng công ty Nhà nước, đẩy mạnh cổ phần hoá và sáp nhập, khoán, cho thuê,
giao, bán, giải thể, phá sản, các DNNN quy mô nhỏ, thua lỗ kéo dài không cổ phần
hoá được và Nhà nước không cần nắm giữ, đổi mới nâng cao hiệu quả tổ chức quản
lý doanh nghiệp. Hai giải pháp về cổ phần hoá và đổi mới quản lý doanh nghiệp là
hai giải pháp lớn, còn nhiều vấn đề phải bàn luận nên sẽ đề cập chi tiết ở những
phần sau. Trong phần này chỉ xin bàn đến việc phát triển các tổng công ty Nhà nước
và việc sáp nhập, khoán, cho thuê, giao bán, giải thể, phá sản các doanh nghiệp:
2.1. Về thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sát nhập, giải thể,
phá sản DNNN.
Đối với doanh nghiệp quy mô nhỏ có vốn Nhà nước dưới 5 tỷ đồng,Nhà
nước không cần nắm giữ và không cổ phần hoá được, tuỳ thực tế của từng doanh
nghiệp, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định một trong các hình thức:
giao,bán khoán kinh doanh, cho thuê. Khuyến khích DNNN đã giao, bán, được
chuyển thành công ty cổ phần của người lao động. Sát nhập, giải thể, phá sản những
DNNN hoạt động không hiệu quả, nhưng không thực hiện được các hình thức nói
trên .
Sửa đổi, bổ sung Luật phá sản doanh nghiệp theo hướng người quyết định
thành lập doanh nghiệp có quyền đề nghị tuyên bố phá sản .
Đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức, hiểu biết của người lao động và
toàn bộ xã hội đối với chủ trương cổ phần hoá, giao, bán, khoán kinh doanh , cho
thuê, giải thể, phá sản DNNN.
2.2. Về việc thực hiện đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các công
ty Nhà nước ; hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh.
- Tổng công ty Nhà nước phải có vốn điều lệ đủ lớn (tối thiểu là 500 tỷ
VNĐ), có thể huy động vốn từ nhiều nguồn, trong đó vốn Nhà nước là chủ yếu;
thực hiện kinh doanh đa ngành, có ngành chính chuyên sâu; có liên kết giữa các đơn
vị thành viên về sản suất, tài chính, thị trường...: có trình độ công nghệ và quản lý
tiên tiến,năng suất lao động cao, chất lượng sản phẩm tốt, có khả năng cạnh tranh
trên thị trường trong nước và quốc tế. Để quá trình sắp xếp diễn ra đúng định
hướng, cần rà soát lại các quá trình tổng công ty hiện có. Xác định ngành nào lĩnh
vực nào cần có tổng công ty Nhà nước thì tập trung kiện toàn và phát triển; những
ngành, những lĩnh vực không cần có tổng công ty Nhà nước hoặc tổng công ty
không hội đủ những điều kiện về quy mô trình độ công nghệ quản lý, sức cạnh
tranh của sản phẩm thì nên sáp nhập.
Hoàn thành việc sắp xếp các tổng công ty Nhà nước hiện có nhằm tập trung
hơn nữa nguồn lực để chi phối được những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh
tế; làm lực lượng chủ lực trong việc bảo đảm các cân đối lớn và ổn định kinh tế vĩ
mô; làm nòng cốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
có hiệu quả. Những ngành, lĩnh vực, sản phẩm cần tổ chức tổng công ty nhà nước:
khai thác, chế biến , cung ứng than, các khoáng sản quan trọng; luyện kim; cơ khí
chế tạo; sản xuất xi măng; bưu chính; viễn thông; điện tử; hàng không; hàng hải;
đường sắt; hoá chất và phân hoá học; sản xuất một số hàng tiêu dùng và công
nghiệp thực phẩm quan trọng; hoá dược; xây dựng; kinh doanh bán buôn lương
thực; ngân hàng; bảo hiểm....
Trong từng thời kỳ, theo yêu cầu phát triển của nền kinh tế cần có sự điều
chỉnh phù hợp. Những tổng công ty đang hoạt động không có đủ các yêu cầutrên sẽ
được sắp xếp lại. Thí điểm, rút kinh nghiệm để nhân rộng việc thực hiện chuyển
tổng công ty Nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ -công ty con, trong
đó tổng công ty đầu tư vốn vào các doanh nghiệp thành viên là những công ty trách
nhiệm hưũ hạn một chủ (tổng công ty) hoặc là công ty cổ phần mà tổng công ty giữ
cổ phần chi phối. Công ty con được công ty mẹ đầu tư vốn, chịu sự ràng buộc của
công ty mẹ tuỳ theo tỷ lệ đầu tư vốn, tài sản, vị thế của công ty mẹ thông qua Điều
lệ Tổ chức và Hoạt động và Quy chế Tài chính. Thực hiện hạch toán kinh tế ở hai
cấp, ở mỗi cấp hạch toán, doanh nghiệp đều có pháp nhân đầy đủ. Ngoài ra, tổng
công ty có thể đầu tư vào các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác.
Tổng công ty 100% vốn nhà nước phải có hội đồng quản trị. Hội đồng quản
trị là cơ quan đại diện trực tiếp chủ sở hữu tại tổng công ty, nhận và chịu trách
nhiệm bảo toàn, phát triển vốn, tài sản Nhà nước giao. Nhiệm vụ và quyền hạn của
hội đồng quản trị:
Trình Thủ tướng Chính phủ (hoặc bộ trưởng , chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương) xem xét quyết định: chủ trương thành lập , chia
tách, sát nhập, chuyển đổi sở hữu, giải thể đơn vị thành viên; ban hành điều lệ mẫu;
bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật chủ tịch, uỷ viên hội đồng quản trị,
tổng giám đốc; phê duyệt mục tiêu, nhiệm vụ, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển trung hạn, dài hạn của tổng công ty, các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền Chính
phủ phê duyệt .
Quyết định bổ nhiệm phó tổng giám đốc, kế toán trưởng, thông qua việc bổ
nhiệm giám đốc thành viên để tổng giám đóc ra quyết định; quyết định và chịu trách
nhiệm về các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền theo chiến lược, quy hoạch , kế hoạch
đã được phê duyệt và các phương án tổ chức quản lý, tổ chức kinh doanh , biên chế
bộ máy quản lý tổng công ty; quyết định kinh doanh, biên chế bộ máy quản lý tổng
công ty; quyết định phân phối lợi nhuận sau thuế .
Kiểm tra, giám sát tổng giám đốc, giám đốc đơn vị thành viên trong việc sử
dụng, bảo toàn và phát triển vốn, thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và thực hiện
nghị quyết của hội đồng quản trị.Ban Đổi mới và phát triển Doanh nghiệp đã đề
nghị Chính phủ thí điểm cơ chế tổng giám đốc do hội đồng quản trị tuyển chọn và
ký hợp đồng với sự cáp thuận của cơ quan hành chính có thẩm quyền. Nếu tổng
công ty hoạt động không có hiệu quả sau hai năm, thì tổng giám đốc sẽ bị miễn
nhiệm và phải chịu trách nhiệm, về vật chất và pháp luật nếu có quyết định sai trái.
Chính phủ quy định tiền lương, chế độ tiền thưởng cho hội đồng quản trị gắn
với hiệu quả hoạt động của công ty.
- Hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các công ty nhà nước,
có sự tham gia của các thành phần kinh tế ,kinh doanh đa ngành, trong đó có ngành
kinh doanh chính, chuyên môn hoá cao và giữ vai trò chi phối lớn trong nền kinh tế
quốc dân, có quy mô rất lớn vốn, hoạt đông cả trong và ngoài nước, có trình độ
công nghệ cac và quản lý hiện đại, có sự gắn kết trực tiếp, chặt chẽ giữa khoa học
công nghệ, đào tạo, nghiên cứu triển khai với sản xuất kinh doanh . Thí điểm hình
thành tập đoàn kinh tế trong mọt số lĩnh vực có điều kiện, có thế mạnh, có khả năng
phát triển để cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả như: dầu khí, viễn
thông, điện lực, xây dựng ...
3. Đổi mới các phương pháp tổ chức thực hiện
Từ thực tiễn cải cách DNNN ở các địa phương, bài viết xin đưa một số kinh
nghiệm về phương pháp thực hiện trong thực tiễn đã áp dụng và đem lại hiệu quả :
- Khi tiến hành sắp xếp phải quán triệt đầy đủ chủ trương của TW, cộng với
đó là sự quyết tâm của cấp uỷ và chính quyền các cấp trong việc triển khai thực hiện
sắp xếp và cổ phần hoá DNNN. Thực tế, ở một số nơi như : thành phố Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh, Nam Định, Thanh Hoá,… cho thấy sau khi quán triệt đầy
đủ, nhất trí cao và có quyết tâm thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về đổi
mới và sắp xếp DNNN, các cơ quan Đảng và Nhà nước của địa phương đã ban hành
những văn bản cụ thể chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện. Tỉnh đề ra yêu cầu là phải làm
cho các cấp, các ngành từ cán bộ lãnh đạo đến công nhân viên phải thực sự chuyển
biến nhận thức về vị trí, ý nghĩa, nội dung cuả kinh tế nhà nước; đánh giá đúng thực
trạng doanh nghiệp nhà nước để từ đó phân loại và có cách sử lý đúng đối với từng
loại. Đồng thời cần kiểm tra các doanh nghiệp đã và đang sắp xếp và cổ phần hoá
để rút ra kinh nghiệm chỉ đạo chung.
Trên cơ sở các văn bản chỉ đạo của tỉnh, các bộ phận chức năng hướng dẫn
cụ thể cách làm cho phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương. Thí dụ, Nam
Định đã đưa ra mục tiêu cụ thể rõ ràng là thông qua sắp xếp, trong đó chủ yếu là cổ
phần hoá và chuyển đổi sở hữu mà làm cho DNNN mạnh lên cả về quan hệ sản xuất
và lực lượng sản xuất nâng hiệu quả kinh tế và góp phần ổn định chính trị và xã hội.
Đồng thời việc thực hiện phải khẩn trương, tích cực nhưng phải vững chắc, không
nóng vội, kiên trì và kiên quyết, vừa giáo dục vừa thuyết phục, vừa áp dụng biện
pháp hành chính, đảm bảo ổn định để phát triển và phát triển trong thế ổn định.
Ngược lại, ở một số bộ, ngành, địa phương, do chưa nhận thức đúng và
thống nhất về vị trí và vai trò của DNNN trong giai đoạn hiện nay, chưa quán triệt
đầy đủ chủ trương sắp xếp và đổi mới DNNN nên kết quả còn rất hạn chế.
Hai là, công tác tổ chức học tập, tuyên truyền, giải thích, vận động thực hiẹn
chủ trương chính sách sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước được coi trọng ngay
từ đầu và suốt trong quá trình tổ chức thực hiện phương án. Các cấp uỷ Đảng, Liên
đoàn lao động, Ban tuyên giáo tỉnh uỷ đã tổ chức học tập và giới thiệu các văn bản
của nhà nước về sắp xếp đổi mới doanh nghiệp. Đài phát thanh, truyền hình, báo địa
phương đã bám sát chủ đề này để tuyên truyền, giải thích, vận động, biểu dương.
Ban Đổi mới quản lý doanh nghiệp tỉnh đã chủ động phối hợp với các sở đến từng
doanh nghiệp để giảng giải về cơ chế chính sách và giới thiệu kết quả, hiệu quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hoá, về sự thay đổi tác phong người thợ
làm công ăn lương sang người chủ thực sự có cổ phần trong công ty để cán bộ
doanh nghiệp và công nhân yên tâm và quyết tâm đi vào cổ phần hoá .
Ba là, khi xây dựng phương án tổ chức thực hiện phương án sắp xếp đổi mới
DNNN phải tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ từ cơ sở cho đến các sở, ngành,
huyện, huyện thành phố, tỉnh . Việc phát huy dân chủ sẽ tạo ra sự thống nhất giữa
cấp dưới và cấp trên, phát huy được trí tuệ tập thể người lao động trong doanh
nghiệp cho việc đổi mới chính doanh nghiệp họ.
Sau khi được phổ biến quán triệt chỉ thị số 20/1998/CT-TTg của thủ tướng
chính phủ, các doanh nghiệp, sở chuyên ngành phải tự mình phân tích, đánh giá tình
hình, tự phân loại và xếp hạng loại. Chỉ sau đó Ban Đổi mới quản lý doanh nghiệp
tỉnh mới tiến hành tổng hợp. Trước khi trình uỷ ban nhân dân tỉnh xem xét, Ban Đổi
mới quản lý doanh nghiệp tỉnh đã tiến hành các cuộc hội thảo tranh thủ sự đóng góp
của các ngành các cấp để hoàn chỉnh phương án. Sau khi uỷ ban nhân dân tỉnh cho
ý kiến, Ban Đổi mới quản lý doanh nghiệp tỉnh một lần nữa hoàn chỉnh lại phương
án và trình ban thường vụ tỉnh uỷ phê duyệt. Thực tế một số doanh nghiệp đã thực
hiện cổ phần hoá ở Nam Định, Hà Nội, cho thấy do có sự bàn bạc thống nhất với
tập thể cán bộ công nhân viên chức trong doanh nghiệp nên quá trình tiến hành đã
diễn ra suôn sẻ, nhanh chóng, những vướng mắc phát sinh đều được xử lý tốt và kịp
thời. ở Tuyên Quang có doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá chỉ trong 78
ngày.
Đồng thời với việc tuân thủ nguyên tắc dân chủ, phải thực hiện tập trung.
Những vấn đề còn ý kiến khác nhau, nhất là khi xác địng giá trị DNNN để cổ phần
hoá thì chủ tịch tỉnh sẽ là người quyết định cuối cùng. DNNN là do nhà nước đầu tư
thành lập, phục vụ cho mục tiêu chiến lược của Nhà nước, do đó việc sắp xếp, đổi
mới, phát triển DNNN là do Nhà nước (gồm cả trung ương và địa phương) quyết
định. Trong nhiều địa phưong, một số giám đốc không thực hiện kế hoạch đã giao
thì người quyết định thành lập doanh nghiệp sẽ bãi miễn giám đốc và cử người khác
lên thay.
Bốn là, thực hiện đúng chính sách và giải quyết việc làm đối với người lao
động trong doanh nghiệp thực hiện tổ chức sắp xếp lại và cổ phần hoá, để người lao
động yên tâm phấn khởi. Quyền lợi ưu đãi, công nhân nghèo mua cổ phần trả chậm
đã được công khai, thảo luận dân chủ. Nguồn vốn chủ yếu để giải quyết quyền lợi
cho số lao động dôi dư này là quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá DNNN và một
phần ngân sách của tỉnh.
Năm là, tính sáng tạo và phát huy tối đa sáng kiến của địa phương trên cái
nền chính sách chung của Nhà nước mà cụ thể hoá cách làm cho phù hợp và mang
lại hiệu quả cao. Thí dụ, tình hình chung của Nam Định là đại đa số công nhân còn
nghèo, thu nhập thấp nên khi tiến hành cổ phần hoá DNNN đã áp dụng giải pháp
bán cổ phần làm nhiều đợt để đạt được tỷ lệ đã duyệt trong phương án cổ phần hoá.
Công ty Dệt kim Thắng Lợi vốn Nhà nước trên 7 tỷ đồng trước khi đi vào đại hội cổ
đông, vốn nhà nước mới bán được 24%, đến tháng 12-1999, bán được trên 55% và
6 tháng đầu năm 2000 đạt tỷ lệ cô ng nhân 70% vốn Nhà nước chỉ còn đúng 30%
đúng như phương án cổ phần hoá đã được duyệt; Công ty Vận tải ôtô cũng tương tự
như vậy.
Sáu là, các địa phương đạt kết quả cao trong sắp xếp và cổ phần hoá DNNN
còn là do đội ngũ cán bộ quản lý chủ chốt của doanh nghiệp quyết tâm thực hiện
chủ trương cổ phần hoá. Đội ngũ cán bộ trực tiếp quản lý DNNN có vai trò rất quan
trọng trong việc sắp xếp và cổ phần hoá DNNN, quyết định sự thành bại của công
tác này. Tại nhiều nơi có tình hình trì trệ trong công tác sắp xếp và cổ phần hoá
DNNN mà một trong những nguyên nhân quan trọng là sự không hưỏng ứng tích
cực, sự níu kéo trì hoãn với mọi lý do và biện minh của đội ngũ này. Nhưng tại Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh, Nam Định thì không phải vậy. Giám đốc, phó giám
đốc, kế toán trưởng của DNNN đều đi đầu trong sắp xếp và cổ phần hoá DNNN,
đóng góp rất nhiều công sức, từ việc ngiên cứu, học tập các chỉ thị, Nghị quyết
thông tư để vận dụngvào hoàn cảnh cụ thể của doanh nghiệp để xây dựng phương
án cổ pàn hoá, điều lệ công ty, đến việc tổ chức cho công nhân học tập thảo luận.
Do đó ở Nam Định hầu hết giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng của 22 doanh
nghiệp đã được cổ phân hoá đều được đại hội cổ đông sáng suốt lựa chọn bầu vào
hội đồng quản trị và đa số trong số đó được cử làm giám đốc công ty cổ phần
Bảy là, một yếu tố không kém phần quan trọng khi thực hiện cần lưu ý đến
vai trò của Ban Đổi mới quản lý doanh nghiệp tỉnh và việc chọn các cán bộ có tâm
huyết, có trí thức và nhiệt tình cho công tác này. Trong quá trình thực hiện sắp xếp
đổi mới DNNN, Ban Đổi mới quản lý doanh nghiệp tỉnh chỉ đạo sâu sát thường
xuyên, phối kết hợp chặt chẽ, hoạt động nhịp nhàng có hiệu quả giữa các ngành.
Thêm vào đó, về phía doanh nghiệp và các cơ quan quản lý doanh nghiệp, tỉnh cũng
phải yêu cầu thành lập các Ban Đổi mới doanh nghiệp ở sở, ngành, quận huyện do
một đồng chí lãnh đạo làm trưởng ban, doanh nghiệp có giám đốc làm trưởng ban.
Như vậy, công tác cổ phần hoá đã được triển khai cả bề rộng lẫn chiều sâu, hầu như
không có cơ quan nào đứng ngoài cuộc.
Ban Đổi mới quản lý doanh nghiệp tỉnh thực hiện chức năng tham mưu, tư
vấn cho cấp uỷ, chính quyền địa phương, đôn đốc, kiểm tra, thúc đẩy các doanh
nghiệp các sở các ngành tổ chức thực hiện phương án đã duyệt, kế hoạch đã giao.
Với chế độ giao ban định kỳ hàng tuần. Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp tỉnh kịp
thời giải quyết, xử lý các khó khăn, vướng mắc cho từng doanh nghiệp; kiểm tra
đôn đốc tiến độ của từng cấp từng ngành kịp thời xin ý kiến chỉ đạo của Tỉnh uỷ và
các cơ quan Trung ương đốivới các vấn đề vượt quá thẩm quyền giải quyết.
Bộ máy tổ chức thực hiện cổ phần hoá thuộc ban Đổi Mới quản lý doanh
nghiệp tỉnh là một tổ chức tổng lực bao gồm tất cả các sở, ban, ngành có liên quan
đến việc giải quyết, xử lý các vấn đề về tổ chức, lao động, tài sản, tài chính… của
doanh nghiệp. Các nhóm chuyên viên hoạt động đồng bộ, chuẩn bị đầy đủ nội dung
về sắp xếp và cổ phần hoá để lãnh đạo phê duyệt.
4. Giải pháp cổ phần hoá.
4.1. Sự cần thiết phải cổ phần, đường lối chỉ đạo
* Sự cần thiết
Cổ phần hoá DNNN là xu thế chủ đạo trong quá trình sắp xếp, đổi mới, phát
triển DNNN và còn gây nhiều tranh cãi bất đồng quan điểm.Vì vậy phần này sẽ đi
sâu vào vấn đề này. Có thể đưa ra nhiều lý do cho thấy cổ phần hoá các DNNN là
tất yếu song ở đây chỉ xin nêu tóm tắt và khái quát :
- Đây là chủ trương sắp xếp và cải cách doanh nghiệp, làm giảm gánh nặng cho
Nhà nước, tạo sự năng động cho DNNN, giải quyết công ăn việc làm cho
người lao động.
- Đáp ứng đòi hởi của kinh tế thị trường. Trả các doanh nghiệp về đúng vị trí
của nó, phát huy tối đa khả năng, giải quyết thích đáng về lợi ích thúc đẩy
doanh nghiệp phát triển.
* Đường lối chỉ đạo
Mục tiêu cổ phần hoá DNNN là nhằm : tạo ra loại hình doanh nghiệp có
nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, để sử dụng có hiệu quả
vốn, tài sản của Nhà nước và huy động thêm vốn xã hội vào phát triển sản xuất,
kinh doanh; tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, có hiệu quả cho
DNNN; phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của cổ đông và tăng
cường sự giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp; bảo đảm hài hoà lợi ích của
Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
không được biến thành tư nhân hoá DNNN.
4.2. Giải pháp
Về vấn đề cổ phần hoá DNNN, Nghị quyết TW3 của ban chấp hành TW
Đảng đã có những chỉ dẫn cụ thể sau :
Đối tượng cổ phần hoá là những DNNN hiện có mà Nhà nước không cần giữ
100% vốn, không phụ thuộc vào trực trạng kết quả sản xuất kinh doanh. Cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào định hướng sắp xếp, phát triển DNNN và điều
kiện thực tế của từng doanh nghiệp mà quyết định chuyển doanh nghiệp nhà nước
hiện có thành công ty cổ phần, trong đó Nhà nước có cổ phần chi phối, cổ phần đặc
biệt, cổ phần ở mức tháp, hoặc Nhà nước không giữ cổ phần.
Hình thức cổ phần hoá bao gồm : giữ nguyên giá trị koanh nghiệp, phát hành
cổ phiếu để thu hút thêm vốn; bán một phần giá trị hiện có của doanh nghiệp cho
các cổ đông; cổ phần hoá đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp; chuyển toàn bộ doanh
nghiệp thành công ty cổ phần.
Trường hợp cổ phần hoá đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp thì không được
gây khó khăn hoặc làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh các bộ phận
còn lại của doanh nghiệp.
Nhà nước có chính sách để giảm bớt tình trạng chênh lệch về cổ phần ưu đãi
cho người lao động giữa các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá. Có quy định để
gười lao động giữ được cổ phần ưu đãi trong một thời gian nhất định . Sửa đổi, bổ
sung cơ chế ưu tiên bán cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp để gắn bó
người lao động với doanh nghiệp; dành một tỷ lệ cổ phần thích hợp bán ra ngoài
doanh nghiệp. Nghiên cứu sử dụng một phần vốn của doanh nghiệp để hình thành
cổ phần của người lao động, người lao động được hưởng lãi nhưng không được rút
cổ phần này khỏi doanh nghiệp. Mở rộng việc bán cổ phần của các doanh nghiệp
công nghiệp chế biến nông,lâm, thuỷ sản cho người sản xuất và cung cấp nguyên
liệu. Có chính sách khuyên khích doanh nghiệp cổ phần hoá sử dụng nhiều lao động
và có quy định cho phép chuyển nợ thành vốn góp cổ phần.
Sửa đổi phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo hướng gắn với thị
trường; nghiên cứu đưa giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp, thí điểm
đấu thầu bán cổ phiếu và bán cổ phiếu qua các định chế tài chính trung gian.
Nhà đầu tư được mua cổ phần lần đầu đối với những doanh nghiệp cổ phần
hoá mà Nhà nước không giữ cổ phần chi phối theo đúng quy định của Luật Doanh
nghiệp và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. Nhà đầu tư nước ngoài được mua
cổ phần trong doanh nghiệp cổ phần hoá với số lượng cổ phần có tổng giá trị không
quá 30% vốn điều lệ của công ty cổ phần. Khuyến khích nhà đầu tư có tiềm năng về
công nghệ, thị trường, kinh nghiệm quản lý, tiền vốn mua cổ phần. Số tiền thu được
từ bán cổ phần dùng để thực hiện chính sách đối với người lao động và để Nhà nưóc
tái đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, không được đưa và ngân sách để chi
thướng xuyên.
Nhà nước ban hành có chế, chính sách phù hợp đối với doanh nghiệp nhà
nước đã chuyển sang công ty cổ phần. Sửa đổi chính sách ưu đãi đối với các doanh
nghiệp cổ phần hoá theo hướng ưu đãi hơn đối với những doanh nghiệp khi cổ phần
hoá có khó khăn.
Chỉ đạo chặt chẽ DNNN đầu tư một phần vốn để lập mới công ty cổ phần ở
những lĩnh vực cần thiết.
5. Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh
5.1. Tại sao phải nâng cao sức cạnh tranh.
Hiện nay, trên thế giới xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ, và Việt
Nam cũng không thể đứng ngoài xu thế trên. Thực tiễn đang đặt các doanh nghiệp
nói chung và DNNN nói riêng ngày càng phải tăng cường nội lực chủ động tham ra
hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện nâng cao hiệu quả
của sản xuất quốc tế nhờ tăng cường chuyên môn hoá đạt được quy mô kinh tế tối
ưu, tăng cường cạnh tranh và kích thích đầu tư. Đối với Việt Nam, hội nhập kinh tế
đem lại cho chúng ta nhiều thuận lợi như tranh thủ được công nghê tiên tiến, mở
rộng thị trường khuyến khích đầu tư, v.v.. Tuy nhiên hội nhập kinh tế cũng đặt ra
hàng loạt thử thách như cạnh tranh sẽ gay gắt hơn, các nước đang, chậm phát triển
(như Việt Nam) sẽ có ít cơ hội để bảo vệ các ngành kinh tế non trẻ của mình. Một
thực trạng không thể phủ nhận trong hệ thống doanh nghiệp Việt Nam và DNNN
nói riêng là sức cạnh tranh kém. Để có thể hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế quốc
tế không có yêu cầu thiết thân nào hơn là phải nâng cao tính cạnh tranh của nền
kinh tế. Đảng ta chủ trương phải chủ động hội nhập quốc tế và khu vực trên tinh
thần phát huy tối đa nội lực, từ đó ngày càng nâng cao sức cạnh tranh, nâng cao
hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ, định hướng XHCN.
Nền kinh tế thị trường hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp phải cạnh tranh.
Điều này đảm bảo cho các nguồn lực được sử dụng một cách hiệu quả nhưng cũng
đặt các DNNN trước một thách thức lớn. Nhiều năm liền quen với cung cách làm ăn
bao cấp nay phải bắt đầu thích nghi với cơ chế mới. Song chúng ta không còn cách
nào hơn là phải tự cải tổ, tích cực phát huy nội lực để đổi mới. Nâng cao sức cạnh
tranh không chỉ là yêu cầu sống còn với các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường,
mà còn yêu cầu của việc phát huy vai trò chủ đạo của KTNN và quyết định sự tồn
tại định hướng XHCN. Yêu cầu này đặt ra cấp bách hàng ngày hàng giờ với các
doanh nghiệp.
5.2. Nguyên nhân của sức cạnh tranh kém của KTNN
* Về chủ quan
Thực trạng yếu kém của DNNN thể hiện ở: công nghệ vừa thiếu vừa lạc hậu;
trình độ chuyên môn trình độ nghiệp vụ quản lý còn yếu; năng suất lao động thấp;
chất lượng sản phẩm chưa cao và giá thành sản phẩm chưa hợp lý; thị trường đầu ra
chưa ổn định thiếu bền vững.
Tàn dư của chế độ quản lý quan liêu bao cấp còn hết sức nặng nề. Nó ảnh
hưởng rất lớn tới tác phong lao động, kinh doanh của các doanh nghiệp đặc biệt là
DNNN. Lối làm ăn buông thả, thua lỗ phó mặc cho nhà nước là một cản trở rất lớn
cho quá trình phát triển.
* Về mặt khách quan
Có thể chỉ ra rằng, đó là do hậu quả của hai cuộc chiến tranh còn tác động
rất nặng nề lên các mặt của đời sống. Phải lo giành, bảo vệ nền độc lập dân tộc,
chúng ta đã mất đi nhiều thời gian quý báu để xây dựng đất nước. Chúng ta là một
nước đi sau về kinh nghiệm còn thua kém nhiều nước là điều không tránh khỏi. Tuy
nhiên điều này có thể khắc phục bằng việc không ngừng học hỏi, phát huy tinh thần
tự lực tự cường phát triển đất nước.
5.3. Giải pháp
Để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và doanh nghiệp, người viết
nghĩ cần thực hiện hệ thống các giải pháp đồng bộ, hữu hiệu cả ở tầm vĩ mô và vi
mô. Một số giải pháp chính có thể áp dụng là :
Thứ nhất phải tạp lập môi trường thông thoáng, cạnh tranh bình đẳng. Một số
chính sách kinh tế của ta còn thiếu tính rõ ràng và hệ thông pháp luật hay thay đổi,
do vậy cần hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế theo hướng minh bạch, ổn định,
phù hợp dần với thông lệ khu vực và quốc tế, đồng thời chỉ đạo chặt chẽ việc triển
khai thực hiện tránh tình trạng “trên thông, giữa thắt, dưới bóp” nhằm tạo môi
trường cho tự do kinh doanh trên một sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế. Trước hết, phải kiên quyết chống lạm dụng độc
quyền và bán phá giá. Chính sách lãi suất, tỉ giá hối đoái, chính sách giá, chính sách
đất đai, chính sách tín dụng, chính sách thuế…phải bình đẳng. Cần tách biệt giữa
chính sách kinh tế và chính sách xã hội theo hướng nhà nước dùng các công cụ
kinh tế là chủ yếu để điều tiết kinh tế, thu nhập từ đó phục vụ cho chính sách xã hội
của Nhà nước …
Thứ hai, xoá bỏ sự mặc cảm của xã hội và sự kỳ thị của một số công chức
trong bộ máy công quyền đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Một số nhà
hoạch định chính sách cũng như triển khai thực hiện vẫn còn nhìn phiến diện đối
các doanh nghiệp dân doanh. Trên thực tế các DNNN vẫn có nhưng ưu thế hơn hẳn
về đất đai và tín dụng… so với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thời gian tới , cần
xác định rõ doanh nghiệp công ích và các sản phẩm, dịch vụ công ích để có cơ chế
hoạt động, quản lý riêng. Tiến tới các doanh nghiệp kinh doanh thuộc mọi thành
phần kinh tế đều hoạt động theo một luật chung nhằm phát huy triệt để lợi thế so
sánh và nội lực của mỗi thành phần kinh tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cộng
đồng doanh nghiệp Việt Nam. Đây cũng là thách thức nhưng cũng là yếu tố thúc
đẩy các DNNN ngày càng vươn lên khẳng định mình trong nền kinh tế thị trường
sôi động. Các DNNN phải làm điển hình về sản xuất kinh doanh, trong cạnh tranh,
làm ăn quốc tế.
Xây dựng cơ chế kinh tế hợp lý theo hướng phát huy các lợi thế so sánh của
quốc gia, đi đôi với đổi mới và hoàn thiện cớ chế quản lí kinh tế theo cơ chế thị
trường. Đồng thời tăng cường vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước bằng các công
cụ kinh tế nhằm phát huy các yếu tố tích cực, hạn chế các yếu tố tiêu cực của cơ chế
thị trường để tiến tới hình thành thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta.
Thứ ba, cần tiếp tục đẩy nhanh thực hiện vững chắc việc cổ phần hoá một bộ
phận DNNN, đa dạng hoá các hình thức sở hữu và tiến hành cải tổ hợp nhất sáp
nhập các doanh nghiệp nhằm nâng cac hiệu quả hoạt động của chúng và giảm thâm
hụt của ngân sách Nhà nước. DNNN tập trung chủ yếu vào những ngành (lĩnh vực)
then chốt, đòi hỏi hàm lượng vốn và kỹ thuật công nghệ cao, có tính chất dẫn dắt,
mở đường, cho nền kinh tế phát triển. Các DNNN cần cải tiến tổ chức quản lý, thực
hiện cân đối chính sách phân phối, giảm các khoản nợ dây dưa, thu và sử dụng vốn
đầu tư nước ngoài có hiệu quả; đẩy nhanh sự phát triển hiệu quả của thị trường
chứng khoán.
Thứ ba, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của nền kinh tế nói chung và
DNNN nói riêng. Mười lăm năm đổi mới, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ quản lý
… của người lao động đã được nâng lên một bước, song vẫn còn rất hạn chế, chưa
ngang tầm với đòi hỏi của phát triển nền kinh tế thị trường theo xu hướng toàn cầu
hoá kinh tế. Theo bộ tài chính thì ngay đội ngũ giám đốc các DNNN (năm 2000) có
tới 67% không biết đọc bản báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp, vậy làm
sao để họ có thể quản lý và sử dụng đồng vốn có hiệu quả được; hơn nữa đa số lại
được đào tạo từ thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp nên không ít
giám đốc vẫn còn tư tưởng dựa dẫm vào “bầu sữa “ của nNà nước. Vậy, cần phải
cải tiến quy trình và tiêu chuẩn bổ nhiệm giám đốc DNNN, cần xác định rằng giám
đốc doanh nghiệp không chỉ là một chức, mà còn là một nghề phải có trình độ
chuyên môn sâu và năng lực tổ chức tốt.
Cùng với việc đổi mới hệ thống giáo dục-đào tạo và với chính sách hỗ trợ
tích cực cho đào tạo nguồn nhân lực của Nhà nước, các DNNN cần phải có chiến
lược đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động, làm cho việc học tập, nhất là tự học là
công việc suốt đời của mọi người để có tri thức thực sự mà trước hết phải làm chủ
được công việc thuộc lĩnh vực công tác được giao.
Các Mác đã chỉ ra rằng con người là nhân tố đông nhất, cách mạng nhất
trong lực lưọng sản xuất và suy cho cùng mọi thành công hay thất bại đều do con
người tạo ra. Hiện nay, Các nhà kinh tế hàng đầu thế giới cũng đánh giá cao nhân tố
con người, trên cơ sở nghiên cứu về mọi loại hình doanh nghiệp ở các nước có nền
kinh tế thị trường phát triển, giáo sư Cô- pen –man, giảng dạy ở trường quản lý kinh
doanh Newyork, đã kết luận sự thành công của mọi loại hình doanh nghiệp dựa trên
ba yếu tố chính là : 1/ Sự thoả mãn của người lao động trong doanh nghiệp về vật
chất, tinh thần như tiền lương và nhu cầu phát triển nghề nghiệp; 2/ Sự thoả mãn
của khách hàng khi mua hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệ; 3/ Hiệu quả sử dụng
vốn và các nguồn lực khác của doanh nghiệp. Mô hình quản lý này được đánh giá ở
các nước phát triển, nhiều doanh nghiệp đã áp dụng vào quản lý và mang lại hiệu
quả thiết thực. Theo họ, khi doanh nghiệp đối xử với người lao động như thế nào thì
người lao động sẽ đối sử với khách hàng như vậy. Do đó, công tác quản trị nhân sự
của DNNN có tốt thì mới thu hút được nhân tài, người lao động mới tận tâm, tận lực
với doanh nghiệp của mình. Nó là động lực bên trong sức mạnh nội lực thúc đẩy
nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ tư, DNNN phải xây dựng dược chiến lược sản xuất – kinh doanh thích
hợp như : chiến lược phát triển khoa học - công nghệ, chiến lược mặy hàng chiến
lược môi trường… trong điều kiện có sự cạnh tranh của các đối thủ khác trên
thương trường. Từ đó có ảnh hưởng đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ để nâng
cao chất lượng hàng hoá một cách tối ưu, tăng năng suất lao động hạ giá thành sản
phẩm…
Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư khoa học - công nghệ, tại điều 38,
Luật Khoa học và Công nghệ đã được kỳ họp thứ 7 Quốc hội khoá X thông qua
ngày 9-6-2000 đã nêu rõ: ” Doang ghiệp được đầu tư phát triển khoa học và công
nghệ nhằm đổi mới công nghệ nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Vốn đầu tư
phát triển khoa học và công nghệ của doanh ghiệp được tính vào giá thành sản
phẩm; doanh gnhiệp được lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ để chủ động
đầu tư phát triển khoa học và công nghệ; doanh nghệp đầu tư nghiên cứu những vấn
đề khoa học và công nghệ thuộc lĩnh vực ưu tiên trọng điểm của Nhà nước được xét
tài trợ một phần kinh phí nghiên cứu” và được vay vốn tín dụng ưu đãi của Chính
phủ. Đây là lần đầu tiên, hoạt động khoa học công nghệ được thể chế hoá cao. Do
vậy, cần phải triển khai thực hiện Luật Khoa học và Công nghệ để luật này đi sâu
vào cuộc sống góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp mà trước hết là các doanh
nghiệp lớn, mũi nhọn sẽ có cơ sở để đổi mới công nghệ, rút ngắn đần khoảng cách
so với các nước phát triển tạo điều kiên tăng khả năng cạnh tranh và năng lực sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Với công nghệ hiện đại cộng với đội ngũ lao
động làm chủ được công nghệ đó và có cơ chế quản lý thích ứng nhất định các
doanh nghiệp sẽ chiến thắng trong cạnh tranh . Đồng thời đây cũng là điều kiện
hình thành và hoạt động thị trương khoa học công nghệ ở nước ta.
Thứ năm, phát huy vai trò tích cực của các hiệp hội doanh nghiệp trong thu
thập và cung cấp thông tin tìm kiếm và mở rộng thị trường mới cho doanh nghiệp.
Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh theo hướng xuyên quốc
gia. Tăng cường sự liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp đã có tiếng nói trên
thương trường, hạn chế bị các đối tác nước ngoài ép cấp,ép giá. Khuyến khích các
hiệp hội doanh nghiệp thành lập các quỹ phòng ngừa rủi ro theo ngành hàng…
Trên đây chỉ là những giải pháp rất cơ bản , hơn nữa Việt Nam còn là một
thành viên mới mẻ trong nền kinh tế toàn cầu, còn cần nhiều quá trình tổng kết rút
kinh nghiệm. Hy vọng trong những dịp sau người viết có thể đóng góp những ý kiến
cụ thể và thiết thực hơn nữa.
6. Đổi mới về quản lý, tổ chức DNNN
6.1. Sự cần thiết
Các vướng mắc trong cải cách cơ chế quản lý, tổ chức doanh nghiệp hiện nay
đang là rào cản rất lớn làm chậm quá trình sắp xếp, đổi mới, quản lý DNNN. Tính
cấp thiết của việc giải quyết vấn đề này là không phải bàn cãi. Bài viết sẽ đi sâu vào
các giải pháp tháo gỡ thực trạng trên.
6.2. Giải pháp
Giải pháp cơ bản hiện nay vẫn là tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý của Nhà nước và của cơ quan chủ sở hữu đối với DNNN bao gồm :
*Xác định rõ chức năng quản lý Nhà nước đối với DNNN.
Chức năng quản lý nhà nước đối với DNNN là: xây dựng, hoàn thiện khung
pháp lý và ban hành chính sách, cơ chế quản lý đối với doanh nghiệp hoạt động
kinh doanh và hoạt động công ích; xây dựng quy hoạch và đào tạo đội ngũ cán bộ
cốt cán cho DNNN; thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật , chế độ, quy định
của Nhà nước tại doanh nghiệp.
Kiên quyết chấm dứt tình trạng cơ quan hành chính Nhà nước can thiệp trực
tiếp, cụ thể vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; phân định rõ
quyền quản lý hành chính kinh doanh của doanh nghiệp. Cơ quan quản lý Nhà nước
căn cứ vào quy định của pháp luật và yêu cầu quản lý mà ban hành đồng bộ hệ
thống văn bản pháp quy để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó có DNNN.
*Phân định rõ quyền của các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng chủ
sở hữu đối với DNNN.
Chính phủ thống nhất quản lý và tổ chức thực hiện các quyền của chủ sở
hữu đối với DNNN.
Chủ sở hữu có quyền: thành lập, sáp nhập, chia tách, chuyển đổi sở hữu, giải
thể doanh nghiệp; ban hành điều lệ mẫu tổ chức hoạt động của doanh nghiệp. Bổ
nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật các chức danh quản lý chủ chốt. Quyết
định mục tiêu, nhiệm vụ, chiến lược phát triển và kế hoạch trung, dài hạn của doanh
nghiệp. Phê duyệt các dự án đầu tư. Quy định nguyên tắc phân phối lợi nhuận sau
thuế. Kiểm tra, giám sát thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ Nhà nước giao và hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp.
Chính phủ uỷ quyền cho các bộ, phân cấp cụ thể cho uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương, hội đồng quản trị tổng công ty nhà nước thực
hiện quyền chủ sở hữu của Nhà nước phù hợp với các loại hình doanh nghiệp có
vốn nhà nước, bảo đảm ở đâu có vốn của Nhà nước thì phải có tổ chức hoặc cá nhân
được giap quyền đại diện Nhà nước làm chủ sở hữu trực tiếp với nhiệm vụ, quyền
hạn, quyền lợi và trách nhiệm rõ ràng, không phân biệt doanh nghiệp nhà nước do
Trung ương hay địa phương quản lý.
*Đào tạo và sử dụng cán bộ quản lý DNNN.
Chính phủ quy dịnh tiêu chuẩn cán bộ quản lý chủ cốt của doanh nghiệp nhà
nước; chỉ đạo xây dựng hệ thống đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giám đốc doanh
nghiệp.
Chính phủ quy định chế độ đãi ngộ và chế độ trách nhiệm đối với những cán
bộ quản lý DNNN theo hướng khuyến khích thoả đáng về vật chất và tinh thần căn
cứ mức độ đóng góp vào kết quả hoạt động của doanh nghiệp; đồng thời có chế tài
phù hợp với từng loại hình DNNN để xử lý những cán bộ quản lý doanh nghiệp
hoạt động kém hiệu quả do nguyên nhân chủ quan.
*Tổ chức đội ngũ lao động trong DNNN.
Để DNNN chứng tỏ tính ưu việt của mình, nhằm dần trở thành nền tảng của
chế độ kinh tế mới, ngoài yếu tố cán bộ quản lý phải khơi dậy được sức mạnh của
người lao động không phải theo ý nghĩa chỗ làm việc an toàn mà bằng cách gắn lợi
ích của từng người lao động vào doanh nghiệp cũng như khuyến kích các tổ chức xã
hội độc lập của họ như hội ngành nghề tổ chức Đảng, thanh niên, phụ nữ, công đoàn
.v.v. Đây là một lĩnh vực rất phức tạp. Bởi nếu không phát huy được khả năng lao
động sáng tạo của người lao động thì tính XHCN trong các DNNN bằng không. Vì
vậy, để những người lao động làm việc theo tư thế của người XHCN cần phải cải tổ
hoạt động của các đoàn thể xã hội, Công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ. Làm
cho người lao động có tác phong của những người cộng sản chính là góp phần thực
hiện định hướng XHCN trong xã hôị hiện nay.
* Công ty hoá DNNN
Ngày 14/9/2001, Chính phủ đã ban hành nghị định 63/2001/NĐ-CP về việc
chuyển đổi doanh nghiệp của Nhà nước, của tổ chức chính trị, của tổ chức chính trị-
xã hội thành công ty TNHH một thành viên (công ty hoá). Có thể giải thích đơn
giản đây là việc chuyển các DNNN sang hoạt động theo Luật doanh nghiệp, khiến
cho các doanh nghiệp này trở thành các thực thể pháp lý độc lập, chịu trách về hoạt
động của mình trong giới hạn vốn điều lệ của công ty. Đồng thời, Nghị định quy
định rõ về phân công, phân cấp trong quan hệ quản lý nhằm xác định quyền và trách
nhiệm của đại diện chủ sở hữu, của hội đồng quản trị và tổng giám đốc công ty.
Doanh nghiệp sau khi chuyển đổi chỉ có một tổ chức là chủ sở hữu hoặc được uỷ
quyền là đại diện chủ sở hữu. Chủ sở hữu và tổ chức được uỷ quyền là đại diện chủ
sở hữu có quyền và nghĩa vụ được giảm thiểu tối đa so với cơ quan chủ quản theo
kiểu cũ, không can thiệp sâu vào quản lý kinh doanh, tách bạch giữa chủ sở hữu và
người quản lý doanh nghiệp. Việc phân cấp trên đã mở rộng quyền cho các công ty,
tạo ra sự năng động, tự chủ, sáng tạo cho các doanh nghiệp trong hoạt động kinh
doanh.
7. Kinh nghiệm cải cách DNNN của một số nước trong khu vực và trên
thế giới hiện nay.
Trên phạn vi toàn thế giới, cải cách DNNN đã được tiến hành một cách sâu
rộng từ đầu những năm 1980, đặc biệt ở các nước đi theo XHCN trước đây. Điều
kiện về chính trị, kinh tế ở các nước này có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam.
Những kinh nghiệm trong cải cách DNNN của họ rất đáng để chúng ta xem xét.
Có rất nhiều phương pháp cải cách khác nhau nhưng nhìn chung có hai xu
hướng : sử dụng phương pháp sốc, tiến hành nhanh, tư nhân hoá hoàn toàn (ở các
nước Trung và Đông Âu) và phương pháp tiến hành nhiều bước, có bổ sung tổng
kết kinh nghiệm qua các giai đoạn (“dò đá qua sông “ ở Trung Quốc) . Vì điều kiện
thời gian, bài viết chỉ nêu khái quát về từng loại hình, ưu nhược điểm và rút ra bài
học cho Việt Nam.
7.1. Trường hợp các nước Trung và Đông Âu
Cùng với sự chuyển đổi về chính trị, cải cách DNNN được tiến hành mạnh
mẽ. Về cơ bản, các nước tiến hành theo phương pháp sốc, tức là tư nhân hoá hoàn
toàn các DNNN trong một thời gian ngắn. Thông thường, các nước tiến hành tư
nhân hoá bằng cách phát cổ phiếu cho nhân dân. Điều này ứng với quan điểm cho
rằng của cải của nhà nước là của toàn dân. Các DNNN được định giá và mỗi người
dân sẽ nhận được một số điểm đầu tư nhất định. Các điểm có thể sử dụng để mua
trực tiếp cổ phần hay thông qua các quỹ đầu tư thu gom điểm của nhiều cá nhân.
Các cổ phần sẽ được định giá theo điểm dựa vào giá trị kế toán của doanh nghiệp.
Ưu điểm của phương pháp này là tiến hành nhanh nó giúp cho Nhà nước có
thể tập trung cải cách nền kinh tế trong một thời gian ngắn. Đây là biện pháp hữu
hiệu nhằm chuyển nhượng tài sản của nền kinh tế bằng những khoản tiền tiết kiệm
hạn chế mà vẫn đảm bảo được sự ủng hộ rộng rãi và tránh sự chỉ trích rằng tư nhân
hoá chỉ mang lại lợi ích cho một số cá nhân thay cho đa số. Tuy nhiên, mặt trái của
nó là tiến hành nhanh “sốc”, gắn liền với sự thay đổi về chính trị nên tất yếu gây
nhiều bất ổn trong đời sống kinh tế – xã hội, có thể dẫn đến khủng hoảng làm hạn
chế sự phát triển.
Mặc dù vậy, thực chất của các cuộc cải cách này là tư nhân hoá, từ bỏ mục
tiêu CNXH, bối cảnh cải cách có nhiều phức tạp khác biệt với cải cách ở nước ta và
kết quả còn nhiều điều bàn cãi. Song nó rất đáng để chúng ta xem xét, lưu tâm.
7.2. Trường hợp Trung Quốc
Có thể tóm lược những chủ trương cải cách của Trung Quốc như sau :
- Về phương châm : đó là “dò đá qua sông“ theo hướng “nắm to thả nhỏ” tức
là Nhà nước nắm những xí nghiệp lớn, then chốt, thả hết các xí nghiệp vừa và nhỏ
không giữ vai trò chủ đạo.
- Các hình thức cải cách DNNN bao gồm :
+ Sáp nhập, giải thể, phá sản DNNN.
+ Cổ phần hoá DNNN.
+ Bán, khoán kinh doanh DNNN .
+ Công ty hoá DNNN.
Dễ dàng nhận thấy rằng cải cách DNNN ở Trung Quốc có nhiều điểm tương
đồng với Việt Nam. Nó đã và đang đem lại những kết quả đáng chú ý (minh chứng
rõ nhất là hiện nay Ttung Quốc là một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới).
Mặc dù tiến hành chậm song nó đã đạt được nhiều mục tiêu như : về xã hội đảm bảo
lợi ích của người lao động, của toàn xã hội theo, không gây bất ổn về chính trị, đảm
bảo mục tiêu XHCN, thúc đẩy nền kinh tế ngày một phát triển.
Việt Nam có thể áp dụng một số kinh nghiệm của Trung Quốc cho các giải
pháp đang thực hiện và sắp thực hiện tới đây của mình như:
- Việc đánh giá doanh nghiệp cổ phần hoá giao cho do
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.pdf