Tài liệu Luận văn Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á và những tác động tới nền kinh tế Việt Nam: 1
Luận Văn
" Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở
Châu Á và những tác động tới nền
kinh tế Việt nam"
2
Mục lục
Trang
Lời mở đầu.............................................................................................. 1
Chương I- Khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á........................ 2
I- Diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính Châu á...................................... 2
II- Nguyên nhân cuộc khủng hoảng.......................................................... 3
II- Tính chất của cuộc khủng hoảng.......................................................... 5
IV- Những tác động hai mặt của cuộc khủng hoảng................................. 6
1. Các tác động tiêu cực.................................................................... 6
2. Các tác động tích cực.................................................................... 8
Chương II- ảnh hưởng của khủng hoảng đối với Việt Nam......... 10
A- Những tác động của khủng hoảng đến các lĩnh vực kinh t...
41 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1122 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á và những tác động tới nền kinh tế Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận Văn
" Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở
Châu Á và những tác động tới nền
kinh tế Việt nam"
2
Mục lục
Trang
Lời mở đầu.............................................................................................. 1
Chương I- Khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á........................ 2
I- Diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính Châu á...................................... 2
II- Nguyên nhân cuộc khủng hoảng.......................................................... 3
II- Tính chất của cuộc khủng hoảng.......................................................... 5
IV- Những tác động hai mặt của cuộc khủng hoảng................................. 6
1. Các tác động tiêu cực.................................................................... 6
2. Các tác động tích cực.................................................................... 8
Chương II- ảnh hưởng của khủng hoảng đối với Việt Nam......... 10
A- Những tác động của khủng hoảng đến các lĩnh vực kinh tế của Việt Nam
11
I- Đối với lĩnh vực ngoại thương............................................................... 11
II- Đối với lĩnh vực thu hút vốn và trả nợ nước ngoài................................ 12
III- Đối với lĩnh vực ngân sách đầu tư trong nước..................................... 14
B- ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính ở các nước trong khu vực đến
thương mại và đầu
tư................................................................................................ 15
I- Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của ta và các nước trong khu vực................ 17
1. Về xuất khẩu................................................................................. 17
3
2. Về nhập khẩu................................................................................ 18
3. Về đầu tư trực tiếp nước ngoài....................................................... 18
Kết luận................................................................................................... 20
Lời nói đầu
Trước tháng 7- 97, tức là trước thời điểm xẩy ra cơn bão tài chính tiền tệ
ở Châu Á mà tâm điểm là khu vực Đông Nam Á, nhiều nước thành viên
ASEAN đã kỳ vọng đến việc rút ngắn thời hạn hoàn thành AFTA vào năm
2000. Đối với Việt Nam, nhiều người cũng hy vọng sẽ rút ngắn tiến trình
thực hiện AFTA vào năm 2003 thay cho mốc thời gian dự kiến ban đầu là
2006. Lý do căn bản là Việt nam và các nước ASEAN đều muốn đẩy nhanh
tiến trình AFTA nhằm nhanh chóng biến khu vực ASEAN thành một khu
vực kinh tế mở có năng lực thích ứng cao nhất với các xu thế do hoá và toàn
cầu hoá đang diễn ra hết sức nhanh chóng của nền kinh tế thế giới.
Tuy vậy, sau khi cơ bão tài chính tiền tệ xảy ra vào tháng 7 năm 1997 và
lan truyền ra toàn khu vực theo hiệu ứng “ Đôminô “ với những tác động hết
sức nghiêm trọng đến nền kinh tế các nước ASEAN và nền kinh tế toàn cầu
đã khiến không ít người nghi ngờ về tính khả thi của AFTA theo lịch trình đã
cam kết của các nước.
4
Vì vậy đối với Việt nam tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
đến tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới là điều không tránh khỏi.
Trong một nỗ lực tổng hợp và phân tích, nghiên cứu và đánh giá, bài
viết xin trình bày một số những vấn đề về cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
ở Đông Nam Á.Cụ thể là :
Phần I : Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu á và tác động đến Nội
dung của đề tài sẽ đi sâu phân tích những nguyên nhân, tác động của cuộc
khủng hoảng, từ đó so sánh với hiện trạng của nền kinh tế Việt nam trên các
lĩnh vực: đầu tư, xuất nhập khẩu, tỷ giá hối đoái, thị trường chứng khoán...
trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp chống đỡ và thoát khỏi cuộc khủng
hoảng nhằm thực hiện tiến trình cải cách nền kinh tế, đạt được những mục
tiêu đã đề ra: phát triển nhanh và bền vững, thúc đẩy tiến trình hội nhập nền
kinh tế Việt nam với các nước trong khu vực và trên. thế giới, đưa nước ta
thành một nước công nghiệp vào năm 2020
Nội dung
Phần I : Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á và những tác động tới
nền kinh tế Việt nam.
A/ Khủng hoảng tài chính tiền tệ
I. Diễn biến cuộc khủng hoảng.
Những triệu chứng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á bắt
nguồn từ Thái lan. Từ cuối năm 1996 nền kinh tế Thái lan đã biểu hiện
những dấu hiệu của khủng hoảng : tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 6,4% so với
mức 8,6% năm 1995, lạm phát cao 7% so với 4,5% năm 1995, xuất khẩu chỉ
tăng 7% so với 28% năm 1995, thâm hụt ngân sách trên 7%, cán cân thanh
toán vãng lai thâm hụt 8,2% GDP. Nợ nước ngoài lên tới gần 100 tỷ USD
trong đó 40% là nợ ngắn hạn trong khi dự trững ngoại tệ giảm chỉ còn 26,6%
GDP( 1994:31,6%GDP, 1995: 29,5%GDP). Cơn bão khủng hoảng tài chính
tiền tệ đã bùng nổ ở Thái lan không phải từ trên trời rơi xuống. Sức mạnh tàn
5
phá của nó đã được tích luỹ, dồn nén từ nhiều năm và đến đầu năm 1997
những mầm bệnh trong nền kinh tế Thái lan đã phát tác gây sức ép nặng nề
cho sự phá giá tiền tệ.
Ngày 2 tháng 7 Chính phủ Thái lan sau những cố gắng tuyệt vọng buộc
phải tuyên bố thả nổi đồng Baht, chấm dứt thời kỳ chế độ tỷ giá cố định kéo
dài gần 14 năm. Giá đồng Baht giảm tới mức thấp nhất trong 12 năm qua
(29,55 Baht/1USD).
Sau đó giá trị đồng Baht tiếp tục giảm (ngày 1-8 : 32 Baht/1USD), ngày
29-8 : 34,15 Baht/1USD), và nguy cơ khủng hoảng ngày càng lan rộng sang
các lĩnh vực : kinh tế , chính trị, xã hội.
Ngày 28-7 : Thống đốc ngân hàng trung ương Thái lan từ chức.
Ngày 5-8 : Chính phủ Thái lan đình chỉ hoạt động của 42 ngân hàng và
công ty tài chính.
Cùng ngày, Thái lan chấp nhận kế hoạch cứu vãn nền kinh tế do *** đề
nghị.
Ngày 10-8: 58/91 công ty tài chính và ngân hàng tại Thái lan đã bị đóng
cửa.
Ngày 11-8 : Hội nghị tài trợ đa phương quốc tế tại Tokyo đưa ra một
cam kết viện trợ cả gói 16,7 tỷ USD cho Thái lan kèm theo hàng loạt cac
điều kiện yêu cầu Thái lan phải thực hiện.
Ngày 15-10 : So với trước khi được thả nổi, đồng Baht đã bị mất giá
hơn 40% và đạt mức 36,72 Baht/1USD.
Ngay sau khi sự kiện thả nổi tỷ giá ở Thái lan một phản ứng dây truyền
đã xảy ra tại các nước trong khu vực, nhất là các nước đang có sẵn nhiều
“vấn đề “ nội tại trong phát triển kinh tế như Philippines, Malaysia,
Indonexia, và tác động đến cả nền kinh tế khoẻ mạnh của Singapore.
Ngày 11-7 : Chính phủ Philippines tuyên bố thả nổi đồng peso. Đồng
này sụt giá ngay trong ngày đến 11,6% so với đôla Mỹ (29,45peso/1USD)
6
Trong vòng 10 ngày sau đó, Ngân hàng trung ương Philippines phải
đưa vào thị trường 1,58 tỷ USD để chống đỡ cho đồng peso trước sự tấn
công của các nhà đầu cơ tiền tệ, khiến cho dự trữ ngoại tệ của ngân hàng này
xuống còn 9,7 tỷ USD.
Ngày 18-7 : Đồng đôla Singapore giảm giá nhẹ : 1,4680đôla
Singapore/1USD.
Ngày 21-7 : Inđonesia buộc phải cho đồng Rupiah rớt giá còn 2,640
rupiah/1USD.
Ngày 11-8 : Đồng Ringgit tại Malaysia sụt giá nhanh : 2, 7060 runggit
đổi đượcv 1USD so với 2,6505 của ngày 8-8. Đây là mức thấp nhất kể từ 40
tháng qua.
Ngày 14-8 : chính phủ Inđonesia quyết định thả nổi đồng rupiah (đồng
tiền này bị mất giá tới 19% so với đồng đôla Mỹ, trên 3000 rupiah/1USD).
Ngày 14-9 : Đồng ringgit của Malaysia lại xuống giá nhanh, sau khi có
các lời chỉ trích lẫn nhau giữa thủ tướng Mahathir và nhà tài chính George
Soros.
Ngày 3-11 : Chính phủ Inđonesia dưới sức ép của IMF (xem như một
trong các điều kiện tiên quyết để nhận khoản kinh phí khổng lồ 23 tỷ USD
giúp vượt qua khủng hoảng) đã đóng cửa 16 ngân hàng trong đó có ba ngân
hàng do con trai, em cùng cha và con gái của Tổng thống Suharto là cổ đông
chính.
Ngày 9-11 : Ông Chuan Leekpai được nhà vua Thái lan phê chuẩn làm
thủ tướng thay ông Chavalit.
Ngày 8-12 : Chính phủ Thái lan ra lệnh đóng cửa 56 trên tổng số 58
công ty tài chính đã bị tạm thời đình chỉ hoạt động từ tháng 7. Đây là một
trong những biện pháp nhằm thoả mãn điều kiện của IMF.
Ngày 6-1-1998 : Đồng peso của Philippines giảm còn 46,50/1USD.
7
Ngày 15-1-1998 : Tổng thống Suharto của Inđonesia ký thoả thuận 50
điểm với IMF để đổi lấy khoản vay nhằm vượt qua khủng hoảng.
Ngày 22-1-1998 : Đồng rupiah của Inđonesia rớt giá xuống còn
12.050/1USD.
Ngày 18-2-1998 : Inđonexia lên tiếng kêu gọi cộng đồng quốc tế đặc
biệt là các nước châu Âu giúp đỡ các nước Đông Nam á giải quyết cuộc
khủng hoảng tiền tệ.
Kể từ thời điểm các nước Tháilan, Indonesia, Philippines, Maylaysia
tuyên bố thả nổi tiền tệ hay không can thiệp vào thị trường ngoại hối đồng
tiền của các nước này lập tức bị mất giá nghiêm trọng, chỉ số chứng khoán
giảm mạnh mặc dù đã có những biện pháp mang tính tình thế để đối phó và
có sự giúp đỡ của cộng đồng tài chính quốc tế. Mức độ mất giá đồng tiền và
sự suy giảm về giá trị chứng khoán của các nước bị khủng hoảng được thể
hiện trên Bảng 1 đến Bảng 4 .
Bảng 1 : Mức độ mất giá của các đồng tiền ASEAN từ tháng 4 năm 1997
đến 3 năm 1998
Đơn vị tính : %- Thời điểm gốc là đầu tháng 4/97
Nguồn : Asia Week March 6 -1998
Đầu tháng Malaysia
Ringgit
Indonesia
Rupiah
Singapore
Dollar
Philipine
Peso
Thailand
Bath
4/97
5
6
7
8
9
10
11
0
-1
-2
-3
-7
-15
-29
-26
0
-1
-2
-2
-9
-19
-30
-36
0
0
0
0
-2
-5
-7
-9
0
0
+3
+3
-9
-14
-24
-25
0
0
+3
+3
-19
-23
-27
-35
8
12
1/98
2
3
-30
-37
-45
-32
-39
-58
-85
-74
-11
-15
-17
-13
-25
-35
-40
-35
-37
-44
-53
-42
Bảng 2 : Tỷ giá các đồng tiền ASEAN trước khi bị khủng hoảng so với USD
Thời điểm đầu tháng 4/97
Nguồn : Tin tham khảo hàng ngày
Malaysia
Ringgit
Indonesia
Rupiah
Singapore
Dollar
Philippines
Peso
Thailand
Baht
2,52 2415 1,43 26,2 25,5
Bảng 3 : Chỉ số chứng khoán các nước trước khi bị khủng hoảng
Thời điểm đầu tháng 2 năm 97
Nguồn : Tin tham khảo hàng ngày
Bangkok
SET
Manila
Composite
Jakarta
Composite
Kuala Lumpur
Composite
Singapore
ST Indl
710,45 3295,45 638,806 1260,20 2178,27
Bảng 4 : Mức độ sụt giảm của chỉ số chứng khoán trên thị trường các nước
ASEAN
Đầu
tháng
Bangkok
SET
Manila
Composite
Jakarta
Composite
Kuala
Lumpur
Composite
Singapore
ST Indl
2/97 0 0 0 0 0
9
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
1/98
2
3
-8
-5
-20
-30
-20
-13
-40
-40
-47
-49
-55
-39
-30
-4
-10
-22
-18
-19
-21
-29
-32
-40
-45
-49
-40
-35
0
-8
-4
0
+5
+3
-30
-25
-29
-40
-45
-25
-29
-1
-6
-7
-7
-11
-14
-20
-34
-35
-45
-55
-60
-42
0
-7
-10
-10
-10
-12
-15
-14
-29
-23
-30
-43
-31
Nguồn : ASIA Week March 6,1998
Như vậy rõ ràng theo như số liệu bảng trên thì luận điểm cho rằng sự
phá giá của đồng tiền các nước này như là một phương thức trả lại giá trị
đích thực cho chúng nhằm tạo dựng lại niềm tin vào các điều kiện kinh tế vĩ
mô của nền kinh tế các nước, đã hoàn toàn trở nên thiếu sức thuyết phục.
Đồng tiền các nước đã không điều chỉnh để mất giá từ 20-30% như IMF đã
cảnh báo vào năm 1996 mà hơn thế, mức độ mất giá đã lên tới 45-85%. Do
đó những tác động của cuộc khủng hoảng đến bản thân các nước là hết sức
to lớn và thể hiện trên nhiều chỉ tiêu khác nhau.
II. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu á năm 1997 có nhiều
nguyên nhân hết sức cơ bản và có liên quan mật thiết với nhau. Hội nghị Bộ
trưởng tài chính của các nước thành viên ASEAN vào ngày 2-12 tại
Kulalampur đã chỉ ra ba nguyên nhân cơ bản sau :
10
1/ Sự mất cân đối vĩ mô gắn liền với thiếu hụt lớn về thanh toán và sự
giảm sút đáng kể và tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu.
2/ Sự lệ thuộc nặng nề vào các khoản nợ ngắn hạn bên ngoài và cùng
với sự tăng nhanh tín dụng và các khoản vay không hiệu quả trong công
nghiệp ngân hàng đã làm suy yếu năng lực hoạt động của hệ thống ngân
hàng tài chính.
3/ Nhiều nguồn vốn lớn không công khai đã giữ vai trò chi phối các
thị trường tiền tệ và gây sức ép với thị trường khi quy mô của thị trường lại
nhỏ.
Diễn giải các nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở
châu á bao gồm các điểm cơ bản sau :
Thứ nhất : Nền kinh tế phát triển hướng ngoại quá lệ thuộc vào nước
ngoài.
Sau những năm 70 các nước bị khủng hoảng đã thực hiện chính sách công
nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Bản chất của chính sách này là đẩy mạnh
quá trình xuất khẩu để thu ngoại tệ. Trên thực tế chiến lược phát triển kinh tế
theo chính sách này đã tỏ ra thành công trong suốt thập kỷ 80 và đầu thập kỷ
90 , giúp cho các nước này duy trì được tốc độ tăng trưởng cao. Song do quá
đề cao chiến lược phát triển hướng về xuất khẩu nên nền kinh tế các nước đã
lệ thuộc rất nhiều vào xuất khẩu . Chẳng hạn ở Malaysia kim ngạch xuất
nhập khẩu chiếm tới 90% GDP . Trong khi đó các nước này lại tập trung quá
mức vào một số mặt hàng chủ chốt như điện tử , may mặc.. làm cơ cấu các
mặt hàng sản xuất nghèo nàn, mất cân đối. Bình quân từ năm 1994 , 1995 và
đầu năm 1996 khoảng 70% kim ngạch xuất khẩu của Singapore là hàng điện
tử chiếm gần 50% GDP, đối với Malaysia tỷ lệ này là 50% GDP và Hàn
Quốc là 33,3% GDP, Thái lan 21,2% GDP và Philipin là 43,5% GDP. Trong
bối cảnh ngày càng có nhiều nước cũng tập trung vào các mặt hàng này dẫn
đến sự cạnh tranh ngày càng lớn , thị trường có xu hướng bão hoà . Đặc biệt
11
phải kể đến Trung quốc , sau những năm 80 Trung quốc tiến hành giảm giá
NDT . Trong vòng 10 năm từ năm 1980 trở lại đây Trung quốc đã 4 lần giảm
giá NDT , so với USD mức mất giá lên tới 212,6% trong vòng 6 năm ( từ
1981-1987) vì vậy hàng hoá xuất khẩu của Trung quốc tăng nhanh và cạnh
tranh mạnh mẽ với hàng hoá của Thailand và các nước ASEAN do giá rẻ .
Năm 1996 xuất khẩu của Trung quốc đã đạt tới 150 tỷ USD gần bằng tổng
giá trị xuất khẩu của cả 4 nước Malaysia. Thailand, Indonexia. Philipine
cộng lại. Đầu năm 1997 xuất khẩu của Trung Quốc tăng 25% trong khi đó xu
thế đối với các nước ASEAN lại giảm. Nhịp độ tăng xuất khẩu của cả khu
vực ASEAN đã giảm từ 20% năm 1995 xuống còn chưa đầy 10% năm 1996,
hầu hết các nước phải gánh chịu những tổn thất to lớn khi tổng cầu đối với
các sản phẩm điện tử giảm mạnh , tổng thu nhập tính theo USD từ xuất khẩu
đồ điện tử chỉ tính từ 12/1995 đến tháng 7/1996 giảm 10% trong đó Hàn
quốc giảm 22,5%, Singapo giảm 6,5%, đài loan giảm 13% 2. Xuất khẩu giảm
dẫn tới thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai tại các nước này ngày càng lớn .
Khoản thâm hụt này năm 96 của cả Malaysia và Thái lan đều đạt mức 13,5
tỷ USD tương ứng chiếm 5,5% và 7,9% so với GDP , đối với Indonesia vào
khoảng 8,7 tỷ USD chiếm 3,4% GDP .
Thứ hai : Vay nợ nước ngoài đặc biệt là nợ ngắn hạn của các doanh
nghiệp quá cao và đầu tư bất hợp lý (chủ yếu vào lĩnh vực bất động sản) của
các nước Đông Nam á : Do cán cân các nước này bị thâm hụt nên gánh nợ
nước ngoài tăng vọt. Mức nợ này của các công ty Thái lan là 60 tỷ USD, của
các công ty Indonesia là 130 tỷ USD. Xem xét riêng ở Thái lan cho thấy năm
1993 nợ quá hạn đã lên tới 40% GDP, năm 1994 con số này là 45% GDP,
năm 95 chiếm 50% GDP đến năm 1996 mức nợ quá hạn là 52% GDP. Vay
nợ nước ngoài đã tăng mạnh ở các nước ASEAN trong những năm gần đây .
Năm 1997 nợ nước ngoài của Indonesia bằng 188,7 % GDP, Malaysia là
88,9% GDP, Philipine bằng 79,7% GDP và Thái lan là 97,1% GDP. Số nợ
phải trả của các nước đã vượt quá 10% GDP .
12
Bên cạnh đó, điều nguy hiểm hơn là Chính phủ không kiểm soát được nợ
của các Ngân hàng và các doanh nghiệp. Nợ nước ngoài bao nhiêu chính phủ
không nắm rõ. Thêm vào đó, chính phủ lại không xây dựng được khuôn khổ
pháp luật về năng lực giám sát trong quá trình tự do hoá tài chính. Trong cơ
chế quản lí bảo thủ và yếu kém như vậy các doanh nghiệp sản xuất đua nhau
vay nợ một cách liều lĩnh, số nợ vượt quá tổng số vốn của doanh nghiệp từ
200% đến 400% .
Mặt khác các khoản vay nước ngoài với lãi suất thấp lại được đầu tư cho
vay với lãi suất cao ở hai khu vực không sinh lời trong ngắn hạn là đầu tư bất
động sản và chứng khoán. Do việc đầu tư quá mức vào bất động sản đã
khiến cho thị trường này mang tính chất của một thị trường “ bong bóng “.
Các ngân hàng và tổ chức tài chính xuất phát từ sự tin tưởng vào chế độ tỷ
giá cố định đã không dùng số ngoại tệ được vay để tài trợ cho các doanh
nghiệp xuất khẩu mà không ngừng đầu tư và bất động sản và chứng khoán.
Kết quả là khi thị trường bất động sản mất giá các khoản vốn đầu tư này đã
trở thành những khoản nợ khó đòi hoặc không thể đòi được. Vì vậy bản chất
của cuộc khủng hoảng phần nào là một “ cuộc khủng hoảng nợ “ do vay vốn
không được kiểm soát và đầu tư thiếu hiệu quả .
Thứ ba : Duy trì tỷ giá hối đoái cố định một cách cứng nhắc theo USD
của các nước có nền kinh tế có dấu hiệu chững lại hoặc đi xuống, trong khi
nền kinh tế của Mỹ đang phát triển đã khiến cho các nước này thay vì để
đồng tiền của mình sụt giảm theo đúng giá trị của nó lại phải tiêu tốn hàng
chục tỷ USD để cố gắng duy trì mức cân bằng giả tạo tới mức không thể
kiềm giữ được nữa. Đặc biệt là Thái lan, việc 13 năm liền Chính phủ Thái
lan duy trì tỷ giá cố định giữa đồng Baht và USD ( khoảng 25 Baht/1USD) là
hết sức phi kinh tế, bởi trong khoảng thời gian này, các quá trình kinh tế thế
giới và khu vực diễn ra rất mạnh mẽ, đồng đôla Mỹ ngày càng mạnh lên,
đồng Baht yếu dần, cho đến trước thời điểm xảy ra khủng hoảng, đồng Baht
đã giảm xuống còn 30,27 Baht/1USD. Lợi dụng điều này, các nhà đầu tư đã
13
tạo ra mức bán khổng lồ hàng chục tỷ Baht để mua vài tỷ USD. Sức mạnh
theo kiểu bán khống đã nâng cầu USD lên 100 lần so với bình thường và
đẩy tỷ giá vượt xa tỷ giá thực. Kết quả đồng Baht bị bẻ gãy.
Thứ tư : Hệ thống ngân hàng tài chính yếu kém, công tác quản lý
ngoại hối lỏng lẻo : Hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ ở cả Đông Nam á,
Hàn quốc và Nhật đã dẫn đến một số lượng nợ lòng vòng khổng lồ mà không
kịp phát hiện kịp thời. Các nước có thị trường tiền tệ khủng hoảng đều có
mức nhập siêu quá lớn, trong khi tỷ lệ dữ trữ ngoại tệ trên nợ nước ngoài là
quá thấp. Trong năm 1996, tỷ lệ này của Hàn quốc là 31%, Inđonesia chỉ
khoảng 12% và Thái lan là 43,1%...
Bảng 8 : Dự trữ ngoại tệ của các nước ASEAN .
dự trữ ngoại tệ các nước ASEAN
Năm Indonexia Malaysia Philippines Xingapore Thailan
Tháng 1
Tháng 2
Tháng 3
Tháng 4
Tháng 5
Tháng 6
Tháng 7
Tháng 8
19,83
19,86
19,87
20,38
20,99
21,08
21,67
20,38
28,40
28,70
29,10
28,30
27,70
28,00
23,30
21,10
11,00
11,79
11,83
11,56
11,42
-
9,60
-
77,45
77,36
78,82
78,99
80,54
81,85
79,51
78,05
38,20
37,20
37,10
36,30
32,20
31,40
30,40
25,90
Nguồn : Viện Phatra. Thái lan , tháng 9/1997
Cuối cùng chính sách tỷ giá cố định cứng nhắc tại các nước này đặc biệt mâu
thuẫn với cơ chế tự do di chuyển vốn trong nền kinh tế các nước từ đó làm
hạn chế và sai lệch khả năng kiểm soát các dòng vốn của Chính phủ .
14
***Thứ tư : Hệ thống ngân hàng - tài chính yếu kém, công tác quản lí
ngoại hối lỏng lẻo .
Nhìn chung hệ thống ngân hàng - tài chính tại các nước bị khủng hoảng
chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao .
Trong một thời gian dài sự yếu kém của hệ thống ngân hàng tài chính tại các
nước này được che dậy bởi những thành tựu kinh tế của các nước dẫn đến
các thông tin phản ánh bị lệch lạc , méo mó. Sự yếu kém của hệ thống ngân
hàng do nhiều nguyên nhân đem lại song theo chúng tôi có thể do một số
nguyên nhân chính như :
Thứ nhất : Chính phủ các nước có sự can thiệp ( mức độ khác nhau ) vào
hoạt động kinh doanh của các ngân hàng và các công ty tài chính nhằm
hướng các hoạt động ngân hàng vào hỗ trợ cho chính sách phát triển kinh tế .
Điều này dẫn đến việc quản lí tín dụng lỏng lẻo và mở rộng đầu tư quá mức
khiến cho hiệu quả kinh tế thấp.
Hai là : Bản thân các ngân hàng chậm trễ trong việc đổi mới hoạt động và
bảo thủ trong việc hiện đại hoá các hoạt động nghiệp vụ của mình và phụ
thuộc rất lớn vào sự trợ giúp của chính phủ .
Sự yếu kém trong hoạt động của hệ thống ngân hàng - tài chính
thể hiện trước hết trong việc quản lí và cấp tín dụng trong nước được
coi là kém hiệu quả và không chặt chẽ . Trên cơ sở của đà phát triển kinh
tế đã tạo dựng tốc độ mở rộng tín dụng đã tăng nhanh , vượt ra khỏi tầm
kiểm soát. Tại các nước này trong những năm gần đây tốc độ cho vay đã
vượt quá tốc độ tăng tiền gửi ở các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng tại
các nước này đã chi và đầu tư mà không tính đến khả năng cạnh tranh với
nước ngoài, ngân hàng thương mại trong nước cho vay một cách ồ ạt không
cần giới hạn bằng hình thức quan hệ tín chấp thay cho quan hệ thế chấp tài
sản .
15
Bên cạnh đó việc phân bổ vốn còn bị chi phối nhiều bởi yếu tố
chính trị . Trong khi đó lượng vốn tín dụng khổng lồ này lại được chủ
yếu đầu tư vào các lĩnh vực đòi hỏi vốn lớn song chu kì vốn lại chậm mà
điển hình là lĩnh vực bất động sản và đầu tư chứng khoán . Tại Malaysia
tính từ cuối năm 1992 đến tháng 12 năm 1996 tổng các khoản tín dụng
dành cho khu vực bất động sản và cổ phiếu tăng 2 lần , từ 34,24 tỷ
Ringgit lên 68,32 tỷ Ringgit trong khi tín dụng dành cho khu vực chế tạo
chỉ tăng 88%. Tại Indonexia tình trạng cho vay đầu cơ bất động sản
cũng diễn ra mạnh mẽ , chiếm tới 25% tổng tín dụng. ở Thái lan thực
trạng đầu tư cũng không lấy gì làm sáng sủa. Vốn vay qua hệ thống
ngân hàng thái lan được tập trung phần lớn vào lĩnh vực bất động sản
và đầu tư tài chính(Bảng dưới )***
Bảng 9 : Việc sử dụng các khoản vay mượn qua các ngân hàng Thái lan (
giá trị ròng )
Đơn vị : 100 tỷ Bath.
Các ngành 1993 1994 1995
Giá trị Tỷ lệ Giá trị Tỷ lệ Giá trị Tỷ lệ
Thực phẩm
Luyện kim
Hoá chất
Sx đồ dùng gia đình
Dệt
SXVL xây dựng
Sx máy móc
Dầu khí
Xây dựng
Thương mại
Đầu tư chứng khoán
60,0
53,9
47,2
52,1
32,5
24,5
24,0
2,0
22,9
147,9
66,4
7,2
6,4
5,6
6,1
3,8
2,9
2,8
0,2
2,7
17,5
7,8
51,8
62,6
81,3
92,6
44,4
62,2
81,5
47,8
38,4
268,9
263,5
3,3
3,9
5,1
5,8
2,8
3,9
5,1
3,0
2,4
16,9
16,6
55,0
123,3
125,3
56,3
54,8
78,8
18,6
36,5
45,9
153,6
226,1
4,5
10,1
10,3
4,6
4,5
6,5
1,5
3,0
3,8
17,6
18,5
16
Khai thác mỏ
Dịch vụ
Bất động sản
Những ngành khác
0,7
55,3
116,4
140,4
0,1
6,5
13,7
16,6
-3,5
83,3
160,3
254,3
-0,2
5,2
10,1
16,0
3,4
-16,4
115,6
142,3
0,3
-1,3
9,5
11,7
Tổng cộng 847,0 100,0 1589,5 1218,9 100,0
Nguồn : Nền kinh tế TháI lan đối mặt với điều chỉnh cơ cấu - Nhóm nghiên
cứu kinh tế Châu á FUMYUKI-TESTUJI SANO , Viện Nomura.
Điều nguy hiểm hơn là các khoản tín dụng trên do nhiều lí do đã không
được bảo đảm. Chính vì vậy khi nền kinh tế bị đình đốn, xuất khẩu giảm sút
làm cho các doanh nghiệp vay vốn không có khả năng hoàn trả đã đưa các tổ
chức ngân hàng đến bờ vực của sự phá sản, gây lên các cú sốc trong hệ
thống tài chính ngân hàng và và khởi đầu cho sự khủng hoảng.
Thêm vào đó, chính sách quản lí nợ của hệ thống ngân hàng các nước bị
khủng hoảng chưa được coi trọng đúng mức. Trong khi thị trường tài chính
tại các nước này có mức độ tự do hoá mạnh, các luồng vốn được di chuyển
dễ dàng thì cơ chế quản lí, giám sát của NHNN đối với các NHTM và của
NHTM đối với các doanh nghiệp lại lỏng lẻo và không kiểm soát dẫn đến
tình trạng vạy nợ nước ngoài tràn lan. Tại hầu hết các nước bị khủng hoảng
đều duy trì chính sách lãi suất trong nước cao hơn nhiều so với lãi suất bên
ngoài nên càng khuyến khích hàng loạt các công ty vay nợ từ nước ngoài để
hưởng chi phí vốn thấp. Chẳng hạn, tại Thái lan 9/10 công ty do Viện Pharta
Thankit thống kê đã vay nợ tại nước ngoài với lãi suất là 8,5% năm thấp hơn
rất nhiều so với lãi suất trong nước là 13,5% / năm.
Đồng thời hệ thống ngân hàng tại các nước này đã không điều chỉnh hợp
lí tỷ lệ vay nợ ngắn hạn và dài hạn. Khoản vay ngắn hạn ngày càng gia tăng.
Chỉ tính riêng ở Thái lan đã tăng gần 42% trong vòng 2 năm từ 29,3 tỷ USD
17
năm 1994 lên đến 41,5 tỷ USD năm 1996. Còn đối với Indonesia theo ước
tính số nợ nước ngoài ngắn hạn chiếm 34,3 tỷ USD trong tổng số 120,5 tỷ
vay nợ nước ngoài. Trong khi đó các nước đều duy trì tỷ giá cố định theo
USD vì vậy khi nền kinh tế các nước bị lâm vào tình trạng sa sút về xuất
khẩu , tăng trưởng chậm kéo theo tình trạng thiếu ngoại tệ để thanh toán nợ
nước ngoài đã đến hạn. Tình hình đó dẫn đến sức ép về phá giá đồng bản tệ
ngày càng mạnh. Điều này càng xấu thêm khi những lời đồn đại về khả năng
phá giá đồng bản tệ đã thúc dục các công ty và cá nhân đổ xô đi mua ngoại
tệ nhằm trang trải các khoản nợ. Hành động này cộng hưởng với sự gia tăng
đầu cơ càng làm tăng sức ép đối với đồng bản tệ vốn được coi là bị đánh giá
quá cao trong bối cảnh nền kinh tế đình đốn của các nước.
Sự yếu kém của hệ thống ngân hàng các nước này còn thể hiện trong
việc chậm trễ có các giải pháp đối phó với tình trạng di chuyển vốn ngoại tệ
một cách khá tự do. Chính sách quản lí ngoại hối quá lỏng lẻo đã tạo điều
kiện cho sự chuyển đổi dễ dàng giữa đồng bản tệ và ngoại tệ dẫn đến không
kiểm soát được sự rời đi của các dòng vốn do sự bán tháo đồng nội tệ để lấy
USD khi xuất hiện các dấu hiệu bất ổn định trên thị trường tiền tệ .
Tóm lại, theo chúng tôi khủng hoảng tiền tệ tại các nước Châu á năm
1997 là kết quả của một nền kinh tế hướng ngoại bị lệ thuộc nặng nề vào một
số ngành công nghiệp xuất khẩu và vào các khoản vay nợ, đặc biệt là các
khoản vay ngắn hạn bên ngoài không được kiểm soát. Trong khi đó các nước
lại duy trì một chính sách tỷ giá hối đoái cố định một cách cứng nhắc với sự
vận hành của hệ thống ngân hàng tài chính yếu kém.
III/ Tính chất của cuộc khủng hoảng
Tính chất của cuộc khủng hoảng ở Châu á hiện nay cũng là một vấn đề
quan trọng được bàn cãi. Ban đầu khi cuộc khủng hoảng bắt đầu nổ ra người
ta cho rằng đó là sự biến động tiền tệ hay khủng hoảng tiền tệ thông thường,
18
dần dần với mức độ tác động mạnh và ngày càng sâu rộng nhiều quan điểm
nhận định đây là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ rồi khủng hoảng tài
chính. Theo chúng tôi cần thiết phải có quan điểm đúng về tính chất của
cuộc khủng hoảng, cùng với xác định đúng nguyên nhân việc xác định chuẩn
xác tính chất của cuộc khủng hiện nay sẽ là cơ sở để các nước đề ra các biện
pháp phục hồi lại nền kinh tế và đối với các nước chịu ảnh hưởng ít sẽ là cơ
sở để có các biện pháp ngăn chặn. Căn cứ vào diễn biến và nguyên nhân cơ
bản của cuộc khủng hoảng đã phân tích ở trên chúng tôi đồng ý với quan
điểm cho rằng cuộc khủng hoảng hiện nay đã thực sự trở thành cuộc khủng
hoảng kinh tế -tài chính và mang tính quốc tế hoá sâu sắc. Cuộc khủng
hoảng diễn ra theo cơ chế hình sóng, lan toả từng đợt và tác động, xâm nhập
vào các nền kinh tế khác theo cơ chế “Đôminô “theo nguyên tắc càng xa,
càng cách biệt trong quan hệ kinh tế thì mức độ càng nhẹ.
B. Những tác động
I/ Đối với các nước trong khu vực.
Sự phá giá của đồng Baht và các đồng tiền khác của các nước Đông
Nam á gây ra hậu quả nghiêm trọng lâu dài và tác động xấu đến mọi hoạt
động của đời sống kinh tế xã hôị của đất nước.
Trong thời gian trước và trong khủng hoảng, các nước đều phải tiêu tốn
số lượng ngoại tệ lớn để chống đỡ giữ cho đồng tiền không bị mất giá quá
mức. Thái lan sử dụng 15 tỷ USD trong tổng số 33 tỷ USD dự trữ ngoại tệ
của Nhà nước để cứu nguy cho đồng Baht, Philippines cũng sử dụng 20%
tổng số dự trữ để hỗ trợ cho đồng peso. Các nước khác như Malaysia,
Indonesia cũng sử dụng nhiều tỷ đôla Mỹ vào mục đích nói trên.
Nợ nước ngoài tính bằng ngoại tệ tăng lên khoảng 25-40 % tuỳtheo mức
độ phá giá của đồng tiền. Như vậy, nợ nước ngoài của Thái lantừ 85 tỷ
19
USD lên 119 tỷ USD ; Malaysia từ 29 tỷ lên 36,5 tỷ USD ; Philippines từ
43, 5 tỷ lên 54,4 tỷ USD ; Indonesia từ 109,3 tỷ lên150,5 tỷ USD.
Hoạt động đầu tư, kinh doanh bị đình đốn. Hàng loạt các doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán hoặc bị phá sản.
Do đồng tiền bị mất giá, nền kinh tế vĩ mô không ổn định, nguồn đầu tư
nước ngoài sẽ bị giảm sút và có thể sẽ chuyển sang khu vực khác ổn định
và có nhiều lợi thế hơn như Trung quốc, khu vực Mỹ Latinh...
Hệ thống tài chính đổ vỡ gây sức ép lớn tới lạm phát, giảm thu nhập của
người lao động, tác động xấu đến các mặt của đời sống chính trị, xã hội.
Cuối cùng để khắc phục được hậu quả khủng hoảng, ổn định trở lại nền kinh
tế trên thế cân bằng mới, các quốc gia này phải tiêu tốn một lượng tài chính
rất lớn, theo ước tính vào khoảng trên dưới 10% GDP. Đây là khó khăn lớn
nhất không thể giải quyết ngay được trong một thời gian ngắn.
Bên cạnh những tác động tiêu cực, cuộc khủng hoảng cũng có những yếu tố
tích cực sau :
Giảm giá đồng tiền lại góp phần khuyến khích xuất khẩu, hàng
xuất khẩu của các nước này có thêm cạnh tranh lớn trên thị trường
quốc tế nhất là trong tương quan so sánh với các mặt hàng cùng
loại của các nước trong khu vực có đồng tiền ổn định hơn.
Các yếu tố đầu vào tính bằng ngoại tệ, bao gồm tiền lương, đất đai,
dịch vụ... giảm một cách tương đối cao so với các nước khác, nên
khi khủng hoảng kết thúc thì chính các nước này lại có lợi thế thu
hút vốn đầu tư, cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
Nếu xét về lâu dài, thì đây là dịp các nước này rút ra được các bài
học điều chỉnh lại các chính sách vĩ mô, điều chỉnh lại cơ quan phát
triển kinh tế. Những kết quả của các cải cách này sẽ tạo ra động lực
thúc đẩy sự phát triển một cách bền vững hơn.
20
Không chỉ ảnh hưởng tới các nước trong khu vực châu á, cuộc khủng
hoảng còn có tác động tới nền kinh tế khoẻ mạnh của Mỹ. Năm 1997 là năm
sức khoẻ nền kinh tế Mỹ tốt hơn bao giờ hết. Giới kinh doanh Mỹ tự nhủ nếu
không có khủng hoảng châu á, năm 1998 này họ đã có thể dễ dàng tiên đoán
thêm một năm ăn nên làm ra nữa. Cuộc khủng hoảng đang làm các nhà xuất
khẩu Mỹ đau đầu : thâm hụt mậu dịch chừng 115 tỷ USD trong năm 1997 sẽ
tăng vọt quá con số kỷ lục là 153 tỷ USD như năm 1987, nếu các công ty Mỹ
không tìm được thị trường mới ở châu á và châu Mỹ để bù đắp vào xuất
khẩu sang châu á đang giảm sút.
Vì vậy, tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) chỉ khoảng 2,4 % so
với 3,7 % của năm 1997, năm có mức tăng trưởng cao nhất của Mỹ kể từ
1988. Lạm phát trong năm 1997 chỉ còn 2,1%, thấp nhất kể từ năm 1965,
nhưng nhiều người tin rằng con số này sẽ tăng lên 2,5% năm nay. Tỷ lệ thất
nghiệp đã xuống còn 4,6 % vào tháng 11 năm ngoái, cũng là mức thấp nhất
trong vòng 24 năm qua, sẽ nhích lên 5% vào đầu năm 1998
II/ Đối với Việt Nam
Là một quốc gia nằm trong khu vực khủng hoảng, trong bối cảnh quốc
tế hoá cao như hiện nay, rõ ràng Việt Nam không tránh khỏi những tác động
trực tiếp và gián tiếp, ngắn hạn và dài hạn, tốt và xấu của nó đến tất cả các
lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nước.
Ban đầu khi cuộc khủng hoảng vừa bùng nổ nhiều ý kiến phân tích
nhận định rằng nền kinh tế Việt nam sẽ không bị ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng
không đáng kể , căn cứ của luận điểm trên mới chỉ dừng ở sự phân tích bề
ngoài như :
+ Đồng tiền Việt nam chưa phải là đồng tiền được chuyển đổi dễ dàng ,
chưa tham gia vào thị trường tiền tệ khu vực.
+ Việt nam chưa có thị trường chứng khoán
21
Tuy nhiên theo chúng tôi việc phân tích các tác động của cuộc khủng
hoảng tiền tệ ở Châu á đến nền kinh tế Việt nam phải xuất phát từ góc độ
Việt nam đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN , bước đầu gia
nhập AFTA và tới đây trong xu thế hội nhập sẽ gia nhập APEC , WTO . Chỉ
có như vậy mới có thể đưa ra được những đánh giá mang tính khoa học.
Đối với Việt nam cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực đã
có những tác động ở mức độ khác nhau trên nhiều lĩnh vực chủ yếu như :
thương mại, đầu tư , tâm lí xã hội và vấn đề nợ nước ngoài. Sau đây ta sẽ di
xem xét những ảnh hưởng trên từng lĩnh vực cụ thể :
1/ Thương mại
So với các nước, tỷ trọng thương mại của Việt nam với các nước trong
khu vực Châu á đóng một vai trò hết sức quan trọng. Trong đó về nhập khẩu
các nướ ASEAN chiếm tỷ trọng trên 25%, các nước Châu á khác chiếm trên
45% tổng kim ngạch nhập nhẩu của Việt nam. Tính chung lại thì hàng năm
Việt nam nhập khẩu từ các nước Châu á với tỷ trọng lớn trên 70%. Các mặt
hàng chủ yếu nhập khẩu từ các nước này vào Việt nam gồm : xăng dầu, sắt
thép, phân bón, xi măng, linh kiện điện tử, ôtô, xe máy. Về xuất khẩu, đối
với thị trường các nước ASEAN kim ngạch xuất khẩu của Việt nam chiếm tỷ
trọng không dưới 20%, thị trường Châu á chiếm 40% trong tổng kim ngạch
xuất khẩu của Việt nam. Tính chung, Việt nam xuất khẩu hàng hoá sang các
nước Châu á chiếm khoảng trên 60% tổng kim ngạch xuất khẩu, các mặt
hàng xuất khẩu chủ yếu gồm : dầu thô, than đá, cao su, cà phê hạt, gạo, dệt
may, da giầy và hải sản .
Bảng 10: Tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt nam và ASEAN .
Nguồn : Bộ thương mại
Các nước Năm 1996 Năm 1997
22
Nhập khẩu Xuất khẩu Nhập khẩu Xuất khẩu
Trị giá Tỷ
trọng
Trị giá Tỷ
trọng
Trị giá Tỷ
trọng
Trị
giá
Tỷ
trọng
Tổng số 11.668 100 7.350 100 11.150 100 8.760 100
Các nước
Asean
2.948 25,2 2.252 30,6 3.098 27,8 1.787 20,4
Các nước
Châu á
khác
5.537 47,4 2.177 37,0 5.391 48,3 3.740 42,7
Phần còn
lại
3.195 27,4 2.379 32,4 2.661 23,9 3.323 36,9
Dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á hoạt
động xuất nhập khẩu của Việt nam cũng có một số biến động.
Thứ nhất : Về xuất khẩu. Do đồng nội tệ của các nước bị khủng hoảng
mất giá hơn so với Việt nam Đồng nên theo nguyên lí xuất khẩu hàng hoá
của Việt nam sang các nước này sẽ bị hạn chế do giá của các hàng hoá này
trở lên đắt tương đối và nhu cầu nội địa tại các nước bị khủng hoảng giảm
sút. Bên cạnh đó như phần trên đã chỉ ra cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt
nam cũng giống như cơ cấu hàng xuất của các nước ASEAN do đó chắc
chắn vễ xuất khẩu của Việt nam hiện tại và trong tương lai sẽ có sự sụt giảm
đáng kể. Điều này được phản ánh qua số liệu tình hình xuất nhập khẩu năm
1997 khi cuộc khủng hoảng bắt đầu nổ ra và lan rộng, xuất khẩu của Việt
nam thời gian này giảm từ 2.252 triệu USD năm 1996 xuống còn 1.787 triệu
USD ( bảng trên ) , mức giảm là 465 triệu USD. Đặc biệt phân tích tình hình
xuất khẩu cho thấy thị trường xuất khẩu hàng hoá của Việt nam đang có xu
hướng bị thu hẹp. Năm 1997 kim ngạch xuất khẩu của Việt nam sang các
23
nước ASEAN, Nhật và Hàn Quốc đạt khoảng 42,2 % tổng kim ngạch xuất
khẩu trong đó trên 24% là sang các nước ASEAN nhưng trong đó 65-79% là
hàng xuất sang Singapore một quốc gia bị ảnh hưởng ít của cuộc khủng
hoảng. Dự đoán của các chuyên gia sang năm 1998 và kéo dài ít nhất 1-2
năm nữa mức ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đến xuất khẩu của Việt nam
còn lớn hơn . Số liệu đầu năm 1998 ( tháng 1/98) cho thấy xuất khẩu của
Việt nam sang các nước ASEAN đã giảm 57% so với tháng 12 năm 1997 ,
xuất khẩu sang Hàn Quốc giảm 24% và sang Đài loan giảm 50%, theo báo
cáo của NHNN xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm 1998 chỉ tăng 10,2% (
trong khi đó cùng kì năm 1997 tăng 32%). Vì vậy trong thời gian tới Chính
phủ cần có các biện pháp kịp thời nhằm hạn chế những tác động của cuộc
khủng hoảng và thúc đẩy xuất khẩu .
Thứ hai : Về nhập khẩu. Theo lí thuyết thì nhập khẩu của Việt nam từ
các nước bị khủng hoảng Châu á sẽ tăng mạnh song thực tế ngay từ đầu năm
1997 Chính phủ Việt nam đã áp dụng các biện pháp để hạn chế nhập siêu,
đặc biệt là đối với các mặt hàng trong nước có khả năng đáp ứng và những
mặt hàng tiêu dùng. Vì vậy qua tình hình nhập khẩu năm 1997 cho thấy các
mặt hàng nhập khẩu vào Việt nam bao gồm các loại vật tư, nhiên liệu, máy
móc phục vụ cho sản xuất đều được nhập khẩu khá dễ dàng nhờ thuế suất
thấp, rõ ràng đây là mặt lợi mà cuộc khủng hoảng trong khu vực đem lại cho
Việt nam. Theo báo cáo của Bộ thương mại giá máy móc thiết bị giảm từ 20-
40% so với trước khi xảy ra khủng hoảng, giá nguyên liệu nhựa giảm 10-
30%, linh kiện điện tử giảm 10-30%, bông xơ các loại giảm 10-15%. Đây
thực sự là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt nam tận dụng để
giảm chi phí đầu vào .
Bên cạnh đó do tác động của cuộc khủng hoảng tệ nạn buôn lậu ngày
càng gia tăng do giá cả hàng hoá tại các nước này rẻ so với hàng hoá tại Việt
nam và các nước không bị ảnh hưởng mạnh. Điều này nếu không có sớm các
24
biện pháp ngăn chặn sẽ tạo ảnh hưởng không tốt đến quá trình sản xuất của
các doanh nghiệp trong nước.
Theo chúng tôi, hiện nay có thể áp lực của cuộc khủng hoảng đối với
nhập khẩu không là đáng kể song trong thời gian tới mức độ tác động sẽ lớn
hơn khi Việt nam phải thực hiện các chương trình cắt giảm thuế quan nhập
khẩu theo quy định của AFTA .
2/ Đối với đầu tư nước ngoài.
Đầu tư dưới dạng ODA : Thực tế về huy động vốn đầu tư ODA của
Việt nam cho thấy hiện nay đang diễn ra quá trình cạnh tranh và giành giật
hết sức quyết liệt giữa các nước nghèo, các nước đang phát triển nguồn vốn
ODA từ các nước phát triển và các tổ chức tài chính quốc tế. Số liệu cho
thấy trong các hiệp định cho vay đa phương thì WB ( World Bank ) chiếm
22% tổng số vốn cam kết, tiếp sau là ADB 16%. Như vậy sau khi xảy ra
khủng hoảng chắc chắn mức cam kết của ADB sẽ giảm xuống. Các nước
trước đây thường cho Việt nam vay vốn ODA như Nhật Bản, Hàn Quốc
cũng đang bị ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng nên việc gia tăng các
nguồn vốn ODA từ các nước này cũng sẽ rất khó khăn .
Như vậy việc huy động nguồn vốn ODA sẽ ngày càng trở nên khó khăn
hơn dưới tác động của cuộc khủng hoảng.
Về thu hút đầu tư dưới dạng FDI ( Foreign Direct Invesment ) : Đầu tư
ở Việt nam từ sau khi ban hành Luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước
ngoài ( năm 1987 ) đã ngày càng tăng mạnh cả về chất và lượng.
Bảng 11 : Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt nam
Chỉ tiêu 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997
Số dự án cấp phép 155 193 272 362 404 501 479
Vốn đăng kí ( 1388 2271 2987 4071 6616 9212 5548
25
Tr.USD)
Số dự án giải thể 38 48 34 58 56 52 55
Số vốn giải thể 293 401 79 217 477 1024 243
Số dự án tăng vốn 6 10 51 73 122 134 143
Số vốn tăng 7,7 49 222 504 1247 684 1095
Vốn thực hiện 221 398 1106 1952 2652 2371 2950
Tỷ lệ VTH/VĐK(%) 24 22,7 28 34,1 34,8 33 53,1
Nguồn : Bộ kế hoạch và đầu tư
Số liệu năm 1997 cho thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt nam đã
có dấu hiệu chững lại.
3/ Tâm lí xã hội
Cơn bão tài chính tiền tệ tại các nước Châu á mà tâm điểm là khu vực
Đông Nam á nổ ra đã tác động mạnh đến tâm lí của người dân Việt nam.
Những ảnh hưởng này thể hiện rõ nhất qua việc rút tiền tiết kiệm hàng loạt
của dân cư và các tổ chức kinh tế quy đổi sang ngoại tệ hoặc các loại tài sản
khác như vàng, đá quý vì lo sợ sự mất giá nghiêm trọng của VNĐ. Trong cơ
cấu tiền gửi tại ngân hàng tiền gửi bằng Việt nam đồng có xu hướng tăng
chậm trong khi tiền gửi bằng ngoại tệ tăng khá nhanh kể cả tiền gửi ngoại tệ
của dân chúng và của các doanh nghiệp.
Tuy nhiên theo chúng tôi tác động tâm lí mạnh nhất của cuộc khủng
hoảng là đã có không ít những quan điểm cho rằng : cơn bão tài chính tiền tệ
chỉ xảy ra và lan truyền theo hiệu ứng đến những quốc gia có nền kinh tế
đang trong thời kỳ tự do hoá và hội nhập vào khu vực và trên thế giới và
như vậy, để tránh một cuộc khủng hoảng tương tự Việt nam không vội vàng
gì phải đẩy nhanh quá trình hội nhập và toàn cầu hoá nền kinh tế, và cuối
cùng cần phải xem lại mô hình và đường lối phát triển kinh tế của Việt nam.
26
Thêm nữa, sau khi nhận thấy một trong những nguyên nhân gây ra cuộc
khủng hoảng là do việc điều hành chính sách tỷ giá không hợp lí tại các nước
bị khủng hoảng không ít những nhà kinh tế đã lên tiếng cho rằng việc giữ ổn
định tỷ giá hiện nay của Việt nam là sai lầm và cần phải phá giá VNĐ để trả
lại giá trị đích thực cho đồng bản tệ , chỉ có như vậy mới có thể thúc đẩy
xuất khẩu. Về gián tiếp, những quan điểm này đã tác động mạnh đến xu
hướng đầu cơ và tích trữ ngoại tệ ở Việt nam trong thời gian này .
4/ Sản xuất trong nước
Do biến động của tỷ giá VNĐ/USD và hiệu ứng tâm lí của cuộc khủng
hoảng làm cho quá trình đầu tư trong nước có xu hướng giảm. Khi có biến
động về tiền tệ các khoản tiết kiệm sẽ chuyển thành các ngoại tệ mạnh và các
loại taì sản quý để tích trữ điều này gây khó khăn cho hoạt động huy động
vốn trong nước của ngành ngân hàng. Mặc dù qua số liệu năm 1997 lượng
vốn huy động trong nước qua hệ thống ngân hàng thương mại tiếp tục tăng
trưởng 21 nghìn tỷ đồng so với cuối năm 1996 ( tăng 25% ), trong đó tốc độ
tiền gửi ngoại tệ tăng 27,9%, tiền gửi bằng VNĐ tăng 24,8% đưa tỷ lệ tiền
gửi so với GDP tăng từ 25% năm 1996 lên 28%. Song hiện tại ngân hàng
mới chỉ đáp ứng được được khoảng 45-46% nhu cầu về vốn cho các doanh
nghiệp quốc doanh. Trong khi đó việc các nước trong khu vực phá giá đồng
nội tệ đã làm cho hàng sản xuất từ các nước này trở lên rẻ tương đối và cạnh
tranh gay gắt với hàng sản xuất của Việt nam. Như vậy cuộc khủng hoảng đã
làm cho việc đầu tư mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp gặp khó khăn do
thiếu vốn và bị cạnh tranh gay gắt bới hàng hoá rẻ từ các nước trong khu
vực.
5/2 Ngân sách Nhà nước
27
Về thu ngân sách : Như đã phân tích ở phần trên, do tác động của cuộc
khủng hoảng lượng hàng nhập sẽ có xu hướng gia tăng vì vậy thu thuế từ
nhập khẩu sẽ tăng lên. Song theo chúng tôi, xét về dài hạn thì mức tăng thêm
sẽ không nhiều vì để đảm bảo các điều kiện cho quá trình hội nhập về kinh tế
Việt nam phải cắt giảm hàng loạt thuế các mặt hàng nhập khẩu. Do tác động
của cuộc khủng hoảng sẽ dẫn đến thu ngân sách Nhà nước có hai hiệu ứng
trái ngược nhau :
Một là : có khả năng tăng thu thuế xuất nhập khẩu.
Hai là : gánh nặng nợ nần và chi phí nguyên vật liệu tăng lên có thể làm
cho các doanh nghiệp sản xuất Việt nam bị đình đốn thậm chí là phá sản và
như vậy tác động của khủng hoảng sẽ làm giảm thu ngân sách.
Về chi ngân sách : Trong thời gian tới do VNĐ mất giá 10-15% do ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng lên việc chi ngân sách Nhà nước sẽ tăng lên để
đối phó với lạm phát có thể lên cao và chi trả nợ nước ngoài. Các khoản nợ
tính bằng VNĐ của Nhà nước và các doanh nghiệp sẽ tăng lên do VNĐ mất
giá sẽ là gánh nặng cho các doanh nghiệp và Nhà nước, làm giảm đáng kể dự
trữ quốc tế của Việt nam.
6/ Tác động đến lĩnh vực ngân hàng - tài chính :
Cuộc khủng hoảng đã gây ra sức ép giảm giá đồng Việt nam trên thị
trường hối đoái. Do đồng tiền của các nước trong khu vực mất giá từ 30-70%
nên trên thực tế VNĐ đã lên giá so với đồng tiền các nước này và gây sức ép
phá giá. Thực tế, tâm lí lo sợ VNĐ phá giá đã dẫn đến việc vội vàng chuyển
từ VNĐ sang USD để tích trữ, đẩy tỷ giá USD trên thị trường tự do tăng
mạnh trong một thời gian, có thời điểm lên tới 1USD=14.600 VNĐ. Để đối
phó lại NHNN đã phải dùng nhiều biện pháp để đối phó như tung ngoại tệ ra
bán, nâng mức biên độ dao động, tăng cường các biện pháp kiểm soát ngoại
hối.
28
Cơ cấu tiền gửi tại hệ thống ngân hàng cũng chịu ảnh hưởng mạnh của
cuộc khủng hoảng. Vào thời điểm đầu năm 1998, lượng tiền gửi bằng VNĐ
tăng chậm trong khi đó tiền gửi bằng ngoại tệ tăng khá nhanh ( kể cả tiền gửi
của dân cư và của các doanh nghiệp ). Nhiều doanh nghiệp giữ lại ngoại tệ
trên tài khoản mà không bán lại cho NHNN để tránh rủi ro do sự mất giá của
VNĐ. Tình hình trên đã gây mất cân đối ngoại tệ ở từng thời điểm, gây sức
ép đến tỷ giá VNĐ và sự ổn định của thị trường hối đoái.
Ngoài ra ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng còn được thể hiện rõ qua
hoạt động giao dịch ngoại tệ. Trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng tính từ
đầu năm đến tháng 3/1998, các hoạt động giao dịch có chiều hướng giảm sút
, các ngân hàng thương mại chỉ tiến hành mua vào mà không bán ra ngoại tệ
dẫn đến cầu vượt xa cung gây mất cân đối cung cầu ngoại tệ từ đó gây sức
ép tăng lãi suất và dễ làm mất ổn định hệ thống ngân hàng. Ngoại tệ tăng giá
làm tăng nhu cầu vay vốn bằng Việt nam đồng do lãi suất thấp và tránh rủi
ro về tỷ giá song khi nhu cầu vay vốn bằng VNĐ tăng lên tạo sức ép tăng lãi
suất VNĐ, lãi suất tăng sẽ ảnh hưởng đến việc khuyến khích đầu tư trong khi
đó hệ thống ngân hàng Việt nam hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn về
huy động vốn, cho vay và khả năng thanh toán trong nước và quốc tế.
B/ Tác động đối với tiến trình hội nhập kinh tế Việt nam vào AFTA ,
APEC và WTO.
Theo các mục tiêu của AFTA : tăng chu chuyển thương mại nội bộ giữa
các nước ASEAN và thế thương lượng cạnh tranh thương mại của toàn
ASEAN với thế giới, tạo lập khu vực hấp dẫn đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào khu vực và làm cho nền kinh tế ASEAN thích ứng với mọi biến đổi của
nền kinh tế thế giới.. thì cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực đã
hoàn toàn ảnh hưởng đến mục tiêu và các định hướng đặt ra. Do đó tiến trình
29
rút ngắn thời hạn thực hiện AFTA của một số nước thành viên trong bối ảnh
hiện nay là hết sức khó khăn. Vì vậy đối với Việt nam tiến trình hội nhập vào
nền kinh tế khu vực và thế giới bằng việc gia nhập ASEAN, APEC, WTO
chắc chắn sẽ không tránh khỏi những trở ngại.
Như phần trên đã phân tích xét về lâu dài những tác động của cuộc
khủng hoảng trong khu vực đối với nền kinh tế Việt nam không phải là nhỏ,
thêm vào đó ở trong nước, Việt nam cũng đang vấp phải những hiện tượng
kinh tế có những nét tương tự giống như tình hình của các nền kinh tế
ASEAN trước khi bị khủng hoảng như : hệ thống ngân hàng yếu kém, xuất
hiện các khoản nợ khó đòi trong hệ thống các ngân hàng thương mại, thâm
hụt ngoại thương và thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế, đầu tư trực tiếp
nước ngoài giảm sút.. Những dấu hiệu này sẽ ảnh hưởng và làm giảm sút
khả năng phát triển kinh tế của việt nam vào những năm tới. Theo đó, lộ
trình thực thi AFTA mà Việt nam cam kết hoàn thành vào năm 2006 sẽ
không dễ dàng thực hiện chứ chưa nói gì đến mong muốn rút ngắn thời hạn
hoàn thành vào năm 2003 như một số người đã kỳ vọng trước khi cuộc
khủng hoảng trong khu vực xảy ra. Điều này lại càng trở lên khó khăn hơn
khi cuộc khủng hoảng đã diễn ra hết sức sâu sắc và nghiêm trọng, quy mô
tác động của nó không chỉ giới hạn ở Châu á mà đã lan toả ảnh hưởng khắp
toàn cầu. Do hậu quả của cuộc khủng hoảng tăng trưởng kinh tế của các
nước ASEAN sẽ chậm lại trong một vài năm tới do đó sẽ làm chậm tốc độ
chu chuyển thương mại của các nước ASEAN với nội bộ khu vực cũng như
thế giới. Mức độ bổ sung lẫn nhau giữa các nước ASEAN theo đó sẽ không
được tăng cường. Vì vậy mục tiêu của AFTA đặt ra là tăng chu chuyển
thương mại nội bộ và thế thương lượng cạnh tranh thương mại của toàn
ASEAN với thế giới ngày càng trở lên khó khăn hơn .
Bên cạnh đó, khó khăn đối với tiến trình hội nhập của Việt nam hiện
nay là quá trình thúc đẩy tự do hoá tài chính diễn ra chậm chạp trong khi quá
trình xúc tiến tự do hoá thương mại và đầu tư mới đang ở bước đầu triển
30
khai. Thêm nữa, trong khu vực, ảnh hưởng của khủng hoảng đã làm đầu tư
nước ngoài giảm sút, nhu cầu trong nước do đồng tiền các nước bị mất giá
cũng trở lên yếu kém cộng hưởng với nguy cơ sụt giảm và thâm hụt cán cân
vãng lai tại thị trường Mỹ và Châu âu do tác động mang tính toàn cầu của
cuộc khủng hoảng làm cho tiến trình AFTA của các nước ASEAN nói chung
và Việt nam nói riêng trở lên khó khăn khi các thị trường làm điều kiện cho
sự tăng trưởng năng động của nền kinh tế ASEAN cũng rơi vào tình trạng
suy thoái.
Tuy vậy, xét về lâu dài, theo chúng tôi cuộc khủng hoảng tài chính tiền
tệ ở Châu á đã tạo ra sự cần thiết phải đổi mới một cách toàn diện nền kinh tế
các nước ASEAN theo xu hướng toàn cầu hoá và theo đó với những lợi thế
của mình tiến trình thực hiện gia nhập APEC, WTO trong một số năm sau
cuộc khủng hoảng sẽ được thúc đẩy nhanh hơn .
Phần II : Biện pháp hạn chế tác động của cuộc khủng hoảng tiền tệ
I Đối với các nước trong khu vực.
1/Huy động vốn hỗ trợ trong và ngoài nước
Sự hỗ trợ tài chính khẩn cấp của cộng đồng quốc tế là nhân tố có hiệu
lực tức thì và mạnh mẽ nhất để chế ngự cuộc khủng hoảng, tránh sự lan rộng
và hậu quả lâu dài ở trong và ngoài nước. Dựa vào chương trình hỗ trợ IMF,
WB và các tổ chức tài chính quốc tế khác.
Lịch sử cho thấy rằng, các tổ chức tài chính quốc tế, đặc biệt là Quỹ
Tiền tệ Quốc tế (IMF) đóng vai trò quan trọng trong việc khắc phục các cuộc
khủng hoảng kinh tế tài chính. Mặc dù hiện đang có những đánh giá khác
nhau về vai trò của tổ chức tài chính này trong việc hạn chế khủng hoảng tài
chính tiền tệ khu vực châu á, song thực tế cho thấy rằng, trước những khó
khăn nặng nề do cuộc khủng hoảng tài chính gây ra như hiện nay, sử dụng
vốn hỗ trợ của các tổ chức tài chính quốc tế và của nước ngoài lf biện pháp
31
thiết thực để có thể thoát nhanh khỏi cuộc khủng hoảng. Trong chừng mực
nhất định, IMF vẫn là tổ chức có những tác động tích cực để cải thiện nền
tài chính cũng như kinh tế các nước đang chìm trong khủng hoảng.
Đối với Thái lan, nước chịu tác động mạnh mẽ nhất, vào giai đoạn đầu
của cuộc khủng hoảng, sau những cố gắng vận động khu vực và quốc tế tại
phiên họp do IMF chủ trì ở Tokyo tháng 8/1997, các tổ chức tài chính quốc
tế đã cam kết hỗ trợ cho nước này 17,2 tỷ USD, trong đó IMF và Nhật Bản
mỗi bên góp 4 tỷ USD. Ngân hàng thế giới (WB) và ngân hàng phát triển
Châu á (ADB) góp 2,7 tỷ USD ; Australia, Malaysia, Singapore, Hồng
Kông, Trung Quốc, mỗi bên góp 1tỷ USD, Hàn Quốc và Brunei mỗi bên góp
500 triệu USD. Đáng lưu ý là, để nhận được khoản tín dụng này, Chính phủ
Thái lan phải chấp nhận “giải pháp cả gói “ do IMF đưa ra : với ngân sách,
Thái lan vừa phải tăng thuế VAT từ 7- 10%, vừa giảm chi tiêu 10%; phải
đóng cửa các công ty tài chính yếu kém và duy trì dữ trữ ngoại tệ ít nhất là
25 tỷ USD; giữ tỷ lệ lạm phát ở mức 8- 9% ; giảm thâm hụt tài khoản vãng
lai xuống còn 5% GDP trong năm 1997 và 3% GDP trong năm 1998 ; cải tổ
cơ cấu và sát nhập một số định chế tài chính, thiết lập hệ thống bảo hiểm tiết
kiệm...
Đối với Hàn Quốc thì sao ? Để nhanh chóng khắc phục khủng hoảng,
Chính phủ đã kêu gọi các tổ chức ngân hàng nước ngoài hỗ trợ tài chính,
củng cố nguồn vốn đầu tư trong nước. Theo công bố của IMF, vào đầu
tháng 12- 1997 tổ chức ngân hàng quốc tế và các nước khác đồng ý cho Hàn
Quốc vay 57 tỷ USD. Hoạt động của IMF trở nên tích cực hơn từ khi Hàn
Quốc bị cuốn vàovòng xoáy khủng hoảng và khi đồng Rupiah mất giá mạnh.
Kể từ tháng 8/1997 đến nay, IMF đã cam kết tài trợ cho Thái lan, Hàn Quốc
và Indonesia khoảng 100 tỷ USD. Để đổi lấy những khoản tiền đó, ngoài
những cam kết như Thái lan, ba nước này còn phải thực hiện những chính
sách mở cửa trong lĩnh vực ngân hàng.
32
2/ Các biện pháp trục vớt và cải thiện hệ thống tài chính quốc gia.
Ngoài biện pháp kêu gọi hỗ trợ tài chính quốc tế, ở trong nước, sau khi
thả nổi đồng nội tệ và thực hiện các biện pháp tình thế, tập trung tấn công
vào giới đầu cơ, Chính phủ các nước đã đưa ra những chính sách khắc phục
khủng hoảng của mình. Một mặt duy trì một cách nhất quán các chính sách
kinh tế tài chính tiền tệ cứng nhắc và thận trọng ; tăng cường áp dụng tỷ giá
hối đoái linh hoạt ; tạo ra những khuyến khích mang tính thị trường nhằm
nâng cao sự minh bạch trên thị trường vốn cũng như hiệu quả phân phối
nguồn vốn, tăng cung tiền tệ và quản lý tốt khu vực tư nhân. Mặt khác, tăng
cường năng lực của các tổ chức tài chính ngân hàng trong nước và định
hường ưu tiên cho các nỗ lực vượt qua khủng hoảng.
Căn cứ vào cách tiếp cận đối với chính sách tỷ giá hối đoái có thể thấy
rõ hai đối sách khác nhau. Một nhóm thả nổi tiền tệ, mà đại diện của nó là
Thái lan, Philippines, Malaysia, Indonesia. Một nhóm duy trì giá trị đồng nội
tệ gồm Hồng Kông, Trung Quốc và Hàn Quốc.
* Mục đích của thả nổi tỷ giá hối đoái là cố gắng lập lại thế cân bằng về
cán cân xuất nhập khẩu do phá giá tiền tệ ở các nước gây ra. Trừ Singapore
chủ động phá giá tiền tệ, trình tự các đối sách của các nước này là : Tìm mọi
cách can thiệp vào thị trường ngoại hối bằng cách bán ngoại tệ dữ trữ để mua
đồng bản tệ ; Tìm mọi cách chống lại đầu cơ : nghiêm cấm cho vay với mục
đích đầu cơ đồng thời cắt phần vốn USD mà ngân hàng có thể nắm giữ ; Sau
khi hết cơ chống đỡ, các nước thả nổi tiền tệ và chủ động nâng lãi suất trong
nước để bảo vệ đồng bản tệ ; Xốc lại hệ thống tại chính ngân hàng bằng
cách loại bỏ các tổ chức yếu kém để tránh lây lan sang các tổ chức lành
mạnh ; Tăng sinh lực cho những chính sách Nhà nước trên cơ sở cắt giảm
chi tiêu, cắt giảm đầu tư vào các dự án lớn trong lĩnh vực bất động sản ;
Giảm thâm hụt tài khoản vãng lai ; Khôi phục lại hoạt động của các doanh
33
nghiệp trên cơ sở hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu, lập ra các quỹ hỗ
trợ cấp tín dụng cho các doanh nghiệp, gia hạn nợ.
Thái lan là nước đầu tiên thực hiện chương trình kinh tế tổng thể gồm 9
điểm, tập trung vào việc khắc phục khủng hoảng tài chính tiền tệ trong nước
trên cơ sở đưa ra những quyết định và biệp pháp nhằm cải tạo vốn, đảm bảo
dữ trữ quốc gia, cân bằng chính sách, cắt giảm thâm hụt v.v... Theo yêu cầu
của IMF, Thái lan đã đưa ra những quyết định buộc phải dừng hoạt động
hoặc cưỡng bức sáp nhập các công ty tài chính yếu kém. Chính phủ cũng
phát hành trái phiếu, năm 1997, riêng ngân hàng Trung ương đã phát hành
trái phiếu giá trị khoảng 30 tỷ Baht (tăng 10 tỷ Baht so với năm 1996) để
giúp các tổ chức gặp khó khăn trong thanh toán, thậm chí chính phủ còn
mua lại với giá chiết khấu 25% những khoản cho vay để hỗ trợ. Các ngân
hàng thương mại Thái lan còn lập ra một quỹ 50 tỷ Baht để cứu vãn thị
trường chứng khóan.
Để cân bằng chính sách và lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia, các
nước trong khu vực cũng như Thái lan đã tiến hành các biện pháp ngặt nghèo
về tài chính như cắt giảm chi tiêu chính phủ, tăng thuế, ngừng tăng lương,
định hướng lại các khoản chi ngân sách và quản lý vay nợ nghiêm ngặt hơn.
* Đối với các nước duy trì giá trị đồng bản tệ, trước hết họ cố gắng duy
trì sự ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất trong nước
phát triển, thu hút đầu tư nước ngoài, tạo ảnh hưởng trên thị trường thế giới
và trong khu vực. Các nước này đã thực hiện tuần tự các bước sau :
Công bố dự trữ ngoại tệ, và quan tâm bảo vệ đồng tiền bản tệ để yên
lòng các nhà đầu tư.
Trừng phạt nặng các hành động đầu cơ cũng như có liên quan đến đầu
cơ.
Thắt chặt chính sách tiền tệ, kiểm soát lạm phát, chấn chỉnh toàn bộ hệ
thống tài chính ngân hàng.
34
Củng cố lại hệ thống doanh nghiệp, lập uỷ ban chống phá sản doanh
nghiệp và quỹ đặc biệt thanh toán các khoản nợ tồn đọng của các doanh
nghiệp gặp khó khăn.
Để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính, Chính phủ Hàn Quốc
cũng tăng cường xúc tiến chương trình cải tổ nền kinh tế, tập trung cải cách
hệ thống ngân hàng tài chính. Với yêu cầu của IMF về việc tự do hoá hơn
nền kinh tế và thực hiện cải tổ sâu rộng hệ thống tài chính tiền tệ cũng như
hệ thống Chaebol, chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra một số biện pháp để trục
vớt như : Mở rộng thị trường trái khoán trong nước cho đầu tư nước ngoài,
bao gồm cả trái khoán chuẩn với thời hạn là 3 năm, đáp ứng yêu cầu mua
của các nhà đầu tư nước ngoài ; Lập một quỹ mua ít nhất là 10.000 tỷ Won
(10 tỷ USD) các khoản nợ khó đòi ; Ban hành các thủ tục bắt buộc sáp nhập
các ngân hàng yếu kém vào thành một ngân hàng có năng lực tài chính và
kinh doanh ; Mở rộng mức giao động hàng ngày của đồng Won so với đồng
USD khoảng 10% ; Chính phủ sửa đổi và bổ sung luật Lao động nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty và giảm bớt số lao động dư
thừa ở các công ty ; Nâng mức trần đầu tư nước ngoài vào khu vực ngân
hàng nội địa. Cho phép giải thể các ngân hàng mất khả năng thanh toán ;
Khuyến khích tư nhân hoá các ngân hàng do chính phủ quản lý ; Cắt giảm
các nguồn chi phí của tổ hợp công nghiệp ; Cắt giảm và xem xét cụ thể việc
cung cấp tài chính cho các Chaebol ; Thành lập ban tư vấn cho Tổng thống
về cải cách tài chính để tìm ra những biện pháp xoá lạc hậu và kém hiệu quả
của ngành taì chính ngân hàng ; Quy định câpn vốn cho các dự án lớn ;
Chuyển hệ thống ngân hàng cấp vốn thương mại và công ty đầu tư uỷ thác
thành ngân hàng kinh doanh và các công ty môi giới chứng khoán ; Phân loại
hệ thống ngân hàng tài chính.
Bên cạnh đó, Hàn Quốc tiến hành đồng thời các biện pháp kinh tế
khác như giảm bớt quy mô hoạt động và quyền hạn của các công ty. Đẩy
35
mạnh tư nhân hoá, chuyển dịch cơ cấu công nghiệp trên cơ sở khai thác lợi
thế cạnh tranh thông qua chính sách đầu tư kỹ thuật công nghệ tiên tiến.
Tóm lại, để thoát khỏi cơn lốc khủng hoảng tài chính tiền tệ, ngoài
việc kêu gọi vốn hỗ trợ của các tổ chức tài chính quốc tế, các nước trong khu
vực đều đưa ra một chương trình tổng thể cải cách hệ thống tài chính trong
nước. Cụ thể là: thực hiện chính sách thắt chặt tài chính ; xốc lại hệ thống
ngân hàng ; nâng cao hiệu quả và tạo sinh lực cho các ngân hàng và công ty
tài chính ; đẩy mạnh tư nhân hoá những cơ sở tài chính do nhà nước quản lý
; mở rộng hệ thống tài chính đối với nước ngoài ; tăng cường áp dụng và đẩy
mạnh phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, nâng cao năng lực
xuất khẩu.
Với đồng loạt những chính sách đó, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu
vực có xu hướng dịu hơn. Từ tháng 2/1998 đến nay, các chỉ số kinh tế đã báo
hiệu khả quan cho việc phục hồi giá trị đồng tiền của cả ba nước chịu ảnh
hưởng nặng nề nhất là Thái lan, Hàn Quốc và Indonesia. Tỷ giá đồng tiền
của ba nước so với USD vào thời điểm này lần lượt là 45,5 Baht, 1.557 Won,
7.400 Rupiah, cao hơn nhiều so với tháng 1/1998. Đồng tiền các nước trong
khu vực cũng phục hồi phần nào. Người ta hy vọng rằng, cứ tiếp tục xu
hướng này ba đồng tiền trên sẽ tăng gía trị và đạt mức 40 Baht/USD, 5.000
Rupiah/USD và 1.000 Won/USD. Chỉ số thị trường chứng khoán tăng đã
bước đầu “ cải thiện “ được “ tình cảm “ của các nhà đầu tư. Đặc biệt ở Hàn
Quốc, Inđonesi và Thái lan.
II/ Đối với Việt Nam
Thực tế phân tích trên đây đặt ra cho chúng ta một loạt vấn đề phải giải
quyết, nếu không đến một lúc nào đó quả bóng ngày nay đang căng lên rất
có thể sẽ xẹp dần hoặc nổ tung. Những vấn đề đặt ra cho chúng ta vừa có
tính cấp bách (hạn chế sự tác động tiêu cực của khủng hoảng tiền tệ), vừa có
tính lâu dài : đảm bảo sự phát triển bền vững của một đất nước trong suốt
36
quá trình công nghiệp hóa đến năm 2020 (giai đoạn đầu) và tiếp đó vào
khoảng 20- 30 năm cho đến khi Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát
triển (giai đoạn hai). Cụ thể như sau :
1/Trước tiên ,cần chủ động xúc tiến đến các đối sách cần thiết mà cụ
thể là : hướng tới đổi mới toàn diện, đồng bộ và nhanh hơn, trước hết là về
mặt chính sách và luật pháp.
Những điều chỉnh chính sách và pháp luật mà chúng ta cần làm ngay,
làm nhanh là trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, thương mại, thu hút vốn
đầu tư và vốn nước ngoài, khu vực doanh nghiệp nhất là DNNN. Phải đảm
bảo nguyên tắc công khai, minh bạch, có hệ thống và có thể dự báo trước
được, ngày càng tiếp cận các chuẩn mực và thông lệ khu vực và thế giới
trong quá trình thay đổi chính sách. Xúc tiến mạnh chiến lược và nâng cao
chất lượng đào tạo nguồn nhân lực : lực lượng lao động trực tiếp, các doanh
nhân, các nhà quản lý và công chức nhà nước, các nhà hoạch định chính
sách.
2/ Thực hiện đồng bộ các giải pháp cải cách cơ cấu, nhằm thành lập và
lành mạnh hoá các cân đối cơ cấu lớn : cơ cấu xuất nhập khẩu, tích luỹ- tiêu
dùng, cơ cấu công nghệ- lao động, cơ cấu doanh nghiệp, cơ cấu nợ...
* Chính sách tỷ giá hối đoái : Thời gian đầu của cuộc khủng hoảng mặc
dù đồng Việt Nam đã mất giá, song tỷ giá hối đoái vẫn cố định ở mức
11.060VND/USD [E], nếu chính phủ vẫn cố định tỷ giá như vậy tất yếu sẽ
tác động hết sức xấu đến toàn bộ nền kinh tế Việt Nam bởi thị trường xuất
nhập khẩu của Việt Nam đã và đang mất ổn định. Do vậy, nhà nước chủ
trương đIều chỉnh lại tỷ giá hối đoáI cho linh hoạt bằng cách nới lỏng biên
độ dao động của nó.
Trước chính sách nới lỏng biên độ dao động của tỷ giá, tốc độ mất giá đồng
Việt Nam tăng lên rất cao và có nguy cơ bị phá giá. Theo các nhà phân tích
đồng Việt Nam có thể mất giá tối thiểu là 20 % ; cao nhất là 80%, tuy nhiên
37
đến cuối tháng 12/ 1998 tỷ giá E của VND so với USD mới đạt mức 14.600.
Với thực trạng như vậy, một mặt vẫn phải duy trì biên độ dao động của tỷ
giá, một mặt cần tiến hành các biện pháp quản lý ngoại tệ tránh tình trạng đô
la hoá nền kinh tế Việt Nam.
Về mặt lý thuyết, để đIều chỉnh tỷ giá hối đoái có thể sử dụng bốn phương
pháp khác nhau :
Phương pháp lãi suất chiết khấu
Sử dụng quỹ bình ổn tỷ giá
Nghiệp vụ trên thị trường ngoại hối
Phá giá đồng bản tệ.
Song với đặc điểm nền kinh tế Việt Nam- nền kinh tế kém phát triển- trong
trường hợp này chính phủ đã sử dụng hiệu quả quỹ bình ổn tỷ giá bằng cách
tung ra thị trường một lượng lớn USD đồng thời kiểm soát chặt chẽ lượng
USD trôi nổi trên thị trường. Cụ thể là :
Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu : Nhà nước quy định lượng ngoại tệ tối
đa cần thiết (chủ yếu là USD) cho việc thanh toán ; Lượng ngoạI tệ còn lạI-
do dư thừa, tích trữ từ trước khủng hoảng phải bán hêt cho ngân hàng.
Với doanh nghiệp xuất khẩu : Lượng ngoại tệ thu về phảI chuyển thành
VND thông qua ngân hàng đồng thời quy định tỷ lệ giữ lại lượng ngoại tệ
thu về. Nghiêm cấm mở tài khoản bằng ngoạI tệ ; mọi giao dịch trong nước
đều sử dụng đồng nội tệ.
Với dân cư ; nhà nước chủ trương đIều chỉnh mức lãi suất hấp dẫn để thu hút
ngoại tệ thông qua hình thức giữ tiền. Bên cạnh đó nghiêm cấm buôn bán
ngoại tệ ; phạt nặng đối với bất kỳ hình thức buôn bán ngoại tệ nào nhất là
đầu cơ.
*Đi đôi với điều chỉnh tỷ giá, cần nỗ lực tối đa để giảm bớt sự mất cân
đối tiến tới cân bằng, rồi có số dư trong cán cân thanh toán và cán cân ngoại
thương. Để đạt được mục đích này, cần thực hiện một chính sách tạo nguồn
38
thu và hạn chế nguồn chi, tránh tình trạng tận thu có hại, cần muốn nhấn
mạnh tới khía cạnh thúc đẩy kinh doanh phát triển, nhất là kinh doanh tư
nhân. Khắc phục tư duy cũ cái gì cũng muốn kiểm soát, như “kiểm soát hoạt
động kinh doanh “, “kiểm soát đầu tư nước ngoài “.. chúng ta cần chuyển
sang một tư duy mới là tạo điều kiện thuận lợi cho dân.
Về chi tiêu, một chính sách thắt lưng buộc bụng là cần thiết, trước hết cần
cắt bớt những khoản bao cấp phi lý và các khoản chi tiêu xa xỉ, nhất là chi
tiêu cao cấp cho những doanh nghiệp làm ăn kinh tế mà liên tục thua lỗ và
những trang thiết bị đắt tiền cho những đơn vị kinh doanh làm ăn kém hiệu
quả.
*Cần giải quyết nhanh chóng các vấn đề nợ, trước mắt là nợ trong
nước và trong các năm tới là nợ nước ngoài. Đây là một yếu tố nghiêm trọng
đã dẫn tới khủng hoảng ở các nước trong khu vực và cũng là yếu tố nghiêm
trọng ở nước ta. Nếu vì sợ đau không cắt bỏ những xí nghiệp quốc doanh
nặng nợ hiện nay, thì trong tương lai những ung nhọt đó sẽ còn trầm trọng
hơn nữa, không những đau, mà còn có thể đe dọa cả sinh mệnh của nền kinh
tế và chính trị, thậm chí đến vốn kinh doanh của các xí nghiệp và dự trữ
quốc gia được coi là “ tiền của người khác” chứ không phảI tiền của chính
mình trong tình trạng hiện nay ở những nước đang bị khủng hoảng ở châu á.
*Nâng cao năng lực và hiệu quả ngoại thương. Xuất khẩu của ta trong
thời kỳ 1990- 1996 có xu hướng phát triển tốt, đã tạo được hơn một chục mặt
hàng có giá trị xuất khẩu mỗi mặt hàng trên 100 triệu USD. Từ 1997, xuất
khẩu có xu hướng giảm, có nguyên nhân từ những chính sách trước đây
thích hợp, nay đã bất cập, cần sửa đổi ; có nguyên nhân do cuộc khủng
hoảng tài chính, đồng tiền các nước có hàng hoá cạnh tranh với ta hạ, làm
cho giá cả một số mặt hàng xuất khẩu của ta cũng hạ theo tới 20- 30%, riêng
giá dầu lửa thế giới giảm tới trên 7 USD/1 thùng…
39
Trong bối cảnh như vậy, một mặt cần có các chính sách kích thích xuất khẩu
thông qua thuế, lãi tức, tín dụng, sử dụng ngoại tệ ( quyết định kiểm soát
ngoại tệ như vừa rồi chỉ đạt mục đích tình thế trước mắt, lâu dài sẽ có hại
cho xuất nhập khẩu), mặt khác cần tăng cường đầu tư cho các mặt hàng chủ
lực và những mặt hàng khác đã tỏ rõ hiệu quả trên thị trường xuất khẩu.
Việc xuất khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu và hàng tiêu dùng trong nước
thay thế nhập khẩu cũng được xếp vào diện ưu tiên. Hạn chế nhập hàng
nguyên chiếc và hàng có thể cạnh tranh làm hại cho hàng sản xuất tại trong
nước.
Cần nhanh chóng ký hiệp định thương mại với Mỹ và thực hiện dần chính
sách tự do hoá thương mại để tăng cường liên kết khu vực và quốc tế (tham
gia AFTA, APEC, WTO).
*Hoà nhập nhiều hơn vào kinh tế khu vực và thế giới : Quá trình tự do
hoá tài chính cần được định hình cụ thể và thúc đẩy nhanh hơn, chủ động
hơn, đồng bộ hơn. Chuẩn bị tích cực hơn, sớm hơn về thể chế và các nghiệp
vụ kỹ thuật phục vụ sử dụng bản tệ chi thanh toán các giao dịch nội bộ
ASEAN, cho việc hình thành AIA (khu vực đầu tư ASEAN) cũng như cho
việc đẩy nhanh tiến trình AFTA và sự tham gia vào APEC trong tương lai.
Cần tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi với các ưu đãi giành cho đầu tư
nước ngoài không thua kém trình độ khu vực. Cùng với nó tiếp tục đẩy mạnh
các hoạt động chống buôn lậu, gian lận thương mại và hạn chế nhập hàng
tiêu dùng xa xỉ hoặc trong nước có thể sản xuất được. Tham dự tích cực vào
cơ chế giám sát khu vực ASEAN.
* Cải tổ cơ cấu đầu tư theo hướng phát huy lợi thế so sánh, khắc phục
những tư duy còn rớt lại từ thời công nghiệp hoá lấy công nghiệp nặng làm
then chốt và lấy xí nghiệp “quy mô lớn “ theo kiểu sáp nhập hành chính làm
nòng cốt. Tạo đIều kiện thuận lợi hơn nữa cho FDI để tăng cường thu hút
40
FDI mới và ngăn chặn FDI cũ bỏ đi. Có ý kiến cho rằng năm 1997 FDI mới
đăng ký vào Việt Nam giảm 40%, năm 1998 có thể sẽ giảm tới 70%.
Cần tiếp tục và tăng cường qúa trình đổi mới hơn nữa theo hướng kinh tế thị
trường có sự đIều tiết của Nhà nước, chú ý hơn tới chính sách tự do hoá và
mở cửa nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam và nền kinh tế
Việt Nam, nâng cao năng suất lao động, tăng cường liên kết quốc tế và khu
vực, xây dựng một hệ thống thể chế và cơ cấu bảo đảm sự phát triển vừa ổn
định trước mắt vừa năng động và bền vững lâu dài. Trong số những biện
pháp thực tiễn, cần tăng cường hệ thống luật pháp và điều hành, cải cách
mạnh hơn hệ thống tài chính ngân hàng, ưu tiên cho xây dựng hệ thống cơ sở
hạ tầng kinh tế xã hội, đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước,
khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển các ngành đã tỏ rõ hiệu quả và các
ngành mà ta có lợi thế, nhất là các ngành xuất khẩu, dùng nhiều lao động,
các ngành chế biến nông sản, hải sản và khoáng sản, một số ngành mũi nhọn
như viễn thông và tin học, cắt giảm bớt các ngành nặng, quy mô lớn, kém
hiệu quả và chậm thu hồi vốn.
* Lành mạnh hóa khu vực tài chính ngân hàng : Tập trung chỉ đạo
đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vay và khả năng trả nợ của các doanh nghiệp,
các ngành, các khu vực. Sớm hoàn thiện luật pháp và xử lý kiên quyết hơn
tình trạng nợ khó đòi cả trong khu vực kinh doanh lẫn trong đời sống để lành
mạnh hoá các quan hệ kinh tế và quan hệ dân sự, xã hội ; Triệt để tiết kiệm,
chống lãng phí, đề cao kỷ luật tài chính, thực hiện nghiêm túc các chế độ kế
toán thống kê, kiểm toán, công khai hoá tài chính trong nền kinh tế. Tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát ở tất cả các lĩnh vực kinh tế,
kiên quyết và đẩy lên một bước các hoạt động chống tham nhũng, hoàn thiện
cơ chế giám sát an toàn kinh tế, tài chính trong nước ; Tăng cường công tác
dự trữ, chống lại hiện tượng đầu cơ, gian lận thương mại, gian lận hành
chính ; Quản lý có hiệu quả và thống nhất các nguồn ngoại tệ trên thị trường
Việt Nam ; Cần sớm phát hiện và cho đóng cửa các tổ chức tín dụng,các
41
ngân hàng “ có vấn đề “ tài chính, nhất là khối ngân hàng cổ phần. Xúc tiến
lạI các ngân hàng yếu kém ; Giảm bớt các bảo lãnh dễ dãi của các ngân hàng
nhà nước dành cho các ngân hàng, tổ chức tín dụng yếu kém nhằm ngăn
chặn những tổn thất tài chính to lớn có thể xảy ra ; Đề cao và cải thiện công
tác thông tin, tư vấn phục vụ các hoạt động kinh doanh lẫn các hoạt động
quản lý nhà nước.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận Văn- Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á và những tác động tới nền kinh tế Việt nam.pdf