Luận văn Kinh tế chính trị: Vai trò quản lý kinh tế của nhà nước trong việc thúc đẩy kinh tế

Tài liệu Luận văn Kinh tế chính trị: Vai trò quản lý kinh tế của nhà nước trong việc thúc đẩy kinh tế: LUẬN VĂN: Kinh Tế Chính Trị - Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước trong việc thúc đẩy kinh tế Lời nói đầu Theo C.Mac va F.Anghen: Không thể cải biến kinh tế xã hội nếu thiếu vai trò kinh tế của Nhà nước, loài người đã và đang còn sống lâu dài trong nền kinh tế thị trường,bên cạnh mặt tích cực là chủ yếu, nền kinh tế thị trường không thể tránh khỏi mặt tiêu cực. Phát huy mặt tích cực, chủ động hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường thông qua vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước là một tất yếu khách quan. Đề án Kinh Tế Chính Trị - Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước trong việc thúc đẩy kinh tế I.sự cần thiết khách quan của vai trò quản lí kinh tế nhà nước 1.Nhà nước là gì ? Trong tiến trình lịch sử phát triển, sự ra đời của Nhà nước chậm hơn sự ra đời của xã hội vì Nhà nước chỉ được tạo ra từ xã hội có một trình độ phát triển nhất định Nhà nước không phải là cái bẩm sinh vốn có mà nó xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện chế độ tư hữu về Tư liệ...

pdf44 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1089 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Kinh tế chính trị: Vai trò quản lý kinh tế của nhà nước trong việc thúc đẩy kinh tế, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Kinh Tế Chính Trị - Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước trong việc thúc đẩy kinh tế Lời nói đầu Theo C.Mac va F.Anghen: Không thể cải biến kinh tế xã hội nếu thiếu vai trò kinh tế của Nhà nước, loài người đã và đang còn sống lâu dài trong nền kinh tế thị trường,bên cạnh mặt tích cực là chủ yếu, nền kinh tế thị trường không thể tránh khỏi mặt tiêu cực. Phát huy mặt tích cực, chủ động hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường thông qua vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước là một tất yếu khách quan. Đề án Kinh Tế Chính Trị - Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước trong việc thúc đẩy kinh tế I.sự cần thiết khách quan của vai trò quản lí kinh tế nhà nước 1.Nhà nước là gì ? Trong tiến trình lịch sử phát triển, sự ra đời của Nhà nước chậm hơn sự ra đời của xã hội vì Nhà nước chỉ được tạo ra từ xã hội có một trình độ phát triển nhất định Nhà nước không phải là cái bẩm sinh vốn có mà nó xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện chế độ tư hữu về Tư liệu sản xuất, sản xuất hàng hoá, giai cấp và đấu tranh giai cấp. Nhà nước là kiểu tổ chức xã hội của xã hội có giai cấp. Nó là một bộ máy, một hệ thống tổ chức chặt chẽ, tác động vào mọi mặt của đời sống xã hội, do giai cấp thống trị lập ra nhằm hợp pháp hoá và củng cố sự áp bức của chúng đối với quần chúng lao động. Do vậy bản chất Nhà nước theo nguyên nghiã của nó là nền chuyên chính để thực hiện sự thống trị của một giai cấp, là bộ máy áp bức của giai cấp thống trị đối với xã hội. Nhà nước chỉ là một phạm trù lịch sử, nó không đồng nghĩa với xã hội, nó chỉ tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhất định và sẽ tự tiêu vong khi các cơ sở ra đời và tồn tại của nó không còn nữa. Bất kì một Nhà nước nào cũng có chức năng kinh tế, mà theo Mac thì chức năng của nhà nước như “vai trò bà đỡ cho xã hội cũ thai nghén xã hội mới”. ở các thời kì khác nhau, các chế độ xã hội khác nhau, do tính chất Nhà nước khác nhau nên vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nước có biểu hiện khác nhau. 2.Vai trò kinh tế của Nhà nước qua các giai đoạn khác nhau của lịch sử Nói về vai trò kinh tế của Nhà nước qua các thời kì và chế độ xã hội, C.Mac và F.Anghen đã có những đúc kết hết sức xác đáng như sau: * Các Nhà nước trước Chủ nghĩa tư bản, vai trò kinh tế chủ yếu là đặt ra chế độ thuế khoá, một chế độ đóng góp có tính chất cưỡng bức để nuôi sống bộ máy cai trị, thực hiện chức năng đối nội (giữ cho sự xung đột giai cấp nằm trong vòng trật tự) đối ngoại (bảo vệ lãnh thổ) từ đó bảo vệ và mở rộng lợi ích kinh tế của giai cấp thống trị. * Đến Nhà nước tư sản, vai trò kinh tế của Nhà nước không chỉ dừng lại ở thuế khoá, không chỉ đơn thuần là cơ quan cai trị ở bên ngoài, bên trên quá trình sản xuất như Anghen đã nhận xét "nền văn minh mà tiến lên thì bản thân thúê má là không đủ nữa, Nhà nước phát hành hối phiếu, vay nợ tức là phát hành công trái”. Và sự xuất hiện sở hữu Nhà nước đã làm cho Nhà nước bắt đầu ở bên trong quá trình sản xuất, Nhà nước là “Nhà tư bản tập thể lý tưởng, Nhà nước ấy càng chuyển nhiều lực lượng sản xuất thành tài sản của nó bao nhiêu thì nó lại càng biến thành tư bản tập thể thực sự bấy nhiêu và càng bóc lột nhiều công nhân” Cũng theo hai ông, không thể có sự biến đổi kinh tế xã hội từ chủ nghiã tư bản lên xã hội cộng sản nếu thiếu vai trò kinh tế của Nhà nước, của giai cấp vô sản, Anghen nhấn mạnh ”Giai cấp vô sản chiếm lấy chính quyền Nhà nước và biến tư liệu sản xuất trước hết thành sở hữu Nhà nước”. Theo dự đoán của Mac và Anghen, chuyên chính vô sản trong đó bộ phận quan trọng là Nhà nước và vai trò kinh tế của Nhà nước ra đời từ sự chín muồi của các tiền đề kinh tế xã hội, đến lượt sự ra đời vai trò kinh tế của Nhà nước lại thúc đẩy các điều kiện kinh tế xã hội của xã hội mới phát triển và hoàn thiện. Và khi những điều kiện kinh tế xã hội phát triển đến một trình độ nhất định lại dẫn đến sự tự tiêu vong của Nhà nước theo đúng quy luật phát sinh phát triển và chuyển hoá vốn có của mọi sự vật hiện tượng Mac và Anghen với tư cách vừa là nhà khoa học vừa là nhà hoạt động thực tiễn, hai ông chưa thể đề cập nhiều vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nước cho xã hội tương lai khi thực tiễn chưa đến, bằng sự phân tích logic hai ông chỉ phác hoạ chức năng kinh tế của Nhà nước chủ yếu là ”biến các tư liệu sản xuất thành sở hữu Nhà nước”, chỉ đến sau này Lênin với tư cách là người lãnh đạo trực tiếp công cuộc xây dựng xã hội mới thì vai trò và chức năng của Nhà nước mới được nói tới nhiều hơn. Ông cho rằng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên công hữu xã hội về tư liệu sản xuất với hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể. Sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất là hình thức sở hữu chung của toàn thể nhân dân lao động, mọi người cùng chiếm hữu tư liệu sản xuất. Người chủ cao nhất là Nhà nước xã hội chủ nghĩa, sản xuất được tiến hành theo kế hoạch tập trung thống nhất của Nhà nước. Còn hình thức sở hữu tập thể do tập thể người lao động góp vốn, tư liệu sản xuất để xây dựng nên, sản xuất được tiến hành theo kế hoạch của tập thể có sự hướng dẫn của Nhà nước. Nhà nước xã hội chủ nghĩa có vai trò kinh tế đặc biệt, nó không còn là bộ máy ăn bám đứng trên quá trình sản xuất nữa mà phải chuyển sang tổ chức, thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế quốc dân. Chức năng này gắn liền với quá trình kế hoạch hoá tập trung thống nhất, quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm, kiểm tra chặt chẽ mức độ lao động và tiêu dùng. Thực tế lịch sử đã cho thấy cùng với sự tiến hoá của các chế độ xã hội, vai trò kinh tế của Nhà nước cũng có những biến đổi hết sức lớn lao, thể hiện rõ trong các lý thuyết kinh tế điển hình qua các thời kì - Trong xã hội chiếm hữu nô lệ và phong kiến: vai trò kinh tế của Nhà nước chủ yếu chỉ dừng lại ở việc bảo vệ sở hữu về nô lệ và phong kiến về Tư liệu sản xuất. Nhà nước trực tiếp dùng quyền lực của mình can thiệp vào việc phân phối của cải được sản xuất ra bởi nô lệ. Còn Nhà nước phong kiến không chỉ can thiệp vào việc phân phối mà còn tập hợp nhân dân xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp, khuyến khích quan lại di dân đi mở mang các vùng đất mới, đề ra các chính sách ruộng đất thích hợp cho từng thời kì. - Trong giai đoạn đầu của sự hình thành và phát triển của Chủ nghĩa tư bản + Trong thời kì tích luỹ nguyên thuỷ Tư bản (giữa thế kỉ 15) Nhà nước có vai trò kinh tế quan trọng trong việc tích luỹ tiền (Chủ nghĩa trọng thương), họ đề cao vai trò tiền tệ, coi tiền tệ là tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá sự giàu có của một quốc gia -“Nội thương là cái ống dẫn, ngoại thương là cái máy bơm, muốn tăng của cải phải có ngoại thương nhập dần của cải qua nội thương”-do đó các Nhà nước đã buộc các thương gia nước ngoài không được mang tiền ra khỏi nước họ, quy định những nơi được phép buôn bán để dễ dàng cho việc kiểm tra, đánh thuế nhập khẩu cao, khuyến khích phát triển xuất khẩu hàng hoá , thành phẩm, hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô... Sự can thiệp của Nhà nước đã góp phần tạo ra những tiền đề cần thiết cho sự ra đời của Chủ nghĩa tư bản. + Thế kỉ 18,19 cuộc Cách mạng khoa học kĩ thuật lần thứ nhất hoàn thành, công trường thủ công Tư bản chủ nghĩa đã đứng vững trong công nghiệp, nông nghiệp...nền sản xuất ở các nước Tư bản phát triển nhanh, giai cấp Tư sản đã chuyển từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất, tư tưởng tự do kinh tế được thể hiện rõ nhất trong thời kì này mà tiêu biều là quan điểm kinh tế của trường phái cổ điển. Họ ủng hộ mạnh mẽ tư tưởng tự do cạnh tranh, chống lại việc Nhà nước can thiệp vào kinh tế:”Trong chính sách và trong kinh tế phải tính đến những quá trình tự nhiên, không nên dùng những hành động cưỡng bức để chống lại quá trình đó”-W.Petty. Tư tưởng tự do kinh tế này được tiếp tục phát triển ở thuyết trật tự tự nhiên của trường phái trọng nông ở Pháp, đại diện của họ là Quesnay, ông cho rằng chỉ có xã hội tư bản mới là xã hội bình thường vì nó phù hợp với trật tự tự nhiên (với 2 quy luật cơ bản la quy luật vật lý và luân lý) từ đó ông đưa ra tư tưởng tự do tư hữu, tự do cạnh tranh, tự do tham gia thị trường. Tuy nhiên đại diện tiêu biểu nhất trong thời kì này là một nhà Kinh tế chính trị học tư sản cổ điển người Anh-Ađam Smith-ông đã dưa ra lý thuyết “Bàn tay vô hình”, “Con người kinh tế”, “Nhà nước không can thiệp vào tổ chức nền kinh tế hàng hoá". Ông cho rằng hoạt động của nền kinh tế là do các quy luật khách quan tự phát chi phối, sự vận động của thị trường là do quan hệ cung cầu cùng với những biến động tự phát của giá cả hàng hoá trên thị trường quyết định. Quan hệ giữa người với người là quan hệ về lợi ích kinh tế. Mỗi người hoạt động chỉ nhằm lợi ích cho bản thân, song do “bàn tay vô hình” chi phối buộc con người phục tùng lợi ích chung của xã hội, điều này nằm ngoài ý định của từng nhà kinh doanh. Mặc dù đề cao “bàn tay vô hình” song ông cũng cho rằng đôi khi Nhà nước có nhiệm vụ kinh tế nhất định, đó là khi các nhiệm vụ kinh tế đặt ra vượt quá khả năng của các doanh nghiệp. Mặt khác các nhà kinh tế cũng thấy được rằng nền kinh tế phát triển càng cao, xã hội hoá sản xuất ngày càng mở rộng, thị trường ngày càng phát triển thì càng cần có sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế, song tư tưởng của họ vẫn dừng lại ở sức mạnh thị trường, ở sự tác động tự phát của các quy luật kinh tế thị trường làm cho nền kinh tế phát triển ổn định và lành mạnh. - Sang thời kì của đại tư bản công nghiệp: Chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh chóng nhờ các nguồn vốn tích luỹ to lớn nên người ta chủ yếu chỉ phê phán những sự tiêu dùng xa xỉ làm giảm nguồn tích luỹ chứ cũng chưa thấy rõ vai trò cần thiết của Nhà nước trong việc điều chỉnh các quá trình phát triển, khắc phục các mất cân đối (Ví dụ Davit Ricardo). + Vào đầu những năm 1930 của thế kỉ nảy, khủng hoảng kinh tế diễn ra thường xuyên đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929-1933 đã làm cho “bàn tay vô hình” không thể đảm bảo những điều kiện ổn định cho nền kinh tế thị trường phát triển. Đồng thời ở giai đoạn này trình độ xã hội hoá sản xuất phát triển khá cao làm cho các nhà kinh tế thấy rằng: cần có một lực lượng điều tiết nền kinh tế từ một trung tâm-đó là Nhà nước. Từ đó J.M.Keynes-nhà kinh tế học người Anh đã dưa ra lý thuyết "Nhà nước điêù tiết nền kinh tế thị trường". Ông cho rằng cùng với sự tăng lên của sản lượng quốc gia thì thu nhập tăng lên và tiêu dùng cũng tăng lên. Nhưng do xu hướng “tiêu dùng giới hạn” nên tiêu dùng tăng chậm hơn so với thu nhập, điều này làm giảm cầu tiêu dùng tương đối. Cầu tiêu dùng giảm làm giảm giá hàng hoá và từ dó làm giảm tỷ suất lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận giảm nhỏ hơn hoặc bằng lãi suất thì các doanh nghiệp không còn có lợi do đó họ không đầu tư vào sản xuất, kinh doanh nữa. Và như vậy khủng hoảng, trì trệ kinh tế và thất nghiệp xảy ra là điều không thể tránh khỏi. Để khắc phục tình trạng đó, Nhà nước cần phải can thiệp vào nền kinh tế, vào thị trường, phát huy mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong cư dân, các nghiệp chủ đưa vào sản xuất, tăng vốn đầu tư để giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập, tiêu dùng, đặc biệt chú ý đến tăng cầu tiêu dùng và chỉ có tăng cầu tiêu dùng mới thực sự khuyến khích các nghiệp chủ đầu tư mới vào sản xuất, đó là một mặt. Mặt khác, Nhà nước phải dùng chính sách tài chính, lãi suất để tác động vào nền kinh tế. Phải chấp nhận lạm phát vừa phải, tăng lượng tiền nhất định vào lưu thông để giảm lãi suất, tăng đầu tư tư bản mới, có làm được những điều đó thì mới làm cho nền kinh tế phát triển cân bằng và ổn định, tránh được các đợt khủng hoảng, thất nghiệp xảy ra trong nền kinh tế. Tuy nhiên, những quan điểm của Keynes và những người theo ông không làm cho khủng hoảng, thất nghiệp và lạm phát giảm, trái lại ngày càng gia tăng theo chu kì kinh tế. + Chính do những hạn chế của Keynes đã làm xuất hiện “Chủ nghĩa tự do mới”-họ muốn kết hợp tất cả các quan điểm cũng như phương pháp luận của các trường phái tự do cũ, trọng thương mới, trường phái Keynes với tư tưởng cơ bản là: “Cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước ở mức độ nhất định”, khẩu hiệu mà họ đưa ra là:”Thị trường nhiều hơn và Nhà nước can thiệp ít hơn”. Họ xây dựng nhiều mô hình kinh tế thị trường như: * “Nền kinh tế thị trường xã hội “ của CHLB Đức, nó dược hinh dung như một sân bóng trong đó mỗi doanh nghiệp là một cầu thủ, Nhà nước đóng vai trò là trọng tài thiết kế luật “chơi “ để điều khiển trận đấu sao cho nền kinh tế có thể tránh được những tai hoạ như khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế là: Tôn trọng cạnh tranh, Nhà nước can thiệp vào kinh tế phải tổng hợp với thị trường, Nhà nước coi trọng chỉ tiêu xã hội, sử dụng nó để đánh giá hoạt động của mỗi doanh nghiệp. * ở Mĩ tiêu biểu có “Trường phái trọng tiền hiện đại”, họ cũng ủng hộ tư tưởng tự do kinh tế chống lại việc Nhà nước can thiệp, họ cho rằng nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thường xuyên ở trạng thái cân bằng động, đó là hệ thống tự điều chỉnh, hoạt động dựa vào các quy luật kinh tế vốn có. * ở các nước Bắc Âu đã có chủ trương tăng cường vai trò của Nhà nước nhưng chủ yếu chỉ trong lĩnh vực xã hội, kiểu kinh tế thị trường xã hội. + Rõ ràng cả 2 trường phái Keynes và tự do mới đều vấp phải những sai lầm, hoặc là hạ thấp đến mức bỏ qua cơ chế thị trường hoặc là phủ nhận vai trò kinh tế của Nhà nước, nên vào thập niên 60,70 có sự xích lại gần nhau của 2 trường phái để hình thành nền kinh tế hỗn hợp, tức là họ đã phối hợp “Bàn tay vô hình” và “Bàn tay hữu hình” để điều tiết nền kinh tế. Trong cuốn “Kinh tế học” của Samuelson ông viết:”Điều hành một nền kinh tế không có cả chính phủ lẫn thị trường thì cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay”, theo ông Nhà nước có vai trò đảm bảo sự ổn định, công bằng và hiệu quả vì các nền kinh tế thực tế đôi khi chịu thất bại của thị trường gồm cạnh tranh không hoàn hảo (cao hơn nữa là độc quyền), tác động bên ngoài( ngoại ứng), hàng hoá công cộng (nếu để tư nhân làm thì việc cung ứng thường không đủ nên Chính phủ phải nhảy vào làm việc đó) thuế (một dạng cưỡng bức quan trọng của Nhà nước để phục vụ những chi tiêu của mình). Như vậy sự can thiệp của Chính phủ vào thị trường để nâng cao hiệu quả không phải chỉ đơn thuần là do ý thích, mà đã tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các tư doanh làm ăn trôi chảy, ngăn cản lạm dụng khi các doanh nghiệp trở thành những kẻ tham lam độc quyền và kiềm chế hoạt động của các doanh nghiệp khi khối nhà máy của họ đe doạ sinh mạng và tài sản của người khác. Ngoài ra nếu nền kinh tế hoạt động hoàn toàn có hiệu quả, luôn trên ranh giới đường khả năng sản xuất, sự cạnh tranh trên thị trường là hoản hảo thì hàng hoá luôn được đặt vào tay người có nhiều tiền nhất chứ không phải theo nhu cầu lớn nhất, vì vậy cần thừa nhận rằng một hệ thống thị trường có hiệu quả có thể gây ra sự bất bình đẳng lớn, và một khi thị trường dân chủ không thích sự phân phối “phiếu đôla” trong một thị trường “thả lỏng” thì nó có biện pháp thay đổi kết quả thông qua những chính sách “phân phối lại”, từ đó Nhà nước có thể sử dụng "thuế luỹ tiến” đánh thuế người giàu theo tỉ lệ thu nhập cao hơn người nghèo, xây dựng hệ thống hỗ trợ thu nhập nhằm tạo ra một “mạng lưới an toàn”, bảo vệ những người không may khỏi bị huỷ hoại về kinh tế. Bên cạnh đó, theo Samuelson từ khi ra đời cho đến nay Chủ nghĩa tư bản đã gặp phải những thăng trầm chu kì cuả lạm phát, do vậy sử dụng một cách thận trọng quyền lực về tiền tệ và tài chính của Chính phủ (bao hàm việc điều tiết tiền tệ và hệ thống ngân hàng để xác định mức lãi suất và điều kiện tín dụng. Qua xem xét 3 vai trò trên đây của Chính phủ- người đảm bảo hiệu quả, công bằng và ổn định-ông đã làm rõ tại sao nước Mĩ những năm 1980 lại được gọi là “một nền kinh tế hỗn hợp”, cơ chế thị trường xác định giá cả và sản lượng trong nhiều lĩnh vực, trong khi đó Chính phủ điều tiết thị trường bằng các chương trình thuế, chi tiêu và luật lệ. Cả hai bên thị trường và Chính phủ đều có tính chất thiết yếu như nhau. Lí thuyết kinh tế của trường phải này có ý nghĩa thực tiễn với nước ta vì nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là sự vận động dược điều tiết bởi sự thống nhất giữa cơ chế thị trường-bàn tay vô hình- và vai trò kinh tế của Nhà nước-bàn tay hữu hình. - Thời kì các nước xã hội chủ nghĩa: Sau Đại chiến Thế giới II, bên cạnh hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa đã hình thành và phát triển từ trước, một hệ thống mới các nước xã hội chủ nghĩa ra đời và tồn tại song song trên khắp các châu lục (trước Đại chiến Thế giới II chỉ tồn tại duy nhất một Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Liên Xô). Do quan điểm chính trị, tư tưởng và nhiều điều kiện khác, tất cả các nước xã hội chủ nghĩa đều áp dụng chế độ kế hoạch hoá tập trung để quản lý nền kinh tế. Đặc trưng nổi bật nhất của chế độ này là việc Nhà nước được đặt vào trung tâm của mọi quan hệ kinh tế. Thông qua công cụ kế hoạch được chi tiết hoá đến cao độ, mọi vấn đề của nền kinh tế từ sản xuất, phân phối đến tiêu dùng... đều do các cơ quan Nhà nước đảm trách. Điều này là nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự tụt hậu của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa so với hệ thống các nước tư bản phát triển. Những cải tổ nhưng không triệt để sau đó vì thế đã dẫn tới sự sụp đổ không tránh khỏi của Liên Xô và một loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vào cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90. Như vậy về nguyên tắc Nhà nước cần phải can thiệp vào thị trường nhưng không có mô hình nào chung có thể áp dụng cho toàn thế giới. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của từng nước mà phải tìm ra cho mình một vị trí tiếp cận với nền kinh tế, một cách thức riêng để can thiệp vào thị trường, định hướng nền kinh tế đến các mục tiêu mong muốn trên cơ sở tôn trọng các quy luật khách quan của thị trường. 3. Tính tất yếu khách quan của việc xuất hiện vai trò kinh tế của Nhà nước Trên thực tế, không có nền kinh tế nào thế giới lí tưởng của bàn tay vô hình. Mỗi nền kinh tế đều có những khuyết tật. Vì lí do đó nên ở bất cứ nơi nào trên thế giới, không có chính phủ nào dù bảo thủ đến đâu lại không nhúng tay vào nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển và theo đó quan hệ sản xuất mới được thiết lập cho phù họp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy Nhà nước cần phải nắm vai trò chủ đạo trongviệc đưa ra giải pháp để phát triển lực lượng sản xuất. Trong thời kì quá độ, để phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường cần phải giải quyết hai mâu thuẫn chính. Thứ nhất đó là mâu thuẫn giữa nền kinh tế chậm phát triển với yêu cầu phát triển nền kinh tế hiện đại bằng quá trình đẩy nhanh phát triển nền kinh tế hàng hoá. Thứ hai đó là mâu thuẫn giữa những yếu tố nhanh nhạy, tự phát của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.Với tư cách là cơ quan quyền lực đại diện cho lợi ích của nhân dânvà là người chủ đại diện cho sở hữu toàn dân, Nhà nước phải quản lí nền kinh tế đ, thực hiện chế độ dân chủ về mọi khâu, mọi mặt của quá trình tái sản xuất. II- Sự hình thành cơ chế quản lí mới ở Việt Nam Trước hết ta cần nắm được khái niệm cơ chế kinh tế: Đó là tồng thể các yếu tố có mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau tạo thành động lực dẫn dắt nền kinh tế phát triển. 1. Cơ chế quản lí kinh tế cũ ở Việt Nam a)Đặc trưng cơ bản Cơ chế quản lí kinh tế cũ của nước ta là cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp (Giai đoạn trước ĐạI hội VI của Đảng năm 1986) Đặc trưng chủ yếu của cơ chế quản lý kinh tế giai đoạn này đó là coi kế hoạch là công cụ quản lí số một, có tính chất pháp lệnh bắt buộc trực tiếp hoặc gián tiếp đối với tất cả các nghành, các cấp, tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế trong đó công dân, luật pháp về kinh tế (mới có rất ít) và các công cụ quản lí khác đều được xếp sau công cụ kế hoạch. Nhà nước bị biến thành “ông chủ của một doanh nghiệp lớn”, thông qua hệ thống chỉ tiêu kế hoạch chi tiết, Nhà nước trực tiếp quyết định tất cả các vấn đề liên quan tới đời sống kinh tế xã hội của đất nước. b)Ưu điểm Cơ chế này đã góp phần đắc lực vào việc huy động những nguồn lực khổng lồ trong thời gian ngắn để triển khai các chương trình quy mô của quốc gia, đặc biệt là việc động viên nhân tài vật lực phục vụ các nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu phù hợp với đặc điểm tình hình đất nước trong những năm chiến tranh. Có thể nói cơ chế quản lí này đã hoàn thành sứ mạng lịch sử của mình. c)Nhược điểm - Quản lí kinh tế bằng các mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, điều đó thể hiện ở sự chi tiết hóa quá đáng các nhiệm vụ do Trung ương giao bằng một hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh từ trên giao xuống, qua đó làm suy yếu, triệt tiêu động lực kinh tế thậm chí gây ra tác động như khuyến khích sự ỷ lại, dựa dẫm, lười biếng gây thiệt hại cho những người tích cực, tạo môi trường cho lãng phí, gây thất thoát cho tài sản quốc gia . - Các cơ quan hành chính kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động của các đơn vị kinh tế cơ sở, nhưng lại không chịu trách nhiệm về những quyết định của mình. - Coi thường các quan hệ hàng hoá- tiền tệ và hiệu quả quản lí kinh tế, quản lí nền kinh tế và kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu, do đó hạch toán chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp được thể hiện dưới các hình thức: bao cấp quá giá, chế độ cung cấp và cấp phát vốn của ngân sách mà không ràng buộc vật chất đối với người được cấp phát vốn. - Từ những đặc điểm trên tất yếu dẫn đến một bộ máy quản lý cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và kém năng động, từ đó sinh ra một đội ngũ cán bộ quản lý kém năng lực quản lí, không theo nghiệp vụ kinh doanh, nhưng phong cách thì quan liêu cửa quyền. Những quan niệm “ ấu trĩ” trên đây về xây dựng và phát triển kinh tế là biểu hiện sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan, mà đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp đã tích cóp những xu hướng tiêu cực, làm nảy sinh sự trì trệ, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội. Vấn đề đặt ra là phải đổi mới sâu sắc cơ chế đó theo hướng căn bản của sự đổi mới cơ chế quản lí đã được Đại hội VI của Đảng xác định và được tiếp tục khẳng định tại Đại hội VII:” Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ, vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước” 2. Cơ chế thị trường và sự vận dụng ở Việt Nam a)Một số khái niệm cơ bản Để có thể đi sâu nghiên cứu cơ chế quản lí kinh tế mới ở Việt Nam cần nắm vững một số khái niệm sau - Thị trường là gì? Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, nó ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất lưu thông hàng hoá, sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, lượng sản phẩm lưu thông trên thị trường ngày càng dồi dào và phong phú, thị trường được mở rộng. Như vậy thị trường là lĩnh vực trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ làm môi giới, tại đây người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường. Thị trường là trung tâm của toàn bộ quá trình tái sản xuất hàng hoá. Những vấn đề cơ bản của nền sản xuất hàng hoá là sản xuất cái gì? Số lượng bao nhiêu? Bằng phương pháp nào? đều phải thông qua thị trường vì vậy thị trường đóng vai trò hoạt động và phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. - Cơ chế thị trường là gì? Mọi hệ thống kinh tế đều được tổ chức cách này hay cách khác, để huy động tối đa các nguồn lực xã hội và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó nhằm sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ thoả mãn nhu cầu của xã hội. Việc sản xuất ra hàng hoá gì? Theo phương thức nào là tốt nhất? Việc phân phối hàng hoá được sản xuất ra sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu xã hội? Đó là những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế xã hội, lực lượng nào quyết định những vấn đề cơ bản đó? Trong nền kinh tế hàng hoá có một loạt những quy luật kinh tế vốn có cho nó hoạt động như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ... và lợi nhuận là động lực cơ bản của sự vận động của nó. Các quy luật đó thể hiện sự tác động của mình thông qua các mối quan hệ kinh tế trong lĩnh vực trao đổi- thị trường, thông qua sự vận động của giá cả. Nhờ sự vận động của hệ thống giá cả thị trường mà diễn ra sự thích ứng tự phát khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu của nhu cầu của xã hội, tức là các quy luật điều tiết nền sản xuất xã hội. Một nền kinh tế mà trong đó những vấn đề cơ bản của nó do thị trường quyết định được xem là nền kinh tế thị trường. Như vậy, cơ chế thị trường là cơ chế tự điều chỉnh nền kinh tế hàng hoá, là “ bộ máy” kinh tế điều tiết toàn bộ sự vận động của kinh tế thị trường, quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá dưới sự tác động khách quan của các quy luật kinh tế vốn có của nó (đặc biệt là quy luật giá trị- quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và lưu thông hàng hoá) cơ chế đó quyết định những vấn đề cơ bản của nền kinh tế: sản xuất cái gì? như thế nào? cho ai? - Vai trò của kinh tế thị trường?Kinh tế thị trường giúp nhân loại giải quyết 3 vấn đề cơ bản trong nền kinh tế một cách có hiệu quả +Sản xuất cái gì? Không phải do thượng đế, một tổ chức mệnh lệnh và cũng không phải do người sản xuất quyết định, mà do người tiêu dùng thông qua việc bỏ đồng tiền để lựa chọn: Họ thích hàng hoá này chứ không phải hàng hoá kia, họ cần số lượng này chứ không phải số lượng khác, chấp nhận mức giá này chứ không phải mức giá khác. Thông qua việc bỏ phiếu bằng đồng tiền để chọn cho mình những thứ hàng hoá hợp sở thích, thị hiếu, nhu cầu, về chủng loại, số lượng, mẫu mã. ở đây tính dân chủ tự do thực sự được thể hiện rõ nét. +Sản xuất như thế nào? Vấn đề này được giải quyết thông qua cạnh trạnh và chủ yếu là do cạnh tranh quyết định. Muốn đứng vững và chiến thắng trong cạnh tranh, người sản xuất phải lựa chọn kĩ thuật và công nghệ tối ưu. Cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong ngành hình thành nên lợi nhuận siêu ngạch cho người sản xuất. Động lực hấp dẫn này thúc đẩy họ luôn đổi mới kĩ thuật, phấn đấu đưa năng suất lao động cá biệt lên cao hơn năng suất lao động xã hội. Hơn nữa, cạnh tranh còn là cơ chế sàng lọc, bình tuyển những kiểu sản xuất tân tiến, loại bỏ những cơ chế sản xuất cũ kĩ lạc hậu. Vì thế cạnh tranh là linh hồn của đời sống kinh tế trong nền kinh tế thị trường. +Sản xuất cho ai? Như ta đã biết mục đích của sản xuất hàng hoá là để bán, để chuyển H thành T, làm cho sản xuất tái diễn. Do vậy để trả lời câu hỏi “Sản xuất cho ai” chỉ có thể là sản xuất cho người có tiền. Trong phân phối, động lực vì đồng tiền để làm giàu trở thành một sức mạnh thật sự thúc đẩy con người trong các hoạt động kinh tế của họ. Tất nhiên sự phân phối trong kinh tế thị trường không tránh khỏi một số mặt trái về hậu quả xã hội. -Đặc điểm chung của cơ chế thị trường +Ưu điểm: Trước hết nó kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ, lấy lợi nhuận siêu ngạch làm động lực hoạt động nên đòi hỏi các doanh nghiệp thường xuyên phải hạ thấp chi phí lao động cá biệt xuống thấp hơn chi phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó mà động viên được các nguồn lực của xã hội và sử dụng tiết kiệm các nguồn lực đó, thúc đẩy việc áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, tăng năng suất lao động, nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất. * Hai là cơ chế thị trường có tính năng động và khả năng thích nghi nhanh chóng khi những điều kiện kinh tế thay đổi, làm thích ứng kịp thời khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu của nhu cầu. Lí do là vì trong kinh tế thị trường tồn tại một nguyên tắc ai đưa ra thị trường một loại hàng hoá mới và sớm nhất sẽ thu được lợi nhiều nhất. * Ba là trong nền kinh tế thị trường hàng hoá rất phong phú và đa dạng, do vậy tạo điều kiện thuận lợi cho việc thoả mãn ngày càng tốt hơn những nhu cầu vật chất, văn hoá và sự phát triển toàn diện của mọi thành viên xã hội. Những việc này nếu để Nhà nước tự làm thì sẽ phải thực hiện một khối lượng công việc khổng lổ, có khi còn không thực hiện được và đòi hỏi chi phí cao trong việc ra các quyết định. +Nhược diểm: Bên cạnh những ưu điểm kể trên, kinh tế thị trường còn có hàng loạt các khuyết tật, trước hết là sự phát triển không ổn định của nền kinh tế, điều đó xuất phát từ tính tự phát của cơ chế kinh tế thị trường. Những cân đối lớn trong nền kinh tế được xác lập thông qua hàng loạt những dao động. Do đó cứ sau một thời kì phồn thịnh lại đến thời kì trì trệ, suy thoái, khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát...là những hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường. Những hiện tượng kể trên ảnh hưởng tiêu cực tới các mặt đời sống kinh tế xã hội. * Thứ hai, đó là sự xuất hiện độc quyền trong nền kinh tế. Độc quyền vi phạm các điều kiện hiệu quả Pareto, điều đó làm tổn hại tới lợi ích của người tiêu dùng và của xã hội. * Thứ ba, các ngoại ứng. Ngoại ứng tồn tại khi việc sản xuất hoặc tiêu dùng một mặt hàng trực tiếp làm ảnh hưởng tới các doanh nghiệp hoặc người tiêu dùng không can dự đến việc mua hoặc bán hàng hóa đó, nhưng không được phản ánh đầy đủ trong giá cả thị trường. Ngoại ứng dù tích cực hay tiêu cực khi không được phản ánh trong giá cả thị trường sẽ làm cho mức sản lượng không phải là tối ưu và do đó làm thiệt hại tới lợi ích xã hội. * Thứ tư, hàng hoá công cộng. Đây là hàng hoá mà sự tiêu dùng của một người không ảnh hưởng đến sự tiêu dùng của ngưởi khác như: đường cao tốc, quốc phòng, an ninh...hàng hoá công cộng hết sức cần thiết nhưng các cá nhân, hộ gia đình, các doanh nghiệp không ai chịu bỏ tiền ra để sản xuất. * Thứ năm, phân phối thu nhập. Do sự tác động của các quy luật kinh tế thị trường, sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, sự phân hoá giàu nghèo là hiện tượng không tránh khỏi. Những điều đó có thể dẫn đến mâu thuẫn, thậm chí xung đột trong xã hội. Điều này sẽ trở thành những nhân tố cản trở quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. * Thứ sáu, vấn để thông tin. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp cần rất nhiều thông tin khác nhau. Trong khi đó, khả năng của từng doanh nghiệp trong việc thu nhập và xử lý thông tin rất hạn chế. Mỗi doanh nghiệp không thể tự giải quyết được nhu cầu về thông tin của chính mình. * Thứ bảy, mục đích của doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, do đo họ có thể lạm dụng tài nguyên xã hội, có thể gây ra ô nhiễm nguồn nước, không khí... * Thứ tám, khủng hoảng sản xuất thừa là căn bệnh cố hữu của các nền kinh tế thị trường phát triển. ở đây, do mức cung hàng hoá vượt quá mức cầu có khả năng thanh toán nên dẫn tới tình trạng “ dư thừa hàng hoá” Nguyên nhân của tình trạng trên là do mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn này được thể hiện trên tính kế hoạch cao độ ở từng doanh nghiệp với tính vô chính phủ trên toàn bộ nền sản xuất xã hội. Xu hướng mở rộng sản xuất vô hạn độ mâu thuẫn với sức mua có hạn của quần chúng. Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Do những khuyết tật đó mà xã hội thường xuyên phải có sự kiểm tra, điều tiết, định hướng một cách có ý thức đối với sự vận động của cơ chế thị trường, đó là lí do cần thiết phải thiết lập vai trò quản lí của Nhà nước ở tất cả các nước có nền kinh tế thị trường. ở nước ta sự quản lí của Nhà nước nhằm hướng tới sự ổn định về kinh tế xã hội, sự công bằng và hiệu quả cũng như làm cho nền kinh tế ngày càng tăng trưởng và phát triển với tốc độ cao. b)Sự vận dụng vào Việt Nam Cùng với tiến trình phát triển chung của thế giới, nền kinh tế Việt Nam cũng đi lên phát triển một nền kinh tế thị trường nhưng mang bản săc riêng của Việt Nam-nền kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa- đó là nền kinh tế vận động theo cơ chế hỗn hợp và được định hướng bởi lý tưởng của chủ nghĩa xã hội. Đây là vấn đề hết sức mới mẻ và tất nhiên định nghĩa này đòi hỏi phải loại trừ thành kiến"Thị trường là chủ nghĩa tư bản","kế hoạch là chủ nghĩa xã hội" và các quan điểm cùng loại. Để hiểu rõ về nền kinh tế thị trường của Việt Nam ta cần làm rõ một số vấn đề sau: *Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa? Khi chuyển sang kinh tế thị trường chúng ta đứng trước một thực trạng là đất nước đã và đang từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội còn rất thấp. Đất nước lại trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều, lại chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp - Kinh tế hàng hoá còn kém phát triển, nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cấp tự túc: + Trình độ cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ sản xuất còn thấp kém + Hệ thống kết cấu hạ tầng, dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội chưa đủ để phát triển kinh tế thị trường ở trong nước và chưa đủ khả năng để mở rộng giao lưu với thị trường quốc tế. + Cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả, còn mang nặng đặc trưng của một cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Hiện tượng độc canh cây lúa vẫn còn tồn tại, ngành nghề chưa phát triển. Từ Đại hội lần thứ VI của Đảng cho đến nay tuy cơ cấu ngành và cơ cấu thành phần kinh tế đã có nhiều thay đổi nhưng vẫn chưa thành được một cơ cấu mới hợp lí + Chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của nước ta đã được hình thành và đang phát triển vì vậy thị trường ở nước ta cũng đang được hình thành và phát triển. Tuy nhiên thị trường ở nước ta còn ở trình độ thấp, tính chất của nó còn hoang sơ, dung lượng còn thiếu và có phần rối loạn, chúng ta mới từng bước có thị trường hàng hoá nói chung. Về cơ bản nước ta còn chưa có thị trường sức lao động. Chúng ta cũng chưa có thị trường tiền tệ và thị trường tiền vốn, hoặc mới có thị trường này ở khu vực ngoài quốc doanh với quan hệ vay, trả, mua, bán còn thô sơ. Khu vực kinh tế Nhà nước vẫn sử dụng lãi suất, tỉ giá và quan hệ tài chính tiền tệ do Nhà nước quy định. Chưa có lãi suất, tỉ giá và tín dụng thực sự theo cơ chế thị trường. Thực trạng trên đây của nước ta là hậu quả của nhiều nguyên nhân khác nhau. Về mặt khách quan đó là do trình độ phát triển của phân công lao động xã hội còn thấp. Nền kinh tế còn mang nặng tính tự cấp tự túc. Về mặt chủ quan là do nhận thức chưa đúng đắn về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, do sự phân biệt duy ý chí giữa thị trường có tổ chức và thị trường tư do. Một thời gian khá dài đã tồn tại quan niệm cho rằng những tư liệu sản xuất lưu chuyển trong nội bộ các xí nghiệp quốc doanh là những hàng hoá đặc biệt, nó không được mua bán tự do vì chúng có vai trò đặc biệt quan trọng. Nếu chúng rơi vào tay tư nhân nó sẽ trở thành những phương tiện nô dịch lao động của người khác. Sức lao động tiền vốn cũng được quan niệm không phải là hàng hoá...Mặt khác do quản lí theo chiều dọc- theo chức năng kinh doanh của từng ngành một cách máy móc cho nên đã dẫn tới hiện tượng cửa quyền, cắt đứt mối liên hệ tự nhiên giữa các ngành. + Năng suất lao động và thu nhập quốc dân tính theo đầu người còn thấp Do trình độ cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ còn thấp, kết cấu hạ tầng dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội còn kém, cơ cấu kinh tế còn mất cân đối, thị trường trong nước còn chưa phát triển...cho nên năng suất lao động xã hội và thu nhập bình quân tính theo đầu người ở nước ta tất yếu vẫn còn rất thấp. Tình hình này được phản ánh qua các số liệu sau Theo giá hiện hành( tỷ đồng) 1988 1989 1990 1991 1992 GNP 13,266 2,308 38,167 69,959 101,87 Tổng đầu tư (I) 1,906 2,817 4,796 - - Tiêu dùng (C) 13,291 24,358 38,177 66,61 94,883 Tiết kiệm (S) -25 -50 -10 3,349 6,987 Qua số liệu trên đây ta thấy: do năng suất lao động còn thấp nên mức tiêu dùng xã hội từ năm 1988 đến năm 1990 đều lớn hơn mức GDP hàng năm, do vậy không có tích luỹ nội bộ từ nền kinh tế trong nước, tiết kiệm đều là số âm. Theo số liệu thống kê của Ngân hàng thế giới năm 1991 thì thu nhập quốc dân theo đầu người của nước ta so với các nước đang phát triển ở Châu á thì vào loại thấp nhất Việt Nam: 200USD/người, trong khi GDP/người năm 1990 của Trung Quốc là 370USD, Indonexia là 570USD, ấn Độ là 350USD, Philippin là 730USD, Thái Lan là 1420USD, Malaixia là 2320USD, Nam Triều Tiên là 5400USD - ảnh hưởng của mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp Do nhận thức chủ quan duy ý chí về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa mà trong nhiều thập kỉ qua ở nước ta đã tồn tại mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực tiễn hoạt động kinh tế đã chứng minh mô hình này có nhiều nhược điểm cũng như những tác động tiêu cực của nó đến nền kinh tế nước ta, nó gần như đối lập với nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường. *Thực chất của quá trình chuyển nền kinh tế Việt Nam sang kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Lịch sử đã chứng minh rằng không thể chuyển nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn nếu thiếu " đòn xeo" là kinh tế hàng hoá. Chính Mac đã coi sự phát triển của kinh tế hàng hoá là xuất phát điểm và là điều kiện quan trọng nhất không thể thiếu được đối với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa. Nội chiến kết thúc, Lenin cũng chủ trương thi hành chính sách kinh tế mới (NEP). Về thực chất đó là sự phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhằm khơi dậy sự sống động cuả nền kinh tế, mở rộng giao lưu hàng hoá giữa thành thị và nông thôn, thực hiện các quan hệ kinh tế bằng hình thức quan hệ hàng hoá tiền tệ trên thị trường. - Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta có sự khác biệt với các nước Đông Âu và Liên Xô (cũ), những nước này đã có nền kinh tế phát triển, nền kinh tế đã được cơ khí hoá, không có tính tự nhiên tự cấp tự túc như nước ta, vì vậy quá trình hình thành nền kinh tế thị trường nước ta trước hết là quá trình chuyển nền kinh tế còn mang nặng tính tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Mặt khác, nền kinh tế nước ta cũng đã tồn tại mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, cơ chế này đã được phân tích ở phần trên, nó gần như đối lập với thị trường cũng như cơ chế thị trường. Thị trường được coi là trung tâm của quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội, vì vậy quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường còn là quá trình xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. - Quá trình chuyển nền kinh tế nước ta đồng thời cũng là quá trình thực hiện nền kinh tế mở, nhằm hoà nhập thị trường trong nước với thị trường thế giới. Sự xuất hiện và phát triển của sản xuất hàng hoá đã phá vỡ các quan hệ kinh tế truyền thống của nền kinh tế khép kín. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã khẳng định: kinh tế hàng hoá đã làm cho thị trường dân tộc gắn bó và hoà nhập với thị trường thế giới. Chính giao lưu hàng hoá đã làm cho các quan hệ kinh tế được mở rộng khỏi phạm vi quốc gia, đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh chóng. Kinh tế mở là đặc điểm và là xu thế của thời đại ngày nay mà bất kì quốc gia nào cũng phải coi trọng. Trong điều kiện nước ta, bài học về sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong cuộc đấu tranh giành độc lập tự do trước đây một lần nữa lại sống động trong công cuộc phát triển đất nước với bối cảnh và điều kiện mới. Trong quan hệ kinh tế quốc tế chúng ta đã có nhiều đổi mới quan trọng, đã chuyển từ đơn phương sang đa phương, quan hệ với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị, theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Trong những năm gần đây, thực hiện quan điểm về kinh tế đối ngoại nói trên, hoạt động kinh tế quốc tế nước ta đã có những tiến bộ lớn. Xuất khẩu hàng hoá tăng nhanh với nhịp độ trên dước 20% hàng năm (1986-1992), bảo đảm nhập khẩu các loại vật tư và công nghệ chủ yếu, cải thiện dần cán cân thanh toán quốc tế. Chúng ta đã nhanh chóng điều chỉnh và khắc phục được những hẫng hụt về nguồn vốn và thị trường từ các nước SNG và Đông Âu. Hàng hoá của nước ta tìm được những thị trường mới như Đông Nam á, Tây Âu. Nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam cũng tăng nhanh. *Các giai đoạn và các biện pháp hình thành cơ chế quản lí mới Quắ trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một quá trình phức tạp, có nhiều khó khăn, không nên quan niệm đơn giản và nóng vội, cần phải tuân thủ những tính quy luật của quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường, quá trình đó trải qua những giai đoạn sau đây: -Giai đoạn quá độ chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Về mặt lịch sử giai đoạn này bắt đầu từ năm 1979 với mốc lịch sử quan trọng là Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ VI (khoá IV) tháng 9 năm 1979. Về mặt logic, giai đoạn này bắt đầu từ việc hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất hàng hoá theo đúng nghĩa nhằm tạo ra những mối quan hệ vừa tự chủ, vừa lệ thuộc lẫn nhau giữa các chủ thể sản xuất. Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là khắc phục tính hiện vật của quan hệ trao đổi, hình thành quan hệ hàng hoá tiền tệ trên thị trường. Nội dung trên được thực hiện với những giải pháp chủ yếu sau đây: + Một là hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất hàng hoá nhằm chuyển quan hệ trao đổi có tính hiện vật sang quan hệ hàng hoá tiền tệ. + Hai là đẩy mạnh phân công lao động xã hội nhằm mở rộng thị trường. + Ba là chuyển quan hệ sở hữu có tính đơn nhất sang quan hệ sở hữu có tính đa dạng vớinhiều hình thức sở hữu khác nhau để khắc phục hiện tượng vô chủ, lãi giả, lỗ thật trong các doanh nghiệp Nhà nước, để tạo ra sự tự do kinh tế và hình thành nhiều nhà kinh doanh giỏi thích ứng với cơ chế thị trường. Trong điều kiện của nước ta, chúng ta đã điều chỉnh cơ cấu sở hữu theo những bước sau đây: Phát huy hình thức kinh tế hộ nông dân, thợ thủ công, xây dựng khu vực kinh tế công cộng với chức năng là bảo đảm sự ổn định và là cơ sở cho sự phát triển các thành phần kinh tế, hình thành và phát triển các công ty cổ phần. + Bốn là, đổi mới chính sách kinh tế nhằm chuyển các quan hệ kinh tế theo chiều dọc sang chiều ngang, từng bước đã thực hiện tự do hoá giá cả. Thực chất là thay thế cơ chế hai giá bằng cơ chế một giá, nhằm từ bỏ cơ chế cũ, chuyển sang cơ chế thị trường, đây là khâu quan trọng tạo tiền đề cho việc đổi mới cơ chế trong các lĩnh vực khác như tài chính, tiền tệ, tiền lương, quản lí thị trường. Việc tự do hoá giá cả đã làm cho sản xuất thích ứng nhạy cảm với nhu cầu của thị trường và đem lại sức sống mới cho sản xuất. - Giai đoạn phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã đặt nền móng vững chắc cho quan điểm phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, quan niệm này được tái khẳng định rõ hơn ở Đại hội lần thứ VII và lần thứ VIII của Đảng ta. Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là phát triển và mở rộng quan hệ hàng hoá tiền tệ tạo tiền đề cho kinh tế hàng hoá phát triển. Để thực hiện nội dung đó, chúng ta đã và đang thực hiện những giải pháp chủ yếu sau: + Một là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng phải đảm bảo nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tăng trưởng và phát triển, bảo đảm sự ổn định của nền kinh tế quốc dân cũng như về các mặt chính trị- xã hội, bảo đảm sự công bằng xã hội và sự vững bền của môi trường, bảo đảm sự phát triển, tăng trưởng đồng bộ và cân đối, tạo điều kiện thúc đẩy những ngành mũi nhọn nhằm tạo ra sự tích luỹ nội bộ từ trong nền kinh tế. + Hai là chủ động tạo điều kiện cần thiết để xây dựng đồng bộ các yếu tố của thị trường, phát huy những ưu thế và động lực của thị trường, đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. + Ba là, hoàn chỉnh và tăng cường vận dụng các chính sách tài chính và tiền tệ nhằm tạo nguồn vốn và tạo ra và thực hiện việc đầu tư vốn theo mục tiêu phát triển, phân phối, phân phối lại thu nhập quốc dân tạo ra sự ổn định về giá cả, về tiền tệ và tỷ giá hối đoái, qua đó tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển sản xuất hàng hoá phù hợp với cơ chế thị trường + Bốn là đào tạo cán bộ quản lí kinh doanh theo yêu cầu của kinh tế thị trường. Chúng ta đã kết hợp giữa việc mở rộng quy mô đào tạo để nâng cao dân trí với việc coi trọng chất lượng nhằm đào tạo nhân tài.Việc đào tạo cán bộ quản lí kinh doanh không chỉ chú ý đáp ứng nhu cầu của khu vực kinh tế Nhà nước mà còn phải quan tâm tới khu vực ngoài quốc doanh cũng như khu vực kinh tế nông thôn và miền núi. + Năm là, tăng cường vai trò quản lí của Nhà nước để phát huy những ưu thế và khắc phục những của khuyết tật của cơ chế thị trường. - Giai đoạn hình thành và phát triển cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nội dung chủ yếu của giai đoạn 3 là tiền tệ hoá các quan hệ kinh tế, tạo lập cơ sở kinh tế cho các quy luật kinh tế của kinh tế thị trường, phát huy tác dụng một cách đầy đủ, phát triển kinh tế trong nước và hoà nhập với kinh tế thế giới. Nội dung trên được thực hiện với những giải pháp then chốt sau: + Một là phát triển cơ cấu kinh tế mở nhằm hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân, đây là giải pháp có tính thời đại. + Hai là hoàn thiện và phát triển kinh tế thị trường các yếu tố sản xuất nhằm đáp ứng các nhu cầu về vốn, sức lao động và các điều kiện vật chất khác cho sản xuất. + Ba là thiết lập cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước, cần tiếp tục thực hiện tự do hoá giá cả và thương mại hoá giá cả trong nền kinh tế, tăng cường năng lực quản lí của Nhà nước đối với cơ chế thị trường, đây là giải pháp có ý nghĩa gần như quyết định đối với sự hình thành và phát triển của kinh tế thị trường nước ta. + Bốn là lựa chọn chính sách khoa học, công nghệ vì mục tiêu phát triển. Hướng công nghệ được lựa chọn ở tầm quốc gia là cộng nghệ điện tử, tin học, công nghệ sinh học, gia công nguyên liệu...hướng công nghệ này sẽ khắc phục được sự khan hiếm các nguồn lực và đưa nền kinh tế phát triển theo chiều sâu, trong đó lao động trí tuệ trở thành đặc trưng nổi bật. III- Sự cần thiết tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước ở Việt Nam 1- Nội dung( đặc trưng) của cơ chế quản lí mới Ngoài những dặc trưng chung của một nền kinh tế thị trường là - Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh tế tự bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh của mình, được tự do liên doanh, liên kết, tự do tổ chức quá trình sản xuất theo luật định, đây là đặc trưng rất quan trọng của kinh tế thị trường, nó xuất phát từ những điều kiện khách quan của việc tồn tại kinh tế hàng hoá đồng thời cũng là biểu hiện và là yêu cầu nội tại của kinh tế hàng hoá. - Trên thị trường hàng hoá rất phong phú, người ta tự do mua bán hàng hoá. Trong đó, người mua chọn người bán, người bán tìm người mua, họ gặp nhau ở giá cả thị trường, đặc trưng này phản ánh tính ưu việt hơn hẳn của kinh tế thị trường so với kinh tế tự nhiên. - Giá cả được hình thành ngay trên thị trường, giá cả thị trường vừa là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường, vừa chịu sự tác động của quan hệ cạnh tranh và quan hệ cung cầu hàng hoá dịch vụ. - Cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thị trường, nó tồn tại trên cơ sở những đơn vị sản xuất hàng hoá độc lập và khác nhau về lợi ích kinh tế. - Kinh tế thị trường là một hệ thống kinh tế mở, một mặt nó phát huy được lợi thế so sánh của nền kinh tế, mặt khác tạo điều kiện tiếp thu những thành tựu mới của khoa học kĩ thuật-công nghệ thế giới. Nó rất đa dạng, phức tạp và được điều hành bởi hệ thống tiền tệ và hệ thống luật pháp của Nhà nước. Ngoài ra thị trong cơ chế quản lí kinh tế mới của nước ta còn có những đặc trưng riêng sau: - Hai mặt kinh tế và thị trường nước ta được chủ động kết hợp với nhau ngay từ đầu trên cả tầm quản lí kinh tế vĩ mô và vi mô thông qua pháp luật. Nếu ở tầm vi mô, các chủ doanh nghiệp lấy lợi nhuận làm mục tiêu xác định hiệu quả của sản xuất kinh doanh thì ở tầm vĩ mô, Nhà nước dùng hiệu quả kinh tế xã hội làm mục tiêu quản lí nhằm thực hiện tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Vấn đề dân chủ và công bằng xã hội ở đây được hiểu theo nghiã những đơn vị và cá nhân trong xã hội được làm những gì mà pháp luật không cấm, được tự do sản xuất và kinh doanh, được hưởng những thành quả lao động của mình và được thừa kế tài sản theo luật định. - Cùng với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, môi trường sinh thái của đất nước được chủ động bảo vệ qua các dự án đầu tư môi sinh và qua việc chấp hành một cách đúng đắn luật pháp, chính sách môi trường của Nhà nước qua từng thời kì. - Nền kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nứơc theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường có trình độ phát triển cao. Nếu như nền kinh tế trì trệ, kém phát triển, tổng sản phẩm và thu nhập quốc dân thấp kém dẫn tới mức thu nhập bình quân của dân cư còn thấp, không có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế thì không thể gọi là định hướng xã hội chủ nghĩa được, đành rằng chỉ có nội dung này thì chưa đủ bởi vì nhiều nước đã có nền kinh tế phát triển cao nhưng đó lại không phải là nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa. - Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lí nền kinh tế thị trường dựa trên mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Trong thời kì đầu chuyển sang kinh tế thị trường Nhà nứơc ta thực hiện vai trò "bà đỡ " tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế thị trường phát triển đúng hướng, vai trò đó được thể hiện bằng hệ thống pháp luật, bảo vệ quyền tự do dân chủ, công bằng xã hội và mở rộng phúc lợi xã hội cho nhân dân. - Nền kinh tế đang ở trong quá trình chuyển biến từ một nền kinh tế mang nặng tính tự cấp tự túc sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, do đó về cơ bản nền kinh tế còn thiếu đồng bộ, mang nhiều yếu tố tự phát rối loạn, vẫn mang tính chất sản xuất nhỏ, kỹ thuật thủ công, năng suất lao động thấp, mức sống, mức thu nhập của dân cư còn thấp. Đội ngũ những nhà sản xuất kinh doanh còn rất non trẻ, tình trạng quan liêu, thiếu hiểu biết, thậm chí trì trệ bảo thủ trước bước ngoặt chuyển đổi kinh tế. Dấu ấn của cơ chế kinh tế bao cấp còn ảnh hưởng xấu tới các hoạt động kinh tế. Do vậy chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là lấy tự do hoá thương mại và tự do hoá giá cả là khâu trung tâm đột phá, từng bước tiến tới cơ chế thị trường đích thực. - Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần( kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước và mới đây nhất tại Đại hội IX của Đảng ta đã xác định thêm một thành phần kinh tế nữa là kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài) Để có thể định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế Nhà nước phải phát huy được vai trò chủ đạo, nó cùng với kinh tế hợp tác là nền tảng của nền kinh tế. Ngoài ra Nhà nước đầu tư phát triển các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế khác nhằm tạo nhiều công ăn việc làm cho dân cư và góp phần tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Các thành phần kinh tế được phát triển một cách bình đẳng với nhau. - Cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nứơc trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề hoàn toàn mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử và hoàn toàn chưa có một mô hình vạch sẵn. Do vậy, không thể ngay từ đầu hình dung toàn bộ các chi tiết của mô hình thị trường cũng như không thể vạch ngay được một lịch trình cứng nhắc của bước chuyển mà phải vừa thực hiện cơ chế thị trường. Việc chuyển từng bước sang cơ chế thị trường cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và các điều kiện chính trị kinh tế xã hội nước ta, không áp dụng các liệu pháp sốc vừa là đặc điểm, vừa là quan điểm quan trọng của quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế. Mặt khác chúng ta không phủ định sạch trơn những kết quả đạt được của mô hình kinh tế cũ. - Chúng ta chủ trương chuyển sang cơ chế thị trường trên cơ sở ổn định chính trị, lấy ổn định chính trị làm tiền đề và điều kiện cho cải cách kinh tế. Mặt khác cũng nhận thức rõ phải đổi mới mạnh mẽ trong lĩnh vực hành chính, trên cơ sở đổi mới quản lí của Nhà nước, nâng cao chất lượng, hiệu quả của quản lí của nó cho phù hợp với điều kiện kinh tế. Ngay từ đầu chúng ta đã khẳng định định hướng xã hội chủ nghĩa là không thay đổi, tuy nhiên đã có những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội, khẳng định chủ nghĩa xã hội có thể sử dụng những công cụ phổ biến mà chủ nghĩa tư bản đã từng sử dụng như thị trường, các quan hệ hàng hoá- tiền tệ, quy luật giá trị cho mục tiêu của mình. Đảng ta cũng khẳng định nền kinh tế hoạt động theo đường hướng đổi mới, tiến tới một Nhà nước pháp quyền là một nhân tố quan trọng bảo đảm thành công của cải cách, khẳng định vai trò Nhà nước trong việc đảm bảo các chính sách xã hội, xử lí hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và cân bằng, ổn định, giữa phát triển kinh tế và thực hiện các chính sách xã hội và công bằng xã hội. Điều đó nói lên tầm quan trọng đặc biệt của Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong hoạt động của thị trường nước ta. 2.Vai trò kinh tế của Nhà nước trong cơ chế quản lí mới - ở nước ta xuất phát từ tính đa dạng của sở hữu và của nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần hơn nữa xu hướng vận động và phát triển của nó không tự phát đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa mà lại đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các thành phần kinh tế không phân biệt đối xử nhưng không phải vì thế mà vai trò của chúng giống nhau. Để đưa nền kinh tế vận động theo đúng cơ chế quản lí mới thì kinh tế Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, ngoài yêu cầu của việc đảm bảo nền kinh tế đi đúng hướng đã định mà còn do thành phần kinh tế này gắn với hình thức sở hữu cao nhất và chín muồi nhất trong các hình thức sở hữu. Hơn nữa nó còn dựa trên một trình độ lực lượng sản xuất phát triển cao, trình độ quản lí và trình độ phân phối sản phẩm gần với mục tiêu chủ nghĩa xã hội của thời kì quá độ. Điều này được thể hiện thông qua việc các doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ những nghành, lĩnh vực chủ yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, hệ thống tài chính, ngân sách, bảo hiểm, những cơ sở thương mại, dịch vụ... quan trọng. - Kinh tế Nhà nước đã và đang trở thành đòn bẩy, đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội, mở đường, hướng dẫn các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lĩ vĩ mô nền kinh tế. -Nhà nước đóng vai trò"bà đỡ" cho sự ra đời của cơ chế thị trường, hướng dẫn các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế kinh doanh có hiệu quả, xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trong phân phối sử dụng sản phẩm. - Nhà nước phát triển thị trường nước ngoài, đẩy mạnh hoạt động ngoại thương. - Nhà nước đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định, tránh thăng trầm và đột biến xấu. - Nhà nước đảm bảo hiệu quả kinh tế- xã hội. Mỗi doanh nghiệp trong khi theo đuổi lợi ích tối đa của minh có thể làm tổn hại đến lợi ích của xã hội, vì vậy Nhà nước phải giải quyết những vấn đề đó. - Nhà nước đảm bảo thực hiện những mục tiêu xã hội. Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến những hậu quả tiêu cực về mặt xã hội, chẳng hạn như nghèo đói, thất nghiệp...thông qua chính sách phân phối thu nhập quốc dân Nhà nước giải quyết những vấn đề đó. - Nhà nước sử dụng quyền lực kinh tế chính trị của mình để tiếp tục quá trình tự do hoá giá cả, thương mại hoá nền kinh tế (như tạo ra các đạo luật chống độc quyền, tạo điều kiện cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, tạo ra các điều kiện, các tiền đề kinh tế pháp lí cho sự hoạt động của các thị trường cần thiết như thị trường vốn, lao động, chứng khoán...) - Nhà nước là người đảm nhận vai trò thiết lập và duy trì quyền sở hữu các nguồn lực kinh tế theo hướng xác định rõ chủ sở hữu đích thực của công dân, của doanh nghiệp tư nhân, tập thể, Nhà nước (giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân, cho thuê hoặc đấu thầu các tài sản sản xuất, cho nước ngoài thuê đất và các tài sản phục vụ sản xuất kinh doanh). 2.1) Mục tiêu và các chức năng quản lí vĩ mô của Nhà nước a)Mục tiêu - Thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hay còn sơ khai như: thị trường lao động, chứng khoán, bất động sản, khoa học công nghệ. Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ, phát huy vai trò nòng cốt, định hướng và điều tiết của kinh tế Nhà nước trên thị trường. Mở rộng thêm thị trường ở nước ngoài. Xoá bỏ độc quyền kinh doanh của các doanh nghiệp. Mở rộng thị trường lao động trong nước có sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước, bảo vệ lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động, đẩy mạnh xuất khẩu lao động có tổ chức và có hiệu quả. Khẩn trương tổ chức thị trường khoa học công nghệ và thực hiện tốt bảo hộ sở hữu trí tuệ, đẩy mạnh phát triển các dịch vụ về thông tin, chuyển giao công nghệ. Phát triển nhanh thị trường vốn, nhất là thị trường vốn dài hạn và trung hạn. Tổ chức và vận chuyển thị trường chứng khoán an toàn, hiệu quả. Hình thành đồng bộ thị trường tiền tệ, tăng khả năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam. Chủ động tổ chức, phát triển thị trường bất dộng sản. - Trong 5 năm tới hình thành tương đối đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục những yếu kém hiện nay, gỡ bỏ những vướng mắc cản trở sự phát triển. Đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế, tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi tiêu cực, lãng phí, tham nhũng, gây phiền hà. Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển. - Phát triển mạnh kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng tăng tỉ trọng trong công nghiệp và dịch vụ, tăng nhanh hàm lượng công nghệ trong sản phẩm. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, củng cố thị trường đã có và mở rộng thêm thị trường mới, tạo điều kiện thuận lợi để tăng nhanh xuất khẩu, thu hút vốn, công nghệ, chủ động hội nhập có hiệu quả, thực hiện cam kết song phương và đa phương. - Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế. Cụ thể là đổi mới hơn nữa công tác kế hoạch hoá, kết hợp thị trường với kế hoạch, nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, tăng cường công tác thông tin kinh tế xã hội trong nước và quốc tế, công tác thống kê, ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học kĩ thuật trong công tác dự báo, kiểm tra tình hình thực hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh nghiệp. Bảo đảm tính minh bạch, công bằng trong chi ngân sách Nhà nước, phân cấp mạnh đi đôi với tăng cường trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc thu chi ngân sách địa phương. Xây dựng hệ thống ngân hàng thương mại Nhà nứơc thành những doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ có uy tín, đủ sức cạnh tranh trên thị trường, xoá bỏ sự can thiệp hành chính của cơ quan Nhà nước với hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại, từng bước thực hiện tự do lãi suất, hình thành thị trường tiền tệ theo quan hệ cung cầu, nâng cao năng lực giám sát của Ngân hàng Nhà nước. Thực hiện tỉ giá linh hoạt theo cung cầu ngoại tệ, từng bước thực hiện tự do hoá tỉ giá hối đoái trong sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. - Đảm bảo tăng trưởng ổn định, gắn liền với việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực kinh tế, tránh không gây ô nhiễm môi trường, ngăn chặn các cuộc khủng hoảng, suy thoái, duy trì lạm phát ở mức một con số, chỉ số giá dưới 10%, tạo công ăn việc làm, giảm hiện tượng phân hoá giàu nghèo. Cải thiện cán cân xuất nhập khẩu, tăng khả năng xuất khẩu những mặt hàng đã qua chế biến, giảm nhập khẩu những mặt hàng có thể sản xuất trong nước. Trong Đại hội Đảng lần thứ IX vừa qua đã đưa ra mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001-2010 là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trang bị và trang bị lại kỹ thuật, công nghệ tiên tiến cho các ngành nông nghiệp, công nghiêp, dịch vụ, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, từng bước đưa đất nước ra khỏi tình trạng nghèo nàn và chậm phát triển, từng bước xây dựng nền tảng để trở thành một nước công nghiệp. - Kế hoạch 5 năm tới 2001-2005 là bước quan trọng thực hiện chiến lược trên với một số chỉ tiêu cơ bản: GDP 7%/năm, sản lượng lương thực dự kiến năm 2005 là 37-38 triệu tấn, tốc độ xuất khẩu hàng hoá đạt trung bình 15%/năm, nhập khẩu 13-14%/năm, tạo việc làm cho 1,4-1,5 triệu người/năm. Cụ thể năm 2001 phấn đấu đạt GDP là 7,5%, xuất khẩu tăng 15-16%. b) Các chức năng Vai trò kinh tế của Nhà nước được thực hiện qua các chức năng chủ yếu sau - Định hướng và chỉ đạo sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân qua các dự báo, các chiến lược kinh tế xã hội, các kế hoạch trung hạn, ngắn hạn và các chính sách nhằm định hướng cho việc bố trí cơ cấu kinh tế, phân bổ các nguồn lực...nhằm hướng các hoạt động của các chủ thể trên thị trường vào thực hiện các mục tiêu của Nhà nước. - Tạo môi trường kinh tế xã hội và khuôn khổ pháp lí cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước phải xây dựng hệ thống pháp luật và các cơ quan thi hành pháp luật đủ mạnh để bảo vệ lợi ích chính đáng cho các doanh nghiệp và các chủ thể khác, phải phát triển hệ thống giáo dục đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng ngày càng cao đáp ứng yêu dầu về nhân lực của quá trình tăng trưởng, phát triển hệ thông y tế nhằm bảo vệ sức khoẻ và nâng cao thể lực cho người lao động... - Phát huy mặt tích cực của kinh tế thị trường: năng động, duy trì động lực mạnh mẽ để cải tiến kĩ thuật, phát triển lực lượng sản xuất... bằng cách duy trì và phát triển các quan hệ thị trường, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh... đồng thời ngăn ngừa mặt tiêu cực, khắc phục các khuyết tật thị trường (cạnh tranh không lành mạnh, khủng hoảng, thất nghiệp...) - Điều tiết lợi ích giữa các thành phần kinh tế, thực hiện công bằng xã hội. Thông qua các chính sách tài khoá Nhà nước hoàn toàn có khả năng điều tiết được lợi ích giữa các thành phần kinh tế, hạn chế bất bình đẳng xã hội, đẩy nhanh quá trình tăng trưởng... - Quản lí kinh tế trực tiếp, chức năng này liên quan tới vai trò đặc biệt của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, với tư cách là một trung tâm kinh tế của đất nước, Nhà nước phải hoạch định kế hoạch bảo đảm sự phát triển của nền kinh tế quốc dân như một tổng thể nhằm phục vụ lợi ích, nâng cao phúc lợi và sự phát triển toàn diện của các thành viên xã hội, thể hiện ưu thế quan diểm kinh tế quốc dân trong sự phát triển mọi đơn vị sản xuất của nền sản xuất xã hội. Quản lí kinh tế trực tiếp là Nhà nước phải quan tâm giải quyết các mối quan hệ giữa người với người trong quá trình chiếm hữu và tái tạo tự nhiên phụ vụ cho nhu câu xã hội trong một tổng thể thống nhất vì lợi ích xã hội. Nhà nước còn quản lí các hoạt động của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau và điều tiết các hoạt động ấy. Điều cần chú ý là Nhà nước quản lí các đơn vị đó trên quan điểm là định hướng chứ không phải là Nhà nước can thiệp sâu vào những tác nghiệp cụ thể, kìm hãm sự sáng tạo, sự chủ động của các đơn vị đó. - Nhà nước xác dịnh những quy tắc ứng xử kinh tế của mỗi chủ thể quản lí. Chức năng này được thực hiện thông qua việc thường xuyên củng cố và hoàn thiện cơ sở pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghiã. Pháp luật có vai trò to lớn trong việc tổ chức các lĩnh vực của đời sống kinh tế, điều chỉnh các quá trình phát triển của nó phù hợp các mục tỉêu đã đề ra, thiết lập và duy trì trật tự xã hội mới - Nhà nước còn chỉ đạo các hoạt động kinh tế đối ngoại. Nhà nước trực tiếp và thông qua các cơ quan quản lí của mình diều tiết các quan hệ kinh tế đối ngoại, cũng như phân quyền cho các Bộ và các doanh nghiệp, hỗ trợ trực tiếp quan hệ với thị trường nước ngoài. 2.2) Các công cụ Nhà nước sử dụng Nhà nước có chức năng quản lí vĩ mô nền kinh tế và để thực hiện được điều đó Nhà nước cần sử dụng một loạt những công cụ quản lí vĩ mô trong đó tiêu biểu là công cụ kế hoạch hoá, công cụ tài chính, chính sách tiền tệ-tín dụng, pháp luật quản lí về kinh tế và kinh tế quốc doanh-đặc khu kinh tế. *Nhà nước với công cụ kế hoạch hoá Đại hội Đảng lần thứ VII đã chỉ rõ:" Nhà nước quản lí nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo dịnh hướng xã hội chủ nghĩa, vận động theo cơ chế thị trường bằng pháp luật, bằng kế hoạch và các công cụ, chính sách kinh tế trong đó kế hoạch hoá vẫn là khâu trung tâm, là công cụ chủ yếu, Dĩ nhiên kế hoạch hoá trong diều kiện của nền kinh tế hàng hoá phải khác với kế hoạch hoá trong nền kinh tế hiện vật" Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thì việc quản lí kinh tế của Nhà nước rõ ràng không thể dựa vào kế hoạch hoá trực tiếp như trong nền kinh tế hiện vật mà phải chuyển sang kế hoạch hoá gián tiếp là chủ yếu, mang tính tổng hợp và định hướng, nghĩa là phải đảm bảo quyền chủ thể kế hoạch cho các chủ thể sản xuất kinh doanh, phải xoá bỏ mọi hình thức áp đặt trong việc giao nhiệm vụ kế hoạch sản xuất, phải tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế mở rộng liên doanh, liên kết, kí kết các hợp đồng và dơn đặt hàng giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh trong xây dựng và thức hiện kế hoạch. - Thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch hoá, mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường là mối quan hệ giữa chủ quan và cái khách quan, vì vậy để có thể điều khiển được thị trường, công tác kế hoạch hoá cần chú ý các vấn đề: Phải nhận thức, tiếp cận và tạo môi trường cho thị trường vận động phù hợp quy luật chứ không thể áp đặt quyền lực hành chính lên thị trường, phải xuất phát từ yêu cầu của thị trường, nghiên cứu thị trường để lựa chọn những mục tiêu và giải pháp kế hoạch hợp lí. - Trong điều kiện nước ta, khi nền kinh tế hàng hoá và thị trường đang hình thành, còn chưa phát triển, thì kế hoạch hoá có nhiệm vụ góp phần hình thành, phát triển kinh tế hàng hoá và thị trường thống nhất trong cả nước. Kế hoạch hoá định hướng trước hết là xác định phướng hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong thời kì tương đối dài thông qua chiến lược phát triển kinh tế xã hội, mỗi định hướng được cụ thể hoá thành những chương trình mục tiêu cụ thể, có sự bảo đảm cho Nhà nứơc, cho các tổ chức kinh tế tham gia vào các chương trình, không phân biệt các tổ chức đó thuộc thành phần kinh tế nào. Kế hoạch hoá cũng nhằm xác định mục tiêu, các cân đối lớn, tính toán sức mua trên thị trường, các biện pháp bảo đảm cân đối cung-cầu để định hướng cho sự vận động của thị trường, bảo đảm cho nền kinh tế ổn định, tăng trưởng và phát trỉển. Kế hoạch hoá phải nắm vững và sử dụng linh hoạt các công cụ kinh tế: thuế, tài chính, tính dụng...để điều chỉnh thị trường theo những mục tiêu đã định. - Phương hướng đổi mới công tác kế hoạch hóa theo cơ chế thị trường ở nước ta: Sử dụng công tác kế hoạch hoá định hướng và gián tiếp là chủ yếu, thực hiện chế độ kế hoạch hoá 2 cấp là Nhà nước và đơn vị kinh tế cơ sở, gắn kế hoạch hóa kinh tế và kế hoạch hoá xã hội, vận dụng các quy luật kinh tế, quan hệ thị trường và cơ chế thị trường nhằm nâng cao tính hiệu quả của kế hoạch. *Nhà nước với công cụ tài chính Tài chính là một phạm trù kinh tế gắn liền với các hoạt động kinh tế dưới hình thức vận động của giá trị. Trong cơ chế thị trường, tài chính không bị ràng buộc bởi các hàng rào kế hoạch hoá pháp lệnh, sự vận động của các quỹ tiền tệ trở nên đa dạng, nó trở thành nguồn lực tài chính với đầy đủ ý nghĩa của nó. Tuy nhiên cũng cần nhận thức rằng các chủ thể kinh tế xã hội hay các tế bào của thị trường tài chính không chỉ là các thực thể tài chính của khu vực Nhà nước, nó còn mở rộng và phát triển ở cả khu vực tư nhân. - Đối với nước ta hiện nay sự quản lý của Nhà nước bằng công cụ tài chính nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là phải dùng công cụ tài chính dưới nhiều mức độ thích hợp để quản lí nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, không thể áp dụng máy móc hệ thống tài chính của các nước tư bản vào nước ta, đồng thời phải xoá bỏ các khuyết tật cố hữu của hệ thống tài chính trong cơ chế quản lí mệnh lệnh, tập trung quan liêu bao cấp cũ. Vấn đề đặt ra là phải đổi mới công cụ tài chính bằng cách: đặt tài chính trong sự vận động và phát triền của kinh tế hàng hoá, phần thu chủ yếu của ngân sách phải là thu thúê, trong đó phần chia cho bộ máy quản lí Nhà nước rất nhỏ, còn phần chi cho phúc lợi xã hội, các sự nghiệp y tế, giáo dục... chiếm tỉ trọng lớn và ngày càng lớn. Ngoài ra Nhà nước cũng tập trung phần quan trọng của ngân sách cho các dịch vụ thiết yếu cho nhân dân, các dịch vụ kinh tế, cũng như cho các nhiệm vụ kinh tế lớn khác. Phải khẳng định thuế là một công cụ tài chính quan trọng không chỉ tạo ra nguồn thu cho ngân sách Nhà nước mà còn có tác dụng điều chỉnh nền kinh tế ở tầm vĩ mô, thu thuế là quyền của Nhà nước và nộp thuế là nghĩa vụ của công dân, gắn tài chính với hạch toán kinh doanh. *Nhà nước với chính sách tiền tệ- tín dụng. Chính sách tiền tệ tín dụng có vai trò to lớn, đó là các hoạt động bơm và hút tiền bằng cách tăng, giảm dự trữ của các Ngân hàng thương mại nhằm giải quyết quan hệ cung cầu về tiền tệ tín dụng của nền kinh tế, sử dụng lãi suất chiết khấu để điều tiết quan hệ tín dụng trong cho vay bổ sung đối với các ngân hàng thương mại, làm thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các ngân hàng thương mại và các thể chế tài chính khác. Chính sách này nói chung nhằm giảm tốc độ lạm phát, ổn định sức mua đồng tiền, tăng nhanh tổng sản phẩm quốc dân thực tế, cân bằng ngân sách, tăng việc làm và tăng thu nhập, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Tuy nhiên chính sách này áp dụng ở nước ta còn nhiều sai sót như trong chủ trương cơ chế, điều hành, quản lí vĩ mô của Nhà nứơc, của ngân hàng trung ương đối với hoạt động kinh doanh- tín dụng- ngân hàng, chính sách lãi suất còn nhiều bất hợp lí, chưa được xử lí một cách nhạy bén, tỷ trọng cho vay vốn đối với kinh tế quốc doanh và công ty hợp doanh quá lớn và có xu hướng tăng lên, tình trạng công nợ dây dưa và chiếm dụng vốn lẫn nhau quá lớn. Do vậy, phương hướng giải quyết là chính sách tiền tệ- tín dụng phải tác động trong sự thống nhất với chính sách tài chính-tiền tệ- tín dụng quốc gia, phát huy mạnh mẽ vai trò đòn bẩy và công cụ điều tiết vĩ mô, thúc đẩy nâng cao tính tự chủ tài chính của doanh nghiệp, phát triển mạnh mẽ thị trường tiền tệ- tín dụng ở nông thôn nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, cùng các cơ quan hữu quan nhanh chóng giải quyết các công nợ dây dưa, mở rộng các hoạt động tín dụng với nhiều hình thức phong phú. *Nhà nước với công cụ pháp luật quản lí về kinh tế. Các chiến lược phát triển kinh tế kế hoạch hoá định hướng và các chính sách kinh tế chỉ có thể đi vào cuộc sống khi nó được thể chế hóa pháp luật. Trong nền kinh tế có sự quản lí của Nhà nước, pháp luật thể hiện vai trò trên hai phương diện: Pháp luật là công cụ cưỡng chế hành vi của doanh nghiệp nếu như hoạt động sản xuất kinh doanh của họ làm tổn hại tới lợi ích của toàn xá hội, tạo ra môi trường tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Nền kinh tế thị trường nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa làm nảy sinh nhu cầu phải hạn chế các yếu tố bóc lột, phân hoá xã hội, đảm bảo sự phát triển cân đối hài hoà, phân phối theo nguyên tắc lao động, kết hợp với các chính sách xã hội khác. Đặc điểm mới ấy của nền kinh tế thị trường nước ta đòi hỏi chất lượng điều chỉnh bằng pháp luật cao hơn so với việc điều chỉnh bằng pháp luật trong các chế độ kinh tế khác. Tuy nhiên trên thực tế hệ thống pháp luật kinh tế hiện hành nước ta còn thiếu tính hệ thống, thiếu đồng bộ, tính phối hợp nhiều văn bản cùng điều chỉnh một loại quan hệ kinh tế còn nhiều mâu thuẫn, chồng chéo, nguyên tắc hàng đầu là mọi người, mọi doanh nghiệp phải được bình đẳng trong sản xuất và kinh doanh vẫn chưa được thể hiện một cách đầy đủ, xuyên suốt, việc tuân thủ, chấp hành và áp dụng luật pháp kinh tế còn chưa tương xứng. Do vậy chúng ta cần nhanh chóng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng kinh tế, hoàn thành việc ban hành các quy chế pháp lý của các chủ thể quan hệ kinh tế, đổi mới và hoàn thiện chế định pháp lý về quyền sở hữu của Nhà nước đối với tài sản giao cho các doanh nghiệp Nhà nước, cải cách hệ thống tổ chức bảo đảm thi hành pháp luật quản lí kinh tế, đẩy mạnh đấu tranh chống các tệ nạn và khuyết tật xã hội, chống tệ quan liêu, tham nhũng, các tội ác kinh tế... *Nhà nước với kinh tế quốc doanh và đặc khu kinh tế. - Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, kinh tế quốc doanh từng bước đóng vai trò chủ đạo, nó là nhân tố cơ bản mang đầy đủ bản chất của nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội, của sự phát triển cân đối, có kế hoạch của nền kinh tế quốc dân, là thực lực kinh tế quan trọng. là công cụ hữu hiệu trong tay Nhà nước để điều chỉnh nền kinh tế nhiều thành phần. Do vậy, các đơn vị kinh tế quốc doanh phải là trung tâm tiêu biểu của tiến bộ khoa học kĩ thuật và công nghệ, là tấm gương về quản lí, không chỉ phục vụ cho các đơn vị mình mà phải góp phần phổ biến kiến thức, đào tạo cán bộ cho tất cả các thành phần khác, phải nắm giữ những ngành, vị trí then chốt nhất Tuy nhiên thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh của nhiều cơ sở còn khó khăn như chưa thấy được vị trí của mình trong nền kinh tế, sản xuất, tiêu thụ sản phẩm kém, công nghệ lạc hậu...Vì vậy cần chấn chỉnh, đổi mới và nâng cao hiệu quả các khu vực doanh nghiệp Nhà nước, làm tốt vai trò chủ đạo, hỗ trợ và thúc đẩy các thành phần khác cùng phát triển, chú trọng phát triển quốc doanh cả trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất và lưu thông phân phối, phân loại doanh nghiệp Nhà nước để có chính sách và cơ chế quản lí phù hợp. - Đặc khu kinh tế (khu chế xuất): Nhà nước ta đã ban hành quy chế khu chế xuất tại Việt Nam do chủ tịch Hội đồng bộ trưởng ký gồm 10 chương, 67 điều đã tạo điều kiện cho các thành phố lớn bước đầu thực hiện thành lập các khu chế xuất này với mục tiêu chủ yếu là thu hút vốn, công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm, tác phong quản lí theo hướng thị trường, tạo nguồn thu nhập ngoại tệ, thêm việc làm, đào tạo cán bộ và công nhân lành nghề tại chỗ, khai thác tiềm năng thiên nhiên, mở rộng quan hệ kinh tế, thu hút đầu tư...tuy nhiên cũng cần chú ý xây dựng quy chế khu chế xuất hoàn thiện, chuẩn xác, phát hiện kịp thời những âm mưu của các thế lực thù địch chính trị núp dưới chiêu bài kinh tế để phá hoại... 2.3)Thực trạng quản lí Nhà nước ta hiện nay Cùng với việc xây dựng và từng bước thực hiện cơ chế quản lí mới, nền kinh tế nước ta đã có những sự thay dổi cơ bản sau: - Nền kinh tế từ chỗ chỉ với 2 hình thức sở hữu toàn dân và tập thể đã dần dần chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, và các thành phần này có quyền bình đẳng trước pháp luật. - Nền kinh tế từ chỗ mang nặng tính tự nhiên hiện vật, tự cung tự cấp đã từng bước chuyển sang kinh tế hàng hoá. - Nền kinh tế từ trạng thái khép kín đã dần dần mở cửa, đẩy mạnh quan hệ với các nước khác Tổng kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 1996-2000 đạt 51 tỉ dola, nhập khẩu là 60 tỉ dola. Đến năm 1993 mới có 40 nước đầu tư vào nước ta với số vốn khoảng 6,3 tỉ dola/685 dự án (năm 92 là 4,6 tỉ dola) trong đó FDI là 2,17 tỉ dola/232 dự án thì chỉ trong vòng 5 năm 1996-2000 đã có 1500 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng kí là 20,7 tỉ dola trong đó nguồn vốn đã thực hiện là khoảng 10 tỉ dola, ODA đưa vào thực hiện là 6,1 tỉ dola. Quý I năm 2001 xuất khẩu là 3,55 tỉ dola, tăng 14,3%, nhập khẩu là 3,64 tỉ dola, tăng 8,4% so với cùng kì năm 2000. - Nền kinh tế thị trường nước ta vẫn chỉ là đang trong quá trình hình thành vừa thiếu vừa rối loạn, những nhân tố làm mất ổn định còn tiềm ẩn trong khi các nhân tố tạo trật tự mới như hệ thống ngân hàng, tài chính, bộ máy quản lí Nhà nước còn yếu kém và tiêu cực. Trên một số mặt, Nhà nước vẫn làm thay chức năng thị trường như quy định giá, tỷ giá, lãi suất, tuyển lao động theo biên chế, quy định mức thu nhập mà thực chất là cản trở việc hình thành thị trường. - Ngoài ra, điểm xuất phát về kinh tế còn thấp, năm 2000 chỉ đạt GDP bình quân đầu người là 400$, tích luỹ nội bộ thực tế có thể huy động chỉ đạt dưới 20% GDP. Nhiều vấn đề xã hội còn bức xúc như thất nghiệp, tệ nạn... chi tiêu cho giáo dục thấp, như năm 1989 là 1% GDP. - Tuy sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn 1990 1991 1992 1993 1995 2000 Nông-lâm-ngư nghiệp(%) 40,34 38,8 38,18 36,73 27,2 24,1 Cong nghiệp-xây dựng(%) 18,7 19,4 20,19 29,6 22,7 36,9 Dịch vụ(%) 40,96 41,8 41,63 33,67 50,1 39 nhưng quá trình thương phẩm hoá sản phẩm này chỉ được diễn ra ở một số nơi có điều kiện. - Sản xuất hàng hoá còn ở trình dộ thấp, công nghệ sản xuất còn lạc hậu (chậm khoảng10, 20 năm ) sự giảm sút của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, giá nông sản xuất khẩu giảm - Dịch vụ phát triển mạnh (Năm 2000 tăng 7%) nhưng chỉ tập trung ở một số ngành. - Thực tế Nhà nứơc vẫn chưa kiên quyết từ bỏ ngay cách quản lí trực tiếp trong nền kinh tế + Vẫn có hiện tượng giao kế hoạch sản xuất, can thiệp vào hoạt động. + Chưa có giải pháp dứt khoát rõ ràng trong việc hình thành những thị trường đất, lao động. + Công cụ quản lí chính của Nhà nước là pháp luật chưa hoàn chỉnh. + Bộ máy Nhà nước còn cồng kềnh, chưa hiệu quả, các chính sách chậm đổi mới đồng bộ - Trong những năm qua, việc đổi mới chính sách công cụ kinh tế Nhà nước tuy có bước tiến nhưng chưa thật sự là chính sách công cụ của kinh tế thị trường. Về cơ bản các chính sách công cụ đang ở bước giao thời của sự chuyển đổi mang nặng tính đối phó, thích nghi, chưa có nền tảng vững chắc. Sự yếu kém thể hiện khá rõ trong chiến lược phát triển, trong việc xử lí giá cả, tỷ giá lãi suất, thu nhập. Có những bất cập trong dự báo chiến lược, yếu kém trong việc xác định chính sách công cụ và tính nhất quán của nó. - ở nước ta, sự yếu kém của bộ máy quản lí Nhà nước trước hết là từ nguyên nhân cán bộ, phần lớn họ trưởng thành trong cơ chế cũ, không có nghề hoặc nghề cũ từ thời bao cấp, tuy đã có cố gắng để thích nghi song vẫn còn những bất cập khá lớn nhất là trong điều kiện việc quản lý thị trường do bộ máy pháp quyền điều hành, theo báo cáo cuả Bộ Tài chính năm 2000 thì có tới 67% giám đốc của các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) không hiểu bản chất của cân đối thu chi và báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp. Hiện nay, tệ nạn tham nhũng quan liêu, lãng phí kéo dài, diễn ra trên nhiều lĩnh vực trong bộ máy Nhà nước, Đảng, đoàn thể và trong các DNNN. Một số cán bộ, Đảng viên sa đoạ, biến chất, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tình hình trên đã gây bất bình trong nhân dân. - Các DNNN tuy được Nhà nước cấp thêm vốn với số lượng khá lớn, 41,535 tỉ đồng (từ năm 1991 đến 2000) và năm 2000 là 700 tỉ đồng nhưng hoạt động chưa hiệu quả, năm 2000 có 30% DNNN làm ăn thua lỗ, tổng số nợ là 174,797 tỉ năm 1996 đã lên 199,06 tỉ năm 1999. Đóng góp vào GDP chưa tướng xứng với tỉ trọng của nó trong nền kinh tế, năm 1999 DNNN chiếm 45% tài sản cố định của nền kinh tế nhưng chỉ góp 40,2% GDP. Số lượng DNNN còn quá nhiều, năm 1991 có 12296 DNNN, năm 1998 là 5991, năm qua mục tiêu là phải chuyển đổi sở hữu 42% nhưng mới làm được 21,7%, năm 1999-2000 mới cổ phần hoá được 600 DNNN. Số lao động trong DNNN là 1,7 triệu người. - Tuy có những yếu kém, bật cập nhưng một ván đề có thể khẳng định được là việc quản lý Nhà nước về kinh tế trong những năm qua có những bước tiến căn bản. GDP khá cao và ổn định 6%(89-90) 7,25%(91-93) 9,3%(1996) 8,2%(1997) 5,8%(1998) 4,8%(1999) 6,7% (2000). Sản lượng lương thực quy thóc tăng nhanh từ 21,5; 22; 24,2; 25 triệu tấn các năm từ 1990 đến 1993 thì năm 2000 đã đạt 35,7 triệu tấn, lương thực bình quân đầu người tăng từ 370kg (1995) đã lên 446kg (2000), tỉ lệ hộ đói nghèo từ 30% (1992), 20% (1993) xuống còn 11%(2000), mỗi năm tạo thên khoảng 1,2- 1,3 triệu việc làm, ngân sách Nhà nước giai đoạn 1996-2000 tăng bình quân 7%/ năm trong đó dành 25% cho tich luỹ (năm 90 chỉ là 10%), đặc biệt đã thi hành được Luật doanh nghiệp từ đầu năm 2000 nên đã tăng nhanh sản xuất khu vực ngoài quốc doanh đạt 18,8%. Nhờ có vai trò Nhà nước mà những khó khăn, gay cấn của quá trình chuyển đổi sang cơ chế mới đã vượt qua, như xử lí giá cả, chống lạm phát (từ 70-80% năm 1990, 67% năm 1991, đã xuống còn 17,5% năm 1992, 4-5% năm 1993, 4,5% năm 1996, 1,3% năm 1997), tạo thực lực kinh tế. Thành phần kinh tế Nhà nước vẫn chiếm tỉ trọng lớn nhất trong GDP, năm 2000 là 39% trong đó các thành phần khác như kinh tế hợp tác là 8%, kinh tế tư nhân 37,4%, kinh tế hỗn hợp 3,6%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 12%. Khó khăn, yếu kém còn nhiều nhưng những bước tiến trong hơn 10 năm qua cho chúng ta niềm tin về khả năng và sứ mệnh của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường của nước ta trong tương lai. IV.Các giải pháp cơ bản để tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước Mac và Anghen đã khẳng định:"Vai trò bà đỡ" của Nhà nước chỉ có thể thực hiện khi hệ thống chuyên chính vô sản, trong đó bộ phận quan trọng là Nhà nước, phải tự đổi mới để có đủ năng lực và phẩm chất, khi Nhà nước thực sự là của dân, do dân, vì dân, do vậy cần phải xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. - Trong qua trình chuyển đổi cơ chế kinh tế theo hướng đưa nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí vĩ mô của Nhà nước, đòi hỏi Nhà nước phải có sự nhất quán trong việc thừa nhận và sử dụng các phạm trù của kinh tế thị trường như cạnh tranh, thất nghiệp, khủng hoảng, phá sản, lạm phát, hàng hoá sức lao động...Từ đó sớm khắc phục những định kiến không đúng trước đây trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, một cơ chế xa lạ với cơ chế kinh tế trong nền kinh tế thị trường, phát triển đất nước theo hướng" Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh". - Nhà nước cần hoàn thiện các công cụ quản lí kinh tế của mình, xây dựng những chương trình kế hoạch trung và dài hạn phù hợp với điều kiện đất nước và bối cảnh quốc tế, mang tính định hướng với hình thức dự báo dài hạn hoặc có sự ưu tiên cho các mục tiêu cụ thể. Phải đồng bộ hoá hệ thống pháp luật hiện nay của nước ta, đảm bảo thực thi pháp luật một cách nghiêm chỉnh, trong đó đặc biệt luật kinh tế của nước ta còn rất non kém. Cải cách hành chính gắn liền với đổi mới kinh tế, hoàn thiện cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lí, nhân dân làm chủ - Làm trong sạch bộ máy Nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng...xây dựng đội ngũ công chức có đủ phẩm chất và năng lực. Chỉnh đốn hoạt động của các tổ chức thương nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, đổi mới hệ thống thương nghiệp Nhà nước, vừa khuyến khích mọi thành phần tham gia lưu thông hàng hoá, vừa tăng cường, từng bước phát huy vai trò nòng cốt của thương nghiệp quốc doanh và tập thể. Đổi mới cơ chế quản lí, trước hết cần xác định các quyền đại diện sở hữu hợp pháp và địa vị pháp lí của DNNN, làm rõ quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước, giữa doanh nghiệp với các đối tác kinh doanh, Nhà nước thực hiện trao quyền tự chủ rộng rãi cho các DNNN, thực hiện tổ chức lại DNNN theo 2 tiêu thức cơ bản là tính chiến lược và hiệu quả sản xuất kinh doanh. - Tạo môi trường hợp tác cạnh tranh lành mạnh trong sản xuất và kinh doanh, Nhà nước phải can thiệp vào quá trình kinh tế khi cần thiết, thực hiện độc quyền Nhà nước trong một số ngành, lĩnh vực nhất định gắn với lợi ích của đất nước, hạn chế độc quyền kinh doanh, không để lợi dụng địa vị độc quyền để đặc quyền, đặc lợi, lũng đoạn thị trường. - Thị trường nước ta phát triển chưa đồng bộ vì vậy cần tạo ra các tiền đề cần thiết về kinh tế xã hội cho thị trường ra đời và hoạt động theo các quy luật của nó, để có điều đó thì vấn đề sở hữu cần được giải quyết, mỗi nguồn lực sử dụng đều có quyền sở hữu đích thực. Hình thức sở hữu nào cho phép sử dụng có hiệu quả nhất các yếu tố sản xuất sẽ là thích hợp nhất.- Quản lí tài sản quốc gia, phân bổ các nguồn lực một cách hợp lí. Tiến hành hoạt động phân phối đảm bảo công băng và hiệu quả, điều hoà lợi ích cả ở đầu ra và đầu vào. - Tạo môi trường đầu tư thuận lợi, thực hành tiết kiệm để tạo thêm nguồn vốn, học hỏi kĩ thuật công nghệ, phát huy lợi thế so sánh, coi trọng công tác đào tạo cán bộ qua đó tạo điều kiện tăng trưởng cao và bền vững, giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát, môi trường, dân số, phân phối thu nhập v.Kết luận -Việc xây dựng mô hình quản lý ở Việt Nam cho phù với nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là một vấn đề vô cùng quan trọng trong chiến lược đổi mới kinh tế ở Việt Nam. Đối với nước ta việc quản lý kinh tế trong giai đoạn này là mới mẻ, phức tạp và đầy thử thách. Chính vì vậy, sinh viên trường Đại học Kinh tế quốc dân nên nghiên cứu vấn đề này một cách nghiêm túc để sau này tham gia quản lý kinh tế có hiệu quả, phục vụ cho công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước. Đối với các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách cũng như những nhà quản lý kinh doanh thì vấn đề này cũng đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu sâu hơn để đề ra các biện pháp quản lý kinh tế nhằm phát triển một nền kinh tế đồng bộ, lành mạnh, tạo điều kiện cho cơ chế thị trường hoạt động có hiệu quả. - Chúng ta đang ở vào lúc giao thời giữa cơ chế kinh tế quản lí tập trung với cơ chế thị trường có sự quản lí, một giải pháp sai lầm vào thời điểm này có thể làm cho nền kinh tế bị kẹt giữa 2 cơ chế, chính vì vậy việc xác định những điều kiện và giải pháp để tiếp tục chuyển đổi cơ chế kinh tế phải xuất phát từ quan điểm đúng đắn về cơ chế thị trường và vai trò quản lí của Nhà nứơc. Song cũng cần chú ý là sự can thiệp của Nhà nước chỉ thành công khi bản thân Nhà nước phải tôn trọng và tuân thủ những quy luật của thị trường. - Mô hình kinh tế thị trường theo đình hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta là một dạng cụ thể của mô hình kinh tế hỗn hợp, trong đó mục tiêu duy nhất là hạnh phúc của nhân dân thì Nhà nước ấy phải có nhiều công cụ mạnh, đủ sức chi phối mọi biểu hiện trái nghịch. Kinh tế quốc doanh giữ vai trò quan trọng trong việc dẫn dắt sự phát triển các thành phần kinh tế khác, là chỗ dựa, là thực lực để Nhà nước giải quyết các vấn đề do nền kinh tế đặt ra mà khu vực kinh tế tư nhân không giải quyết được. Vì vậy việc xây dựng và hoàn thiện các công cụ theo hướng đảm bảo tính nhạy bén, phù hợp với sự biến động của thị trường , nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước cũng như tạo mọi điều kiện cho khu vực kinh tế quốc doanh thực hiện trọng trách của mình là nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước. -Cơ chế thị trường của nước ta là cơ chế thị trường của một Nhà nước xã hội chủ nghĩa nên dù Nhà nước có vai trò quản lí nhưng vẫn phải đảm bảo Đảng lãnh đạo và nhân dân làm chủ, bộ máy quản lý Nhà nước về kinh tế phải được sắp xếp lại và kiện toàn theo hướng giảm bớt khâu trung gian, tinh giảm biên chế, đảm bảo chất lượng. Đồng thời phải đổi mới chế độ làm việc, xây dựng quy chế công chức, đổi mới phong cách, ph- ương pháp làm việc, ý thức trách nhiệm. Kiên quyết đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, thoái hoá biến chất. Tuyển chọn, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ viên chức Nhà nước làm công tác quản lý kinh tế và đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp. Để thực hiện được nhiệm vụ đó thì phải đổi mới chương trình phương pháp đào tạo, gắn lý luận với thực tiễn, có quá trình rèn luyện, thử thách đối với đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế. Đi đôi với nó cần phải có chính sách bố trí, sử dụng, đãi ngộ, khen thưởng thoả đáng để khuyến khích tính tự chủ, sáng tạo và ý thức tự giác của cán bộ quản lý kinh tế. - Với vai trò khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, cũng có khi Nhà nước mắc phải những sai lầm, do đó Nhà nước luôn phải biết học hỏi kinh nghiệm, tự kiểm điểm bản thân, thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy cũng như nội bộ các nhân viên - Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế trong bước chuyển đổi sang cơ chế thị trường. Quản lý Nhà nước về kinh tế phải tập trung chủ yếu vào quản lý vĩ mô, tạo môi trường kinh tế và khuôn khổ pháp lý cho hoạt động kinh doanh, phát huy mặt tích cực của kinh tế thị trường, bảo đảm sự tăng trưởng của nền kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội. Ngoài ra chính quyền các cấp phải tăng cường quản lý đối với các loại hình kinh doanh, chủ thể kinh doanh mà không phân biệt các thành phần kinh tế.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Kinh Tế Chính Trị - Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước trong việc thúc đẩy kinh tế.pdf
Tài liệu liên quan